Đề tài Xuất khẩu cà phê sang thị trường EU, thực trạng và giải pháp

Tài liệu Đề tài Xuất khẩu cà phê sang thị trường EU, thực trạng và giải pháp: MỤC LỤC Phần I: Lời mở đầu…………………………………………………………. Phần II: Nội dung…………………………………………………………… CHƯƠNG 1: : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ TỔNG QUAN VỀ SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa………………………….. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu…………………….. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu……………………………………... Vai trò của hoạt động xuất khẩu……………………………………….. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu…………………………………… Xuất khẩu trực tiếp…………………………………………………….. Xuất khẩu gián tiếp…………………………………………………….. Buôn bán đối lưu………………………………………………………. Giao dịch tái xuất……………………………………………………… Hình thức gia công quốc tế……………………………………………. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa………... Các yếu tố về điều kiện tự nhiên, vốn, lao động, công nghệ…………... Chính sách tỉ giá hối đoái……………………………………………… Hạn ngạch và những tiêu chuẩn kĩ thuật………………………………. Các yếu tố về thế chế chính trị-kinh tế- xã hội………………………… Các yếu tố cạnh tranh…………………………………………………... Tổ...

doc61 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1002 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xuất khẩu cà phê sang thị trường EU, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Phần I: Lời mở đầu…………………………………………………………. Phần II: Nội dung…………………………………………………………… CHƯƠNG 1: : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ TỔNG QUAN VỀ SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa………………………….. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu…………………….. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu……………………………………... Vai trò của hoạt động xuất khẩu……………………………………….. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu…………………………………… Xuất khẩu trực tiếp…………………………………………………….. Xuất khẩu gián tiếp…………………………………………………….. Buôn bán đối lưu………………………………………………………. Giao dịch tái xuất……………………………………………………… Hình thức gia công quốc tế……………………………………………. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa………... Các yếu tố về điều kiện tự nhiên, vốn, lao động, công nghệ…………... Chính sách tỉ giá hối đoái……………………………………………… Hạn ngạch và những tiêu chuẩn kĩ thuật………………………………. Các yếu tố về thế chế chính trị-kinh tế- xã hội………………………… Các yếu tố cạnh tranh…………………………………………………... Tổng quan về sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam………… Quá trình hình thành và phát triển của ngành sản xuất cà phê trong nước…………………………………………………………………… Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu cà phê sang thị trường EU……………………………………………………………... Lợi thế của Việt Nam khi xuất khẩu cà phê………………………… Lợi thế khách quan…………………………………………………….. Lợi thế chủ quan………………………………………………………. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU Tình hình chung về xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2001-2008 Về cơ cấu sản phẩm…………………………………………………… Cà phê Robusta………………………………………………………… Cà phê Arabica………………………………………………………… Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu……………………………… Về chất lượng cà phê xuất khẩu……………………………………… Giá cả cà phê xuất khẩu……………………………………………… Phương thức và hình thức xuất khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam. Về thị trường xuất khẩu…………………………………………….. Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU trong giai đoạn 2001-2008…………………………………………………… Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu………………………………. Cơ cấu thị trường xuất khẩu………………………………………… Giá cà phê xuất khẩu………………………………………………… Các hình thức xuất khẩu chủ yếu………………………………….. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang EU trong thời gian qua………………………………………………. Những kết quả đạt được………………………………………………. Những nguyên nhân và tồn tại………………………………………… CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẢY XUẤT KHẨU CÀ PHÊ SANG THỊ TRƯỜNG EU Định hướng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới…………………………………………………………... Giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường EU………….. Tạo nguồn vốn đầu tư………………………………………………… Chuyển đổi cơ cấu cây trồng…………………………………………. Nâng cao năng xuất, hạ giá thành sản phẩm………………………... Đổi mới công nghệ…………………………………………………… Xây dựng hệ thống đồng bộ giữa các khâu………………………….. Tổ chức hệ thống thu thập thông tin………………………………… Tăng cường hợp tác quốc tế…………………………………………. Phần III: Kết Luận…………………………………………………………. Danh mục tài liệu tham khảo……................................................................. LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài: Việt Nam vẫn đang là một nước nông nghiệp, các sản phẩm nông nghiêp hiện đang là mặt hàng xuất khẩu chủ lực và có đóng góp đáng kể vào GDP của Quốc gia. Các sản phẩm nông sản chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu có thể kể đến như : gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều….Trong đó cà phê là một trong những mặt hàng chủ lực. Trong cơ cấu ngành, cà phê chiếm một tỉ trọng tương đối lớn , góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động , tăng nguồn thu ngoại tê, và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia. Hiện nay, Việt Nam đang là quốc gia lớn trong lĩnh vực cung ứng cà phê cho thị trường thế giới. Các thị trường chính mà cà phê Việt Nam đã xuất hiện như: Hoa kỳ, EU, Nhật bản, Hàn quốc…Trong đó, EU là thị trường giàu tiềm năng nhất với số dân lớn và nhu cầu tiêu thụ tăng mạnh theo từng năm. Với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản mà cụ thể là xuất khẩu cà phê nói riêng sẽ có một “ sân chơi lớn”, một “ cơ hội vàng” để phát triển. Nhận thấy được vị trí của việc xuất khẩu cà phê sang thị trường EU trong thời gian tới và nhằm đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam trong những năm tiếp theo cần phải có những giải pháp cần thiết. Với những lý do trên, tôi xin đưa ra đề tài: “Xuất khẩu cà phê sang thị trường EU, thực trạng và giải pháp” Mục đích nghiên cứu đề tài: Đề tài đi sâu vào phân tích tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong những năm qua, để thấy được những hạn chế, thành tựu từ đó đưa ra các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê sang thị trường EU trong những năm tới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường EU Phạm vi nghiên cứu: hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU trong giai đoạn 2001 đến nay. Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh…nhằm phân tích thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường EU từ năm 2001 đến nay và đưa ra các giải pháp Kết cấu của đề tài: gồm 3 chương Chương 1: Cơ sở lý luận về xuất khẩu và tổng quan chung về sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam Chương 2: Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường EU Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê sang thị trường EU CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ TỔNG QUAN CHUNG VỀ SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu Khái niệm về hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia. Ban đầu, hình thức cơ bản của nó chỉ đơn thuần là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Ngày nay nó đã phát triển rất mạnh và được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rộng khắp trong hầu hết tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế với tỉ trọng ngày càng cao. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng vùng, từng quốc gia trong phân phối lao động quốc tế. Hoạt động khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi nền kinh tế từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất máy móc thiết bị công nghệ cao. Tất cả hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Vai trò của hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu Con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu ngày nay là phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với những bước đi phù hợp. Nhưng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có số lượng vốn lớn để từng bước cải thiện kỹ thuật, nhập khẩu máy móc trang thiết bị tiên tiến hiện đại. Nguồn vốn này là không nhỏ và để huy dộng được một số lượng vốn lớn như vậy là một điều không dễ dàng. Do vậy phải huy động từ các hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu cho ngân sách, nó tạo tiền đề cho các hoạt động nhập khẩu, quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển Ngày nay với xu thế hội nhập, cơ hội và thách thức rất nhiều, các nước đều phải phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu những sản phẩm mà mình có lợi thế và nhập khẩu những sản phẩm không có lợi thế hoặc lợi thế so với các sản phẩm khác nhỏ hơn. Khi một sản phẩm đã trở thành lợi thế trong xuất khẩu của một nước thì các nước đó sẽ chuyên môn vào sản xuất sản phẩm đó với quy mô lớn, trình độ công nghệ cao, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhằm tăng năng xuất, sản lượng và chất lượng sản phẩm đó. Từ những hoạt động đó sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành có liên quan và dẫn tới sự phát triển, chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. + Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát triển. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp yếu tố đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. + Tạo tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước. + Thông qua xuất khẩu nước ta có thể tham gia vào công cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng từ đó hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường. + Đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới hoàn thiện công việc sản xuất kinh doanh. Xuất khẩu có tác động lớn đến việc giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân Sản xuất hàng xuất khẩu đã tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, giải quyết nạn thất nghiệp. Thông qua hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu cơ cấu ngành nghề theo nó được mở rộng tạo thêm nhiêù việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động cải thiện đời sống nhân dân. Mặt khác xuất khẩu còn tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu những hàng hoá mà trong nước không thể sản xuất được hoặc sản xuất yếu kém phục vụ cuộc sống nhân dân. Nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, công nghệ hiện đại phục vụ sản xuất tạo ra thế và lực mới cho các ngành sản xuất trong nước phát triển. Ở nước ta hiện nay, các ngành nông nghiệp, chế biến nông lâm thủy sản, ngành dệt may, giày da…tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho người lao động khu vực nông thôn Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới Hoạt động xuất khẩu làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới hơn là thị trường trong nước, vì vậy để có thể cạnh tranh và đứng vững với các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Trong giai đoạn trước khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp có thế nhận được sự giúp đỡ của Nhà nước thông qua trợ cấp..nhưng sau khi tham gia vào sân chơi quốc tế, các hình thức này phải xóa bỏ. Để có thế tồn tại và phát triển các doanh nghiệp trong nước cần phải khẳng định được thương hiệu của mình. Tham gia vào thị trường thế giới, các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội hơn để phát triển, khẳng định vị thế. Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp tham gia vào phân công lao động quốc tế, tham gia vào cạnh tranh trên qui mô thế giới về giá cả, chất lượng vô hình dung sẽ làm cho các doanh nghiệp hình thành cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường để có giải pháp củng cố và nâng cao hiệu quả trong công tác quản trị kinh doanh. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại tiến tới xây dựng một nền kinh tế toàn cầu hội nhập và phát triển. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu, cơ bản, là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại. Từ đây nó thúc đẩy các mối quan hệ khác phát triển theo như :du lịch, vận tải, bảo hiểm... từ đó hình thành mối quan hệ qua lại khăng khít, giữa các quốc gia. Hoạt động xuất nhập khẩu đã gắn kết sản xuất giữa các nước, các khu vực với nhau đẩy mạnh quá trình nhất thể hoá nền kinh tế khu vực và thế giới như hoạt động xuất nhập khẩu giữa các nước trong tổ chức WTO, ASEAN, AFTA... Điều kiện kinh tế của mỗi nước không thể bế quan toả cảng, tự cung tự cấp nên hoạt động xuất nhập khẩu xảy ra là tất yếu. Xu hướng chung ngày nay, tất cả các quốc gia đều muốn vươn ra thị trường ngoài nước mở cửa, hội nhập đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, tỷ lệ suất siêu cao. Bởi vì chính hoạt động xuất nhập khẩu đã tạo ra rất nhiều ưu thế. Hoạt động xuất khẩu góp phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Có thể nói đây là nguồn thu ngoại tệ lớn nhất hơn cả vốn vay và vốn FDI. Để có thể thành công trong thời kì công nghiệp hóa, hầu hết các nước đều phát triển hoạt động này. Nguồn thu ngoại tệ tăng dẫn tới các hoạt động như nhập khẩu máy móc, thiết bị được tập trung nhiều hơn, nhà nước có thể quản lý, vực dậy thị trường thông qua điều chỉnh lãi suất, tỉ giá hối đoái nếu thị trường có biến động. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu Xuất khẩu trực tiếp Khái niệm Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà nhà xuất khẩu giao trực tiếp với khách hàng nước ngoài ở khu vực thị trường nước ngoài thông qua tổ chức của mình, không qua trung gian. Ưu điểm Tiết kiệm thời gian, giảm bớt được chi phí trung gian, làm tăng lợi nhuận Chủ động được thời gian và dễ dàng hơn khi thay đổi kế hoạch công việc Liên hệ trực tiếp với khách hàng sẽ giúp người xuất khẩu hiểu rõ được nhu cầu về sản phẩm của khách, từ đó sẽ có sự thay đổi cải tiến về sản phẩm Hạn chế được nhiều rủi ro khác Nhược điểm Phải trực tiếp khảo sát thị trường nước ngoài Có thể tăng rủi ro vì phải lo khâu vận tải hàng hoá từ nơi sản xuất sang thị trường nước ngoài và đảm bảo các thủ tục giấy tờ liên quan Điều kiện áp dụng áp dụng cho doanh nghiệp có đủ tiềm năng về tài chính, có quy mô lớn, phát triển đủ mạnh để thành lập riêng tổ chức bán hàng của mình. Xuất khẩu gián tiếp Khái niệm Xuất khẩu gián tiếp là hình thức giao dịch mua bán thông thường mà quan hệ mua bán được thiết lập thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập( trung gian) để tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài. Ưu điểm Hạn chế được rủi ro do trung gian chịu, không phải lo vấn đề vận tải hàng hóa, chứng từ xuất khẩu, thu tiền…. tiết kiệm được thời gian tìm hiểu thông tin thị trường Thiết lập được các mối quan hệ thương mại hiệu quả Nhược điểm Người sản xuất không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng ở nước ngoài do đó họ không có thông tin về lượng hàng bán được, về các phản ứng của khách hàng với hàng hoá và nhu cầu về hàng hoá . Lợi nhuận bị chia sẻ với trung gian do không nắm bắt được giá cả hàng hóa, chịu chi phí trung gian Nhà xuất khẩu không thể chọn được kênh thông tin có lợi cho mình, phụ thuộc nhiều vào nhà trung gian Không xây dựng được thương hiệu và uy tín với khách hàng Điều kiện áp dụng Áp dụng cho các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế, và những doanh nghiệp có khả năng tài chính hạn hẹp. Buôn bán đối lưu Khái niệm Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch của ngoại thương trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, một bên vừa đóng vai trò người bán, vừa đóng vai trò người mua. Ưu điểm Khai thác triệt để được nguồn lực trong nước như lao động, nguyên vật liệu Tiếp nhận được công nghệ tiên tiến qua quá trình chuyển giao Rủi ro về thanh toán được giảm thiểu Nhược điểm Lợi nhuận thấp Khả năng tiếp cận thị trường mới bị hạn chế Điều kiện áp dụng Các bên đều thiếu ngoại tệ để thanh toán và có nhu cầu cao về hàng hóa Giao dịch tái xuất Khái niệm Giao dịch tái xuất là hình thức xuất khẩu những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất Giao dịch tái xuất bao gồm cả nhập khẩu và xuất khẩu vì vậy nó thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất, nước nhập khẩu Ưu điểm Khai thác được thế mạnh của các dịch vụ gia công chế biến, làm tăng lợi nhuận của sản phẩm Điều hòa được thương mại thế giới Nhược điểm Lợi nhuận bị chia sẻ do sự xuất hiện của nước tái xuất Gặp nhiều khó khăn trong việc thanh toán tiền hàng, đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ với hệ thống ngân hàng, vận tải Điều kiện áp dụng Áp dụng với các quốc gia có hệ thống thông tin chính xác về thị trường, giá cả hàng hóa Hình thức gia công quốc tế Khái niệm Gia công quốc tế là hình thức giao dịch kinh doanh trong đó một bên( bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm của một bên( bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, khi đó bên đặt gia công sẽ trả cho bên nhận gia công một khoản tiền( phí gia công) Ưu điểm Giúp bên nhận gia công học tập được kinh nghiệm, nâng cao tay nghề, có khả năng sử dụng thành thạo công nghệ tiên tiến Sử dụng triệt để nguồn lực con người, góp phần giải quyết công ăn việc làm Góp phần chuyên môn hóa lao động trên phạm vi thế giới trong quá trình hội nhập. Nhược điểm Vẫn có sự không tương xứng về măt lợi ích. Bên nhận gia công thường là những cơ sở yếu kém về mọi mặt, không có kĩ năng đàm phán vì vậy lợi ích bị thua thiệt đáng kể Điều kiện áp dụng Chủ yếu nước đặt gia công là những nước phát triển có công nghệ tiên tiến nhưng nguyên nhiên liệu khan hiếm. Nước nhận gia công thường là nước đang phát triển có tài nguyên phong phú và giá nhân công rẻ Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa Hoạt động trên thị trường thế giới các quốc gia sẽ gặp nhiều rủi ro vì môi trường cạnh tranh khốc liệt và xa lạ. Hoạt động xuất khẩu cũng không nằm trong xu thế đó. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu như: Các yếu tố về điều kiện tự nhiên, vốn, lao động, công nghệ Đây là yếu tố vô cùng quan trọng, ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu và là yếu tố bên trong cấu thành nên sản phẩm. Một quốc gia có nhiều lao động kéo theo giá nhân công rẻ, hàng hóa phong phú. Tất cả sẽ được phản ánh trong giá hàng hóa, tạo được sự cạnh trạnh, vị thế. Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến đầu vào của hoạt động sản xuất. Quốc gia nào có tài nguyên phong phú thì sẽ có thế mạnh và tiềm năng để phát triển hoạt động xuất khẩu. Cây Cà Phê là thế mạnh của Việt Nam và chúng ta đã nắm bắt được lợi thế đó, nhờ có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi và đất đai màu mỡ, phì nhiêu nên đã tạo điều kiện cho các giống cà phê phát triển tốt. Hiện nay, có rất nhiều công nghệ tiên tiến ra đời tạo cơ hội cũng như nguy cơ đối với tất cả các ngành công nghiệp nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Khoa học công nghệ tác động làm tăng hiệu quả của công tác xuất khẩu của doanh nghiệp, thông qua tác động vào các lĩnh vực bưu chính viễn thông, vận tải hàng hoá, công nghệ ngân hàng... Ví dụ: nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông mà các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm phán với khách hàng qua điện thoại, telex, fax...giảm bớt chi phí đi lại. Hơn nữa, các doanh nghiệp có thể nhanh chóng nắm bắt được những thông tin mới nhất về thị trường.... Ngược lại nếu quốc gia không nắm bắt, cập nhật những công nghệ tiên tiến hiện đại áp dụng vào sản xuất thì sẽ có nguy cơ tụt hậu. Những công nghệ tiên tiến ra đời càng đẩy khoảng cách giữa các quốc gia đi xa hơn. Chính sách tỉ giá hối đoái Tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của quốc gia này được biểu hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ của quốc gia khác Trong buôn bán quốc tế đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ đối với một trong hai bên hoặc cả hai bên. Do vậy, khi đồng tiền làm phương tiện thanh toán biến động thì lợi ích của một trong hai bên sẽ bị thiệt hại. Khi tỷ giá hối đoái tăng làm cho giá hàng hoá xuất khẩu trở nên đắt đỏ, sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường thế giới bị giảm dẫn đến hoạt động xuất khẩu bị thu hẹp.Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm , tức đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ thì sẽ tăng hoạt động xuất khẩu. Hạn ngạch và các tiêu chuẩn kĩ thuật Hạn ngạch là qui định của nhà nước về lượng hàng hóa tối đa được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với một thị trường cụ thể trong một thời gian nhất định thường là 1 năm. Hạn ngạch thường dùng để tránh tình trạng cung vượt quá cầu gây thiệt hại cho nhà sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Được áp dụng với các hàng hóa xuất khẩu có nguồn gốc tài nguyên thiên nhiên có nguy cơ bị cạn kiệt hoặc gây ô nhiễm môi trường. Xuất phát từ các nhu cầu thực tế của đời sống, nhu cầu về vệ sinh an toàn, chất lượng…Một loạt các hệ thống tiêu chuẩn được đưa ra bao gồm các qui định về bao bì, đóng gói vệ sinh an toàn thực phẩm,vệ sinh phòng dịch bệnh…Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu vì hàng hóa muốn xâm nhập vào thị trường phải đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn của nước nhập khẩu và các mức tiêu chuẩn của mỗi quốc gia là khác nhau. Các yếu tố về thế chế chính trị-kinh tế- xã hội Chính trị có ổn định thì mới tạo đà cho kinh tế phát triển. Yếu tố này là nhân tố khuyến khích hoặc thúc đẩy quá trình xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Môi trường chính trị ổn định tạo tâm lý yên tâm, tin tưởng sản xuất kinh doanh từ đó thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Mỗi quốc gia có hệ thống luật pháp riêng để điều chỉnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của nước mình, do vậy phải có sự hiểu biết nhất định về những yếu tố này để tạo hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động xuất khẩu Quốc gia xuất khẩu chỉ có thể thành công trên thị trường quốc tế khi có sự hiểu biết nhất định về phong tục, tập quán, thị hiếu, thói quen mà điều này lại có sự khác biệt ở mỗi quốc gia. Do vậy hiểu biết về môi trường văn hoá sẽ giúp ích trong việc quốc gia thích ứng được với thị trường để từ đó có chiến lược đúng đắn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu của mình Ngoài ra còn có các yếu tố cạnh tranh ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu như: Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng Sức ép người cung cấp Sức ép người tiêu dùng Sự đe doạ của các sản phẩm thay thế Các yếu tố cạnh tranh trong nội bộ ngành Tổng quan về sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam 1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngành sản xuất cà phê trong nước Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1870, mãi đến đầu thế kỷ 20 mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Năm 1930 ở Việt Nam có 5900 ha. Trong thời kì những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh miền Bắc, khi cao nhất ( 1964-1966 ) đã đạt tới 13000 ha song không bền vững do sâu bệnh ở cà phê Arabica và do các yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê phải thanh lý. Cho đến năm 1975, diện tích cà phê của cả nước có khoảng trên 13000 ha, cho sản lượng 6000 tấn. Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây Nguyên nhờ có vốn từ các hiệp định hợp tác liên chính phủ với các nước : Liên Xô cũ, CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc, Ba Lan, đến năm 1990 đã có 119300 ha. Trên cơ sở này, từ 1986, phong trào trồng cà phê phát triển mạnh trong nhân dân. Ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc. chỉ trong vòng 15-20 năm trở lại đây chúng ta đã đưa sản lượng cà phê cả nước tăng lên hàng trăm lần. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 2 trên về sản lượng cà phê xuất khẩu chỉ đứng sau Braxin vượt lên trên Colombia, Indonexia. Cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất sang 75 quốc gia và vùng lãnh thổ với khối lượng lớn. Mức tăng trưởng lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khá lớn. Về trang thiết bị và công nghệ: Sau 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có một ít xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. ở phía bắc có một số xưởng chế biến ở Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị lắp đặt từ năm 1960-1962 do CHDC Đức chế tạo. ở phía nam có một số xưởng của các doanh điền cũ như Rossi, Delphante để lại công suất không lớn. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cà phê, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng các xưởng chế biến mới, bắt đầu từ những thiết bị lẻ, rồi đến các dây chuyền sản xuất sao chép theo mẫu của Hang-xa như nhà máy 1/5 Hải Phòng, nhà máy A74 Bộ Công Nghiệp ở Thủ Đức-TpHCM. Những năm gần đây, nhiều công ty, nông trường đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ CHLB Đức, Brazil. Một loạt hơn chục dây chuyền chế biến cà phê của hãng Pinhalense-Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến công nghệ của Brazil. Như thế so với thời gian trước đây thì hiện tại vấn đề công nghệ trong sản xuất và chế biến cà phê đã được quan tâm chặt chẽ hơn. Bảng 1.1: Các tỉnh trồng nhiều cà phê ở Việt Nam Tỉnh Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Lâm Đồng 117.918 200.000 Gia Lai 79.126 100.000 Đồng Nai 28.875 25.000 Kon Tum 12.984 15.000 Bình Phước 13.639 15.000 ĐăkLăk 237.262 360.000 Đăk Nông 70.200 88.719 ( Theo số liệu thống kê năm 2005, nguồn Vinanet) Bảng 1.2: Diện tích và sản lượng cà phê Việt Nam qua các niên vụ qua Niên vụ Diện tích (ha) Sản lượng (Tấn) 1996-1997 350.000 342.300 1997-1998 410.000 413.580 1998-1999 460.000 404.206 1999-2000 520.000 700.000 2000-2001 500.000 900.000 2001-2002 480.000 700.000 2002-2003 450.000 680.000 2003-2004 510.200 948.000 2004-2005 497.400 831.000 2005-2006 488.600 837.000 2006-2007 500.000 1.152.000 2007-2008 520.000 1.077.375 (Nguồn: trung tâm thông tin thương mại) Hiện nay, nước ta có khoảng 520.000ha cà phê được trồng chủ yếu ở các tỉnh Tây nguyên và Đông Nam Bộ. Trong năm qua trước diễn biến phức tạp của giá cà phê đặc biệt là tình hình giá cà phê giảm mạnh vào giữa tháng 10 đã ảnh hưởng đến tâm lý của người nông dân. Tuy nhiên giá cà phê cung đã tăng nhẹ trở lại vào đầu tháng 11. Tại Hội nghị tổng kết niên vụ cà phê 2007-2008 được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 31/10 Ông Lương văn Tự chủ tịch Hiệp hội cà phê và ca cao Việt Nam cho biết: Trong niên vụ 2007-2008 vừa qua ngành cà phê Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD. Đây là một con số đáng mừng và hội nghị cũng đặt ra nhiệm vụ mới cho niên vụ 2008-2009. Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu cà phê sang thị trường EU Xuất khẩu có ý nghĩa với chúng ta về nhiều mặt. Xuất khẩu là kênh phân phối tiêu thụ sản phẩm quan trọng của sản xuất. Nhờ có xuất khẩu mà có ngoại tệ để nhập nguyên nhiên liệu mà trong nước chưa cung ứng đủ, và quan trọng hơn là nhập khẩu thiết bị kỹ thuật - công nghệ phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với tác động trên, xuất khẩu đã đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, liên tục trong thời gian dài và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao hơn trong những năm tới, nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát thoát khỏi nước kém phát triển trước năm 2010. cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào nă 2020. Xuất khẩu còn có ý nghĩa cải thiện cán cân thanh toán một trong bốn đỉnh của “tứ giác mục tiêu” góp phần tăng dự trữ ngoại tệ ổn định tỷ giá Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản đem lại nhiều giá trị kinh tế xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chỉ đứng sau gạo. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này chiếm khoảng 20-25% tương đương mang lại trên 500 triệu USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông sản của cả nước. Cà phê luôn nằm trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam do đó tạo được mối quan hệ tốt với các đối tác nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng khác có khả năng xuất khẩu sang các thị trường này. EU sẽ là thị trường xuất khẩu tiềm năng cho việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam Hiện nay, cà phê đang nắm những vai trò quan trọng trong chiến lược đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam và thị trường xuất khẩu chủ yếu là thị trường EU, trong đó cà phê có mặt ở hầu hết các nước là thành viên chính của EU với sản lượng xuất khẩu lớn đã đem lại giá trị kim ngạch góp phần vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) Việt Nam đã cho phép các ngân hàng thương mại được làm môi giới giao dịch hợp đồng tương lai và cà phê là mặt hàng được chọn làm dịch vụ cho doanh nhân buôn bán cà phê trên thị trường kỳ hạn Luân Đôn với mặt hàng cà phê Robusta và thị trường New York với cà phê Arabica. Như vậy cà phê là một trong những mặt hàng đầu tiên để thực hiện chủ trương khắc phục những bất cập trong việc qui hoạch phát trển những ngành hàng không theo kịp diễn biến của thị trường trong nước và thế giới. Việc lựa chọn nằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu nông sản và tránh thiệt hại cho nông dân. Các nước Đức, Anh, Pháp. Hà Lan luôn là những thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam trong khối EU và với tốc độ tăng trưởng trung bình 20-30%/năm Lợi thế của Việt Nam khi xuất khẩu cà phê Lợi thế khách quan Việt Nam có thế mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi. Đất đỏ bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân rộng khắp lãnh thổ, trong đó tập trung nhiều ở hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với diện tích hàng triệu ha. Khí hậu nhiệt đới gió mùa , lượng mưa phân bố đều các tháng trong năm , nhất là các tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là đất và nước thì cả hai yếu tố ấy đều có ở Việt Nam. Hơn nữa với nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công lại rẻ và năng xuất lao động cao đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Nhờ đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam trênthị trường quốc tế. Ngoài ra, do nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới tăng nhanh nên sản phẩm cà phê cũng ngày càng được tiêu thụ mạnh. Lợi thế chủ quan Với môi trường chính trị ổn định được cả thế giới công nhận, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm khi cộng tác với Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất và xuất khẩu cà phê. Như chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất, vườn cây cho người lao động đã nâng ý thức làm chủ lên cao, nhờ đó vườn cây được chăm sóc tốt, đầu tư thâm canh tăng cao, đất đai được sử dụng triệt để. Ngoài ra ngay từ năm 1994, thủ tướng chính phủ đã chỉ đạo thành lập quỹ hỗ trợ hay bảo hiểm ngành cà phê. ( Văn bản số 140/TB ngày 1/11/1994 của văn phòng chính phủ). Các năm sau chính phủ liên tiếp chỉ đạo và yêu cầu Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì và phối hợp với Bộ Tài chính, Ban vật giá chính phủ, Bộ Thương mại xây dựng quỹ hỗ trợ hay quỹ bảo hiểm cho ngành cà phê. Chính phủ chủ trương “ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ ban đầu một lần khi thành lập qũy” ( Văn bản số 589/KTTH ngày 3/2/1997 của chính phủ ). Ngoài ra còn huy động ngân sách Nhà nước để giúp đỡ nông dân qua khỏi những giai đoạn khó khăn như mua cà phê tạm trữ để nâng cao giá cho nông dân, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, hoãn nợ và tiếp tục cho nông dân vay tiền chăm sóc vườn cây... Bên cạnh đó, những sửa đổi các chính sách hành chính cho nhanh và đơn giản thuận tiện, cùng với các chính sách mở cửa thu hút đầu tư, kêu gọi đầu tư cũng góp phần phát triển ngành. Đây chính là những thế mạnh, lợi thế của cà phê Việt Nam trên con đường cạnh tranh quốc tế. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU Tình hình chung về xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2001-2008 Về cơ cấu sản phẩm Cây cà phê Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc so với các nước các nước sản xuất cà phê lớn như braxin, Colombia, Mexico...vì chỉ với hơn 30 năm, kể từ năm 1975 từ 1 nước không có tên trong danh sách các nước xuất khẩu cà phê, đến nay Việt Nam đã trở thành nước thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu cà phê chỉ đứng sau nước xuất khẩu khổng lồ là Braxin. Năm 2006, cả thế giới sản xuất được 7.411 nghìn tấn cà phê trong đó đứng đầu là Braxin chiếm 34,42% về sản lượng (2.551 nghìn tấn) thứ 2 là Việt Nam chiếm 12.31% (912 nghìn tấn) và thứ 3 là Colombia chiếm 9.4% còn lại là các nước xuất khẩu khác chiếm 44,7% (3310,5 nghìn tấn) Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là 95% cà phê Robusta ( cà phê vối) và 5%là cà phê Arabica (cà phê chè). Nguyên nhân chủ yếu là Việt Nam có các yếu tố thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên đất đai, khí hậu cho việc trồng loại cà phê Robusta. Bên cạnh đó quá trình trồng loại cà phê này lại tốn ít kinh phí và kỹ thuật trồng đòi hỏi không cầu kì , phức tạp kêt hợp với thói quen trồng loại cà phê này của các hộ nông dân. Đối với loại cà phê Arabica thì ngược lại, loai cà phê này đòi hỏi chi phí, kĩ thuật cao gây tốn kém và khó khăn cho các hộ trồng cà phê. Cà phê Robusta (cà phê vối) Gia Lai và Đăklăk là 2 tỉnh có điều kiện tự nhiên tương đối giống nhau, hội tụ đầy đủ các điều kiện để phát triển cây cà phê Robusta. Hằng năm tại đây cung ứng khoảng 90-95% tổng sản lượng cà phê. Robusta là loại cà phê có mùi thơm nồng, không chua, độ cafein cao, phù hợp với khẩu vị của người Việt Nam. Trồng cà phê Robusta phải thâm canh mới đạt được năng xuất cao vì trái đậu trên cành một lần, phải tạo cành mới. Để làm được những điều này, người nông dân phải có một vốn kiến thức căn bản. Sản lượng cà phê Robusta : Trong mấy năm trở lại đây sản lượng cà phê Robusta trên thế giới tăng nhanh chóng do nhu cầu tăng cao. Niên vụ 2005/06 đạt tới 44,8 triệu bao tăng tới 12,2 triệu bao so với vụ trước và chiếm tới 38% tổng sản lượng cà phê. Diện tích trung bình đạt 350.000ha/năm. Việc xuất khẩu nhiều cà phê Robusta thường đối mặt với nhiều khó khăn như: Vì Việt Nam xuất khẩu loại cà phê khá phổ biến nên khó có thể tránh khỏi việc cà phê Robusta của Việt Nam bị thay thế bởi cà phê Robusta của các nước khác. Do đây là loại cà phê nhiều nước có khả năng sản xuất, mặt khác với công nghệ chế biến lạc hậu cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu cà phê quá đơn điệu chủ yếu là loại cà phê Robusta nhân sống. Điều này lảm ảnh hưởng trực tiếp đến tiềm năng xuất khẩu cà phê. Không tạo dựng được thương hiệu cà phê trong mắt người tiêu dung. Bên cạnh đó, do tính chất của cà phê Robusta đòi hỏi kĩ thuật trồng trọt cao nhưng các hộ nông dân lại chưa đáp ứng được, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hương vị của cà phê Robusta. Cà phê Arabica( cà phê chè) Cà phê Arabica được chọn giống, trồng và chăm sóc trong môi trường tự nhiên ở độ cao từ 800m-1200m so với mặt nước biển. Chính điều kiện này tạo nên sự khác biệt của cà phê Arabica Việt Nam với cà phê Arabica của các nước khác Năm 1998 cà phê Arabica của Việt Nam được xuất khẩu nhưng theo những tiêu chuẩn của cà phê Robusta. Đến năm 2000, cà phê Arabica của Việt Nam mới có tiêu chuẩn riêng. Sản lượng cà phê xuất khẩu: sản lượng ngày càng tăng do nhu cầu tăng mạnh, chênh lệch giá bán giữa cà phê cùng loại của Việt Nam và các nước khác được rút ngắn một cách đáng kể. Đến nay cà phê Arabica của Việt Nam được rất nhiều nước quan tâm. Diện tích cà phê Arabica vào năm 2007 đạt 793,89ha. Hiện nay, có hai loại cà phê Arabica được trồng tại Việt Nam đó là: Moka va Catimor Moka: là loại cà phê Arabica có mùi thơm quyến rũ, ngào ngạt, vị nhẹ, nhưng sản lượng lại thấp, giá trong nước không cao vì không xuất khẩu được trong khi giá xuất cao gấp 2-3 lần loại cà phê Robusta Catimor: Loại cà phê này có mùi thơm nồng nàn, hơi có vị chua, giá xuất gấp 2 lần cà phê Robusta, chi phí sản xuất cao. Hiện nay, Quảng trị là nơi trồng đại trà loại cây này. Chế biến cà phê Arabica: Cà phê Arabica được chế biến theo dây chuyền khép kín, công nghệ tiên tiến nhất của Việt Nam với công suất chế biến là 15 tấn quả tươi/giờ, chế biến cà phê nhân công suất 2000 tấn nhân/ năm. Thị trường tiêu thụ chính loại cà phê này là Châu Âu và Hoa Kỳ. Hiện tại nhu cầu về loại cà phê Arabica bắt đầu tăng mạnh và Việt Nam tận dụng tốt cơ hội đó. Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu Trong vòng 26 năm trở lại đây, ngành cà phê đã có những bước phát triển nhanh chóng vượt bậc. Một trong những nguyên nhân dẫn tới thành công là nhờ chính sách đổi mới của nhà nước phù hợp với nguyện vọng của nông dân lao động, chính điều này đã tác động lớn đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Một nguyên nhân nữa mà không thể không nhắc tới là trong vài năm trở lại giá cà phê trên thị trường thế giới diễn biến theo hướng có lợi cho người sản xuất làm thu nhập của người nông dân tăng lên đáng kể. tính tất yếu là kích thích sản xuất phát triển. Tuy nhiên mặt trái của sự “ tăng trưởng nóng” này cũng gây nhiều thiệt hại. Theo số liệu thống kê năm 2007, diện tích trồng cà phê đạt hơn 500.000ha và lượng xuất khẩu đầu tiên đạt hơn một triệu tấn, giá trị xuất khẩu cũng đạt mức kỉ lục hơn 1,6 tỉ USD. Đây là một con số gây sốc cho ngành cà phê Việt Nam. Nó góp phần đáng kể vào việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường thế giới đẩy giá cà phê đến mức thấp nhất. Ngành cà phê của Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng do sản lượng lớn. Trong niên vụ tiếp theo, niên vụ 2007-2008 tình hình xuất khẩu cà phê tương đối ổn định, Đức vẫn là bạn hàng số một tiếp theo là Mỹ. Trong mấy tháng đầu giá cà phê tương đối ổn định.Tuy nhiên trong mấy tháng tiếp theo giá cà phê giảm mạnh đặc biệt là vào tháng 9 và tháng 10 vừa qua. Tại thị trường Luân Đôn vào ngày 30/10 già cà phê là 1.557USD/T. Giá cà phê thế giới giảm kéo theo giá cà phê trong nước cũng giảm mạnh. Tại ĐăkLăk, giá cà phê hiện ở mức 25.000-26.000/kg giảm gần 20.000/kg so với tháng 3/2008. Với mức giá này người trồng cà phê lỗ nặng. Qua nguồn tổng hợp từ trung tâm thông tin thương mại cho thấy: Năm 2001 sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam ra thị trường thế giới đạt 931 nghìn tấn với kim ngạch 391 triệu USD. Đến 2002 sản lượng cà phê giảm 209 nghìn tấn so với năm 2001 tương đương 22,44%. kim ngạch giảm 391 triệu USD xuống còn 322 triệu USD tương đương với 17,6% so với năm 2001. Năm 2003 xuất khẩu cà phê đạt 749 nghìn tấn tăng 3,7% về sản lượng. kim ngạch đạt 505 triệu USD tương đương tăng 56,8% về giá trị so với năm 2002 Năm 2004 xuất khẩu đạt 975 nghìn tấn tăng 30,17% về sản lượng. kim ngạch xuất khẩu đạt 641 triệu USD tăng 26, 9% so với năm 2003. Năm 2005 xuất khẩu cà phê đạt 885 nghìn tấn giảm 12,3% , kim ngạch xuất khẩu đạt 735 triệu USD tăng 14,7% so với năm 2004 Năm 2006 xuất khẩu cà phê đạt 912 nghì tấn tăng 6,67% , kim ngạch xuất khẩu đạt 1,101 tỉ UsD tăng 49,7$ so với năm 2005 Năm 2007 sản lượng cà phê xuất khẩu đạt 1152273 tấn tăng 26,35% kim ngạch xuất khẩu đạt 1,6 tỉ USD tăng 45,32% so với năm 2006. Năm 2008 xuất khẩu cà phê đạt 1.077.375 tấn giảm 6,5%, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,087 tỉ USD tăng 31% so với năm 2007. thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam Năm Sản lượng (nghìn tấn) Tốc độ tăng SL(%) Kim ngạch (triệu USD) Tăng kim Ngạch(%) 2001 931 - 391 -22 2002 722 -22,44 322 -17,6 2003 749 3,7 505 56,8 2004 975 30,17 641 26,9 2005 855 -12,3 735 14,7 2006 912 6,67 1.101 49,9 2007 1.152 26,35 1.600 45,32 2008 1.077 -6,5 2.087 31 (Nguồn Trung tâm thông tin thương mại) Từ bảng trên ta có biểu đồ sau: Sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam Qua bảng số liệu trên ta thấy năm 2003 sản lượng cà phê xuất khẩu chỉ tăng 3,7% trong khi đó kim ngạch tăng 56,8% so với năm 2002. Nguyên nhân là do giá cà phê thế giới tăng đột biến, điều này được thể hiện rõ rệt vào năm 2004, với tâm lý tốt và diễn biến thị trường có lợi, người nông dân tiếp tục mở rộng diện tích nhằm tăng sản lượng và thu nhập làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng 26,9% so với năm 2003 đạt 641 triệu USD. Đến năm 2005, sản lượng xuất khẩu giảm 12,3% so với năm 2004 tuy nhiên kim ngạch vẫn tăng do giá cà phê trên thị trường thế giới vẫn cao. Từ năm 2006-2008 ngành cà phê Việt Nam lien tục đạt được nhiều thành công. Cụ thể là tổng kêt năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 1.101 triệu USD , năm 2007 đạt 1,6 tỷ USD đây là con số đáng kinh ngạc vì đã vượt chỉ tiêu đặt ra. Sang niên vụ 2007-2008, vào tháng 9 giá cà phê trên thế giới giảm mạnh kéo theo giá cà phê trong nước cũng có chiều hướng đi xuống , giá cà phê tiếp tục giảm vào tháng 10 gây tâm lý cho người xuất khẩu làm sản lượng cà phê xuất khẩu giảm 6,5% so với năm 2007 nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt hơn 2 tỷ USD. Nguyên nhân của sự “ trượt dốc không phanh “ của giá cà phê trong mấy tháng qua là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sức ép của đồng USD lên giá. Chỉ tính riêng tháng 8/2008 sản lượng xuất khẩu cà phê sang Đức giảm trên 28%, vào Hoa kỳ giảm 48%, vào Italia giảm 22%. Theo Hiệp hội cà phê- ca cao nhận định, sản lượng cà phê trong niên vụ 2008-2009 sẽ đạt trên dưới 1 triệu tấn tương đương với vụ năm nay. Hiệp hội còn đưa ra những vấn đề quan tâm trong sản xuất và chế biến cà phê trước tình hình thế giới đang biến động phức tạp như áp dụng thực hành nông nghiệp tốt(GAP), phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM), và thực hành chế biến tốt (GMP), tìm cách hạ giá thành sản xuất thông qua việc bón phân và tưới nước hợp lý. Ngoài ra Hiệp hội còn đặt ra các mục tiêu mở rộng sản xuất các sản phẩm cà phê có giá trị gia tăng, đặc biệt quan tâm về yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời kiến nghị với chính phủ có chính sách ưu tiên về vốn hợp lý cho ngành cà phê trong niên vụ 2008-2009. Về chất lượng cà phê xuất khẩu Hiện nay cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên đó mới chỉ là số lượng tương đối, nguyên nhân là do từ khâu trồng trọt đến thu lượm sản phẩm không được quản lý qui mô và đồng bộ. Tâm lý người nông dân muốn thu hoach sớm để gia tăng thu nhập do vậy mặc dù tỉ lệ cà phê chín mới khoảng 10-20% họ tiến hành thu hoạch điều này ảnh hưởng đến chất lượng cà phê khi chế biến. Cà phê xanh sẽ teo lại, da nhăn nheo, vỏ dính chặt vào nhân rất khó đánh bóng sạch, hạt cà phê có màu tối và không thơm. Mặt khác nông dân thu hái bằng tay, sau đó được phơi trên sân xi măng, sân đất do đó cà phê của Việt Nam có lẫn cả mùi đất, không thơm. Chất lượng cà phê không tốt cũng do các công ty xuất khẩu không quản lý kĩ từ khâu thu gom sản phẩm dẫn tới tình trạng chất lượng cà phê xuất khẩu không đồng bộ, công nghệ chế biến sản phẩm chưa theo kịp các nước phát triển. Tất cả những nhân tố này làm cho cà phê Việt Nam giảm đi sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vì vậy ngành cà phê Việt Nam cần phải có những tiêu chuẩn và sự điều chỉnh thật tốt trong vấn đề quản lý chất lượng cà phê. Bảng 2.2: Tiêu chuẩn về cà phê của Việt Nam TCVN 4193:2001 Cà phê nhân- yêu cầu kĩ thuật ( Soát xét lần 3- Thay thế TCVN 4193-1993) TCVN 4334:2001 ( ISO 3509-1985) Cà phê và các loại sản phẩm của cà phê- Thuật ngữ Và ĐN ( Soát xét lần 1- Thay thế TCVN 4334-86) TCVN 4870:2001 ( ISO 4150-1991) Cà phê nhân- Phương pháp xác định cỡ hạt bằng sàng tay( Soát xét lần 2- Thay thế TCVN 4807-89) TCVN 6928:2001 ( ISO 6673-1983) Cà phê nhân- xác định sự hao hụt khối lượng ở 150 độ C TCVN 6929:2001 ( ISO 9116-1992) Cà phê nhân- Hướng dẫn phương pháp mô tả các qui định TCVN 4193:2005 Tiêu chuẩn về chất lượng cà phê xuất khẩu (Nguồn: http// www.vicofa.org.vn) Trong thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn xuất khẩu chủ yếu là cà phê theo tiêu chuẩn TCVN 4193-93 với các thông số phần trăm lượng ẩm, tỉ lệ chất tạp, tỉ lệ hạt vỡ. Vì vậy cà phê Việt Nam chưa đáp ứng được hết các điều kiên của tổ chức ISO khi áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế. Do thiếu công nghệ chế biến sản phẩm, và các công nghệ sơ chế mà chúng ta đang có còn yếu và chưa đồng bộ nên chất lượng cà phê chưa đạt hiệu quả như mong muốn, mặt khác thói quen của nông dân thích thu hoạch sớm làm lẫn lộn trái xanh và trái chín càng làm giảm chất lượng cà phê khi tiến hành sơ chế. Hiện nay cà phê Robusta của Việt Nam rất được ưa chuộng vì có chất lượng cao trên thị trường. Loại cà phê này có nguồn gốc từ Châu phi nóng ẩm khi sang Việt Nam được trồng ở cao nguyên khí hậu nhiệt đới nên có chất lượng rất cao. Tuy nhiên có nhiều hạn chế trong khâu trồng trọt, hái lượm đã làm giảm hương vị thơm ngon của loại cà phê này. Vào 5/3 vừa qua giá cà phê Robusta leo lên ngưỡng 2.738USD/tấn đây là mức giá cao nhất trong vòng 14 năm qua tính đến hết tháng 3/2008. Cà phê Robusta vẫn là thế mạnh của Việt Nam. Hiện nay chúng ta vẫn đang chiếm vị trí quán quân về xuất khẩu loại cà phê này.Tuy nhiên trong 10/2006-6/2007 đã có tới 958,667 bao cà phê của Việt Nam bị loại thải trên thị trường LIFFE , chiếm 74% tổng sản lượng cà phê bị loại thải tại thị trường này. Chất lượng đang là thách thức lớn nhất mà cà phê Việt Nam phải đối mặt. Giá cả cà phê xuất khẩu của Việt Nam Trong mấy năm qua, diễn biến giá cà phê luôn ở mức cao, đây là tín hiệu tốt cho người kinh doanh sản xuất trong nước. Trong những tháng đầu niên vụ 2005-2006 cả nước xuất khẩu được gần 600.000 tấn, đạt kim ngạch gần 620 triệu USD giá xuất bình quân đạt 1.033USD/tấn. So với cùng kì niên vụ 2004-2005 cà phê xuất khẩu giảm 9,1% về lượng nhưng tăng 32,8% về giá trị. Sang đầu năm 2006 giá cà phê xuất khẩu liên tục tăng cao từ 1.169USD/tấn đến 1.570USD/tấn, giá bình quân 6 tháng đầu năm 2006 đạt 1.142USD/tấn. Vào ngày 13/10/2006 Hiệp hội Cà phê- Ca cao cho biết giá cà phê xuất khẩu đã giảm mạnh xuống còn 1.360- 1.370USD/tấn đối với cà phê giao FOB tại TP.HCM, giảm 70-80USD/tấn so với đầu tháng 10. Kết thúc phiên 9/10/2006, giá cà phê chè tại New york giao tháng 12 giảm 0,85 xu xuống 1,0305USD/libre và giá cà phê Robusta tại Luân Đôn giao tháng 11 đã giảm 38USD/tấn xuống còn 1.430 USD/tấn. Tuy nhiên giá thu mua tại thị trường trong nước vẫn tăng do nhu cầu xuất khẩu tăng trong khi nguồn cung ngày càng hạn hẹp. Tại Lâm Đồng, giá thu mua cà phê vối tăng 400 đồng/kg và cà phê chè loại 1 tăng khoảng 200 đồng/kg. Trong năm 2007 giá cà phê tăng tương đối ổn định. Đến năm 2008, đây là năm có nhiều biến động nhất của ngành cà phê Việt Nam cũng như ngành cà phê thế giới chỉ trong 8 tháng đầu năm, giá cà phê tăng mạnh ở mức 2.240- 2.520 USD/tấn thì đến tháng 10/09 giá cà phê giảm mạnh xuống còn 1.700USD/tấn và tiếp tục giảm vào tháng 11 xuống còn 1.480 USD/tấn. giá cà phê thế giới giảm kéo theo giá cà phê trong nước cũng giảm. Tại Đăk Lăk giá cà phê giảm gần 20.000/kg so với tháng 3. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ảnh hưởng đến đầu ra của cà phê thế giới, đồng thời sức ép của đồng USD lên giá đã đẩy giá cà phê xuống mức thấp nhất. Tình hình giá cà phê bất lợi vẫn tiếp tục tái diễn vào đầu tháng 12 khi nông dân đang vào vụ thu hoạch 2008-2009. Nông dân phải bán với giá là 25.000 đồng/kg. 10-12-2008 do đồng USD giảm giá và thị trường chứng khoán Mỹ mất điểm giá cà phê thế giới bắt đầu tăng trở lại. Tại thị trường Luân đôn giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng1/09 đạt 1646USD/tấn, tăng 27 USD/tấn so với phiên giao dịch trước. Trong khi đó giá cà phê cùng loại kỳ hạn tháng 3/09 cũng tăng 21 USD/tấn lên mức 1670 USD/tấn. Tại thị trường New york giá cà phê cũng tăng nhẹ. Ngày 17/12/08 giá cà phê tại thị trường Luân Đôn giảm nhẹ, thị trường New york tăng nhẹ Bảng 2.3: Giá cà phê thế giới Loại cà phê Kỳ hạn Thị trường 19/12/08 12/12/08 Đơn vị Cà phê Arabica Giao tháng 03/09 New york 110,95 112,15 US cent/lb Cà phê Robusta Giao tháng 3/09 London 1597 1641 USD/T Cà phê Arabica Giao tháng 3/09 Tokyo 16.710 17.000 Yen/69 kg Cà phê Robusta Giao tháng 9/09 Tokyo 16.000 15.790 Yen/100kg ( Nguồn: Vinanet) Phương thức và hình thức xuất khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam Hiện nay, cà phê của Việt Nam xuất sang 75 quốc gia và vùng lãnh thổ với nhiều hình thức, phương thức khác nhau. Phương thức phổ biến được nhiều các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng là ký hợp đồng bán cho khách hàng, nhưng giá cả thực tế chỉ được hai bên ấn định vào thời điểm giao hàng. Đây là phương thức truyền thống được sử dụng rộng rãi. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam đang đổi mới phương thức xuất khẩu bằng cách đưa hạt cà phê lên mạng, buôn bán bằng future contracts ( hợp đồng tương lai) thỏa thuận về việc mua hay bán một lượng hàng hóa nào đó, ở một thời điểm xác định trong tương lai với mức giá được qui định ngay khi kí kết hợp đồng. Phương thức này sẽ giúp được các bên tránh được nhiều rủi ro. Ở Việt Nam hiện nay có 3 đơn vị tham gia vào giao dịch hợp đồng giao ngay cho mặt hàng cà phê là Techcombank, Ngân hàng đầu tư phát triển (BIDV) và Công ty cổ phần môi giới đầu tư và thương mại Châu Á (ATB) của Ngân hàng Vietcombank. Hình thức xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu gián tiếp thông qua trung gian. Trung gian ở đây có thể là trung gian của nước thứ 3 hoặc các nhà phân phối, đại lý của nước nhập khẩu cà phê Việt Nam. Tuy vậy hình thức xuất khẩu trực tiếp cũng đang được áp dụng phổ biến, nguyên nhân của tình trạng này là do : Cà phê Việt Nam vẫn chưa có thương hiệu mạnh, các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn chưa nắm rõ thông tin về thị trường xuất khẩu chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu lâu bền, bên cạnh đó là sự phối hợp của các khâu trong quá trình sản xuất và xuất khẩu chưa cao. Việc xuất khẩu qua trung gian sẽ làm giảm lợi ích ròng do lợi nhuận bị phân chia.Do vậy nhiệm vụ trước hết đặt ra cho ngành cà phê Việt Nam hiện nay là phải xây dựng được thương hiệu mạnh tương xứng với tiềm năng mà ngành cà phê đang có. Thị trường xuất khẩu Với hơn 30 năm phát triển, ngành cà phê Việt Nam hiện nay đã đạt được nhiều thành công rực rỡ. Sản lượng cà phê tăng đều theo các năm. Trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực cà phê đứng thứ 2 sau gạo. Sản phẩm cà phê của Việt Nam đã có mặt ở 75 quốc gia và vùng lãnh thổ, giá trị cà phê xuất khẩu chiếm gần 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả nước. Theo báo cáo, Liên minh châu Âu (EU) là thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam tiếp theo đó là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Tính từ 2001-2005 xuất khẩu cà phê sang các nước này chiếm khoảng 47,8% tổng sản lượng xuất khẩu. Mặt hàng được tiêu thụ tại các nước này chủ yếu là cà phê nhân sống. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng xuất khẩu được 869,7 tấn cà phê hòa tan với trị giá hơn 2,77 triệu USD sang 25 thị trường, trong đó Nhật bản 232 tấn, Hoa Kỳ 192 tấn, Đài loan 141,5 tấn, Đức 104.6 tấn. Hiện nay cà phê Arabica của Việt Nam đang được ưa chuộng. Thị trường chính tiêu thụ sản phẩm này là EU và Hoa Kỳ đang có nhu cầu lớn hứa hẹn thành công mới cho cà phê Việt Nam. Bảng 2.4: Sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường qua các năm (đơn vị tấn) Thị trường Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Liên minh EU 323.641 403.876 497.483 446.799 479.944 602.157 Tốc độ tăng(%) - 24,79 23,18 -14,81 6,75 26,25 Hoa kỳ 90.100 109.421 135.412 117.781 131.275 134.966 Tốc độ tăng(%) - 21,42 23,76 -13,07 11,3 3,03 Nhật Bản 34.821 24.678 28.987 29.385 33.890 44.606 Tốc độ tăng(%) - -29,1 17,42 1,37 15,33 37,5 Philippin 21.789 20.303 19.964 27.979 12.351 24.033 Tốc độ tăng(%) - -6,82 -1,67 40,15 -55,86 94,58 Ấn Độ 17.856 19.202 21.213 23.287 23.691 25.029 Tốc độ tăng(%) - 7,54 10,47 9,78 1,73 5,65 Hàn Quốc 26.288 35.310 29.638 25.888 35.326 32.376 Tốc độ tăng(%) - 34,32 -16,06 -12,65 36,46 -8,35 Malaysia 7.958 9.831 12.081 11.507 16.365 17.744 Tốc độ tăng(%) - 23,54 22,886 -4,75 42,21 8,43 Singapore 8.328 8.754 8.645 11.862 8.819 9.036 Tốc độ tăng(%) - 5,12 -1,25 37,21 -25,65 2,77 Canada 8.924 11.462 13.295 17.688 15.341 16.058 Tốc độ tăng(%) - 28,44 15,99 33,04 -13,27 4,67 Trung Quốc 8.729 9.213 11.420 11.479 13.753 17.927 Tốc độ tăng(%) - 5,54 23,96 0,52 19,81 30,35 (Nguồn: Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật…Nhưng sản lượng xuất khẩu không đồng đều theo các năm. Nguyên nhân chính vẫn là do chất lượng cà phê vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu và thị hiếu của nước nhập khẩu. Cụ thể là: mặc dù có nhu cầu lớn về cà phê, nhập khẩu năm 2003 tăng 24,79% và tiếp tục tăng trong năm 2004 nhưng đến năm 2005 sản lượng nhập khẩu cà phê của EU giảm 14,81% so với năm 2004 sản lượng nhập khẩu chỉ đạt 446.799tấn. Sang năm 2006 sản lượng nhập khẩu đạt 476.944 tăng 7,75%. Tính đến hết năm 2007 sản lượng cà phê xuất khẩu ra thị trường thế giới của Việt Nam là 1.152000 tấn trong đó sản lượng xuất khẩu sang thị trường EU đạt 602.167 tấn. Trong 10 tháng đầu năm 2008 sản lượng cà phê xuất khẩu sang thị trường EU giảm chỉ đạt 396.000 tấn chiếm 39,6% tổng sản lượng ,nguyên nhân là do cuộc suy thái kinh tế ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu dung của người dân EU. Hoa Kỳ vẫn là thị trường thứ 2 nhập khẩu cà phê Việt Nam với khối lượng lớn. Đây là thị trường tiềm năng nhưng có nhiều rủi ro do các hệ thống tiêu chuẩn khắt khe. Rất nhiều các hàng hóa không ngoài cà phê xuất khẩu sang thị trường này bị loại thải.Năm 2003 sản lượng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ tăng 21,42% so với năm 2002 đạt 109.421 tấn và tiếp tục tăng trong năm 2004. Đến năm 2005 sản lượng xuất khẩu sang thị trường này giảm 13,07% so với năm 2004. Giải thích cho điều này vẫn là ở chất lượng cà phê của Việt Nam. Tuy vậy sang năm 2006, 2007 sản lượng nhập khẩu cà phê của Hoa kỳ tăng trở lại. Sản lượng cà phê nhập khẩu đạt 134.966 tấn tăng 3,03% so với năm 2006. Tính đến hết tháng 10/2008 sản lượng cà phê xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt hơn 116 ngàn tấn chiếm 10,77% tổng sản lượng. Ngoài ra tại các thị trường khác như Nhật Bản, Hàn Quốc…sản lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam hàng năm vẫn tăng đều . Như vậy cà phê Việt Nam đang dần tạo lập được uy tín và thương hiệu trên thế giới. Đây là bước ngoặt lớn cho ngành cà phê Việt Nam. Bảng 2.5 : Kim ngạch xuất khẩu của cà phê của Việt Nam Thị trường Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Liên minh EU 150.816 271.808 337.293 359.226 589.873 815.000 Tốc độ tăng(%) - 80,22 24,09 6,5 64,21 38,17 Hoa kỳ 41.029 75.384 89.975 97.542 162.113 238.889 Tốc độ tăng(%) - 83,73 19,36 8,41 66,19 47,36 Nhật Bản 15.684 18.464 20.839 25.939 42.395 75.509 Tốc độ tăng(%) - 17,73 12,86 24,47 63,44 78,11 Philippin 9.478 12.486 13.576 23.026 15.142 40.496 Tốc độ tăng(%) - 31,74 8,73 69,6 -34,24 67,44 Ấn Độ 7.410 12.347 14.467 19.375 27.458 37.694 Tốc độ tăng(%) - 66,63 17,17 33,93 41,72 37,28 Hàn Quốc 12.224 23.869 20.243 21.409 41.402 52.255 Tốc độ tăng(%) - 95,26 -15,19 5,76 93,39 26,21 Malaysia 3.557 6.154 8.070 8.711 15.394 24.811 Tốc độ tăng(%) - 73,01 31,13 7,94 79,72 61,17 Singapore 4.081 5.751 5.930 9.881 11.033 11.981 Tốc độ tăng(%) - 40,92 3,11 66,63 11,66 35,78 Canada 4.794 7.657 8.908 14.079 18.089 25.709 Tốc độ tăng(%) - 59,72 16,34 58,05 28,47 42,14 Trung Quốc 4.015 6.173 7.766 8.058 14.379 24.594 Tốc độ tăng(%) - 53,75 25,81 3,76 78,44 71,04 (Nguồn : Nhìn trên bảng số liệu ta thấy kim ngạch xuất khẩu tăng theo các năm mặc dù sản lượng có giảm. Nguyên nhân của tình trạng này là do giá cà phê tăng và ít có biến động. Trong mấy tháng đầu năm 2006 giá cà phê tăng từ 1.169USD/tấn đến 1.570USD/tấn đến tháng 10 giá cà phê mạnh tuy nhiên sau đó lại tăng trở lại do nguồn cung đang thiếu hụt. Tháng 3/2007 giá cà phê đạt 1.626 USD/tấn và liên tục tăng. Năm 2007 là năm mà ngành cà phê đạt được nhiều con số đáng kinh ngạc về cả sản lượng và kim ngạch. Bước sang năm 2008 trong mấy tháng đầu năm giá cà phê ở mức cao đạt 2.240- 2.520 USD/tấn, tuy nhiên do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới sau đó đã kéo theo giá cà phê giảm mạnh xuống còn 1.700USD/tấn và tiếp tục giảm vào tháng 11 xuống còn 1.480 USD/tấn. Năm 2008 là năm mất trắng của nông dân Việt Nam do giá cà phê thế giới giảm kéo theo giá cà phê trong nước cũng tụt nhịp. Tuy nhiên vào tháng 12 vùa qua giá cà phê thế giới cũng đang tăng trở lại. và nhu cầu cà phê của thế giới cung đang dần hồi phục. Châu Á cũng là thị trường lớn của ngành cà phê Việt Nam, trong đó Nhật Bản, Hàn Quốc là 2 quốc gia tiêu thụ nhiều cà phê Việt Nam nhất trong khu vực Châu Á. Thời gian qua nhu cầu cà phê ở thị trường này tăng mạnh. Tính đến hết niên vụ 2007-2008 sản lượng cà phê xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 52.000 tấn, Hàn Quốc đạt 40.000 tấn. Bên cạnh đó, sản lượng xuất khẩu cà phê sang các thị trường như Trung Quốc, Philipin, Newzealand, Hy Lạp tăng đột biến. Đây là tín hiệu đáng mừng cho ngành cà phê Việt Nam. Các sản phẩm cà phê của Việt Nam đang có được vị thế mạnh, sức cạnh tranh cao trên thế giới. Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU trong giai đoạn 2001-2008 Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu Trong những năm gần đây, có tới hơn 91% tổng kim ngạch xuất khẩu và hơn 76% kim ngạch nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam - EU được thực hiện. Năm 2007, thương mại Việt Nam- EU được đánh giá là năng động với tổng kim ngạch buôn bán 2 chiều đạt 14,23 tỷ USD trong đó cà phê đạt 879 triệu USD. Hiện nay, EU là thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với cà phê Việt Nam, chiếm tỉ trọng 45% trong xuất khẩu của Việt Nam. Bảng 2.6: Sản lượng và kim ngạch nhập khẩu của EU Năm Sản lượng (tấn) Tốc độ tăng S .lượng(%) Kim ngạch (nghìn USD) Tăng kim ngạch (%) 2002 323.641 - 150.816 - 2003 403.876 24,79 271.808 80,22 2004 497.483 23,18 337.293 24,09 2005 446.799 -14,81 359.229 6,5 2006 476.994 6,75 589.873 64,21 2007 602.157 26,25 815.000 38,17 (Nguồn:www.cafeviet.net) Biểu đồ sản lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam của EU ( Đơn vị: tấn) Theo dõi bảng số liệu ta thấy sản lượng và kim ngạch cà phê xuất khẩu sang EU tăng giảm tương đối qua các năm. Năm 2002 sản lượng xuất khẩu đạt 323.641 tấn , kim ngạch xuất khẩu đạt 150.816 nghìn USD. Năm 2003, sản lượng xuất khẩu tăng 24, 79% so với năm 2002 cùng với giá thị trường thế giới tăng kéo theo kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng mạnh khoảng 80,22%. Với diễn biến thị trường tốt năm 2004 sản lượng cà phê tiếp tục gia tăng tại thị trường này cụ thể: sản lượng nhập khẩu cà phê của EU là 497.483 tấn tăng 23,18% kim ngạch đạt 337.293 nghìn USD tăng 24,09% so với năm 2003. Tuy nhiên sang năm 2005 sản lượng cà phê bị giảm do chất lượng cà phê của Việt Nam không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân EU. Sản lượng giảm14,81% trong khi đó kim ngạch chỉ giảm 6,5%. Từ năm 2006 do có nhiều thay đổi trong quá trình sản xuất và chế biến cà phê, sản lượng cà phê bắt đầu tăng trở lại kèm theo giá thị trường tăng làm kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU tăng mạnh 64,21% so với năm 2005, sản lượng xuất khẩu đạt 476.944 tấn. Năm 2006 cũng là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam ra thị trường thế giới đạt ngưỡng 1 tỉ USD Với diễn biến có lợi trong năm 2006. thì việc tăng sản lượng xuất khẩu là điều tất yếu. Trong năm 2007 Việt Nam đã xuất sang EU 602.157 tấn cà phê tăng 26.25 %, đạt 815.000 nghìn USD tăng 38,17% so với năm 2006. giá cà phê cũng đã đạt ngưỡng kỉ lục. Năm 2007 cũng là năm Việt Nam đạt ngưỡng xuất khẩu cà phê trên 1 tỉ USD. Đầu năm 2008 giá cà phê thế giới tăng mức kỉ lục và tiếp tục tăng đến tháng 8 đạt mức 2.250 USD/tấn. Tuy nhiên sau đó, do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới giá cà phê giảm mạnh xuống còn 1.480 USD/tấn. Điều này đã làm ảnh hưởng đến tâm lý người xuất khẩu. Tính đến hết tháng 10/2008 cả nước xuất khẩu được 396000 tấn cà phê sang EU chiếm khoảng 39,6% tổng sản lượng. Như vậy có thể dự đoán được sản lượng xuất khẩu cà phê sang EU giảm mạnh tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu cũng cao do giá cả tăng mạnh trong 8 tháng đầu năm và có xu hướng tăng trở lại trong năm 2009 Mới đây theo dự báo của Tổ chức cà phê thế giới ( ICO) nhu cầu cà phê của EU tăng mạnh. Cà phê xuất khẩu sang thị trường này bao nhiêu cũng sẽ được tiêu dùng hết. Đây là tin vui cho ngành cà phê thế giới nói chung và ngành cà phê Việt Nam nói riêng. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu Hiện nay, các nước nhập khẩu nhiều cà phê nhất của Việt Nam trong EU là: Đức, Anh, Bỉ, Tây ban nha.. Nhu cầu sử dụng cà phê của các nước này tăng cao theo các năm. Bảng 2.7: Sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam tại thị trường EU Tên nước 2005 2006 2007 1. Đức 114.963 133.460 169.721 Tốc độ tăng (%) - 16,09 17,17 2. Anh 33.025 43.999 46.334 Tốc độ tăng (%) - 33,23 5,31 3. Tây Ban Nha 62.852 69.968 72.332 Tốc độ tăng (%) - 11,32 3,38 4. Bỉ 31.479 39.020 45.523 Tốc độ tăng (%) - 23,96 16,67 5. Italia 46.652 55.812 73.861 Tốc độ tăng (%) - 19,63 31,59 6. Thụy Sĩ 28.641 33.074 44.443 Tốc độ tăng (%) - 15,48 34,37 7. Pháp 38.848 40.024 41.741 Tốc độ tăng (%) - 3,03 4,29 8. Hà Lan 19.099 27.083 32.440 Tốc độ tăng (%) - 41,81 19,78 (đơn vị : tấn) (Nguồn: http//:www.gso.gov.vn) Trong năm 2007 sản lượng xuất khẩu cà phê sang Đức đạt 169.721 tấn, Italia đạt 73.861 tấn, và Tây Ban Nha đạt 72.332 tấn. Bước sang năm 2008, tính đến hết tháng 7 xuất khẩu cà phê sang Đức đạt 86.o67 tấn với kim ngạch 182,47 triệu USD giảm 31,72% về sản lượng và giảm 4,12% về kim ngạch so với cùng kì năm 2007. Đáng chú ý là mặc dù tổng sản lượng giảm trong tháng 7 giảm nhưng lượng cà phê xuất khẩu sang thị trường Italia lại tăng khá mạnh so với tháng 6. Tính đến hết tháng 7 xuất khẩu sang thị trường này đạt 51.947 tấn với kim ngạch 108,5 triệu USD giảm 23,45% nhưng lại tăng 4,98% về kim ngạch so với cùng kì năm 2007. Đặc biệt , Bỉ là thị trường tiêu thụ lớn thứ 5 của Việt Nam và còn là nước nhập khẩu cà phê đặc biệt trong EU. Trong tháng 8/2008 xuất khẩu sang thị trường này có xu hướng sụt giảm so với tháng trước, chỉ đạt 2.887 tấn với kim ngạch đạt 6,5 triệu USD. Tính đến hết tháng 8 xuất khẩu sang thị trường này đạt 40.953 tấn với kim ngạch 87,32 triệu USD tăng 55,58% về lượng và tăng 120,21% về kim ngạch. Bỉ hiện nay được đánh giá là thị trường tiềm năng của cà phê Việt Nam. Bảng 2.8: Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang EU ( đơn vị: USD) Tên nước 2005 2006 2007 1. Đức 96.109.068 180.592.009 206.544.388 Tốc độ tăng (%) - 87,9 14,37 2. Anh 34.764.200 39.710.832 55.765.582 Tốc độ tăng (%) - 14,23 40,43 3. Tây Ban Nha 53.361.348 87.066.061 110.306.300 Tốc độ tăng (%) - 63,16 26,69 4. Bỉ 24.333.267 47.214.200 51.038.256 Tốc độ tăng (%) - 94,04 8,09 5. Italia 50.565.672 57.335.308 78.325.322 Tốc độ tăng (%) - 13,39 36,61 6. Thụy Sĩ 19.962.777 31.540.944 46.339.584 Tốc độ tăng (%) - 57,99 46,92 7. Pháp 34.820.880 46.539.904 47.590.992 Tốc độ tăng (%) - 33,66 2,26 8. Hà Lan 26.253.631 32.282.936 47.590.992 Tốc độ tăng (%) - 22,97 47,4 ( Nguồn: Hiện nay Đức vẫn là quốc gia tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong khối EU. Đây là thị trường có nhu cầu về cà phê cao trên thế giới. Sản lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này tăng dần theo từng năm. Tính đến hết tháng 8/2008 xuất khẩu cà phê sang Đức đạt 91.151 tấn với kim ngạch 194,26 triệu USD giảm 31,89% về sản lượng giảm 4,24% về kim ngạch so với cùng kì năm ngoái. Theo số liệu thống kê tháng 10/2008 Việt Nam đã xuất khẩu sang Ba Lan 899 tấn cà phê đạt trị giá 1.851.814USD. Tính chung 10 tháng, giá trị xuất khẩu đạt 19.522.235 USD với lượng xuất 9.383 tấn. Cũng trong tháng này kim ngạch xuất khẩu cà phê sang Bỉ đạt giá trị 4.386.987 USD với lượng xuất 2.447 tấn. Tính chung 10 tháng giá trị xuất khẩu sang Bỉ đạt 96.474.621 USD với lượng xuất 45.624 tấn cà phê các loại. Tại Anh xuất khẩu cà phê sang thị trường này đạt 1.837 tấn, đạt trị giá 3.108.392 USD. Đến hết 10 tháng, giá trị xuất khẩu đạt 1.518.889 USD, với lượng xuất khẩu 27.578 tấn. Trong mùa vụ 2008-2009 mới đây, sản lượng thu hoạch ở mức cao nhưng tình hình giá cá phê thị trường thế giới diễn ra theo chiều hướng xấu gây tâm lý lo sợ cho người trồng cà phê. Dự kiến sản lượng niên vụ 2008-2009 cũng đạt khoảng trên dưới 1 triệu tấn. Giá cà phê xuất khẩu Trong mấy tháng đầu năm 2005 giá cà phê bình quân của cả nước khá thấp chỉ đạt 813,32 USD/ tấn. Bước sang năm 2006 giá cà phê tăng cao từ 1,169 USD vào những tháng đầu năm lên đến 1.570 USD/tấn. giá bình quân 6 tháng đầu năm 2006 đạt 1.142 USD/ tấn. Năm 2007 ngành cà phê Việt Nam đón mừng nhiều niềm vui mới khi giá cà phê liên tục tăng. Giá cà phê Robusta đạt 1.731 USD/ tấn trong tháng 11. Sang tháng 12/2007 giá cà phê Arabica đạt 2.248 USD/tấn tăng 13 USD/tấn. Giá chào cà phê Robusta của Việt Nam cho các đơn hàng sắp tới tăng bình quân 30-50 USD/tấn. Trong tháng 12/2007, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng cà phê của nước ta đạt 1.730 USD/T, tăng 21,57% so với cùng kì năm 2006, cao hơn so với mức giá xuất khẩu của cả năm 2007 là 1.553 USD/tấn. Như vậy giá cà phê xuất khẩu trung bình cà phê trong năm 2007 tăng 25,12%so với năm 2006. Biểu đồ : Giá xuất khẩu trung bình từ 2007 đến nay (Nguồn: Nhìn chung từ cuối năm 2007 đến mấy tháng đầu năm 2008 giá cà phê liên tục tăng cao. Tính đến ngày 28/1/2000 giá cà phê tăng kỉ lục trong 10 năm qua. Giá cà phê Robusta Xk của nước ta tiếp tục tăng mạnh ở mức 1.900-1.960USD/tấn, tăng gần 40% so với cùng kì năm 2007. Giá cà phê tăng kéo theo giá trong nước cũng tăng. Tuy nhiên do giá tăng mạnh là giảm cầu cà phê Việt Nam ở thị trường thế giới đặc biệt là thị trường EU. Trong mấy tháng tiếp theo ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới lan rộng. Sản lượng cà phê sang thị trường EU giảm mạnh và giá cà phê cung theo chiều hướng xấu đến tháng 11/2008 giá cà phê trên thế giới còn 1.480USD/tấn. Nếu so với đầu năm 1 tấn cà phê người nông dân mất từ 14-16 triệu đồng. Năm 2008 là năm nông dân Việt Nam điêu đứng. Tuy nhiên đã có những tín hiệu tốt vào tháng 12/08 khi giá cà phê tăng trở lại. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu Hiện nay, Ở Việt Nam có nhiều hình thức xuất khẩu hàng hóa như: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu gián tiếp, đầu tư, liên doanh..như vậy các doanh nghiệp sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn khi xuất khẩu hàng hóa. Trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu dưới hình thức gián tiếp, qua trung gian do chưa xây dựng được thương hiệu với các đối tác cũng như các nước trong EU, như vậy lợi ích ròng từ việc xuất khẩu cà phê bị giảm sút do phải phân chia lợi nhuận. nhưng trong mấy năm trở lại đây, thương hiệu cà phê Việt Nam dần có chỗ đứng trên thị trường thế giới. hình thức xuất khẩu trực tiếp đang dần được đang các doanh nghiệp sử dụng rộng rãi. Do được cung cấp đầy đủ về thông tin thị trường EU và tình hình thế giới các doanh nghiêp đã chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng nhằm thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Với thu nhập bình quân đầu người cao, người dân EU luôn muốn sử dụng hàng hóa có chất lượng và thương hiệu uy tín, do vậy hình thức liên doanh cũng rất được nhiều doanh nghiệp sử dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ liên doanh với một doanh nghiệp khác có uy tín trên trường quốc tế về mặt hàng này hoặc nhà cung cấp , phân phối có uy tín để đưa sản phẩm này xâm nhập thị trường khó tính như EU. Đây là hình thức đang được các doanh nghiệp Việt Nanm sử dụng Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang EU trong thời gian qua Những kết quả đạt được Thị trường EU là thị trường mà Việt Nam đạt được nhiều thành công về sản lượng cũng như về kim ngạch hàng hóa. Hàng năm kim ngạch cà phê cũng như kim ngạch hàng hóa khác tăng cao. Hiện nay EU là bạn hàng lớn của Việt Nam tại Bỉ chiếm 10,1% thị trường nhập khẩu, Pháp chiếm 48,5%, Đức chiếm 57%, Italia chiếm 49,6%.. trong tổng số hàng nông sản xuất khẩu vào thị trường này. Việt Nam đang dần xây dựng được thương hiệu cà phê trong con mắt người dân EU. Đây là điều đáng mừng vì thị hiếu tiêu dùng của người dân EU rất cao. Cà phê Việt Nam cần phải nắm bắt được cơ hội đó. Theo nhận xét của ICO, Cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU nói riêng và ra thế giới nói chung trong năm 2009 sẽ được tiêu thụ hết. Những tồn tại và nguyên nhân Tuy có nhiều lợi thế và thu được những thành quả đáng khích lệ nhưng trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngành cà phê Việt Nam đã và đang bộc lộ những nhược điểm và hạn chế từ sản xuất đến xuất khẩu, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Vấn đề đặt ra lớn nhất trong xuất khẩu cà phê Việt Nam hiện nay là tính bền vững chưa cao. Những năm gần đây, tuy sản lượng xuất khẩu nhanh nhưng giá cả không ổn định, trong đó một số năm giảm sút lớn nên kim ngạch xuất khẩu tăng chậm hoặc sút giảm. Vấn đề này có liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu, dẫn đến cung vượt cầu, công nghệ chế biến bảo quản sau thu hoạch không đáp ứng được yêu cầu tăng sản lượng và chất lượng, thị trường xuất khẩu chưa ổn định. Biểu hiện cụ thể là: Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao Thật thế, thị trường quy gom cà phê Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường quốc tế. Khi thị trường cà phê quốc tế sôi động làm cho hoạt động thu mua, quy gom nhộn nhịp, việc tiêu thụ cà phê ở các hộ sản xuất thuận lợi. Khi thị trường quốc tế thu hẹp, cà phê tụt giá, thị trường thu mua nội địa sẽ chao đảo, ách tắc, việc tiêu thụ của các hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn. Giá bán ra không bù đắp đủ chi phí sản xuất, lượng hàng tồn nhiều gây nên ứ đọng vốn. Một dẫn chứng thực tế là niên vụ 2007-2008. Khi thị trường cà phê thế giới giảm mạnh đã gây ra những ảnh hưởng lớn đến thị trường cà phê trong nước. Mặc dù sở hữu nguồn cung nhưng giá cà phê chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới Cơ cấu cây trồng thiếu hợp lý Cơ cấu cây trồng không hợp lí, tập trung quá nhiều vào cà phê Robusta là loại cà