Tài liệu Đề tài Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh l ớp 12 trường trung học phổ thông dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường (khảo sát tại tỉnh Phú Thọ): ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRẦN ĐÌNH CHIẾN
XU HƢỚNG LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP
CỦA HỌC SINH LỚP 12 TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
DƢỚI ẢNH HƢỞNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
(KHẢO SÁT TẠI TỈNH PHÚ THỌ)
Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số: 60.14.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
GS.TSKH NGUYỄN VĂN HỘ
Thái Nguyên, năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
LỜI CẢM ƠN!
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Sau Đại học,
khoa Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo
điều kiện, giúp đỡ tác giả hoàn thành cuốn luận văn này.
Đặc biệt, tác giả xin chân thành cảm ơn GS.TSKH Nguyễn Văn Hộ, thầy
giáo đã giảng dạy và trực tiếp hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các thầy, cô giáo và các
em học sinh lớp 12 (khoá 2005 - 2008) các trường THPT Hạ Hoà, THPT Hùng
Vương, TH...
129 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh l ớp 12 trường trung học phổ thông dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường (khảo sát tại tỉnh Phú Thọ), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRẦN ĐÌNH CHIẾN
XU HƢỚNG LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP
CỦA HỌC SINH LỚP 12 TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
DƢỚI ẢNH HƢỞNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
(KHẢO SÁT TẠI TỈNH PHÚ THỌ)
Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số: 60.14.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
GS.TSKH NGUYỄN VĂN HỘ
Thái Nguyên, năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
LỜI CẢM ƠN!
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Sau Đại học,
khoa Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo
điều kiện, giúp đỡ tác giả hoàn thành cuốn luận văn này.
Đặc biệt, tác giả xin chân thành cảm ơn GS.TSKH Nguyễn Văn Hộ, thầy
giáo đã giảng dạy và trực tiếp hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các thầy, cô giáo và các
em học sinh lớp 12 (khoá 2005 - 2008) các trường THPT Hạ Hoà, THPT Hùng
Vương, THPT Việt Trì tỉnh Phú Thọ, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả
điều tra, khảo sát, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Dù đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế, tác giả rất mong được sự góp ý, chỉ dẫn của các thầy,
cô giáo và bạn bè đồng nghiệp.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
Trần Đình Chiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Mục lục
Trang
Mở đầu ................................................................................................ 6
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu ................................. 11
1.1. Tổng quan lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................ 11
1.1.1. Trên thế giới ................................................................................ 11
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam .......................................................... 13
1.2. Các khái niệm công cụ................................................................... 16
1.2.1. Xu hướng..................................................................................... 16
1.2.2. Nghề nghiệp và định hướng nghề nghiệp ...................................... 19
1.2.3. Xu hướng nghề nghiệp và năng lực nghề nghiệp ........................... 22
1.2.4. Sự phù hợp nghề .......................................................................... 26
1.2.5. Lựa chọn nghề nghiệp và những tính chất của nó .......................... 27
1.2.6. Khái niệm về KTTT và cơ chế thị trường....................................... 29
1.3. Sự tác động của nền KTTT đối với đời sống, xã hội nước ta .......... 30
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp
của HS THPT ......................................................................................
34
1.4. 1. Những đặc điểm cơ bản về tâm lý và nhân cách của HS THPT ..... 34
1.4.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của
HS THPT ..............................................................................................
40
1.4.3. Một số nguyên nhân dẫn đến sự sai lầm trong việc lựa chọn nghề
nghiệp của HS THPT.............................................................................
45
Chƣơng 2: Thực trạng xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp
12 trƣờng THPT dƣới ảnh hƣởng của nền KTTT ..............................
49
2.1. Vài nét về khách thể điều tra.......................................................... 49
2.2. Thực trạng xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12
trường THPT dưới ảnh hưởng của nền KTTT (khảo sát tại tỉnh
PhúThọ)...............................................................................................
50
2.2.1. Thực trạng về nhận thức và xu hướng lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh lớp 12..............................................................................
50
2.2.2. ý kiến của giáo viên làm công tác hướng nghiệp về xu hướng lựa
chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 hiện nay ..............................................
76
2.2.3. ý kiến của cha mẹ đối với việc lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp
12 hiện nay ...........................................................................................
84
2.3. Kết luận chương 2 ......................................................................... 89
Chƣơng 3: Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hƣớng nghiệp 91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
cho HS lớp 12 trƣờng THPT trong điều kiện KTTT hiện nay ............
3.1. Những cơ sở có tính nguyên tắc để xây dựng các biện pháp........... 91
3.1.1. Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính mục đích
của giáo dục hướng nghiệp....................................................................
91
3.1.2. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phải đảm bảo sự phù hợp với
những đặc điểm tâm lý và nhân cách của HS THPT................................
91
3.1.3. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phải đảm bảo sự phân hoá,
cá biệt hoá HS trong hoạt động hướng nghiệp ........................................
92
3.1.4. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính hệ thống
trong hoạt động GDHN .........................................................................
93
1.3.5. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp theo quan điểm tiếp cận hoạt
động và nhân cách ................................................................................
93
3.1.6. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính khả thi ..... 94
3.2. Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho HS
lớp 12 trường THPT trong điều kiện KTTT hiện nay ............................
94
3.2.1. Xây dựng bài học có nội dung giới thiệu về những lĩnh vực nghề
nghiệp cụ thể ........................................................................................
94
3.2.2. Tổ chức buổi toạ đàm ở lớp với chủ đề về nghề nghiệp và lựa
chọn nghề nghiệp ..................................................................................
96
3.2.3. Tổ chức cho HS tham quan tại các cơ sở sản xuất ........................ 97
3.2.4. Tổ chức hội nghị để trao đổi với cha mẹ học sinh về nghề nghiệp
tương lai của con em họ. .......................................................................
98
3.2.5. Lập hồ sơ hướng nghiệp chi tiết cho mỗi HS ................................. 100
3.3. Khảo nghiệm các biện pháp trên cơ sở lấy ý kiến chuyên gia ......... 101
3.3.1. Mục đích khảo nghiệm ................................................................. 102
3.3.2. Đối tượng khảo nghiệm ................................................................ 102
3.3.3. Quá trình tiến hành khảo nghiệm................................................. 102
3.3.4. Kết quả khảo nghiệm .................................................................. 102
3.4. Kết luận chương 3 ......................................................................... 106
Kết luận và khuyến nghị ..................................................................... 107
1. Kết luận ............................................................................................ 107
2. Khuyến nghị ...................................................................................... 108
Danh mục công trình khoa học đã công bố............................................. 110
Tài liệu tham khảo................................................................................. 111
Phụ lục ................................................................................................. 116
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
DANH MỤC CÁC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp
Giáo dục hƣớng nghiệp
Giáo viên
Học sinh
Giáo dục và đào tạo
Học sinh trung học cơ sở
Học sinh trung học phổ thông
Kinh tế thị trƣờng
Nhà xuất bản
Phổ thông cơ sở
Số lƣợng
Trung bình
Trung học phổ thông
Xã hội
Sản xuất
CNH - HĐH
ĐH,CĐ,THCN
GDHN
GV
HS
GD và ĐT
HS THCS
HS THPT
KTTT
Nxb
PTCS
SL
TB
THPT
XH
SX
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Trang
Bảng 2.1 :
Nhận thức của HS lớp 12 về mục đích của hoạt động giáo
dục hƣớng nghiệp trong trƣờng THPT 51
Bảng 2.2: Nhận thức của học sinh lớp 12 về tầm quan trọng của việc định
hƣớng nghề nghiệp cho học sinh lớp 12 trong trƣờng THPT 52
Bảng 2.3:
Thái độ và hành vi của HS lớp 12 khi tham gia các giờ học
(giờ sinh hoạt) hƣớng nghiệp 53
Bảng 2.4: Dự định lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 sau khi tốt
nghiệp THPT 56
Bảng 2.5: Những vấn đề HS lớp 12 có nhu cầu hoặc hứng thú 58
Bảng 2.6 : Mức độ ƣu tiên lựa chọn các ngành nghề (nhóm nghề) của
HS lớp 12 61
Bảng 2.7 : Lí do lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 63
Bảng 2.8 :
Yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh lớp 12 65
Bảng 2.9 : Những vấn đề HS lớp 12 quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp 68
Bảng 2.10:
Thái độ của HS lớp 12 đối với việc lựa chọn nghề nghiệp sau
khi tốt nghiệp THPT 72
Bảng 2.11: Những khó khăn HS lớp 12 gặp phải khi lựa chọn nghề nghiệp 75
Bảng 2.12: Thực tế và hiệu quả của việc tổ chức GDHN trong trƣờng
THPT theo sự đánh giá của giáo viên 77
Bảng 2.13:
Những yếu tố tác động đến xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp
của HS lớp 12 theo sự đánh giá của giáo viên 78
Bảng 2.14:
Những vấn đề HS lớp 12 quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp
theo ý kiến của giáo viên 79
Bảng 2.15: Xu hƣớng nghề nghiệp của HS lớp 12 sau khi tốt nghiệp THPT
theo ý kiến của giáo viên 80
Bảng 2.16:
Những nghề (hay nhóm nghề) đƣợc HS lớp 12 ƣu tiên lựa
chọn theo sự đánh giá của giáo viên 82
Bảng 2.17:
Sự ảnh hƣởng của phát triển KTTT hiện nay đối với HS lớp 12
theo ý kiến đánh giá của giáo viên 83
Bảng 4.1 :
Đánh giá của chuyên gia về sự phù hợp của những cơ sở có
tính nguyên tắc trong việc nghiên cứu xây dựng các biện pháp 103
Bảng 4.2 : Đánh giá của chuyên gia về sự phù hợp của các biện pháp 104
Bảng 4.3 :
Đánh giá của chuyên gia về mức độ hợp lý của các bƣớc
tiến hành những biện pháp 104
Bảng 4.4 : Đánh giá của chuyên gia về mức độ khả thi của các biện pháp 105
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Đất nƣớc ta đang bƣớc vào thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
(CNH - HĐH) với nền kinh tế mở, năng động bao gồm nhiều thành phần kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc. Sự phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế trong những năm qua cùng với sự hội nhập mạnh mẽ với
khu vực và thế giới đã có những tác động to lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Đồng thời vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đã và
đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết đƣợc Đảng, Nhà nƣớc và xã hội quan tâm
hàng đầu. Trong nghị quyết hội nghị lần thứ II, Ban chấp hành Trung Ƣơng Đảng
khoá VIII đã nhấn mạnh: “Muốn tiến hành CNH - HĐH thắng lợi phải phát triển
mạnh giáo dục đào tạo và phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của sự
phát triển nhanh và bền vững”. [59]. Điều đó có nghĩa là coi yếu tố con ngƣời là
trọng tâm của sự phát triển - yếu tố quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp CNH -
HĐH đất nƣớc. Vì vậy, việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ có đƣợc những phẩm chất và
năng lực nghề nghiệp vững chắc phù hợp với nhu cầu của các hoạt động kinh tế -
xã hội, khoa học, công nghệ là một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mang
tính chiến lƣợc. Trong văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã
chỉ rõ: “Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau trung học,
chuẩn bị cho thanh niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương”.[12]
1.2. Với ý nghĩa trên, hoạt động giáo dục hƣớng nghiệp cho học sinh trong nhà
trƣờng phổ thông giữ một vị trí, vai trò và nhiệm vụ rất quan trọng. Đây là một trong
những mặt giáo dục nhằm phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh. Giáo dục
hƣớng nghiệp nhằm mục đích giúp cho học sinh phổ thông (đặc biệt là các lớp cuối
cấp) có đƣợc sự hiểu biết cơ bản về các ngành nghề trong xã hội, hình thành hứng
thú và năng lực nghề từ đó lựa chọn cho mình một nghề nghiệp cụ thể trên cơ sở cân
nhắc kỹ lƣỡng phù hợp với nhu cầu, hứng thú, khả năng, năng lực sở trƣờng, sức
khoẻ của bản thân. sự lựa chọn nghề nghiệp một cách có ý thức, có cơ sở khoa học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
chính là điều kiện giúp cho cá nhân mỗi học sinh có thể phát huy đƣợc tối đa phẩm
chất và năng lực của mình trong học tập cũng nhƣ trong quá trình lao động sản xuất,
góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, đáp ứng tốt yêu cầu của đất nƣớc
trong sự nghiệp CNH - HĐH và thời kỳ hội nhập.
1.3. Trong nhà trƣờng Trung học phổ thông (THPT) hiện nay, giáo dục hƣớng
nghiệp (GDHN) đƣợc thực hiện thông qua nhiều hình thức nhƣ: Sinh hoạt hƣớng
nghiệp, hoạt động ngoại khoá, tích hợp và lồng ghép vào các môn học...Tuy nhiên,
so với các mặt giáo dục khác thì GDHN chƣa đƣợc quan tâm với đúng vị trí, vai
trò của nó, việc thực hiện và kiểm tra, đánh giá còn mang nặng tính hình thức.
Điều này đã khiến cả giáo viên và học sinh đều coi GDHN không thực sự là một
hoạt động chính yếu của quá trình dạy học và giáo dục trong nhà trƣờng, có nghĩa
là chƣa nhận thức đƣợc vai trò của GDHN dẫn đến hiệu quả của GDHN thấp. Bên
cạnh đó, nhƣ trên đã nói, nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta cùng với các quy luật của
nó đang phát triển rất mạnh và đang trên đà hoàn thiện, dẫn đến sự phát triển biến
đổi quá nhanh và “nóng” của khoa học công nghệ và nhiều lĩnh vực khác của đời
sống xã hội. Cùng với sự ảnh hƣởng từ mặt trái của kinh tế thị trƣờng (KTTT) đã
làm cho định hƣớng giá trị của giới trẻ có nhiều thay đổi. Điều này đã tác động
trực tiếp đến động cơ, xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của họ. Tất cả những điều
đó đã khiến phần lớn học sinh học xong trung học phổ thông (kể cả số học sinh đã
làm hồ sơ và thi Đại học, Cao đẳng) không tự đánh giá đƣợc năng lực, hứng thú, sở
trƣờng của mình để lựa chọn nghề nghiệp một cách đúng đắn hoặc không biết
chọn nghề gì. Rất nhiều học sinh khi đã đƣợc vào học các trƣờng chuyên nghiệp
mới nhận ra rằng mình không phù hợp với nghề đã chọn, dẫn đến tình trạng chán
nản, học tập không tiến bộ, bỏ học để tiếp tục thi vào các trƣờng khác. Điều này đã
gây ra nhiều vấn đề phức tạp cho xã hội nhƣ: chất lƣợng học tập kém, rèn luyện
kém dẫn đến chất lƣợng nguồn nhân lực yếu, làm lãng phí của cải thời gian, công
sức cho cả cá nhân học sinh, gia đình học sinh và cho xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Xu hƣớng lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 trƣờng Trung học phổ thông dƣới ảnh hƣởng của
nền kinh tế thị trƣờng” (Khảo sát tại tỉnh Phú Thọ).
