Tài liệu Đề tài Xây dựng ngành công nghiệp phần mềm như một động lực phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam: Lời nói đầu
Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, nền kinh tế thế giới đang biến chuyển rất cơ bản, mạnh mẽ và sâu rộng về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, chức năng và phương thức hoạt động trên mọi lĩnh vực. Đây chính là một sự biến đổi lịch sử có ý nghĩa trọng đại, đánh dấu sự hình thành một hình thái mới của nền kinh tế thế giới - nền kinh tế tri thức. Trong thời gian tới, kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn, theo chiều hướng chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo có thể sẽ còn tiếp tục gia tăng. Đó là thách thức gay gắt đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Nếu không biết tận dụng cơ hội, nâng cao năng lực nội sinh, đi thẳng vào những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, thì nguy cơ ngày càng tụt hậu là không tránh khỏi.
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp phần mềm đã và...
88 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 930 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xây dựng ngành công nghiệp phần mềm như một động lực phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, nền kinh tế thế giới đang biến chuyển rất cơ bản, mạnh mẽ và sâu rộng về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, chức năng và phương thức hoạt động trên mọi lĩnh vực. Đây chính là một sự biến đổi lịch sử có ý nghĩa trọng đại, đánh dấu sự hình thành một hình thái mới của nền kinh tế thế giới - nền kinh tế tri thức. Trong thời gian tới, kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn, theo chiều hướng chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo có thể sẽ còn tiếp tục gia tăng. Đó là thách thức gay gắt đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Nếu không biết tận dụng cơ hội, nâng cao năng lực nội sinh, đi thẳng vào những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, thì nguy cơ ngày càng tụt hậu là không tránh khỏi.
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp phần mềm đã và đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta. Ngày 05-06-2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP về xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000-2005, trong đó có nêu ra mục tiêu xây dựng công nghiệp phần mềm thành một ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng cao, góp phần hiện đại hoá và phát triển bền vững các ngành kinh tế – xã hội, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và đảm bảo an ninh quốc gia. Phát triển ngành công nghiệp phần mềm chính là một trong những cách đi tắt, đón đầu để Việt Nam tiến vào và hội nhập cùng với nền kinh tế tri thức của thế giới.
Xuất phát từ ý tưởng trên, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vai trò của ngành công nghiệp phần mềm trong công cuộc xây dựng nền kinh tế tri thức tại Việt Nam, cũng như thực trạng hiện nay của ngành, em đã lựa chọn đề tài: “ Xây dựng ngành công nghiệp phần mềm như một động lực phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam “ cho Khoá luận tốt nghiệp của mình. Khoá luận có kết cấu như sau:
ChươngI: Công nghiệp phần mềm trong chiến lược phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam.
Chương II: Thực trạng của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam.
Chương III: Một số kiến nghị về chính sách và biện pháp để phát triển ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Ngô Quý Nhâm, giảng viên Khoa Quản trị kinh doanh, đã nhiệt tình hướng dẫn em thực hiện Khoá luận này.
Do thời gian nghiên cứu không nhiều và trải nghiệm thực tế của tác giả còn hạn chế, Khoá luận tốt nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, kính mong thầy cô và bạn đọc thông cảm.
Hà Nội ngày 09 tháng 12 năm 2002
Nguyễn Thị Nguyệt Minh
Chương I
Công nghiệp phần mềm trong chiến lược phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam
I. Khái quát về nền kinh tế tri thức và hội nhập vào nền kinh tế tri thức
1. Khái niệm nền kinh tế tri thức
Năm 1996, lần đầu tiên trên thế giới, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra định nghĩa chính thức về kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong nền kinh tế tri thức vẫn còn tỷ lệ nông nghiệp và công nghiệp nhưng hai ngành này chiếm tỷ trọng thấp, chiếm đại đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Đó có thể là những ngành mới như công nghệ thông tin (công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm), các ngành công nghiệp, dịch vụ mới dựa vào công nghệ cao, và cũng có thể là những ngành truyền thống (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được cải tạo bằng khoa học, công nghệ hiện đại. Ví dụ như sản xuất ôtô là một ngành công nghiệp truyền thống, nhưng nếu sản xuất ra những loại ôtô mới, trong đó phần lớn giá trị là do sử dụng vật liệu mới, kỹ thuật tự động điều khiển, như những ôtô có độ an toàn cao, những ôtô thông minh không cần người lái, thì ngành sản xuất ôtô có thể coi là ngành kinh tế tri thức. Thuộc các ngành kinh tế tri thức cũng có thể là: những nhà máy sử dụng công nghệ chế tạo có sự trợ giúp của máy tính, hạ đáng kể giá thành, tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, giảm thiểu phế thải; những trang trại sản xuất nông nghiệp dựa vào công nghệ sinh học, tự động điều khiển, hầu như không có người lao động; những nhà máy dệt may sử dụng internet để sản xuất và cung cấp hàng may mặc theo yêu cầu của khách hàng trên khắp thế giới, v.v…
Kinh tế tri thức xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong toàn bộ cơ cấu nền kinh tế quốc dân. ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành. Hiện nay ở những nước này riêng về kinh tế thông tin (những ngành kinh tế dựa chủ yếu vào công nghệ thông tin), trong đó kinh tế tri thức là chủ yếu đã chiếm hơn 50%GDP. Nhiều người ước tính vào khoảng năm 2030 các nước phát triển đều trở thành các nền kinh tế tri thức.
Có thể so sánh tóm tắt khái quát các thời đại kinh tế theo bảng sau:
Kinh tế nông nghiệp
Kinh tế công nghiệp
Kinh tế tri thức
Đầu vào của sản xuất
Lao động, đất đai, vốn
Lao động, đất đai, vốn, công nghệ, thiết bị, thông tin
Lao động, đất đai, vốn, công nghệ, thiết bị, tri thức, thông tin
Các quá trình chủ yếu
Trồng trọt, chăn nuôi
Chế tạo, gia công
Thao tác, điều khiển, kiểm soát
Đầu ra của sản xuất
Lương thực
Của cải, hàng hoá tiêu dùng, các xí nghiệp, nền công nghiệp
Sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống, công nghiệp tri thức, vốn tri thức
Cơ cấu kinh tế
Nông nghiệp là chủ yếu
Công nghiệp và dịch vụ là chủ yếu
Các ngành kinh tế thống trị
Công nghệ chủ yếu thúc đẩy phát triển
Sử dụng súc vật, cơ giới hoá đơn giản
Cơ giới hoá, hoá học hoá, điện khí hoá, chuyên môn hoá
Công nghệ cao, điện hoá, tin học hoá,xa lộ thông tin..
Lực lượng sản xuất chủ yếu
Nông dân
Công nhân
Công nhân tri thức
Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D)
Thấp hơn 0.3%GDP
1-2% GDP
Trên 3%GDP
Tỷ lệ đóng góp của KHCN cho tăng trưởng kinh tế
Thấp hơn 10%
Trên 30%
Trên 80%
Đầu tư cho giáo dục
Nhỏ hơn 1%GDP
2-4% GDP
6-8% GDP
Tầm quan trọng của giáo dục
Nhỏ
Lớn
Rất lớn
Trình độ văn hoá trung bình
Tỷ lệ mù chữ cao
Trung học
Sau trung học
Vai trò của truyền thông
Không lớn
Lớn
Rất lớn
(Nguồn: Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam – GS. VS. Đặng Hữu)
2. Một số đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo nên bộ mặt mới của nền kinh tế, tạo tiền đề hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin, với những nét đặc trưng nổi bật sau:
2.1 Công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin giữ vai trò hàng đầu trong nền kinh tế tri thức. Các ngành công nghệ cao (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa, công nghệ vật liệu mới…) phát triển nhanh chóng và có giá trị gia tăng cao. Nhịp độ tăng GDP trong ngành công nghệ thông tin tăng cao gấp 3-4 lần nhịp độ tăng tổng GDP; tốc độ tăng việc làm do công nghệ thông tin tạo ra nhanh hơn từ 14-16 lần so với toàn bộ các ngành kinh tế còn lại. Phát triển kinh tế có liên quan nhiều đến sở hữu trí tuệ, sáng tạo và sử dụng thông tin, đặc biệt trong các ngành sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng cao về trí tuệ trên cơ sở đầu tư mạnh mẽ vào vốn con người.
2.2 Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế tri thức. Thời gian từ kết quả nghiên cứu khoa học đến công nghệ và đưa sản phẩm ra thị trường đang ngày càng được rút ngắn lại. Nếu như ở thế kỷ thứ 19 thời gian đó phải mất từ 60 tới 70 năm thì sang thế kỷ 20 đã được rút ngắn lại còn khoảng 30 năm và riêng thập niên 90 thì chỉ còn lại là 3 năm. Thị trường công nghệ mới, sản phẩm mới gia tăng nhanh chóng. Để đạt mức 500 triệu người sử dụng điện thoại phải mất 74 năm; radio 38 năm; tivi 13 năm, thế nhưng internet chỉ có 3 năm1 Nền kinh tế tri thức và mục tiêu công nghiệp hoá -hiện đại hoá của Việt Nam trong tầm nhìn 2020 – TS Đặng Ngọc Dinh – Nguyên viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược, Bộ khoa học công nghệ và môi trường
. Phòng thí nghiệm, cơ quan khoa học, ngoài chức năng nghiên cứu còn mang cả chức năng sản xuất, kinh doanh. Quá trình đổi mới công nghệ đang diễn ra còn nhanh hơn cả khả năng thích nghi của con người. Phát minh khoa học ngày càng nhiều và mở ra khả năng khoa học có thể giải quyết được hầu hết những gì con người muốn làm để phục vụ cho cuộc sống của mình. Lực lượng sản xuất tinh thần đang chiếm ưu thế và có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với lực lượng sản xuất vật chất; tri thức (tức là các thành tựu của khoa học và công nghệ) trở thành sản phẩm có giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với các sản phẩm vật chất khác, vì nó đang tạo ra giá trị mới chiếm tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP.
2.3 Thời gian để tiến hành công nghiệp hoá được rút ngắn. ở thế kỷ 18 một nước muốn công nghiệp hoá phải mất khoảng 100 năm, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là khoảng 50-60 năm, trong những thập kỷ 70-80 là khoảng 20-30 năm, đến cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 quãng thời gian này còn có thể rút ngắn được hơn nữa. Đó là vì nhờ có cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới mà những nước nghèo đã có thể tìm được cơ hội để phát triển nếu như tạo ra được nguồn nhân lực chất lượng cao, tiếp cận được trình độ khoa học và công nghệ hiện đại.
2.4 Nguồn nhân lực trong xã hội nhanh chóng được tri thức hoá. Con người làm việc bằng năng lực trí tuệ là chính, càng không phải là chỉ là năng lực thể chất.Cơ cấu lao động xã hội có sự thay đổi cơ bản, nhân lực trong các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ xử lý thông tin và dịch vụ tri thức tăng nhanh. Sự cách biệt giàu nghèo chính là sự cách biệt về tri thức và năng lực tạo ra tri thức. Các nước đang phát triển chỉ bằng con đường phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo mới có thể rút ngắn được khoảng cách với các nước phát triển.
2.5 Cơ cấu kinh tế, hình thức tổ chức xã hội có sự thay đổi cơ bản. Một số cơ cấu tổ chức cũ theo kiểu kim tự tháp (phân cấp trên dưới) sẽ được thay đổi bằng cơ cấu mạng lưới. Mọi hoạt động chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính, của các cơ quan, xí nghiệp đều thông qua mạng máy tính. Chính phủ điện tử, thương maị điện tử hình thành và phát triển. Xuất hiện công ty ảo, trường học ảo,… Trò chơi kinh tế “tổng không” (thắng thua) được thay bằng mô hình “hai bên cùng thắng” thể hiện trong cạnh tranh và hợp tác; chuyển giao công nghệ …Năng lực kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường trong nhiều trường hợp còn quan trọng hơn năng lực sản xuất.
Với những đặc trưng trên, có thể khẳng định nền kinh tế tri thức đã được hình thành sớm hơn từ trong lòng của nền kinh tế công nghiệp với sức sản xuất đã phát triển vô cùng cao từ các nước phát triển. Những tiến bộ vượt bậc của công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, đã kết nối nền kinh tế theo mô hình mạng, trí lực và thông tin quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bốn trụ cột lớn của nền kinh tế tri thức: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng và công nghệ thông tin… tạo nên những bước đột phá trong đối với sự phát triển kinh tế – xã hội loài người. Do đó, không phải là ngẫu nhiên mà Mỹ đã có một nền kinh tế mới có chu kỳ liên tục tăng trưởng trong suốt một thời gian dài. Nhờ đi đầu trong các lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, Mỹ đã dần tái chiếm lĩnh các vị trí hàng đầu về nhiều lĩnh vực trong tương quan sức mạnh so với các quốc gia EU và Nhật Bản. Như vậy, cũng có thể nói, các nước phát triển thực sự là những quốc gia đã bắt đầu bước vào nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên ở một thế giới toàn cầu hoá và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong một chỉnh thể thống nhất của thị trường như hiện nay, hiệu ứng của nền kinh tế tri thức cũng đã từng bước xuất hiện ở các nước đang phát triển. Nhiều quốc gia, kể cả một số quốc gia kém phát triển, đã và đang tích cực vạch ra chiến lược tiếp cận, ứng xử và tranh thủ các thời cơ và thách thức do thời đại nền kinh tế tri thức mang lại.
3. Hội nhập nền kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu đối với Việt Nam
Đối với Việt Nam, khái niệm nền kinh tế tri thức vẫn còn là một khái niệm tương đối mới mẻ. Vấn đề đặt ra ở đây là Việt Nam có khả năng thực tế để tiếp cận và hội nhập với nền kinh tế tri thức hay không. Nếu nhìn vào thực trạng của Việt Nam sau hơn 15 năm đổi mới có thể thấy tuy nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến triển vượt bậc nhưng nếu so với nền tảng cho một nền kinh tế tri thức như ở những quốc gia phát triển thì nền sản xuất của chúng ta vẫn còn rất lạc hậu. Hiện tại Việt Nam vẫn còn hơn 70% lao động trong nông nghiệp, mật độ dân số rất cao so với nhiều nước, bình quân theo đầu người về ruộng đất canh tác, năng lượng, sắt thép… lại rất thấp. Vậy việc hội nhập vào nền kinh tế tri thức tại Việt Nam liệu có là điều quá sức?
