Đề tài Vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp

Tài liệu Đề tài Vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp: Lời nói đầu Có thể nói trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần chủ động về vốn, tuỳ vào đặc điểm kinh doanh cụ thể mà cơ cấu vốn có sự khác biệt nhau ở một mức độ nào đó. Mặt khác vốn được xem là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá, một trong hai yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá. Đồng thời để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp đều cần quan tâm đến vấn đề tạo lập, quản lý và sử dụng vốn sao cho hiệu quả đạt được là cao nhất cũng như chi phí sử dụng vốn là thấp nhất. Đồng vốn bỏ ra có hiệu quả hay không lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, nó tác động rất lớn đến việc tăng hay giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm, từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc giảm hay tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng đã và đang là vấn đề mà tất cả các doanh nghiệp hết sức quan...

doc76 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 991 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Có thể nói trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần chủ động về vốn, tuỳ vào đặc điểm kinh doanh cụ thể mà cơ cấu vốn có sự khác biệt nhau ở một mức độ nào đó. Mặt khác vốn được xem là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá, một trong hai yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá. Đồng thời để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp đều cần quan tâm đến vấn đề tạo lập, quản lý và sử dụng vốn sao cho hiệu quả đạt được là cao nhất cũng như chi phí sử dụng vốn là thấp nhất. Đồng vốn bỏ ra có hiệu quả hay không lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, nó tác động rất lớn đến việc tăng hay giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm, từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc giảm hay tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng đã và đang là vấn đề mà tất cả các doanh nghiệp hết sức quan tâm. Trước kia trong cơ chế bao cấp, các doanh nghiệp được Nhà nước cấp phát vốn, lỗ Nhà nước bù, lãi Nhà nước thu. Do đó các doanh nghiệp Nhà nước không quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn. Còn ngày nay khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và cạnh tranh, thì chính các doanh nghiệp Nhà nước cũng luôn đặt trong xu thế chung này. Các doanh nghiệp Nhà nước lúc này cũng phải tự chủ về tài chính, đối mặt với sự canh tranh gay gắt ấy. Vì vậy để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng phải luôn quan tâm và không ngừng có các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đó là một vấn đề cơ bản không thể thiếu đối với sự tồn tại phát triển và cùng cạnh tranh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào. Qua thời gian thực tập tại công ty technoimpot, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên cùng với những lý luận và thực tiễn đã học và tìm hiểu em đã chọn đề tài “Vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung của luận văn bao gồm: Chương 1: Vốn lưu động và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp. Chương 2: Tình hình sử dụng vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Technoimpot. Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Technoimpot. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thày giáo hướng dẫn Ts: Nguyễn Đăng Nam cùng toàn thể các cô chú trong phòng Kế hoạch -Tài chính đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1 vốn lưu động và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp. 1.1. Vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng tới kết cấu vốn lưu động trong doanh nghiệp. 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại vốn lưu động. 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm. Trong nền kinh tế quốc dân mỗi doanh nghiệp được coi như một tế bào của nền kinh tế với nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh nghiệp có thể thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hoá lao vụ, dịch vụ. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh luôn thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của đối tượng lao động gọi là tài sản lưu động, TSLĐ của doanh nghiệp gồm TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông. TSLĐ sản xuất gồm những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục, vật tư đang nằm trong quá trình sản xuất chế biến và những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất gồm: Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang, công cụ lao động nhỏ. TSLĐ lưu thông gồm: sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn chuyển hoá lẫn nhau, vận động không ngừng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Để hình thành nên tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông doanh nghiệp cần phải có một số vốn thích ứng để đầu tư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản ấy được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Như vậy, vốn lưu động của các doanh nghiệp sản xuất là số tiền ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục nên vốn lưu động cũng vận động liên tục, chuyển hoá từ hình thái này qua hình thái khác. Sự vận động của vốn lưu động qua các giai đoạn có thể mô tả bằng sơ đồ sau: T T-H-SX-H’- T’ Δ T Đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực lưu thông, quá trình vận động của vốn lưu động theo trình tự sau: T T – H – T’ Δ T Sự vận động của vốn lưu động trải qua các giai đoạn và chuyển hoá từ hình thái ban đầu là tiền tệ sang các hình thái vật tư hàng hoá và cuối cùng quay trở lại hình thái tiền tệ ban đầu gọi là sự tuần hoàn của vốn lưu động. Cụ thể là sự tuần hoàn của vốn lưu động được chia thành các giai đoạn như sau: - Giai đoạn 1(T-H): khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu động dưới hình thái tiền tệ được dùng để mua sắm các đối tượng lao động để dự trữ cho sản xuất. Như vậy ở giai đoạn này vốn lưu động đã từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá. - Giai đoạn 2(H-SX-H’): ở giai đoạn nay doanh nghiệp tiến hành sản xuất ra sản phẩm, các vật tư dự trữ được đưa dần vào sản xuất. Trải qua quá trình sản xuất các sản phẩm hàng hoá được chế tạo ra. Như vậy ở giai đoạn này vốn lưu động đã từ hình thái vốn vật tư hàng hoá chuyển sang hình thái vốn sản phẩm dở dang và sau đó chuyển sang hình thái vốn thành phẩm. - Giai đoạn 3:(H’-T’): doanh nghiệp tiến hành tiêu thụ sản phẩm và thu được tiền về và vốn lưu động đã từ hình thái vốn thành phẩm chuyển sang hình thái vốn tiền tệ trở về điểm xuất phát của vòng tuần hoàn vốn. Vòng tuần hoàn kết thúc. So sánh giưa T và T’, nếu T’ >T có nghĩa doanh nghiệp kinh doanh thành công vì đồng vốn lưu động đưa vào sản xuất đã sinh sôi nảy nở, doanh nghiệp bảo toàn và phát triển được VLĐ và ngựơc lại. Đây là một nhân tố quan trọng đánh giá hiệu quả sử dụng đồng VLĐ của doanh nghiệp. Do quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục nên vốn lưu động của doanh nghiệp cũng tuần hoàn không ngừng, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ gọi là sự chu chuyển của vốn lưu động. Do sự chu chuyển của vốn lưu động diễn ra không ngừng nên trong cùng một lúc thường xuyên tồn tại các bộ phận khác nhau trên các giai đoạn vận động khác nhau của vốn lưu động. Khác với vốn cố định, khi tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện, chu chuyển giá trị toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 1.1.1.2. Phân loại vốn lưu động. Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường có những cách phân loại sau đây: * Phân loại theo vai trò từng loại vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này vốn lưu động của doanh nghiệp có thể chia thành 3 loại: - Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: bao gồm giá trị các khoản nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, động lực, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ. - Vôn lưu động trong khâu sản xuất: bao gồm các khoản giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển. - Vốn lưu động trong khâu lưu thông: bao gồm các khoản giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền(kể cả vàng bạc, đá quý...); các khoản vốn đầu tư ngắn hạn(đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn...) các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn; các khoản vốn trong thanh toán(các khoản phải thu, các khoản tạm ứng...). Cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của vốn lưu động trong từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu vốn lưu động hợp lý sao cho có hiệu quả sử dụng cao nhất. * Phân loại theo hình thái biểu hiện. Theo cách nay vốn lưu động có thể chia thành hai loại: - Vốn vật tư, hàng hoá: là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên, nhiên, vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm.... - Vốn bằng tiền: bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn.... Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp xem xét, đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. * Phân loại theo quan hệ sở hữu. Theo cách này người ta chia vốn lưu động thành 2 loại: - Vốn chủ sở hữu: là số vốn lưu động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng như: vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước; vốn do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra; vốn góp cổ phần trong công ty cổ phần; vốn góp từ các thành viên trong doanh nghiệp liên doanh; vốn tự bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp..... - Các khoản nợ: là các khoản vốn lưu động được hình thành từ vốn vay các nhân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính khác; vốn vay thông qua phát hành trái phiếu; các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán. Doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng trong một thời hạn nhất định. Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn của bản thân doanh nghiệp hay các khoản nợ. Từ đó có các quyết định trong huy động và quản lý, sử dụng vốn lưu động hợp lý hơn, đảm bảo an ninh tài chính trong sử dụng vốn của doanh nghiệp. * Phân loại theo nguồn hình thành. Nếu xét theo nguồn hình thành vốn lưu động có thể chia thành các nguồn như sau: - Nguồn vốn điều lệ: là số vốn lưu động được hình thành từ nguồn vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc nguồn vốn điêù lệ bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này cũng có sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. - Nguồn vốn tự bổ sung: là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh như từ lợi nhuận của doanh nghiệp được tái đầu tư. - Nguồn vốn liên doanh, liên kết; là số vốn lưu động được hình thành từ vốn góp liên doanh của các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật là vật tư, hàng hoá....theo thoả thuận của các bên liên doanh. - Nguồn vốn đi vay: vốn vay của các ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng, vốn vay của người lao động trong doanh nghiệp, vay các doanh nghiệp khác. - Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong kinh doanh của mình. Từ góc độ quản lý tài chính mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó. Do đó doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm thấp chi phí sử dụng vốn của mình. * Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn. Theo cách này nguồn vốn lưu động được chia thành nguồn vốn lưu động tạm thời và nguồn vốn lưu động thường xuyên. - Nguồn vốn lưu động tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời về vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các khoản nợ ngắn hạn khác. - Nguồn vốn lưu động thường xuyên là nguồn vốn có tính chất ổn định nhằm hình thành nên TSLĐ thường xuyên cần thiết. Chúng ta có thể khái quát như sau: TSLĐ tạm thời Nguồn tạm thời -TSLĐ thường xuyên cần thiết -TSCĐ Nguồn thường xuyên Việc phân loại nguồn vốn lưu động như trên giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn lưu động một cách phù hợp với thời gian sử dụng để nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp mình. Ngoài ra nó còn giúp cho nhà quản lý lập các kế hoạch tài chính hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn lưu động trong tương lai, trên cơ sở xác định quy mô, số lượng VLĐ cần thiết để lựa chọn nguồn vốn lưu động này mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. 1.1.2. Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng tới kết cấu vốn lưu động. * Kết cấu vốn lưu động. - Khái niệm kết cấu VLĐ: là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp. VLĐ là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, vấn đề tổ chức quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả sẽ quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tổ chức được tốt quá trình mua sắm dự trữ vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, phân bổ hợp lý vốn trên các giai đoạn luân chuyển để vốn luân chuyển từ loại này thành loại khác, từ hình thái này sang hình thái khác, rút ngắn vòng quay của vốn. Để quản lý vốn lưu động được tốt cần phải phân loại vốn lưu động. Có nhiều cách phân loại vốn, mỗi cách phân loại có tác dụng riêng phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý. Thông qua các phương pháp phân loại giúp cho nhà quản trị tài chính doanh nghiệp đánh giá tình hình quản lý và sử dụng vốn của những kỳ trước, rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý kỳ này để ngày càng sử dụng hiệu quả hơn vốn lưu động. Cũng như từ các cách phân loại trên doanh nghiệp có thể xác định được kết cấu vốn lưu động của mình theo những tiêu thức khác nhau. Trong các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng không giống nhau. Việc phân tích kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý vốn lưu động có hiệu quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. * Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp, có thể chia ra thành 3 nhóm chính sau: - Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như: khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp; khả năng cung cấp của thị trường; kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp. - Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm, kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản xuất; trình độ tổ chức quá trình sản xuất. _ Các nhân tố về mặt thanh toán như: phương thức thanh toán được lựa chọn theo các hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh toán; việc chấp hanh kỷ luật thanh toán giữa các doanh nghiệp. 1.2. Sự cần thiết phải tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở các doanh nghiệp. 1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình các doanh nghiệp đã sử dụng VLĐ để đảm bảo cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được bình thường và liên tục. Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả từng đồng vốn lưu động. Việc sử dụng hợp lý, có hiệu quả VLĐ được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau: * Tốc độ luân chuyển VLĐ. Việc sử dụng hợp lý tiết kiệm vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp nhanh hay chậm. Vốn lưu động luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Tốc độ luân chuyển VLĐ có thể đo bằng hai chỉ tiêu là số lần luân chuyển(số vòng quay vốn) và kỳ luân chuyển vốn(số ngày của một vòng quay vốn). Số lần luân chuyển VLĐ phản ánh số vòng quay vốn được thực hiện trong thời kỳ nhất định, thường tính trong 1 năm. Công thức tính như sau: L=M/VLĐ Trong đó: L: số lần luân chuyển(số vòng quay) của VLĐ trong kỳ. M: tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ. VLĐ; vốn lưu động bình quân trong kỳ. Kỳ luân chuyển VLĐ phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay VLĐ. Công thức được xác định như sau: K=360/L hay K=(VLĐ x 360)/M Trong đó: K:kỳ luân chuyển VLĐ. M,VLĐ: như công thức trên. Vòng quay VLĐ càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu quả. * Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển. Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu là mức tiết kiêm tuyệt đối và mức tiết kiệm tương đối. - Mức tiết kiệm tuyệt đối là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tiết kiệm được một số vốn lưu động để sử dụng vào công việc khác. Nói một cách khác với mức luân chuyển vốn không thay đổi(hoặc lớn hơn báo cáo) song do tăng tốc độ luân chuyển nên doanh nghiệp cần số vốn ít hơn. Công thức tính như sau: M1 Vtktđ = ( x K1 ) - VLĐ0 = VLĐ1 – VLĐ0 360 Trong đó: Vtktđ : Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối. VLĐ0, VLĐ1: Vốn lưu động bình quân năm báo cáo và năm kế hoạch. M1 : Tổng mức luân chuyển năm kế hoạch K1 : Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch Điều kiện để có VLĐ tiết kiệm tuyệt đối là tổng mức luân chuyển vốn kỳ kế hoạch phải không nhỏ hơn tổng mức luân chuyển vốn kỳ báo cáo và vốn lưu động kỳ kế hoạch phải nhỏ hơn vốn lưu động kỳ báo cáo. - Mức tiết kiệm tương đối là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn song không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể quy mô VLĐ. Công thức xác định số VLĐ tiết kiệm tương đối như sau: M1 Vtktgđ = x (K1 – K0) 360 Trong đó: Vtktgđ : Vốn lưu động tiết kiệm tương đối. M1 : Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch. K0, K1: Kỳ luân chuyển vốn năm báo cáo và năm kế hoạch. Điều kiện để có vốn lưu động tiết kiệm tương đối là tổng mức luân chuyển vốn kỳ kế hoạch phải lớn hơn kỳ báo cáo và VLĐ kỳ kế hoạch phải lớn hơn VLĐ kỳ báo cáo. * Hàm lượng VLĐ(hay còn gọi là mức đảm nhận VLĐ). Hàm lượng VLĐ là số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ, chỉ tiêu này được tính như sau: Hàm lượng VLĐ=1/H Trong đó: H:hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. * Mức doanh lợi VLĐ(tỷ suất lợi nhuận VLĐ). - Tỷ suất lợi nhuận VLĐ trước thuế và lãi vay: chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ chưa có sự tác động của thuế TNDN và chưa tính đến VLĐ được hình thành từ nguồn nào. Công thức tính như sau:  LN trước thuế và lãi vay Tỷ suất VLĐ trước thuế và lãi vay = x 100% VLĐ Trong đó: VLĐ: vốn lưu động bình quân trong kỳ. - Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động tính với lợi nhuận trước thuế. Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ chưa có sự tác động của thuế TNDN. Công thức tính như sau: LN trước thuế Tỷ suất VLĐ trước thuế = x 100% VLĐ - Tỷ suất lợi nhuận thuần: chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ, một đồng vốn lưu động có thể đạt được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ đã chịu sự tác động của cả thuế TNDN và lãi vay. Công thức tính như sau: LN sau thuế Tỷ suất VLĐ sau thuế = x 100% VLĐ Trên đây là một số chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp giúp cho nhà quản lý tài chính đánh giá đúng đắn tình hình của kỳ trước, từ đó có nhận xét và nêu ra những biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý vốn cho kỳ tiếp theo. 1.2.2. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. VLĐ đóng một vai trò rất quan trọng trong hợp đồng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cùng một lúc, VLĐ được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành thường xuyên liên tục, đòi hỏi doanh nghiệp phải có đủ VLĐ vào các hình thái đó, để cho hình thái đó có được mức tồn tại tối ưu và đồng bộ với nhau nhằm tạo điều kiện cho việc chuyển hoá hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi. Do sự chu chuyển của VLĐ diễn ra không ngừng nên thiếu vốn thì việc chuyển hoá hình thái sẽ gặp khó khăn, VLĐ không luân chuyển được và quá trình sản xuất do đó bị gián đoạn. Quản lý VLĐ là một bộ phận trọng yếu của công ty quản lý tài chính doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ cũng chính là nâng cao hiệu quả của hoạt đông sản xuất kinh doanh. Quản lý VLĐ không những đảm bảo sử dụng VLĐ hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tiết kiệm chi phí, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và thanh toán công nợ một cách kịp thời. Do đặc điểm của VLĐ là luân chuyển nhanh, sử dụng linh hoạt nên nó góp phần quan trọng đẩm bảo sản xuất và luân chuyển một khối lượng lớn sản phẩm. Vì vậy kết quả hoạt động của doanh nghiệp là tốt hay xấu phần lớn là do chất lượng của công tác quản lý VLĐ quyết định. Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng VLĐ phải được hiểu trên hai khía cạnh: + Một là, với số vốn hiện có có thể cung cấp thêm một số lượng sản phẩm với chất lượng tốt, chi phí hạ nhằm tăng thêm lợi nhuận doanh ntghiệp. + Hai là, đầu tư thêm vốn một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhằm tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu bảo đảm tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng vốn. Hai khía cạnh đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới trong công tác quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và VLĐ nói riêng. Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, vì vậy nền kinh tế muốn phát triển thì doanh nghiệp hoạt động phải có hiệu quả. Như đã phân tích ở trên, sử dụng hiệu quả VLĐ là một nhân tố tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuát kinh donh của doanh nghiệp. Do đó, không thể phủ nhận vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trên thực tế những năm vừa qua, hiệu qủa sử dụng vốn nói chung và VLĐ nói riêng của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước đạt thấp. Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp chưa bắt kịp với cơ chế thị trường nên còn nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng vốn. Mặt khác, hiệu quả sử dụng VLĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu về kĩ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức thúc đẩy sản xuất phát triển. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là đảm bảo với số vốn hiện có, bằng các biện pháp quản lý và tổng hợp nhằm khai thác để khả năng vốn có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý, hỉệu quả từng đồng VLĐ nhằm làm cho VLĐ được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển vốn cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn, qua đó, vốn được thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt được số VLĐ cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lượng sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn trước. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn có ý nghĩa quan trong trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm. Hơn nữa, mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận và lợi ích xã hội chung nhưng bên cạnh đó một vấn đề quan trọng đặt ra tối thiểu cho các doanh nghiệp là cần phải bảo toàn VLĐ. Do đặc điểm VLĐ lưu chuyển toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm và hình thái VLĐ thường xuyên biến đổi vì vậy vấn đề bảo toàn VLĐ chỉ xét trên mặt giá trị . Bảo toàn VLĐ thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ được đủ mua một lượng vật tư, hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả hàng hoá tăng lên, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cương quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có được trình độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị, kỹ thuật được cải tiến. Việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến công nghệ hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường. Đặc biệt khi khai thác được các nguồn vốn, sử dụng tốt nguồn vốn lưu động, nhất là việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả VLĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm bớt nhu cầu vay vốn cũng như việc giảm chi phí về lãi vay. Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. 1.3. Một số biện pháp tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động. Việc tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố khác nhau. Để phát huy những nhân tố tích cực đòi hỏi nhà quản trị phải nắm bắt được những nhân tố chủ yếu tác động đến công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động. 1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. * Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác tổ chức quản lý vốn lưu động. Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Do đó việc tổ chức quản lý vốn lưu động cũng chịu ảnh hưởng của hai nguồn này. - Nguồn vốn chủ sở hữu: là số VLĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt. Nguồn vốn này có lợi thế rất lớn vì donh nghiệp được quyền chủ động sử dụng một cách linh hoạt và không chịu chi phí sử dụng vốn. Vì thế, nếu doanh nghiệp tổ chức khai thác triệt để nguồn vốn này sẽ vừa tạo ra được một lượng vốn cung ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, lại vừa giảm được một khoản chi phí sử dụng vốn không cần thiết do phải đi vay từ bên ngoài, đồng thời nâng cao được hiệu quả đồng vốn hiện có. - Nợ phải trả: là các khoản VLĐ được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, ngoài vốn chủ sở hữu doanh nghiệp còn huy động các khoản nợ phải trả để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của mình. Việc huy động các khoản nợ phải trả không những đáp ứng kịp thời VLĐ cho sản xuất kinh doanh mà còn tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu vốn linh hoạt. Tuy nhiên, việc cân nhắc lựa chọn hình thức thu hút VLĐ tích cực lại là nhân tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả của công tác tổ chức VLĐ. Nếu doanh nghiệp xác định chính xác nhu cầu VLĐ, lựa chọn phương án đầu tư vốn có hiệu quả, tìm được nguồn tài trợ thích ứng sẽ đem lại thành công cho doanh nghiệp. Ngược lại nợ vay sẽ trở thành gánh nặng rủi ro đối với doanh nghiệp. * Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vốn lưu động được vận động chuyển hoá không ngừng. Trong quá trình vận động đó, vốn lưu động chịu tác động bởi nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. * Các nhân tố khách quan: hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số nhân tố: + Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: Do tác động của nền kinh tế tăng trưởng chậm nên sức mua của thị trường bị giảm sút. Điều này làm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít hơn, lợi nhuận giảm sút và như thế sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. + Rủi ro: do những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiện kinh doanh của cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia cùng cạnh tranh với nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro do thiên tai gây ra như hoả hoạn, lũ lụt...mà các doanh nghiệp khó có thể lường trước được. + Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nên sẽ làm giảm giá trị tài sản, vật tư...vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp điều này để điều chỉnh kịp thời giá trị của sản phẩm thì hàng hoá bán ra sẽ thiếu tính cạnh tranh làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. + Ngoài ra, do chính sách vĩ mô của Nhà nước có sự thay đổi về chính sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế... cũng tác động đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. * Các nhân tố chủ quan: Ngoài các nhân tố khách quan nêu trên còn rất nhiều nhân tố chủ quan của chính bản thân doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ cũng như toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. + Xác định nhu cầu vốn lưu động: do xác định nhu cầu VLĐ thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. + Việc lựa chọn phương án đầu tư: là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những sản phẩm lao vụ dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời giá thành hạ thì doanh nghiệp thực hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay của vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ và ngược lại. + Do trình độ quản lý: trình độ quản lý của doanh nghiệp mà yếu kém sẽ dẫn đến thất thoát vật tư hàng hoá trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến sử dụng lãng phí VLĐ, hiệu quả sử dụng vốn thấp. + Do kinh doanh thua lỗ kéo dài, do lợi dụng sơ hở của các chính sách gây thất thoát VLĐ, điều này trực tiếp làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ. Trên đây là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng tới công tác tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Để hạn chế những tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả tổ chức và sử dung VLĐ, các doanh nghiệp cần nghiên cứu xem xét một cách kỹ lưỡng sự ảnh hưởng của từng nhân tố, tìm ra nguyên nhân của những mặt tồn tại trong việc tổ chức sử dụng VLĐ, nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhất, để hiệu quả của đồng vốn lưu động mang lại là cao nhất. 1.3.2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. Trong cơ chế rthị trường, doanh nghiệp nhà nước cũng như mọi doanh nghiệp khác đều bình đẳng trước pháp luật, phải đối mặt với cạnh tranh, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, tự chủ về vốn. Do đó, việc nâng cao sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng là vấn đề quan trọng và cần thiết. Để sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt một số biện pháp sau: -Thứ nhất, phải xác định chính xác số VLĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức huy động VLĐ đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thuận lợi, đồng thời tránh tình trạng ứ đọng vốn, thúc đẩy VLĐ luân chuyển nhanh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. -Thứ hai, lựa chọn hình thức thu hút VLĐ. Tích cực tổ chức khai thác triệt để các nguồn VLĐ bên trong doanh nghiệp, vừa đáp ứng kịp thời vốn cho nhu cầu VLĐ tối thiểu cần thiết một cách chủ động, vừa giảm được một khoản chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp. Tránh tình trạng vốn tồn tại dưới hình thái tài sản không cần sử dụng, vật tư hàng hoá kém phẩm chất... mà doanh nghiệp lại phải đi vay để duy trì sản xuất với lãi suất cao, chịu sự giám sát của chủ nợ làm giảm hiệu quả SXKD. -Thứ ba, trước khi quyết định đầu tư doanh nghiệp cần phải cân nhắc kĩ nguồn tài trợ vốn đầu tư, quy trình công nghệ, tình hình cung ứng nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để đảm bảo chi phí sử dụng vốn đầu tư là thấp nhất doanh nghiệp phải xem xét sự quyết định đầu tư ảnh hưởng như thế nào đến kết cấu vốn SXKD của donh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tốt