Tài liệu Đề tài Xác định danh mục đầu tư tại Công ty tài chính Bưu điện: LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán là thị trường của lợi nhuận và rủi ro. Muốn tham gia vào cuộc chơi chứng khoán, bạn phải là người biết chấp nhận rủi ro. Khi tham gia vào thị trường, bạn luôn kì vọng đạt được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro. Đó là một nguyên lý không thể thay đổi được. Vì vậy, để tham gia vào thị trường chứng khoán, mối nhà đầu tư cần phải chuần bị cho mình thông tin, kiến thức, vốn tư bản và khả năng chấp nhận rủi ro trong đầu tư.
Các nhà đầu tư tham gia vào thị trường đều mong muốn đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng với một mức rủi ro nhất định. Để xác suất rủi ro xảy ra thấp nhất, nhà đầu tư phải áp dụng nguyên tắc đó là nguyên tắc đa dạng hóa. Muốn đạt được điều này, nhà đầu tư phải lập được một danh mục cho riêng mình. Đa dạng hóa sẽ làm cho nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất. Khi nhà đầu tư thực hiện đa dạng hóa danh mục đầu tư, họ sẽ lập được một danh mục có mức lợi nhuận kỳ vọng mong muốn ở mức rủi ro mà nhà đầu tư có thể chị...
99 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1038 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xác định danh mục đầu tư tại Công ty tài chính Bưu điện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán là thị trường của lợi nhuận và rủi ro. Muốn tham gia vào cuộc chơi chứng khoán, bạn phải là người biết chấp nhận rủi ro. Khi tham gia vào thị trường, bạn luôn kì vọng đạt được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro. Đó là một nguyên lý không thể thay đổi được. Vì vậy, để tham gia vào thị trường chứng khoán, mối nhà đầu tư cần phải chuần bị cho mình thông tin, kiến thức, vốn tư bản và khả năng chấp nhận rủi ro trong đầu tư.
Các nhà đầu tư tham gia vào thị trường đều mong muốn đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng với một mức rủi ro nhất định. Để xác suất rủi ro xảy ra thấp nhất, nhà đầu tư phải áp dụng nguyên tắc đó là nguyên tắc đa dạng hóa. Muốn đạt được điều này, nhà đầu tư phải lập được một danh mục cho riêng mình. Đa dạng hóa sẽ làm cho nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất. Khi nhà đầu tư thực hiện đa dạng hóa danh mục đầu tư, họ sẽ lập được một danh mục có mức lợi nhuận kỳ vọng mong muốn ở mức rủi ro mà nhà đầu tư có thể chịu đựng.
Trong quá trình tìm hiểu và thực tập tại Công ty Tài chính Bưu Điện, Em đã tìm hiểu các thông tin, kiến thức cũng như kinh nghiệm đầu tư của Phòng đầu tư và kinh doanh vốn, tìm hiểu quá trình đầu tư của Phòng đặc biệt là đầu tư chứng khoán. Sau khi tìm hiểu các thông tin vê đầu tư chứng khoán, em nhận thấy rằng danh mục đầu tư tại Công ty Tài chính Bưu điện chưa phải là danh mục tối ưu. Vì vậy, em xin đề xuất một phương pháp xác định danh mục đầu tư tối ưu với chuyên đề: “Xác định danh mục đầu tư tại Công ty tài chính Bưu điện”
Chuyên đề thực tập gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về đầu tư chứng khoán và danh mục đầu tư chứng khoán. Chương này bao gồm các kiến thức tổng quan về chứng khoán, thị trường chứng khoán cũng như các kiến thức về đầu tư chứng khoán.
Chương 2: Hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty tài chính Bưu điện. Chương này bao gồm các quy định về đầu tư nói chung, đầu tư chứng khoán nói riêng, cũng như thực trạng đầu tư chứng khoán tại Công ty.
Chương 3: Xây dựng danh mục đầu tư chứng khoán tại công ty tài chính Bưu Điện. Chương này thể hiện những kiến thức phân tích và xây dựng một danh mục đầu tư. Từ đó, quá trình xây dựng danh mục đầu tư tối ưu được thực hiện. Kết quả là tạo ra một danh mục tối ưu cho Công ty Tài Chính Bưu Điện.
Trong quá trình thực tập tại Công ty Tài chính Bưu điện. Nhờ sự giúp đỡ của các anh chị cô chú trong Công ty, đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị trong Phòng đầu tư và kinh doanh vốn, em đã tìm hiểu được nhiều kiến thức ngoài thực tế cũng như các kinh nghiệm đầu tư của Công ty. Vì vậy, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị, cô chú trong Công ty đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa qua cũng như góp ý để em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong Khoa Toán Kinh tế đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của Thạc sĩ Trần Chung Thủy đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN VÀ DANH MỤC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
I - TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1- Thị trường chứng khoán
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán, tuy nhiên quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp nhất hiện nay đó là: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán.
Chứng khoán được hiểu là giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu.Các quan hệ mua bán trao đổi trên thị trường làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán. Vì vậy, thực chất đây là quá trình vận động của tư bản từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. TTCK không giống với thị trường hàng hoá, hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị sử dụng. Do đó, TTCK thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư, cung và cầu xác định giá mà ở đó giá chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn vay hay giá cả của vốn đầu tư. Do đó, TTCK là hình thức phát triển cao của nền sản suất và lưu thông hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của TTCK là tất yếu khách quan. Hoạt động trên TTCK có tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân, của các doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế.
Đứng trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, dựa trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK trên thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với đặc thù riêng. Sự ra đời của TTCK Việt Nam đuợc đánh dấu bằng sự thành lập của Trung tâm Giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chính Minh (HoSTC) ngày 20/07/2000. Đến ngày 08/03/2005 sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội ra đời (HaSTC) đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của TTCK Việt Nam.
Đến nay, sau gần 7 năm thành lập, TTCK Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn đầu phát triển, quy mô và chất lượng còn nhiều hạn chế. Do đó thị trườn vẫn chụi sự quản lý chặt chẽ của Chính Phủ. Quy mô của thị trường đang lớn dần, tính đến ngày 30/3/2007 trên thị trường đã có 108 cổ phiếu được niêm yết trên HoSTC và 87 cổ phiếu được đăng ký giao dịch trên sàn HaSTC. Hình thức giao dịch trên sàn HoSTC là hình thức khớp lệnh định kỳ, do đó chỉ có một giá thực hiện trên thị trường được thực hiện. Trong khi hình thức khớp lệnh trên sàn HaSTC là hình thức khớp lệnh liên tục, có nhiều mức giá thực hiện. Biên độ giao động giá trên hai trung tâm giao dịch cũng khác nhau, tại HoSTC là 5% và trên HaSTC là 10%.
Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng khoán có những chức năng cơ bản sau:
1.2. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán
- Huy động vốn và dẫn vốn từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn.
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
- Xác định giá cả của các tài sản tài chính.
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp khuyến khích cạnh tranh và tăng tính hiệu quả kinh doanh.
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
1.3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
1.3.1. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.
1.3.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân.
- Các nhà đầu tư có tổ chức.
1.3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán.
- Quỹ đầu tư chứng khoán.
- Các trung gian tài chính.
1.3.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước.
- Sở giao dịch chứng khoán.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán.
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm...
1.4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc công khai.
- Nguyên tắc trung gian.
- Nguyên tắc đấu giá .
1.5. Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng... có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản:
1.5.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.T
* Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
* Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
1.5.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).
1.5.3 Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
* Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
* Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
* Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn...
2. Các tài sản tài chính trên thị trường chứng khoán
2.1. Chứng khoán
Là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
- Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
- Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
2.2. Cổ phiếu
Là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.Việc nắm giữ cổ phần hay sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ phiếu là giấy chứng nhận về việc sở hữu cổ phần và được cấp cho cổ đông.
- Cổ phiếu là tài sản có tác dụng giảm biến động lợi tức của danh mục cao nhất do độ giao động của tài sản này không trùng khớp với chu kỳ hay thời gian với các loại tài sản khác.
- cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ biến trên thị trường nhưng thu nhập có độ biến động cao nên đây là loại tài sản này cũng có rủi ro cao.
- Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: tính thanh khoản cao của cổ phiếu, nguồn tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro của nhà đầu tư trong đầu tư cổ phiếu bao gồm: cổ tức không ổn định, rủi ro phá sản công ty phát hành , các rủi ro về ngoại hối …
2.3. Trái phiếu
Là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.
Trái phiếu là tài sản quan trọng thứ hai sau cổ phiếu trong việc xác định danh mục đầu tư. Đầu tư trong trái phiếu là loại đầu tư có tỷ lệ rủi ro thấp. rủi ro trong đầu tư trái phiếu bao gồm rủi ro về lãi suất, kỳ hạn của trái phiếu, rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng… Trái phiếu bao gồm: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu đảm bảo và trái phiếu không đảm bảo.
2.4. Chứng chỉ quỹ
Là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng.
2.5. Quyền mua cổ phần
Là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định.
2.6. Chứng quyền
Là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định.
2.7. Quyền chọn mua, quyền chọn bán
Là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn quyền mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán được xác định trước trong khoảng thời gian nhất định với mức giá được xác định trước.
2.8. Hợp đồng tương lai
Là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai.
3. Đầu tư chứng khoán với danh mục đầu tư
3.1. Khái niệm danh mục đầu tư
Danh mục đầu tư chứng khoán là các khoản đầu tư của một cá nhân hoặc tổ chức vào việc nắm giữ một hoặc nhiều loại cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa, đầu tư bất động sản, tài sản tương đương tiền hoặc các tài sản khác.
Mục đích củc việc đầu tư là giảm thiểu rủi ro bằng việc đa dạng hóa danh mục đầu tư. Dựa trên cơ sở các tài sản đầu tư, nhà đầu tư lập một danh mục đầu tư bao gồm các tài sản khác nhau. Trên nguyên tắc là “không bỏ trứng vào một giỏ”, các nhà đầu tư tạo ra một danh mục có rủi ro thấp nhất, đó là rủi ro của thị trường (rủi ro hệ thống). Khi đó, nhà đầu tư vẫn đạt được ở tại mức lợi nhuận kỳ vọng. Vì vậy, nhà đầu tư luôn cố gắng tạo ra một danh mục tối ưu.
3.2. Đặc điểm của danh mục đầu tư chứng khoán
Thực chất, danh mục đầu tư là một tổ hợp các tài sản khác nhau trong hoạt động đầu tư của nhà đầu tư. Trong danh mục đầu tư, các tài sản đầu tư biểu hiện sự phân bổ các tài sản đầu tư có trong danh mục. Việc phân bổ tài sản là việc lựa chọn các tài sản đầu tư nhằm đạt được mức lợi nhuận dài hạn cao nhất với một mức rủi ro thấp nhất có thể. Tuy nhiên, trong quá trình đầu tư, nhà đầu tư có thể thay đổi các tỷ lệ nhằm tận dụng cơ hội xuất hiện tại thời điểm đó nhằm đạt được mức lợi nhuận cao hơn. Khi nhà đầu tư cảm thấy triển vọng về một tài sản nào đó tốt, nhà đầu tư có thể điều chỉnh danh mục đầu tư của mình bằng cách giảm tỷ trọng vào các tài sản không có triển vọng và tăng đầu tư vào các tài sản có triển vọng tốt hơn.
Danh mục đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố như trình độ của các nhà đầu tư, tâm lý của từng nhà đầu tư, mức thuế suất của từng đối tượng nhà đầu tư, tính chất của từng nhà đầu tư, lứa tuổi của nhà đầu tư…
Trên thực tế, các nhà đầu tư có trình độ khác nhau, có mức chấp nhận thua lỗ là khác nhau, tâm lý là khác nhau. Vì vậy, các danh mục đầu tư của các nhà đầu tư khác nhau là khác nhau. Các nhà đầu tư xác định đầu tư phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tình hình tài chính của nhà đầu tư, thông tin của các tài sản đầu tư, xu thế chung của thị trường, tâm lý của chính nhà đầu tư đó…
Do các nhà đầu tư khác nhau thì mức độ chấp nhận rủi ro là khác nhau. Vì vậy, rủi ro của các danh mục đầu tư phụ thuộc vào từng nhà đầu tư. Tương ứng với mức chấp nhận rủi ro khác nhau là lợi suất kỳ vọng danh mục của từng nhà đầu tư cũng khác nhau. Các nhà đầu tư ưa thích rủi ro thì chấp nhận một mức rủi ro cao nhưng lợi nhuận kỳ vọng cao. Ngược lại, các nhà đầu tư là e ngại rủi ro thì mức chấp rủi ro là thấp tương ứng với lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn. Từ đó, các tài sản trong từng danh mục là khác nhau. Các nhà đầu tư ưa thích rủi ro thì đầu tư vào các tài sản có rủi ro cao như cổ phiếu. các nhà đầu tư e ngại rủi ro thì danh mục sẽ có tỷ trọng các tài sản ít rủi ro như trái phiếu cao hơn.
Các nhà đầu tư khác nhau thì mức thuế cũng khác nhau. Các nhà đầu tư có mức thuế cao thường không mong muốn trong danh mục của mình co những chứng khoán giống với các nhà đầu tư có mức thuế thấp.
Tính chất của các nhà đầu tư khác nhau thì danh mục đầu tư khác nhau. Đó là danh mục đầu tư cá nhân hay nhà đầu tư có tổ chức. Ví dụ, các nhà đầu trên thị trường thường tính đến đầu tư với lợi nhuận là hưởng chênh chênh lệch giá, ít để ý tới mức cổ tức nhận được từ tổ chức phát hành. Với tư cách là một nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư có tổ chức rất quan tâm tới mức cổ tức được trả, chiến lược phát triển của các tổ chức phát hành trong dài hạn, từ việc sở hữu cổ phần của tổ chức phát hành bên cạnh các yếu tố khác.
Mặt khác, các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau, danh mục đầu tư cũng khác nhau. Các nhà đầu tư trẻ tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản có thời gian đáo hạn dài. Các nhà đầu tư nhiều tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản có thời hạn ngắn.
3.3. . Hoạt động đầu tư chứng khoán bằng cách xác định danh mục đầu tư
3.3.1. Xác định tài sản đầu tư
Để nhà đầu tư có thể tìm ra được các loại chứng khoán một các có hiệu quả nhất (tức là mang lại lợi nhuận và sự an toàn về vốn cho nhà đầu tư), các nhà đầu tư tiến hành đầu tư nhằm trả lời các câu hỏi trước khi đưa ra quyết định đầu tư như: khi nào là thời điểm thuận lợi để đầu tư, khi nào cần phải rút ra khỏi thị trường, đầu tư vào loại chứng khoán nào để phù hợp với mục tiêu đề ra...