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng về xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của học
sinh lớp 12 dƣới sự ảnh hƣởng của nền KTTT. Phát hiện các yếu tố cơ bản tác động
đến xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh làm cơ sở để xây dựng các biện
pháp tổ chức hoạt động GDHN phù hợp cho HS trong nền KTTT hiện nay. Góp
phần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của GDHN trong nhà trƣờng THPT.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với sự lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh lớp 12 trƣờng THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 trƣờng THPT dƣới sự ảnh
hƣởng của nền kinh tế thị trƣờng.
4. Giả thuyết khoa học
Xu hƣớng lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 hiện nay chịu ảnh hƣởng rất lớn
từ nền KTTT. Bên cạnh những ảnh hƣởng tích cực, những ảnh hƣởng tiêu cực từ
mặt trái của KTTT đã dẫn đến những quyết định lựa chọn nghề nghiệp sai lầm ở
rất nhiều học sinh lớp 12.
Vì vậy, nếu tìm hiểu đƣợc xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 dƣới
sự ảnh hƣởng của nền KTTT hiện nay, từ đó xây dựng các biện pháp GDHN một
cách khoa học, hợp lý thì sẽ giúp các em lựa chọn đƣợc nghề nghiệp đúng đắn, phù
hợp với bản thân và nhu cầu của xã hội, góp phần nâng cao chất lƣợng GDHN
trong nhà trƣờng THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh
lớp 12 dưới sự ảnh hưởng của nền KTTT.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
5.2. Điều tra, nghiên cứu, đánh giá thực trạng về xu hướng lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 (tại tỉnh Phú Thọ) dưới sự ảnh hưởng của nền KTTT.
5.3. Đề xuất các biện pháp hỗ trợ cho công tác GDHN trong nhà trường THPT
nhằm giúp HS lớp 12 lựa chọn đúng nghề nghiệp trong điều kiện KTTT hiện nay.
5.4. Khảo nghiệm các biện pháp trên cơ sở lấy ý kiến chuyên gia.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Sử dụng các phƣơng pháp: Phân tích tổng hợp lý thuyết, phân loại hệ thống
hoá và khái quát hoá lý thuyết trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu lý thuyết từ đó rút
ra các kết luận khoa học làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực trạng và đề
xuất các biện pháp của đề tài.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
* Phương pháp điều tra:
Dùng phiếu điều tra (Ankét) khảo sát thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của
học sinh lớp 12, giáo viên (GV) phụ trách công tác hƣớng nghiệp và cha mẹ học
sinh về xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 hiện nay, thực trạng về
xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 dƣới sự ảnh hƣởng của nền
KTTT.
* Phương pháp trao đổi, trò chuyện
Sử dụng phƣơng pháp này nhằm hỗ trợ cho phƣơng pháp điều tra. Qua trao
đổi, trò chuyện với HS và GV để tìm hiểu thêm những vấn đề liên quan đến điều
tra nhƣ: tâm tƣ, tình cảm, quan điểm, hoàn cảnh, điều kiện kinh tế gia đình HS, từ
đó chính xác hoá những vấn đề đã điều tra.
* Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Gặp gỡ trực tiếp các bộ quản lý giáo dục và những giáo viên có kinh nghiệm
trong công tác GDHN để điều tra, trao đổi, xin ý kiến về những vấn đề có liên
quan đến đề tài, đặc biệt là về thực trạng, đánh giá thực trạng, xây dựng, đề xuất
các biện pháp và khảo nghiệm các biện pháp của đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
6.3. Các phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng các phƣơng pháp thống kê toán học để xử lý số liệu, là cơ sở để đánh
giá thực trạng và xây dựng các biện pháp của đề tài.
7. Phạm vi giới hạn của đề tài
Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với sự lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh lớp 12 là một vấn đề rất quan trọng và phức tạp. Căn cứ vào điều kiện và
khả năng thực hiện đề tài, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu xu hƣớng lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 dƣới sự ảnh hƣởng của nền KTTT tại các trƣờng THPT
tiêu biểu cho 3 vùng địa lý (Miền núi, trung du và đồng bằng) của tỉnh Phú Thọ.
8. Cấu trúc của luận văn
Nội dung cơ bản của luận văn đƣợc trình bày trong 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Chƣơng 2: Thực trạng xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 dƣói
sự ảnh hƣởng của nền KTTT.
- Chƣơng 3: Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hƣớng nghiệp cho HS
lớp 12 trƣờng THPT trong điều kiện KTTT hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới:
Có thể nói những tƣ tƣởng về định hƣớng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ đã có từ
thời cổ đại, tuy nhiên ở dƣới dạng rất sơ khai và biểu hiện thông qua việc phân
chia, phân cấp lao động tuỳ thuộc vào địa vị và nguồn gốc xuất thân của mỗi ngƣời
trong xã hội. Điều này thể hiện rõ tính áp đặt của giai cấp thống trị và sự bất bình
đẳng trong phân công lao động xã hội. Đến thế kỷ XIX, khi nền sản xuất xã hội
phát triển cùng với những tƣ tƣởng tích cực về giải phóng con ngƣời trên khắp thế
giới thì khoa học hƣớng nghiệp mới thực sự trở thành một khoa học độc lập.
Cuốn sách “Hƣớng dẫn chọn nghề” xuất bản năm 1948 ở Pháp đƣợc xem là
cuốn sách đầu tiên nói về hƣớng nghiệp. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến sự phát
triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp từ đó
đã rút ra những kết luận coi giáo dục hƣớng nghiệp là một vấn đề quan trọng không
thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và cũng là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển.
Năm 1980 James McKeen Cattell - một trong những ngƣời tiên phong của
khoa học hƣớng nghiệp, giáo sƣ tâm lý học của Đại học Pensylvania (Mĩ) đã mở
màn bằng việc xây dựng các test đầu tiên để đo lƣờng và đánh giá các thành công
học đƣờng của sinh viên. Năm 1909 Frank Parsons cũng là giáo sƣ Đại học
Pensylvania đã xuất bản cuốn “Lựa chọn một nghề nghiệp” (Choosing Vocation),
về sau vào những năm 1930, thế giới phƣơng Tây đã tôn vinh cuốn sách này nhƣ là
một công trình nền tảng của ngành tƣ vấn hƣớng nghiệp. Cuốn sách đã trình bày cơ
sở tâm lý học của hƣớng nghiệp và chọn nghề, các tiêu chí về sự phù hợp nghề của
mỗi cá nhân để từ đó có sự lựa chọn phù hợp. Vào những năm 1940, nhà tâm lý
học Mỹ J.L Holland đã nghiên cứu và thừa nhận sự tồn tại của các loại nhân cách
và sở thích nghề nghiệp tác giả đã chỉ ra tƣơng ứng với mỗi kiểu nhân cách nghề
nghiệp đó là một số những nghề nghiệp mà cá nhân có thể chọn để có đƣợc kết quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
làm việc cao nhất. Lý thuyết này của J.L Holland đã đƣợc sử dụng rộng rãi nhất
trong thực tiễn hƣớng nghiệp trên thế giới.[69]
ở Liên Xô (cũ) vào những năm 29, 30 của thế kỷ XX, vấn đề hƣớng nghiệp
cho HS cũng đƣợc các nhà khoa học và lãnh đạo chính quyền Xô viết đặc biệt
quan tâm. V.I Lênin đã có chỉ thị yêu cầu phải cho HS làm quen với khoa học kỹ
thuật, làm quen với cơ sở của nền sản xuất hiện đại. N.K Crupxkaia - nhà giáo dục
học lỗi lạc đã từng nêu lên luận điểm “Tự do chọn nghề” cho mỗi thanh, thiếu niên.
Theo bà, thông qua hƣớng nghiệp, mỗi trẻ em phải nhận thức sâu sắc hƣớng phát
triển kinh tế của đất nƣớc, những nhu cầu của nền sản xuất cần đƣợc yêu cầu mà xã
hội đề ra trƣớc các em trong lĩnh vực lao động sản xuất. Mặt khác, công tác hƣớng
nghiệp lại phải giúp cho trẻ em phát triển đƣợc hứng thú và năng lực nghề nghiệp,
giáo dục cho các em thái độ lao động đúng đắn, động cơ chọn nghề trong sáng. Từ
đó các em có thái độ tự giác trong việc chọn nghề.
Trên cơ sở các luận điểm về hƣớng nghiệp của C.Mác và V.I Lênin các nhà
giáo dục Liên xô nhƣ B.F Kapêep; X.Ia Batƣsep; X.A Sapôrinxki; V.A Pôliacôp
trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra mối quan hệ giữa
hƣớng nghiệp và các hoạt động sản xuất XH, và nếu sớm thực hiện giáo dục hƣớng
nghiệp cho thế hệ trẻ thì đó sẽ là cơ sở để họ chọn nghề đúng đắn, có sự phù hợp
giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội. Đồng thời các tác giả này cũng
đã trình bày những nguyên tắc, phƣơng pháp thực hành lao động nghề nghiệp cho
HS phổ thông tại các cơ sở học tập - lao động liên trƣờng.
Trong giai đoạn hiện nay, trên thế giới nền sản xuất công nghiệp và hậu
công nghiệp đã phát triển cao, trong xã hội xuất hiện thêm nhiều ngành nghề mới,
sự phân hoá lao động đã khiến hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm
đến công tác hƣớng nghiệp. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học hƣớng nghiệp, mở các
trung tâm tƣ vấn hƣớng nghiệp và đào tạo giáo viên, chuyên gia tƣ vấn hƣớng
nghiệp trong và ngoài trƣờng Đại học. Ví dụ nhƣ các trung tâm INETOP ( Viện
nghiên cứu quốc gia về lao động và hƣớng nghiệp ) và CNAM (Học viện quốc gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
về nghệ thuật và nghề nghiệp ) của Pháp. Chƣơng trình đào tạo chuyên gia hƣớng
nghiệp của họ bắt đầu có mặt tại Việt Nam. [61], [63]
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam:
ở Việt Nam giáo dục hƣớng nghiệp tuy đƣợc xếp ngang tầm quan trọng với các
mặt giáo dục khác nhƣ đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục nhƣng bản thân nó lại rất
non trẻ, mới mẻ cả về nhận thức, lý luận và thực tiễn, rất thiếu về lực lƣợng, không
mang tính chuyên nghiệp... Vì vậy, việc thực hiện không mang lại nhiều hiệu quả.
Vấn đề hƣớng nghiệp chỉ thực sự nóng lên và đƣợc xã hội quan tâm khi nền kinh tế
đất nƣớc bƣớc sang cơ chế thị trƣờng với sự đa dạng của các ngành nghề và nhu cầu
rất lớn về chất lƣợng nguồn nhân lực. Nếu so với sự ra đời của nền giáo dục XHCN
sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thì những tƣ tƣởng về hƣớng nghiệp cho học
sinh cũng xuất hiện khá sớm. Cho đến trƣớc những năm 1970 thì những tƣ tƣởng
này chủ yếu dừng lại ở các quan điểm, chỉ thị, nghị quyết mang tính chỉ đạo lãnh
đạo của Đảng, Nhà nƣớc và Bác Hồ chứ chƣa phải là luận điểm mang tính khoa học
hay những nghiên cứu khoa học thực sự.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có lẽ là ngƣời đầu tiên quan tâm đến công tác hƣớng
nghiệp cho HS. Trong bài viết “Học sinh và lao động” (bài viết tay năm 1957 hiện
lƣu giữ ở bảo tàng Hồ Chí Minh). Bác viết “Thi đỗ tiểu học rồi thì muốn lên trung
học, đỗ trung học rồi thì muốn lên đại học. Riêng về mỗi cá nhân của người học
sinh thì ý muốn ấy không có gì lạ. Nhưng chung đối với nhà nước thì ý muốn ấy
thành vô lý. Vì ở bất kỳ nước nào số trường trung học cũng ít hơn trường tiểu học,
trường đại học lại càng ít hơn trường trung học. Thế thì những học trò tiểu học và
trung học không được chuyển cấp sẽ làm gì”? Câu hỏi này của Bác thực sự trở
thành một vấn đề khoa học và mang tính thời sự cho đến ngày nay. Bác đã gạch
chân câu trả lời “họ sẽ lao động” để khẳng định một cách chắc chắn rằng con
đƣờng lao động là con đƣờng đúng đắn nhất để các em tiếp tục phấn đấu vƣơn lên
chứ không nhất thiết là phải vào trƣờng đại học. Trong bài báo “Học hay, cày giỏi”
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đề cập đến một yếu tố kỹ thuật sản xuất công
nghiệp và nông nghiệp” và “những ngành sản xuất chủ yếu” trong xã hội.[66]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Đảng và Nhà nƣớc ta cũng rất quan tâm công tác hƣớng nghiệp, điều này
đƣợc thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết, văn kiện, các nguyên lý giáo dục của
Đảng và nhà nƣớc. Có thể lấy ví dụ nhƣ nghị định 126/CP ngày 19/03/1981 của
chính phủ về công tác hƣớng nghiệp trong trƣờng phổ thông và việc sử dụng hợp
lý HS các cấp PTCS và THPT tốt nghiệp ra trƣờng”. Trong văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ IX đã ghi rõ “Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng HS trung
học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương” [12]. Luật giáo
dục năm 2005 đã khẳng định: “Giáo dục THPT nhằm giúp cho HS củng cố và phát
triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học vấn để tiếp tục học đại học, cao
đẳng, trung học nghề nhiệp, học nghề, và đi vào cuộc sống lao động”[57]. Chiến
lƣợc phát triển giáo dục năm 2001 - 2010 đã xác định rõ: “Thực hiện chương trình
phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho HS có học vấn phổ thông, cơ bản theo một
chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi HS,
giúp HS có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phân luồng sau THPT, để HS vào đời hoặc chọn ngành nghề học
tiếp sau khi tốt nghiệp”[4].
Về mặt nghiên cứu khoa học hƣớng nghiệp ở Việt Nam, theo các chuyên gia
thì ngành hƣớng nghiệp Việt Nam đã có những bƣớc phát triển mạnh mẽ vào
những năm 1970, 1980. Những nhà khoa học tiên phong phải kể đến GS. Phạm Tất
Dong, PGS. Đặng Danh ánh, GS. Phạm Huy Thụ, GS. Nguyễn Văn Hộ.
GS. Phạm Tất Dong là ngƣời có những đóng góp rất lớn cho giáo dục hƣớng
nghiệp Việt Nam, ông đã dày công nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn cho
giáo dục hƣớng nghiệp nhƣ xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hƣớng nghiệp;
hứng thú, nhu cầu và động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan điểm, nguyên tắc
hƣớng nghiệp, các nội dung, phƣơng pháp, biện pháp giáo dục hƣớng nghiệp...