hay xấu đến công tác tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. -Thứ tư, tăng tốc độ luân chuyển VLĐ: tốc độ luân chuyển VLĐ thể hiện bằng hai chỉ tiêu là số vòng quay VLĐ kỳ luân chuyển bình quân của VLĐ. Số vòng quay VLĐ trong kỳ được tính toán trên cơ sở mức luân chuyển VLĐ và số VLĐ bình quân. Vì vậy phương hướng chung để tăng tốc độ luân chuyển VLĐ là trên cơ sở mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh tạo điều kiện tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, sẽ dẫn tăng tổng mức luân chuyển VLĐ. Để tăng tốc độ luân chuyển VLĐ, sử dụng vốn tiết kiệm cần phải thực hiện tốt những biện pháp về các mặt mua sắm dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thanh toán với người mua và người bán hay nói cách khác, doanh nghiệp cần phải sử dụng hợp lý, tiết kiệm VLĐ ở tất cả các khâu dự trữ, sản xuất và lưu thông. Cụ thể: +Trong lĩnh vực sản xuất cần rút ngắn chu kỳ sản xuất, công ty cần có biện pháp rút ngắn thời gian làm việc trong quy trình công nghệ ở mức cho phép và hạn chế tới mức thấp nhất thời gian ngừng việc do các nguyên nhân khác nhau. +Trong lĩnh vực lưu thông cần có các biện pháp cụ thể trong việc tổ chức hoạt động tiêu thụ và mua sắm, doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ thị trường và khả năng sản xuất tối đa của doanh nghiệp, từ đó dự đoán về vốn thành phẩm để đưa ra kế hoạch sản xuất thích hợp cả về số lượng, chất lượng sản phẩm cũng như chủng loại sản phẩm. Có như vậy vốn thành phẩm trong khâu lưu thông mới đúng kế hoạch theo ý muốn của công ty. -Thứ năm, làm tốt công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh. Doanh nghiệp cần chủ động trong công tác thanh toán công nợ, chủ động thanh toán tiền hàng, hạn chế tình trạng bán hàng không thu được tiền, vốn bị chiếm dụng làm phát sinh nhu cầu vốn cho sản xuất dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch làm phát sinh chi phí sử dụng vốn lẽ ra không có (nếu như thanh toán tốt), đồng thời vốn bị chiếm dụng còn là một rủi ro khi trở thành nợ khó đòi làm thất thoát VLĐ của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường thì mọi rủi ro đều có thể xảy ra đối với mỗi doanh nghiệp, để chủ động phòng ngừa rủi ro các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm, lập quỹ dự phòng tài chính để có nguồn bù đắp khi rủi ro xảy ra, cần đề phòng các rủi ro như hoả hoạn, lũ lụt... -Thứ sáu, tăng cường bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý tài chính. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cao, tình hình sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm thì bên cạnh những điều kiện về trình độ công nghệ của máy móc thiết bị, về cơ cấu sản phẩm được thị trường chấp nhận...còn phải kể đến một vấn đề quan trọng trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý tài chính. Nếu có đủ các điều kiện khác mà không làm tốt công tác quản lý thì việc sử dụng VLĐ cũng không mang lại hiệu quả cao. Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý tài chính phải năng động nhạy bén với thị trường, huy động linh hoạt các nguồn vốn có lợi nhất, quản lý vốn huy động được một cách uyển chuyển nhất, phù hợp nhất với điều kiện của doanh nghiệp để càng ngày nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của các doanh nghiệp. Trong thực tế, do các doanh nghiệp thuộc những ngành nghề kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh khác nhau nên mỗi doanh nghiệp cần phải căn cứ vào những giải pháp chung để từ đó đề ra cho doanh nghiệp mình những biện pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả vốn lưu động của mình. Chương 2. tình hình sử dụng vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty technoimport 2.1. Vài nét về công ty TECHNOIMPORT. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty TECHNOIMPORT. Công ty XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật- Bộ thương mại, tiền thân là cục kiêm tổng công ty nhập khẩu thiết bị toàn bộ và trao đổi kỹ thuật Bộ ngoại thương, được thành lập ngày 28-0-1959, là đơn vị duy nhất được nhà nước giao nhiệm vụ nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ để phục vụ công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, tiếp nhận một cách có hiệu quả sự giúp đỡ về trang bị kỹ thuật của các nước anh em nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng cơ sở vật chất của tất cả các nghành kinh tế, kể cả trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng. Trong suốt thời kỳ bao cấp từ năm 1959 đến 1989, TECHNOIMPORT đã hoạt động như một đơn vị duy nhất thực hiện chức năng nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Dưới sự chỉ đạo của Bộ ngoại thương, Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Văn phòng chính phủ, sự phối hợp giữa các bộ, ban ngành và các chủ đầu tư, TECHNOIMPORT đã nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho hơn 500 công trình lớn nhỏ bằng các nguồn vốn khác nhau. Nhiều công trình thiết bị toàn bộ và thiết bị công nghệ mà TECHNOIMPORT nhập khẩu đã và vẫn đang phát huy tác dụng to lớn của mình đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Trong sự chuyển hướng chiến lược của đất nước toàn diện mọi mặt, đặc biệt về kinh tế dưới ánh sáng của đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1986, nhiếu công ty XNK mới xuất hiện và trở thành đối trọng lớn cạnh tranh với TECHNOIMPORT. Trong tình hình mới đó, Bản thân TECHNOIMPORT một lần nữa phải tự khẳng định mình, phải nỗ lực phấn đấu để xứng đáng là đơn vị dẫn đầu trong lĩnh lực kinh doanh của mình. Cũng trong thời gian này, TECHNOIMPORT đã được Bộ kinh tế đối ngoại nay là Bộ thương mại cho phép đổi tên thành Tổng công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật theo Quyết định thành lập DN số 105/TM-TCCB ngày 22/02/1995 của Bộ thương mại, Công ty đã mở rộng mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh theo Quyết định đăng ký bổ sung kinh doanh lần 01 số 1113/98/QĐ-BTM ngày 24/09/1998 và Quyết định lần 02 số 0670/QĐ-BTM ngày 01/06/1999, thực hiện hạch toán kinh doanh toàn phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, với chức năng nhiệm vụ được mở rộng, đa dạng hơn bao gồm cả xuất khẩu và nhập khẩu, qua 10 năm hoạt động theo cơ chế thị trường (1989-1999), TECHNOIMPORT đã đạt được một số thành tựu đáng kể: * Tổng kim ngạch XNK : 1036 triệu USD. - Trong đó xuất khẩu : 65,15 triệu USD. * Tổng doanh thu : 2580 tỷ đồng. * Tổng nộp ngân sách : 288,2 tỷ đồng. * Tổng lãi : 57 tỷ đồng. * Tăng trưởng vốn đạt : 273% Đặc biệt trong năm 1998, mặc dù nền kinh tế cả nước phải chịu sự tác động tiêu cực của cơn bão khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực, nhưng nhờ vận dụng sáng tạo chủ chương, đường lối của Đảng, và phát huy nội lực vào kinh doanh, công ty vẫn không ngừng mở rộng và đa dạng hoá loại hình kinh doanh, duy trì khách hàng truyền thống và tìm kiếm bạn hàng mới trong nước và quốc tế, luôn coi trọng lợi ích của khách hàng, chú trọng các dịch vụ sau bán hàng và thực hiện văn hoá trong kinh doanh. Chính vì vậy, trong năm này, công ty vẫn đạt được một số thành tích đáng kể: * Kim ngạch XNK : 92triệuUSD * Tổng doanh thu : 238 tỷ đồng * Tổng nộp ngân sách : 42,4 tỷ đồng. * Tổng lợi nhuận : 3,8 tỷ đồng. Bình quân một cán bộ làm lãi 18 triệu đồng/năm. * Thu nhập bình quân :1,286 triệu đồng/tháng. Đến nay từ một tổ chức nhỏ bé ban đầu, TECHNOIMPORT đã trưởng thành và trở thành một doanh nghiệp có bề dày kinh nghệm, có mạng lưới cơ sở đặt tại các trung tâm thương mại lớn trong cả nước: Hà nội, Hải phòng, Đà nẵng, thành phố Hồ chí minh, và đã thiết lập quan hệ thương mại với rất nhiều tổ chức thương mại trên 60 quốc gia trên toàn thế giới. Sang những năm tiếp theo của thiên niên kỷ mới này, Công ty vẫn kiên định mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước làm phương hướng kinh doanh, tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Bảng : Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty (1998-2000). Đơn vị: USD. Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Thực hiện So với KH Thực hiện So với KH Thực hiện So với KH +Kim ngạch XNK 94.303.355 104,7% 71.625.408 110,2% 98.894.686 145,4% - Xuất khẩu 3.258.821 60,3% 3.565.652 127,3% 3.827.881 119,6% Uỷ thác 3.160.918 2.622.288 3.255434 Tự doanh 97.903 943.364 572.448 - Nhập khẩu 91.044.534 107,6% 67.451.021 108,4% 95.066.805 146,7% Uỷ thác 65.705.670 53.155.371 81.262.054 Tự doanh 25.338.864 14.295.650 17.632.633 (Nguồn: Phòng Kế hoạch- Tài chính). v Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của công ty TECHNOIMPORT: Nhìn vào tổ chức bộ máy cán bộ (biểu Sơ đồ tổ chức bộ máy của Công ty), Công ty TECHNOIMPORT được tổ chức theo mô hình các tổng công ty với các công ty con chính là các chi nhánh đặt tại các trung tâm thương mại lớn của cả nước là chi nhánh Hải phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Và ở ngay tại trụ sở chính của mình tại Hà Nội, mỗi phòng nghiệp vụ cũng được tổ chức hoạt động như một công ty con độc lập tương đối về hoạt động kinh doanh có nguồn hàng cung ứng riêng, có khách hàng riêng, mỗi trưởng phòng đều tương đương như một giám đốc và cũng tiến hành theo dõi kế toán các nghiệp vụ kinh tế song song với phòng Kế hoạch-tài chính. * Về tổ chức phân công phân nhiệm: Tổng giám đốc là người đại diện pháp lý cho công ty, chịu trách nhiệm quyết định mọi hoạt động của công ty, được sự giúp đỡ của các phó tổng giám đốc theo đúng thẩm quyền của họ.Các trưởng phòng là người chịu trách nhiệm những công việc theo đúng chức năng. * Về chức năng nhiệm vụ của các phòng ban: Đối với phòng KH-TC: chức năng của nó là thực hiện chế độ hạch toán kế toán tập trung. Mọi vấn đề liên quan tới tài chính dưới bất kỳ hình thức nào đều phải qua phòng này trước khi trình lên lãnh đạo phê duyệt. Như vậy, phòng KH-TC có nhiệm vụ đảm bảo ghi chép, phản ánh chính xácc kịp thời các nghiệp vụ kinh doanh, đôn đốc các đơn vị thanh toán hợp đồng đúng thời hạn cam kết, hạch toán kế toán kịp thời đầy đủ đối với từng phương án; giám sát tình hình vốn, tham mưu cho Tổng giám đốc về các kế hoạch cân đối vốn, tăng nhanh quay vòng vốn; lập và nộp các báo cáo tài chính cho các cơ quan chủ quản đúng về thời gian và chất lượng; lập kế hoạch tài chính cho toàn bộ doanh nghiệp và thực hiện đánh giá phân tích tài chính doanh nghiệp. Đối với phòng TCCB: tham mưu cho tổng giám đốc về tổ chức và quản lý nhân sự, xây dựng và hoàn thiện bộ máy cán bộ của Công ty cho phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ( quản lý cán bộ, theo dõi việc sử dụng quỹ tiền lương, thực hiện đóng BHXH, BHYT... cho người lao động…) Đối với phòng HCQT, là bộ phận thực hiện đa dạng các chức năng nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh của Công ty được tiến hành thuận lợi và hiệu quả. Đối với các phòng nghiệp vụ (các phòng XNK): Chức năng của các phòng XNK chính là chức năng chung của toàn bộ Công ty. Đó là thực hiện XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật cũng như các loại mặt hàng khác vơí mục tiêu đổi mới công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tậng hiện đại, tiến tới CNH-HĐH đất nước, nâng cao mức sống dân cư. Để thực hiện chức năng của mình, các phòng nghiệp vụ phải có nhiệm vụ: Tìm kiếm đối tác kinh doanh, kinh doanh theo đúng pháp luật trong nước và quốc tế, lập phương án kinh doanh trình Tổng giám đốc trước khi thực hiện hợp đồng, sau mỗi nghiệp vụ kinh doanh đều phải thực hiện hạch toán song song với phòngKH-TC, thực hiện thanh quyết toán hợp đồng kịp thời. Đối với Trung tâm tư vấn và đầu tư thương mại: có nhiệm vụ tham mưu cho Tổng giám đốc, các chi nhánh, các đơn vị kinh doanh và các khách hàng về những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh, đồng thời thực hiện một phần chức năng kinh doanh như các phòng nghiệp vụ. Đối với các chi nhánh của Công ty ở nước ngoài: có nhiệm vụ tìm kiếm các nguồn hàng, thiết lập hay duy trì mối quan hệ bạn hàng với các đối tác quốc tế, thực hiện kinh doanh như một đơn vị độc lập, báo cáo định kỳ về tình hình kinh doanh cho trụ sở chính tại Hà nội. 2.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty TECHNOIMPORT. Công ty TECHNOIMPORT là một doanh nghiệp thương mại dịch vụ hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, chính vì vậy, bên cạnh những đặc điểm chung của các doanh nghiệp thương mại thông thường, Công ty còn mang trong mình những đặc điểm riêng có của một doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật. Xét về quan hệ thương mại, thì Công ty TECHNOIMPORT Phải thiết lập quan hệ với các đối tác kinh doanh có sự khác biệt về quốc tịch, dẫn tới những sự khác biệt về tập quán kinh doanh. Vì lẽ đó, khi thực hiện các hợp đồng ngoại, Công ty không chỉ chịu tác động của luât pháp kinh doanh của nước sở tại, mà còn chịu ảnh hưởng bởi luật pháp của nước bạn hàng và hơn hết, còn chịu tác động của các thông lệ quốc tế. Xét về quan hệ tín dụng và thanh toán, đây là mối quan hệ phát sinh từ quan hệ thương mại giữa các bên: Công ty, khách hàng và người cung ứng. Công ty phải thiết lập quan hệ thanh toán dựa trên cơ sở các quy định và các chuẩn mực quốc tế như UCP 500 (Uniforrm custom payment 500); đồng thời để tạo uy tín đối với bạn hàng, Công ty phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán thông qua các ngân hàng có uy tín không chỉ trong quan hệ thanh toán trong nước mà hơn hết là trong quan hệ thanh toán quốc tế, đó là Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (VCB), Ngân hàng Công thương Việt nam (ICB)...nhằm đảm bảo an toàn và từng bước củng cố, nâng cấp, hướng dẫn văn hoá kinh doanh quốc tế tại Việt Nam. Sảm phẩm dịch vụ mà Công ty cung ứng cho nền kinh tế có một ý nghĩa KT-XH to lớn. Đây không đơn thuần là hoạt động mua đi bán lại để ăn chênh lệch giá mà cao hơn thế, hoạt động của công ty đã và vẫn sẽ chứng minh vai trò trong sự nghiệp đổi mới đất nước về kinh tế , về KHCN, không ngừng nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất và đời sống vật chất tinh thần cho dân cư. Xét về đối tượng kinh doanh, Công ty đang thực hiện kinh doanh những mặt hàng có đặc điểm riêng biệt như sau: Thứ nhất, chúng chủ yếu là thiết bị toàn bộ, là dây chuyền công nghệ với khối lượng khổng lồ; là tổng thể của hàng trăm, hàng ngàn bộ phận, chi tiết hợp thành; có giá trị tiền tệ cao. Hơn thế nữa, các thiết bị và dây truyền công nghệ này có giá trị lớn hơn rất nhiều lần tổng giá trị của từng bộ phận riêng lẻ do những phụ phí phát sinh như chi phí đồng bộ, chi phí phụ kiện thay thế, chi phí vận hành lắp đặt, chi phí phát minh sáng chế... Thứ hai, sản phẩm kinh doanh của Công ty đều là kết quả của việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại. Điều này đòi hỏi sự theo kịp và nắm bắt, làm chủ các kiến thức, hiểu biết về các công nghệ hiện đại của cán bộ công nhân viên trong Công ty, nhất là cán bộ công nhân viên của các phòng nghiệp vụ, bộ phận trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại. Bởi chỉ có như vậy, Công ty mới có thể tránh được những sai lầm ngu ngốc, mới có thể đứng vững trên thương trường đang cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thứ ba, do quan hệ xuất nhập khẩu được thiết lập giữa