Tuy nhiên trong lĩnh vực đầu tư hấp dẫn này, dường như không có chỗ cho những quyết định cảm tính. Muốn thành công, nhà đầu tư phải có kỹ năng phán đoán, xem xét và phân tích về chứng khoán.
Tuỳ thuộc vào quan điểm của nhà đầu tư, việc lựa chọn chứng khoán và phân tích chứng khoán cũng có khác nhau. Thông qua tình hình chung của toàn bộ thị trường, nhà đầu tư chuyên nghiệp có thể tìm ra được những cổ phiếu “tốt” trên thị trường. Tuy nhiên việc lựa chọn được cổ phiếu tốt không phải nhà đầu tư nào cũng làm được. Do đó, một nhà đầu tư chuyên nghiệp phải thực hiện quá trình phân tích các chứng khoán để có thể thực hiện đầu tư một cách tốt nhất.
Điều quan trọng đầu tiên, nhà đầu tư phải xác định được lượng tiền mà mình có thể đầu tư vào chứng khoán. Câu trả lời phụ thuộc vào khả năng tài chính của nhà đầu tư, họ cần xác định được lượng vốn có thể đầu tư vào tài sản ngắn hạn, lượng vốn để đầu tư vào tài sản dài hạn. Đối với tổ chức đầu tư, việc xác định được khả năng tài chính lại càng quan trọng.
Cùng với đó, nhà đầu tư cần xác định mục đích đầu tư và mức độ rủi ro của đầu tư có thể chấp nhận. Cũng như trong các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư chứng khoán luôn tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lợi nhuận và rủi ro. Thu nhập càng cao, mức thu nhập tiềm ẩn càng cao. Các nhà đầu tư thường kì vọng vào hai loại thu nhập là thu nhập từ cổ tức và thu nhập từ mức tăng của giá cổ phiếu (lãi vốn). Thu nhập từ cổ tức phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của doanh nghiệp của công ty và quyết định của hội đồng quản trị. Khi nhà đầu tư kỳ vọng về tình hình phát triển của công ty, nhà đầu tư sẽ mua cổ phiếu với hy vọng giá của cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai. Khác với nhà đầu tư cá nhân trên thị trường, nhà đầu tư có tổ chức đầu tư với tư cách là một nhà đầu tư chiến lược. Do đó họ quan tâm tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ và tương lai thông qua các dự án dự định thực hiện trong tương lai của công ty. Từ đó, phần thu nhập từ cổ tức sẽ cao. Khi này các nhà đầu tư có tổ chức quan tâm tới các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực công cộng như điện lực, viễn thông, dầu khí… hoặc các cổ phiếu thượng hạng.
Để lựa chọn được cổ phiếu thích hợp, nhà đầu tư cần quan tâm tới tất cả các thông tin liên quan tới công ty họ muốn đầu tư. Các thông tin này bao gồm các thông tin quá khứ và đặc điểm của công ty, tình hình tài chính, các chi tiết của đợt phát hành và tổ chức bảo lãnh phát hành. Nhà đầu tư có thể tìm được các thông tin này trong bản cáo bạch, thông cáo phát hành, trong dịch vụ tư vấn đầu tư. Các quyết định về lựa chọn đầu tư khi các nhà đầu tư có đủ cơ sở thông tin về khoản đầu tư của mình.
3.3.2. Phân tích tài sản đầu tư
3.3.2.1. Phân tích vĩ mô chứng khoán
- Phân tích tình hình kinh tế chính trị xã hội quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của thị trường chứng khoán. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, yếu tố quốc tế cần được xem xét trong quá trình đầu tư chứng khoán. Các yếu tố có thể tác động tới quá trình phân tích chứng khoán là mức tăng trưởng kinh tế, các vấn đề chính trị nhạy cảm, chính sách bảo hộ, chính sách tự do hoá tài chính tiền tệ…
- Môi trường chính trị xã hội trong nước có ảnh hưởng rất lớn tới thị trường chứng khoán. Các yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về về chính phủ, các hoạt động chính trị kinh tế nhiều nước. Thay đổi chính trị làm cho nhiều quy định và sự kiểm soát của chính phủ trong một số ngành được thắt chặt trong khi một số ngành lại được nới lỏng, từ đó có những tác động tới kết quả kinh doanh của mỗi ngành, mỗi công ty, rất khó có thể khẳng định việc thắt chặt hay nới lỏng này có tác động tích cực hay tiêu cực tới nền kinh tế.
- Môi trường pháp luật cũng là yếu tố cơ bản gây tác động tới thị trường chứng khoán. Các cơ quan chính phủ tác động tới luật và các văn bản duới luật. Thí dụ luật chống độc quyền thường tác động làm giảm giá chứng khoán của các công ty bị thuộc đối tượng bị luật điều chỉnh. Chính sách tài chính tiền tệ trực tiếp gây ra tác động lớn tới thị trường… Do vậy, việc xem xét môi trường pháp lý cần được xem xét theo các góc độ như: tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính khả thi của hệ thống pháp luật, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật, tính quốc tế của hệ thống pháp luật…
- Trong phân tích chứng khoán các điều kiện kinh tế vĩ mô sẽ quyết định rủi ro chung của thị trường tức là rủi ro hệ thống của chứng khoán. Rủi ro này tác động tới toàn bộ thị trường, đến tất cả các chứng khoán. Đối với nhà đầu tư hay tổ chức phát hành thì đây là điều kiện khách quan.
Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần quan tâm tới trong phân tích chứng khoán là các chỉ tiêu như: tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát, lãi suất, tỷ giá, mức thâm hụt ngân sách quốc gia, chính sách của chính phủ trong các lĩnh vực tài chính tiền tệ…
Môi trường kinh tế vĩ mô có tác động tới toàn bộ xu thế chung của toàn bộ thị trường chứng khoán. Thông thường, khi nền kinh tế đang ở trong giai đoạn tăng trưởng và thịnh vượng, thị trường chứng khoán phát triển và ngược lại, khi nền kinh tế trong giai đoạn suy thoái thì thị trường sẽ đi xuống. Như vậy, nếu dự đoán được xu thế phát triển của nền kinh tế, ta có thể dự báo được xu thế phát triển chung của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế cho thấy, quan hệ giữa tình hình kinh tế với diễn biến chung của thị trường chứng khoán không phải lúc nào cũng diễn ra cùng chiều, nếu có thì chúng có thể xảy ra theo chiều hướng và trật tự khác nhau. Thực tế, thị trường chứng khoán thế giới cho thấy có những giai đoạn nền kinh tế phát triển rất mạnh nhưng thị trường chứng khoán lại đi xuống và ngược lại. Biến động của nền kinh tế xảy ra sau đôi khi xảy ra trước. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn cố gắng dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế và chọn thời cơ tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường chứng khoán.
3.3.2.2. Phân tích ngành
Trong quá trình phân tích chứng khoán, phân tích ngành đóng vai trò quan trọng như phân tích vĩ mô. Phân tích ngành gồm các yếu tố như: phân tích chu kỳ sống của ngành, chu kỳ kinh doanh của ngành, hệ số rủi ro của ngành, mức sinh lời kì vọng, các hệ số tài chính của ngành…
Trong phân tích ngành, cần xác định hệ số rủi ro β của ngành, từ đó tính toán mức sinh lời yêu cầu theo mô hình CAPM.
Đồng thời, phân tích chỉ số P/E của toàn ngành:
Xem xét mối quan hệ của P/E ngành với P/E của toàn bộ thị trường.
Xem xét các nhân tố của cơ bản của ngành gây tác động trực tiếp tới P/E ngành như hệ số trả cổ tức, mức sinh lời yêu cầu và tỷ lệ tăng trưởng cổ tức.
Ước tính thu nhập trên cổ phiếu EPS hay E (thu nhập) được thực hiện theo một phương pháp tính như phân tích chu kỳ kinh doanh, phân tích đầu vào - đầu ra, phân tích mối quan hệ giữa ngành và nền kinh tế tổng thể.
Tính giá trị cuối kỳ của chỉ số ngành bằng các hệ số P/E cuối kỳ tính toán được với ước tính thu nhập đầu cổ phiếu. Sau đó so sánh giá trị chỉ số cuối kỳ với giá trị đầu kỳ để tính lợi suất. Từ đó do sánh lợi suất đạt được với lợi suất yêu cầu để quyết định đầu tư.
3.3.2.3 Phân tích giá trị công ty
Phân tích công ty bao gồm việc phân tích báo cáo tài chính của công ty và phân tích rủi ro của công ty.
Trong phân tích báo cáo tài chính của công ty, nhân tố quan trọng đối với nhà đầu tư là phân tích phân tích khả năng sinh lợi của tổ chức phát hành, khả năng thanh toán dài hạn, khả năng thanh khoản và tiềm năng phát triển trong tương lai. Việc phân tích báo cáo tài chính cần tiến hành đồng bộ theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân tích báo cáo tài chính theo chiều dọc nghĩa là tính toán các tỷ lệ của doanh nghiệp và so sánh trong từng thời kỳ để thấy được thực chất của việc tăng giảm. Phân tích theo chiều ngang là phân tích cần có sự so sánh giữa doanh nghiệp phân tích với các doanh nghiệp ngang bằng trong cùng một ngành. Phương tiện dùng để phân tích báo cáo tài chính của công ty bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo hoạt động kinh doanh.
Phân tích rủi ro của doanh nghiệp tức là phân tích sự biến động của tổng thể các dòng thu nhập của công ty. Thông thường, rủi ro đối với công ty thường được phân tích trên hai giác độ: rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro kinh doanh thường được tính bằng mức độ biến động của thu nhập phát sinh từ hoạt động kinh doanh của công ty.
Độ lệch chuẩn của thu nhập hoạt động
Rủi ro kinh doanh =
thu nhập hoạt động bình quân
Rủi ro tài chính được biểu hiện là sự biến động về lợi nhuận của cổ đông khi doanh nghiệp vay nợ. Để xác định rủi ro tài chính, các nhà phân tích thường sử dụng hai loại hệ số khác nhau đó là các hệ số trên bảng cân đối kế toán và các hệ số về dòng thu nhập hoặc dòng tiền để thanh toán các chi phí. Mục đích của các hệ số chính là khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cũng như cơ cấu vốn và khả năng thanh toán nợ dài hạn của tổ chức phát hành.
Sau khi phân tích các chứng khoán nhà đầu tư tiến hành định giá của các chứng khoán. Từ đó xác định được giá trị thực của các chứng khoán theo các phương pháp khác nhau dựa vào các thông tin từ công ty cũng như thông tin trên thị trường.
Sau khi tiến hành các phân tích đối với tài sản tài chính các nhà đầu tư xác định được giá trị thực của công ty, từ đó so sánh được với giá trị thị trường của các chứng khoán trên thị trường. Nếu giá trị thực nhỏ hơn giá trị thị trường của chứng khoán, chứng khoán đó đã được định giá cao. Khi thị trường hoạt động có hiệu quả, giá trị thị trường và giá trị thực của chứng khoán sẽ bằng nhau. Nếu thị trường hoạt động có hiệu quả, sẽ gây khó khăn cho một số nhà đầu tư tạo thêm lợi nhuận từ khả năng phán đoán giá do giá sẽ phản ứng rất nhanh đối với thông tin mới cập nhật. Từ đó nhà đầu tư sẽ phải có những quyết định đầu tư đầu tư vào những chứng khoán phù hợp.
3.3.3. Quyết định quy mô đầu tư
Để xác định được lượng vốn đầu tư vào chứng khoán, trước tiên nhà đầu tư cần xác định được lượng vốn hiện tại của mình. Để tiến hành đầu tư, nhà đầu tư cần xác định mình thuộc đối tượng nào, nhà đầu tư chủ động hay nhà đầu tư thụ động. Đây là một việc hết sức cần thiết, quyết định đến toàn bộ cách thức đầu tư của từng người. Từ đó quyết định đầu tư bao nhiêu vốn vào cổ phiếu, đầu tư bao nhiêu vào trái phiếu, vào các tài sản tài chính khác…
Điều thứ hai tỷ trọng các chứng khoán trong danh mục đó. Đây là một quyết định mang tính cá nhân của từng nhà đầu tư, tuỳ theo quan điểm của từng nhà đầu tư. Một số nhà đầu tư không thích đầu tư quá nhiều vào cổ phiếu. Hiện nay, đa số các nhà đầu tư cho rằng nên đầu tư 50/50, tức là đầu tư 50% vào cổ phiếu và đầu tư 50% vào trái phiếu. Tuy nhiên, tỷ trọng của danh mục nên điều chỉnh theo sự biến động của thị trường.
Trong đầu tư, nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau, sự thua lỗ về một loại chứng khoán chỉ có tác động nhỏ tới toàn bộ danh mục đầu tư. Đó là nguyên tắc đa dạng hoá trong đầu tư. Đa dạng hoá danh mục đầu tư bao gồm đa dạng hoá tổ chức phát hành và đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh.
Đa dạng hoá tổ chức phát hành tức là nhà đầu tư quyết định đầu tư bao nhiêu vào trái phiếu chính phủ, bao nhiêu vào trái phiếu công ty, bao nhiêu vào cổ phiếu. Điều này phụ thuộc vào quan điểm của từng nhà đầu tư. Chẳng hạn, nếu nhà đầu tư đầu tư vào danh mục cổ phiếu của 20 nhà phát hành khác nhau và khi một nhà phát hành chẳng may bị phá sản thì danh mục đầu tư chỉ bị suy giảm 5%. Mỗi nhà đầu tư sẽ tự đưa ra quyết định của mình dựa vào suy nghĩ bản thân, tiềm lực tài chính cũng như mức độ rủi ro và họ có thể chịu đựng.
Bên cạnh việc đa dạng hoá tổ chức phát hành, nhà đầu tư cũng nên đa dạng hoá các lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hoá nguồn thu hoặc đa dạng hoá theo vị trí địa lý. Nhà đầu tư cần chú ý rằng, càng đa dạng hoá danh mục đầu tư thì càng hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên việc đa dạng hoá quá nhiều sẽ làm mất nhiều chi phí giám sát và phải bỏ ra nhiều công sức để quản lý danh mục đó. Đồng thời, đa dạng hoá cũng quá nhiều cũng có hạn chế là nhà đầu tư không thể thu được những khoản lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, bằng lòng với những khoản thu nhập vừa phải để tránh những thua lỗ quá mức là hoàn toàn hợp lý.