Tuy nhiên, nếu như Việt Nam không biết làm chủ và vận dụng tri thức để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, không tìm ra cho mình con đường đi tới nền kinh tế tri thức thì chẳng bao lâu nữa nền kinh tế nước ta sẽ không kham nổi những đòi hỏi và những gánh nặng do chính bản thân sự phát triển của đất nước tạo ra, chưa nói tới các thách thức từ bên ngoài. Hay nói cách khác, hội nhập nền kinh tế tri thức chính là con đường tất yếu cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Tại đại hội lần thứ VIII, Đảng ta đã quyết định phải đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đến khoảng năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong thời gian hai thập kỷ ấy kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn không lường trước được, theo chiều ướng chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức với tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo có thể sẽ còn tiếp tục gia tăng. Đó là thách thức rất lớn đối với những nước phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Nếu không biết tận dụng cơ hội, nâng cao năng lực nội sinh, đổi mới cách nghĩ, cách làm, bắt kịp tri thức mới của thời đại, đi thẳng và những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, thực sự đi tắt đón đầu, thì nguy cơ tụt hậu rất xa là không thể tránh khỏi.
Việt Nam không thể rập khuôn theo mô hình công nghiệp hoá mà các quốc gia đi trước đã đi. Cũng không nên hiểu đơn thuần công nghiệp hoá chủ yếu chỉ là xây dựng công nghiệp, mà phải hiểu đây là sự chuyển biến nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất, chất lượng hiệu quả thấp, dựa vào phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công là chính sang nền kinh tế có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, theo phương pháp sản xuất công nghiệp, dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất. Vì thế mà công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá. Như vậy kinh tế tri thức chính là cơ hội quý báu để đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá tại Việt Nam .
Trong những thập kỷ tới, Việt Nam không thể chần chừ, bỏ lỡ cơ hội mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức để rút ngắn khoảng cách với các nước. Để thực hiện được mục tiêu này thì công nghiệp hoá ở Việt Nam phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ vô cùng lớn lao: chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ ấy phải thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau. Điều đó có nghĩa là phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Không thể chờ công nghiệp hoá hoàn thành cơ bản rồi mới chuyển sang kinh tế tri thức như các nước đi trước đã phải trải qua. Đây là lợi thế của các nước đi sau.
Tuy nhiên để có thể làm được việc đó, cần phải có đủ năng lực trí tuệ, có khả năng sáng tạo, nắm bắt và làm chủ các tri thức mới nhất, và phải chủ động hội nhập quốc tế, phát huy lợi thế so sánh của mình. Khoảng cách giữa các nước giàu và nghèo chính là khoảng cách về tri thức. Đuổi kịp các nước chủ yếu là bằng cách rút ngắn khoảng cách về tri thức.
Việt Nam có lợi thế so sánh lớn nhất là nguồn lực con người trong công cuộc xây dựng nền kinh tế tri thức. Hơn nữa, quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang mang lại cơ hội cho bất kỳ quốc gia miễn là quốc gia đó có bản lĩnh và năng lực huy động các nguồn lực từ khắp thế giới, để làm ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao đem đi bán ở bất kỳ nước nào, nơi nào trên thế giới. Quan trọng hơn cả là chúng ta có con người làm được việc này, có nhà nước và các thể chế cần thiết giúp con người làm tốt được việc đó.
Nói một cách khái quát: Không gian kinh tế đang sẵn sàng mở rộng ra khắp thế giới cho các quốc gia, các dân tộc có ý chí , có khả năng lựa chọn và quyết tâm làm chủ xu thế phát triển này.
Cơ hội này cách đây ba bốn thập kỷ đã tạo ra các nước NICS. Cơ hội ngày nay lớn hơn rất nhiều, nhưng cũng kèm theo nhiều thách thức. Trong bối cảnh như vậy, vấn đề cốt lõi quyết định nội dung, lộ trình và những bước đi của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, bao gồm cả chiến lược công nghiệp hoá của nước ta là việc lựa chọn sản phẩ m định làm ra và các quyết sách nhằm thực hiện sản phẩm đó, với mục tiêu: Mở rộng không gian kinh tế ra khắp thế giới, san lấp khoảng cách phát triển giữa nước ta với thế giới bên ngoài.
II. Khái quát về công nghiệp phần mềm và vai trò của nó trong chiến lược phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam
1. Khái niệm sản phẩm phần mềm
Phần mềm là những chương trình viết bằng mã số và chữ dùng để hướng dẫn điều hành thiết bị máy tính và quản lý nội dung thông tin hoặc dữ liệu trong máy2 “Công nghiệp phần mềm ấn Độ” Nhà xuất bản New Delhi, ấn Độ, 1996 – Richard Heeks
. Có hai loại phần mềm thường gặp nhất là phần mềm hệ thống (systems software) và phần mềm ứng dụng (applications software).
Phần mềm hệ thống là các chương trình dùng để quản lý cấu hình của một hệ thống máy tính, ví dụ như hệ điều hành máy tính có nhiệm vụ quản lý dữ liệu đầu ra hoặc đầu vào của máy.
Phần mềm ứng dụng là những chương trình được thiết kế để ứng dụng những tính năng của máy tính vào việc giải quyết các công việc như quản lý dữ liệu về cơ sở vật chất và thiết bị trong bệnh viện, trường học, nhà ga, quản lý sổ sách trong ngân hàng hay sổ lương trong các văn phòng…
Khi nói đến phần mềm, người ta thường nghĩ đến các sản phẩm đang được đem trao đổi và kinh doanh trên thị trường. Dựa trên những định nghĩa đã được công nhận và sử dụng rộng rãi trên thế giới, ta có khái niệm sau:
Sản phẩm phần mềm là phần mềm được sản xuất và được thể hiện hay lưu trữ ở bất kỳ một dạng vật thể nào, có thể được mua bán hoặc chuyển giao cho đối tượng khác sử dụng được.
Hầu hết các sản phẩm phần mềm thường chỉ mang tên một nhà sản xuất duy nhất, người có quyền quyết định đến mẫu mã, nhãn hiệu, bản quyền, cải tiến kỹ thuật… của phần mềm đó. Ví dụ, những phần mềm cho Windows được biết đến tên với tư cách là các sản phẩm độc quyền của hãng Microsoft. Tại Việt Nam, các series từ điển MTD là sản phẩm của công ty phần mềm Lạc Việt… Tuy nhiên, trên thực tế, để làm được một sản phẩm phần mềm và đưa nó đến được với người sử dụng cuối cùng (end – user) thành công cần trải qua các công đoạn khác nhau. Nhiều khi, do không có đủ nguồn lực lao động kỹ thuật để thực hiện toàn bộ các công đoạn đó, nhà sản xuất phải sử dụng tới các dịch vụ phần mềm do một hoặc nhiều công ty khác cung cấp. Trong một trường hợp khác, một công ty nhận được một đơn đặt hàng lớn sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ cho một công đoạn sản xuất một phần mềm nhưng công ty này cũng không đủ nguồn lực để hoàn thành việc đó trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, công ty này sẽ liên kết, hợp tác với một công ty khác để cùng tiến hành hợp đồng. Nói cách khác, công ty đó đã sử dụng dịch vụ phần mềm của một bên thứ ba để hoàn thành hợp đồng của mình với bên đã thuê họ.
2. Ngành công nghiệp phần mềm
Như mọi người đều biết, phần mềm là một bộ phận không thể thiếu được để một chiếc máy tính có thể hoạt động được. Lúc đầu các chương trình phần mềm chỉ được xây dựng ở quy mô nhỏ, theo đơn đặt hàng của một doanh nghiệp hay một cơ sở kinh doanh. Dần dần việc sản xuất phần mềm đã có một tầm vóc lớn, đi vào chuyên môn hoá cao độ và mang quy mô sản xuất của một ngành công nghiệp. Thế là ngành công nghiệp phần mềm đã ra đời.
Công nghiệp phần mềm là một ngành kinh tế nhằm nghiên cứu, xây dựng, phát triển, sản xuất và phân phối các sản phẩm phần mềm; cung cấp các dịch vụ như đào tạo, huấn luyện, tư vấn, cung cấp giải pháp, hỗ trợ nguồn nhân lực cho phát triển phần mềm.
Công nghiệp phần mềm có những đặc trưng sau:
Trong mỗi sản phẩm của nền công nghiệp thông thường đều hàm chứa một khối lượng lớn các nguyên vật liệu thô ban đầu như sắt, thép, xi măng,…được sản xuất ra theo môt quy trình công nghệ đồng bộ, kết tinh sức lao động của con người. Còn trong các sản phẩm của nền công nghiệp phần mềm lại chứa một hàm lượng lao động sáng tạo rất cao mà sử dụng rất ít nguyên vật liệu thô ban đầu. Cái quan trọng ở đây là chất xám. Nhà khoa học Mỹ Mc Corduck đã nói: “Công nghiệp phần mềm là ngành công nghiệp lý tưởng. Nó tạo ra giá trị bằng cách biến đổi năng lực trí não của con người, tiêu thụ rất ít năng lượng và nguyên liệu thô”
Nền tảng của ngành công nghiệp (công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ…) là nhà xưởng, máy móc, dây chuyền công nghệ còn trong ngành công nghiệp phần mềm thì cơ sở vật chất quan trọng nhất là trí tuệ của con người. Nhà khoa học Mỹ Feigenbaum đã cho rằng “Tri thức là quyền lực còn máy tính điện tử là bộ khuyếch đại các quyền lực đó”
Các sản phẩm của ngành công nghiệp phần mềm được tiêu thụ trên thị trường thế giới một cách nhanh chóng, tốn kém rất ít chi phí chuyên chở từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Còn trong nền công nghiệp thông thường, đặc biệt là trong công nghiệp nặng, việc chuyên chở sản phẩm chiếm chi phí rất đáng kể.
Sản phẩm của ngành công ngiệp phần mềm không bị tiêu hao đi trong quá trình sử dụng mà ngược lại nó sẽ làm tăng giá trị của các thành phần sử dụng nó lên gấp nhiều lần.
Ngành công nghiệp phần mềm là sản phẩm của một nền kinh tế toàn cầu hoá trong đó thương mại điện tử đóng vai trò trung tâm của nền thương mại thế giới.
Ngành công nghiệp phần mềm tạo ra các nghề nghiệp mới chưa có trước đây. Đó là các ngành nghề liên quan đến thông tin và quá trình xử lý thông tin như phân tích viên hệ thống, lập trình viên, thiết kế hệ thống, quản trị hệ thống, thao tác viên phòng máy, marketing sản phẩm phần mềm, quản lý dự án phần mềm..
Với những đặc trưng này, có thể khẳng định được rằng công nghiệp phần mềm là một trong những ngành sản xuất của nền kinh tế tri thức. Phát triển công nghiệp phần mềm cũng chính là từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức tại Việt Nam.
2. Vai trò của công nghiệp phần mềm trong chiến lược phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam.
Việc chuyển biến có ý nghĩa toàn cầu từ nền kinh tế và xã hội công nghiệp sang nền kinh tế và xã hội thông tin không xuất phát từ nhu cầu của các nước nông nghiệp, còn chậm phát triển như Việt Nam, nhưng trong điều kiện của thế giới hiện nay, nó có ảnh hưởng mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả mọi quốc gia, bằng cách này hay cách khác, tham gia vào sự chuyển biến đó. Tuy có nhiều thách thức và rủi ro nhưng mặt khác sự chuyển biến này lại chứa đựng rất nhiều những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ, của trí tuệ loài người về kinh tế xã hội mà chúng ta có thể được thụ hưởng, tiếp thu và sử dụng cho sự phát triển của mình.
Việt Nam hiện nay GDP bình quân đầu người chỉ bằng 1/12 bình quân của thế giới, xếp thứ 180 trong 210 nước3 Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam - GS. VS. Đặng Hữu – Uỷ viên Trung ươn g Đảng, trưởng ban khoa giáo Trung ương.
, thuộc nhóm những nước nghèo nhất, không có cách nào để đuổi kịp các nước về GDP, nhưng phải phấn đấu để nâng cao nhanh chóng trình độ tri thức, tăng cường năng lực nội sinh về khoa học, công nghệ mới nhất để hoàn thành thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chúng ta có thế mạnh về tiềm năng con người, chỉ số phát triển con người nước ta đứng thứ 110 và thuộc nhóm nước trung bình trên thế giới. Thực tế đã chứng minh người Việt Nam có khả năng nắm bắt và làm chủ nhanh các tri thức mới và các công nghệ hiện đại. Nhiều ngành mới xây dựng nhờ sử dụng các công nghệ mới, đã theo kịp trình độ các nước trong khu vực (bưu chính viễn thông, năng lượng, dầu khí, cầu đường…). Cho nên, như Nghị quyết TW2 (khoá 8) đã chỉ ra, Việt Nam cần thực hiện một chính sách phát triển bằng và dựa vào con người và khoa học công nghệ. Chiến lược phát triển đất nước ta là chiến lược dựa vào tri thức và thông tin, chiến lược đi tắt, đón đầu tiến thẳng tới một xã hội thông tin, một nền kinh tế tri thức trong tương lai.
Kinh tế tri thức được hình thành và phát triển dựa trên bốn trụ cột cơ bản là: công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng, công nghệ vật liệu mới và công nghệ thông tin. Trong đó công nghệ thông tin được các quốc gia đặc biệt chú trọng và được coi là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế tri thức. ở Mỹ, trong vòng 4 năm, chi phí cho các doanh nghiệp máy tính đã tăng86% vượt xa mức tăng của các ngành khác chỉ với 40%. Hiệu quả của các ngành sản xuất có sử dụng máy vi tính tăng lên rõ rệt, từ mức 3.2% trong nửa đầu thập kỷ 80 lên 5.7% năm 1990. Trong 3 năm gần đây, tỷ lệ đóng góp các ngành sản xuất điện tử tin học cho sự tăng tưởng kinh tế Mỹ lên đến 45%, trong khi các ngành xây dựng chỉ chiếm 14%, và xe hơi chỉ có 4%4 Kinh tế tri thức kinh nghiệm của một số nước phát triển - TS. Nguyễn Xuân Thắng – Phó viện trưởng Viện kinh tế thế giới – Trung tâm KHXH & NVQG
. ở Nhật Bản, người ta cũng đã nhận thức một cách sâu sắc vai trò của phần mềm, các mạng lưới máy tính tốc độ cao và các hoạt động liên quan đến mạng NET đối với nền kinh tế Nhật Bản tương lai. Từ năm 1994, Nhật Bản đã nhanh chóng thành lập 2000 công ty kinh doanh phần mềm và Internet. Chính phủ Nhật Bản đồng thời cũng thực hiện các biện pháp như xoá thuế đánh vào các sản phẩm máy tính và phần mềm được các công ty sử dụng, để thúc đẩy giao dịch mua bán với khách hàng và với các dịch vụ mới nhằm tiêu thụ máy tính và sử dụng Internet.