phê phải cạnh tranh với những nước có bề dày kinh nghiệm và thị trường xuất khẩu ổn định như Brazil,Achentina, Indonesia...Chưa quan tâm đến mở rộng diện tích cà phê Arabica, loại cà phê có khả năng cạnh tranh mạnh hơn, được thị trường ưa chuộng hơn, giá lại cao và có tiềm năng phát triển lớn. Những năm gần đây tuy có một số doanh nghiệp có quan tâm chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng diện tích cà phê Arabica, nhưng giải pháp chưa đồng bộ nên kết quả thấp. Chất lượng cà phê chưa cao Chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp chưa tương xứng với lợi thế về đất đai và khí hậu Việt Nam, còn khoảng cách xa so với yêu cầu của thị trường thế giới. Ông Daniele Giovannucci, cố vấn cao cấp của Ngân hàng Thế giới, lấy hình ảnh Brazil, một đất nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới và so sánh:“ Chất lượng ổn định là điều dễ nhận thấy nhất đối với cà phê Brazil, trong khi đó vấn đề này đối với cà phê Việt Nam thì ngược lại.”Cà phê loại I chiếm từ 16-18%, loại II A chiếm tới trên 70%, còn lại là loại thấp hơn... Các chuyên gia về lĩnh vực này từ Bộ NN và PTNT đánh giá, tình trạng giảm sút chất lượng cà phê xuất khẩu nước ta thời gian qua là từ nhiều yếu tố. Ngay từ khâu chọn giống đã tồn tại nhiều bất cập. Giống cà phê ở nước ta từ trước đến nay vẫn chủ yếu là do bà con nông dân tự chọn, ươm giống và trồng nên không đảm bảo chất lượng. Cây phát triển kém, hạt nhỏ, đen, tỷ lệ đồng đều giữa các hạt thấp. Đầu tư trong lĩnh vực thuỷ lợi để tưới tiêu cho cà phê đạt thấp ( 22.4% tổng diện tích ). Nhiều vùng vào mùa khô hạn không đủ nước tưới, ảnh hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng của cây.Thêm nữa, cà phê nước ta vẫn thu hái theo kiểu tuốt cành là phổ biến, quả xanh chín lẫn lộn, dẫn đến chất lượng cà phê chế biến thấp, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cũng cao ( thu hái xanh 50% có tỷ lệ tổn thất lên đến 8% ). Ngoài ra, khâu chế biến cũng còn nhiều bất cập, góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cà phê. Trong khâu chế biến nước ta hiện nay vẫn sử dụng hai phương pháp, chế biến khô và chế biến ướt. Trong đó phương pháp chế biến khô vẫn được dùng phổ biến ( khoảng 80% sản lượng ). Phương pháp này cho hương vị cà phê không bằng phương pháp ướt. Mặt khác lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tốn nhiều công phơi đảo, đòi hỏi diện tích kho và sân phơi lớn. Hiện nay, ở nước ta chế biến cà phê vẫn chủ yếu ở quy mô gia đình ( 80% sản lượng cà phê ). vì thế, tính đồng bộ kém, thiết bị chế biến đơn giản, chủ yếu là các máy xát nhỏ Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa gắn sản xuất với chế biến, thu mua, xuất khẩu. Thực trạng hiện tại là người sản xuất chỉ biết sản xuất còn các khâu sơ chế, chế biến, thu gom, xuất khẩu hoàn toàn do các doanh nghiệp, tư thương lo liệu. Tình hình trên đã dẫn đến hậu quả là sản lượng cà phê dư thừa, ứ đọng lớn, chất lượng và giá cả giảm. Một số năm nhà nước phải bù lỗ lãi suất ngân hàng để mua cà phê tạm trữ xuất khẩu. Người trồng cà phê luôn trong cảnh thiếu thông tin và thông tin không được cập nhật làm họ không nắm được giá cả diễn biến trong năm để có phương hướng điều chỉnh mức cầu thích hợp với diễn biến của thị trường cho mùa vụ tới. Thiếu thông tin người nông dân không còn kiểm soát được việc bán sản phẩm, khi nào thì nên bán, bán với giá bao nhiêu, vì vậy thường xuyên bị ép giá. Người trồng cà phê cho biết họ không nhận được sự giúp đỡ nào khi bán sản phẩm cho những công ty chế biến hoặc xuất khẩu cà phê. Hơn nữa, việc sản xuất phân tán tạo ra những khó khăn lớn trong việc tập trung nguồn hàng và giao hàng đúng hạn theo hợp đồng đã kí kết. Thiếu vốn đầu tư Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của sự yếu kém về chất lượng, sự bất cập trong sản xuất và chế biến cũng là do nguồn kinh phí, nguồn vốn đầu tư. Thật thế, người trồng cà phê ở Việt Nam đa phần là các hộ nông dân nghèo và vốn họ đầu tư chủ yếu là vốn vay ngân hàng, phải trả lãi suất. Do đó việc đầu tư cho sản xuất có phần hạn chế, ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng cà phê. Cho dù có nhiều doanh nghiệp lớn tham gia vào kinh doanh cà phê thì khả năng tài chính vẫn chưa đủ mạnh để có thể trang bị máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất. Thế nên, vốn đầu tư luôn là vấn đề đáng quan tâm, có ảnh hưởng rất lớn. Việc tìm giải pháp hỗ trợ vốn là rất quan trọng cho ngành cà phê ở các tỉnh nói riêng và toàn quốc nói chung. Tuy nhiên, thực hiện được các giải pháp hỗ trợ vốn không phải là công việc dễ dàng. Đây vẫn là vấn đề bất cập đòi hỏi cần có giải pháp hợp lý. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẢY XUẤT KHẨU CÀ PHÊ SANG THỊ TRƯỜNG EU Định hướng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới Ngành cà phê Việt Nam hiện nay đang thực hiện điều chỉnh phương hướng chiến lược nhằm vào những nội dung chủ yếu sau đây: Tăng cường vốn đầu tư, tìm giải pháp huy động vốn hiệu quả. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xác định mục tiêu chiến lược cho ngành. Sản xuất hàng hoá chất lượng cao, phù hợp yêu cầu của thị trường. áp dụng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm Nhà nước phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, hạ giá thành sản phẩm. Đổi mới công nghệ, thiết bị chế biến, xây dựng một hệ thống đồng bộ giữa các khâu. Đổi mới quan hệ mua bán, mở rộng thị trường cho cà phê Việt Nam, quan tâm đầy đủ hơn đến thị trường nội địa. Làm tốt những phương hướng, chiến lược đã đề ra như trên chính là phát triển một ngành cà phê bền vững ở Việt Nam, sẵn sàng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường EU Tạo nguồn vốn đầu tư Với những thực tế đã được dẫn chứng ở trên, có thể khẳng định lại rằng vốn đầu tư có tầm quan trọng to lớn đến mọi mặt hoạt động của ngành cà phê Việt Nam và chất lượng sản phẩm. Do đó, tìm và tạo nguồn vốn luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Đối với Nhà nước, bên cạnh các hình thức trực tiếp, thì cần có sự hỗ trợ gián tiếp cho nông nghiệp. Kinh nghiệm hiện đại hoá nông nghiệp ở một số nước như Đài Loan, Thái Lan cho thấy ngoài những chương trình đầu tư trực tiếp về giao thông, thuỷ lợi, điện khí hoá, tín dụng...( hiện nay chúng ta đã và đang thực hiện từng bước những chương trình này), thì đầu tư gián tiếp cũng tỏ ra có hiệu quả. Đầu tư gián tiếp là những chính sách ưu đãi về thuế khoá, bán điện, xăng dầu vật tư...Hiệu quả của chính sách này sẽ làm hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh.Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên giao một phần các nguồn vốn trong đó có vốn xây dựng cơ bản, vốn định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo cho các doanh nghiệp kinh doanh cà phê ( một lực lượng tích cực tham gia vào các chương trình kinh tế xã hội tại các vùng sản xuất cà phê ), và tạo điều kiện cho ngành cà phê được sử dụng một phần nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) để xây dựng cơ sở hạ tầng. Đối với các doanh nghiệp, cần tăng cường huy động vốn và vay ngân hàng, nhanh chóng cổ phần hoá các doanh nghiệp cà phê để huy động vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Giải pháp này cần ưu tiên bán cổ phiếu cho người lao động trực tiếp tham gia sản xuất, chế biến cà phê. Về phía ngân hàng cần nghiên cứu cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp ổn định được chân hàng xuất khẩu. Ngoài ra, ngân hàng cũng quan tâm giải quyết cho nông dân vay để mở rộng sản xuất. Thành lập hệ thống tín dụng nông thôn để hỗ trợ vốn kịp thời cho nông dân bằng cách thành lập các ngân hàng thương mại cổ phần, xây dựng các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tại các vùng cà phê trọng điểm. Thêm nữa , nên giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà, gây lãng phí thời gian và tiền bạc trong việc giải quyết vay hay hỗ trợ vốn. Và cuối cùng việc khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, hỗ trợ vốn là việc làm cần thiết và mang lại hiệu quả to lớn. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất theo hai hướng. Thứ nhất là giảm bớt diện tích cà phê Robusta, chuyển các diện tích cà phê kém phát triển, không có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác như cao su, hạt điều, hồ tiêu...Thứ hai là mở rộng diện tích cà phê Arabica ở nơi có điều kiện khí hậu, đất đai thật thích hợp. Mục tiêu cuối cùng trong chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê không đổi ở mức hiện nay, hoặc giảm chút ít, khoảng 520000ha nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi. Trong đó cà phê Robusta là 350000 ha đến 400000 ha ( giảm 100000-150000 ha ). Cà phê Arabica là 100000 ha ( tăng 60000 ha so với kế hoạch cũ ). Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ở mức 1triệu tấn Tham khảo từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu này là hợp lý đối với nông nghiệp Việt Nam cũng như với thị trường cà phê quốc tế . Điều kiện đất đai khí hậu ở Việt Nam cho phép phát triển nhiều loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao như cao su, ca cao, hồ tiêu, hạt điều, cây ăn quả...giảm bớt đất cà phê để nhường chỗ cho cây trồng khác là cần thiết. Tất nhiên tiến độ chuyển dịch này nhanh hay chậm cũng còn tuỳ thuộc vào khả năng cung cấp tài chính của Nhà nước cho nông dân vì đây cũng là một việc làm tốn kém và đòi hỏi một sự chuyển giao kĩ thuật đầy đủ, chu đáo. Nâng cao năng xuất, hạ giá thành sản phẩm Nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam đóng vai trò quan trọng. Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê cần nghiên cứu và triển khai áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000. Chỉ có áp dụng tốt hệ tiêu chuẩn này thì mới đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm vào thị trường khu vực và thế giới. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần tham gia vào chương trình phối hợp khuyến khích thương mại của các nước ASEAN ( gồm 15 mặt hàng nông-lâm-thuỷ sản, trong đó có mặt hàng cà phê ) để từ đó xây dựng tiêu chuẩn chất lượng chung phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng của WTO, tham gia luồng hàng cùng loại của các nước ASEAN vào thị trường thế giới. Việc bố trí cơ cấu giống hợp lý là hết sức cần thiết nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng và phòng chống sâu bệnh. Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến khích nghiên cứu các giống mới có năng suất và chất lượng cao, đồng thời nâng việc quản lý cây trồng và quy hoạch. Trong thời gian tới, công tác giống cần phát triển theo các hướng xây dựng cơ cấu giống phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, từng bước tăng diện tích cà phê chè ở miền Bắc và miền Trung. Cần tạo điều kiện cho các trung tâm giống về vốn và thiết bị, tạo cơ hội cho cán bộ nghiên cứu tiếp cận với các trung tâm giống của các nước trong khu vực và thế giới. Tăng cường công tác khuyến nông thông qua Hiệp hội cà phê Việt Nam phối hợp với Tổng công ty cà phê Việt Nam thực hiện việc đào tạo tập huấn kĩ thuật trồng và chăm sóc cà phê, có sự phối hợp giúp đỡ của Cục Khuyến nông và Cục Bảo vệ thực vật Bộ NN và PTNT cũng như các trung tâm, chi cục của từng địa phương. Công tác bảo vệ thực vật là không thể thiếu trong quá trình gieo trồng, chăm bón cây cà phê. Trước hết các nhà sản xuất cà phê cần hợp tác với trung tâm bảo vệ thực vật để triển khai chương trình phòng trừ sâu bệnh cho câu trồng. Nhà nước có biện pháp tích cực để điều hành công tác nhập khẩu phân bón nhanh, đúng chủng loại, từng bước khuyến khích người dân sử dụng phân bón hữu cơ thay thế phân bón hoá học, tăng hiệu quả cây trồng, giảm ô nhiễm môi trường, tiết kiệm chi phí phân bón trong sản xuất. Ngoài ra, đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề đóng vai trò quan trọng trong nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cà phê phải có kế hoạch tuyển dụng và thường xuyên bồi dưỡng, tạo điều kiện để đội ngũ này được phát triển. Đây là một việc làm quan trọng có tính chiến lược cao. Bởi chỉ có được một đội ngũ cán bộ lao động cao mới biết sử dụng tốt các thiết bị máy móc, biết tạo ra sản phẩm chất lượng với năng suất cao, giá thành hạ. Để tăng độ hấp dẫn của sản phẩm các doanh nghiệp cần chú ý đến bao bì đóng gói cà phê phù hợp từng loại sản phẩm, thị trường, tập quán. Cà phê xuất khẩu chủ yếu vận chuyển bằng đường biển do đó bao bì phải có độ bền tốt, bảo vệ được hàng hoá trong quá trình bốc xếp, bảo quản, vận chuyển. Bao bì của những sản phẩm cà phê chế biến phải gọn, hợp vệ sinh, dễ trưng bày, giữ được màu sắc, hương vị, hình dáng của sản phẩm và phản ánh đủ các thông tin chủ yếu về sản phẩm như thành phần, thời hạn sử dụng, trọng lượng, giá cả...Việc thiết kế nhãn hiệu sản phẩm nên theo hướng đơn giản, dễ gợi nhớ và mang ý nghĩa. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng sản phẩm tốt mới chỉ là bước đầu, sản phẩm ấy phải được hoàn thiện một cách liên tục mới có khả năng duy trì khách hàng cũ cũng như thu hút khách hàng mới. Các doanh nghiệp phải kiên trì lắng nghe ý kiến khách hàng để biết những hạn chế trong sản phẩm của mình nhằm tìm cách cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, nghiên cứu sản phẩm đối phương cũng là một yếu tố giúp cải tiến sản phẩm ngày càng phù hợp với người tiêu dùng. Đổi mới công nghệ Đầu tư công nghệ chế biến hiện đại cho ngành cà phê là điều hết sức cần thiết. Để tạo đà cho các doanh nghiệp cà phê phát triển và ứng phó kịp thời với những thay đổi về chất lượng, giá cả ...cần tập trung máy móc thiết bị chế biến cà phê thô ngay từ khi mới thu hoạch, nhằm đảm bảo chất lượng ổn định, đồng đều. Đồng thời phải có dự án lựa chọn thiết bị hiện đại, đồng bộ và có hiệu quả cao kết hợp việc nghiên cứu áp dụng các thiết bị chế biến nhỏ, gọn ở khu vực cà phê tư nhân. Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh cà phê tập trung đầu tư trang thiết bị để chuyển từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu cà phê chế biến. Phải sử dụng thêm nhiều cụm chế biến công nghiệp bao gồm công nghệ chế biến ướt và khô, hệ thống sấy, xay xát, đánh bóng, sân phơi, nhà kho... Một việc không kém phần cấp bách là Tổng công ty cà phê Việt Nam phải sớm thành lập doanh nghiệp cơ khí thiết bị chế biến để sản xuất và cung ứng các máy móc thiết bị chuyên dùng trong công nghiệp cà phê. Đồng thời cần tập trung đầu tư vào xây dựng nhà máy chế biến cà phê hoà tan tại các vùng sản xuất cà phê lớn, cà phê hoà tan có giá trị xuất khẩu cao, giá cả ổn định, bảo quản lâu dài. Xây dựng hệ thống đồng bộ giữa các khâu Để cải thiện hệ thống thu mua phân phối cà phê, các doanh nghiệp cà phê cần tập trung cải tiến cách thức tổ chức thu mua cho phù hợp với từng vùng, từng loại cà phê, trước khi thu hoạch nên có những đầu tư cho nông dân một cách hợp lý, khi thu hoạch cần tập trung cao độ về vốn thu mua cà phê để thanh toán ngay cho nông dân. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng một hệ thống kho tàng phục vụ cho công tác chế biến bảo quản cà phê ngay từ đầu nhằm giữ cho chất lượng cà phê ngày càng cao, đảm bảo đủ chân hàng phục vụ tốt cho xuất khẩu. Ngoài ra, việc hoàn thiện hệ thống tổ chức các doanh nghiệp cà phê có tác dụng quan trọng đến phát triển ngành. Các doanh nghiệp sẽ thiết lập hệ thống marketing chuyên nghiên cứu về thị trường sản phẩm, giá cả và có kế hoạch quảng cáo khuyến mại cho phù hợp. Còn lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng vai trò như các vệ tinh chuyên tổ chức thu mua, chế biến và cung ứng hàng xuất khẩu. Để đạt được điều này các doang nghiệp xuất khẩu và các doang nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng hàng xuất khẩu phải gắn bó với nhau chặt chẽ, có kế hoạch phân chia lợi nhuận cụ thể. Các doanh nghiệp lớn có trách nhiệm đầu tư, hỗ trợ về vốn, cơ sở hạ tầng, những giải pháp cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm...cho người sản xuất và các doanh nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng, ngược lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ có trách nhiệm cung ứng hàng đảm bảo đúng chất lượng, mẫu mã theo yêu cầu xuất khẩu và đúng thời gian, địa điểm, có như vậy thì việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu cà phê mới hoạt động có hiệu quả, việc thâm nhập thị trường thế giới chắc chắn sẽ có những biến đổi mạng mẽ. Tổ chức hệ thống thu thập thông tin Kinh doanh cà phê của các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu bằng hình thức mua bán hợp đồng kỳ hạn, giá cả được xác định dựa vào giá giao dịch cà phê trong ngày của thị trường cà phê London ( đối với cà phê Robusta ) và thị trường New York ( đối với cà phê Arabica ). Yếu tố quan trọng nhất của hình thức kinh doanh này là thông tin và dữ liệu chính xác, kịp thời về thị trường thế giới để làm cơ sở phân tích dự đoán thị trường, ra quyết định mua bán. Đây là điều quan trọng nhất và cũng chính là điều chúng ta đang thiếu. Nguồn tin hạn hẹp duy nhất về thị trường thế giới mà các doanh nghiệp có là mua từ hãng tin Reuters. Từ nguồn tin này và một số nguồn tin hạn chế khác, kết hợp với kinh nghiệm và cảm tính kinh doanh của doanh nghiệp để quyết định mua bán đầy rủi ro. Như vậy để nâng cao hiệu quả kinh doanh, Nhà nước nên tổ chức hệ thống thu thập thông tin và phân tích thông tin để cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp làm cơ sở ra quyết định mua bán. Mô hình chợ giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột dự kiến xây dựng vào năm nay đáp ứng được những nhu cầu đặt ra. Chợ giao dịch tập trung hầu hết đại diện của các công ty kinh doanh cà phê toàn quốc. Tại đó người bán, người mua có thể tham khảo giá cả, thậm chí còn được tư vấn, cung cấp thông tin, dự báo cung cầu và biến động giá tăng giảm ra sao trong thời gian tới. Điều này giúp họ có nhiều cơ hội để lựa chọn, phán đoán và quyết định nên bán sản phẩm với giá bao nhiêu, cho đơn vị nào hoặc gửi hàng lại chờ giá lên...Theo ông Lý Thanh Tùng, giám đốc sở Thương mại-Du lịch Đăk Lăk, chợ giao dịch cà phê ra đời sẽ giải quyết cơ bản những hạn chế về thiếu thông tin cho người nông dân trồng cà phê hay các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cho rằng thành lập chợ giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột trong thời gian tới sẽ là bước tiến quan trọng mang tính đột phá trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê. Theo ông Văn Thành Huy, Giám đốc Công ty Đầu tư XNK Đăk Lăk Chợ giao dịch này sẽ là một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp xuất khẩu , đây là nơi mua bán bằng thương lượng theo trật tự, luật lệ mua bán công bằng, công khai. Mua bán trên thị trường kỳ hạn giúp nông dân có thể bảo hộ giá, đề phòng trường hợp giá bị sụt giảm, tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu cà phê có công cụ hạn chế, phòng chống rủi ro, tăng cường cạnh tranh trên thị trường kỳ hạn... Ngoài ra, các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài phải có nhiệm vụ hỗ trợ phát triển kinh tế trong nước thông qua việc cung cấp hiểu biết về đặc điểm thị trường ( luật pháp, chính sách kinh tế thương mại, các hiệp định mà Việt Nam đã ký, tập quán thị trường, các đối thủ cạnh tranh, hỗ trợ các vấn đề pháp lý trong tranh chấp thương mại...). Tổ chức tốt, chặt chẽ hệ thống thông tin sẽ giúp ngành cà phê Việt Nam vững vàng hơn trên con đường hội nhập quốc tế, luôn chủ động và sẵn sàng. Tăng cường hợp tác quốc tế Trên cơ sở đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước, mở rộng thị trường toàn cầu, tăng uy tín và vị thế cà phê Việt Nam là công việc không dễ dàng cần phải thực hiện. Khối lượng cà phê xuất khẩu ngày một lớn không thể thụ động ngồi chờ ai đến mua thì bán mà cần chủ động tạo thị trường, mở rộng thị trường. Đây là một trong những quốc sách lớn của Nhà nước và nhiệm vụ chung của các ngành các cấp. Nhà nước cần tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp ngành cà phê tiếp cận với thị trường nước ngoài thông qua hệ thống tham tán thương mại, qua hội chợ triển lãm thương mại quốc tế. Ngoài ra còn mở cơ quan đại diện và sử dụng các phương thức thương mại khác như đổi hàng, các Hiệp định Chính phủ, Bộ Thương mại. Cơ quan thường vụ ở các nước cần mở rộng hoạt động xúc tiến thương mại bằng nhiều hình thức để quảng bá cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Việt Nam đã gia nhập ICO, sẽ tham gia ACPC và những tổ chức quốc tế khác có liên quan để tăng cường hợp tác kinh tế thương mại, khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực. Tóm lại, EU là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu mặt hàng cà phê.Với thị trường khó tính này, ngành cà phê Việt Nam cần phải có những chính sách hợp lý và sự chuẩn bị thật kĩ lưỡng. KẾT LUẬN Trong những năm gần đây, Việt Nam nhanh chóng trở thành một trong những nước sản xuất cà phê hàng đầu. Với lợi thế so sánh về điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nhân lực dồi dào giá rẻ, năng suất lao động thuộc loại cao nhất nhì thế giới nên trong vòng 5 năm qua ngành cà phê Việt Nam đã chiếm được một thị phần đáng kể, có mặt 75 quốc gia, là ngành có nguồn thu ngoại tệ quan trọng sau thuỷ hải sản và gạo với thị trường lớn như EU, Hoa kỳ, Nhật Bản... Tuy nhiên, trước bối cảnh thị trường thế giới ngày càng cạnh tranh gay gắt và những lợi thế so sánh đang “ hao mòn” dần, đòi hỏi ngành cà phê phải có những chiến lược cạnh tranh thích hợp bảo đảm hiệu quả bền vững. Nếu không nguy cơ tụt hậu và phá sản có thể ập đến bất cứ lúc nào. Vậy nên, tìm kiếm và tiến hành các giải pháp để hạn chế, khắc phục những mặt còn kém yếu là công việc phải sớm thực hiện nếu muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành. Bên cạnh đó, sự ủng hộ, giúp đỡ, hỗ trợ từ phía nhà nước không bao giờ là thừa mà luôn luôn cần thiết. Tự bản thân mình cộng với sự hỗ trợ đó, trong tương lai không xa chắc chắn rằng cà phê Việt Nam sẽ tồn tại và phát triển nhanh chóng. Đây cũng là mong muốn chung cho các ngành, các mặt hàng tiềm năng và có triển vọng phát triển của Việt Nam. Toàn bộ bài viết trên phần nào cho thấy được tình hình chung về xuất khẩu cà phê ra thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Qua đó rút ra được những nguyên nhân và đề ra những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu cà phê sang thị trường EU. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Tiến Thỏa, “Nâng cao sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam- Một đòi hỏi bức xúc hiện nay.” , Tạp chí Thị trường giá cả, Số 9/2003. Thảo Vy, “Thị trường nội địa cho cà phê Việt Nam” Tạp chí Đầu tư số 8 tháng3/2003 TS. Lưu Văn Nghiêm, “ Những giải pháp trước mắt và lâu dài đối với cà phê Việt Nam.” Tạp chí Kinh tế và Dự báo , số 6/2001 “ Phân tích sự biến động của giá cà phê trên thế giới trong thời gian qua” Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 104/3/2007. “ Cà phê Việt Nam- thực té và những vấn đe đặt ra”, Báo con số và sự kiện, số 17/6/2007. Thanh Hằng, xuất khẩu cà phê Việt Nam chính sách, giải pháp và chiến lược phát triển, tạp chí Thông tin kinh tế số 12 tháng 6/2003 Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu cà phê, Báo thương mại, số 30/2006 Các Website: Tổng cụ thống kê: Hiệp hội cà phê Việt Nam: Xuất khẩu sang EU vẫn tăng mạnh : Thông tin giá cả thị trường: Năm 2008, cà phê Việt Nam vẫn dẫn đầu top CLB xuất khẩu 1 tỷ USD: Cà phê trong vòng xoáy trượt giá,: www.vietrade.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6168.DOC
Tài liệu liên quan