3.3.4. Quản lý danh mục đầu tư
Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh chứng khoán, là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý danh mục đầu tư một cách tối ưu nhất. Một danh mục đầu tư có thể bao gồm các chứng khoán được giao dịch trên thị trường như: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền chọn….
Quản lý danh mục đầu tư là nhu cầu cần thiết của người đầu tư, có trường hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán vẫn chứa đựng những rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. Đồng thời, việc lựa chọn danh mục đầu tư phải tính đến ảnh hưởng của thuế. Nhà đầu tư phải chịu mức thuế cao thường không muốn trong danh mục của mình có những chứng khoán giống như danh mục của những người chịu thuế thấp. Các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau thì nhu cầu đầu tư và mức chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Thông thường, nhà đầu tư lớn tuổi có nhu cầu đầu tư vào các loại chứng khoán có độ an toàn cao. Ngược lại, các nhà đầu tư trẻ tuổi lại có nhu cầu đầu tư vào các loại chứng khoán có độ rủi ro cao nhưng mức lợi nhuận kỳ vọng cũng cao.
Do đó, sau khi tiến hành lựa chọn được một danh mục đầu tư theo nhu cầu của mình, nhà đầu tư cần tiến hành quản lý danh mục đầu tư. Nhà đầu tư cần theo dõi những biến động giá của các chứng khoán trên thị trường và mức lợi nhuận mong đợi. Từ đó, trong quá trình theo dõi các biến động của danh mục, nhà đầu tư tiến hành điều chỉnh danh mục cho phù hợp với diễn biến của thị trường và mục tiêu đã đề ra.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ĐẦU TƯ THÔNG QUA DANH MỤC ĐẦU TƯ
1. Đối với nhà đầu tư trên thị trường
Đối với nhà đầu tư trên thị trường, đầu tư chứng khoán là một hoạt động đầu tư mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, đầu tư chứng khoán lại hàm chứa rủi ro cao. Khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư đơn lẻ vào một loại cổ phiếu, rủi ro rất lớn. Vì vậy, nhà đầu tư cần thiết phải xác định một danh mục đầu tư cho phù hợp với mức chấp nhận rủi ro của mình do các nhu cầu sau.
Thứ nhất, đầu tư chứng khoán theo danh mục vẫn đảm bảo được các yêu cầu của nhà đầu tư về lợi suất đầu tư. Khi nhà đầu tư tiến hành đầu tư theo danh mục, nhà đầu tư có thể điều chỉnh danh mục sao cho phù hợp với lợi suất yêu cầu.
Thứ hai, đầu tư bằng danh mục đầu tư giúp nhà đầu tư có thể đa dạng hóa rủi ro. Khi đầu tư theo hình thức đơn lẻ, cổ phiêu đó biến động tốt sẽ mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi cổ phiếu đó mất giá hoặc doanh nghiệp phát hành bị phá sản, nhà đầu tư sẽ bị mất lớn, thậm chí bị mất hết. Vì vậy, rủi ro là rất cao. Khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư theo danh mục, các rủi ro riêng của danh mục đã được đa dạng hóa. Vì vậy, nhà đầu tư xác định được danh mục đầu tư hiệu quả, phù hợp với nhu cầu lợi nhuận của nhà đầu tư.
Thứ ba, hình thức đầu tư thông qua các tổ chức chuyên nghiệp sẽ làm giảm chi phí giám sát cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư với hình thức uỷ thác cho công ty tài chính, quỹ đầu tư sẽ không phải bỏ ra quá nhiều chi phí giám sát đối với các chứng khoán. Đó là chi phí về tiền bạc và chi phí về thời gian, công sức bỏ ra để giám sát chứng khoán. Vì vậy, khi chỉ mất một khoản phí uỷ thác nhỏ cho công ty tài chính, nhà đầu tư sẽ không phải chịu những chi phí trên. Khi này, các công ty được ủy thác sẽ quản lý danh mục đầu tư cho nhà đầu tư.
2. Đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích thu được nguồn lợi nhuận từ hoạt động đầu tư chứng khoán. Đó là phần doanh thu từ hoạt động tài chính của công ty. Vì vậy, trong khi thị trường chứng khoán ngày càng phát triển và hoàn thiện, đầu tư chứng khoán là một lĩnh vực mà các tổ chức kinh doanh tăng nguồn lợi nhuận.
Công ty tài chính là một tổ chức kinh doanh phi ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Vì vậy, hoạt động đầu tư chứng khoán là một trong những hoạt động chính của công ty tài chính.
Công ty tài chính là một tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động độc lập do tổng công ty hoặc công ty mẹ lập ra. Với chức năng là thực hiện các chức năng đầu tư, cho vay cho các công ty thuộc tổng công ty ( hoặc công ty mẹ). Do đó trong lĩnh vực hoạt động của mình, công ty tài chính luôn phải bảo đảm an toàn hoạt động đối với nguồn vốn của mình. Trong lĩnh các lĩnh vực hoạt động, công ty tài chính phải được sự chấp thuận phê duyệt, giám sát của tổng công ty sao cho bảo đảm an toàn vốn.
Đầu tư tài chính là một hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán. Đối với công ty tài chính, đầu tư chứng khoán mở rộng phạm vi hoạt động của công ty. Đầu tư chứng khoán giúp công ty thu được một khoản lợi nhuận lớn, phát huy được nguồn vốn dùng để đầu tư trong công ty ngoài đầu tư dự án và cho vay…
Đầu tư vào thị trường tài chính tạo cho công ty một khoản lợi nhuận cao, phù hợp với yêu cầu về khả năng an toàn vốn nhờ vào việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. Khi đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán, với khả năng quan hệ của công ty trên thị trường, công ty tài chính có thể đầu tư bằng cách góp vốn vào công ty cổ phần với tư cách là cổ đông sáng lập của công ty, hoặc cũng có thể giao dịch trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Từ đó, công ty tài chính có thể thu được lợi nhuận từ khoản đầu tư này.
Đầu tư bằng danh mục đầu tư giúp cho Công ty thu được cá khoản lợi nhuận dự tính mà vẫn đảm bảo khả năng an toàn hoạt động. Ngoài ra, công ty tài chính cũng có thể tăng doanh thu từ việc thu phí tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư.
Vì vậy, đầu tư chứng khoán bằng danh mục đầu tư là thật sụ cần thiết cho các nhà đầu tư có tổ chức.
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
I. QUY ĐỊNH CỦA VNPT VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN ĐỐI VỚI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
1. Quy định chung trong lĩnh vực hoạt động đầu tư
1.1 Quy định về số vốn đầu tư đối với Công ty tài chính Bưu Điện
Công ty tài Chính Bưu Điện là doanh nghiệp nhà nước hoạch toán độc lập trực thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam; là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức và hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng.
Vốn điều lệ của Công ty tài chính Bưu Điện là 70.000.000.000 đồng. Công ty ra đời góp phần làm đa dạng hoá các loại hình tổ chức tín dụng của Việt Nam, là tổ chức cung cấp các khoản tín dụng cho các dự án Bưu chính – Viễn thông, góp phần tạo nên kênh dẫn vốn mới bổ xung cho quá trình hoạt động Ngân hàng truyền thống của nước ta. Đồng thời, Công ty còn hỗ trợ cho các đơn vị thành viên trong tập đoàn VNPT, nhằm phát huy thế mạnh, tăng khả năng cạnh tranh của các đơn vị thành viên trong Tập đoàn, là nhân tố quan trọng trong kết cấu của Tập Đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Với vị trí là tổ chức tài chính trung gian giữa Tập đoàn VNPT với thị trường tài chính, giữa VNPT với đơn vị thành viên, giữa các đơn vị thành viên với nhau. Công ty tài chính Bưu Điện là công cụ hoạt động tài chính của Tổng công ty và tham gia hoạt động kinh doanh dịch vụ tài chiính của Tổng công ty trên thị trường tài chính, Công ty tài chính Bưu Điện là đầu mối huy động vốn, đầu mối đầu tư tài chính, kinh doanh tiền tệ, kinh doanh dịch vụ tài chính, tư vấn quản lý tài sản tiền tệ, tài sản và vốn đầu tư.
Mức mua và đầu tư vào tài sản cố định của Công ty tài chính Bưu Điện không vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có do Ngân hàng nhà nước quy định là 50% vốn tự có.
Mức giới hạn cho vay đối với một khách hàng phải đảm bảo điều là tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của Công ty. Trường hợp đối với các khoản cho vay uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức cá nhân hoặc nhiều trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của Công ty tài chính Bưu Điện hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì Công ty tài chính Bưu Điện được tiến hành cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Vốn điều lệ của Công ty tài chính Bưu Điện do Tập đoàn VNPT cấp. Công ty tài chính Bưu Điện được sử dụng vốn điều lệ để kinh doanh sau khi trừ đi phần vốn mua sắm tài sản cố định, trang thiết bị phục vụ quản lý và kinh doanh. Công ty tài chính Bưu Điện không được sử dụng vốn điều lệ để chia lợi tức, trích lập các quỹ phúc lợi duới bất kỳ hình thức nào.
Vốn huy động của Công ty tài chính Bưu Điện được hình thành từ nguồn vốn huy động từ các cá nhân, tổ chức khác trong và ngoài ngành. Công ty tài chính Bưu Điện chỉ được sử dụng nguồn vốn để cho vay, kinh doanh các dịch vụ được phép, không được sử dụng để góp vốn hoặc mua cổ phần, không được sử dụng vào các mục đích khác trái với quy định của pháp luật và của Tập đoàn VNPT.
Vốn nhận uỷ thác đầu tư được hình thành từ việc nhận vốn uỷ thác đầu tư của Chính Phủ, của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước uỷ thác đầu tư vào các dự án của Chính phủ, Tập đoàn VNPT, các đơn vị thành viên của VNPT, các doanh nghiệp khác theo các thoả thuận trong hợp đồng uỷ thác.
Vốn tự bổ sung được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty tài chính Bưu Điện và được sử dụng như vốn điều lệ.
1.2 Quy định về lĩnh vực đầu tư
Công ty tài chính Bưu Điện được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, tổng vốn đầu tư của Công ty tài chính Bưu Điện không được vượt quá 40% vốn điều lệ (tương đương 28 tỷ đồng) và không quá 11% vốn điều lệ của một doanh nghiệp do pháp luật quy định.
Công ty tài chính Bưu Điện có thể thực hiện các dự án đầu tư vào các dự án và các tổ chức kinh doanh trên cơ sở phân tích dự án đảm bảo mức doanh thu, chi phí, nhuận dự kiến, thuế, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư…
Công ty được tham gia vào thị trường tiền tệ. Tuy nhiên việc tham gia vào thị trường phải đảm bảo an toàn vốn hoạt động theo quy định của Tổng công ty và của Ngân hàng Nhà nước.
Công ty được phép làm đại lý phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá cũng như tư vấn phát hành các loại chứng khoán. Từ việc xây dựng phương án phát hành chứng khoán, xây dựng các quy chế phát hành chứng khoán cho doanh nghiệp, quy trình, hồ sơ xin phép phát hành và xây dựng phương thức bán đấu giá chứng khoán.
Công ty tài chính Bưu Điện được thực hiện các nhiệm vụ uỷ thác đầu tư, tư vấn đầu tư. Thông qua hoạt động công ty có thể thu phí uỷ thác đầu tư cũng như phí tư vấn đầu tư. Công ty tài chính Bưu Điện có thể nhận uỷ thác đầu tư của Chính phủ, Tập đoàn VNPT, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài ngành Bưu điện.
1.3 Các hạn chế để đảm bảo an toàn hoạt động của Công ty.
Công ty Tài chính phải trích lập dự phòng rủi ro và hạch toán dự phòng rủi ro này vào chi phí hoạt động. Việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro được thực hiện theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Rủi ro hoạt động của Công ty bao gồm nhiều loại rủi ro như: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro vỡ nợ… Hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn cho Công ty Tài chính Bưu Điện. Tuy nhiên, đây lại là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy, Công ty phải trích lập khoản dự phòng rủi ro trong hoạt động của Công ty.
Mức góp vốn, mua cổ phần của Công ty vào một doanh nghiệp và tổng mức góp vốn của Công ty trong tất cả các doanh nghiệp không vượt quá mức tối đa do ngân hàng Nhà Nước quy định. Tổng số vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện vào tổ chức tín dụng khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần phải được khấu trừ khỏi vốn tự có của Công ty khi tính đến tỷ lệ an toàn.
Vì vậy, Công ty tài chính Bưu Điện phải tuân thủ các quy định bảo đảm an toàn hoạt động trong quy định về đảm bảo an toàn hoạt động của Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Công ty Tài chính Bưu Điện phải tuân thủ các quy định về an toàn khác có liên quan theo quy định của pháp luật.
Công ty Tài chính Bưu Điện không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán.
2. Quy định trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán
Đầu tư chứng khoán là một lĩnh vực có rủi ro cao. Do đó, trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán, Công ty Tài chính Bưu Điện phải tính đến tỷ lệ an toàn của nguồn vốn đầu tư. Khi tham gia vào thị trường chứng khoán, không những Công ty chỉ sử dụng nguồn vốn của mình mà còn nguồn vốn uỷ thác của các tổ chức cá nhân trong và ngoài ngành Bưu chính Viễn thông. Vì vậy, đòi hỏi Công ty Tài chính Bưu Điện phải thực hiện đầu tư một cách thận trọng.
Công ty tài chính Bưu Điện được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng. Tổng vốn đầu tư của Công ty tài chính Bưu Điện không được vượt quá 40% vốn điều lệ và không quá 11% vốn điều lệ của một doanh nghiệp.
Công ty Tài chính Bưu Điện được góp vốn và mua cổ phần của các tổ chức tín dụng khác. Tuy nhiên, tổng số vốn của Công ty đầu tư vào các tổ chức tín dụng cần phải được khấu trừ khỏi vốn tự có của Công ty Tài chính Bưu Điện khi tính đến tỷ lệ an toàn.
II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI PHÒNG ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH VỐN – CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
Phòng đầu tư và kinh doanh vốn là một phòng chức năng có vai trò thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính và kinh doanh chứng khoán của Công ty. Phòng đầu tư thực hiện các hoạt động nghiệp vụ đầu tư dự án, tổ chức thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, phát hành trái phiếu, tư vấn đầu tư tài chính và các hoạt động khác của Công ty.