Từ kinh nghiệm xây dựng nền kinh tế tri thức ở một số quốc gia phát triển trên, ta có thể thấy được chiến lược phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam cũng phải đi liền với chiến lược phát triển của ngành công nghệ thông tin trong nước. Đây cũng là một ngành mà người Việt Nam có nhiều khả năng. Những học sinh Việt Nam thi tin học quốc tế đoạt giải rất cao, lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài làm tin học khá đông và giữ nhiều vị trí quan trọng. Riêng tại thung lũng Silicon hiện có hơn mười nghìn người làm công nghệ thông tin. Việt Nam cần tập trung phát triển công nghệ thông tin để thúc đẩy phát triển và hiện đại hoá các ngành, các lĩnh vực sản xuất dịch vụ, nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý, đồng thời để phát triển các ngành công nghiệp thông tin là những ngành có giá trị gia tăng cao nhất, những ngành trụ cột xã hội tương lai. Công nghệ thông tin trở thành ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta. Đối với những nước đang phát triển trong đó có Việt Nam đang phấn đấu vươn lên để hội nhập vào nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương lai, Uỷ ban Khoa học và công nghệ vì phát triển của Liên Hợp Quốc có khuyến nghị một số nội dung chiến lược cần được tập trung thực hiện trong chính sách phát triển công nghệ thông tin như sau5 Xã hội tri thức và vài suy nghĩ về con đường hội nhập của chúng ta - GS. TS Phan Đình Diệu - Đại học quốc gia Hà Nội.
:
Hướng với sản xuất công nghệ các sản phẩm công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ thiết thực các mục tiêu xã hội và tăng ưu thế cạnh tranh cho nền kinh tế.
Phát triển nguồn tài nguyên nhân lực cho các chiến lược công nghệ thông tin quốc gia bằng cách đẩy mạnh và mở rộng các hình thức học, học liên tục và học suốt đời.
Cải tiến quản lý sự phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong các quản lý các tổ chức và sự phát triển quốc gia.
Phát triển các mạng thông tin và kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia, thực hiện các biện pháp để mở rộng khả năng truy cập của mọi người đến các mạng đó.
Khuyến khích các nguồn đầu tư và tăng cường đầu tư tài chính từ nhà nước cho phát triển công nghệ thông tin và cho kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia.
Tạo mọi khả năng để truy cập tới các nguồn tri thức khoa học và kỹ thuật trên thế giới.
Công nghiệp phần mềm là một ngành công nghiệp quan trọng của công nghệ thông tin. Trong bối cảnh nước ta hiện nay để thực hiện được chiến lược phát triển ngành công nghệ thông tin thì bước đột phá đầu tiên chính là từ ngành công nghiệp phần mềm. Phát triển công nghệ phần mềm là chủ trương được Đảng và Nhà nước ta ưu tiên quan tâm, là một trong những cách đi tắt, đón đầu để thực hiện đồng thời hai mục đích: công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức trong tương lai.
Công nghiệp phần mềm có một số ưu thế hơn trong chiến lược phát triển nền kinh tế tri thức so với các ngành khác là vì các lý do sau:
Công nghiệp phần mềm có tốc độ tăng trưởng cao, có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu kinh tế. Công nghiệp phần mềm là công nghiệp của trí tuệ. Giá trị gia tăng kinh tế do trí tuệ tạo ra ngày càng cao. Công nghiệp phần mềm ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong kinh tế và xuất khẩu của một số nước. Nhiều nước định hướng chiến lược xuất khẩu là sản phẩm phần mềm. ở Mỹ, năm 1996 công nghiệp phần mềm chiếm khoảng 6% GDP, chiếm 51% thị phần toàn cầu; ở ấn Độ, năm 1998 xuất khẩu phần mềm đạt gần 1,81 tỷ USD, năm 2000 đạt khoảng 5 tỷ USD; ở Ai-len, với dân số 3.6 triệu người, năm 1997 xuất khẩu 5,5 tỷ USD, năm 2000 khoảng 10 tỷ USD6 Công nghiệp phần mềm – Báo Nhân dân tháng 7/2001
.
Công nghiệp phần mềm là một ngành siêu sạch, đem lại lợi nhuận cao. Khác với các ngành kinh tế thông thường đòi hỏi nhiều nguyên, nhiên, vật liệu, công nghiệp phần mềm chủ yếu dựa vào lao động trí tuệ. Bởi vậy, đây là một ngành công nghiệp siêu sạch, không gây ô nhiễm môi trường.Chi phí cho phát triển phần mềm chủ yếu là chi phí cho hoạt động trí tuệ và tiếp thị. Vì vậy, lợi nhuận từ ngành này là rất lớn. Thông thường lợi nhuận này chiếm hơn 50% tổng doanh thu bán ra.
Công nghiệp phần mềm vừa phát triển tập trung ở một số nước, vừa phân tán sang những nước khác. Công nghiệp phần mềm tập trung chủ yếu ở Mỹ và xu hướng này tiếp tục tăng. Đến nay, ngành công nghiệp này phần lớn là do các công ty Mỹ nắm, đó là các công ty đa quốc gia hùng mạnh và có chi nhánh khắp toàn cầu. Hệ thống giáo dục, đào tạo và hệ thống nghiên cứu triển khai về công nghệ thông tin nói chung và công nghiệp phần mềm nói riêng ở Mỹ phát triển mạnh. Tây Âu và Nhật Bản cũng là những khu vực phát triển mạnh mẽ công nghiệp phần mềm. Bên cạnh xu hướng trên, hiện nay đang xuất hiện xu hướng phân tán. Sự chuyển dịch dòng người, dòng tiền, dòng hàng hóa và thông tin đã vượt ra khỏi biên giới của các quốc gia. Điều đó tạo nên sự phân tán trong sự phát triển phần mềm. Với sự phát triển của Internet và thương mại điện tử, dòng chuyển dịch này ngày càng lớn. Việc sản xuất và gia công xử lý số liệu thông qua hệ thống viễn thông đang trở nên phổ biến, tận dụng được sự chênh lệch thời gian giữa các quốc gia. Nhiều công ty phần mềm đang xây dựng các cơ sở sản xuất phần mềm và gia công phần mềm tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam để tận dụng lợi thế so sánh về nguồn nhân lực.
Công nghiệp phần mềm là ngành công nghiệp mới có cơ hội cho những nước biết nắm thời cơ. Phần lớn các doanh nghiệp phần mềm mới bắt đầu hoạt động trong 20 năm trở lạiđây. Một số công ty nhỏ, nhưng sau năm, sáu năm thành lập, đã có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của toàn ngành trên phạm vi quốc tế. Việc chế tạo phần cứng công nghệ thông tin hiện chỉ do một số ít các công ty có vốn đầu tư lớn, công nghệ sản xuất cao, sản xuất trên quy mô lớn, với giá thành ngày càng hạ, tính năng lại càng cao. Điều này rất khó thực hiện được đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó với vốn đầu tư ban đầu không lớn cũng có thể thành lập được doanh nghiệp phần mềm. Nhu cầu về phần mềm cũng như nhu cầu dịch vụ và nhân lực của công nghiệp phần mềm đang tăng lên nhanh chóng. Các nước càng phát triển thì sự thiếu hụt về dịch vụ và nhân lực lại càng nhiều.
Phát triển ngành công nghiệp phần mềm chính là biện pháp để thực hiện chiến lược phát triển công nghệ thông tin tại Việt Nam mà Uỷ ban Khoa học và công nghệ vì phát triển của Liên Hợp Quốc đã đề ra trên cơ sở phát huy những lợi thế cũng như phù hợp với hoàn cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay. Phát triển công nghiệp phần mềm sẽ giúp công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị và từ đó thúc đẩy phát triển nhanh cơ cấu kinh tế, nâng cao tốc độ tăng trưởng, hiệu quả và chất lượng nền kinh tế. Từ đó có thể phấn đấu sau một thập kỷ (đến khoảng 2010) nước ta sẽ xây dựng được mạng xa lộ thông tin quốc gia, kết nối với tất cả các trường học, các cơ quan, xí nghiệp và phần lớn các hộ gia đình. Thông tin trở thành yếu tố sản xuất chính trong nền kinh tế. Đó chính là bước tiến quan trọng vào nền kinh tế tri thức của Việt Nam.
Việt Nam đã chủ trương hội nhập vào nền kinh tế thế giới, như vậy phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, trên cơ sở phát huy năng lực nội sinh về khoa học công nghệ của Việt Nam, bắt kịp và làm chủ công nghệ hiện đại, đi nhanh đi tắt vào nền kinh tế tri thức. Công nghiệp phần mềm là một ngành công nghiệp đang tạo ra những sản phầm có giá trị gia tăng lớn, tạo nguồn lực lớn phát triển con người có khả năng làm chủ, sáng tạo mới tri thức, đưa tri thức vào thúc đẩy nền kinh tế đi lên. Đây cũng là ngành mà Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển. Vì vậy có thể khẳng định được rằng công nghiệp phần mềm chính là một trong những động lực cho Việt Nam thực hiện tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức trong tương lai.
Chương II
Thực trạng ngành công nghiệp
phần mềm Việt Nam.
I. Cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam.
1.Cơ sở hạ tầng pháp lý
Nắm bắt được vai trò quan trọng của ngành công nghiệp phần mềm trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã ban hành khá nhiều chính sách khuyến khích và phát triển công nghiệp phần mềm. Tiêu biểu là Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP về việc xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000-2005. Nghị quyết khẳng định: Công nghiệp phần mềm là một ngành kinh tế mới, có giá trị gia tăng cao, có nhiều triển vọng. Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để khuyến khích các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư và phát triển ngành này. Nhà nước ưu đãi và khuyến khích tối đa việc phát triển công nghiệp phần mềm. Bước đầu, chú trọng hình thức xuất khẩu qua gia công và cung cấp dịch vụ cho các công ty nước ngoài. Đồng thời mở rộng thị trường trong nước, trước mắt tập trung phát triển phần mềm trong một số lĩnh vực đem lại hiệu quả kinh tế xã hội, thay thế các phần mềm nhập khẩu. Nhanh chóng tổ chức xuất khẩu lao động phần mềm và phần mềm đóng gói để công nghiệp phần mềm Việt Nam từng bước đạt được vị thế trên thị trường thế giới.
Nghị quyết cũng đã chỉ rõ nội dung, biện pháp xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm tập trung vào:
- Đào tạo nguồn nhân lực. Phát huy mọi hình thức đào tạo và đào tạo lại, huấn luyện và bồi dưỡng để đến năm 2005 có khoảng 25.000 chuyên gia trình độ cao và lập trình viên chuyên nghiệp, thông thạo tiếng Anh.
- Thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi. Nhà nước áp dụng mức ưu đãi hiện hành cao nhất cho các doanh nghiệp làm công nghiệp phần mềm. Ưu đãi cao nhất về thuế. Thành lập và ban hành quy chế tổ chức, quản lý và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao đặc biệt là công nghệ phần mềm. Nghiên cứu thiết lập tại khu công nghệ Hoà Lạc và khu công nghệ phần mềm Quang Trung cổng kết nối trực tiếp với hệ thống internet chất lượng cao, theo giá cạnh tranh với các nước trong khu vực. Lập dự án đầu tư phát triển công nghiệp phần mềm, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của pháp luật. Thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Mở rộng thị trường. Tổ chức xúc tiến thương mại và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm công nghiệp phần mềm trong nước mở chi nhánh và văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài và xuất khẩu lao động phần mềm.
Tiếp đó, ngày 17/10/2000 Bộ chính trị ra chỉ thị số 58/CTTW về đẩy mạnh và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bộ chính trị chủ trương: Đưa vào hệ thống mục lục ngân sách loại chi riêng về công nghệ thông tin. Khuyến khích sử dụng công nghiệp thông tin trong nước. Các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin được tạo ra trong nước được miễn thuế giá trị gia tăng. Xây dựng chương trình hỗ trợ xuất khẩu trước hết là gia công phần mềm và xuất khẩu lao động. Đẩy mạnh việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Tăng cường, đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với công nghệ thông tin.
Ngày 20/11/2000 Thủ tướng chính phủ ra Quyết định số 128/200/QĐ-TTg về một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư và phát triển công nghiệp phần mềm. Nội dung của quyết định đã cụ thể hoá những chính sách và biện pháp sau:
- Các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam và các doanh nghiệp phần mềm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài được hưởng thuế suất thu nhập doanh nghiệp với các mức sau: 25%, 20%, 15% tuỳ theo địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Các doanh nghiệp phần mềm thuộc đối tượng điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được hưởng thuế suất thu nhập doanh nghiệp 10%.
- Doanh nghiệp phần mềm được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế.
- Sản phẩm và dịch vụ phần mềm được miễn thuế VAT
- Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất phần mềm mà trong nước chưa sản xuất được. Miễn thuế xuất khẩu cho các sản phẩm phần mềm.
- Doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động sản xuất và dịch vụ phần mềm được áp dụng các hình thức hỗ trợ đầu tư từ quỹ hỗ trợ phát triển của nhà nước.
- Doanh nghiệp phần mềm Việt Nam được miễn, giảm tiền thuê đất, thuế sử dụng đất theo quy định tại nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của chính phủ.
- Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm phần mềm; tăng cường khả năng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý và thực thi quyền tác giả đối với phần mềm.
- Khuyến khích phát triển đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm.
- Tạo cơ sở hạ tầng viễn thông thuận lợi. Cung cấp đầy đủ và thuận lợi các dịch vụ viễn thông và internet cho người sử dụng với tốc độ và chất lượng cao, giá cước thấp hơn hoặc tương đương so với các nước trong khu vực; cho phép các khu công nghiệp phần mềm tập trung được kết nối cổng internet riêng với hệ thống Internet quốc tế.
Ngày 21/06/12001 Tổng cục bưu điện ra Quyết định số 492/2001/QĐ-TCBĐ về cước dịch vụ cài đặt và thuê cổng truy cập Internet trực tiếp áp dụng cho các khu công nghiệp phần mềm tập trung…
Có thể nói những chính sách vĩ mô của Nhà nước đã hướng tới tạo một môi trường pháp lý thuận lợi tối đa cho phát triển công nghiệp phần mềm. Tuy nhiên, theo đánh giá của giới chuyên môn, các chính sách này vẫn chưa thực sự phát huy được tác dụng do sự chậm trễ thi hành của các cơ quan hữu quan.