Điều này đƣợc thể hiện ở rất nhiều các báo cáo, bài báo, sách, giáo trình của ông
nhƣ bài: “hướng nghiệp cho thanh niên”, đăng trên tạp chí Thanh Niên số 8 năm
1982; Báo cáo: “Một con đường hình thành lý tưởng nghề nghiệp cho HS lớn”; các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
tác phẩm nhƣ: “Nghề nghiệp tƣơng lai - giúp bạn chọn nghề” hay cuốn “Tƣ vấn
hƣớng nghiệp - sự lựa chọn cho tƣơng lai”. Trong một công trình nghiên cứu gần
đây ông đã chỉ ra rằng: “Công tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc chọn
nghề của thanh niên theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế”. Bởi vì theo tác giả,
đất nƣớc đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH, trong quá trình
CNH - HĐH, cơ cấu kinh tế sẽ chuyển theo hƣớng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng
tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ. Xu hƣớng chọn nghề của thanh niên phù hợp với xu
hƣớng chuyển cơ cấu kinh tế là một yêu cầu của công nghiệp. [25]
GS. Nguyễn Văn Hộ cũng là một trong những ngƣời rất tâm đắc và nghiên
cứu chuyên sâu về giáo dục hƣớng nghiệp. Trong luận án tiến sĩ của mình tác giả
đã đề cập đến vấn đề: “Thiết lập và phát triển hệ thống hƣớng nghiệp cho HS Việt
Nam”. Tác giả đã xây dựng đƣợc luận chứng cho hệ thống GDHN trong điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Gần đây (2006), ông cũng đã cho xuất bản
cuốn sách: “Hoạt động giáo dục hƣớng nghiệp và giảng dạy kĩ thuật trong trƣờng
THPT”, cuốn sách đã trình bày một cách hệ thống về cơ sở lí luận của giáo dục
hƣớng nghiệp, vấn đề tổ chức giáo dục hƣớng nghiệp trong trƣờng THPT và giảng
dạy kĩ thuật ở nhà trƣờng THPT trong điều kiện kinh tế thị trƣờng và sự nghiệp
CNH - HĐH đất nƣớc hiện nay.
Trong thời gian gần đây nhằm hiện thực hoá những phƣơng hƣớng, mục tiêu
mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra về giáo dục hƣớng nghiệp và phân
luồng HS phổ thông. Đã có rất nhiều những nghiên cứu về hƣớng nghiệp ở nhiều
cách tiếp cận khác nhau tạo nên một giai đoạn mới với sự đa dạng trong nghiên
cứu khoa học hƣớng nghiệp ở Việt Nam. Có thể kể đến nhƣ tác giả Trần Quốc
Thành có bài: “Định hướng giá trị nghề nghiệp của HS lớp 12 THPT một số tỉnh
miền núi phía Bắc”, đăng trên tạp chí tâm lí học (2002). Bài: “Những nguyên nhân
ảnh hưởng tới sự định hướng trong việc học tập, chọn nghề ở HS THPT”, của tác
giả Phạm Thị Đức đăng trên tạp chí giáo dục (2002). Bài: “Giáo dục hướng nghiệp
cho HS phổ thông với việc phát triển nguồn nhân lực” của tác giả Nguyễn Sinh
Huy, Nguyễn Văn Lê đăng trên tạp chí phát triển GD (2004). Bài: “Để nâng cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong tình hình mới” của các tác giả Nguyễn
Văn Lê, Hà Thế Truyền đăng trên tạp chí giáo dục (2004) v.v. Các tác giả trên đã
có những nghiên cứu mang tính thực tiễn tập trung vào các vấn đề nóng bỏng của
công tác hƣớng nghiệp hiện nay đó là xu hƣớng, động cơ lựa chọn nghề của lớp
trẻ, những định hƣớng giá trị của thanh niên, những nguyên nhân dẫn đến xu
hƣớng, động cơ chọn nghề và định hƣớng giá trị đồng thời nghiên cứu mối quan hệ
giữa giáo dục hƣớng nghiệp và vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ đất nƣớc
trong thời kì CNH - HĐH. Từ đó có những biện pháp, giải pháp phù hợp nhằm
nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó còn phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả Đặng
Danh ánh, Nguyễn Thế Trƣờng, Phạm Huy Thụ, Nguyễn Minh An, Lê Đức Phúc...
đã làm rõ đƣợc các thực trạng, những số liệu, những kinh nghiệm giáo dục hƣớng
nghiệp và dạy nghề cho HS phổ thông. Đồng thời cũng đề cập và làm rõ đƣợc các
vấn đề nhƣ tổ chức lao động cho HS phổ thông, tƣ vấn nghề cho học sinh phổ
thông, các phƣơng thức giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hƣớng nghiệp trong nhà
trƣờng phổ thông và trung tâm kỹ thuật tổng hợp hƣớng nghiệp.
Dƣới góc độ xem xét giáo dục hƣớng nghiệp là 1 hệ thống trong đó xu hƣớng
chọn nghề của HS là một thành tố quan trọng, nó có mối quan hệ tác động với
nhiều thành tố khác mà đặc biệt là với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng và hiệu
quả công tác hƣớng nghiệp cho HS lớp 12 trƣờng THPT trong điều kiện KTTT và
sự nghiệp CNH - HĐH đất nƣớc hiện nay.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Xu hướng
1.2.1.1. Khái niệm xu hướng: Xu hƣớng là một khái niệm tâm lý học khá phức
tạp, vì vậy cũng có nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau.
Theo đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Nhƣ ý (chủ biên), Nxb Văn hoá thông
tin, (1998) thì xu hƣớng là: Hƣớng đi tới, thể hiện khá rõ thực chất của nó. Ví dụ:
Xu hƣớng chính trị, xu hƣớng nghề nghiệp...[58]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Theo lý thuyết hoạt động trong trong tâm lý học, nhân cách của con ngƣời có
bốn nhóm thuộc tính tâm lý điển hình: Xu hƣớng, tính cách, khí chất, năng lực. Xu
hƣớng nói lên chiều hƣớng phát triển của nhân cách con ngƣời, bởi vì hoạt động
của cá nhân trong xã hội bao giờ cũng hƣớng về một mục tiêu nào đó. Không thể
có hoạt động không có phƣơng hƣớng (Tức là không có mục tiêu, không có đối
tƣợng). Sự hƣớng tới này đƣợc phản ánh trong tâm lý mỗi ngƣời nhƣ là xu hƣớng
của nhân cách. Cá nhân có thể hƣớng hoạt động của mình vào một sự vật cụ thể,
một tri thức khoa học hoặc một tƣ tƣởng chính trị đồng thời thúc đẩy hoạt động
nhằm từng bƣớc chiếm lĩnh chúng. Chính vì vậy nhà tâm lý học Liên Xô
X.L.Rubinstein đã khẳng định: “Vấn đề xu hướng trước hết là câu hỏi về khuynh
hướng thúc đẩy như là động cơ quy định hoạt động của con người”. Mỗi ngƣời
hƣớng hoạt động của mình vào cái gì, điều đó phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát
triển của nhận thức và tình cảm đối với cái đó. [53]
Nói tóm lại, xu hƣớng là sự xác định mục đích mà cá nhân hƣớng tới đồng
thời xác định hệ thống động cơ tƣơng ứng với hoạt động của con ngƣời nhằm đạt
mục đích. Xu hƣớng của con ngƣời đƣợc biểu hiện ở các mặt sau:
* Nhu cầu: Là sự đòi hỏi tất yếu mà con ngƣời thấy cần đƣợc thoả mãn để tồn
tại và phát triển. Nhu cầu của con ngƣời cũng rất đa dạng: Nhu cầu vật chất gắn
liền với sự tồn tại của cơ thể nhƣ nhu cầu ăn, ở, mặc. Còn nhu cầu tinh thần gắn
liền với sự phát triển của cá nhân nhƣ nhu cầu nhận thức, lao động, giao tiếp, thẩm
mỹ...
* Hứng thú: Là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tƣợng nào đó, vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống vừa mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt
động. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, tăng tính tự giác và tích cực
trong hành động vì vậy hứng thú làm tăng hiệu quả của hoạt động. Cùng với nhu
cầu, hứng thú là một thành phần trong hệ thống động cơ của nhân cách.
* Lý tưởng: Là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực, tƣơng đối hoàn
chỉnh, có sức lôi cuốn con ngƣời vƣơn tới nó. Có nghĩa là ý tƣởng thể hiện ý muốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
của con ngƣời vƣơn tới một cái gì đó hoàn chỉnh và mẫu mực nhƣng chƣa đạt
đƣợc.
* Thế giới quan: Là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xác
định phƣơng châm hành động của con ngƣời. Nói một cách cụ thể thì thế giới quan
của cá nhân là cách nhìn nhận, xem xét, hiểu biết, đánh giá về thế giới của cá nhân.
* Niềm tin: Là một sản phẩm của thế giới quan, là kết tinh các quan điểm, tri
thức, rung cảm, ý chí đƣợc con ngƣời thể nghiệm, trở thành chân lý bền vững trong
mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho con ngƣời nghị lực, ý chí để hành động theo quan
điểm của mình, là lẽ sống của con ngƣời. [53]
1.2.1.2. Vai trò của xu hướng trong cấu trúc nhân cách của cá nhân:
Có thể khẳng định chắc chắn rằng xu hƣớng của cá nhân không tách khỏi hoạt
động nhằm đạt tới mục tiêu mà cá nhân đang hƣớng tới. Xu hƣớng chính là một
hay một nhóm động cơ chiếm địa vị thống trị chi phối các động cơ khác của hoạt
động này. Trong ý nghĩa đó, xu hƣớng giữ vị trí điểm nút trong mạng lƣới các mối
quan hệ giữa các thuộc tính trong cấu trúc nhân cách. Nói một cách khác, xu
hƣớng làm nhiệm vụ định hƣớng, điểu khiển, điều chỉnh sự hình thành và phát
triển toàn bộ các thuộc tính của nhân cách làm cho chúng kết hợp hài hoà với nhau
thành một chỉnh thể trọn vẹn. Một khái niệm thống nhất không thể chia cắt đƣợc.
Nói tóm lại, xu hƣớng (với ý nghĩa là động cơ của hoạt động) giữ vị trí trung
tâm trong cấu trúc của nhân cách. Nó quyết định sự hình thành và phát triển toàn
bộ cấu trúc nhân cách nhƣ một chỉnh thể trọn vẹn, cũng nhƣ quyết định sự hình
thành và phát triển mỗi yếu tố tổng hợp thành nhân cách ấy. Nói đến xu hƣớng là
nói đến bộ phận hợp thành quan trọng nhất trong cấu trúc nhân cách. Vì thế nhà
giáo dục nổi tiếng A.X Makarenkô đã rất có lý khi ông cho rằng “Toàn bộ công
việc giáo dục nhân cách con người được qui tụ về việc giáo dục nhu cầu (một mặt
biểu hiện của xu hướng) đúng đắn của nó”. [53]
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa xu hướng và năng lực của cá nhân:
Xu hƣớng của cá nhân có quan hệ rất chặt chẽ với năng lực. Xu hƣớng đối với
một hoạt động nào đó thƣờng ăn khớp với năng lực trong lĩnh vực hoạt động đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Xu hƣớng có ảnh hƣớng tới sự phát triển của năng lực. Vì sự lôi kéo, hấp dẫn đối
với con ngƣời càng cao, thì con ngƣời càng thƣờng xuyên hƣớng sức lực của mình
vào hoạt động.
Lịch sử phát triển của khoa học cho phép nói rằng, sự say mê, hứng thú đối
với công việc là điều kiện bất di bất dịch của sự thể hiện các năng lực, là điều kiện
hình thành tài năng. Nhu cầu (một mặt biểu hiện của xu hƣớng) đối với một hoạt
động nào đó đƣợc con ngƣời ý thức góp phần hình thành năng lực. Khi xem xét
mối quan hệ giữa xu hƣớng và năng lực phải có quan điểm biện chứng. Xu hƣớng
của hoạt động dẫn đến việc hình thành năng lực và có năng lực rồi thì dễ đạt kết
quả cao trong hoạt động. Chính kết quả cao này lại góp phần củng cố xu hƣớng
hoạt động nói chung và hứng thú nói riêng. Tuy nhiên, có hứng thú nhƣng chƣa
chắc đã có năng lực trong lĩnh vực hoạt động nào đó. Bởi vì có hứng thú nhƣng
không có điều kiện để thực hiện hứng thú. Nhƣng có năng lực về cái gì đó thì sớm
muộn cũng hình thành hứng thú tƣơng ứng.
Nhƣ vậy xu hƣớng và năng lực có quan hệ chặt chẽ với nhau nhƣng không
đồng nhất. Việc nắm đƣợc mối quan hệ này là rất có ý nghĩa đối với nhà giáo dục
trong công tác phát hiện và bồi dƣỡng những học sinh có năng lực làm cơ sở cho
công tác tƣ vấn và định hƣớng nghề nghiệp cho các em. [23]
1.2.2. Nghề nghiệp và định hướng nghề nghiệp
1.2.2.1. Nghề nghiệp và việc làm:
Nghề hay nghiệp, đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Nhƣ ý chủ biên, Nxb Văn
hoá thông tin - 1998) định nghĩa: “Nghề: Công việc chuyên làm theo sự phân công
của xã hội”; còn “Nghề nghiệp là nghề nói chung”.[58]. Từ điển Tiếng Việt (Văn
Tân chủ biên, Nxb Khoa học xã hội - 1991) thì định nghĩa: “Nghề là công việc
hàng ngày làm để sinh nhai”, “Nghề nghiệp: là nghề làm để mƣu sống”, còn từ
điển Larousse của Pháp định nghĩa: “Nghề nghiệp (Profession) là hoạt động
thƣờng ngày đƣợc thực hiện bởi con ngƣời nhằm tự tạo nguồn thu nhập cần thiết
để tồn tại”. [21]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Theo E.A Klimôp: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức mạnh vật chất
và tinh thần của con ngƣời một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân
công lao động xã hội mà có). Nó tạo cho mỗi con ngƣời khả năng sử dụng phƣơng
tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển”. [28]
Theo GS. TSKH Nguyễn Văn Hộ: “Nghề nghiệp nhƣ là một dạng lao động
vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội ), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản
thân) trong đó con ngƣời với tƣ cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thoả mãn
những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân”. [21]
Từ một số quan niệm về nghề nghiệp nêu trên, có thể hiểu một cách ngắn
gọn, nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi ở con người một quá trình đào tạo
chuyên biệt, có những kiến thức, kỹ năng, kĩ xảo chuyên môn nhất định, có phẩm
chất, đạo đức phù hợp với yêu cầu của dạng lao động tương ứng. Nhờ quá trình
hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo ra sản phẩm thoả mãn những nhu
cầu vật chất, tinh thần của cá nhân và xã hội.