Trong hoạt động đầu tư nói chung, Phòng đầu tư và kinh doanh vốn thực hiện kinh doanh bằng cách phân tích tài chính của các dự án đầu tư. Thông qua việc tìm hiểu và phân tích tài chính các dự án đầu tư, Phòng đầu tư sẽ xác định được các chỉ tiêu của từng dự án như: các chi phí phát sinh trong toàn bộ vòng đời dự án, doanh thu dự kiến của dự án, thu nhập hiện tại ròng - NPV, tỷ lệ hoàn vốn nội bộ - IRR, thời gian hoàn vốn… Từ đó, Phòng xác định được ưu điểm, nhược điểm của từng dự án. Phòng đầu tư sẽ lựa chọn ra các dự án đáp ứng được các nhu cầu về khả năng an toàn vốn, lợi nhuận đem lại của các dự án đầu tư.
Cũng như phân tích một dự án đầu tư, Phòng đầu tư và kinh doanh vốn thực hiện phân tích các chứng khoán thông thông qua các thông tin của các chứng khoán như: mức lợi nhuận mang lại, giá trị tài sản ròng của tổ chức phát hành, mức giá của các chứng khoán, tỷ lệ cổ tức được trả hàng năm, các chỉ tiêu tài chính…Thông qua việc phân tích các chứng khoán, phòng đầu tư tiến hành lựa chọn các chứng khoán để đầu tư. Từ đó, xác định được danh mục đầu tư cho Công ty.
Cụ thể, quy trình đầu tư chứng khoán niêm yết tại Phòng đầu tư và kinh doanh vốn Công ty Tài chính Bưu Điện được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Cơ hội đầu tư
Nội dung của công tác nghiên cứu cơ hội đầu tư, thu thập, phân tích thông tin gồm:
Tên và mệnh giá chứng khoán tại thời điểm đầu tư.
Tổ chức phát hành, mục đích của việc phát hành.
Tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của các tổ chức phát hành.
Lãi suất điều hành ngân quỹ của Công ty. Xu hướng biến động lãi suất.
Khả năng, nguồn ngân quỹ của công ty tại thời điểm mua.
Các điều kiện pháp lý của việc mua chứng khoán.
Thông tin về đợt phát hành, biến động giá của chứng khoán trên thị trường và biến động giá của các loại chứng khoán khác trên thị trường.
Các thông tin cụ thể khác.
Bước 2: Phê duyệt chủ trương
Khi Phó giám đốc đồng ý chủ trương mua chứng khoán, phương án được giao Phòng đầu tư để xây dựng tiếp.
Khi Phó giám đốc không đồng ý chủ trương mua chứng khoán, phương án được giao cho Phòng đầu tư lưu trữ thông tin.
Bước3: Xây dựng phương án mua chứng khoán
Kết quả thu thập và phân tích thông tin.
Các đánh giá lựa chọn phương án kinh doanh.
Mức vốn và khung giá mua.
Phân tích kết quả dự kiến của phương án mua. So sánh hiệu quả của phương án mua với các cơ hội đầu tư khác cùng thời kỳ.
Các kiến nghị, đề xuất, trách nhiệm thực hiện của từng các nhân, bộ phận.
Bước 4: Lập tờ trình
Cơ sở xây dựng phương án mua.
Thông tin cụ thể về loại chứng khoán dự kiến mua: Tên chứng khoán, tổ chức phát hành, thời điểm mua, giá chứng khoán tương ứng.
Kiến nghị về khối lượng và giá trị dự kiến mua.
Nguồn ngân quỹ thực hiện phương án.
Bước 5: Xem xét và phê duyệt phương á
Khi quyết định phê duyệt phương án, phương án được giao Phòng đầu tư và kinh doanh vốn chủ trì thực hiện phương án.
Khi quyết định không phê duyệt phương án, phương án được giao Phòng đầu tư lưu trữ thông tin.
Bước 6: Chỉ đạo thực hiện phương án
Phó giám đốc phụ trách phê duyệt trên tờ trình của Phòng đầu tư và kinh doanh vốn. Giao cho phòng đầu tư và kinh doanh vốn tiếp xúc với các đầu mối có liên quan để thực hiện các thủ tục mua chứng khoán.
Bước 7: Trao đổi với các đầu mối có liên quan để mua chứng khoán
Phòng đầu tư chủ động tiếp xúc với các đối tác, dự thảo các văn bản trình lãnh đạo Công ty.
Bước 8: Thực hiện mua chứng khoán
Thông qua các phương án mua chứng khoán được phê duyệt, phòng đầu tư phối hợp với phòng Kế toán – Ngân quỹ thực hiện các thủ tục mua chứng khoán, ký kết các hợp đồng kinh tế, theo dõi các giao dịch chứng khoán.
Bước 9: Theo dõi quá trình mua chứng khoán
bước 10: Báo cáo kết quả thực hiện mua chứng khoán
Báo cáo về tổng khối lượng chứng khoán đã mua, tổng khối lượng chứng khoán giao dịch.
Thông qua quy trình đầu tư chứng khoán của Phòng đầu tư và kinh doanh vốn, ta có thể xây dựng một danh mục đầu tư chứng khoán của Công ty thông qua quá trình như sau:
1. Xây dựng kế hoạch đầu tư
Để xây dựng được danh mục đầu tư, trước tiên Phòng cần phải xác định đườc các căn cứ và cơ sở pháp lý để xây dựng phương án như: luật các tổ chức tín dụng, nghị định của chính phủ về chức năng và hoạt động của Công ty tài chính, giấy phép hoạt động của Công ty, điều lệ hoạt động của Công ty Tài chính Bưu Điện…
Trên cơ sở các căn cứ đó, tuỳ vào tình hình chung của toàn bộ thị trường, Công ty xác định được tài sản đầu tư. Việc xác định tài sản đầu tư dựa trên uy tín và quan hệ của công ty trên thị trường với các đối tác trong và ngoài ngành. Thông qua các quan hệ bạn hàng, cho vay tín dụng, tư vấn… Công ty đã tạo được uy tín trên thị trường. Công ty cũng đầu tư trực tiếp trên thị trường. Từ đó, xác định được các chứng khoán tốt trên thị trường.
Sau khi tiến hành tìm kiếm được các cơ hội đầu tư, phòng đầu tư xác định lượng vốn phù hợp cho tứng chứng khoán.
2. Phân tích các chỉ số tài chính của các chứng khoán
Đối với một tổ chức tài chính phi ngân hàng như công ty tài chính cũng cần có sự đảm bảo về an toàn vốn hoạt động. Đó là một yêu cầu bắt buộc trong toàn bộ quá trình hoạt động của Công ty Tài chính Bưu Điện nhằm đảm bảo sự phát triển của toàn bộ Tập Đoàn VNPT.
Căn cứ vào mục đích của việc kinh doanh chứng khoán, cũng như thông qua hình thức nhận uỷ thác đầu tư là nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính và nhận uỷ thác đầu tư của Công ty Tài chính Bưu Điện, đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư và khả năng tài trợ vốn của Công ty cho các cơ hội đầu tư khác, phát huy vai trò trung gian tài chính của Công ty Tài chính Bưu Điện, nâng cao vai trò trung gian tài chính của Công ty trên thị trường tài chính.
Do đó, để xây dựng được phương án kinh doanh, Công ty Tài chính Bưu Điện đã thực hiện các nghiệp vụ sau:
2.1. Tìm hiểu thông tin chung về doanh nghiệp
Quá trình tìm hiểu thông tin chung về doanh nghiệp bao gồm các thông tin như: tên giao dịch của tổ chức phát hành, trụ sở làm việc, thời gian thành lập, vốn điều lệ cũng như cơ cấu vốn điều lệ (bao gồm các doanh nghiệp nghiệp nào góp vốn), mức giá giao dịch trong quá khứ, khối lượng giao dịch tương ứng, ngành nghề kinh doanh… Từ đó, Công ty có cái nhìn tổng quan về hoạt động của tổ chức phát hành để tiến hành các phân tích chuyên sâu hơn.
2.2. Phân tích một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của doanh nghiệp phát hành
Trên cơ sở các phân tích tổng quan tình hình của doanh nghiệp, Phòng đầu tư tiến hành các phân tích trên cơ sở các chỉ tiêu sau:
Vốn điều lệ của doanh nghiệp: vốn điều lệ của Công ty phát hành, kế hoạch tăng giảm vốn điều lệ. Vốn điều lệ từ 5 tỷ trở lên.
Doanh thu: Tỷ lệ tăng (giảm) doanh thu của năm nay so với các năm trước, tính ổn định của doanh thu, kế hoạch tăng doanh thu trong tương lai.
Chi phí trong quá trình hoạt động tăng giảm hợp lý với doanh thu.
Tổng lợi nhuận trước thuế tăng trong 2 năm gần nhất.
Tỷ lệ cổ tức được trả từ 12 % trở lên.
Tỷ lệ lãi trên vốn cổ phần EPS đạt từ 1,500 đồng trở lên.
Tỷ lệ P/E từ 14 lần trở lên.
Một số chỉ tiêu tài chính khác như: ROE, NAV … tuỳ thuộc vào từng loại cổ phiếu mà công ty có điều chỉnh phù hợp.
Các chỉ tiêu này được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết. Từ các phân tích các chỉ tiêu tài chính trên, Phòng đầu tư tiến hành phân tích được các hiệu quả trực tiếp và gián tiếp từ việc đầu tư, phân tích các tiềm năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
3. Quyết định của Công ty về hoạt động đầu tư
Sau khi phân tích các chỉ tiêu tài chính của công ty, Phòng đầu tư tiến hành tính toán về lượng vốn đầu tư, số lượng cổ phiếu tương ứng, khối lượng nhà đầu tư uỷ thác đầu tư… Từ đó, Phòng tiến hành tính toán tổng nguồn vốn thích hợp để tiến hành mua cổ phiếu.
Trên cơ sở đầu tư vào các ngành nghề kinh doanh khác nhau để nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh chứng khoán. Hiện nay, danh mục đầu tư cổ phiếu của Công ty Tài chính Bưu Điện bao gồm các cổ phiếu sau:
DANH MỤC ĐẦU TƯ CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
Đơn vị: Tỷ đồng
Tên công ty
Mã CK
NV đầu tư
Cty CP viễn thông VTC
VTC
1.5
Cty CP Viễn Liên
UNI
2.706
Cty CP bao bì nhựa Tân Tiến
TTP
4.8
Cty CP cáp và vật liệu viễn thông
SAM
2.584
Cty CP thuỷ điện Ry Ninh II
RHC
4.7
Cty CP nhiệt điện Phả Lại
PPC
2.7
Cty CP xây lắp Bưu Điện
HAS
2.2
Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam
VF1
1.8
Cty CP dây và cáp điện TAYA Việt Nam
TYA
3.76
Cty CP phát triền nhà Thủ Đức
TDH
1.25
Tổng
28
(Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 3 năm 2007 tại Công ty Tài chính Bưu Điện)
4. Quản lý danh mục đầu tư của phòng đầu tư
Sau khi tiến hành đầu tư, Phòng đầu tư tiến hành quản lý danh mục đầu tư. Quản lý đầu tư bao gồm theo dõi toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp phát hành, các biến động của cổ phiếu trên thị trường. Thông qua quá trình quản lý, Phòng tiến hành điều chỉnh danh mục cho phù hợp với tình hình thực tế.
CHƯƠNG 3: XẤY DỰNG MÔ HÌNH XÁC ĐỊNH DANH MỤC ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
Trong thực tế, danh mục của PTF vẫn đang hoạt động. Tuy nhiên, danh mục của Công ty vẫn chưa phải là tối ưu. Để chứng minh điều này, em xin đề xuất một danh mục được xây dựng trên cơ sở phân tích các chỉ số tài chính phù hợp với yêu cầu của PTF. Để xác định các trọng số của danh mục, sử dụng các mô hình toán tài chính là mô hình chỉ số đơn – SIM và mô hình định giá tài sản vốn – CAPM. Phần cuối chương sẽ là đưa ra các so sánh giữa danh mục tối ưu được lập và danh mục thực tế của Công ty.
I. MỘT SỐ CHỈ SỐ TÀI CHÍNH DÙNG PHÂN TÍCH CHỨNG KHOÁN
Trên thực tế, người ta sử dụng một số hệ số sau để đánh giá hiệu quả sinh lợi của doanh nghiệp như: hệ số tổng lợi nhuận; hệ số lợi nhuận hoạt động; hệ số lợi nhuận ròng; hệ số thu nhập trên vốn cổ phần; hệ số thu nhập trên đầu tư.
Hệ số lợi nhuận cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào (vật tư, lao động) trong một chu trình sản xuất của doanh nghiệp.
Hệ số tổng lợi nhuận = (Doanh số - Trị giá hàng đã bán tính theo giá mua)/Doanh số bán
Trong thực tế khi muốn xem các chi phí này có cao hay thấp, ta đem so sánh tổng hệ số lợi nhuận của một công ty với hệ số của các công ty cùng ngành, nếu hệ số tổng lơi nhuận của các công ty đối thủ cạnh tranh cao hơn, thì công ty cần có giải pháp tốt hơn trong việc kiểm soát các chi phí đầu vào.
Hệ số lợi nhuận hoạt động cho biết việc sử dụng hợp lý các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Mức lãi hoạt động = Thu nhập trước thuế và lãi / doanh thu
Hệ số này là thước đo đơn giản nhằm xác định đòn bẩy hoạt động mà một công ty đạt được trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hệ số biên lợi nhuận hoạt động cho biết số bỏ ra có thể thu về bao nhiêu đồng thu nhập trước thuế. Hệ số chi phí lợi nhuận cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay có nghĩa là doanh thu tăng nhanh hơn chi phí hoạt động.
Hệ số lợi nhuận ròng phản ánh khoản thu nhập ròng (thu nhập sau thuế) của một công ty so với doanh thu của nó.
Hệ số lợi nhuận ròng = Lợi nhuận ròng / doanh thu
Thực tế, mức lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong bản thân một ngành, công ty nào quản lý và sủ dụng các yếu tố đầu vào (vốn, nhân lực..) tốt hơn sẽ có hệ số lợi nhuận ròng cao hơn.
Hệ số thu nhập trên vốn cổ phần (ROE) phản ánh mức thu nhập ròng trên vốn cổ phần của cổ đông.
ROE = Lợi nhuận ròng / Vốn cổ đông hay giá trị tài sản ròng hữu hình.
Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu khác nhau trên thị trường. Thông thường, hệ số thu nhập trên vốn cổ phần càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn. Vì hệ số này cho thấy cách đánh giá khả năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty khi đem so sánh với hệ số thu nhập trên vốn cổ phần của các công ty khác.