2.Cơ sở hạ tầng viễn thông
Đối với ngành công nghiệp phần mềm, hạ tầng cơ sở viễn thông là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự phát triển. Không có hệ thống viễn thông hiện đại, không có các dịch vụ truyền số liệu và nhất là Internet phổ cập với giá cả phải chăng thì không thể phát triển công nghiệp phần mềm. Việt Nam đã quan tâm đầu tư phát triển, hiện đại hoá ngành viễn thông để đạt được trình độ khu vực và thế giới và đã đạt được những thành tựu to lớn. Theo nhận xét chung của các chuyên gia bưu điện, đến nay Việt Nam đã có một mạng lưới viễn thông công nghệ hiện đại không thua kém bất cứ một nước phát triển trên thế giới. Những chỉ tiêu có thể công nhận sự phát triển của viễn thông Việt Nam được thể hiện qua tốc độ phát triển điện thoại nhanh vào bậc nhất thế giới. Tính đến cuối năm 20018 Việt Nam: ngành viễn thông tăng trưởng – Netnam 01/07/2002
, tổng số thuê bao điện thoại cố định là 4 triệu máy thì vào giữa năm 2002 con số này đã lên tới 4,86 triệu máy, đạt mật độ 5,9 máy/100 người dân. Các dịch vụ điện thoại xuất hiện nhiều và gia tăng nhanh nhất đang thuộc về số lượng từ điện thoại cố định, vô tuyến cố định, di động, nhắn tin, voicelink, điện thoại dùng thẻ, internet. Ông Nguyễn Huy Luận, Phó tổng cục trưởng Tổng cục bưu điện cho biết: Việt Nam là một trong số hơn 30 nước có trên 2 triệu máy điện thoại và là nước có tốc độ phát triển viễn thông đứng thứ hai trên thế giới.
Mạng viễn thông Việt Nam đã mau chóng tăng từ 8 lên 10 trạm vệ tinh mặt đất, các tuyến cáp quang biển, 3 tổng đài cửa ngõ tại Hà Nội , thành phố Hồ Chí Minh với 5764 kênh liên lạc quốc tế đang được xây dựng hiện đại. Trung bình mỗi năm đã truyền tải trên 400 triệu phút liên lạc quốc tế. Hệ thống cáp quang biển Thái lan – Việt Nam – Hồng Kông với tốc độ 565 Mb/giây đã được đưa vào khai thác. Đường trục Bắc – Nam gồm hai tuyến cáp quang với kỹ thuật phân cấp đồng bộ số 2,5 Gb/giây (tương đương 30.000 kênh điện thoại trên một đôi sợi cáp quang). Vấn đề triển khai dịch vụ chuyển vùng quốc tế cũng rất được quan tâm. Chính vì thế mà đến nay, ngành Bưu chính viễn thông có đến 80 đối tác đã ký thoả thuận dịch vụ và 25 đối tác khai thác chính thức với ba mạng điện thoại di động là Call Link, Vinaphone, và Mobiphone9 Viến thông Việt Nam tăng tốc – ẽ.asp?f=0&progid=22002&newsid=2041
.
Với khoảng 600.000 máy tính trên toàn quốc và trên 60.000 thuê bao internet, viễn thông Việt Nam đang ngày càng thể hiện sự phát triển của mình. Ông Luận cho biết, ngành bưu điện rất chú trọng và nâng cấp các tuyến truyền dẫn, mở rộng cửa ngõ tạo nền tảng vật chất và kỹ thuật cho sự phát triển mạnh mẽ của mạng thông tin diện rộng và Internet. Công nghiệp bưu chính viễn thông đang được phát huy ở Việt Nam với cả bề rộng, chiều sâu với quy mô thích hợp và công nghệ hiện đại. Hiện đã có hơn 10 liên doanh các dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh (BBC) đã được triển khai trong lĩnh vực này với mục tiêu cung cấp trang thiết bị tiên tiến phục vụ mạng lưới và sản xuất sản phẩm chất lượng cao.
Mặc dù hạ tầng cơ sở viễn thông phát triển như vậy nhưng lại tồn tại nhiều bất cập và gây khó khăn cho các doanh nghiệp phần mềm. Giá cước truy cập viễn thông của tất cả các nước giảm xuống đáng kể khi tốc độ đường truyền tăng nhưng ở Việt Nam giá cước lại tăng tỷ lệ thuận với tốc độ. Để hoạt động, thông thường các công ty phần mềm cần đường truyền tốc độ cao từ 128 Kb đến 1,544 Mb/s. Vì vậy mà họ phải chịu mức giá cước quá cao so với khu vực. Bên cạnh đó, ở các khu công viên phần mềm tập trung lại chưa được sử dụng đường kết nối trực tiếp với quốc tế. Ngoài ra các dịch vụ cần thiết để hỗ trợ cho phát triển phần mềm như mạng riêng ảo (VPN), tin tức (News),Internet lại chưa thực sự phổ biến ở Việt Nam. Theo các nhà chuyên môn, dưới góc độ truyền số liệu, hạ tầng viễn thông của Việt Nam chưa đủ ổn định cao để đảm bảo cho việc kết nối và truyền dữ liệu.
II. Thực trạng phát triển ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam.
1. Năng lực kinh doanh của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam
1.1. Năng lực kinh doanh chung của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam.
a. Lịch sử hình thành và kinh nghiệm
Công nghiệp phần mềm Việt Nam vẫn là ngành công nghiệp non yếu và nhỏ bé trong hệ thống các ngành kinh tế quốc dân. Theo số liệu thống kê gần đây nhất10 Niên giám Công nghệ thông tin Việt Nam 2001- Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh & Tạp chí Thế giới máy tính – Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2001
thì Việt Nam có hơn 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phần mềm. Các công ty này đồng thời cung cấp các thiết bị phần cứng, sản phẩm phần mềm và các dịch vụ thiết kế mạng,…Có khoảng gần 100 tổ chức gồm các trung tâm tin học, khoa công nghệ thông tin, viện nghiên cứu có tham gia cung cấp phần mềm. Ngoài ra, cũng phải kể đến một bộ phận khác ít nhiều cung cấp phần mềm cho khách hàng đó là các cửa hàng cung cấp dịch vụ, trong đó các phần mềm đơn giản, trị giá thấp được coi như là một phần trong dịch vụ cả gói được cung cấp cho khách hàng. Điều phải nói ở đây là số lượng công ty chuyên kinh doanh phần mềm trong tổng số công ty tin học và doanh thu phần mềm trong tổng doanh thu của công ty còn chiếm tỷ lệ thấp (chỉ hơn 10%)
Hầu hết các công ty tin học đều là các doanh nghiệp mới được thành lập còn rất hạn chế về kinh nghiệm tổ chức quản lý và kinh doanh trên thị trường. Trong tổng số các công ty có kinh doanh phần mềm ở thời điểm hiện tại, chỉ có 8 công ty được thành lập từ 1990 trở về trước. Phần chủ yếu là các công ty được thành lập trong thời kỳ từ 1996 đến 2001 với 127 công ty chiếm 65,8% trong đó có tới 52 công ty bằng 26,9% tổng số công ty, được thành lập trong 2 năm trở lại đây. 58 công ty (chiếm 30%) là các công ty được thành lập trong khoảng thời gian từ 1991-1995. Điều đó cũng phản ánh một thực tế khách quan của ngành công nghiệp phần mềm của Việt Nam là chúng ta chưa có một tên tuổi doanh nghiệp Việt Nam thực sự trong lĩnh vực kinh doanh phần mềm đủ sức cạnh tranh cũng như có một uy tín nhất định trên thị trường.
Tuy nhiên, sự non trẻ về tuổi đời của các doanh nghiệp không phải là lý do duy nhất dẫn đến sự yếu kém trong kinh doanh của các doanh nghiệp phần mềm. Bằng chứng là có nhiều doanh nghiệp ở các quốc gia phát triển và đang phát triển chỉ trong một thời gian ngắn từ 3 đến 5 năm đã kịp khẳng định vị thế của nó trên thị trường, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin nhờ sự vượt trội về chất lượng dịch vụ cung ứng và khả năng thích ứng cao với những nhu cầu thường xuyên thay đổi của khách hàng. Với tư cách là người đến sau, các công ty tin học Việt Nam có những lợi thế nhất định đó là đón bắt được trình độ công nghệ đang phát triển nhanh ở lĩnh vực này mà không phải tìm kiếm và chờ đợi lâu
b. Quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam
Quá trình phát triển công nghiệp phần mềm cũng cho thấy một thực tế khác là hầu hết các công ty phần mềm là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân hoặc công ty cổ phần. Thuộc về thành phần này có tới 166 công ty chiếm 86% trong khi số công ty liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 8,8% với 17 công ty và đặc biệt công ty thuộc sở hữu nhà nước chỉ có 10 công ty chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn là 5,1%. Cơ cấu doanh nghiệp phần mềm theo các thành phần kinh tế đã nói lên tính hấp dẫn của lĩnh vực này đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế này hầu hết là mới thành lập nên nguồn lực và khả năng kinh doanh có nhiều hạn chế chưa thể làm ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian qua. Tuyệt đại bộ phận các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam hiện nay có quy mô kinh doanh nhỏ, chỉ một vài công ty có quy mô vừa. Điều này thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là số lượng nhân viên trong đó đặc biệt là số nhân viên lập trình, khả năng tài chính và doanh thu từ kinh doanh phần mềm.
Các công ty phần mềm nói chung có số lượng lao động ít (xem bảng 1). Thống kê không đầy đủ từ các công ty kinh doanh phần mềm năm 2001 có 6049 lao động các loại. Như vậy bình quân một công ty chỉ đạt hơn 30 lao động. Theo số liệu điều tra, chỉ có 32 công ty bằng 16,5% có trên 50 lao động, trong số đó công ty có trên 100 lao động là 12 chiếm 6%. Cá biệt, có hai công ty với số nhân viên vượt trội là Công ty đầu tư phát triển công nghệ – FPT có 750 nhân viên và Công ty điện toán và truyền số liệu – VDC có 927 nhân viên. Ngược lại, trong số công ty có dưới 50 lao động thì phổ biến là ở mức 20 – 30 lao động11 Nhân lực cho phần mềm: bài toán nhiều ẩn số - Đoàn Hàn Giang – Báo Hà Nội mới chủ nhật ngày 24 tháng 11 năm 2001
. Đặc biệt có 15 công ty (chiếm 8.57%) chỉ có dưới 10 lao động. Các công ty nhỏ năng động trong kinh doanh, dễ quản lý và điều hành nhưng chỉ thích hợp với phương thức gia công phần mềm hoặc chỉ làm những sản phẩm đơn giản, không thể làm được các sản phẩm phần mềm lớn, phức tạp.
Bảng 1: Cơ cấu công ty phân biệt theo số lượng nhân viên (năm 2001)
Số lượng nhân viên trong một công ty
Số công ty
Tỷ lệ (%)
20 nhân viên trở xuống
86
49,14
Từ 21 đến 50 nhân viên
56
32,00
Từ 51 đến 100 nhân viên
17
9,71
Từ 101 đến 150 nhân viên
9
5,14
Từ 151 đến 200 nhân viên
3
1,71
Từ 201 nhân viên trở lên
4
2,30
Tổng số
175
100
Nguồn : Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh, 2001
Mặt khác, số nhân viên lập trình và quản lý dự án trong các công ty tin học nói chung còn chiếm một tỷ lệ rất thấp. Theo đánh giá của các chuyên gia phần mềm, hiện nay cả nước có khoảng 100 000 công ty có từ 10 lập trình viên trở lên. Số liệu điều tra vào năm 2001 cho thấy số nhân viên lập trình bình quân của một công ty được khaỏ sát đạt mức 18,84 nhân viên và 3,36 đối với nhân viên quản lý dự án. Tính chung cả nước hiện nay chỉ có khoảng 1200 đến 1500 nhân viên lập trình ở các trình độ khác nhau.12 Niên giám Công nghệ thông tin Việt Nam 2001- Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh & Tạp chí Thế giới máy tính – Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2001
Về trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh) của nhân viên lập trình, theo ý kiến đánh giá của nhiều chuyên gia nghiên cứu về công nghiệp phần mềm Việt Nam thì đây là một trong những trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển của công nghiệp phần mềm Việt Nam. Một tỷ lệ lớn các nhân viên lập trình trong các công ty kinh doanh phần mềm không đạt được một trình độ tiếng Anh đủ để sử dụng nó như là một ngôn ngữ trong thiết kế phần mềm. Để minh hoạ chi tiết cho đánh giá trên xin xem bảng 2 dưới đây.
Bảng 2 – Số công ty có tỷ lệ nhân viên lập trình đạt trình độ chuyên môn và ngoại ngữ nhất định
Đơn vị tính: công ty
Công ty có tỷ lệ nhân viên đạt
Dưới 50%
50 – 80%
81% - 100%
Trình độ chuyên môn
- Trên đại học
9
-
-
- Đại học
-
3
15
- Trung cấp
5
-
-
Trình độ ngoại ngữ
- Hoàn toàn đáp ứng
5
4
5
- Đáp ứng về cơ bản
6
-
7
- Đáp ứng phần nào
4
1
1
Ghi chú: Tổng số doanh nghiệp phần mềm được khảo sát là 18
Nguồn: dữ liệu điều tra của dự án nghiên cứu công nghiệp phần mềm Việt Nam: vấn đề và chiến lược phát triển bền vững - JICA – NEU Tháng3/2002
Các nhân viên lập trình hầu hết được đào tạo ở các khoa công nghệ thông tin của các trường đại học và các trung tâm đào tạo trong nước. Các số liệu điều tra trên 18 công ty ở thời điểm cuối năm 2001 cho thấy, hầu hết nhân viên làm phần mềm có trình độ đại học và trên đại học về công nghệ thông tin. Có 15 công ty đạt tỷ lệ có trên 80% số nhân viên lập trình có trình độ đại học trở lên. Một nửa trong số các công ty được khảo sát có nhân viên lập trình đạt trình độ trên đại học mặc dù loại nhân viên này còn chiếm một tỷ lệ thấp trong tổng số nhân viên lập trình. Số nhân viên này được đào tạo chủ yếu từ các khoa công nghệ thông tin của các trường đại học trong nước. Một số rất ít các nhân viên đã được tu nghiệp ở những quốc gia có trình độ phát triển cao về công nghệ thông tin.
