Đề tài Xu hướng biến đổi quan hệ sở hữu và vận dụng vào việc phát triển quan hệ sở hữu ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Xu hướng biến đổi quan hệ sở hữu và vận dụng vào việc phát triển quan hệ sở hữu ở Việt Nam: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA SAU ĐẠI HỌC TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Đề tài: XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI QUAN HỆ SỞ HỮU VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN QUAN HỆ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM. Giáo viên hướng dẫn : PGS-TS.ĐOÀN QUANG THỢ Học viên thực hiện : KEO-KHANTEYMETHEA Lớp : K11 Cao Học(Ban ngày) LỜI NÓI ĐẦU Thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn diện và triệt để về mọi mặt, từ xã hội cũ sang xã hội mới xã hội XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng song cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thời kỳ xã hội từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Từ cơ sở hạ tầng mới hình thành lên kiến trúc thượng tầng mới. Song trong một thời gian dài đã không nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chấ...

doc28 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xu hướng biến đổi quan hệ sở hữu và vận dụng vào việc phát triển quan hệ sở hữu ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA SAU ĐẠI HỌC TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Đề tài: XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI QUAN HỆ SỞ HỮU VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN QUAN HỆ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM. Giáo viên hướng dẫn : PGS-TS.ĐOÀN QUANG THỢ Học viên thực hiện : KEO-KHANTEYMETHEA Lớp : K11 Cao Học(Ban ngày) LỜI NÓI ĐẦU Thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn diện và triệt để về mọi mặt, từ xã hội cũ sang xã hội mới xã hội XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng song cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thời kỳ xã hội từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Từ cơ sở hạ tầng mới hình thành lên kiến trúc thượng tầng mới. Song trong một thời gian dài đã không nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ Đại hội Đảng lần thứ VIII đến nay, Đảng Việt Nam luôn xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Thực hiện nhiệm vụ đó trong nhiều năm qua, nhất là những năm đổi mới Đảng va Nhà nước Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu quan trọng tạo ra thế và lực mới chuyển sang một thời kỳ phát triển cao hơn đẩy tới một bước công nghiệp hoá nước nhà. Tuy nhiên trong quá trình công nghiệp hoá những năm trước đây do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân nóng vội chủ quan, đốt giai đoạn Nhà nước đã mắc phải một số khuyến điểm sai lầm mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI và thứ VII đã vạch ra. Thực tế cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần phải bao gồm nhiều hình thức quan hệ sở hữu trong giai đoạn xưa kia. Vì vậy nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của xủ biến đối hướng lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá phát triển các loại hình quan hệ sơ hữu ở Việt Nam có vai trò quan trọng mang tính cấp thiết cao vì thời đại ngày nay chính là sự phát triển của nền kinh tế thị trường hàng hoá nhiều thành phần. Như vậy những vấn đề trên em đã quyết định chọn đề tài “Xu hướng biến đổi quan hệ sở hữu và vận dụng vào việc phát triển quan hệ sở hữu ở nước Việt Nam” đề làm bài tiểu luận của em cũng mong rằng thầy giáo hết sức giúp đỡ. NỘI DUNG I. khái niệm quan hệ sở hữu và cơ cấu sở hữu trong giai đoạn trước đây 1. Quan hệ sở hữu là gì? quá trình phát triển của nó? Theo quan niệm của Mác: “Quan hệ sở hữu được biểu hiện trong những hình thái hiện thực của quan hệ sản xuất”. Quan hệ sở hữu là nội dung bên trong của chính thể mang tính thống nhất. Tính hiện thực của quan hệ sở hữu chỉ được nhận thức một cách gián tiếp thông qua các quan hệ giữa các thành tố của quan hệ sản xuất chứ không thể nhận thức một cách trực tiếp vì quan hệ sở hữu là tổng hoà các quan hệ sản xuất. Quan hệ sở hữu đồng thời là sự chiếm hữu. Chiếm hữu bộc lộ qua hình thái giao tiếp vật chất tương ứng của một trình độ phát triển của sản xuất mà cụ thể là sự phân công lao động mang tính chất xã hội. Như vậy quan hệ sở hữu là mối quan hệ con người - con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất cùng với các điều kiện sản xuất do đó quan hệ sở hữu là một mặt của quan hệ sản xuất. Sự hình thành và phát triển của quan hệ sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên tuân theo quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội thì nội dung và phạm vi của quan hệ sở hữu ngày càng được mở rộng. 2. Cơ cấu quan hệ sở hữu trong giai đoạn trước đây (trước 19/86) Lịch sử loài người đã từng trải quan hai loại hình quan hệ sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất đó là quan hệ sở hữu tư nhân và quan hệ sở hữu xã hội. Quan hệ sở hữu xã hội là loại hình quan hệ sở hữu mà trong đó những tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc vê mọi thành viên trong xã hội trên cơ sở đó họ có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản xuất. Mục đích sản xuất dưới chế độ công hữu là để đảm bảo đời sống và vật chất con người lao động được nâng cao. Trước đây nước Việt Nam với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Nền kinh tế tư sản, tư liệu tự cung tự cấp do đó nó chỉ tồn tại 2 hình thức quan hệ sởhữu chính tương ứng với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể trong nền kinh tế này con người không được tự do buôn bán, trao đổi hàng hoá do đó chưa xuất hiện quan hệ sở hữu tư nhân chỉ tồn tại 2 hình thức quan hệ sở hữu quốc doanh và tập thể dưới sự điều tiết giá cả cuả nhà nước. II. Sự đa dạng hoá các hình thức quan hệ quan hệ sở hữu ở Việt Nam 1. Tất yếu khách quan của sự đa dạng hoá các hình thức quan hệ sở hữu ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Các hình thức quan hệ sở hữu quy định các thành phần kinh tế tương ứng.Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần dương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức quan hệ sở hữu chứ không chỉ đơn thuần là 2 hình thức quan hệ sở hữu như trước đây. Mác và lênin trong quá trình phân tích sự vận động của các nền kinh tế đã từng tồn tại trong lịch sử đã chỉ ra rằng rất hiếm khi nền kinh tế chỉ tồn tại một thành phần kinh tế duy nhất. Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ đấu tranh giữa 2 thế lực cũ và mới, cái cũ đã bị tiêu diệt nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, còn cái mới đang nảy sinh nhưng còn rất non yếu. Do đó trong kinh tế bao gồm những mảnh những biện pháp của CNTB cũng như của trước XHTB còn rơi lại và của cả CNXH. Những mảnh những bộ phận đó là các thành phần kinh tế cùng tồn tại bên cạnh nhau trong thời kỳ quá độ hay trong nền kinh tế thị trường. 2. Các hình thức quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước Việt Nam hiện nay, vấn đề chế độ quan hệ sở hữu và các hình thức quan hệ sở hữu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận. Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN mà nhà nước Việt Nam đang xây dựng và phát triển bao gồm các hình thức quan hệ sở hữu toàn dân, quan hệ sở hữu tập thể, quan hệ sở hữu cá thể, quan hệ sở hữu tư bản tư nhân và các hình thức quan hệ sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức quan hệ sở hữu này khái quát lại chỉ có 2 hình thức quan hệ sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu còn các hình thức khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. ở đây, mỗi hình thức quan hệ sở hữu lại có nhiều phương thức thể hiện và trình độ thể hiện khác nhau. chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mỗi hình thức quan hệ sở hữu nói trên có địa vị và vai trò riêng của chúng. Địa vị lịch sử của chúng phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay dưới ánh sáng của thực tiễn và tư duy mới cho phép nhà nước đi đến kết luận. Trong CNXH cần phải tồn tại đa dạng hoá tất cả các loại hình quan hệ sở hữu, bên cạnh những hình thức truyền thống có nhiều quan hệ sở hữu khác nhau. việc xây dựng nền kiểm toán thị trường không thể tách rời việc đa dạng hoá các hình thức quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. III. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất 1. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động và người lao động. Khi công cụ sản xuất được sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động củ nhiều người thì lực lượng sản xuất có tính cá thể. Công cụ sản xuất được nhiều người sử dụng để sản xuất ra các vật phẩm thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội càng sâu trình độ phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá là hình thước đo trình độ sản xuất. 2. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển biến đổi của các hình thức quan hệ sở hữu Để nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất và mở rộng bớt lao động nặng nhọc, con người không ngừng cải tiến hoàn thiện và chế tạo ra các công cụ sản xuất mới. Đồng thời sự tiến bộ của công cụ tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của người lao động ngày càng phát triển. Yếu tố năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thích ứng với nó. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất do đó nó quy định quá trình phát triển và biến đổi của quan hệ sở hữu. Sự lớn mạnh của các lực lượng sản xuất đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa lực lượng sản xuất càng phát triển bao nhiêu thì các thành phần kinh tế càng trở nên đa dạng bấy nhiêu từ đó các hình thức quan hệ sở hữu cũng trở nên đa dạng. Bởi vì tính đa dạng của các hình thức quan hệ sở hữu chính là đặc trưng cơ bản của nền sản xuất hàng hoá. Mà các hình thức quan hệ sở hữu được biểu hiện thông qua các quan hệ sản xuất. Từ đó lực lượng sản xuất lại thông qua quan hệ sản xuất mà tác động đến sự hình thành phát triển và biến đổi của quan hệ sở hữu nói chung, sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu nói riêng . 4. Sự tác động trở lại của sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với lực lượng sản xuất Mặc dù sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng với tính cách là hình thức, sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu nói riêng hay quan hệ sở hữu nói chung cũng có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Việc sử dụng nhiều trình độ, nhiều hình thức kinh tế với nhiều cấp độ khác nhau nhằm khai thác triệt để mọi năng lực sản xuất cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tóm lại quy luật về sự phù hợp cuả quan hệ sản xuất noi chung, quan hệ sở hữu nói riêng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội dưới tác động của quy luật này, xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất. Song không phải lúc loài người đã bỏ qua thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển một khi có quan hệ sản xuất mới phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc tiên tiến một cách giả tạo sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. IV. Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức quan hệ sở hữu Trước đây nói đến chủ nghĩa xã hội chúng ta thường nói đến chế độ công hữu về tư liệu sản xuất giữa 2 hình thức toàn dân và tập thể, hơn nữa còn cho rằng quan hệ sở hữu tập thể chỉ là một bước quá độ đi đến XHCN chỉ còn lại một hình thức sở hữu duy nhất về tư liệu sản xuất là quan hệ sở hữu toàn dân. Song thực tế lịch sử đã không thừa nhận điều đó. Ở nước Việt Nam từ đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay đã hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Thành tựu đạt được trong 10 năm qua đã khảng định tính đúng đắn của đường lối đó đến nay, không ai phủ nhận phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phải sử dụng nền kiểm toán hàng hoá nhiều thành phần nhưng có nhiều quan điểm cho rằng chúng ta phải da dạng hoá các hình thức sở hữu phải sử dụng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do có lực lượng sản xuất của Việt Nam còn thấp kém còn đan xen nhiều trình độ khác nhau. Với quan điểm đó phải chăng đa dạng hoá các hình thức sở hữu chỉ là lực lượng sản xuất còn thấp kém, còn khi lực lượng sản xuất phát triển cao thì lại đi đến đơn nhất hoá. Rõ ràng xu hướng ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất của phân công lao động trong xã hội là một xu hướng tất yếu là một quá trình lịch sử - tự nhiên và là một quy luật phát triển của xã hội. Đó cũng chính là quá trình xã hội hoá sản xuất cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất. Đó cũng chính là một quá trình xã hội hoá về các mặt lực lượng x thành quá trình phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc trong mỗi nước cũng như trên lĩnh vực quốc tế và khu vực, còn xã hội hoá về quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu) chính là quá trình ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu làm cho quan hệ sở hữu có nhiều cấp độ khác nhau, quan hệ với nhau, bổ xung cho nhau. Điều này khác với quan điểm trước đây đã đồng nhất xã hội hoá về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất với công hữu hoá. V. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là gì? Từ trước tới nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghiệp hoá. Quan niệm đơn giản nhất về công nghiệp hoá cho rằng “Công nghiệp hoá là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị (cho một vùng, một nước), các nhà máy, các loại công nghiệp...” Quan niệm mang tính triết tự này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình hình thành lịch sử công nghiệp hoá ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ. Nghiên cứu định nghĩa phạm trù công nghiệp hoá của các nhà kinh tế Liên Xô (cũ) người ta thấy trong cuốn giáo khoa kinh tế chính trị của Liên Xô được dịch sang tiếng Việt Nam 1958, người ta đã định nghĩa “Công nghiệp hoá XHCN là phát triển đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần thiết cho việc cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến.” Quan điểm công nghiệp hoá là quá trình xây dựng và phát triển đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng của các nhà kinh tế học Liên Xô đã được nhà nước Việt Nam tiếp nhận thiếu sự phân tích khoa học đối với điều kiện cụ thể của nước Việt Nam. Cuốn “ Từ điển tiếng Việt” đã giải thích công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân và đặc biệt công nghiệp nặng, dần tới sự tăng nhanh trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động và nâng cao năng suất lao động. Trên thực tế, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước những năm 60, nhà nước Việt Nam đã mắc phải sai lầm đó, kết quả là nền kinh tế vẫn không thoát khỏi nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp lạc hậu, kết cấu hạ tầng yếu kém... Mặc dù không đạt được mục tiêu nhưng cũng chính nhờ công nghiệp hoá mà nước Việt Nam đã xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định, tạo ra tiềm lực về kinh tế- quốc phòng, phục vụ chiến tranh, đảm bảo được phần nào đời sống nhân dân. Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO) đã đưa ra một định nghĩa: “Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ của nền kinh tế và xã hội.” Theo quan điểm này, quá trình công nghiệp hoá nhằm thực hiện nhiều mục tiêu chứ không phải chỉ nhằm một mục tiêu kinh tế- kỹ thuật. Còn theo quan niệm mới phù hợp với điều kiện nước Việt Nam thì: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới công nghệ, xây dựng cơ cấu vật chất- kỹ thuật, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp sang trình độ công nghệ cao hơn, nhờ đó mà tạo ra sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói tóm lại đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Thực hiện công nghiệp hoá là nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đưa nước Việt Nam theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. + Một số vấn đề thực tiễn lý luận trong qúa trình thực hiện công nghiệp hoá. 1. Lý luận chung Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan, phổ biến: Một mặt, con người phải quan hệ với giới tự nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan hệ này được biểu hiện ở lực lượng sản xuất; mặt khác, con người phải quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời - phương thức sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của phương thức sản xuất, phương thức sản xuất cũ lạc hậu tất yếu được thay thế bằng phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất chẳng những là thước đo thực tiễn của con người trong qúa trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người mà còn làm thay đổi quan hệ giữa người trong sản xuất, thay đổi các quan hệ xã hội. Tuy nhiên nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, thì quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế xã hội, là cơ sở thực hiện hoạt động sản xuất tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội. C.Mác đã đưa ra kết luận rằng: Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn của lịch sử phát triển, đó là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các quy luật khách quan. Ph. Ăng - ghen khẳng định “Lịch sử từ xa xưa đến nay đã tiến triển theo một quá trình tự nhiên, và về căn bản cũng bị chi phối bởi quy luật vận động như nhau”. Dẫu luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, bị chi phối bởi quy luật như nhau và “Một xã hội ngay cả khi đã phát hiện ra quy luật tự nhiên của sự vận động của nó... Cũng không thể nào nhẩy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn đó, song C.Mác cũng cho rằng “Nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa là rằng quá trình lịch sử tự nhiên chẳng những có thể diễn ra tuần tự từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội nào đó, trong những điều kiện khách quan và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Những tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời đại. Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới, công nghiệp hoá hiện vẫn đang được coi là phương hướng chủ đạo, phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước Việt Nam, khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở lý luận của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì một mặt, nhà nước Việt Nam phải đẩy mạnh sự nghiệp này trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất, hiện đại cho chế độ xã hội mới. ở đây “công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với căn bản công nghiệp, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới . Mặt khác, nhà nước Việt Nam phải chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn tác động, thúc đẩy hỗ trợ cùng phát triển. Bởi lẽ “Nếu công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”. Như vậy, từ quan điểm của C.Mác về kết cấu chính thể của hình thái kinh tế - xã hội với tư cách là sự đồng nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhà nước Việt Nam hoàn toàn có đủ cơ sở lý luận để khẳng định rằng: Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để, tác động sâu xa đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội để xây dựng hình thái kinh tế xã hội ở nước Việt Nam. Nhiệm vụ lớn lao mà cuộc cách mạng đó phải thực hiện là “Tạo ra điều kiện thiết yếu về vật chất - kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng nắng suất lao động, cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái” 2. Tổng kết, hệ thống, khái quát hoá của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá Như chúng ta đã biết từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Cơ chế này duy trì một thời gian khá dài và được xem là đặc trưng riêng biệt của chủ nghiã xã hội. Thật sự thì không phải như vậy. Nền kinh tế tập trung không phải là sản phẩm riêng biệt của chủ nghĩa xã hội, cũng như nền kinh tế thị trường không phải là duy nhất được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế tập trung đã thiết lập trong chủ nghĩa tư bản được các nước tư bản áp dụng từ trước khi nhiều nước xác lập xã hội chủ nghĩa nhưng họ đã xoá bỏ nó để chuyển sang cơ chế thị trường. Nhưng công bằng mà nói cũng chưa phải là cái duy nhất đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển xã hội theo quan điểm Mác - Lênin thì xã hội cộng sản là một xã hội tiên tiến, con ngươì có thể “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”, nhưng thực tế trong chủ nghĩa xã hội, của cải xã hội chưa đạt đến mức hết sức phong phú, dư thừa và cả trong giai đoạn tiếp theo, do vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì tồn tại nền sản xuất kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là đương nhiên. - Những năm vừa qua với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam đã làm thế giới ngỡ ngàng, ca ngợi. Từ chỗ nhà nước Việt Nam còn xa lạ, nay đã hội nhập được với nền kinh tế tiên tiến hiện đại. Tất cả những thành tựu kinh tế mà Đảng và nhà nước đã đạt được đã nói lên công cuộc đổi mới ở nước Việt Nam là cuộc cách mạng thực sự, - Đổi mới ở nước Việt Nam không chỉ giới hạn về lĩnh vực kinh tế mà còn tạo điều kiện cho nhà nước Việt Nam nhận thức mới chĩnh xác hơn về vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước đây Việt Nam nhận thức chưa đúng, hơn thế Việt Nam còn nhận thức sai lầm nghiêm trọng đầy ảo tưởng duy ý chí về mình. Nhà nước Việt Nam đã nhận thức lại và đánh giá đúng sự thật. Nhờ đổi mới tư duy nhiều về công nghiệp hoá - hiện đại hoá được nhận thức lại. Bảo vệ vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là mục tiêu nhiệm vụ không kém phần quan trọng, làm sáng tỏ thêm ý nghĩa vai trò cách mạng của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta hiện nay. Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học và là một trong những đỉnh cao của trí tuệ loài người, không có ai có thể phủ nhận rằng khi lý luận đó được quán triệt và vận dụng đúng đắn thì nhân dân thế giới đã làm nên biến có lịch sử vĩ đại. Do vậy, Đảng Việt Nam đã tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làmkinh chỉ nam cho mọi người hoạt động cách mạng. Các nước tư bản chủ nghĩa đã hiện thành cường quốc về kinh tế, nhưng họ lại bất lực trước vấn đề giải quyết quan hệ xã hội, họ mang tư tưởng bảo thủ lấy hiện tượng che lấp bản chất, công cuộc đổi mới mục đích là vì kinh tế chứ không phải là vì con người. Một xã hội vẫn tồn tại sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chính thì con người chỉ là kẻ làm thuê luôn bị bóc lỗt sức lao động của mình, không được hưởng quyền của con người. Hiện nay Đảng Việt Nam đã đi đôi với công nghiệp hoá đất nước phải thực hiện mục tiêu “ổ định chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyện của dân, do dân và vì dân”. - Một mục tiêu cực kỳ quan trọng thể hiện rõ tính cách mạng của công nghiệp hoá Việt Nam đó là phấn đấu xây dựng nước Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp hoá - hiện đại hoá “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. 