Hệ số thu nhập trên tổng đầu tư (ROI) được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của biên lợi nhuận so với doanh thu và tổng tài sản.
ROI = (Thu nhập ròng / Doanh số bán) * (Doanh số bán / Tổng tài sản)
Mục đích của việc sử dụng hệ số ROI là để so sánh cách thức tạo lợi nhuận của công ty và cách thức sử dụng tài sản để tạo doanh thu. Nếu tài sản được sử dụng có hiệu quả thì thu nhập và thu nhập trên đầu tư sẽ cao.
Hệ số giá trên thu nhập (P/E) là một trong những chỉ số phân tích quan trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price) và thu nhập của mỗi cổ phiếu (Earning Per Share - PM) và được tính như sau:
P/E = PM / EPS
Trong đó giá trị thị trường PM của cổ phiếu là giá mà tại đó cổ phiếu đang được mua bán tại thời điểm hiện tại. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu EPS là phần lợi nhuận ròng sau thuế mà công ty chia cho các cổ đông thường trong năm tài chính gần nhất.
Các hệ số tài chính là nội dung quan trọng trong việc phân tích đầu tư chứng khoán. Cùng với quá trình phân tích báo cáo tài chính, việc phân tích và sử dụng các hệ số tài chính là những nội dung quan trọng để định giá cổ phiếu vào đầu tư chứng khoán. Quá trình phân tích sẽ giúp cho nhà đầu tư thấy được điều kiện tài chính chung của doanh nghiệp, đó là doanh nghiệp hiện đang ở trong tình trạng rủi ro mất khả năng thanh toán hay đang làm ăn tốt và có lợi thế trong kinh doanh khi so sánh với các doanh nghiệp cùng ngành hoặc các đối thủ cạnh tranh.
Việc sử dụng hệ số tài chính trong phân tích đầu tư vốn trên thị trường chứng khoán sẽ tạo ra chi phí thấp mà hiệu quả cao hơn, và cũng đúng ngay cả trên thị trường tiền tệ khi mà các ngân hàng tài trợ vốn cho doanh nghiệp thông qua cấp tín dụng.
Việc phân tích các hệ số tài chính bao gồm nhóm các hệ số tài chính sau:
1. Nhóm hệ số khả năng thanh toán
Tính thanh khoản của tài sản phụ thuộc vào mức độ dễ dàng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt mà không phát sinh thua lỗ lớn. Việc quản lý khả năng thanh toán là rất quan trọng, nó quyết định đến nghĩa vụ trả nợ của công ty.
Trong thực tế, hệ số thanh toán được sử dụng nhiều nhất là hệ số khả năng thanh toán hiện tại và hệ số khả năng thanh toán nhanh.
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại là mối tương quan giữa tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn, hệ số này cho thấy mức độ an toàn của công ty trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại = Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là mối tương quan giữa các tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn, đảm bảo khả năng thanh toán nhanh sau khi tài sản đã thanh toán nhanh sau khi tài sản đã được loại bỏ bởi các hàng tồn kho và tài sản kém tính thanh khoản.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản lưu động – Hàng dự trữ) / Nợ ngắn hạn.
2. Nhóm hệ số hoạt động
Các hệ số hoạt động xác định tốc độ mà một công ty có thể tạo ra được tiền mặt nếu có nhu cầu phát sinh. Bao gồm các hệ số thu hồi nợ trung bình, hệ số thanh toán trung bình, hệ số hàng lưu kho.
Hệ số thu hồi trung bình biểu thị thông qua kỳ thu hồi nợ trung bình của một công ty, cho biết công ty đó phải mất bao nhiêu lâu để chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt.
Kỳ thu hồi nợ trung bình = Các khoản phải thu / (Doanh số bán chịu hàng năm / 360 ngày)
Hệ số thanh toán trung bình biểu thị thông qua thời hạn thanh toán trung bình, phản ánh mối tương quan giữa các khoản phải trả đối với tiền mua hàng chịu mỗi năm.
Thời hạn thanh toán trung bình = Các khoản phải trả / (Tiền mua chịu hàng năm / 360 ngày
Hệ số hàng lưu kho biểu thị số lượng hàng đã bán trên số hàng còn lưu kho, hệ số này cho thấy khả năng dùng vốn đầu vào của các hàng hóa luân chuyển cao, tránh được lưu kho bởi cá mặt hàng kém tính linh hoạt.
Hệ số hàng lưu kho = Giá trị hàng đã bán tính theo giá mua / Giá trị hàng hóa lưu kho trung bình.
3. Nhóm hệ số nợ của công ty
Phản ánh tình trạng nợ hiện thời của công ty, có tác động đến nguồn vốn vay và lãi suất khi đáo hạn. Tình trạng nợ của công ty được thể hiện qua các hệ số: hệ số nợ, hệ số thu nhập trả lãi định kỳ, hệ số trang trải chung…
Hệ số nợ hay tỷ lệ trên tài sản cho biết phần trăm tổng tài sản được tài trợ bằng nợ. Hệ số nợ càng thấp thì hiệu ứng đòn bẩy tài chính càng ít và ngược lại hệ số nợ càng cao thì hiệu ứng đòn bẩy tài chính càng cao.
Hệ số nợ = Tổng số nợ / Tổng tài sản
Hệ số nợ được phản ánh thông qua hệ số nợ trên vốn cổ phần và hệ số nợ dài hạn trên tổng tài sản. Hệ số nợ trên vốn cổ phần biểu thị tương quan giữa nợ dài hạn và vốn cổ phần. Mức cao thấp của hệ số này phụ thuộc vào từng lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Hệ số nợ trên vốn cổ phần = (Nợ dài hạn + Giá trị tài sản đi thuê) / Vốn cổ phần.
4. Chỉ số P/E
Chỉ số P/E phản ánh mối quan hệ giữa thị giá (giá thị trường cổ phiếu hiện hành) cổ phiếu với lợi nhuận sau thuế trong một năm của công ty.
Chỉ số này là khá phổ biến như một công cụ tài chính để nhà đầu tư xem xét mình xem chưng khoán đắt hay rẻ. P/Ecang cao nghĩa là chứng khoán mua càng cao và ngược lại. mặt khác, nhà đầu tư có thể mua với P/E giá cao để hy vọng trong tương lai lợi nhuận công ty cao thì P/E lúc đó lại thất như ví dụ dưới dây: lợi nhuận năm 1999 của một công ty bánh kẹo là 12,7 tỷ, P/E là 3,4 ;lợi nhuận 2000 là 14,5 tỷ, P/E là 2,9.
Nhà đầu tư mua cổ phiếu với giá P/E là 3,4 lần so với lợi nhuận là 12,7 tỷ của năm 1999 . Nếu năm 2000 lợi nhuận là 14,5 tỷ thì nhà đầu tư mua với P/E chỉ còn 2,9 lần do lợi nhuận của công ty đã tăng lên và đến năm 2001 lợi nhuận tăng nữa thì lúc này P/E sẽ giảm nữa, khi đó nhà đầu tư này muốn bán ra cho nhà đầu tư khác và nhìn vào thì thấy tại sao nhà đầu trước mua P/E 3,4 lần thì mình cũng mua 3,4 lần được chứ. Thế là hoàn tất thương vụ.
Nếu nhà đầu tư chấp nhận P/E cao thì rủi ro có thể cao do mua với giá cao so với lợi nhuận Công ty đạt được.
Mặt khác, mua P/E cao cũng cơ thể rủi ro thấp, vì lúc đó Công ty mua vào có thể là Công ty có giá. Các Công ty này phát triển rất ổn định, từ đó mới hoàn thành biên độ chỉ số P/E cho từng loại Công ty, từng lĩnh vực công nghiệp và từng lĩnh vực thị trường.
Theo xu hướng trên thị trường chứng khoán các nước trên thế giới, thì các lĩnh vực sau đây thường chấp nhận chỉ số P/E cao: ngân hàng, tài chính chứng khoán, công nghệ tin học, viễn thông, công nghệ sinh học, các ngành sản xuất công nghiệp kỹ thuật cao.
Hiện nay, các chuyên viên tài chính Việt Nam nhận định P/E tại thị trường Việt Nam từ 8 – 15 lần, điều đó có nghĩa lĩnh vực tài chính ngân hàng hoặc các Công ty có uy tín thì P/E trên thị trường Việt Nam từ 10 – 15 lần và các lĩnh vực khác có thể dưới 10.
Do đó, P/E chỉ là một gia số tương đối, nhà đầu tư cũng cần phải đánh giá thêm các chỉ số tài chính khác có liên quan mang tính kỹ thuật nhiều hơn.
5. Chỉ số EPS
EPS có thể hiểu đơn giản là một chỉ số nhằm đánh giá bản thân Công ty tạo khả năng sinh lời từ đồng vốn của cổ đông đóng góp. Đây là chỉ số dánh giá trực tiếp phản ánh hoàn toàn nội tại của Công ty về khả năng tạo ra lợi nhuận ròng (lợi nhuận có thể trả cho các cổ đông) trên một cổ phần mà cổ đông góp vốn chứ không từ việc lên hay xuống giá cổ phiếu Công ty trên thị trường chứng khoán. Chỉ số EPS càng cao thì công ty tạo ra lợi nhuận cổ đông càng lớn và ngược lại. Ví dụ, nếu đạt lợi nhuận 5.000 đồng trên một cổ phần thì điều đó có nghĩa là Công ty tạo ra lợi nhuận 5% trên cổ đông (giả sử mệnh giá cổ phần là 100.000 đồng. Như vậy, nếu một Công ty chỉ đạt EPS chỉ 8 – 9% / 1 năm thì chỉ bằng lãi suất tiền gửi ngân hàng thì bạn có nên mua hay không. Đó là điều mà bạn cần cân nhắc trước khi quyêt định đầu tư nếu bạn mua. Khi bạn biết và hy vọng là Công ty trong thời gian tới có thể tăng lợi nhuận do nhiều lý do như Công ty đang mở rộng thị trường, đưa vào thị trường sản phẩm mới, nâng cấp bộ máy quản lý đạt hiệu quả hơn… Đây là quyết định phản ánh thực tế công ty.
6. Chỉ số thu nhập
Chỉ số current Yield (tỷ xuất thu nhập trên thơi giá cổ phần ) là một cộng cụ giúp nhà đầu tư tự quyết định ch mình lên chọn đầu tư voà doanh nghiệp nào.
Chỉ số current Yield hay người ta còn ngọi là Yield là chỉ số dùng để phan ánh mối quan hệ giữa cổ tức nhà dầu tư nhận được từ Công ty với giá cổ phiếu mà nhà đầu tư mua vào. Đó là tỷ lệ cổ tức mà cổ đông nhạn được trên giá chứng khoán mà cổ đông mua vào.
Phân tích mối quan hệ giữa cổ tức nhà đầu tư nhận được từ Công ty và giá nhà đầu tư mua cổ phiếu chúng ta thấy có hai trường hợp sau:
Trường hợp một: khi nhà đầu tư mua chứng khoán xong rồi chờ chứng khoán để hưởng chênh lệch giá gọi là lãi vốn (capital gain) thì nhà đầu tư sẽ không quan tâm gì đến Yield. Lúc này, Yield không có ý nghĩa gì thực sự quan trọng với họ so với chỉ số P/E và EPS như đã đề cập.
Trong trường hợp này, nhà đầu tư sẽ phân tích mối quan hệ giữa Yield và EPS. Nếu Yield thấp, EPS cao thì họ hy vọng Công ty sử dụng phận lợi nhuận để tái đầu tư tăng lợi nhuận cho các năm tiếp theo giúp P/E giảm. Lúc này, họ dễ dàng bán lại cổ phiếu với P/E cao để có lãi vốn.
Trường hợp hai, nếu nhà đầu tư mua chứng khoán để đầu tư lâu dài (như để mua làm của) thì tất nhiên họ sẽ quan tâm tới việc thu lợi nhuận hàng năm, hàng quý. Lúc này, chỉ có cổ tức họ thu được. Khi đó, Yield là mục tiêu chính để họ quan tâm.
Khi Công ty chia cổ tức cao nghĩa là công ty không cần sử dụng lợi nhuận để lại do Công ty sử dụng vốn vay, công ty chưa có kế hoạch mở rộng sản suất hoặc thị phần công ty đã bão hoà. Khi lợi nhuận không được dự đoán tăng lên trong nhiều năm tới đồng nghĩa P/E không giảm nhiều dẫn đến việc mà nhà đầu tư không hy vọng sẽ tăng giá cổ phiếu của công ty minh trong tương lai.
Thông thường, lợi nhuận thu được từ cổ tức Công ty trả thấp hơn nhiều so với lợi nhuận thu được từ việc bán cổ phiếu. Do vậy, đối với các nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường thì điều quan tâm nhất của họ là lãi vốn, có nghĩa trong đại hội cổ đông hàng năm để quyết định chiav cổ tức thì họ thường bỏ phiếu không chia cổ tức nhiều.
Nói tóm lại, khi đầu tư, bạn nên tìm hiều và đánh giá hết các loại chỉ số để có một cái nhìn tổng thể hơn mối quan hệ của các chỉ số này để có một quyết định đầu tư chính xác.
II. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH XÁC ĐỊNH DANH MỤC ĐẦU TƯ
1. Các lý thuyết cơ bản áp dụng trong việc xác định danh mục đầu tư
1.1. Lý thuyết thị trường hiệu quả - EMH (Efficient Market Hypothesis)
Trong nghiên cứu, các nhà kinh tế nhận thấy rằng: việc quan sát các biến số kinh tế có thể lý giải và dự đoán được sự phát triển của nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán cũng vậy, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng giá chứng khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên. Giả thiết rằng giá chứng khoán phản ánh triển vọng của tổ chức phát hành, sự biến đổi ngẫu nhiên của giá chứng khoán theo tình hình của công ty chính là một bằng chứng của một thị trường hoạt động tôt, hiệu quả của thị trường. Tuy nhiên, giá chứng khoán biến động dựa vào các thông tin mới của thị trường, không dự đoán được. Do đó ta có thể lập luận rằng giá của chứng khoán là một chuỗi ngẫu nhiên. Khi giá của chứng khoán không thể dự đoán được thì đó là bằng chứng của thị trường không hiệu quả.
Vậy, thị trường hiệu quả là gì? Thị trường hiệu quả là thị trường mà ở đó giá của các chứng khoán phản ánh toàn bộ thông tin của thị trường.