Cùng với số lượng nhân viên thấp là sự hạn chế về vốn đầu tư của các công ty phần mềm. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng của công nghiệp phần mềm Việt Nam. Nhìn chung, các doanh nghiệp phần mềm không mạnh về khả năng tài chính khi mà phần lớn các công ty này là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần mới được thành lập. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp này cũng có nhiều hạn chế trong việc vay vốn của ngân hàng cũng như từ các định chế tài chính khác. Tình trạng vốn nhỏ và phân tán là phổ biến. Ngành công nghiệp phần mềm chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và cả nước ngoài. Trên bình diện ngành, chưa hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm cho các doanh nghiệp phần mềm vay, vốn đầu tư chủ yếu là vốn tự có của các doanh nghiệp. Đó cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới sức mạnh tài chính của các doanh nghiệp phần mềm.
Vốn đầu tư thấp, hơn nữa quá trình đầu tư lại mới ở giai đoạn đầu nên doanh thu từ kinh doanh phần mềm còn rất khiêm tốn. Thống kê không đầy đủ từ các công ty tin học năm 2000, doanh số bình quân một công ty đạt được ở mức 15.85 tỷ VND. Tuy nhiên, doanh số kinh doanh phần mềm chỉ chiếm khoảng 10 – 15% tổng doanh số của công ty. Theo tiến sĩ Nguyễn Trọng, Chủ tịch Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh, tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành phần mềm chỉ đạt 15-20% và đó là một tỷ lệ hết sức nhỏ bé đối với ngành công nghiệp phần mềm đang ở thời kỳ đầu phát triển. Nếu so sánh với Trung Quốc, cũng ở thời kỳ đầu phát triển phần mềm thì tỷ lệ này có năm lên tới 3000%. Thống kê sơ bộ doanh số của 53 công nghệ thông tin năm 2001 cho thấy doanh thu phần mềm chỉ chiếm 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp. Doanh thu phần mềm của cả nước năm 2001 ước đạt 21 triệu USD trong đó các công ty hàng đầu đạt mức doanh số tương đối cao như FPT đạt khoảng 3 triệu USD, công ty Lạc Việt đạt khoảng 15 tỷ VND và công ty Máy tính truyền thông (CMC) đạt doanh số khoảng 7 tỷ VND13 Chú trọng vào thương mại điện tử và phát triển phần mềm, Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 07/09/2001
. Mặc dù vậy mức doanh thu phần mềm thấp hơn nhiều so với dự kiến của các nhà hoạch định chính sách và chiến lược phát triển phần mềm.
Số lượng nhân viên lập trình chưa nhiều, khả năng tài chính hạn chế và doanh thu phần mềm hạn chế, điều này đã phản ánh thực trạng quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam. Với quy mô kinh doanh nhỏ như vậy, bên cạnh những nỗ lực từ phía bản thân doanh nghiệp thì sự hỗ trợ từ phía Nhà Nước đóng vai trò hết sức quan trọng cho sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam.
c. Phân bố về mặt điạ lý
Tuyệt đại bộ phận các doanh nghiệp phần mềm đặt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trong đó số doanh nghiệp đặt tại Hà Nội chiếm khoảng 38% và tại thành phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng 50% tổng số doanh nghiệp phần mềm cả nước. Số doanh nghiệp còn lại phân bố rải rác tại các địa phương khác như Đà Nẵng, Hải Phòng, Bình Dương,…Thực trạng phân bố nói trên cho thấy ngay từ đầu của quá trình phát triển công nghệ thông tin nói chung và công nghiệp phần mềm nói riêng, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã nổi lên như hai trung tâm tin học lớn của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh đang triển khai kế hoạch phát triển công nghiệp phần mềm đến năm 2005. Theo kế hoạch này, thành phố sẽ hình thành 300 doanh nghiệp phần mềm mới có từ 30 đến 50 chuyên viên lập trình, xây dựng 3-5 doanh nghiệp phần mềm lớn có 500 người làm việc trở lên và đạt doanh số 300 triệu USD14 Ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam: ưu đãi vẫn khó khăn, Báo Lao động số 297/2001
. Để thực hiện kế hoạch này, thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng hai trung tâm phần mềm tập trung là công viên công nghệ phần mềm Sài Gòn (Saigon Software Park) đặt tại 123 Trương Định và Công viên phần mềm Quang Trung. Cả hai trung tâm này đều được trang bị cơ sở hạ tầng tương đối tốt bước đầu thu hút nhiều nhà đầu tư thành lập các công ty phần mềm để cung ứng sản phẩm phần mềm cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. ở phía Bắc, Nhà nước cũng đã đầu tư xây dựng khu công nghệ phần mềm tại khu công nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội) theo mô hình “thung lũng Silicon” nhằm tạo ra các trung tâm phần mềm có khả năng cạnh tranh, đóng vai trò như là những hạt nhân cho sự phát triển của công nghiệp phần mềm sau này.
Ngoài Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian gần đây, thành phố Đà Nẵng cũng đang có những bước đi tích cực trong việc đầu tư và thu hút các nhà đầu tư xâm nhập vào lĩnh vực công nghệ thông tin đặc biệt là sản xuất phần mềm đáp ứng nhu cầu tại chỗ và xuất khẩu thông qua các hợp đồng gia công. Trong tương lai gần, Đà Nẵng có thể trở thành một trung tâm công nghệ thông tin thứ ba sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
d. Nguồn nhân lực của ngành công nghiệp phần mềm.
Như đã trình bày ở trên, theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước có khoảng 1200 đến 1500 người làm phần mềm. So với nhu cầu nhân lực để phát triển phần mềm trong tương lai, con số này quả là ít ỏi. Trong những năm qua, các trường đại học đã cố gắng tập trung cho giáo dục và đào tạo về công nghệ thông tin. Nhà Nước đã đầu tư cho 7 khoa công nghệ thông tin ở các trường đại học. Trong vòng 4 năm trở lại đây, với mục tiêu đào tạo được khoảng 200 cử nhân và kỹ sư công nghệ thông tin mỗi năm, 7 trường này đã đào tạo được khoảng 7000 cử nhân và kỹ sư tin học. Trong khi đó nhiều trường khác cũng mở các khoa công nghệ thông tin, điện tử viễn thông,… Cả nước có gần 100 cơ sở là các trường đại học, viện nghiên cứu và các trung tâm tham gia đào tạo và cung cấp nhân viên lập trình ở các trình độ khác nhau. Nếu tính cả các trường khác cộng với số tự đào tạo của các doanh nghiệp, số lượng người được đào tạo cơ bản về công nghệ thông tin ước tính mỗi năm thêm được 3500 người. Như vậy, đến năm 2005 cả nước sẽ có khoảng 38 000 người có trình độ đại học và cao đẳng về công nghệ thông tin, trong đó số người làm phần mềm dự kiến chiếm từ 70 đến 75% tổng số này.15 Nhân lực cho phần mềm: bài toán nhiều ẩn số - Đoàn Hàn Giang – Báo Hà Nội mới chủ nhật ngày 24 tháng 11 năm 2001
Gần đây, Nhà nước Việt Nam cũng đã cho phép các tổ chức và cá nhân thành lập các trung tâm đào tạo về công nghệ thông tin xem nó như là một nỗ lực giảm bớt sự thiếu hụt về nhân lực làm phần mềm ở Việt Nam. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng, các cơ quan nhà nước cần phải có biện pháp quản lý thích hợp nếu không các trung tâm này sẽ mọc lên như nấm giống như các trung tâm dạy tiếng Anh trong những năm trước đây.
Hai thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm lớn về đào tạo nhân lực cho công nghệ thông tin và có khả năng lớn trong việc cung cấp các kỹ sư tin học cho cả nước. Tuy nhiên, một vấn đề nổi cộm lên là làm thế nào để đảm bảo sự thích ứng giữa gia tăng về số lượng đào tạo và duy trì chất lượng. Nhiều chuyên gia về công nghệ thông tin cho rằng các trường đại học có thể đáp ứng được nhu cầu về số lượng kỹ sư và cử nhân công nghệ thông tin cho các công ty tin học nhưng chất lượng cuả các kỹ sư và cử nhân này lại là vấn đề hoàn toàn khác. Chất lượng đào tạo kỹ sư và cử nhân công nghệ thông tin còn nhiều bất cập. Theo nhận xét của nhiều nhà kinh doanh nước ngoài trên thị trường Việt Nam, các lập trình viên Việt Nam thông minh, năng nổ, khả năng toán học và tư duy logic cao, hoàn toàn có khả năng làm phần mềm như ấn Độ, nhưng lại thiếu về kinh nghiệm, yếu về kỹ năng lập trình và về kiến thức chuyên môn liên quan đến các lĩnh vực ứng dụng phần mềm và đặc biệt yếu về trình độ tiếng Anh. Đa số nhân viên lập trình có kinh nghiệm làm phần mềm từ 3 đến 5 năm. Trong khi đó, để có các hợp đồng gia công có tính cạnh tranh cao, công ty phần mềm phải có những lập trình viên có trên dưới 10 năm kinh nghiệm làm việc, có khả năng viết dự án khả thi và giỏi về kỹ thuật để thuyết phục khách hàng khi tham gia đấu thầu. Đây là một trong những trở ngại chính trong quá trình phát triển công nghiệp phần mềm nói chung và cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm phần mềm Việt Nam trên cả thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Xét trên phương diện số lượng, nhân viên lập trình được đào tạo hàng năm về cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng hiện tại về số lượng (nhưng so với mục tiêu đào tạo đến năm 2005 thêm 25000 lập trình viên thì còn khoảng cách quá xa). Về chất lượng đào tạo còn đáng lo ngại hơn, đạt ở mức rất thấp. Chúng ta có lợi thế là khả năng toán học và tư duy logic của người Việt Nam là cao. Tuy nhiên, đó mới chỉ là điều kiện cần, chính xác hơn mới chỉ là những tiền đề cho một nền công nghiệp phần mềm thăng hoa trong một thời gian ngắn như các quốc gia khác, chẳng hạn ấn Độ và Trung Quốc đã trải qua.
Lao động phần mềm Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của một sự hạn chế khác của quá trình đào tạo và bồi dưỡng. Đó là thiếu sự cập nhập công nghệ mới thông qua quá trình đào tạo liên tục để có thể tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong lĩnh vực sản xuất phần mềm. Cơ cấu đào tạo các loại lao động phần mềm không cân đối. Một nghịch lý là số kỹ sư tin học ra trường nhiều nhưng các doanh nghiệp vẫn thiếu các chuyên gia cao cấp, thiếu người quản lý dự án và thiếu công nhân kỹ thuật phần mềm.
Hiện nay, số chuyên gia đủ khả năng quản lý dự án của Việt Nam còn quá ít, chưa đủ khả năng nhận những đơn đặt hàng lớn hoặc làm các phần mềm đóng gói. Nhiều doanh nghiệp phần mềm mới chỉ giải quyết được các bài toán đơn giản, sản xuất phổ thông chứ chưa giải quyết được các bài toán phức tạp và những phần mềm chuyên dụng.
Đã vậy, trong năm 2001 vừa qua đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh tìm kiếm việc làm của các chuyên gia phần mềm Việt Nam ở ngay thị trường trong nước. Với tốc độ tăng trưởng chậm, kinh doanh khó khăn, các công ty phần mềm khó có thể thực hiện một chính sách tiền lương hấp dẫn cho các chuyên gia phần mềm. Ngay tại thành phố Hồ Chí Minh, nhiều kỹ sư lập trình ấn Độ cũng chỉ tìm việc mới mức thù lao từ 400 – 500 USD/ tháng. Điều này khiến nhiều chuyên gia phần mềm Việt Nam càng khó kiếm việc làm. Vì vậy, thực tế có nhiều người được đào tạo về công nghệ thông tin nhưng đã chuyển sang làm công việc khác.
Trong khi đó, việc đào tạo lao động làm phần mềm cho mục tiêu xuất khẩu cũng không mấy sáng sủa. Sự bất cập của quá trình đào tạo trong nước đã làm cho các nhân viên lập trình Việt Nam còn hạn chế cả về chuyên môn và khả năng tiếng Anh, không đáp ứng yêu cầu sử dụng của công ty phần mềm nước ngoài. Chất lượng nguồn lao động là trở ngại chính cho việc thực hiện mục tiêu xuất khẩu lao động phần mềm.
Để nâng cao chất lượng đào tạo lập trình viên, gần đây đã hình thành các trung tâm đào tạo lập trình viên chất lượng cao như là kết quả của quá trình liên doanh giữa các công ty Việt Nam với các công ty nước ngoài, chẳng hạn, trung tâm FPT APTECH và Hà Nội APTECH. Trở ngại chính của các trung tâm kiểu này đó là học phí cao vượt quá khả năng thanh toán của người học trong khi các công ty phần mềm không có một sự hỗ trợ hay đầu tư đáng kể nào từ phía nhà nước cho việc đào tạo nguồn nhân lực làm phần mềm.
1.2. Năng lực tổ chức sản xuất của ngành công nghiệp phần mềm.
Như đã trình bày ở trên, phần lớn các doanh nghiệp phần mềm có quy mô nhỏ, mới được thành lập và thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Vì vậy, bộ máy quản lý tương đối gọn nhẹ. Các doanh nghiệp này khá năng động và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động kinh doanh. Thường họ không hoàn toàn chuyên môn hoá sản xuất phần mềm mà thường kinh doanh cả phần cứng, cung cấp giải pháp, thiết kế mạng,…Vì vậy, chính hoạt động kinh doanh phần mềm trong nội bộ mỗi doanh nghiệp thường bị tranh chấp về nguồn lực với các hoạt động khác. Tuyệt đại bộ phận phần mềm đang được cung cấp đều là những phần mềm nhỏ lẻ, thiếu các phần mềm giải pháp lớn hoặc phần mềm tiêu chuẩn hoá.
Trên phương diện ngành, tuy đã có hiệp hội các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam – VINASA nhưng do mới thành lập nên sự quản lý và điều phối hoạt động của toàn ngành công nghiệp phần mềm vẫn chưa thực sự hiệu quả. Vì thế, giữa các doanh nghiệp hầu như không có sự liên kết, phối hợp trong thiết kế, sản xuất phần mềm dẫn đến sự trùng lặp trong sản xuất, đầu tư gây lãng phí các yếu tố nguồn lực. Điều đó hạn chế đáng kể khả năng cạnh tranh của phần mềm Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới. Các doanh nghiệp phần mềm cạnh tranh với nhau trong giành khách hàng và tìm kiếm các hợp đồng gia công. Trong thời điểm hiện nay, những khó khăn trong tìm kiếm các hợp đồng gia công phần mềm xuất khẩu và giành các đơn đặt hàng trong nước đang làm cho nhiều công ty phần mềm hoạt động cầm chừng, một số công ty phần mềm tại thành phố Hồ Chí Minh có nguy cơ tan rã.