3. Đường lối chỉ đạo - Nội dung của công nghiệp hoá ở nước Việt Nam bao gồm hai nội dung củ yếu là trang bị kỹ thuật và công nghiệp hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ kinh tế hợp lý. - Các Mác nhận xét “Khoa học là động lực của công nghiệp hoá - hiện đại hoá”. Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn, minh, hội nghị TW II một lần nữa nhấn mạnh “Cùng với giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,là nhân tố quyết định công nghiệp hoá - hiện đại hoá”. - Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một hoạt động có ý thức, có kế hoạch và do đó tất yếu phải dựa vào nhân tố dân số và nhu cầu, điều kiện tự nhiên và tiềm năng đất nước, điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất khoa học kỹ thuật và công nghệ, nguồn vốn tích luỹ quan hệ kinh tế quốc tế. Theo quy luật của vận động thì đấu tranh là cha đẻ của vận động. ở nước ta là một nước có nền kinh tế thấp thì việc tồn tại 5 thành phần kinh tế là tất yếu. Năm thành phần đó là: Kinh tế Nhà nước (quốc doanh), kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo dưới sự lãnh đạo của Nhà nước. Việc tồn tại 4 thành phần kinh tế là khách quan nhưng kiểm soát được nhằm bảo đảm các quy luật của cạnh tranh (có cạnh tranh mới có phát triển) của nội bộ nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Tổng kết: Nhận thức sai lầm về chủ nghĩa xã hội và về thời kỳ quá độ, từ nhận thức trong thực tiễn không thể dẫn đến những sai lầm nôn nóng trong cách làm và bước đi, thiếu kết hợp hài hoà quá trình vận dụng quy luật tuần tư với quy luật nhảy vọt, để tìm ra mô hình phát triển nhanh, đưa nước Việt Nam phát triển theo hướng đã định. - áp dụng một cách máy móc mô hình “kinh tế chỉ huy” và theo đó là cơ chế quan liêu bao cấp mang nặng tính hiện vật kéo dài, chính mô hình và cơ chế này đã vi phạm nghiêm trọng quy luật lợi ích của người lao động và của chủ thể kinh tế. Vô tình hay hữu ý đã xoá đi những mặt tích cực của kinh tế thị trường, làm kìm hãm sự phát triển khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất. VI. Thực tiễn 1. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy mọi quá trình công nghiệp hoá thành công cho đến nay đều đỏi hỏi phải có các điều kiện sau đây - Thứ nhất là thị trường: Lịch sử nhân loại chưa có một quốc gia nào khi công nghiệp hoá mà không cần đến thị trường, công nghệ, tài nguyên. Các chính sách tự do hoá thương mại, giá cả, tín dụng... là cực kỳ quan trọng trong việc mở rộng thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Trong thời kỳ trước, các quốc gia đã phải dùng chiến tranh để phânchia thị trường thế giới. Ngày nay, người ta không còn chiến tranh mà vẫn mở rộng thị trường thông qua thoả thuận ký kết các hiệp nghị thương mại giữa các quốc gia trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Đối với Việt Nam thì thị trường có ý nghĩa rất quan trọng, đồng thời Việt Nam là thị trường hấp dẫn cho việc đầu tư nước ngoài. - Thứ hai là nguồn nhân lự: Đây là một trong những hạt nhân của lực lượng sản xuất. Thực tế ở các nước đã tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá cho thấy việc xác lập một cơ cấu nguồn nhân lực thích hợp, đầu tư tài chính đủ cho giáo dục và y tế, thực hiện cơ chế thị trường trong việc sử dụng nhân lực kết hợp với chính sách ưu đãi là nguồn gốc cơ bản của thành công. Đối với Việt Nam không còn con đường nào khác là hợp tác trung tâm kỹ thuật có nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời đẩy mạnh giáo dục đào tạo. Thứ ba là công nghệ và vốn: Để phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa thì không thể không cần đến công nghệ và vốn. Thực tế cho thấy các nước đi trước phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá đều dựa chủ yếu vào phát triển công nghệ và vốn. Đối với Việt Nam thì thu hút vốn và công nghệ tiên tiến của nước ngoài là cần thiết, đồng thời có chính sách thu hút vốn trong nước và phát triển công nghệ với ba đặc trưng chủ yếu trên mô hình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam, phải tận dụng tối đa lợi thế của nền kinh tế phát triển cao hơn, có chính sách cụ thể đúng đắn để điều chỉnh sự vận động của các nhân tố trên phục vụ đắc lực vào thực tiễn. 2. Phương hướng, nội dung, mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá - Phương hướng hiện nay là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá và công nghiệp hoá phát triển theo mô hình công nghiệp hoá rút ngắn. Mô hình này thừa kế tất cả ưu việt của mô hình công nghiệp hoá ở các nước trên thế giới, đồng thời tính đến đặc điểm cụ thể thiên nhiên con người Việt Nam. - Nội dung tuỳ thuộc vào giai đoạn mà Đảng Việt Nam đã đề ra nội dung cụ thể. Năm 1960 - 1966 nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc mà mấu chốt là ưu tiên phát triển nông nghiệp. Năm 1976 đến 1980 nội dung của công nghiệp hoá là tập trung sức phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng. Năm 1986 đến 1990 thật sự tập trung sức người, sức của vào thực hiện bằng được 3 chương trình, mục tiêu về sản lượng thực phẩm, hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. - Mục tiêu xây dựng nước Việt Nam thành một nước công nghiệp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu này cho thấy sự nghiệp đó là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó trước hết là vì con người, do con người. 