Giả thuyết về thị trường hiệu quả bao gồm ba cấp độ:
EMH cấp thấp. Khi giá chứng khoán phản ánh toàn bộ các thông tin trong quá khư. Thị trường chứng khoán là thị trường phải đảm bảo nguyên tắc công khai và minh bạch, công bằng. Do đó, các nhà đầu tư tham gia vào thị trường đều biết mọi thông tin trong quá khứ. Khi đó, các thông tin trên thị trường đều được mọi nhà đầu tư sử dụng.
EMH cấp trung. Khi giá chứng khoan không những phản ánh toàn bộ thông tin trong quá khứ mà còn phản ánh các thông tin ở hiện tại như: tình hình sản xuất của công ty, cơ cấu tài sản của công ty…Nhà đâu tư có thể nhận thấy giá chứng khoán phản ánh các thông tin công khai của công ty.
EMH cấp cao. Giá chứng khoán phản ánh mọi thông tin của công ty không những ở tron quá khứ mà cả thông tin nội bộ không được công bố. Thông thường, những nhà đầu tư có được các thông tin này là các thanh viên trong nội bộ của công ty hoặc các thành viên có quan hệ nhất định đối với các thành viên trong nôi bộ của công ty. Khi này, các thông tin nội bộ có thể được mua trên thị trường nhằm tận dụng cơ lợi về chênh lệch thông tin trên thị trường.
Do đó, mặc dù thị trường hiệu quả như thế nào nữa thì việc đầu tư vào cổ phiếu vẫn chứa đựng những rủi ro. Vì vậy, chỉ còn cách là nhà đầu tư phải giảm thiểu rủi ro. Đó chính là đa dạng hóa, rủi ro đầu tư chỉ bằng rủi ro của toàn thị trường – là rủi ro mà nhà đầu tư kỳ vọng.
1.2. Rủi ro của nhà đầu tư, rủi ro của danh mục đầu tư và phân tán rủi ro trong đa dạng hóa danh mục đầu tư
Trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư luôn mong muốn đạt được mức lợi suất mà mình kỳ vọng trong giới hạn rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận được. Do đó, mỗi nhà đầu tư khác nhau sẽ có một mức e ngại rủi ro khác nhau, tương ứng với các mức lợi nhuận kỳ vọng.
a. Mức e ngại rủi ro và hàm hữu dụng của nhà đầu tư
Trên thực tế, mỗi nhà đầu tư đều có mức độ e ngại rủi ro khác nhau. Các nhà kinh tế học hiện đại đã chứng minh được các mức độ e ngại của từng nhà đầu tư có thể lượng hóa được. Đó là hàm hữu dụng của từng nhà đầu tư. Để xác định được các dạng hàm hữu dụng này, các nhà phân tích phải tiến hành khảo sát, nghiên cứu đối với từng nhà đầu tư. Với các số liệu thống kê được, các nhà phân tích ước lượng được các hàm hữu dụng của từng nhà đầu tư.
Các nhà phân tích tài chính đưa ra công thức thể hiện mối tương quan giữa mức độ rủi ro, lợi suất kỳ vọng và hàm hữu dụng của nhà đầu tư. Giá trị của hàm hữu dụng tăng lên khi lợi suất kỳ vọng của nhà đầu tư tăng lên, đồng thời mức độ rủi ro tăng làm cho giá trị của hàm hữu dụng giảm. Khi nhà đầu tư tiến hành lựa chọn đầu tư, sẽ lựa chọn phương án đầu tư nào có cặp lợi nhuận và rủi ro đem lại giá trị của hàm hữu dùng lớn nhất.
Để ý rằng, trong phương trình hàm hữu dụng trên, đối với các danh mục đầu tư không có rủi ro thì khi đó, giá trị của hàm hữu dụng chính là giá trị của lợi suất kỳ vọng (hay ước tính) của nhà đầu tư: U = E ( r )
Trong phân tích để tiến hành đầu tư, giá trị của hàm hữu dụng của danh mục đầu tư còn gọi là tỷ lệ tương đương chắc chắn (kí hiệu là CE) của danh mục đầu tư.
Tỷ lệ tương đương chắc chắn của danh mục đầu tư là mức tỷ suất lợi nhuận đạt được chắc chắn của một danh mục đầu tư không rủi ro được nhà đầu tư chấp nhận và được xem xét là có mức độ hấp dẫn tương đương với danh mục đầu tư có rủi ro.
Trên thực tế, đối với các nhà đầu tư thờ ơ với rủi ro thì họ lựa chọn quyết định đầu tư dựa trên cơ sở là mức độ lợi nhuận, lợi nhuận càng cao càng tốt bất cứ mức độ rủi ro như thế nào. Nhưng đa số các nhà đầu tư trên thị trường là e ngại rủi ro. Do đó, việc xác định danh mục đầu tư đối với các nhà phân tích là dựa theo quy luật số đông, tức là lập danh mục đầu tư đối với các nhà đầu tư e ngại rủi ro.
b. Lợi suất và rủi ro của danh mục đầu tư
Lợi suất kỳ vọng của một danh mục đầu tư là bình quân gia quyền (theo tỷ trọng của từng loại tài sản) của lợi suất thu được từ mỗi chứng khoán trong danh mục đầu tư. Hay nói cách khác, lợi suất kỳ vọng của một danh mục đầu tư là bình quân có trọng số của các tài sản có trong danh mục đó.
E(rp) = W1 E(r1) + W2 E(r2) +…….+ Wn E(rn)
với danh mục có n tài sản.
Rủi ro của danh mục đầu tư là khả năng biến động trong tương lai của lợi nhuận thu được từ danh mục đầu tư.
1.3. Nguyên lý đa dạng hóa danh mục đầu tư
Quá trình phân tán và tối thiểu hóa rủi ro là một hình thức đa dạng hóa. Theo đó, các nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau để tạo thành một danh mục đầu tư sao cho tổng mức rủi ro trên toàn bộ danh mục sẽ được giới hạn ở mức nhỏ nhất. Nghĩa là “không nên bỏ trứng vào một giỏ”.
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa doanh lợi và rủi ro, chúng ta đã chỉ ra rằng mỗi một loại chứng khoán đều tiểm ẩn hai loại rủi ro là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống là rủi ro do thị trường gây ra và ảnh hưởng đến tất cả các chứng khoán trên thị trường. Do vậy, rủi ro hệ thống là rủi ro không thể tránh được bằng hình thức đa dạng hóa. Ngược lại, rủi ro phi hệ thống là loại rủi ro bắt nguồn từ chính tổ chức phát hành. Do đó, có thể hạn chế được bằng cách đa dạng hóa đầu tư. Điều này là do nguyên lý khi hai hay nhiều chứng khoán tham gia tạo thành một danh mục đầu tư, các chứng khoán này sẽ tương tác với nhau tạo thành một kết quả chung cho cả danh mục. độ rủi ro là cao hay thấp là phụ thuộc vào mối tương tác của các chứng khoán với các chứng khoán khác trong danh mục.
Như vậy, rủi ro có hệ thống là một trong những yếu tố quyết định mức doanh lợi dự kiến của một tài sản, vì thế chúng ta cần biết cách thức đo mức độ rủi ro có hệ thống cho các khoản đầu tư khác nhau. Thước đo mà chúng ta sẽ sử dụng là hệ số Bêta (β). Đây là lý do vì sao khi phân tích rủi ro của từng cổ phiếu riêng lẻ để đưa vào danh mục đầu tư, nhà đầu tư cần phải quan tâm nhiều tới rủi ro hệ thống.
Hệ số β cho ta biết mức độ rủi ro có hệ thống của một loại tài sản là bao nhiêu. Theo định nghĩa này, một tài sản nào đó có β = 0,5 nghĩa là: mức độ rủi ro có hệ thống của tài sản này bằng một nửa so với mức rủi ro trung bình của một tài sản. Cách xác định rủi ro hệ thống được xác định dựa vào mô hình CAPM.
Số lượng chứng khoán
Rủi ro phi hệ thống
Rủi ro hệ thống
Rủi ro tổng thể
Đồ thị trên thể hiện mối quan hệ giữa số lượng chứng khoán trong danh mục và rủi ro của danh mục. tổng rủi ro của danh mục bằng tổng của rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Mối quan hệ này là ngược chiều nhau. Khi số lượng chứng khoán càng nhiều thì rủi ro phi hệ thống của danh mục càng nhỏ, kéo theo rủi ro của danh mục càng nhỏ. Rủi ro này sẽ có rủi ro bằng với rủi ro của thị trường. Vì vậy, đa dạng hóa giúp giảm thiểu rủi ro, tuy nhiên các danh mục vẫn phải chịu một mức rủi ro tiềm ẩn đó là rủi ro hệ thống
2. Các mô hình xác định danh mục đầu tư
2.1. Lý thuyết cơ bản xác định danh mục đầu tư theo mô hình Markowitz
Thực tế, các nhà đầu tư luôn quan tâm là nên đầu tư như thế nào để danh mục đầu tư được đa dạng hóa. Để làm được những điều đó, các nhà đầu tư cấn phải xác định đuợc mối quan hệ giữa giá và lợi suất của tài sản có trong danh muc đầu tư cũng như bản chất của từng tài sản.
Trên nguyên tắc cân bằng cung cầu trên thị trường để phân tích và định giá tài sản, Harry Markowitz mới đưa ra một mô hình chính thức trong việc lựa chọn danh mục đầu tư, trong đó phản ánh nguyên tắc về đa dạng hóa rủi ro, từ đó mở đường để ông nhận giải Nobel về kinh tế vào năm 1990. Mô hình của ông chính là bước đi đầu tiên của quản lý danh mục đầu tư: xác định một hệ thống các danh mục đầu tư hiệu quả, tập hợp các danh mục này sẽ có một đường cong biên hiệu quả các danh mục chứng khoán rủi ro, thường được gọi là đường cong biên hiệu quả.
Danh mục P có N tài sản với tỷ trọng :
Véc tơ lợi suất các tài sản:
Lợi suất danh mục :
Với V là ma trận covarian của danh mục P
(quy ước : R,V,W,…là vectơ cột; R’,V’,W’,…là vectơ hàng )
Phương sai của danh mục:
Bản chất của việc xác các danh mục đầu tư hiệu quả là: tại mỗi mức rủi ro nhất định, chỉ quan tâm đến các danh mục có lợi tức lớn nhất. Hoặc ngược lại, danh mục nhà đầu tư quan tâm là danh mục có mức rủi ro thấp nhất đối với mỗi mức lợi tức dự tính. Trên thực tế hai phương pháp xác định này đều cho kết quả như nhau.
Để định lượng mức độ biến thiên của chứng khoán trong danh mục đầu tư được đa dạng hóa, ta dùng công thức tính hệ số tương quan ( correlation coefficient, ký hiệu là ):
Công thức cho hai cặp chứng khoán:
: mối tương quan âm tuyệt đối
: mối tương quan dương tuyệt đối
Công thức cho cả danh mục đầu tư :
Hệ số tương quan của cả danh mục P dương thể hiện lợi nhuận của các chứng khoán có trong danh mục có quan hệ cùng chiều nhau, và hệ số tương quan dương càng lớn thì các chứng khoán đó càng có dao động giống nhau. nghĩa là các chứng khoán trong danh mục hoàn toàn có dao động giống nhau.
Hệ số tương quan âm chỉ sự dao động ngược chiều của các chứng khoán trong danh mục. càng lớn nghĩa là các chứng khoán trong danh mục có dao động ngược chiều nhau càng nhiều. Khi nó đạt giá trị -1, các chứng khoán trong danh mục quan hệ hoàn toàn ngược chiều nhau.
Khi thì các chứng khoán trong danh mục P là không có tương quan với nhau.
Để giảm rủi ro của danh mục, các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục bằng cách tăng đầu tư vào các tài sản có hiệp phương sai thấp và giảm đầu tư vào tài sản có hiệp phương sai cao.
Nếu hệ số tương quan của các chứng khoán trong danh mục đầu tư ( hay tương quan của danh mục đầu tư) nhỏ hơn 1 thì danh mục đầu tư sẽ đạt hiệu quả đa dạng hóa. Sự phân biệt giữa đường thẳng và đường cong trên đồ thị chính là hiệu quả của đa dạng hóa đầu tư trong danh mục. Khi hai tài sản có dao động hoàn toàn giống nhau, các danh mục gồm hai tài sản này không có hiệu quả đa dạng hóa mà chỉ đơn thuần là sự phân bổ vốn giữa các tài sản có rủi ro giống nhau.
Người đầu tư càng có mức ngại rủi ro cao thì sẽ càng có xu hướng chọn các danh mục có rủi ro thấp. tức là lựa chọn danh mục nằm gần MVP- danh mục có phương sai hay độ lệch chuẩn nhỏ nhất.
2.1.1. Xác định biên hiệu quả
Khi nhà đầu tư mong muốn đạt được mức lợi nhuận mong đợi ở mức rủi ro thấp nhất. Khi đó nhà đầu tư quyết định đầu tư tại danh mục MVP.
MVP
P
B/A
1/A
σp2
E(rp)
S
Trong đó:
A = [1]’.V-1. [1]
B = [1]’.V-1. [E(R)] Với [E(R)] là ma trận lợi suất trung bình của các tài sản trong danh mục.
Tìm danh mục MVP : giải hệ phương trình tuyến tính:
V.x = [1]
Ta được nghiệm của hệ là:
Đặt : ()
=> danh mục cần tìm là :
Đoạn cong từ S đến MVP chỉ ra rằng nếu ta càng thêm tỷ trọng của tài sản rủi ro vào danh mục thì lợi suất ước tính của danh mục sẽ tăng thêm trong khi độ lệch chuẩn giảm đi. Điều này được giải thích bởi hiệu quả của đa dạng hóa đầu tư. Lợi nhuận của hai tài sản có mối quan hệ ngược chiều nhau nên khi thêm một tỷ lệ nhỏ tài sản rủi ro vào danh mục là tạo ra rào chắn rủi ro cho danh mục.
2.1.2. Biên hiệu quả
Có thể thấy rằng không người đầu tư nào muốn đầu tư vào danh mục nằm trong đoạn S đến MVP vì rõ ràng các danh mục từ MVP trở lên chiếm ưu thế hơn. Ta gọi đoạn cong từ MVP trở lên là đường cong hiệu quả (efficient set) hay còn gọi là biên hiệu quả hay biên hiệu dụng của danh mục đầu tư gồm tài sản rủi ro.
Hiệu quả của đa dạng hóa danh mục thể hiện qua độ cong của đường hiệu quả. Độ cong càng tăng khi hệ số tương quan càng giảm. Đường hiệu quả cong nhất khi hệ số tương quan bằng -1.