Hiện tại, chiến lược phát triển phần mềm chưa được thiết lập mà mới chỉ dừng lại các định hướng chung hoặc chi tiết hơn là các kế hoạch phát triển của Chính phủ. Ngay cả một chương trình phát triển tổng thể cho công nghiệp phần mềm trong những năm tới cũng chưa được xây dựng. Hơn thế nữa, việc triển khai các kế hoạch phát triển sản xuất phần mềm của Chính phủ thiếu sự đồng bộ và phối hợp giữa các ngành hữu quan và có nhiều ách tắc trong việc cụ thể hoá những ưu đãi cho công nghiệp phần mềm. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp dễ nản lòng khi phải tốn nhiều công sức đi lại để hưởng chính sách ưu đãi. Mặc dù một vài trung tâm phần mềm đã được xây dựng, nhìn chung tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán vẫn phổ biến trong ngành công nghiệp phần mềm. Nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn, trong thời gian trước mắt, khó có thể đạt được một sự phát triển nhảy vọt về quy mô và sự cải thiện đáng kể năng lực cạnh tranh của công nghiệp phần mềm Việt Nam. Rõ ràng là, chỉ có kế hoạch phát triển không thôi thì chưa đủ mà đòi hỏi một sự đồng bộ, nhất quán và tập trung cả trong thực hiện kế hoạch trên phạm vi ngành và nền kinh tế quốc dân.
1.3. Năng lực quản lý và marketing của các doanh nghiệp và ngành công nghiệp phần mềm.
Trên bình diện ngành, hầu hết các doanh nghiệp và toàn ngành chưa có chiến lược phát triển chuyên nghiệp, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát thực hiện chiến lược. Điều này liên quan đến những hạn chế trong thiết lập một cơ cấu tổ chức cho ngành phần mềm. Chính phủ có đưa ra những mục tiêu và định hướng phát triển cho ngành phần mềm nhưng mới chỉ dừng lại ở mong muốn mà chưa có biện pháp và hành động thực sự.
Phần lớn các doanh nghiệp phần mềm thiếu kiến thức quản lý doanh nghiệp mang tính chuyên nghiệp. Các nhà quản lý các công ty phần mềm thường chỉ chú trọng đến khâu kỹ thuật, công nghệ mà thiếu khả năng quản lý toàn diện doanh nghiệp.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, hiện tại các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam còn rất yếu kém trong các hoạt động marketing, đặc biệt là các hoạt động tìm hiểu nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh phần mềm và lập trình viên thiếu hiểu biết về lĩnh vực hoạt động của khách hàng và thiếu kinh nghiệm tiếp cận khách hàng nên không xây dựng được các phần mềm đáp ứng yêu cầu của họ.
Chiến lược và hoạt động của toàn ngành công nghiệp phần mềm chưa được quan tâm. Các doanh nghiệp phần mềm làm marketing chưa tốt, chưa cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm của mình tới khách hàng tiềm năng, chưa có các hoạt động tuyên truyền thuyết phục khách hàng. Gần đây một số hoạt động xúc tiến rời rạc mới được thực hiện trên phạm vi ngành. Ví dụ, Tuần lễ Tin học được tổ chức hàng năm ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội do Hội Tin học Việt Nam phối hợp cùng Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam và một vài đơn vị khác tổ chức với các các hoạt động chính như hội thảo khoa học, triển lãm và hội chợ về tin học bao gồm các thiết bị phần cứng, phần mềm, các giải pháp tư vấn,…Thông qua tuần lễ Tin học, các nhà sản xuất và kinh doanh phần mềm gặp gỡ khách hàng, tìm hiểu nhu cầu, mong muốn của họ và ký kết các hợp đồng cung ứng. Một số nhà sản xuất phần mềm giới thiệu các sản phẩm của họ và cũng đã bán được một số sản phẩm nhất định. Mặt khác, đó cũng là dịp để các nhà kinh doanh gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm và thiết lập các mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực phần mềm. Tuy nhiên, kinh nghiệm thu được từ những Tuần lễ Tin học vừa qua cho thấy hiệu quả xúc tiến và khuyếch trương của hoạt động này còn rất khiêm tốn.
Các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường ngoài nước cho sản phẩm phần mềm hầu như bị thả nổi và đặc biệt không có tổ chức nào đứng ra lo liệu việc này. Đối với thị trường trong nước cũng chưa có những hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến bán hàng và quảng bá sản phẩm phần mềm trong nước trên cấp độ ngành. Sự định hướng vào các thị trường mục tiêu là không rõ ràng. Nhiều doanh nghiệp cùng đầu tư vào làm một loại sản phẩm, dẫn đến lãng phí nguồn lực và làm tăng mức độ cạnh tranh nội bộ. Chính điều này làm cho kinh doanh phần mềm càng trở nên khó khăn hơn.
Trên góc độ từng doanh nghiệp, các hoạt động kinh doanh và marketing phần mềm cũng không sáng sủa hơn, mặc dù một số công ty đã nỗ lực thực hiện những hoạt động nhất định. Phần dưới đây sẽ trình bày những đánh giá chi tiết về hoạt động marketing.
Trước hết về hoạch định chiến lược marketing, hầu hết các công ty phần mềm chưa xác lập hệ thống kế hoạch marketing trong doanh nghiệp bên cạnh các kế hoạch khác như kế hoạch sản xuất, tài chính, nhân sự,…Sự thiếu vắng của hệ thống kế hoạch marketing đã dẫn đến việc triển khai các hoạt động sau này hoàn toàn mang tính tự phát và tuỳ tiện. Khi không có một kế hoạch hoàn chỉnh thì những yêu cầu tiến hành nghiên cứu thị trường phần mềm, đối thủ cạnh tranh và các vấn đề khác có liên quan cũng sẽ không được quan tâm thực hiện. Cũng có một số doanh nghiệp phác thảo một kế hoạch đơn giản để thực hiện. Các hoạt động nghiên cứu thị trường dưới dạng tìm hiểu khách hàng hoặc thu thập thông tin cũng được một số doanh nghiệp tiến hành. Phần lớn các doanh nghiệp phần mềm và toàn ngành chưa phân đoạn thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu và xác lập chiến lược khai thác các nhóm hàng hay thị trường mục tiêu. Cả ngành phần mềm cũng như từng doanh nghiệp đều thiếu các thông tin căn bản về nhu cầu khách hàng trên thị trường trong nước và nước ngoài.
Thứ hai, về hoạt động marketing hỗn hợp của các doanh nghiệp phần mềm
Về chính sách sản phẩm phần mềm: Các phần mềm cơ sở và ứng dụng được cung cấp khá phong phú và đất đai dạng về chủng loại. Hiện tại có khoảng 80 loại sản phẩm phần mềm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau chủ yếu là kế toán, xây dựng cơ bản, ngân hàng tài chính, bưu chính viễn thông, quản lý nhân sự, quản trị văn phòng, … Trong đó các phần mềm kế toán, quản lý công ty được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều ngành. Sự tập trung sản xuất và cung ứng quá mức vào một số loại phần mềm đã dẫn đến tình trạng trùng lặp giữa các công ty, do đó làm nảy sinh sự cạnh tranh trong nội bộ ngành. Có thể thấy thế mạnh của các doanh nghiệp phần mềm trong sản xuất các sản phẩm phần mềm được sắp xếp theo thứ tự như sau: Cao nhất là sản xuất phần mềm theo đơn đặt hàng, tiếp đến là sản xuất phần mềm đóng gói, sản xuất phần mềm gia công và cuối cùng là sản xuất phần mềm bổ sung. Tuy nhiên nếu so sánh với các sản phẩm phần mềm cạnh tranh trên thị trường, sản phẩm phần mềm Việt Nam còn quá nhiều điểm yếu. Chất lượng thấp được coi là điểm yếu nhất. Mặc dù tương đối đa dạng nhưng các công ty chủ yếu chỉ tập trung vào cung cấp các phần mềm thông dụng, do đó có khá nhiều công ty cùng cung ứng một loại sản phẩm phần mềm.Tính tiện dụng và khả năng thích ứng với các điều kiện sử dụng thực tế của các phần mềm trong nước còn nhiều hạn chế. Khi sử dụng phần mềm, phát sinh khá nhiều trục trặc trong khi dịch vụ sau bán hàng trong cung ứng phần mềm còn rất yếu cả về số lượng và chất lượng dịch vụ. Phần lớn các sản phẩm phần mềm là các sản phẩm nhỏ lẻ, đơn giản chứ chưa có các phần mềm hệ thống lớn với các giải pháp tổng thể. Trên thị trường phần mềm trong nước, chưa thực sự tồn tại một nhãn hiệu phần mềm trong nước nào đủ sức cạnh tranh cả về chất lượng và dịch vụ khách hàng với các phần mềm nhập khẩu. Các sản phẩm phần mềm chưa được đa dạng hoá, chưa có những sản phẩm hệ thống tích hợp cung cấp giải pháp tổng thể cho những khách hàng lớn.
Về các hoạt động hỗ trợ và xúc tiến bán hàng, nhìn chung còn thiếu và yếu. Một số doanh nghiệp hầu như không thực hiện bất kỳ hoạt động nào về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, xúc tiến bán, tuyên truyền cho sản phẩm phần mềm. Tính thụ động trong việc triển khai các hoạt động truyền thông của các doanh nghiệp là rất rõ ràng. Đặc biệt, không có tổ chức xúc tiến, gia công xuất khẩu phần mềm trên thị trường ngoài nước. Chi phí cho các hoạt động quảng bá giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp còn ở mức thấp hoặc không đáng kể. Những Tuần lễ Tin học được tổ chức gần đây đã có những tác động tích cực tới toàn bộ lĩnh vực công nghệ thông tin nói chung, bước đầu giúp các nhà sản xuất và người sử dụng phần mềm gặp gỡ và tìm hiểu lẫn nhau, đồng thời, tạo lập cơ hội cho nhà sản xuất phần mềm tìm kiếm và thiết lập các mối quan hệ với khách hàng, giới thiệu sản phẩm và có thể đàm phán ký kết các hợp đồng cung ứng phần mềm. Điều đáng tiếc là còn quá ít những Tuần lễ Tin học như vậy.
Về các hoạt động phân phối. Hình thức phân phối phổ biến trong lĩnh vực phần mềm là phân phối trực tiếp. Nhà sản xuất (hoặc cung ứng) phần mềm trực tiếp cung cấp các sản phẩm phần mềm cho khách hàng mà không sử dụng các trung gian. Sở dĩ kênh phân phối trực tiếp là kênh chủ đạo trong phân phối sản phẩm phần mềm là vì số lượng khách hàng của mỗi công ty tương đối ít và thường tập trung ở một số khu vực nhất định. Mặt khác, các sản phẩm phần mềm sản xuất theo đơn đặt hàng chiếm tỷ trọng cao. Hơn thế nữa, tình trạng sao chép bất hợp pháp các sản phẩm phần mềm cũng là lý do quan trọng khiến cho các sản phẩm phần mềm ít được bày bán như là một thứ hàng hoá thông thường qua các cửa hàng đạilý phân phối. Hình thức phân phối trực tiếp có thể giúp cho nhà sản xuất không chỉ thiết lập các mối liên hệ trực tiếp với khách hàng, thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng mà còn giúp cho nhà sản xuất kiểm soát được tình hình cung ứng. Tuy nhiên khi số lượng khách hàng gia tăng và thị trường được mở rộng thì phương thức phân phối trực tiếp bộc lộ nhiều hạn chế.
Bên cạnh hệ thống phân phối trực tiếp, hệ thống phân phối gián tiếp với sự tham gia của một số trung gian đã được hình thành. Các phần mềm thông dụng và một số phần mềm chuyên dùng được phân phối qua các trung gian này. Trong những năm gần đây, nhiều cửa hàng dịch vụ tin học đã ra đời. Ngoài việc cung cấp một số dịch vụ, các cửa hàng này còn thực hiện chức năng phân phối sản phẩm phần mềm. Ngoài ra, cũng phải kể đến một số trung tâm tin học, thậm chí một số công ty tin học vừa sản xuất vừa làm đại lý độc quyền cung ứng một số phần mềm nhập khẩu cũng tham gia vào quá trình phân phối phần mềm cho khách hàng.
Đối với thị trường nước ngoài, các công ty có sản phẩm phần mềm xuất khẩu hầu hết thông qua các trung gian chứ không bán trực tiếp cho người sử dụng. Hệ thống phân phối phần mềm xuất khẩu về cơ bản là chưa có. Việc xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào đối tác nước ngoài.
Cuối cùng, về giá cả phần mềm. So với các phần mềm nhập khẩu, giá cả phần mềm trong nước tương đối thấp nhờ những lợi thế chi phí thấp đặc biệt là chi phí nhân công và chi phí marketing. Do vậy mà sản phẩm phần mềm Việt Nam vẫn có ưu thế nhất định, phù hợp với người mua và khả năng tài chính của nhiều khách hàng trong nước. Phân biệt theo loại sản phẩm phần mềm, có thể thấy các phần mềm thông dụng đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng khác nhau thường có mức giá tương đối thấp so với các phần mềm chuyên dùng và phần mềm sản xuất theo đơn đặt hàng. Trong những trường hợp này, giá cả không phải là yếu tố quyết định để doanh nghiệp đưa ra quyết định mua phần mềm. Tuy nhiên với một thị trường chưa phát triển như thị trường Việt Nam thì giá cả sản phẩm phần mềm vẫn là tiêu chuẩn mua quan trọng của các khách hàng. Mặc dù vậy, ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam chưa có chiến lược phân biệt giá phù hợp. Việt Nam cũng chưa có cơ quan tư vấn, trọng tài về giá cả phần mềm.
1.4. Năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) của ngành công nghiệp phần mềm ở Việt Nam.
Trên góc độ ngành, chưa có chiến lược nghiên cứu và phát triển tổng thể để định hướng cho các hoạt động này ở các công ty tin học. Tuy nhiên trong phạm vi từng doanh nghiệp thì một số các doanh nghiệp phần mềm đã quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất phần mềm, thiết kế dự án tổng thể. Các công ty liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài là những công ty đi đầu trong lĩnh vực này. Các công ty phần mềm trong nước vì nhiều lý do chưa thực sự có những quan tâm dài hạn về nghiên cứu phát triển. Nhìn chung, năng lực nghiên cứu và phát triển của toàn ngành công nghiệp phần mềm là còn rất yếu kém.