Nghề nghiệp của một ngƣời có thể do đƣợc đào tạo chính thức về nghề đó vì
nghề đòi hỏi một trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhất định. Cũng có thể có nghề
đƣợc hình thành tự phát do tích luỹ kinh nghiệm xã hội hoặc do truyền và học nghề
theo cách kèm cặp giữa ngƣời biết nghề và ngƣời chƣa biết. Các nghề này chƣa có
quy trình đào tạo rõ rệt.
Nghề đƣợc đào tạo có đặc trƣng là ngƣời làm nghề phải đƣợc cung cấp trình
độ tri thức kĩ năng, kĩ xảo hành nghề, làm ra sản phẩm để trao đổi trên thị trƣờng,
thu nhập của ngƣời lao động chính là nguồn sống của họ. Chính vì vậy mà họ trở
thành đối tƣợng hoạt động cơ bản, lâu dài của lý tƣởng nghề nghiệp, từ đó hình
thành nhân cách nghề nghiệp. Nghề đƣợc đào tạo đòi hỏi ngƣời vào học nghề đó
phải có trình độ học vấn, sức khỏe và yêu cầu tâm lý phù hợp với nghề. Sau quá
trình đào tạo, ngƣời đó phải đạt đƣợc tiêu chuẩn quốc gia về kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo tay nghề theo mục tiêu xã hội đòi hỏi, đƣợc cấp bằng hay chứng chỉ về nghề.
Đi đôi với khái niệm nghề nghiệp là khái niệm về việc làm. Việc làm, theo
đại từ điển Tiếng Việt (đã dẫn): “Việc làm là công việc, nghề nghiệp thƣờng ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
để sinh sống”. Còn từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên - Nxb Khoa học xã
hội - 1994) lại định nghĩa “Việc làm: công việc đƣợc giao cho làm và trả
công”.[35]. Trong luật lao động qui định tại điều 13: “Mọi hoạt động lao động tạo
ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều đƣợc thừa nhận là việc làm”. Nhƣ
vậy hai khái niệm nghề nghiệp và việc làm là rất gần nhau, có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau nhƣng không đồng nhất. Nghề nghiệp đƣợc coi là việc làm nhƣng
không phải việc làm nào cũng là nghề nghiệp. Những việc làm nhất thời, không ổn
định do con ngƣời bỏ sức lao động giản đơn và đƣợc trả công để sinh sống thì
không phải là nghề nghiệp. [8], [21]
1.2.2.2. Giáo dục hướng nghiệp:
Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, cách tiếp cận, các tiêu chí... mà có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm hƣớng nghiệp.
Các nhà tâm lý học cho rằng đó là hệ thống các biện pháp sƣ phạm, y học
giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã hội và năng lực của bản
thân. Các nhà kinh tế học thì cho rằng đó là những mối quan hệ kinh tế giúp cho
mỗi thành viên trong xã hội phát triển năng lực đối với lao động và đƣa họ vào một
lĩnh vực hoạt động cụ thể phù hợp với việc phân bố lực lƣợng lao động xã hội.
Nhà tâm lý học K. K. Platônôp cho rằng: “Hướng nghiệp, đó là hệ thống các
biện pháp tâm lý - giáo dục, y học nhằm giúp cho con người đi vào cuộc sống
thông qua việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu xuất hiện,
vừa phù hợp với hứng thú, năng lực của bản thân. Những biện pháp này sẽ tạo nên
sự thống nhất giữa quyền lợi của XH với quyền lợi của cá nhân”. Còn viện sĩ X. Ia.
Batƣsep xác định: “Hướng nghiệp là một hoạt động hợp lý gắn với sự hình thành ở
thế hệ trẻ hứng thú và sở thích nghề nghiệp vừa phù hợp với những năng lực cá
nhân, vừa đáp ứng đòi hỏi của xã hội đối với nghề này hay nghề khác” . [9], [21]
Theo GS. TS. Phạm Tất Dong, khái niệm hƣớng nghiệp đƣợc hiểu trên hai
bình diện:
* Trên bình diện xã hội: hƣớng nghiệp nhƣ là một hệ thống tác động của xã hội về
giáo dục, y học, xã hội học, kinh tế học... nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn đƣợc nghề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
vừa phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trƣờng của cá nhân, vừa đáp
ứng đƣợc nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.
* Trên bình diện trường phổ thông: Hƣớng nghiệp đƣợc coi là công việc của tập thể
giáo viên, tập thể sƣ phạm, có mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp
các em tự quyết định nghề nghiệp tƣơng lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực,
hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội. [9]
Hội nghị lần thứ IX những ngƣời đứng đầu cơ quan giáo dục nghề nghiệp các
nƣớc xã hội chủ nghĩa họp tại La Habana - Cu ba (Tháng 10/1980) đã thống nhất về
khái niệm hƣớng nghiệp nhƣ sau: “Hướng nghiệp là hệ thống những biện pháp dựa
trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, y học và nhiều khoa học khác để giúp đỡ học sinh
chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội, đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng, thích
hợp với những năng lực, sở trường và tâm, sinh lý cá nhân, nhằm mục đích phân bố
hợp lí và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động dự trữ có sẵn của đất nước”. [21]
Qua những quan điểm về khái niệm hƣớng nghiệp nêu trên, có thể hiểu một
cách ngắn gọn, dƣới góc độ giáo dục phổ thông, hƣớng nghiệp là sự tác động của
một tổ hợp các lực lƣợng xã hội, lấy sự chỉ đạo của một hệ thống sƣ phạm làm
trung tâm (nhà trƣờng) vào thế hệ trẻ, giúp các em làm quen và hiểu biết về một số
ngành nghề phổ biến trong xã hội để khi tốt nghiệp ra trƣờng, các em có thể lựa
chọn cho mình một cách có ý thức nghề nghiệp tƣơng lai.
1.2.3. Xu hướng nghề nghiệp và năng lực nghề nghiệp
1.2.3.1. Xu hướng nghề nghiệp:
Có thể nói cho đến nay vẫn chƣa có tác giả nào đƣa ra một khái niệm cụ thể về
xu hƣớng nghề nghiệp. Khi nghiên cứu vấn đề này các nhà khoa học thƣờng tiếp cận
trực tiếp các yếu tố cấu thành của xu hƣớng nhƣ: Nhu cầu nghề nghiệp, động cơ
nghề nghiệp, hứng thú nghề nghiệp, lý tƣởng nghề nghiệp, nguyện vọng nghề
nghiệp...
* Nhu cầu và động cơ nghề nghiệp:
Tất cả mọi sự lựa chọn nghề đều có xuất phát điểm từ nhu cầu của cá nhân,
khi học sinh thấy rằng trong tình trạng hiện tại của bản thân còn có một khoảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
trống: Chƣa có nghề nghiệp, chƣa có một vị thế xã hội đích thực, chƣa có những
điều kiện vật chất để thực hiện hoài bão... Tất cả những nhu cầu này sẽ tạo nên
động cơ, đó là những yếu tố nội tại đƣa cá nhân tới những hành vi nhằm thỏa mãn
nhu cầu. Tuy nhiên cũng cần phải phân biệt giữa nhu cầu và ƣớc muốn nghề
nghiệp, ƣớc muốn là sự lựa chọn tổng quát để thoả mãn một nhu cầu nghề nghiệp
cụ thể.
Nhu cầu là một khái niệm vƣợt ra ngoài giá trị vật chất của nghề nghiệp, là
một yếu tố quan trọng mà những ngƣời làm công tác hƣớng nghiệp cần phải hiểu
rõ để tác động đúng. Động cơ thúc đẩy việc lựa chọn nghề thƣờng phản ánh nhu
cầu chọn nghề hơn là phản ánh các giá trị do nghề đó đem lại.
Sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh bao giờ cũng bị chi phối bởi một hệ
thống động cơ nhất định. Những động cơ này thƣờng bắt nguồn từ những nhu cầu,
hứng thú, sở thích riêng của mỗi cá nhân học sinh và đƣợc hình thành dƣới tác
động hợp thành của động cơ bên trong và động cơ bên ngoài. Động cơ bên trong
có vai trò quan trọng thúc đẩy con ngƣời đạt tới những mục tiêu nhất định trong
quá trình tiến tới mục đích nghề đƣợc lựa chọn. Nó là tiền đề nội lực cơ bản cho sự
lựa chọn và hoạt động nghề nghiệp sau này của học sinh, nó giúp cho cá nhân học
sinh sử dụng có hiệu quả những tƣ chất, năng lực, kinh nghiệm của mình để trƣớc
hết là chọn đƣợc một nghề theo ý nguyện và sau đó là để thực hiện tốt những yêu
cầu đặt ra cho hoạt động nghề nghiệp. Những động cơ bên trong có thể bao gồm:
trình độ kiến thức về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, hứng thú, nguyện vọng, năng
lực sở trƣờng của bản thân đối với nghề đó; tiềm năng nhận biết và hiểu đƣợc ý
nghĩa xã hội, giá trị xã hội của nghề . [8], [21]
* Hứng thú đối với nghề nghiệp:
Hứng thú nghề nghiệp là sự biểu hiện thái độ của con ngƣời đối vớ i lĩnh vực
nghề nghiệp hay một nghề cụ thể, nó góp phần tạo nên động cơ thúc đẩy cá nhân
tìm hiểu kĩ lƣỡng về nghề làm cơ sở cho việc thực hiện nguyện vọng nghề nghiệp.
E.M Cheplôp cho rằng: “Hứng thú là động lực quan trọng nhất trong việc nắm
vững tri thức, mở rộng học vấn, làm giàu nội dung của đời sống tâm lý con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Thiếu hứng thú hoặc hứng thú mờ nhạt, cuộc sống của con người sẽ trở nên ảm
đạm và nghèo nàn”. Một khi con ngƣời ý thức về giá trị nghề nghiệp đối với mình,
có đƣợc những cảm xúc và sự say mê tích cực trong lao động, học tập nhằm hoàn
thiện mình để đạt tới nghề nghiệp, khi đó ở con ngƣời đã có đƣợc hứng thú nghề
nghiệp. N.C Crupxkaia cũng cho rằng: “Chỉ đối với việc mà họ đang làm, bị cuốn
hút vào công việc - chỉ khi đó con người mới nâng cao tối đa xu hướng hoạt động
của mình không kể đến mệt mỏi”. [21]
Lựa chọn nghề nghiệp là một công việc rất hệ trọng của tuổi học trò trong quá
trình học tập và rèn luyện trong nhà trƣờng, các em dần tự phát hiện ra chính mình
và luôn tìm cách trả lời câu hỏi: “Tôi có thể làm đƣợc việc gì?”.
Đó là một câu hỏi rất nghiêm túc phản ánh tinh thần trách nhiệm của học sinh
trƣớc những đòi hỏi của cuộc sống đang đặt ra cho họ. Các hình thức giáo dục
hƣớng nghiệp của trƣờng phổ thông sẽ góp phần tích cực vào việc giúp thanh niên
trả lời chính xác câu hỏi quan trọng này. Đồng thời qua đó làm cho hứng thú nghề
nghiệp của học sinh dần đƣợc ổn định. Điều đó đặc biệt quan trọng vì chính hứng
thú nghề nghiệp là cái có ý nghĩa quyết định sự phát triển nhân cách của học sinh
THPT. Việc các em có đƣợc hứng thú tích cực đối với nghề nghiệp thì sẽ giúp cho
việc tạo lập ở bản thân các em động cơ mạnh mẽ trong lựa chọn nghề nghiệp.
* Lý tưởng nghề nghiệp:
Theo GS. TS Phạm Tất Dong thì lí tƣởng nghề nghiệp là mẫu ngƣời lao động
trong nghề mà ta đã chọn và trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, ta luôn hoàn
thiện nhân cách bản thân theo mẫu ngƣời đó. [8]
Lý tƣởng nghề nghiệp thƣờng đƣợc thể hiện ở sự định hƣớng vào những lao
động kiểu mẫu, vào những ngƣời sáng tạo luôn luôn đại diện cho sự đổi mới, luôn
đứng ở đỉnh cao kĩ thuật và công nghệ.
Lý tƣởng nghề nghiệp là biểu hiện tập trung nhất của xu hƣớng nghề nghiệp.
Nó có ảnh hƣởng quyết định đến việc hình thành và phát triển của nhu cầu và hứng
thú nghề nghiệp. Để vƣơn tới đƣợc lý tƣởng cao đẹp của mình, ngƣời ta có thể tự
điều chỉnh hoặc huỷ bỏ một số nhu cầu, hứng thú cũng nhƣ hình thành ở mình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
những nhu cầu về hứng thú mới cho phù hợp với lý tƣởng ấy. Lý tƣởng nghề
nghiệp đƣợc hiện thực hoá dần từng bƣớc trong công việc cụ thể. Yêu tha thiết
nghề nghiệp của mình đã chọn, không ngừng tìm tòi sáng tạo nhằm làm cho trình
độ nghề nghiệp của mình ngày càng đạt tới những đỉnh cao mới là con đƣờng duy
nhất đúng để mỗi học sinh thực hiện lý tƣởng nghề nghiệp của mình. [16],[17]
Lý tƣởng nghề nghiệp giúp con ngƣời có khát vọng vƣơn lên đỉnh cao của
nghề nghiệp, ƣớc mơ nóng bỏng về tƣơng lai. Thiếu lý tƣởng nghề nghiệp, ngƣời
lao động không thể vƣợt qua giới hạn của cảnh làm việc tẻ nhạt, không dám nghĩ,
không dám làm, không dám vƣợt qua mọi khó khăn để vƣơn lên tới sự hoàn thiện
nhân cách. [8]
Trên cơ sở phân tích và tìm hiểu những thành tố cấu trúc cơ bản của xu hƣớng
nghề nghiệp, chúng tôi khái quát lại và đi đến kết luận: Xu hướng nghề nghiệp của
con người đó chính là sự biểu hiện một cách sâu sắc nhất, tập trung nhất những
nhu cầu về nghề nghiệp, những hứng thú và nguyện vọng nghề nghiệp của cá
nhân. Các yếu tố này trong mối quan hệ chặt chẽ đã tạo thành động cơ mạnh mẽ
thúc đẩy cá nhân đi đến quyết định lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân nhằm hiện
thực hoá lý tưởng nghề nghiệp đã được hình thành.
1.2.3.2. Năng lực nghề nghiệp:
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học thì năng lực của một cá nhân là tổ hợp
các thuộc tính độc đáo của cá nhân đó phù hợp với những yêu cầu của một hoạt
động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt. [53]
Vận dụng quan điểm trên để xem xét năng lực nghề nghiệp có thể thấy năng lực
nghề nghiệp là một tập hợp các thuộc tính nhân cách tƣơng đối bền vững, đƣợc hình
thành và phát triển trong quá trình hoạt động có liên quan tới nghề nghiệp. Theo K.
K. Platônôp: “Năng lực đối với một ngành nghề nhất định nào đó được xác định bởi
những yêu cầu mà ngành nghề đó đặt ra cho cá nhân nào tiếp thu nó” .
Theo GS. TS Phạm Tất Dong thì năng lực nghề nghiệp là sự tƣơng ứng giữa
những đặc điểm tâm lý và sinh lý của con ngƣời với những yêu cầu do nghề đặt ra.