3. Yêu cầu nảy sinh khi thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá Trong bối cảnh hiện nay, công nghiệp hoá - hiện đại hoá được coi là xu hướng phát triển chung của tất cả các nước đang phát triển. Đối với nước Việt Nam chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu thì công nghiệp hoá - hiện đại hoá là “nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, là con đường tất yếu để đưa nhà nước Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu thì trước tiên phải chăm lo phát triển kinh tế, song sẽ là sai lầm nếu không quan tâm giải quyết tốt những vấn đề xã hội, không tạo ra cân đối hài hoà giữa kinh tế và xã hội. Cho đến nay, Việt Nam sau 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Tại Đại hội Đảng VIII, Đảng Việt Nam đã khẳng định nước Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền tệ cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép nước Việt Nam chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. VII. Thực tiễn đã chứng minh công nghiệp hoá là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế Việt Nam là nước có điểm xuất phát kinh tế thấp do chịu hậu quả của chiến tranh, kinh tế phát triển muộn. Muốn phát triển nhanh nền kinh tế, muốn rút ngắn khoảng cách lạc hậu cần phát huy các điểm sau: Thứ nhất, phải sử dụng lợi thế nước phát triển muộn về công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đảng và nhà nước Việt Nam có được những kinh nghiệm quý báu về thành công lẫn thất bại của các nước đi trước. Kế thừa những kinh nghiệm đó, Đảng Việt Nam đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Kế thừa các công nghệ tiên tiến của trong và ngoài nước thông qua chuyển giao công nghệ làm chủ trương để tăng trưởng công nghiệp, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho lực lượng xã hội. Thứ hai, tránh chiến tranh, tạo khung cảnh hoà bình để làm kinh tế, vấn đề này bao hàm vả về ổn định chính trị. Thứ ba, phải xác định được đúng mô hình phát triển công nghệ và kinh tế thị trường. VIII. Khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đảng và nhà nước Việt Nam phải chú ý đến mục tiêu của nó Suy cho cùng thì mục tiêu đó phải là tiến bộ xã hội, tạo tiền đề kinh tế, vật chất cho sự giải phóng con người, giải phóng sự tha hoá con người, làm cho con người thực sự là con người và một “xã hội văn minh” có điều kiện hình thành, phát triển, hoàn thiện và chú ý đến quy luật phát triển khách quan của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nó nhằm tới những mụ tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó đổi mới hàng loạt vấn đề cả về lý luận và thực tiễn, cả về kinh tế và chính trị, xã hội. Nó bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh điều kiện mới. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá là nhằm mục tiêu biến đổi nước Việt Nam thành nước công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức sống vật chất tinh thần được nâng cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Như vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình lâu dài để tạo ra sự chuyển đổi cơ bản toàn bộ bộ mặt nước ta về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh. Quá trình công nghiệp hoá hiện nay mới chỉ là bước đầu, những thành tựu khiêm tốn mà nền kinh tế Việt Nam đạt được rất đáng khích lệ. Việc Đảng và Nhà nước Việt Nam chọn con đường tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là hết sức đúng đắn. Bằng sự thông minh, sáng tạo cần cù, con người Việt Nam hoàn toàn tin tưởng rằng trong một tương lai không xn, Việt Nam sẽ cất cánh trở thành con rồng châu á và hoàn thành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước Việt Nam sánh vai các nước bạn bè trong cộng đồng quốc tế trên con đường phát triển. IX. Giải pháp phát triển nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH đất nước Thực chất căn bản của chủ nghĩa Mác về con người là sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Xã hội loài người chỉ được phát triển khi phát triển tối đa từng cá nhân. Vấn đề phát triển cá nhân không còn là vấn đề lý thuyết mà là nhu cầu thiết yếu trong thực tiễn xã hội Việt Nam ngay từ hôm nay. Cụ thể để công nghiệp hoá hiện đại hoá cần phải tiến hành một cuộc “cách mạng con người” nhằm tạo ra một số lượng lớn các nhà khoa học một đội ngũ đông đảo các nhân viên kỹ thuật có trình độ tri thức tương đối cao và những người lao động lành nghề. Điều đó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục bồi dưỡng nhân tài phải phát triển tương ứng…. Văn kiện đại hội Đảng IX viết: “ Phát triển giáo dục- đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Nhìn vào lịch sử kinh tế của một số nước tư bản phát triển, chúng ta thấy nói chung những nước này đều rất coi trọng công tác giáo dục. Chẳng hạn thời kỳ đầu sau chiến tranh, kinh tế Nhật bản bị phá hoại nặng nề, tài chính quốc gia vô cùng nguy ngập nhưng chính phủ Nhật bản không hề giảm chi phí giáo dục, tỷ trọng kinh phí giáo dục luôn chiếm 20% trở lên trong kinh phí hành chính của Nhật còn ở Mỹ năm 1985 chi tiêu nhà nước cho giáo dục chiếm 4,2% GDP và chiếm 12,8% chi tiêu của nhà nước. Thực tế đã chứng minh, ở Mỹ nếu đầu tư cho giáo dục 1$ thì sẽ lãi 4$, còn ở Nhật thì 1$ sẽ lãi 10$. Thực ra không chỉ có các nước tư bản phát triển nhìn thấy vai trò của giáo dục trong phát triển kinh tế mà một số nước Đông nam á cũng đã nhận thức được vấn đề này. Và kết quả là sự ra đời của những nước công nghiệp mới ở châu á. Suốt 40 năm qua, các nước này đã đầu tư cho giáo dục ngày một tăng. Tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục trong ngân sách nhà nước ở cộng hòa Triều Tiên năm 1972 là 13,9%, năm 1981 tăng 17,9%, năm 1983 tăng lên 21,6%. Trong 30 năm từ 1952 đến 1981 ở Đài Loan tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng 26,43 lần nhưng kinh phí giáo dục tăng hơn 90 lần. Hoặc như ở Singapore, hiện nay kinh phí giáo dục chiếm 4% giá trị GDP, mấy năm nữa sẽ lên đến khoảng 6% ngang với mức của các nước phát triển phương Tây. Những