Nguyên nhân của tình trạng này trước hết và chủ yếu do thiếu các chuyên gia đầu ngành trong từng lĩnh vực. Hơn thế nữa, mức chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển còn rất khiêm tốn. Nguyên nhân sâu xa là do thiếu một quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp phần mềm. Các nhà kinh doanh phần mềm muốn thu lợi nhuận nhanh nên thường hướng vào các chương trình phần mềm đơn giản, dễ làm, có khả năng sinh lời cao mà ít tập trung vào đầu tư dài hạn. Ngoài ra, trên phương diện ngành, chưa thực sự tồn tại một tổ chức tập hợp các chuyên gia phần mềm để thực hiện các hoạt động nghiên cứu dài hạn trên cơ sở một chương trình phát triển nhất quán của toàn ngành công nghiệp phần mềm trong thời gian tới. Nhược điểm lớn nhất hiện nay trong nghiên cứu phát triển là các doanh nghiệp đầu tư phát triển các phần mềm hệ thống nhỏ, độc lập, không liên kết được với nhau. Những yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng của công nghệ thông tin nói chung cũng là một trở ngại lớn đối với triển khai các hoạt động nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực phần mềm.
1.5. Đánh giá chung về những điểm mạnh và điểm yếu của công nghiệp phần mềm Việt Nam.
Từ những phân tích về năng lực kinh doanh chung của công nghiệp phần mềm Việt Nam cùng với năng lực tổ chức quản lý, sản xuất, marketing, nghiên cứu và phát triển ta có thể đánh giá được những điểm mạnh và những hạn chế chủ yếu của ngành công nghiệp phần mềm như sau:
Những điểm mạnh chủ yếu
Công nghiệp phần mềm là ngành công nghiệp non trẻ, đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Tuyệt đại bộ phận doanh nghiệp trong ngành mới được thành lập, quy mô khá nhỏ, khá linh hoạt và năng động trong kinh doanh. Các khu công nghiệp phần mềm tập trung đã và đang được xây dựng với cơ sở hạ tầng tương đối thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển một ngành công nghiệp phần mềm hiện đại trong tương lai gần.
Các doanh nghiệp phần mềm có khả năng sản xuất một tập hợp khá đa dạng các phần mềm phổ thông, đơn giản, phần mềm theo đơn đặt hàng đáp ứng nhu cầu của nhiều loại khách hàng khác nhau.
Lao động phần mềm trẻ, có kiến thức cơ bản, có khả năng sáng tạo, được đào tạo tương đối có hệ thống và dễ thích ứng với những điều kiện làm việc đòi hỏi sự tập trung cao.
Chi phí nhân công thấp và khả năng đảm bảo một mức giá cạnh tranh với các phần mềm cùng loại được nhập khẩu trên thị trường nội địa.
Những hạn chế chủ yếu
Các công ty phần mềm phần lớn là các công ty nhỏ, hạn chế nhiều về nguồn lực, thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý điều hành doanh nghiệp, chưa thực sự ổn định về nhân sự, địa điểm và định hướng kinh doanh. Trên phạm vi ngành, chưa có một chiến lược phát triển hoàn chỉnh, dẫn đến trùng lặp trong đầu tư và cạnh tranh trong nội bộ ngành. Các doanh nghiệp phần mềm cũng chưa thiết lập được một chiến lược phát triển trong dài hạn.
Cơ cấu sản phẩm phần mềm còn đơn điệu, mới chỉ tập trung vào một số phần mềm thông dụng cho một số lĩnh vực nhất định. Các phần mềm chất lượng cao, các dự án tổng thể lớn cho các khách hàng quan trọng chưa được cung ứng đầy đủ và các công ty trong nước chưa cạnh tranh được với các công ty liên doanh, các công ty nước ngoài cũng là một điểm yếu căn bản khác. Chất lượng lao động phần mềm thấp cả về trình độ chuyên môn về các lĩnh vực áp dụng phần mềm lẫn trình độ ngoại ngữ trước hết là tiếng Anh; thiếu chuyên gia phần mềm cao cấp, các chuyên viên quản lý dự án giỏi, chuyên viên phát triển thị trường và marketing phần mềm. Vốn đầu tư phát triển phần mềm còn bị phân tán, không có những nguồn vốn lớn tập trung trong khi khả năng tự đầu tư các doanh nghiệp là rất khiêm tốn.
Thiếu sự phối hợp, liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp phần mềm trong khi trình độ công nghệ còn thấp, chưa xây dựng được các quy trình sản xuất phần mềm tiêu chuẩn .
Năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) của toàn ngành còn nhiều hạn chế và chưa được quan tâm đúng mức để củng cố và nâng cao.
Từ những đánh giá trên thì vấn đề đặt ra cho ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam là phải khai thác những thế mạnh, tránh những điểm yếu và tập trung nguồn lực hạn chế hiện có vào những thị trường mục tiêu trọng điểm. Mặt khác phải có biện pháp để tăng nguồn lực và năng lực cạnh tranh trên thị trường. Lợi thế cạnh tranh của ngành công nghiệp phần mềm có thể được xác định như sau:
Tiềm năng nguồn nhân lực rất dồi dào cho phát triển phần mềm là lợi thế quan trọng và chủ yếu nhất của công nghiệp phần mềm Việt Nam trong những năm tới. Nếu tổ chức đào tạo tốt và dám đầu tư, Việt Nam sẽ có được một đội ngũ những người làm phần mềm chuyên nghiệp. Tạo lập lợi thế cạnh tranh về chất lượng lập trình viên và giá nhân công thấp.
Chi phí nhân công tương đối thấp so với khu vực và thế giới giúp hạ giảm chi phí sản xuất phần mềm nói chung. Vì vậy, nếu đảm bảo một mức chất lượng sản phẩm và năng suất lao động tương đương, mức giá hạ hơn so với các đối thủ cạnh tranh sẽ giúp cho các phần mềm Việt Nam cạnh tranh được cả trên thị trường trong nước và quốc tế.
Nhà nước quan tâm tạo môi trường và điều kiện cho ngành phát triển.
Cộng đồng người Việt ở nước ngoài có thể giúp các doanh nghiệp phần mềm trong nước tiếp xúc với công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài.
Công nghiệp phần mềm Việt Nam còn non trẻ nên không bị sức ì của cơ chế quản lý cũ. Các doanh nghiệp có đội ngũ lao động trẻ có thể nhanh chóng học tập và tiếp thu kinh nghiệm phát triển công nghiệp phần mềm của các quốc gia khác.
Lợi thế cạnh tranh của công nghiệp phần mềm Việt Nam, đặc biệt là trên thị trường phần mềm thế giới phần lớn mới ở dạng tiềm năng. Các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam còn quá nhiều điểm yếu. Chính vì thế cần có chiến lược phát triển cũng như các biện pháp hành động cụ thể,phù hợp với thực trạng của ngành, giúp cho ngành từng bước phát triển bền vững. Có như vậy thì công nghiệp phần mềm Việt Nam mới có thể trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức tại Việt Nam.
2.Quy mô và cơ cấu thị trường phần mềm hiện tại và tiềm năng của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam.
2.1 Thị trường trong nước
Thị trường phần mềm trong nước chỉ mới được hình thành và còn rất nhỏ bé. Quy mô thị trường năm 2000 đạt khoảng 45 triệu USD và năm 2001 đạt ở mức 50 triệu USD16 Nguyến Hữu Hiền – Con đường tơ lụa của doanh nghiệp phần mềm Việt Nam, báo Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 4/12/2001
. Trong số đó các công ty phần mềm trong nước chỉ đạt doanh số khoảng 14-15 triệu USD, phần còn lại cung cấp từ nguồn tự nhập khẩu và tự phát triển. Quy mô thị trường phần mềm và dịch vụ còn nhỏ bé chủ yếu là do việc ứng dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam còn rất yếu và hiệu quả sử dụng thiết bị phần cứng đã có rất kém.
Mặc dù thị trường hiện tại rất khiêm tốn nhưng nhu cầu tiềm năng của thị trường Việt Nam tương đối lớn và sẽ tăng trưởng nhanh trong những năm tới. Đó là do sự tăng lên của nhu cầu tin học hoá nền kinh tế: ứng dụng tin học vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, vào hoạt động quản lý hành chính các cấp, vào mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế.Trước sức ép cạnh tranh, nhiều ngành kinh doanh của Việt Nam sẽ tăng cường ứng dụng tin học vào hoạt động của mình, trước hết là các ngành viễn thông, hàng không, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, dầu khí,….Các công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, các công ty tư nhân sẽ là khách hàng tiềm năng cho các công ty phần mềm trong nước. Đây vừa là cơ hội vừa là đòi hỏi cấp thiết đối với ngành công nghệ thông tin nói chung và phần mềm nói riêng của Việt Nam trong những năm tới.
Thị trường Việt Nam nếu phân đoạn theo lĩnh vực ứng dụng: ngân hàng, tài chính, giao thông vận tải, quản lý nhà nước, khoa học giáo dục, chúng ta có thể thấy các đoạn thị trường này rất khác nhau về quy mô nhu cầu, đặc điểm khách hàng và tiêu chuẩn mua, mức độ phức tạp của sản phẩm, yêu cầu dịch vụ của họ. Theo nghiên cứu của Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh ở Việt Nam vào năm 2000: thị trường phần mềm và dịch vụ trong khu vực ứng dụng cho doanh nghiệp chiếm 30,83%, trong khu vực ứng dụng quản lý cho nhà nước chiếm 21,4%, trong khu vực ứng dụng cho khoa học – giáo dục chiếm 5,43%, trong các khu vực còn lại kể cả gia công xuất khẩu chiếm 42,32%. Như vậy các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước là những đoạn thị trường quan trọng của tiềm năng lớn.
Thị trường phần mềm cũng cần được phân đoạn theo chức năng chủ yếu của phần mềm như: phần mềm hệ thống (ví dụ hệ điều hành…), phần mềm làm văn bản, phần mềm hỗ trợ, phần mềm quản lý trong hệ thống thông tin…Tất nhiên, các khách hàng trong nước chủ yếu quan tâm đến các phần mềm ứng dụng là chủ yếu, các phần mềm hệ thống cơ bản phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Những khách hàng quan trọng của trị trường phần mềm là các doanh nghiệp lớn như các tổng công ty nhà nước, các liên doanh lớn và các bộ quan trọng của chính phủ,…Ví dụ, Tổng công ty hàng không Việt Nam- Việt Nam Airlines, ngân hàng ngoại thương… có nhu cầu mua sắm các phần mềm hệ thống tích hợp với giá trị lớn được thiết kế cho hệ thống hoạt động tổng thể của họ chứ không phải là từng phần công việc, từng hệ thống nhỏ tương thích với nhau. Các khách hàng này hiện chủ yếu mua chương trình phần mềm của các hãng nước ngoài. Lý do là những sản phẩm này là các giải pháp tổng thể, có chất lượng cao, dịch vụ khách hàng tốt, đảm bảo an toàn. Giá cả phần mềm không phải là tiêu chuẩn mua quan trọng đối với họ. Hầu hết tất cả các khách hàng nói trên đều có hai nguồn vốn để đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin: đó là nguồn nội lực và nguồn vốn ODA, họ cần các sản phẩm – giải pháp, phần mềm trọn gói có giá trị cao và với yêu cầu chất lượng hết sức khắt khe.
Bên cạnh đó có rất nhiều doanh nghiệp và tổ chức chỉ mua sắm các phần mềm có giá trị thấp. Nhiều doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức xã hội mới chỉ có những yêu cầu cung cấp một số loại phần mềm phổ biến như kế toán, phân tích tài chính, quản lý, giáo dục… Đối với các khách hàng này giá cả là một tiêu chuẩn mua quan trọng. Họ muốn với một số đầu tư hạn chế sẽ có được các chương trình phần mềm giải quyết được các vấn đề của họ, đơn giản, dễ sử dụng. Hiện nay, số lượng khách hàng quan tâm đến giá thấp vẫn đang chiếm số đông trên thị trường.
Mức độ hiểu biết và sử dụng các chương trình phần mềm vào công việc của nhiều khách hàng tiềm năng còn rất hạn chế. Không hiếm các doanh nghiệp và đơn vị ứng dụng công nghệ thông tin ở mức độ mua sắm máy tính và dùng để soạn thảo văn bản. Nhìn chung giữa các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý các đơn vị khách hàng và các nhà cung cấp phần mềm hiện tại chưa có mặt bằng nhận thức chung. Có thể nói, hiện có quá nhiều rào cản các tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin.
Trình độ tổ chức và quản lý yếu kém của nhiều tổ chức và doanh nghiệp cũng rất phổ biến. Nhiều doanh nghiệp chưa có cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin, thậm chí chưa đủ người có thể sử dụng được các chương trình phần mềm phổ biến đã có. Đây chính là một trong những trở ngại chính của sự phát triển thị trường phần mềm.
Phần lớn các khách hàng đều đòi hỏi các phần mềm phải dễ sử dụng, trước hết phải đáp ứng được các tiêu chuẩn được coi là chuẩn mực quốc tế và sau đó là phải thích nghi được với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Nhiều sản phẩm phần mềm của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng đồng thời cả hai tiêu chuẩn này của khách hàng. Khách hàng, đặc biệt là những khách hàng lớn đòi hỏi các hệ thống phần mềm phải được thiết kế mở để có thể bổ xung và cập nhập thêm trong quá trình sử dụng, tránh phải làm đi làm lại tốn kém.
Các doanh nghiệp cũng thiếu vốn hoặc không có khoản đầu tư cho công nghệ thông tin, nếu có chỉ là đầu tư cho mua thiết bị, chứ không có đầu tư cho phần mềm. Nhu cầu phần mềm thường được xếp sau nhiều nhu cầu mua sắm khác.
2.2. Thị trường phần mềm xuất khẩu của các công ty kinh doanh phần mềm Việt Nam.
Cho dù còn nhiều yếu kém và hạn chế so với các công ty phần mềm nước ngoài, các công ty phần mềm trong nước đang cố gắng tìm cho mình một chỗ đứng trên thị trường phần mềm ngoài nước. Thông qua các hình thức khác nhau, từng bước các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam đã xuất khẩu được một số phần mềm sang một vài thị trường. Những công ty đi đầu là công ty FPT, công ty Hài Hoà, Dolsoft và một số công ty khác. Doanh số xuất khẩu chủ yếu là gia công phần mềm, chỉ có số ít là phần mềm đóng gói. Hiện số lao động phần mềm xuất khẩu rất nhỏ.