Không có sự tƣơng ứng này thì con ngƣời không thể theo đuổi nghề đƣợc. [8]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Năng lực nghề nghiệp vốn không có sẵn trong con ngƣời, không phải là
những phẩm chất bẩm sinh. Nó hình thành và phát triển qua hoạt động học tập và
hoạt động lao động. Trong quá trình làm việc, năng lực tiếp tục phát triển hoàn
thiện. ở những ngƣời thất bại trong nghề nghiệp thì chính họ đã không đánh giá
đƣợc mình nên đã dẫn đến những sự lựa chọn sai lầm về đủ mọi phƣơng diện.
1.2.4. Sự phù hợp nghề:
Một ngƣời đƣợc coi là phù hợp với một nghề nào đó khi ở họ có đƣợc những
phẩm chất đạo đức, trình độ văn hoá, năng lực chung và năng lực riêng, tri thức, kĩ
năng và tình trạng sức khoẻ đáp ứng đƣợc đòi hỏi do nghề nghiệp đặt ra.
Ngƣời ta chỉ cần làm một số biện pháp nhằm đối chiếu những đặc điểm tâm
sinh lý của con ngƣời với hệ thống yêu cầu do nghề đặt ra mà kết luận về mức độ
phù hợp nghề của ngƣời đó. Sự phù hợp nghề thƣờng thể hiện ở 3 dấu hiệu:
* Bảo đảm tốc độ làm việc, tức là bảo đảm đƣợc yêu cầu về số lƣợng công
việc theo định mức lao động. Ngƣời ta có thể đo đếm đƣợc các động tác lao động
để kết luận về sự phù hợp nghề.
* Bảo đảm độ chính xác của công việc. Đây là yêu cầu về chất lƣợng sản
phẩm. Ngƣời lao động phải làm ra mặt hàng đúng quy cách, không có số lƣợng
phế phẩm quá con số cho phép, không để công cụ lao động bị hƣ hỏng...
* Không bị công việc của nghề nghiệp gây nên những độc hại cho cơ thể của
bản thân.
Mức độ hiệu quả hoạt động nghề nghiệp chịu sự chi phối của mức độ sự phù
hợp nghề. Thông thƣờng, ngƣời ta chia làm 3 phần mức độ phù hợp đối với một
nghề đó là: Phù hợp hoàn toàn, phù hợp có mức độ và không phù hợp. Trên thực
tế, ít có ai sinh ra mà phù hợp với nghề này hay nghề khác mà thƣờng chỉ có những
cơ sở ban đầu có khả năng phù hợp hay không phù hợp với nghề nghiệp. Bởi vậy
khó có sự phù hợp tuyệt đối với nghề (phù hợp hoàn toàn), và để đạt tới mức độ
này, bản thân mỗi ngƣời phải có sự rèn luyện để hình thành cho mình những gì mà
nghề nghiệp đòi hỏi. [8]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Có thể nói, mỗi cá nhân đều tiềm ẩn những năng lực, những sở trƣờng đặc
biệt để tạo sự phù hợp nghề. Nếu biết lợi dụng triệt để những cơ sở ấy đặc biệt là
những sở trƣờng sẵn có, kiên trì luyện tập kết hợp với sự học hỏi ở những ngƣờ i có
kinh nghiệm thì sự phù hợp nghề sẽ nhanh đến với bản thân. Tuy nhiên hoạt động
nghề có những đặc điểm riêng của nó, thậm chí những yêu cầu do nó đặt ra ở một
số ngƣời này thì rèn luyện có thể tạo ra sự phù hợp nhƣng ở một số ngƣời khác thì
cho dù chăm chỉ mấy cũng không thể đáp ứng. Chính đặc điểm này đã ảnh hƣởng
tới chất lƣợng chọn nghề của học sinh.
Một khi học sinh chƣa biết mình, chƣa hiểu nghề thì đối với các em nghề nào
cũng có thể làm đƣợc nhƣng không phải nghề nào cũng phù hợp. Các nhà tâm lý
học đã chứng minh đƣợc mỗi nghề đòi hỏi một trình độ phát triển năng lực chung
và những năng lực chuyên biệt cần thiết để thực hiện thành công cho riêng nghề
nghiệp đó. Đồng thời mỗi nghề còn có những yêu cầu riêng về trạng thái sức khỏe,
tâm lý của con ngƣời.
Có thể nói sự phù hợp nghề trƣớc hết là phụ thuộc vào quá trình nhận thức sâu
sắc với nghề mình chọn để biết mình, biết nghề và sau đó là quá trình tự rèn luyện
để tạo sự phù hợp nghề là cơ sở để đảm bảo cho hoạt động nghề đạt tới hiệu quả.
Song, để làm cho sự phù hợp nghề có sự bền vững về chất lƣợng là cả một quá
trình khổ công học hỏi, hoàn thiện những gì đã có thể làm cho những yêu cầu do
nghề nghiệp đặt ra trở thành những đòi hỏi của chính bản thân mình.
1.2.5. Lựa chọn nghề nghiệp và những tính chất của nó:
Việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh là một quá trình lâu dài và phức tạp,
nó đƣợc biểu hiện ở các mức độ khác nhau ngay trong những lớp đầu của trƣờng
THCS, đƣợc tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần ở những lớp sau nhất là ở cuối
cấp THPT, trong các trƣờng, lớp dạy nghề và đƣợc tạm coi là kết thúc khi họ đã có
những khả năng lao động nghề nghiệp độc lập.
Với tƣ cách là một quá trình hoạt động, lựa chọn nghề nghiệp bao gồm những
tính chất cơ bản sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
* Tính chủ thể của quá trình lựa chọn:
Quá trình lựa chọn nghề nghiệp của học sinh diễn ra với sự chi phối của
những mối quan hệ xã hội phức tạp (giữa học sinh với gia đình; học sinh với tập
thể lớp, trƣờng, đoàn đội; học sinh với cộng đồng...). Những mối quan hệ này tác
động tới nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú, sở thích nghề nghiệp của học sinh.
Tuy nhiên để đi tới một quyết định lựa chọn nghề thì hầu hết đó là quyết định do
chính chủ thể đƣa ra và khẳng định. Tỷ lệ ảnh hƣởng của những tác động khách
quan tới sự lựa chọn trên mỗi cá nhân là nhiều ít khác nhau, song quyết định cuối
cùng của quá trình lựa chọn nghề bao giờ cũng thuộc về một con ngƣời cụ thể.
* Tính khách thể của quá trình lựa chọn nghề:
Khi nói đến quá trình lựa chọn nghề là nói tới sự kết hợp giữa nhu cầu,
nguyện vọng cá nhân với yêu cầu do nghề nghiệp và xã hội đòi hỏi. Không phải
bất cứ nguyện vọng nghề nghiệp nào của chủ thể lựa chọn cũng đƣợc xã hội chấp
nhận. Trong xã hội mỗi cá nhân có một vị trí xác định, với vị trí đó, cá nhân vừa
đƣợc hƣởng những quyền lợi đồng thời cũng cần có trách nhiệm đối với cộng đồng
và xã hội.
Mối quan hệ giữa quyền lợi và trách nhiệm trong lựa chọn nghề đƣợc biểu
hiện trong qua mối quan hệ giữa nguyện vọng cá nhân (tôi muốn) với đòi hỏi về số
lƣợng và chất lƣợng mà nhu cầu nguồn nhân lực hoạt động trong các lĩnh vực nghề
nghiệp đòi hỏi (tôi cần phải). Khi đó chủ thể của sự lựa chọn trở thành đối tƣợng
của sự lựa chọn. Phần chính yếu phụ thuộc vào những gì có đƣợc nhờ vào hoạt
động của chủ thể lựa chọn (tôi có thể).
* Tính mục đích của quá trình lựa chọn nghề:
Lựa chọn nghề là một hoạt động có đối tƣợng. Đối tƣợng ở đây chính là
những nghề mà học sinh sẽ chọn. Nghề đƣợc chọn trở thành mục đích hoạt động
của học sinh. Để đạt tới mục đích, học sinh cần phải hiểu rõ đối tƣợng (nghề). Sự
hiểu biết này càng cặn kẽ sâu sắc, đầy đủ bao nhiêu thì khả năng chiếm lĩnh nghề
nghiệp càng nhanh chóng trở thành hiện thực bấy nhiêu. Một khi đã hiểu rõ nghề
nghiệp, học sinh sẽ dần thiết lập đƣợc kế hoạch cụ thể, có những biện pháp,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
phƣơng pháp thích hợp trong học tập, rèn luyện để chiếm lĩnh đƣợc nghề lựa chọn
ở những mức độ khác nhau. Việc xác định mục đích cho sự lựa chọn nghề của học
sinh là rất đa dạng và phức tạp. Muốn xác định đƣợc nghề sẽ chọn phù hợp với
mình, ngoài việc hiểu biết về nghề đó, học sinh phải tự hiểu mình. Chỉ có trên cơ sở
này, bản thân học sinh mới đáp ứng với những yêu cầu của nghề nghiệp.
* Tính cấu trúc của quá trình lựa chọn nghề:
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giai đoạn lựa chọn nghề đƣợc coi là một
bộ phận, một mắt xích trong cấu trúc đời sống của con ngƣời. Khi xác định cho
mình một hƣớng đi, một vị trí hoạt động trong đời sống xã hội chính là lúc con
ngƣời ta lựa chọn nghề. Quá trình lựa chọn nghề không phải là chốc lát, không phải
diễn ra chỉ một lần mà nó nảy sinh trong các mối quan hệ phức tạp: “Tôi và nghề
nghiệp”, “tôi và chức vụ”, “tôi và gia đình”, “tôi và lƣơng bổng”... Điều đó có nghĩa
là lựa chọn nghề đƣợc đặt trong một hệ thống các mối quan hệ giữa chủ thể (ngƣời
lựa chọn) và những điều kiện khách quan có mối quan hệ trực tiếp đối với nghề
nghiệp.
Nếu nhƣ việc xem xét và lựa chọn nghề nghiệp của học sinh tách khỏi các
dạng lựa chọn (các mối quan hệ) trong đặc trƣng của cuộc sống con ngƣời thì sẽ
dẫn tới sự hạn chế kết quả thực tế của các biện pháp hƣớng nghiệp, giới hạn khả
năng điều khiển quá trình tái sản xuất nguồn nhân lực cho đất nƣớc. [21]
1.2.6. Khái niệm về KTTT và cơ chế thị trường:
Theo đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Nhƣ ý (chủ biên), kinh tế thị trƣờng
là: “Giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá đƣợc quyết định bởi thị trƣờng,
là sự hoạt động và mở rộng khách quan của quan hệ hàng - tiền và những qui luật
giá trị là đặc trƣng nhất”. [58]
Trong giáo trình kinh tế - chính trị Mác - Lênin có định nghĩa: “KTTT là mô
hình kinh tế mà ở đó các mối quan hệ kinh tế đều đƣợc thực hiện trên thị trƣờng
thông qua quá trình trao đổi, mua bán. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ phát triển đến
một trình độ nhất định sẽ đạt đến KTTT. KTTT là giai đoạn phát triển của kinh tế
hàng hoá dựa trên cơ sở phát triển của lực lƣợng sản xuất”.[3, tr.254]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Theo từ điển điện tử bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia: “KTTT là nền kinh tế
lấy khu vực kinh tế tƣ nhân làm chủ đạo. Những quyết định kinh tế đƣợc thực hiện
một cách phi tập trung bởi các cá nhân ngƣời tiêu dùng và công ty. Việc định giá
hàng hoá và phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế đƣợc cơ bản tiến hành theo qui
luật cung - cầu. Trái với KTTT là kinh tế kế hoạch hoá tập trung”[48].
Khi nói đến các qui luật của sản xuất hàng hoá của KTTT thì trƣớc hết phải
nói đến cơ chế thị trƣờng. Theo các nhà kinh tế học thì cơ chế thị trƣờng là tổng
thể các nhân tố, quan hệ, môi trƣờng, động lực và qui luật chi phối sự vận động của
thị trƣờng. Nói đến cơ chế thị trƣờng là nói đến một cơ chế tự vận động của thị
trƣờng theo qui luật nội tại vốn có của nó mà nhà kinh tế học Anh thế kỷ XVIII A.
Smith đã hình dung nó nhƣ là “bàn tay vô hình”, trong đó có một loạt các qui luật
kinh tế cùng đồng thời vận động và quan hệ hữu cơ với nhau. Đó là các qui luật:
Qui luật giá trị, qui luật cung - cầu, qui luật lưu thông tiền tệ, qui luật lợi nhuận,
qui luật cạnh tranh. Sự vận động của các qui luật kinh tế này có tác động và ảnh
hƣởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội.[3], [49]
1.3. Sự tác động của nền KTTT đối với đời sống, xã hội nƣớc ta :
1.3.1. KTTT là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, là một thành tựu
của nền văn minh nhân loại. KTTT xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội là
một tất yếu khách quan. Khi nói đến KTTT không có nghĩa là đồng nhất với chủ
nghĩa tƣ bản bởi vì nó là sản xuất chung của toàn nhân loại trong quá trình sản xuất
hàng hoá và phát triển xã hội. Cho đến nay hầu hết các nền kinh tế của các nƣớc trên
thế giới đều đã và đang phát triển theo KTTT (Tuy mỗi nƣớc có một mô hình KTTT
riêng phụ thuộc vào chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội...) trong đó có Việt
Nam. Nền KTTT ở nƣớc ta đƣợc đánh dấu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng
12/1986). Thực sự chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền KTTT.
Chỉ sau hơn 20 năm đổi mới, hơn 20 năm thực hiện nền KTTT, một thời gian
khá khiêm tốn so với các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng khác trên thế giới, bộ mặt
đất nƣớc ta có sự thay đổi nhanh chóng theo từng ngày, nhanh hơn bất cứ một giai
đoạn nào trong lịch sử. Từ một nƣớc bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, cơ sở hạ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
tầng và nền kinh tế quá lạc hậu, đời sống nhân dân cực kì khó khăn, nƣớc ta đƣợc
xếp vào một trong 20 nƣớc nghèo nhất thế giới. Đến nay, nhờ phát triển KTTT và
chủ trƣơng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nƣớc, nƣớc ta đã có một vị thế cao
trên trƣờng quốc tế, là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế và thế giới nhƣ
ASEAN, WTO, Liên hợp quốc và mới đây nƣớc ta trở thành uỷ viên không thƣờng
trực của hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam đang là nƣớc đứng thứ 2 trên thế
giới về xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều, đứng thứ tƣ về xuất khẩu cao su, thứ nhất
về xuất khẩu hạt tiêu, là một trong những nƣớc đứng đầu về xuất khẩu thuỷ sản và
hàng may mặc và đang đƣợc đánh giá là một trong những nƣớc có tốc độ phát triển
viễn thông và Internet nhanh nhất thế giới. Hệ thống giao thông đƣờng bộ, đƣờng
thuỷ đƣợc xây dựng mới, nâng cấp và vƣơn tới mọi miền đất nƣớc với chất lƣợng
tốt, tốc độ đô thị hoá đang diễn ra nhanh chóng, các khu vực công nghiệp mọc lên
ngày một nhiều trên khắp mọi miền đất nƣớc.