con số, ở một mức độ nào đó tự nó đã giải thích rằng không phải ngẫu nhiên mà trong một thời gian dài một loạt các nước quanh Việt Nam đã vươn lên trở thành “những con rồng châu á”. Tuy nhiên so với các nước có thu nhập bình quân đầu người thấp như Việt Nam thì nền giáo dục Việt Nam vẫn được xếp vào loại khá. Mặc dù vậy sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam còn bộc lộ một số mặt yếu kém như: - Mô hình giáo dục - đào tạo đa ngành và chuyên môn hẹp đã không thích nghi kịp xu thế đổi mới, không phản ứng nhạy bén trước yêu cầu của nền kinh tế thị trường, đào tạo ngành nghề không tương xứng với đòi hỏi khắt khe của thi trường lao động. Nhiều năm xảy ra sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng... - Cùng với nó là cơ cấu đào tạo tạo không hợp lý giữa đào tạo đại học và đào tạo nghề. Có dự báo cho rằng tương lai Việt Nam sẽ thiếu các nhà toán học, vật lý học và các nhà khoa học khác. Lực lượng nghiên cứu cơ bản thiếu sẽ ngăn cản khả năng tiếp thu công nghệ và tri thức mới. - Chất lượng giáo dục cũng là vấn đề đáng phải quan tâm. Trước hết cần khẳng định, bộ phận học sinh giỏi của Việt Nam không thua kém các nước khác. Điều đó được chứng minh qua các kỳ thi OLIMPIC Quốc tế về toán học, tin học, vật lý học... Nhưng những năm gần đây chất lượng giáo dục ở nhiều cấp bị giảm sút. Nguyên nhân là do đời sống của đông đảo đội ngũ giáo viên thấp dẫn đến tình trạng bỏ dạy, chân trong chân ngoài, những học sinh giỏi không thích thi vào sư phạm. Theo đánh giá của Bộ GD và ĐT, thì giáo viên không đủ tiêu chuẩn ở mức 60-70% cũng theo thống kê của bộ thì chỉ có 10% giáo viên có mức sống tương đối khá, 60% có mức sống trung bình, 30% có mức sống thấp. Ngoài ra, chất lượng giáo dục giảm sút còn do tình trạng thiết bị học tập nghèo nàn, thiếu thốn, công nghệ lạc hậu. X. Nền kịnh tế thị trường ở nước Việt Nam Kinh tế thị trườnglà nềnkinh tế hànghoá phát triển ở trình độ cao được điều tiết bởi cơ chế thị trưòng ở đó sản xuất ra cái gì sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai được quyết định thông qua thị trườngtrên cơ sở quan hệ cung cầu , giá cả hoác Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá tuân theo cơ chế phân phối của thị trường . Đó chính là nền kinh tế hàng hoá gắn với thị trường , lấy thị trường làm điều kiện tồn tại và hoạt động. Khác với nền kinh tế bao cấp nền kinh tế thị trường mang những đặc điểm sau: Thứ nhất ,kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở được điều hành bởi hệ thống pháp luật và tiền tệ của nhà nước nhà nước. Thứ hai , tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao . Nó xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Thứ ba , giá cả được hình thành ngay trên thị trường . ở nền kinh tế bao cấp giá cả do nhà nước định sẵn , điều này trái với những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả quy luật giá trị làm rối loạn lưu thông. Thứ tư , cạnh tranh là một tất yếu của cơ chế thị trường .Đó là động lực để các đơn vị kinh tế phát triển sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm. thứ năm , hàng hoá trên thị trường rất phong phú .Nó phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản suất. Trong đổi mới nền kinh tế , đổi mới cơ chế quản lý là nhiệm vụ hàng đấu. Cơ chế cũ quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh , với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên giao xuống , không phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ Cơ chế đó chưa chú ý đến quan hệ hàng tiền , hiệu quả kinh tế . cơ chế đó đẻ ra bộ máy quản lý cồng kềnh , cán bộ quản lý kém năng động , phong cách quản lý quan liêu cửa quyền . Với tất cả những đặc điểm trên cơ chế cũ đã kìm hãm sản xuất , khiến kinh tế không phát triển vì vậy cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa , đúng nguyên tắc tập trung dân chủ ra đời là sự phủ định cơ chế cũ , là yêu cầu khách quan để tạo động lực cho phát triển kinh tế .Đổi mới cơ chế quản lý là một quá trình cải cách có ý nghĩa cách mạng sâu sắc là cuộc đáu tranh giữa cái cũ và cái mới cái tiến bộ và cái lạc hậu. Việc đổi mới không phụ thuộc vào bất cứ một yếu tố bên ngoài nào mà muốn phát triển kinh tế thì bắt buộc phải đổi mới cơ chế quản lý . Trong đổi mới kinh tế , mở rộng và nang cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là một xu thế khách quan của nền kinh tế thế giới mà nền kinh tế việt nam muốn phát triển thì không thể tách rời khỏi nền kinh tế thế giới. Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại , nước Việt Nam phải tham gia vào sự phân công lao động quốc tế. Sau 15 năm đổi mới , nền kinh tế nước Việt Nam có những chuyển biến nhanh chóng, Đảng và nhà nước Việt Nam đã giải quyết được các vấn đề cơ bản về kinh tế và đã giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép kín, thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất , mở rộng giao lưu kinh tế tronh nước và hoà nhập với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy lựclượng sản xuất gắn với thị trường . Trên thực tế, nước Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực : Một là , nhịp độ phát triển kinh tế nhanh và ổn định .Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm trong thời kì 1986 – 1990 là 3,92% , 1991 – 1995 là 8,2% và năm 2002 là 7,5%. .Sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 21,5 triệu tấn(1990) lên 27,5 triệu tấn(1995) . Sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 304 kg (1985) lên 330 kg (1990) , 370 kg(1995) và 444kg (2000) trong nền kinh tế bao cấp ,sản xuất không đủ tiêu dùng hàng hoá khan hiếm ,nhưng nay đã đảm bảo lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng Hàng hoá dành cho xuất khẩu ngày càng tăng về số và chất lượng:từ năm 1989 trở đi mỗi năm ta xuất khẩu được trên dưới 2 triệu tấn gạo [Dự thảo chiến lực phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 và phương hướng nhiệm vụ , kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001 –2005] Tích luỹ nội bộ nền kinh tế từ mức không đáng kể đã dần đạt được tỉ lệ cao 1991 là 10,1% , 1992 là 13,8% , 1994 là 17% và hiện nay đã đạt 25% Nhìn vào những con số tăng trưởng đó chứng tỏ nước Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng và nền kinh tế thị trường thay thế chonền kinh tế bao cấp là một sự phủ định biện chứng . Hai là cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ ,tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 40,6%(1990)xuống còn 36,2%(1994), trong khi đo tỷ trọng trong ngành dịch vụ từ 38,6 lên 42, 5%. cơ cấu các thành phần kinh tế trong GDP cũng có sự chuyển đổi từ quốc doanh , hợp tác sang đa ththành phần nhưng vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường , tỷ trọng kinh tế quốc doanh trong GDP từ 29,4%(1990) lên 40,4%(1994) [ Giáo trình lịch sử kinh tế quốc dân] ba là Đẩy lùi đượcnnạn siêu lạm phát . Năm 1986 lạm phát 774,7%, 1988 là 393,8% giảm xuống còn 12,7% năm 1995 . Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,3%.Đến nay lạm phát được giữ ở mức ổn định không ảnh hưởng nhiêù đến nền kinh tế. Bốn là quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển mạnh . Từ chỗ bị bao vây cấm vận nước Việt Nam đã chủ động hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Hiện nay nước Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hơn 100 nước trên thế giới , tham gia và ngày càng có vai trò tích cực trong nhiều tổ chức quốc tế và khu vực. Kim ngạch xuất khẩu sau 10 năm (1991 –2000) tăng gấp 6 lần . Đầu tư trực tiếp của nước ngoài thực hiện trong 10 nămkhoảng 15 tỷ USD, chiếm 1/4 tổng đầu tư của toàn bộ xã hội ,năm 2000 tạo ra 22%kim ngạch xuất khẩu , 10% GDP . Năm là đới sống nhân dân được cai thiện rõ rệt .Năm 2000 bình quân lương thực theo đầu người la 444kg.tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,31% xuống còn 1,53%. Những thành tựu kinh tế là kết quả của công cuộc đổi mới .Như vậy đường lối đổi mới của đảng là hoàn toàn đúng đắn .Những thành tựu đó không những có vai trò nâng cao nền kinh tế đất nước mà còn nâng cao uy tín cuả nước Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu , trong 15 năm đổi mới ,vẫn còn nhiều yếu kém , hạn chế . Nền kinh tế nước Việt Nam vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé , cơ sở vật chất kĩ thuật còn yếu kém Nước Việt Nam còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất , tiết kiệm trong tiêu dùng, tích luỹ nội bộ nền kinh tế và đầu tư phát triển thấp Nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất chất lượng hiệu quả còn thấp Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế xã hội còn hạn chế ,khả năng kiềm chế lạm phát chưa vững chắc. Tình trạng bất công xã hội , tham nhũng buôn lậu còn phổ biến. TRong đại hộ Đảng lầnIX ,Đảng Việt Nam đề ra nhiều biện pháp để khắc phục và hạn chế những yếu kém đó để cho công cuộc đổi mới ỏ nưóc hoàn thiện hơn. KẾT LUẬN Nhìn vào quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước Việt Nam, chúng ta thấy rằng xu hướng biến đổi quan hệ sở hữu vân dụng phát triển cho đất nước Việt Nam đó là việc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt của Đảng Việt Nam. Quá trình đổi mới phù hợp với quy luật phát triển và là một tất yếu khách quan.Trong công cuộc đổi mới Đảng Việt Nam đã chủ trương xoá bỏ những mặt hạn chế của nền kinh tế bao cấp, đồng thời kế thừa và đổi mới những mặt tích cực và phát huy chúng để chúng phù hợp trong cơ chế mới. Tuy nhiên sự nghiệp đổi mới là một quá trình mới mẻ, khó khăn và đầy phức tạp đòi hỏi phải có lý luận khoa học. Mà sự thất bại trong sự nghiệp đổi mới và cải tổ ở liên xô đã cho chúng ta một bài học thực tiễn lớn. Đảng Việt Nam đã quán triệt chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng cơ sở lý luận cho quá trình đổi mới một cách phù hợp với bối cảnh trong nước và xu thế phát triển của thế giới hiện nay. Nhờ đó mà 15 năm qua Đảng và nhà nước Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng. Tuy nhiên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đến nay vẫn chưa được khẳng định rõ về thời gian .Tuy nhiên việc đổi mới nền kinh tế của Đảng Việt Nam đã bước đầu tạo ra tiền đề cho con đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước Việt Nam. Nền kinh tế thị trường ra đời là sự phủ định biện chứng đối với nền kinh tế cũ , đó là một bước phát triển cao hơn về chất, tuy nhiên mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng trong lòng những mâu thẫn cái mới sẽ luôn thay thế cái cũ.Chính vì vậy trên con đường phát triển kinh tế của mình ,Đảng và nhà nước Việt Nam phải luôn đổi mới để có những bước phát triển cao hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU 1. Văn kiện đại hội Đảng lần VI ,VII , VIII , IX 2. Văn kiện đại hội Đảng lần VI ,VII , VIII , IX 3. Giáo trình triết học Mác – LêNin (tập 1 , 2) – nhà xuất bản chính trị quốc gia - 2001 4. Lịch sử kinh tế quốc dân - nhà xuất bản giáo dục (1999) 5. Tạp chí triết học số 1 - tháng 2 – 1999 6. Tạp chí triết học số 4 – tháng 8 – 2000 7. Kinh tế chính trị Mác – LêNin (tập 1)- nhà xuất bản giáo dục 9. Sách giáo trình Kinh tế nông nghiệp. 11. Sách thực trạng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê - Hà Nội, 1998. 12. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, một số vấn đề về lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia 13. Tạp chí Cộng sản số tháng 1/1999. 14. Tạp chí Phát triển Kinh tế số tháng 9/1998. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrietHoc1049.doc
Tài liệu liên quan