Trên thực tế, công nghiệp phần mềm Việt Nam chưa có một vị trí nào trên thị trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu phần mềm (chủ yếu là gia công) năm 2000 đạt khoảng 5 triệu USD chiếm khoảng 10% tổng giá trị doanh thu của ngành công nghiệp phần mềm. Kim ngạch của năm 2001 ước tính đạt ở mức 21 triệu USD. Nếu so sánh với các quốc gia xuất khẩu phần mềm nổi tiếng thế giới như Nga, ấn Độ,… thì thị phần của các doanh nghiệp Việt Nam là không đáng kể. Đối với các doanh nghiệp này, việc lựa chọn cho mình một chiến lược xâm nhập và cạnh tranh thích hợp trên thị trường phần mềm có ý nghĩa quyết định cho sự chuyển hướng thành công sang tập trung phát triển mạnh mẽ hơn nữa hoạt động xuất khẩu của phần mềm trong tương lai
Bảng 3: Vị thế Việt Nam và các nước cạnh tranh trong ngành phần mềm.
Việt Nam so với các nước cạnh tranh khác
(Số liệu năm 2001)
Trung Quốc
ấn Độ
Việt Nam
Xuất khẩu phần mềm
850 triệu USD
6200 triệu USD
21 triệu USD
Bán phần mềm trong nước
4300 triệu USD
2060 triệu USD
50 triệuUSD*
Mức tăng trưởng – Bán phần mềm trong nước
+55%
+31%
-
Số chuyên viên IT
150 000
522 000
20 000*
Nhu cầu chuyên viên IT
350 000
400 000
Đang tăng
Đào tạo chuyên viên IT mỗi năm
50 000
73 218
4000
Số công ty phần mềm
6000+
3000+
300+
Ghi chú : Thống kê cho Trung Quốc và ấn Độ lấy từ Far Eastern Economic Review, September 2002
* Không chính thức và ước tính
Nguồn: Ngành công nghiệp phần mềm đang phát triển của Việt Nam: Cạnh tranh, vị thế và chiến lược trên thị trường toàn cầu. - Viện nghiên cứu Châu á Kenan, Văn phòng phát triển Quốc tế của Mỹ (USAID) tháng 10/2002
Theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường phần mềm thế giới có tiềm năng lớn. Thị trường phần mềm thế giới có dung lượng khoảng 500 tỷ USD và hàng năm có tốc độ tăng trưởng khoảng 10 – 15 %. Phần lớn sản lượng phần mềm là do các nền kinh tế lớn như Mỹ và Tây Âu tạo ra. Vào năm 1998, công nghiệp phần mềm của Mỹ chiếm 1,8% GDP của Mỹ. Kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới cũng tăng lên nhanh chóng. Dự báo tới năm 2005 kim ngạch xuất khẩu phần mềm lên tới 200 tỷ USD. Nhiều nước đang phát triển cũng đang tăng cường khả năng cung cấp sản phẩm phần mềm ra thị trường thế giới như ấn Độ, Singapo,… Trong năm 1999, doanh thu từ xuất khẩu phần mềm của ấn Độ đã gần vượt con số 4 tỷ USD, trong khi tổng doanh thu từ ngành sản xuất phần mềm của ấn Độ là 5,7 tỷ USD. Năm 2001 ấn Độ xuất khẩu 6,2 tỷ USD và bằng 10% tổng giá trị xuất khẩu phần mềm của thế giới. Doanh thu của ngành phần mềm của Singapo cũng vào khoảng gần 1 tỷ USD. Trung Quốc năm 2001 xuất khẩu phần mềm đạt 850 triệu USD. Như vậy thị trường thế giới đang mở ra cơ hội lớn cho ngành công nghiệp phần mềm của những nước đang phát triển như là Việt Nam.
Một đặc điểm quan trọng của thị trường phần mềm thế giới là các công ty tin học chủ yếu là của Mỹ và Tây Âu đang chi phối khống chế thị trường nhờ những ưu thế tuyệt đối về trình độ kỹ thuật và công nghệ cao. vốn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển lớn, đội ngũ nhân viên lập trình giỏi. Các công ty này đã tập trung đầu tư cho những chương trình phần mềm lớn, hiện đại, sản xuất hàng loạt lớn, đồng thời liên kết với các hãng sản xuất phần cứng để độc quyền kinh doanh trên thị trường. Các hãng này cũng giỏi làm marketing, xây dựng các quan hệ trên thị trường nên họ lại có uy tín với các khách hàng và mạng lưới tiêu thụ rộng khắp. Do thị trường tiêu thụ các sản phẩm phần mềm lại chính là các nước công nghiệp phát triển nên đương nhiên các công ty phần mềm của họ càng có lợi thế. Các doanh nghiệp phần mềm nhỏ của Việt Nam khó có thể chen chân trực tiếp vào các thị trường đó. Phần lớn các công ty nhỏ phải làm gia công cho các công ty lớn hoặc là phân phối sản phẩm phần mềm qua mạng lưới tiêu thụ của họ.
Đặc điểm kỹ thuật và công nghệ của ngành công nghiệp phần mềm và phương thức chuyển giao mua bán sản phẩm càng làm cho thông tin này mang tính độc quyền cao. Mỗi lĩnh vực thường có một số công ty lớn chi phối. Mặt khác tốc độ thay đổi kỹ thuật và công nghệ rất nhanh của ngành này cũng tạo nên thách thức lớn cho các doanh nghiệp phần mềm, đặc biệt trong trường hợp họ bị thiếu thông tin.
Trong những năm tới, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ việc ứng dụng công nghệ thông tin trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, nhu cầu sử dụng phần mềm vẫn sẽ tiếp tục gia tăng với tốc độ cao. Sự thống trị của công ty lớn trong lĩnh vực này vẫn sẽ được duy trì. Vì vậy, các công ty nhỏ và đến sau trong lĩnh vực phần mềm không thể cạnh tranh trực tiếp với những công ty trên được. Sự lựa chọn khôn ngoan có thể là xâm nhập vào các đoạn thị trường còn bị bỏ trống hoặc cung cấp phần mềm bổ sung cho các công ty lớn. Xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, việc sử dụng tiếng Anh ngày càng phổ biến hơn sẽ là những yếu tố quan trọng thúc đẩy thị trường phần mềm xuất khẩu. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp kinh doanh phần mềm Việt Nam, những yếu tố chủ yếu sau sẽ chi phối mạnh mẽ khả năng gia tăng sự hiện diện của phần mềm Việt Nam trên thị trường thế giới. Trước hết đó là sự năng động của các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường cho phần mềm xuất khẩu, khả năng tổ chức và sự chuẩn bị các yếu tố cần thiết như vốn, đội ngũ lập trình viên và cán bộ quản lý dự án, khả năng tiếp cận công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất phần mềm. Tiếp đến là khả năng kinh doanh liên kết giữa các công ty phần mềm trong nước với các công ty phần mềm nước ngoài trong việc sản xuất cũng như tiêu thụ các phần mềm thương mại. Sự đầu tư của công ty nước ngoài vào kỹ nghệ phần mềm Việt Nam trong đó việc hình thành các công ty 100% vốn nước ngoài cũng rất có ý nghĩa đối với khả năng gia tăng kim ngạch xuất khẩu của công nghiệp phần mềm Việt Nam.
Kinh nghiệm của các nước Đông Nam á như Singapo, Indonesia, Philipin, Thái Lan trong quá trình phát triển ngành công nghiệp phần mềm là chính phủ có định hướng chiến lược lâu dài, khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy ứng dụng được công nghệ thông tin vào nền kinh tế, phát triển nguồn nhân lực. Nhà nước không chỉ đóng vai trò khởi xướng mà còn thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích như miễn thuế 5 đến 10 năm, tăng ưu đãi để thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển mạnh dịch vụ viễn thông, bớt kiểm duyệt Internet để tăng tốc độ đường truyền…
3. Vấn đề bảo vệ bản quyền phần mềm ở Việt Nam và sự phát triển của công nghiệp phần mềm.
Sự vi phạm bản quyền tác giả trong nhiều lĩnh vực đang là một vấn đề nổi cộm làm đau đầu nhiều nhà quản lý và các quan chức có trách nhiệm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền tác giả. Tình trạng ăn cắp bản quyền đặc biệt nghiêm trọng trong ngành công nghiệp giải trí, xuất bản phẩm và công nghiệp phần mềm ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam không phải là một ngoại lệ.
Bảng 4: 10 nước có mức vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất thế giới
10 nước có mức vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất thế giới
2000
2001
Việt Nam
97%
94%
Trung Quốc
94%
92%
Indonesia
89%
88%
Ukraina
89%
87%
Nga
88%
87%
Pakistan
83%
83%
Lebanon
83%
79%
Qata
81%
78%
Nicaragua
78%
78%
Bolivia
81%
77%
Nguồn: Business Sofware Alliance’s (BSA) seventh annual benchmark survey on global software piracy.
Hầu hết các chuyên gia đều cho rằng tình trạng vi phạm bản quyền ở Việt Nam là đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời bằng các biện pháp hữu hiệu nó sẽ gây ra những tác động tiêu cực tới việc thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp phần mềm còn rất non trẻ ở Việt Nam. Từ bảng 4 cho thấy tỷ lệ ăn cắp phần mềm ở Việt Nam được đánh giá là cao nhất thế giới và ở mức 98%. Tình trạng nghiêm trọng đến mức tất cả các doanh nghiệp cung cấp phần mềm đều cho là bị vi phạm bản quyền thương mại. Tuy nhiên, với các phần mềm gia công hay các phần mềm sản xuất theo đơn đặt hàng tình hình có khả quan hơn nhưng việc vi phạm bản quyền vẫn xảy ra.
Các công ty kinh doanh phần mềm ở Việt Nam đã thực thi nhiều biện pháp để tự bảo vệ bản quyền tác giả trước nạn sao chép bất hợp pháp. Các biện pháp phổ biến được sử dụng là khoá cứng, khoá mềm, thường xuyên nâng cấp, đổi mới phần mềm và sử dụng các biện pháp theo dõi, thương lượng với người vi phạm. Tuy nhiên, biện pháp cuối tỏ ra kém hiệu lực hơn khi mà có quá nhiều phần mềm bị sao chép bất hợp pháp và không thể truy nguyên người vi phạm đầu tiên. Dù sao đi chăng nữa, các biện pháp này chỉ là các giải pháp tình thế, ít có hiệu lực.
Sự vi phạm bản quyền phần mềm dù lớn hay nhỏ đều nguy hại và tác động xấu tới quá trình phát triển của công nghiệp phần mềm Việt Nam. Có thể liệt kê những tác động tiêu cực chủ yếu sau:
Một là, các công ty kinh doanh phần mềm bị thua lỗ nặng nề do không thu hồi được vốn đầu tư, không bù đắp đủ chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất khi không đạt được mức doanh số bán hàng cần thiết. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không dám đầu tư lớn và nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất phần mềm trong khi nhà nước lại đang thiếu vốn và rất cần sự tham gia của các doanh nghiệp này.
Hai là, các công ty nước ngoài không tin tưởng vào hệ thống pháp luật Việt Nam trong việc bảo hộ quyền tác giả. Vì vậy, họ sẽ e ngại khi đặt các công ty trong nước gia công các phần mềm. Hơn thế nữa, tình trạng vi phạm bản quyền sẽ làm nhụt chí các nhà đầu tư khi cân nhắc quyết định đầu tư vào công nghiệp phần mềm. Điều đó trước hết làm giảm khả năng thu ngoại tệ từ hoạt động gia công phần mềm và thu hẹp những cơ hội tiếp xúc với công nghệ tiên tiến từ các công ty nước ngoài của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam. Các công ty nước ngoài sẽ không dám mạo hiểm thử nghiệm các phần mềm xuất khẩu của họ trên thị trường Việt Nam. Ngoài ra, còn có những ảnh hưởng gián tiếp tới các lĩnh vực khách của nền kinh tế do giảm đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phần mềm cũng cần phải được kể đến.
Ba là, tình trạng vi phạm bản quyền tác giả cũng tạo ra những trở ngại lớn cho sự phát triển nền kinh tế nói chung và công nghiệp phần mềm nói riêng. Trước hết, tình trạng kém phát triển của công nghiệp phần mềm sẽ làm giảm phần thu cho ngân sách nhà nước, giảm cơ hội kiếm việc làm của nhiều người lao động. Về mặt dài hạn, nó làm hạn chế sự phát triển của công nghệ thông tin và sự ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm. Nguyên nhân sâu xa là sự kém hiểu biết của những người tiêu dùng phần mềm. Họ không ý thức được hành vi vi phạm của mình, do đó không lưỡng lự khi mua một sản phẩm phần mềm sao chép lậu. Thói quen sử dụng các phần mềm miễn phí cũng như các chương trình ca nhạc, phim hay ấn phẩm được sao chép bất hợp pháp đã ăn sâu vào mỗi người. Mức thu nhập bình quân thấp cũng như những hạn chế về khả năng tài chính của các doanh nghiệp và tổ chức sử dụng phần mềm làm cho giá phần mềm trở nên quá đắt được xem như là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng này. Trong khi giá máy tính và phần cứng đang giảm mạnh thì giá phần mềm hầu như vẫn đứng ở mức cao thậm chí là cao. Hơn thế nữa, việc mua sắm các phần mềm được bảo hộ đòi hỏi một mức giá cao hơn nhiều lần so với phần mềm được sao chép bất hợp pháp. Một chính sách giá như vậy vô hình chung đã khuyến khích người sử dụng tìm đến các phần mềm sao chép với giá rẻ hơn hoặc được dùng miễn phí. Một nguyên nhân không kém phần quan trọng của việc vi phạm bản quyền này là sự yếu kém của hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu trí tuệ và bản quyền tác giả. Hiện nay hệ thống pháp luật Việt Nam vừa thiếu các văn bản cần thiết cũng như các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện không đồng bộ và rõ ràng. Các biện pháp chế tài không đủ mạnh để răn đe và ngăn chặn các hành vi vi phạm bản quyền tác giả phần mềm. Đồng thời, ý thức chấp hành pháp luật kém ở người sử dụng càng làm cho hiệu lực bảo hộ của hệ thống pháp luật là rất hạn chế. Vì vậy, các cá nhân và tổ chức sử dụng công khai các phần mềm được sao chép bất hợp pháp mà vẫn không lo lắng tới bất kỳ một sự trừng phạt nào từ phía pháp luật. Hậu quả là kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khoa luan (3).doc