Trên thực tế, hầu hết các cặp chứng khoán có hệ số tương quan dương, nghĩa là chúng dao động cùng chiều với nhau. Các danh mục đầu tư được chọn do chủ quan của từng người đầu tư, mỗi người có cách suy nghĩ khác nhau, cách lựa chọn khác nhau và có độ e ngại rủi ro khác nhau.
Chú ý rằng tất cả các chứng khoán đơn lẻ đều nằm ở phía bên phải đường cong biên. Điều này có nghĩa là các danh mục đầu tư chỉ có một chứng khoán riêng lẻ đều không hiệu quả. Việc đa dạng hóa đầu tư sẽ tạo đựơc các danh mục có lợi tức cao hơn và rủi ro thấp hơn.
Tất cả các danh mục nằm ở phần trên của đường cong biên ( kể từ đỉnh của đường cong) là các danh mục được kết hợp rủi ro – lợi tức tốt nhất, là các danh mục đầu tư tối ưu. Phần đường cong biên này được gọi là đường cong biên hiệu quả. Với bất kỳ danh mục nằm trên phần dưới của đường cong biên, sẽ có danh mục khác có cùng mức rủi ro mà lại có lợi tức lớn hơn nhiều. Do vậy phần dưới của đường cong biên không có hiệu quả, sẽ bị loại bỏ qua khi nghiên cứu.
Lựa chọn giữa các danh mục đầu tư khả thi thì các danh mục đầu tư tốt nhất luôn nằm trên đường cong biên hiệu quả. Phương pháp lựa chọn trên do Markowitz khởi xướng, do vậy được gọi là mô hình lựa chọn Markowitz. Các danh mục nằm trên đường cong biên hiệu quả này còn được gọi là danh mục tối ưu Markowitz.
Ý nghĩa của đường biên này là: với bất cứ mức độ rủi ro nào, chúng ta luôn chọn những danh mục đầu tư trên đường biên mang đến lợi nhuận ước tính ( hay lợi nhuận kỳ vọng ) cao nhất tương ứng. Nói cách khác, đường biên hiệu quả chứa các danh mục có các phương sai thấp nhất với bất kỳ mức lợi nhuận ước tính nào.
Như vậy, một nhà đầu tư muốn lựa chọn một danh mục cổ phiếu để đầu tư thì tùy vào khả năng chấp nhận rủi ro (hay mức ngại rủi ro) của người đó để xác định danh mục cổ phiếu tối ưu nhất cho người đầu tư đó. Mỗi người đầu tư đều có một mức ngại rủi ro riêng và thể hiện trong mối tương quan với lợi suất ước tính đạt được, diễn tả bằng đường bàng quan. Điểm tiếp xúc giữa đường bàng quan với đường biên hiệu quả chính là điểm xác định của danh mục tối ưu của người đầu tư đó.
Hạn chế việc bán khống ảnh hưởng nhiều đến đường cong biên hiệu quả, làm đường cong này dịch chuyển vào phía trong và trở nên “ lồi hơn” đường cong biên ban đầu, có nghĩa là với mức rủi ro như trước thì nay chúng ta lại chỉ có được mức lợi tức thấp hơn. Các cơ quan quản lý chứng khoán, đơn vị thực hiện nghiệp vụ tự doanh, quản lý danh mục đầu tư và các nhà đầu tư cần được biết rõ ảnh hưởng của những hạn chế này, trên cơ sở đó cân nhắc để đưa ra quyết định.
Một lưu ý quan trọng về mặt toán học khi nhà đầu tư lựa chọn danh mục đầu tư sử dụng phương pháp Markowitz, đó là giả thiết lợi suất của tài sản phân phối chuẩn. Tuy nhiên, có thể thấy giả thiết này trên thực tế là giả thiết chặt. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phần lớn các tài sản có lợi suất không phân phối chuẩn. Ngoài ra, ta có thể mở rộng bằng cách kết hợp hai hay nhiều danh mục đầu tư chứng khóan vào một danh mục lớn thay vì chỉ kết hợp những chứng khoán riêng lẻ với nhau. Ví dụ, kết hợp danh mục đầu tư các chứng khoán trong nước với danh mục đầu tư các chứng khoán nước ngoài. Các quy luật của mô hình quản lý danh mục đầu tư đơn vẫn được áp dụng trong trường hợp danh mục đầu tư kép.
2.2. Mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM)
Mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM) là cốt lõi của lý thuyết kinh tế tài chính hiện đại. Harry Markowitz là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết đầu tư hiện đại vào năm 1952. Mười năm sau, Wiliam Sharpe, John Lintner và Jan Mossin đã phát triển mô hình CAPM. Mô hình CAPM cho phép dự đoán mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất kỳ vọng. Mô hình CAPM cung cấp một lãi suất chuẩn dùng để đánh giá và lựa chọn các phương án đầu tư, giúp phán đoán lợi suất kỳ vọng đối với những tài sản chưa được giao dịch trên thị trường.
Trong phần này, sẽ đề cập đến dạng đơn giản nhất của mô hình định giá tài sản vốn.
2.2.1. Những giả thuyết kinh tế cho thị trường vốn
Trong mô hình CAPM, các giả thuyết được chia thành 2 loại: các giả thuyết về tâm lý của nhà đầu tư và các giả thuyết của thị trường vốn.
Những giả thuyết về tâm lý của các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định của mình đều lựa dựa trên việc phân tích hai yếu tố: lợi suất ước tính và rủi ro của chứng khoán.
Giả thuyết này cho biết những nhân tố dẫn tới quyết định đầu tư. Một nguyên tắc trong việc lựa chọn các phương án đầu tư là mức độ rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng phải lớn để bù đắp cho các rủi ro phải gánh chịu.
Nhà đầu tư sẽ tìm cách giảm thiểu rủi ro bằng cách kết hợp nhiều chứng khoán khác nhau trong tập hợp danh mục đầu tư của mình.
Các quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc trong khoảng thời gian nhất định.
Các nhà đầu tư có chung các kỳ vọng về các thông số đầu vào sử dụng để tạo lập danh mục đầu tư hữu hiệu Markowitz. Đó là các thông số như : mức lợi suất, độ rủi ro hay các quan hệ tương hỗ.
Những giả thuyết về thị trường vốn:
Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Điều này có nghĩa là trên thị trường có rất nhiều người bán và người mua. Năng lực của một nhà đầu tư riêng lẻ thì rất nhỏ so với cả thị trường và vì vậy hoạt động của họ không làm ảnh hưởng đến thị trường. Giá cả trên thị trường chỉ chịu sự quyết định bởi mối quan hệ cung cầu.
Không tồn tại các loại phí giao dịch trên thị trường hay bất kỳ một sự cản trở nào trong cung và cầu của một loại chứng khoán.
Trên thị trường có loại chứng khoán không rủi ro. Đồng thời nhà đầu tư có thể vay với lãi suất đúng bằng lãi suất không rủi ro đó. Nói một cách khác, lãi suất vay mà lãi suất cho vay bằng nhau và bằng lãi suất không rủi ro.
Về cơ sở toán học
Giả thiết quan trọng là lợi suất của tài sản có phân phối chuẩn.
)
Trước khi đi vào nghiên cứu mô hình CAPM, điều trước tiên cần phải đề cập đến khái niệm danh mục đầu tư thị trường.
2.2.2. Danh mục thị trường ( Market Porfolio)
Một danh mục đầu tư có thể bao gồm tất cả các chứng khoán đang được giao dịch trên thị trường, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hay bất động sản… Danh mục thị trường là một danh mục đầu tư bao gồm tất cả những tài sản có nguy cơ chiếm rủi ro trên thị trường và mỗi tài sản trong danh mục này chiếm một tỷ lệ đúng bằng giá trị thị trường của tài sản đó trong tổng giá trị của toàn bộ thị trường.
Ký hiệu: () là giá trị thị trường (hay thị giá) của tổng số tài sản i
Ta có : là tổng giá trị thị trường của tất cả các tài sản rủi ro có trên thị trường.
()
=> ()
=>
Ta được danh mục hiệu quả gọi là danh mục thị trường.
Xác định danh mục dựa trên trạng thái cân bằng của thị trường:
Giả sử thị trường có K nhà đầu tư và nhà đầu tư k chọn danh mục tối ưu P: là điểm thuộc biên hiệu quả và là tiếp điểm giữa đường mức và đường thờ ơ (đường bàng quan).
Gọi là giá trị thị trường của tất cả tài sản của nhà đầu tư k.
là giá trị thị trường của tài sản i do nhà đầu tư k nắm giữ.
Nếu danh mục có tài sản phi rủi ro thì:
Ta có :
2.2.3. Mô hình CAPM
2.2.3.1. Đường thị trường vốn ( The Capital Market Line- CML)
Nếu thị trường tồn tại loại chứng khoán phi rủi ro (với lãi suất ) và giả thiết rằng cá nhân nhà đầu tư có thể vay và mượn không hạn chế trên cơ sở lãi suất này (giả thiết 3 của thị trường vốn) thì kết quả về lý thuyết lựa chọn danh mục đầu tư sẽ được mô tả như hình vẽ sau đây:
Biên hiệu quả
CML
M
P
P
σp2
E(rp)
Rf
Trên hình vẽ, đường thẳng xuất phát từ điểm tiếp tuyến với đường cong hiệu quả Markowitz thể hiện mọi danh mục khả thi có thể tạo ra được từ sự kết hợp giữa chứng khoán phi rủi ro (tín phiếu kho bạc) với danh mục đầu tư có rủi ro (danh mục tối ưu Markowitz). Tiếp điểm của chúng được ký hiệu M là danh mục thị trường, được coi là tối ưu nhất trong số các danh mục tối ưu.
Phương trình :
Trong đó :
: risk premium of market
: market risk
: giá của rủi ro thị trường ( được tính theo thị giá). Đây cũng chính là độ dốc của đường CML. Hệ số này được dùng để thể hiện đánh giá của thị trường về rủi ro.
2.2.3.2 Đường thị trường chứng khoán
Trong mô hình CAPM, khi các chứng khoán tham gia vào danh mục đầu tư thì triệt tiêu bớt phần rủi ro phi hệ thống, danh mục thị trường được coi là đa dạng hóa hoàn hảo. Vì vậy, rủi ro phi hệ thống của từng chứng khoán được triệt tiêu hết, chỉ còn lại phần rủi ro hệ thống.
Đồ thị thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất đối với mỗi chứng khoán riêng lẻ như trên được gọi là đường thị trường chứng khoán (Security Market Line- SML ) được thể hiện dưới đây.
Bảng 4: Đồ thị biểu diễn đường SML
SML
M
b
E(rM)
Rf
E(ri)
bM=1
bi
Mô hình giá tài sản vốn (CAPM) như sau:
: lợi suất của tài sản phi rủi ro
: lợi suất của danh mục thị trường
Đây chính là mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất ước tính của từng chứng khoán riêng lẻ được thể hiện dưới dạng phương trình.
Phương trình này cho thấy: với những giả thiết về thị trường vốn nêu trên, lợi suất kỳ vọng của mỗi chứng khoán có quan hệ tỷ lệ thuận với hệ số rủi ro hệ thống ( ). Chứng khoán có hệ số beta càng cao thì yêu cầu lợi suất phải càng cao.
Trong phương trình trên, chính là phần bù rủi ro( risk premium ).
Từ điều kiện cân bằng thị trường, nếu một danh mục P là danh mục khả thi thì danh mục đó phải được định giá sao cho P phải nằm trên đường CML.
Tuy nhiên trong thực tế, nếu có danh mục Q, tài sản i nào đó phi hiệu quả, có giá trên thị trường. Trong trường hợp này giá danh mục Q và tài sản i được xác định :
Đây chính là chênh lệch lợi suất so với lợi suất phi rủi ro của danh mục Q bất kỳ.
2.2.4. Ý nghĩa của CAPM
- SML được coi là một tiêu chí chuẩn mực để đánh giá một phương án đầu tư. Với việc chấp nhận một độ rủi ro nhất định đối với một phương án đầu tư ( được đo bằng hệ số bêta), SML cho chúng ta biết lợi nhuận thu được của phương án đầu tư đó phải là bao nhiêu mới có thể bù đắp được rủi ro mà các nhà đầu tư phải gánh chịu.
- Xuất phát từ ý nghĩa của đường SML, tất cả các chứng khoán nếu được định giá chính xác nhất thiết phải nằm trên đường SML. Với những điểm nằm phía trên hoặc dưới đường SML đều biểu hiện tình trạng giá không phản ánh đúng với giá trị cân bằng trên thị trường. Nếu là điểm nằm phía trên đường SML, chứng khoán đó được định giá thấp hơn giá trị thực sự của chúng. Trong trường hợp này, các nhà đầu tư nên mua loại chứng khoán đó. Ngược lại, nếu điểm đó nằm dưới đường SML, không nên mua loại chứng khoán này vì giá của chúng cao hơn giá trị thực sự của chúng.
Hệ số của tài sản hay của danh mục biểu thị sự chênh lệch giữa lợi suất thực hiện và lợi suất kỳ vọng ( lợi suất mong đợi) của tài sản hay của danh mục.
: lợi suất thực hiện của tài sản i
: lợi suất thực hiện của danh mục P
Định nghĩa:
Từ mô hình CAPM suy ra:
Trong đó: : chênh lệch lợi suất thực hiện
: chênh lệch lợi suất thị trường
: phần bù rủi ro
Dễ dàng chứng minh được :
Các nhà quản lý danh mục có thể sử dụng hệ số của danh mục hoặc tài sản để đánh giá việc thực hiện ( hay thực thi) danh mục.
Nếu tài sản i định giá đúng thì
Nếu: : tài sản i đang được định giá thấp
: tài sản i đang được định giá cao
Nếu hệ số càng lớn thì việc thực thi danh mục càng có hiệu quả.
Một ý nghĩa khác của CAPM là vai trò của nó trong việc ra quyết định đầu tư vốn. Đối với các công ty đang chuẩn bị cho một dự án đầu tư mới, CAPM đưa ra một mức lợi suất yêu cầu phải đạt đựơc cho dự án đầu tư trên cơ sở những thông số của hệ số bêta được các nhà đầu tư chấp thuận. Như vậy, đối với các phương án đầu tư khác nhau, CAPM sẽ quyết định phương án nào tối ưu nhất để lựa chọn.