KTTT đã tạo ra sự năng động trong tất cả các thành phần kinh tế, trong đó có
kinh tế tƣ nhân, khắp nơi từ vùng núi, nông thôn tới thành thị không khí buôn bán,
trao đổi hàng hoá diễn ra sôi động. KTTT đã tạo điều kiện cho mỗi cá nhân, mỗi
nhóm xã hội có thể bộc lộ hết khả năng, mặt mạnh, mặt yếu của mình trong cuộc
đua tranh nhằm giành đƣợc những lợi ích cao nhất cho mình, xác lập những vị thế
xã hội và kinh tế tƣơng thích với đòi hỏi của KTTT. Đây chính là động lực quan
trọng của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế trong thời đại ngày nay.
1.3.2. Bên cạnh những cái đƣợc, những mặt tích cực, những đóng góp to lớn
của KTTT đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc, KTTT cũng đã tạo ra
những tác động tiêu cực (đặc biệt là trong thời kỳ quá độ lên nền KTTT hoàn chỉnh
nhƣ ở nƣớc ta hiện nay và thƣờng diễn ra ở các nƣớc đang phát triển), những ảnh
hƣởng gây cản trở sự phát triển theo chiều hƣớng tích cực của nhiều mặt đời sống
xã hội đang trở nên trầm trọng mà nƣớc ta cũng nhƣ nhiều nƣớc khác trên thế giới
đang phải đối mặt.
Trƣớc hết phải kể đến sự tác động của KTTT đến các giá trị đạo đức truyền
thống, những giá trị này là kết quả của sự kế thừa, phát triển có chọn lọc của dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
tộc trong suốt 4000 năm lịch sử. Các giá trị này thể hiện trong lối sống, quan hệ gia
đình dòng tộc, quan hệ làng xã, trong tình làng nghĩa xóm, các quan hệ giao tiếp
trong xã hội, lời ăn tiếng nói... Từ khi nền KTTT bắt đầu phát triển, đất nƣớc ta mở
cửa giao lƣu văn hoá, giao thƣơng kinh tế hoà nhập với thế giới. Sự phát triển
mạnh mẽ về kinh tế, khoa học kĩ thuật, giáo dục... thì đã thấy rõ nhƣng cũng từ đó
trong xã hội xuất hiện những cách sống và lối sống xa lạ, trái với các chuẩn mực
của xã hội bất chấp những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Một bộ phận
lớp trẻ hiện nay có xu hƣớng sống thực dụng, buông thả, sùng bái đồng tiền, sa đà
vào các tệ nạn xã hội nhƣ nghiện hút, mua bán dâm, cờ bạc, tiêu sài phung phí...
quay lƣng lại với văn hoá đạo đức truyền thống. Đã không ít trƣờng hợp vì đồng
tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng
nghiệp, hàng xóm láng giềng. Đồng tiền đang trở thành giá trị, thành thƣớc đo
trong nhiều mối quan hệ xã hội, đồng tiền là điều kiện để giải quyết công việc và
các vấn đề khác của cuộc sống, chính vì điều này đã góp phần và tạo điều kiện cho
nạn tham nhũng tràn lan nhƣ hiện nay.
Tiếp theo, có thể kể đến sự tác động mạnh mẽ của KTTT đến đạo đức và nếp
sống gia đình - những tế bào của xã hội. Gia đình truyền thống Việt Nam xƣa vốn
là một gia đình hài hoà, trong cùng một mái nhà có cả ông bà, cha mẹ, con cái, ba
thế hệ này cùng chung sống và bổ sung cho nhau những thiếu hụt của mỗi lớp tuổi
đời. Nay thì có nguy cơ tan vỡ, xu hƣớng thích ra ở riêng, sống độc lập ngay khi
xây dựng gia đình đã trở nên phổ biến. Mặt tốt cần đƣợc khẳng định của xu hƣớng
này là ý chí tự lập của mỗi ngƣời đƣợc đề cao, song ảnh hƣởng xấu của nó cũng
không nhỏ, mỗi thành viên trong gia đình nhỏ ấy luôn cố tìm cho mình một không
gian riêng. Với cách sống đó, quyền tự do cá nhân đƣợc tôn trọng nhƣng mối quan
hệ huyết thống dần bị phai nhạt. Bố mẹ, anh em, bà con họ hàng ít gặp nhau và cả
năm cũng hầu nhƣ chỉ hỏi thăm xã giao nhau qua thƣ từ điện thoại. Với cha mẹ già
phần đông nam nữ thanh niên đều cho rằng chỉ cần đóng góp tiền để phụng dƣỡng là
kể nhƣ đã làm tròn bổn phận đạo làm con. Chữ hiếu đã đƣợc không ít ngƣời hiểu
một cách lạnh lùng nhƣ chính đồng tiền của họ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
KTTT cũng đã tạo ra lối sống hƣởng thụ trong nhiều gia đình cùng với nó là
tâm lý tiêu dùng, với lối sống và tâm lý ấy, các giá trị vật chất đang ngày càng lấn
át, các chuẩn mực đạo đức và phẩm cách con ngƣời, nhiều phong tục, nếp sống gia
đình truyền thống và đạo lý cổ truyền bị mai một, xâm hại. Việc tiêu dùng phung
phí đƣợc coi là sự thành đạt của gia đình. Việc giáo dục con cái bị xao nhãng khi
cha mẹ mải lo kiếm tiền, coi nhu cầu của con cái kể cả nhu cầu tinh thần đều đƣợc
giải quyết bằng tiền đã khiến nhiều đứa trẻ sa ngã vào các tệ nạn xã hội hoặc phát
triển phiến diện về nhân cách. Tình trạng li hôn đặc biệt là ở các gia đình trẻ đang
ngày một tăng cao do cách sống ích kỷ, vô trách nhiệm và buông thả của các thành
viên. Theo nhiều nghiên cứu đã cho thấy, hiện nay trẻ em và trẻ vị thành niên có
lối sống ích kỷ chỉ biết bản thân mình, nguyên nhân là do sự chiều chuộng quá
mức của cha mẹ, đáp ứng mọi đòi hỏi của chúng kể cả tiền bạc. Có đến 17,8% số
thanh niên đƣợc điều tra đồng ý với việc có tiền là có tất cả. Quan niệm sai lệch
này đã ảnh hƣởng rất lớn đến việc giáo dục những giá trị chân chính trong gia đình,
là nguyên nhân dẫn đến việc vợ chồng xung khắc, anh em bất hoà, con cái bỏ rơi
cha mẹ già...[64]
Sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội đang trở nên trầm trọng, nó
tăng tỉ lệ thuận với sự thành công của nền KTTT. Trong bƣớc chuyển đổi, khởi đầu
đi vào nền KTTT, điều kiện của các chủ thể sản xuất luôn biến đổi, có những cơ
may để phát triển hay tình huống sa sút, thất bại... Trong khi đó, do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan khác nhau, vẫn còn một bộ phận dân cƣ không có
khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản, nhu cầu tối thiểu của con ngƣời, phải
sống trong cảnh đói nghèo, đặc biệt là ở các vùng núi, vùng dân tộc, vùng thuần
nông nghiệp. Họ không chỉ nghèo khổ về lƣơng thực, thực phẩm mà còn nghèo
khổ trong việc hƣởng thụ các dịch vụ y tế, giáo dục văn hoá xã hội. Đồng thời là
một bộ phận dân cƣ đặc biệt là ở thành thị và các trung tâm dịch vụ, thƣơng mại
giàu lên nhanh chóng và ngày một giàu có hơn tạo ra khoảng cách lớn về giàu -
nghèo trong xã hội. Sự gia tăng và phân hoá giàu, nghèo đã làm tăng những bất
bình đẳng và nhiều tệ nạn trong xã hội. [49],[50]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Bên cạnh đó, nền KTTT còn ảnh hƣởng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội khác
nhƣ nạn lạm phát, nạn đầu cơ tích trữ các nhu, yếu phẩm của xã hội nhƣ xăng dầu,
lƣơng thực gây ra sự biến động giá cả, bức xúc, lo lắng trong xã hội, các tệ nạn xã
hội nhƣ ma tuý, mại dâm, cờ bạc đã len lỏi tới tận các xóm làng yên bình nhất thậm
chí là cả trƣờng học, các loại sách báo và văn hoá phẩm đồi truỵ tràn lan trên thị
trƣờng không thể kiểm soát, nạn hàng giả, bằng cấp giả, nạn buôn bán phụ nữ, trẻ
em qua biên giới, nạn nạo phá thai tăng cao ở tuổi vị thành niên, nạn ô nhiễm môi
trƣờng... Tất cả những điều đó, theo chúng tôi đều xuất phát từ một nguyên nhân cơ
bản đó là sự tiếp nhận, vận dụng, lợi dụng các tác động từ các qui luật của nền
KTTT một cách tiêu cực trên cơ sở là nhận thức sai lầm. Việc giải quyết những vấn
đề trên là một quá trình lâu dài và là trách nhiệm của toàn xã hội trong đó có giáo
dục.
1.4. Những yếu tố ảnh hƣởng đến xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của
HS THPT
1.4. 1. Những đặc điểm cơ bản về tâm lý và nhân cách của HS THPT
Lứa tuổi HS THPT đƣợc xác định là những học sinh đang học trong trƣờng
THPT có độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi (ở đây chỉ đề cập đến đối tƣợng thanh niên HS
trong trƣờng THPT). Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt quan trọng trong các thời
kỳ phát triển của trẻ em. Đây là giai đoạn phát triển và dần hoàn thiện các cấu trúc
tâm lý, các phẩm chất nhân cách và thể chất, chuẩn bị cho các em bƣớc vào cuộc
sống XH với tƣ cách nhƣ một con ngƣời trƣởng thành.
1.4.1.1. Đặc điểm hoạt động học tập:
Kinh nghiệm sống của HS THPT đã trở nên phong phú, các em đã ý thức
đƣợc rằng mình đang đứng trƣớc ngƣỡng cửa cuộc đời. Do vậy thái độ có ý thức
đối với học tập ngày càng phát triển và trở nên có lựa chọn hơn đối với mỗi môn
học. ở các em, đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hƣớng
nghề nghiệp. Cuối bậc THPT các em đã xác định đƣợc cho mình một hứng thú ổn
định với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định. Hứng thú
này thƣờng liên quan với việc lựa chọn một nghề nhất định của HS.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Thái độ học tập của thanh niên HS đƣợc thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu
trúc khác với lứa tuổi trƣớc. Lúc này có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn (ý nghĩa
thực tiễn của môn học đối với cá nhân, có liên quan đến ngành nghề định chọn),
động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa XH của môn học, rồi mới đến các động cơ cụ
thể khác.
Những thái độ học tập ở không ít HS có nhƣợc điểm là: một mặt các em rất
tích cực học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã hoặc
định chọn, mặt khác các em lại sao nhãng các môn học khác hoặc học chỉ đạt điểm
trung bình, dẫn đến hiện tƣợng học lệch, học tủ, học chỉ vì mục đích thi cử.
Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định của các quá
trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của thanh niên HS trong hoạt động
học tập cũng nhƣ việc lựa chọn nghề nghiệp cho tƣơng lai.
1.4.1.2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ:
ở thanh niên HS THPT, tính chủ định đƣợc phát triển mạnh ở tất cả các quá
trình nhận thức. Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao, ghi nhớ có chủ định
giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ lôgic trừu
tƣợng và ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt.
Do cấu trúc và chức năng của não bộ phát triển cùng với sự phát triển của các
quá trình nhận thức và hoạt động học tập mà hoạt động tƣ duy của các em có sự
thay đổi quan trọng, các em đã có khả năng tƣ duy lôgic, tƣ duy lý luận, tƣ duy
trừu tƣợng một cách độc lập, sáng tạo, tƣ duy có sự chặt chẽ có căn cứ và nhất
quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tƣ duy cũng phát triển. Những đặc điểm đó
tạo điều kiện cho HS thực hiện các tƣ duy toán học phức tạp, phân tích nội dung cơ
bản của khái niệm trừu tƣợng và nắm đƣợc các mối quan hệ nhân quả trong tự
nhiên và xã hội... Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan. Tuy nhiên nhiều khi các
em chƣa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận
vội vàng theo cảm tính. [22], [39], [43]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Nhƣ vậy ở lứa tuổi này các em dễ mắc phải sai lầm trong việc lựa chọn nghề
nghiệp, nhƣng nếu đƣợc định hƣớng một cách nghiêm túc, tƣ vấn một cách khoa
học thì hoàn toàn có thể giúp các em lựa chọn đƣợc những nghề nghiệp phù hợp.
1.4.1.3. Sự phát triển của tự ý thức (ý thức bản ngã):
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách
của HS THPT. Đăc điểm quan trọng trong sự tự ý thức của lứa tuổi này là tự ý
thức xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động - địa vị mới mẻ trong tập thể,
những quan hệ mới với thế giới xung quanh buộc các em phải ý thức đƣợc những
đặc điểm nhân cách của mình. Các em hay ghi nhật ký so sánh mình với nhân vật
đƣợc coi là tấm gƣơng hay “thần tƣợng”. Nội dung của tự ý thức cũng khá phức
tạp. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi của mình trong hiện tại nhƣ tuổi thiếu
niên mà còn nhận thức về vị trí của mình trong XH, trong tƣơng lai (Tôi cần trở
thành ngƣời nhƣ thế nào, cần làm gì để tốt hơn...)
HS THPT không chỉ có nhu cầu đánh giá mà còn có khả năng đánh giá sâu
sắc và tốt hơn tuổi thiếu niên về những phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của những
ngƣời cùng sống và của chính mình. Nhƣng nhận thức ngƣời khác bao giờ cũng đỡ
khó khăn hơn là nhận thức bản thân. HS THPT thƣờng dễ có xu hƣớng cƣờng điệu
trong khi tự đánh giá. Hoặc là các em đánh giá thấp cái tích cực, tập trung phê
phán cái tiêu cực, hoặc là đánh giá quá cao nhân cách của mình - tỏ ra tự cao coi
thƣờng ngƣời khác. Tuy nhiên việc tự đánh giá trên cơ sở tự nhiên có mục đích là
một dấu hiệu cần thiết của một nhân cách đang trƣởng thành, là tiền đề của sự tự
giáo dục có mục đích.
1.4.1.4. Sự hình thành thế giới quan:
Lứa tuổi thanh niên mới lớn (HS THPT) là lứa tuổi quyết định của sự hình
thành thế giới quan - hệ thống quan điểm về xã hội, về tự nhiên, các nguyên tắc và
qui tắc cƣ xử...
Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển của hứng thú
nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ, những qui
luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và sự tồn tại của xã hội loài ngƣời. Các em cố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
gắng xây dựng quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối với các vấn đề xã hội,
tƣ tƣởng chính trị, đạo đức. Chính nội dung các môn học ở phổ thông trung học
giúp các em xây dựng đƣợc thế giới quan tích cực về tự nhiên, xã hội.
Việc hình thành thế giới quan không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận thức mà
còn thể hiện ở phạm vi nội dung nữa. HS THPT quan tâm nhiều nhất đến các vấn
đề liên quan đến con ngƣời, vai trò của con ngƣời trong lịch sử, quan hệ giữa con
ngƣời và xã hội, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ và tình cảm. Vấn đề ý nghĩa
cuộc sống chiếm vị trí trung tâm trong suy nghĩ của HS THPT.
Tuy vậy, một bộ phận học sinh chƣa đƣợc giáo dục đầy đủ về thế giới quan,
họ có những quan niệm lệch lạc về lối sống do chƣa chịu sự tác động từ mặt trái
của thời mở cửa, hội nhập văn hoá với thế giới, mặt trái của cơ chế thị trƣờng... đã
khiến họ có lối sống không lành mạnh, đánh giá cao cuộc sống hƣởng thụ, sống
gấp, sống lại, ham chơi hơn là học hành... Một bộ phận khác lại chƣa chú ý vấn đề
xây dựng thế giới quan cho mình, sống thụ động.
1.4.1.5. Đời sống tình cảm:
Đời sống tình cảm của HS THPT rất phong phú và nhiều vẻ, Đặc điểm đó
đƣợc thể hiện rõ nhất trong tình bạn của các em, vì đây là lứa tuổi mà những hình
thức đối xử có lựa chọn đối với mọi ngƣời trở nên sâu sắc. ở lứa tuổ i này, nhu cầu
về tình bạn tăng lên rõ rệt và sâu sắc hơn rất nhiều so với tuổi thiếu niên. Các em
có yêu cầu cao hơn đối với tình bạn (sự chân thật, lòng vị tha, tin tƣởng, hiểu biết
và tôn trọng nhau, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau...). Quan hệ với bạn bè chiếm vị trí lớn
hơn hẳn so với quan hệ với ngƣời lớn tuổi hơn hoặc ít tuổi hơn. điều này do lòng
khát khao muốn có vị trí bình đẳng trong cuộc sống chi phối. Tình bạn HS THPT rất
bền vững nó có thể vƣợt qua mọi thử thách và có thể kéo dài suốt cuộc đời.
Quan hệ tình bạn khác giới ở lứa tuổi này cũng đã đƣợc tích cực hoá một cách
rõ rệt, phạm vi quan hệ bạn bè đƣợc mở rộng, xuất hiện nhiều các nhóm pha trộn
(cả nam và nữ) bên cạnh những nhóm thuần nhất. ở một số em bắt đầu xuất hiện
“mối tình đầu”, đó là nhu cầu chân chính về tình yêu và tình cảm sâu sắc. Đó là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
một trạng thái mới mẻ, nhƣng rất tự nhiên trong đời sống tình cảm của lứa tuổi HS
THPT. [22], [39], [43]
1.4.1.6. Hoạt động lao động và sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT
Hoạt động lao động tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành nhân cách HS
THPT. Hoạt động lao động đƣợc tổ chức đúng đắn sẽ giúp các em hình thành tinh
thần tập thể, lòng yêu lao động, tôn trọng lao động, ngƣời lao động và thành quả
lao động, đặc biệt là có nhu cầu và nguyện vọng lao động.
Điều quan trọng là việc lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành công việc khẩn
thiết của các em (đặc biệt là với học sinh lớp 12). Các em đang đứng trƣớc ngƣỡng
cửa cuộc đời tự lập, cho nên vấn đề tƣơng lai có một vị trí rất lớn lao trong suy
nghĩ của họ. Cách nhìn về tƣơng lai của các em cũng rất lạc quan. HS THPT tỏ thái
độ của họ với học tập, với lao động và hoạt động xã hội và coi những hoạt động ấy
là sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết để bƣớc vào cuộc sống, vào hoạt động
nghề nghiệp.
Do hoàn cảnh sắp bƣớc vào đời và đặc biệt là do thế giới quan và tâm lý phát
triển cho nên xu hƣớng nghề nghiệp của HS THPT hình thành rõ rệt, nhanh chóng
và tƣơng đối ổn định. Họ coi đây là một vấn đề nghiêm túc trong cuộc đời. Đây
chính là hoàn cảnh khách quan, là cơ sở để thúc đẩy các hiện tƣợng tâm lý phát
triển. Họ thƣờng xuyên suy nghĩ: Mình sẽ đi đâu, làm gì? và mình sẽ trở thành con
ngƣời nhƣ thế nào?...
Khi lựa chọn nghề nghiệp, học sinh THPT có thuận lợi cơ bản là hoạt động
học tập đã mang một ý nghĩa mới và nó quyết định xu hƣớng nghề nghiệp của họ.
Mặt khác trong nhà trƣờng THPT đã chú trọng nhiều đến hoạt động hƣớng nghiệp
cho HS. Các em đƣợc tiếp xúc với một hệ thống tác động tổng hợp của xã hội và
nhà trƣờng nhằm giúp họ việc chọn nghề phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện
vọng sở trƣờng của mình, vừa đáp ứng đƣợc nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản
xuất trong nền kinh tế quốc dân.
Khi lựa chọn nghề nghiệp, HS THPT bị chi phối bởi nhiều yếu tố:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
- Những yếu tố bên trong, còn gọi là động cơ bên trong (yếu tố chủ quan)
nhƣ: hứng thú, nguyện vọng, khả năng học tập của họ.
- Những yếu tố bên ngoài còn gọi là động cơ bên ngoài (yếu tố khách
quan) nhƣ: Dƣ luận xã hội, lời khuyên của những ngƣời thân, hƣớng nghiệp của
nhà trƣờng...
Ngoài ra khi chọn nghề, HS THPT còn bị chi phối bởi những đặc điểm về giới tính,
sức khoẻ cùng với sự tác động của những điều kiện kinh tế xã hội của địa phƣơng.
Khi đã có xu hƣớng và định hƣớng nghề nghiệp thì HS THPT tập trung cả
hứng thú và năng lực phù hợp vào nghề tƣơng lai của họ. Đây cũng là nguyên nhân
quan trọng dẫn đến tình trạng học sinh học tủ, học lệch nhƣ hiện nay.
Việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông biểu hiện sâu sắc
nhân cách con ngƣời. Họ coi việc chọn nghề là một loại kết luận rút ra đƣợc từ
việc phân tích nhu cầu, khuynh hƣớng và năng lực của mình, từ đặc điểm chung
của nhân cách và đối chiếu đặc điểm đó với nghề dự định chọn. Điều này đặt ra
vấn đề tƣ vấn nghề nghiệp cho HS THPT là hết sức cần thiết. Sự khác biệt cá nhân
trong việc chọn nghề của mỗi học sinh biểu hiện ở các mặt:
- Vị trí của nghề đƣợc chọn trong các nghề khác nhau.
- Tính kiên quyết trong việc chọn nghề
- Động cơ của việc chọn nghề hay cơ sở của việc chọn nghề.
Trong thực tế HS THPT chọn nghề thƣờng thiên về các lĩnh vực đòi hỏi
những tri thức mới, những nghề mới lạ, đƣợc xã hội chú ý đến nhiều. Đặc biệt là
các nghề trong lĩnh vực kinh tế, những nghề hoạt động sôi nổi, những nghề đang
đƣợc xã hội quan tâm...
Trong quá trình học sinh trung học phổ thông hình thành xu hƣớng nghề
nghiệp, họ đã gặp phải rất nhiều khó khăn bởi những tác động tiêu cực từ mặt trái
của cơ chế thị trƣờng, do sự cản trở của dƣ luận xã hội... Do vậy họ rất cần đƣợc sự
định hƣớng, sự tƣ vấn giúp đỡ thông qua giáo dục hƣớng nghiệp của nhà trƣờng để
có thể lựa chọn đƣợc nghề nghiệp phù hợp. [22], [43]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Lựa chọn nghề nghiệp là một hiện tƣợng xã hội. Nhiều công trình nghiên cứu
về sự lựa chọn nghề nghiệp cho thấy rằng, hiện tƣợng này rất phức tạp và luôn thay
đổi tuỳ thuộc vào những điều kiện xã hội, đặc biệt là những điều kiện kinh tế văn
hoá và giáo dục. Do đó, ở hai thời điểm khác nhau thƣờng không thấy sự giống
nhau trong xu hƣớng chọn nghề. Có những nghề hiện không đƣợc thế hệ trẻ thích
thú, nhƣng chỉ sau một vài năm, có khi chúng lại ở vị trí hàng đầu trong sự lựa
chọn nghề của học sinh. Ngay trong cùng một thời điểm, sự lựa chọn nghề ở địa
phƣơng này cũng không giống ở địa phƣơng kia.
Cần phải khẳng định rằng, không phải học sinh nào cũng chọn cho bản thân
nghề mà mình yêu thích. Bởi vì việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh là một
hiện tƣợng xã hội cho nên nó chịu sự tác động và chi phối đồng thời của nhiều yếu
tố, các yếu tố cơ bản có thể kể đến là: gia đình học sinh, bạn bè, công tác hƣớng
nghiệp của nhà trƣờng, các phƣơng tiện thông tin đại chúng, sở thích và hứng thú
của cá nhân...
1.4.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của HS THPT
1.4.2.1. Yếu tố gia đình:
Gia đình là yếu tố rất quan trọng đối với sự phát triển về mọi mặt của học sinh
trong đó có cả vấn đề định hƣớng, lựa chọn nghề nghiệp của các em. Trong gia
đình, cha mẹ là ngƣời luôn luôn gần gũi, hiểu rõ các em nhất nên cha mẹ có thể
biết đƣợc hứng thú, năng lực, sở thích của các em ra sao. Cha mẹ là những ngƣời
đi truớc có nhiều kinh nghiệm thực tế, có sự hiểu biết về thế giới, nghề nghiệp
trong xã hội hơn các em. Vì vậy các em có sự ảnh hƣởng và tin tuởng rất lớn từ
cha mẹ trong việc lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân. Hơn nữa trong điều kiện xã
hội hiện nay, vấn đề việc làm sau khi ra trƣờng (học nghề của học sinh) còn phụ
thuộc rất nhiều vào các mối quan hệ và khả năng tài chính của gia đình. Điều đó
càng khẳng định vai trò quan trọng của gia đình đối với việc lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh.
Tuy nhiên, sự can thiệp, ảnh hƣởng quá lớn từ cha mẹ đến việc lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh sẽ có tác động hai mặt: Mặt tích cực, đối với những trƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
hợp cha mẹ hiểu rõ năng lực, hứng thú của con, hiểu biết rõ về các ngành nghề
trong xã hội... nên hƣớng cho con mình lựa chọn những nghề phù hợp. Mặt tiêu
cực là có một bộ phận không nhỏ các bậc phu huynh lại áp đặt con cái lựa chọn
nghề nghiệp theo ý mình. Với suy nghĩ là cha mẹ phải có trách nhiệm với con cái
từ việc chọn nghề đến lúc tìm việc làm mà hầu nhƣ không tính đến hứng thú, năng
lực sở trƣờng của các em. Điều này đã dẫn đến việc lựa chọn nghề sai lầm của học
sinh, hình thành ở các em tính thụ động, ỷ lại vào cha mẹ. Và đây cũng là một
trong số các nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiện tƣợng không thành đạt trong nghề,
chán nghề, bỏ nghề của các em sau này.
Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Thực trạng thực hiện công tác
giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT khu vực miền núi đông bắc Việt Nam” .
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền đã chỉ ra rằng: Đa số học sinh đến nói rằng hình
thức giúp đỡ của cha mẹ và những ngƣời thân trong gia đình đối với việc lựa chọn
nghề của các em là định hƣớng phân tích, khuyên các em nên chọn nghề theo nghề
của cha mẹ, hoặc nghề sau khi học xong dễ xin đƣợc việc, có thu nhập cao. Ngoài
ra cha mẹ và ngƣời thân trong gia đình còn giúp đỡ các em bằng cách tìm kiếm cho
các em những tài liệu, sách báo có liên quan đến nghề. Kết quả khảo sát cho thấy
có 67,9% số HS lựa chọn nghề nghiệp cho mình do ảnh hƣởng của cha mẹ và
ngƣời thân trong gia đình.[25]
1.4.2.2. Yếu tố giáo dục hướng nghiệp của nhà trường:
Về mặt lí luận, giáo dục hƣớng nghiệp trong nhà trƣờng phải đóng vai trò chủ
đạo trong việc định hƣớng và lựa chọn nghề nghiệp của HS. Hƣớng nghiệp cho HS
trong trƣờng phổ thông đƣợc thể hiện nhƣ là một hệ thống tác động sƣ phạm nhằm
giúp cho các em lựa chọn đƣợc nghề nghiệp một cách hợp lý.
Trong nhà trƣờng, giáo dục hƣớng nghiệp là một trong những hình thức hoạt
động học tập của HS. Thông qua hoạt động này, mỗi HS phải lĩnh hội đƣợc những
thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, nắm đƣợc hệ thống các yêu cầu của từng
nghề cụ thể mà mình muốn chọn, phải có kĩ năng tự đối chiếu những phẩm chất,
những đặc điểm tâm - sinh lý của mình với hệ thống yêu cầu của nghề đang đặt ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
cho ngƣời lao động... Nhƣ vậy, thông qua việc tổ chức hoạt động giáo dục hƣớng
nghiệp, nhà trƣờng sẽ giúp cho học sinh lựa chọn nghề nghiệp một cách phù hợp
về nhu cầu, hứng thú, sở trƣờng, đặc điểm tâm - sinh lý của mỗi HS, đồng thời phù
hợp với điều kiện của mỗi HS cũng nhƣ nhu cầu về nhân lực của xã hội đối với
nghề. Từ đó giúp điều tiết hợp lý việc chuẩn bị nguồn lực lao động cho xã hội, đáp
ứng tốt nhu cầu về nguồn nhân lực của đất nƣớc trong quá trình CNH - HĐH. Từ đó
có thể khẳng định, GDHN và tƣ vấn hƣớng nghiệp học đƣờng là không thể thiếu
trong các hoạt động giáo dục ở trƣờng phổ thông. Là một trong các mặt giáo dục
phát triển toàn diện cho HS, hơn nữa nó còn mang ý nghĩa kinh tế - XH rất lớn.