So sánh giữa SML và CML :
CML thể hiện mối tương quan giữa lợi suất với rủi ro của những danh mục tổng thể hiệu quả (danh mục biết kết hợp đầu tư chứng khoán phi rủi ro với danh mục đầu tư thị trường). SML thể hiện mối quan hệ hàm bậc nhất giữa lợi suất và rủi ro của từng chứng khoán riêng lẻ.
Cần nhắc lại rằng để đo độ rủi ro của từng chứng khoán riêng lẻ trong danh mục đầu tư đã được đa dạng hóa toàn diện thì không dùng độ lệch chuẩn ( rủi ro tổng thể ) của chứng khoán đó mà dùng mức độ đóng góp của chứng khoán nào đó mà dùng mức độ đóng góp này là hệ số bêta ().
Rõ ràng CML chỉ áp dụng đối với các danh mục tổng thể, còn SML được áp dụng cho cả danh mục và cho từng chứng khoán riêng biệt.
Vậy, Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) là một học thuyết kinh tế mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất ước tính. Nói một cách khác, đây là mô hình định giá cho những chứng khoán có nguy cơ rủi ro. CAPM cho rằng rủi ro hệ thống là mối quan tâm đối với các nhà đầu tư vì chúng không thể loại bỏ được bằng biện pháp đa dạng hóa danh mục đầu tư. Điều đặc biệt, CAPM cho biết lợi suất ước tính của một chứng khoán hoặc một danh mục đầu tư được xác định bằng lợi suất của chứng khoán không có rủi ro cộng với một phụ phí bù đắp rủi ro. Trong mô hình CAPM, phụ phí rủi ro được tính toán bằng cách nhân mức độ rủi ro () với giá thị trường của rủi ro đó ().
Hệ số b của một chứng khoán hoặc một danh mục đầu tư là một chỉ số rủi ro hệ thống của tài sản đó và được xác định bằng phương pháp thống kê. Hệ số b được tính toán dựa trên số liệu quá khứ về lợi suất đầu tư của chứng khoán đó và lợi suất của danh mục thị trường.
2.3. Mô hình chỉ số đơn ( mô hình chỉ số thị trường) – SIM
Như chúng ta đã biết, lý thuyết CAPM xây dựng trên cơ sở các giả thiết và rất nhiều các giả thiết này không thực tế, đó là chưa nói đến khối lượng tính toán các yếu tố đầu vào rất phức tạp. Đó chính là khuyết điểm của lý thuyết này, làm ảnh hưởng lớn đến tính áp dụng của CAPM.
Để khắc phục những khuyết điểm này trong khi vẫn tận dụng được các giá trị cơ bản của lý thuyết CAPM trong đầu tư trên thị trường chứng khoán, các nhà nghiên cứu đã xây dựng thêm rất nhiều lý thuyết mới gắn với thực tiễn hơn.
Mô hình chỉ số đơn (Single Index Model) của một thị trường phân loại các nguồn gốc rủi ro thành các nhân tố hệ thống (vĩ mô) và các nhân tố riêng (vi mô). Mô hình này giảm được công việc tính toán đầu vào trong quy trình lựa chọn chứng khoán vào danh mục đầu tư theo mô hình Markowitz, góp phần chuyên môn hóa lao động trong phân tích chứng khoán. Mô hình chỉ số đơn được tính toán bằng cách áp dụng phân tích hồi quy đối với chênh lệch lợi tức của một chứng khoán với lợi tức của thị trường. Hệ số hồi quy đối với chênh lệch lợi tức của một chứng khoán với lợi tức của thị trường. Hệ số hồi quy của phép hồi quy này chính là hệ số b của một tài sản trong khi số hạng tự do là chỉ số của danh mục chứng khoán. Đường hồi quy tính được còn được gọi là Đường đặc trưng chứng khoán ( Security Characteristic Line). Hệ số b của hồi quy tương ứng với hệ số b của mô hình CAPM sử dụng lợi tức kỳ vọng. Mô hình CAPM cũng coi tổng thể hệ số alpha của các chứng khoán tính được qua mô hình chỉ số đơn sẽ bằng không.
2.3.1.Các giả thuyết của mô hình chỉ số đơn
Bằng quan sát thống kê và so sánh dữ liệu rất thông thường, người quan sát thường nhận thấy một xu hướng khá rõ là các mức lợi tức của chứng khoán trên thị trường bị một số nhân tố chung và phổ biến tác động, chẳng hạn như nhân tố danh mục thị trường. Trên quan điểm thống kê – toán thì các nhân tố phổ biến đó đại diện cho các đặc tính và giá trị của hiệp phương sai và quan hệ lệ thuộc của từng các cặp chứng khoán nhất định trong quá trình quan sát.
SIM là một mô hình đơn giản hóa và chỉ định nghĩa một nhân tố duy nhất là căn nguyên của giá trị hiệp phương sai giữa các mức lợi suất của một loại chứng khoán và giả thuyết các mức lợi suất của chứng khoán i là một phương trình tuyến tính của nhân tố đó, hoặc là chỉ số . Hàm số mô tả SIM ở dạng tuyến tính :
Các giả định cơ sở của mô hình:
Lợi suất của chứng khoán có dạng hàm tuyến tính như trên định nghĩa.
Các tham số của SIM như và được tính toán thông qua các bước hồi quy tuyến tính, sao cho mức rủi ro phụ trội chỉ là hàm số của chỉ số thị trường, chứ không bao hàm rủi ro đặc thù của chứng khoán i đang xét. Nói cách khác,
Phần rủi ro đặc thù () của chứng khoán i không có quan hệ hàm số với giá trị của chỉ số , tức là
Cov () =0; cov ()=0 với mọi i khác j.
Chỉ số đại diện cho một tác nhân duy nhất ảnh hưởng đến hiệp phương sai giữa các mức lợi suất, nghĩa là .
2.3.2. Mô hình SIM
Hàm số mô tả SIM ở dạng tuyến tính:
(1)
Trong đó, số hạng biểu thị một bộ phận lợi suất cố định gắn liền của chứng khoán i. Theo nghĩa đó, là hằng số và không có quan hệ phụ thuộc gì vào tập chỉ số .
là hệ số đo mức độ nhạy cảm của lợi suất chứng khoán i đối với hành vi của tập chỉ số . Nếu thì tài sản i tương ứng được gọi là năng động. Nếu thì tài sản i là tài sản thụ động.
Và cuối cùng, đại diện cho phần lợi suất đặc thù của chứng khoán i đang xét, không có tương quan với chỉ số cũng như mức lợi suất của các loại chứng khoán khác đang tồn tại trên thị trường.
Các mô hình chỉ số đơn dạng tương tự xét về bản chất đơn thuần là các mô hình hồi quy, với giả định rằng các mức lợi suất quan sát của chứng khoán i nào đó chính là hàm tuyến tính của một chỉ số thị trường nhất định. Coi các mô hình quan hệ chỉ số đơn là đáng tin cậy trong công tác phương sai và hiệp phương sai cho chứng khoán và chỉ số đang xét được giản lược đi đáng kể.
Với ý nghĩa thực tiễn trên, các SIM có những tác dụng tích cực: giảm bớt các thông số và tính toán đầu vào cho việc phân tích danh mục. Mô hình SIM rất hữu ích trong dự báo lợi suất và rủi ro danh mục hay chứng khoán đơn lẻ. SIM được dùng vào việc tạo nên và ứng dụng các mô hình trạng thái cân bằng, như CAPM hay APT.
Dựa trên mô hình SIM, có thể mô phỏng mức lợi suất kỳ vọng của chứng khoán i hay danh mục P như là:
Hoặc
Như vậy ta có :
Từ (1) suy ra :
Đối với việc đầu tư một chứng khoán i, rủi ro của chứng khoán bằng tổng rủi ro chỉ số và rủi ro đặc thù của tổ chức phát hành. Như vậy, khi một danh mục được đa dạng hóa hợp lý (kết hợp một cách khoa học nhiều loại chứng khoán) làm giảm rủi ro riêng, tức là phương sai tiến tới 0, khi đó phương sai của cả danh mục sẽ có dạng tối ưu:
Sau một thời gian phát triển, các chỉ số phản ánh mức giao dịch thị trường sẽ ngày càng đa dạng, và có thể sử dụng được cho mục đích tính phương sai chỉ số và rủi ro của danh mục. Thông thường, phương pháp tính quá khứ là dựa trên các hiệp phương sai và phương sai được suy luận dựa trên một giai đoạn quá khứ khoảng 45-60 tháng. Thực tế là việc ước lượng quá khứ đã tồn tại sai số do chọn mẫu và phương pháp đo. Một phương pháp hiệu chỉnh đã được nhà nghiên cứu Blume đề xuất năm 1975 theo công thức :
Trong đó, là dự báo của trong một giai đoạn tương lai 5 năm, và là trong quá khứ được ước lượng dựa trên phương pháp tính đã trình bày ở trên. Tuy vậy, hai hệ số mới xuất hiện là được xác định thông qua việc tiến hành hồi quy với các giá trị của cho 5 năm dựa vào tập hợp giá trị của quá khứ đã được ước lượng của một giai đoạn 5 năm ngay trước đó. Thường thì tổng của các hệ số điều chỉnh này có giá trị xung quanh 1.
2.3.3. Đánh giá hiệu quả thực thi danh mục đầu tư
2.3.3.1. Tính một số chỉ số và so sánh với danh mục đối chứng (Bench mark portfolio )
Sau khi lập danh mục đối chứng, ta tính các chỉ số. Các chỉ số liên quan cần tính toán là các chỉ số dựa vào phần bù rủi ro có điều chỉnh ( Risk Adjusted Exess Return )
Chỉ số Sharpe :
Trong đó :
: Lợi suất phi rủi ro
: Lợi suất trung bình của danh mục P
: Độ dao động của danh mục
Lợi suất trung bình thường được tính theo trung bình nhân của 20 quý cuối.
: Tính trung bình nhân của hai mươi quý cuối
: Tính trung bình cộng của hai mươi quý cuối
: Phần bù rủi ro
: Chỉ số Sharpe của danh mục P.
: Chỉ số Sharpe của danh mục đối chứng B
Nếu thì danh mục P được đánh giá là thực thi tốt.
Chỉ số Treynor:
: Lợi suất phi rủi ro
: Lợi suất trung bình của danh mụcP
: Hệ số beta
Gọi danh mục B là danh mục đối chứng. Tính chỉ số Treynor của danh mục P cũng như danh mục B.
Nếu thì danh mục P được đánh giá là thực thi tốt.
2.2.3.2. Sử dụng hệ số của danh mục
Phương trình đường thị trường vốn:
CML :
CML
T
Trong đó:
T: Danh mục tiếp tuyến.
: Lợi suất của danh mục P được tính toán theo lý thuyết.
: Lợi suất thực tế của danh mục.
: Chỉ số Jensen.
=> Danh mục thực thi tốt.
Do đó, mô hình CAPM và mô hình SIM đã cho ta thấy một phương pháp xác định một danh mục đầu tư có hiệu quả. Bằng sự kết hợp các lý thuyết của mô hình của Markowitz và CAPM, mô hình SIM ta có thể xác định được danh mục tối ưu (danh mục tiếp tuyến).
Trên cơ sở đó, Elton - Gruber -Padberg đã xây dựng nên phương pháp xác định danh mục tối ưu (gọi là thuật toán EGP) như sau:
Bước 1: Tính tỷ số Treynor
: RVOL( reward to Volatility Ratio)
Sau đó sắp xếp các chỉ số này tương ứng với từng chứng khoán theo thứ tự giảm dần.
Bước 2: Tính Ci
η2i = Var (εi)
(i = 1: 10)
Trong đó, Var (εi) là phương sai của phần dư được ước lượng từ mô hình Chỉ số đơn – SIM (rủi ro riêng)
σI2 là phương sai của lợi suất của danh mục thị trường ( rủi ro hệ thống)
Bước 3: Xác định phân vị:
Bằng cách so sánh RVOLi với Ci, ta xác định được với một chỉ số k thì , nhưng thì khi đó danh mục tối ưu sẽ bao gồm các chứng khoán xếp từ 1 đến k. Các chứng khoán từ thứ tự k+1 trở đi sẽ không có mặt trong danh mục tối ưu.
Bước 4: Xác định Wi
Qua các bước xây dựng của thuật toán EGP, ta có thể xây dựng một danh mục đầu tư tối ưu cho Công ty Tài chính Bưu Điện.
III. XÂY DỰNG DANH MỤC ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
1. Xác định chứng khoán cho danh mục
Việc xây dựng danh mục đầu tư chứng khoán vẫn đảm bảo nguyên tắc là xây dựng trên các cổ phiếu hiện có trong danh mục do các chứng khoán này đã đáp ứng được các chỉ tiêu về phân tích tài chính của Công ty. Các chứng khoán trong danh mục bao gồm 10 cổ phiếu sau:
STT
Tên Công ty
Mã CK
1
Công ty cổ phần viễn thông VTC
VTC
2
Công ty cổ phần Viễn Liên
UNI
3
Công ty cổ phần bao bì nhựa Tân Tiến
TTP
4
Công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông
SAM
5
Công ty cổ phần thuỷ điện Ry Ninh II
RHC
6
Công ty cổ phần nhiệt điện phả lại
PPC
7
Công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện
HAS
8
Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam
VF1
9
Công ty cổ phần dây và cáp điện TAYA Việt Nam
TYA
10
Công ty cổ phần phát triển nhà Thủ Đức.
TDH
2. Phân tích các chỉ số tài chính của các chứng khoán
Thông qua các báo cáo tài chính của các công ty phát hành cổ phiếu, ta có thể tính toán được một số chỉ số tài chính của các cổ phiếu trong danh mục xây dựng trên cơ sở tiêu chuẩn phân tích tài chính của Công ty tài chính Bưu Điện.
CÔNG TY CỔ PHẦN VIỄN THÔNG VTC
Công ty cổ phần Viễn Thông VTC là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, tin học. Để xem xét việc có nên đầu tư vào cổ phiếu VTC hay không, ta tiến hành phân tích một số chỉ tiêu tài chính sau:
Vốn điều lệ là 18 tỷ, trong đó, tỷ lệ đầu tư nước ngoài là 49 %
Doanh thu tăng, năm 2006, doanh thu tăng 1.036 lần so với năm 2005.
Chi phí tăng giảm hợp lý. Chi phí cho lãi vay tăng cho thấy nợ của công ty tăng. Vì vậy, lợi suất yêu cầu đối với cổ phiếu này phải tăng lên.
EPS năm 2006 là 4.298 đồng, tăng so với năm 2005.
Tỷ lệ trả cổ tức là 30 %, đây là tỷ lệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K3037.DOC