Tuy nhiên trong thực tế, theo các chuyên gia thì giáo dục hƣớng nghiệp và tƣ
vấn hƣớng nghiệp học đƣờng ở nƣớc ta hầu nhƣ đang bị bỏ ngỏ chƣa đƣợc quan
tâm đúng mức. Ngay chính bộ GD và ĐT cũng đang khuyết hẳn một bộ phận về tƣ
vấn giáo dục hƣớng nghiệp, ở trƣờng phổ thông thì giáo viên làm công tác hƣớng
nghiệp hầu hết là do giáo viên dạy các môn văn hoá kiêm nhiệm. Tính ra nếu mỗi
trƣờng phổ thông cần 1 giáo viên chuyên làm công tác hƣớng nghiệp thì cả nƣớc
thiếu tới 10.000 ngƣời. Hoạt động dạy nghề, hƣớng nghiệp cho học sinh phổ thông
còn chƣa hợp lý cả về thời lƣợng và chất lƣợng hiện tại đang chỉ đạt 4% tổng
chƣơng trình GD trong khi ở các quốc gia khác chiếm 7-8% chƣơng trình.[63]. Bộ
GD và ĐT cũng đã quy định về nội dung, chƣơng trình dạy nghề hƣớng nghiệp
cũng nhƣ số tiết cụ thể nhƣng việc tiến hành chỉ mang tính hình thức thậm chí
không có trong chƣơng trình đào tạo ở một số trƣờng, HS không đƣợc tƣ vấn nghề
theo những gì mà các em cần để có cơ sở lựa chọn nghề cho mình mà chỉ ngồi
trong lớp mong sớm hết giờ học, giờ sinh hoạt hƣớng nghiệp vốn đã quá ít ỏi.
Từ những thực tế nêu trên, việc lựa chọn nghề nghiệp của HS do có sự hƣớng
nghiệp của nhà trƣờng là không đáng kể. Bởi vì hoạt động GDHN trong nhà
trƣờng phổ thông hiện nay chƣa đủ sức thuyết phục hoặc chƣa thể làm thoả mãn
nhu cầu về tƣ vấn nghề, lựa chọn nghề của HS. Tức là GDHN trong nhà trƣờng
chƣa thực sự phát huy đƣợc vai trò và nhiệm vụ của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
1.4.2.3. Yếu tố bạn bè:
Mở rộng các mối quan hệ xã hội trong đó có quan hệ bạn bè là một đặc điểm
tâm lý quan trọng của lứa tuổi HS THPT. Quan hệ bạn bè là một nhu cầu không
thể thiếu và đƣợc các em rất coi trọng, bởi vì thông qua mối quan hệ này các em có
thể giải bày tâm sự, nguyện vọng, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, kể cả những điều
thầm kín, riêng tƣ những dự định về nghề nghiệp, về tƣơng lai. Trong mối quan hệ
này các em có thể tự khẳng định đƣợc khả năng, vị trí của mình, đƣợc giúp đỡ bạn
bè. So với tình bạn của lứa tuổi HS THCS thì tình bạn của HS THPT có nhiều sự
khác biệt, các em chọn bạn trên cơ sở của sự phù hợp về nhiều mặt và sự cân nhắc
vì vậy, mối quan hệ này thƣờng khá bền chặt và tồn tại suốt cuộc đời các em.
Chính vì vậy bạn bè cùng lớp, cùng trƣờng cũng là một yếu tố quan trọng ảnh
hƣởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của HS THPT. Trên cơ sở thực tế có nhiều HS
chọn nghề do lời khuyên của bạn bè, thấy các bạn chọn thì mình cũng chọn theo
hoặc các em chơi thân với nhau rồi rủ nhau chọn cùng một nghề, thi chung một
trƣờng... Hầu hết tất cả các cách chọn nghề do ảnh hƣởng từ bạn bè đều không
mang lại hiệu quả, bởi vì đó chỉ là sự lựa chọn bị chi phối bởi cảm tính và không
có sự đối chiếu so sánh giữa sở thích, điều kiện và năng lực của bản thân với các
yêu cầu của nghề, hoặc do sự hào nhoáng bề ngoài của nghề, do “bệnh” thần
tƣợng, chạy theo số đông. Theo số lƣợng điều tra có tới 52,33% số HS lựa chọn
nghề nghiệp do ảnh hƣởng từ bạn bè. [25]
1.4.2.4. Yếu tố các phương tiện thông tin đại chúng và các tổ chức XH:
Trong thời đại bùng nổ của thông tin và các phƣơng tiện thông tin đại chúng
nhƣ hiện nay đã tác động không nhỏ tới việc lựa chọn nghề nghiệp của HS. Với sự
hỗ trợ của sách, báo, phim ảnh, truyền hình đặc biệt là kho thông tin khổng lồ -
mạng Internet, các em dễ dàng nắm bắt, tiếp thu các thông tin đa dạng về mọi mặt
của các lĩnh vực đời sống XH. Tuy nhiên, dù đa dạng đến mức nào thì đây cũng là
những dạng thông tin một chiều, ít có cơ hội để các em trao đổi và nhận đƣợc sự tƣ
vấn cần thiết đặc biệt là trong vấn đề tƣ vấn hƣớng nghiệp. Tuy nhiên cũng cần
đƣợc phải khẳng định rằng trong điều kiện giáo dục hƣớng nghiệp trong các nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
trƣờng và gia đình đang có nhiều bất cập nhƣ hiện nay thì các phƣơng tiện thông
tin đại chúng giữ vai trò quan trọng, đã phần nào cung cấp cho HS các thông tin về
nghề nghiệp trong XH, các yêu cầu của nghề... giúp cho HS tự định hƣớng trong
việc lựa chọn nghề nghiệp. Theo số liệu điều tra đƣợc, có tới 55,19% số HS lựa
chọn nghề nghiệp do ảnh hƣởng từ các phƣơng tiện thông tin đại chúng [25], điều
này đã nói lên sự ảnh hƣởng mạnh mẽ của thông tin đại chúng đối với việc lựa
chọn nghề nghiệp của HS.
Bên cạnh đó các tổ chức khác nhƣ: hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội cựu chiến
binh, các trung tâm tƣ vấn... có tác động đáng kể đến việc lựa chọn nghề nghiệp
của HS ở địa phƣơng, đặc biệt là ở các địa phƣơng có nghề truyền thống. Các tổ
chức xã hội này đóng vai trò là tƣ vấn, cung cấp cho các em thông tin về nghề, các
yêu cầu của nghề, hỗ trợ học nghề và việc làm...Theo số liệu điều tra đƣợc thì có
13,46% số HS lựa chọn nghề nghiệp do có sự tác động của các tổ chức xã hội. [25]
Tuy nhiên, trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng gần đây (truyền hình, báo
chí...) cũng đã có các chƣơng trình về hƣớng nghiệp và tƣ vấn mùa thi tuy nhiên
nội dung vẫn chủ yếu xoay quanh việc giải đáp các thắc mắc của HS khi đi thi, làm
bài thi... Hàng năm bộ GD và ĐT xuất bản cuốn sách hƣớng dẫn tuyển sinh khá chi
tiết nhƣng nội dung cũng chỉ đề cập đến việc giới thiệu trƣờng, mã trƣờng, môn
thi, chỉ tiêu tuyển sinh, địa điểm trƣờng... mà thiếu hẳn phần giới thiệu sâu về các
trƣờng, các ngành học, các đặc điểm, yêu cầu của ngành đó đối với ngƣời học, và
nhiều thông tin cần thiết khác nhƣ hƣớng dẫn các em nên học trƣờng nào, ngành
nghề gì là phù hợp với khả năng và điều kiện của mỗi HS, thiếu các trắc nghiệm
(test) khách quan giúp HS bƣớc đầu tìm ra sự phù hợp của bản thân với những
ngành nghề mà các em đang lựa chọn.
1.4.2.5. Sự tác động của nền KTTT đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của HS THPT:
Nhƣ đã nói, KTTT là một phạm trù xã hội, một hiện tƣợng xã hội do vậy nó
có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến tất cả các hiện tƣợng xã hội khác trong
đó có vấn đề lựa chọn nghề nghiệp tƣơng lai của thanh niên, học sinh. Do sự tác
động của sự phát triển kinh tế xã hội, học sinh THPT, đặc biệt là học sinh lớp 12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
hiện nay đã có sự năng động, chủ động và thực dụng hơn trong việc lựa chọn nghề
nghiệp cho mình, nguyện vọng cá nhân thƣờng đƣợc các em đề cao do sự tự tin
vào quyết định của bản thân. Hơn nữa, gia đình luôn mong muốn con cái đỗ đạt
cao, dễ thành đạt, thu nhập cao, có địa vị cao trong xã hội cho nên có những định
hƣớng mang tính chủ quan của cha mẹ. Những điều này vô tình đã tạo ra sự lựa
chọn nghề nghiệp không phù hợp của học sinh và sự mất cân bằng của cơ cấu
nguồn lực lao động trong XH. Những ngành nghề đang đƣợc xã hội quan tâm, dễ
xin việc làm hoặc có thu nhập cao đang thu hút sự chú ý của học sinh, một số
ngành trƣớc đây từng có tỷ lệ học sinh lựa chọn cao nhƣ sƣ phạm, nông, lâm
nghiệp, y, dƣợc… thì hiện nay tỉ lệ đó giảm rất nhiều, thay vào đó là những ngành
nhƣ kinh tế, quản trị kinh doanh, kế toán, ngoại thƣơng, thƣơng mại, ngân hàng…
Tuy nhiên, cũng xuất phát từ xu hƣớng thực dụng, HS chủ động hơn trong chọn
nghề, đồng thời thu nhập và vị thế của ngƣời lao động trong các lĩnh vực nghề
nghiệp hiện nay ngày càng đƣợc Nhà nƣớc quan tâm và nâng cao. Vì vậy, những
năm gần đây tỉ lệ thí sinh thi vào các trƣờng THCN và dạy nghề bắt đầu tăng lên,
xu hƣớng lựa chọn con đƣờng xuất khẩu lao động cũng đang đƣợc nhiều HS chú ý.
Đây cũng chính là tác động có tính điều tiết các nguồn lực lao động trong nền
KTTT hiện nay. Vấn đề học sinh lựa chọn nghề nghiệp trong nền KTTT không hề
đơn giản và đang cần đƣợc nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống.
1.4.3. Một số nguyên nhân dẫn đến sự sai lầm trong việc lựa chọn nghề
nghiệp của HS THPT
Học sinh THPT nói chung và HS lớp 12 nói riêng là lứa tuổi bắt đầu bƣớc vào
ngƣỡng cửa cuộc đời, khác với HS THCS, thanh niên HS có sự chuẩn bị về tâm thế
nên các em chín chắn hơn khi quyết định kế hoạch đƣờng đời của mình. Tuy nhiên
trong thực tế, việc chọn nghề không hề đơn giản chút nào bởi vì ngành nghề trong
xã hội rất phong phú, mỗi nghề có những đặc điểm riêng, yêu cầu riêng... Hơn nữa,
việc lựa chọn nghề của các em bị ảnh hƣởng của nhiều yếu tố cả chủ quan và
khách quan từ nền KTTT đang ngày càng phát triển. Vì vậy, câu hỏi: “làm gì sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
khi tốt nghiệp THPT?, chọn nghề gì?...” khiến nhiều HS lúng túng không tìm đƣợc
câu trả lời.
Thực tế cho thấy, không phải bao giờ HS cũng có thể giải quyết đúng đắn vấn
đề chọn nghề của mình. Theo E.A Klimốp thì có thể có 2 nguyên nhân chính dẫn
đến sự lựa chọn nghề nghiệp không phù hợp của HS:
* Thứ nhất: Do cá nhân HS có thái độ không đúng đắn với các tình
huống khác nhau của việc lựa chọn nghề (đối với lĩnh vực hoạt động và sự khuyên
bảo của ngƣời đi trƣớc...). Những thành kiến và và tiếng tăm nghề nghiệp do ảnh
hƣởng trực tiếp hay gián tiếp của những ngƣời khuyên bảo, sự yêu thích nghề...
mới chỉ là bề ngoài, cảm tính. Cá nhân chƣa thực sự hiểu đƣợc nghề đó.
* Thứ hai: Cá nhân thiếu tri thức, kinh nghiệm về những tình huống đó
có thể do sự đồng nhất môn học với nghề, không thể hiểu hết năng lực của bản
thân, không biết hoặc không đánh giá đầy đủ những đặc điểm phẩm chất cá nhân,
không hiểu đƣợc đặc điểm và yêu cầu của nghề đòi hỏi với ngƣời lao động, thao
tác và trình tự của chúng khi giải quyết vấn đề chọn nghề. [28]
Theo GS.TS Phạm Tất Dong, có hai loại nguyên nhân dẫn đến việc chọn
nghề không tính đến những dấu hiệu của sự phù hợp nghề. Loại nguyên nhân thứ
nhất thuộc “thái độ không đúng” còn loại nguyên nhân thứ hai do “thiếu hiểu biết
về các nghề”. Một số nguyên nhân cụ thể là:
- Cho rằng nghề thợ thì thấp kém hơn kỹ sƣ, giáo viên mầm non, tiểu học thì
thua kém giáo viên THPT... Một số HS đã coi nhẹ công việc của ngƣời thợ, của
thầy giáo cấp I, của cô y tá, chỉ trọng công việc của kĩ sƣ, của thầy giáo dạy ở bậc
trung học, đại học, của bác sĩ... vì thế mà chỉ định hƣớng vào những nghề có sự
chuẩn bị ở bậc Đại học.
- Thành kiến với một số nghề trong xã hội, chẳng hạn, coi lao động chân tay
là nghề thấp kém, chê nhiều công việc dịch vụ là không “thanh lịch”... Thƣờng
thƣờng, những học sinh này không thấy hết ý nghĩa của yếu tố lao động nghề
nghiệp, đóng góp của nghề đối với XH. Đã là nghề đƣợc XH thừa nhận thì không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
thể nói đến sự cao sang hay thấp hèn đƣợc, đặc biệt là trong điều kiện của nền kinh
tế thị trƣờng hiện nay.
- Dựa dẫm vào ý kiến của ngƣời khác, không độc lập quyết định việc chọn
nghề. Vì thế đã có rất nhiều HS lựa chọn nghề theo ý muốn của cha mẹ, theo ý
thích của ngƣời lớn theo lời rủ rê của bạn bè. Cách chọn nghề này đã dẫn đến
nhiều trƣờng hợp chán nghề vì không phù hợp.
- Bị hấp dẫn bởi vẻ bề ngoài của nghề, thiếu hiểu biết nội dung lao động của
nghề đó. Ví dụ, nhiều HS thích đi đây đi đó nên đã chọn nghề thăm dò địa chất.
Khi vào nghề, thấy công việc của mình gắn bó với rừng núi, quanh năm phải tiến
hành công việc khảo sát, ít có dịp tiếp xúc với cuộc sống thành thị, thiếu điều kiện
để giao lƣu văn hoá và khoa học, do đó đã tỏ ra chán nghề.
- Cho rằng đạt thành tích cao trong việc học tập một môn văn hoá nào đó là
làm đƣợc nghề cần đến tri thức của môn đó. Ví dụ, có ngƣời học giỏi môn văn đã
chọn nghề
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_GD_TDC.pdf