hai đối tác kinh doanh khác nhau về quốc tịch, nên vận chuyển hàng hoá là một trong những điều khoản quan trọng không thể thiếu được trong các hợp đồng ngoại. Như ta đã biết, vận tải đường biển hiện nay vẫn tỏ ra là hình thức ưu việt nhất khi xét trên quan điểm về chi phí cơ hội. Song việc vận chuyển hàng hoá theo hình thức này lại mất nhiều thời gian nên dễ dẫn tới những rủi ro về mất thị trường, rủi ro về sự lỗi mốt, về sự thay đổi nhu cầu thị trường..., và rất dễ gặp những rủi ro trên đường vận chuyển như đâm va, chìm đắm, cháy nổ... Do đó, Công ty cần phải thiết lập công tác nghiên cứu thị trường, lựa chọn đường vận tải an toàn và đề cao công tác bảo hiểm... Xét về môi trường kinh doanh, ta thấy trong cơ chế mở cửa nền kinh tế và chủ trương đa dạng hoá các loại hình kinh doanh và sở hữu, nhiều doanh nghiệp XNK đã nổi lên như là đối thủ cạnh tranh xứng đáng của TECHNOIMPORT, điển hình là công ty MACHINOIMPORT. Trong bối cảnh ấy, buộc Công ty phải chủ động và năng động hơn nữa trong tìm kiếm nguồn hàng và thị trường tiêu thụ tuy dồi dào nhưng không dễ chiếm lĩnh. Xét về cơ chế quản lý của cơ quan chủ quản, ta thấy, Công ty TECHNOIMPORT là đơn vị trực thuộc Bộ thương mại, bởi thế, Công ty còn chịu sự quản lý trực tiếp từ Bộ này. Mọi sự quản lý điều hành hoạt động của Công ty từ Bộ thương mại đều được thực hiện bằng văn bản.Văn bản này được Chính phủ đưa ra vào thời điểm bắt đầu của năm tài chính mới và chuyển xuống Bộ thương mại, trong đó có quy định rõ về những mặt hàng cấp chiến lược quốc gia thuộc sự quản lý của Chính phủ nếu doanh nghiệp muốn kinh doanh thì phải có sự cho phép của Chính phủ; những mặt hàng do Bộ thương mại quản lý thì công ty phải xin giấy phép từ Bộ thì mới được kinh doanh. Những mặt hàng này còn bị quản lý bởi hạn ngạch XNK do Chính phủ đưa ra trên cơ sở căn cứ vào tình hình thực tế và nhu cầu thị trường.Bên cạnh đó, văn bản trên cho phép Công ty được nhập khẩu tự do các mặt hàng khác không có trong quy định theo nhu cầu của thị trường và khả năng của Công ty. Với đặc trưng kinh doanh, môi trường kinh tế và pháp lý phức tạp như vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty nói riêng và hiệu quả KT-XH của nền kinh tế nói chung, việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ thực sự là rất quan trọng trong quản trị kinh doanh và quản trị tài chính tại Công ty. * Đặc điểm tổ chức công tác kế toán tại công ty technoimport. Để phù hợp với quy mô, đặc điểm sản xuất kinh doanh và quản lý, phù hợp với khả năng, trình độ của nhân viên kế toán đồng thời để xây dựng bộ máy tinh giản nhưng đầy đủ về số lượng, chất lượng nhằm làm cho bộ máy kế toán là một tổ chức phục vụ tốt mọi nhiệm vụ của công tác kế toán cũng như những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty đã tổ chức bộ máy kế toán vừa tập trung vừa phân tán. Với phương thức này, bộ máy kế toán của đơn vị được tổ chức theo mô hình phòng kế toán trung tâm của đơn vị(đặt tại 16-18 Tràng thi- Hà nội) phòng kế toán của bộ phận phụ thuộc hoạt động phân tán(chi nhánh tại TPHCM) các nhân viên kế toán ở phòng kế toán của các bộ phận phụ thuộc hoạt động tập trung(chi nhánh tại Hải phòng, Đà nẵng). Phòng kế toán trung tâm của đơn vị thực hiện hạch toán kế toán các hoạt động kinh doanh, tài chính có tính chất chung toàn đơn vị, lập báo cáo, hướng dẫn, kiểm tra toàn bộ công tác kế toán của đơn vị. Tại phòng kế toán ở Đà nẵng và Hải phòng, các nhân viên kế toán làm nhiệm vụ hướng dẫn và hạch toán ban đầu, thu nhận, kiểm tra sơ bộ các chứng từ liên quan đến hoạt động của bộ phận mình và gửi những chứng từ đó về phòng kế toán trung tâm của đơn vị. Riêng chi nhánh ở TPHCM do có quy mô khá lớn và địa điểm ở xa tổng công ty nên hạch toán độc lập mở sổ tổng hợp, sổ chi tiết để hạch toán toàn bộ các vấn đề phát sinh tại chi nhánh và đến cuối kỳ nộp báo cáo về phòng kế toán tổng công ty. Bộ máy kế toán tổ chức theo mô hình trên được thể hiện theo sơ đồ sau: 2.2. Tình hình tổ chức quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty Technoimport. 2.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động của công ty Technoimport. Để công tác tổ chức quản lý và sử dụng VLĐ có hiệu quả, nhà quản trị doanh nghiệp cần nắm bắt được tình hình thực tế của đơn vị mình, những khó khăn và thuận lợi mà doanh nghiệp hiện có để từ đó có các biện pháp phù hợp để tận dụng những nhân tố thuận lợi và hạn chế, khắc phục những nhân tố khó khăn. Qua đó từng bước tạo thế ổn định cho sự phát triển của công ty cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. a>Những thuận lợi. Công ty thuộc bộ thương mại nên được sự hậu thuẫn rất nhiều từ bộ này. Về mặt pháp lý, công ty là doanh nghiệp Nhà nước được hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, công ty được mở tài khoản tại ngân hàng, nhờ ngân hàng là trung gian giao dịch thanh toán, thu chi nội, ngoại tệ trong viêch thanh toán với các đối tác. Mặt khác công ty được Nhà nước và các cơ quan hữu quan giúp đỡ trong việc mở rộng xây dựng trụ sở, cơ sở sản xuất kinh doanh, mở các chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho công ty tìm bạn hàng, mở rộng thị trường. Về nguồn lực con người, công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên hiện tai là 255 người, chủ yếu là trình độ đại học, đây là một nguồn lực dồi dào cả về phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, tạo nên sự vững mạnh về văn hoá của doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ công nhân viên này không ngừng được củng cố nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn để thường xuyên và sẵn sàng đáp ứng với sự đổi mới không ngừng trong cơ chế thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. Đặc biệt cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty khá chặt chẽ với những người lãnh đạo có trình độ chuyeen môn và kinh nghiệm, đồng thời sự kết dính giữa các phòng ban thường xuyên, khăng khít, đã góp phần vào việc chèo lái mọi công việc đi theo đúng hướng và mục tiêu đã đặt ra. Bên cạnh đó, công ty là đơn vị duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho mọi ngành, mọi địa phương trong cả nước, cũng như công ty được thành lập từ khá lâu nên giúp cho công ty tránh gặp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh tạo thế ổn định trong kinh doanh, ổn định về thị trường, từ đó từng bước hạn chế được các chi phí không cần thiết, nâng cao hiệu quả kinh doanh. b>Những khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên, công ty còn gặp phải những khó khăn trong công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động như: Khó khăn lớn nhất của công ty trong những năm vừa qua là vấn đề vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Chuyển sang cơ chế thị trường, cũng như các doanh nghiệp Nhà nước khác, công ty Technoimport không còn được bao cấp toàn bộ về vốn như trước mà phải tự chủ trong trong sản xuất kinh doanh và đảm bảo có lãi. Do doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu mà chủ yếu là nhập khẩu các thiết bị toàn bộ có giá trị lớn trong khi nguồn vốn chủ sở hữu của công ty lại không đủ đáp ứng, do đó công ty phải đi vay vốn với một lượng khá lớn, việc trả lãi cho các khoản vay đó đã làm giảm phần lợi nhuận đạt được của công ty. Do công ty hoạt động xuất nhập khẩu, nên việc mở rộng thị trường, tìm kiếm các đối tác mới trong và ngoài nước, đồng thời công ty phải tự chủ về tài chính nên số chi phí bỏ ra cho việc nghiên cứu thị trường phần nào bị hạn chế. Mặt khác, các thiết bị mà công ty nhập khẩu đều có giá trị rất lớn, nên khi giao hàng lại cho khách, nhiều khi thời hạn thanh toán bị kéo dài, làm đồng vốn bị ứ đọng dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động bị hạn chế. 2.2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Technoimport trong những năm gần đây. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp nhất đánh giá hiệu quả tổ chức sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng của doanh nghiệp. Vì vậy trước khi xem xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty, chúng ta đi đánh giá một cách khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm gần đây. Mặc dù những năm gần đây công ty gặp không ít những khó khăn nhưng với những nỗ lực không ngừng công ty đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Để thấy được kết quả hoạt động kinh doanh cụ thể của công ty ta xem xét bảng sau: Bảng1. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Technoimport ngày 30/12/2001. Đơn vị tính:ngđ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 1. Tổng doanh thu 1.280.318.059 326.325.976 2. Các khoản giảm trừ 3. Doanh thu thuần(1-2) 1.280.318.059 326.325.976 4. Giá vốn hàng bán 1.267.595.355 314.832.503 5. Lợi nhuận gộp(3-4) 12.722.704 11.493.473 6. Chi phí bán hàng 2.521.696 3.740.314 7. Chi phí quản lý doanh nghiệp 5.939.434 6.184.169 8. Lợi nhuận thuần từ hđkd(5-6-7) 4.261.574 1.568.990 9. Thu nhập hđtc 1.695.054 1.794.701 10. Chi phí hđtc 2.801.002 2.336.750 11. Lợi nhuận thuần từ hđtc(9-10) - 1.105.948 - 542.049 12. Thu nhập bất thường 13. Chi phí bất thường 14. Lợi nhuận bất thường(12-13) 15. Tổng lợi nhuận trước thuế (8+11+14) 3.155.626 1.026.941 16. Thuế thu nhập doanh nghiệp 1.009.799 328.620 17. Tổng lợi nhuận sau thuế(15-16) 2.145.827 698.321 Qua báo cáo kết quả kinh doanh ta thấy tổng doanh thu của doanh nghiệp năm 2001 giảm đi khá lớn so với năm 2000. đồng thời lợi nhuận trước thuế năm 2001 giảm đi so với năm 2000 là:1.026.941- 3.155.626 = - 2.128.685(ngđ) tương ứng giảm đi 67,45%. Trong đó lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh giảm 2.692.584(ngđ) tương ứng giảm đi 63,18%, lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính tăng lên:563.899(ngđ) Đi sâu vào hoạt động kinh doanh ta thấy doanh thu thuần năm 2001 giảm đi so với năm 2000 là: 953.992.083(ngđ) tương ứng giảm đi 74,51%. Đặc biệt năm 2001 tổng chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp lại tăng so với năm 2000 trong khi lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh lại giảm rất lớn. Chứng tỏ công tác bán hàng cũng như quản lý doanh nghiệp của công ty còn bị hạn chế và lãng phí. Công ty cần có biện pháp thích hợp để khắc phục ở kỳ sau. Về mức lương bình quân của công nhân viên trong công ty . Năm 2000 tiền lương bình quân là: 11.827(ngđ). Năm 2001 tiền lương bình quân là:11.603(ngđ). Thu nhập bình quân năm 2001 là:12.806(ngđ). Như vậy ta thấy kết quả kinh doanh giảm đã làm cho thu nhập của cán bộ công nhân viên giảm và các chỉ tiêu khác giảm sút đáng kể. 2.2.3. Tình hình tổ chức quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty Technoimport. 2.2.3.1. Vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty Technoimport. Để thấy rõ tình hình vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty ra xem xét bảng sau: Qua bảng 2 ta thấy: Về vốn kinh doanh: cơ cấu vốn có sự chênh lệch khá lớn, VLĐ chiếm 96,15% năm 2000 và chiếm 96,34% vào năm 2001. Trong khi đó năm 2000 VCĐ chỉ là 3,85%, năm 2001 VCĐ chỉ chiếm 3,66% tổng vốn kinh doanh. Có thể nói vốn kinh doanh của công ty chủ yếu vẫn là VLĐ vì công ty Technoimport là một công ty thương mại, hoạt động chủ yếu là nhập các thiết bị có giá trị lớn. Bảng 2: Vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty trong những năm qua. Đơn vị tính: ngđ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Số tiền % Số tiền % I. Vốn kinh doanh 122.800.226 100 129.332.566 100 1. Vốn lưu động 118.072.714 96,15 124.594.497 96,34 2. Vốn cố định 4.727.512 3,85 4.738.069 3,66 II. Nguồn vốn kinh doanh 122.800.226 100 129.332.566 100 1. Nợ phải trả 90.817.715 73,96 97.761.111 75,58 - Nợ ngắn hạn 90.833.079 100,01 97.779.368 100,01 Trong đó: + Vay ngắn hạn 59.417.556 65,41 39.789.419 40,69 + Nợ dài hạn đến hạn trả + Phải trả cho khách hàng - 4.605.138 - 5,07 2.033.154 2,08 + Người mua trả tiền trước 19.469.672 21,43 32.902.795 33,65 + Thuế và các khoản phải nộp NN - 923.635 - 1,02 - 168.032 - 0,17 + Phải trả công nhân viên 1.722.005 1,89 844.625 0,86 + Phải trả nội bộ + Các khoản phải trả phải nộp khác 15.752.619 17,34 22.377.405 22,89 - Nợ dài hạn _ Nợ khác - 15.364 - 0,01 - 18.257 - 0,01 2. Vốn chủ sở hữu 31.982.511 26,04 31.571.455 24,42 Về nguồn vốn kinh doanh: nợ phải trả lớn hơn nhiều so với vốn chủ sở hữu.Cụ thể, năm 2000 nợ phải trả chiếm 73,96% trong tổng nguồn vốn còn nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 26,04% trong tổng nguồn vốn. Năm 2001 nợ phải trả có xu hướng tăng cả về số tương đối và số tuyệt đối chiếm tỷ trọng là 75,58% trong tổng nguồn vốn, còn nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 24,42%. Nợ phải trả năm 2001 là: 97.779.368(ngđ) chiếm 100,01% trong tổng nợ phải trả, đã tăng so với năm 2000. Cụ thể, nợ ngắn hạn năm 2000 là 90.833.079(ngđ) Năm 2001 trong nợ ngắn hạn có: vay ngắn hạn của ngân hàng là:39.789.419(ngđ) chiếm 40,69% trong tổng nợ ngắn hạn. Còn năm 2000 vay ngắn hạn của ngân hàng là:59.417.556(ngđ) chiếm 65,41% trong tổng nợ ngắn hạn. Như vậy vay ngắn hạn ngân hàng năm 2001 dẫ giảm đi so với năm 2000 là: 19.628.137(ngđ) với tỷ lệ giảm tương ứng là 33,03%. Khoản phải trả cho khách hàng năm 2001 là: 2.033.154(ngđ) chiếm tỷ trọng 2,08% trong tổng số nợ ngắn hạn. Khoản người mua trả tiền trước năm 2000 là: 19.469.672(ngđ) chiếm 21,43% trong tổng nợ ngắn hạn. Năm 2001 khoản người mua trả tiền trước là:32.902.795(ngđ) chiếm 33,65% trong tổng nợ ngắn hạn. Như vậy năm 2001 công ty được khách hàng trả tiền trước nhiều hơn năm 2000 là: 13.433.123(ngđ) tỷ lệ tương ứng tăng 68,99%. Đây là một thuận lợi lớn của công ty trong việc sử dụng vốn mà không bị mất lãi suất như đi vay. Công ty còn chiếm dụng được ở khoản phải trả công nhân viên năm 2001 là: 844.625(ngđ). Các khoản phải trả phải nộp khác năm 2001 là: 22.377.405(ngđ) chiếm 22,89% trong tổng nợ ngắn hạn. Trên đây cũng là một khoản vốn khá lớn mà công ty có thể tận dụng và sử dụng chúng một cách hợp lý nhất, sao cho vừa giảm chi phí sử dụng vốn vừa đảm bảo khả năng thanh toán đúng hạn và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. Trên đây ta thấy cụ thể các khoản nợ ngắn hạn đảm bảo nhu cầu vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng của công ty. Biết được thành phần kết cấu các khoản nợ ngắn hạn này để công ty có thể đưa ra các biện pháp, cách thức một mặt bảo toàn vốn mặt khác tận dụng triệt để trong việc sử dụng vốn sao cho hiệu quả là cao nhất có thể. Để nhận thức, đánh giá được một cách đúng đắn thực trạng tài chính của doanh nghiệp, ta có thể sử dụng các hệ số tài chính để giải thích thêm các mối quan hệ tài chính qua các thời điểm cũng như xem xét cơ cấu nguồn vốn của công ty cụ thể như sau: Nợ phải trả + Hệ số nợ = Tổng nguồn vốn 90.817.715 Hệ số nợ năm 2000 = = 0,739 122.800.226 97.761.111 Hệ số nợ năm 2001 = = 0,755 129.332.566 Nguồn vốn chủ sở hữu + Hệ số vốn chủ sở hữu = Tổng nguồn vốn 31.982.511 Hệ số vcsh năm 2000 = = 0,260 122.800.226 31.571.455 Hệ số vcsh năm 2001 = = 0,244 129.332.566 Kết quả tính toán ở trên cho thấy: hệ số nợ của công ty năm 2001 đã tăng so với năm 2000. Với hệ số nợ năm 2000 là: 0,739 và năm 2001 là: 0,755 đây là mức cao so với các doanh nghiệp cùng ngành. Nhưng để tồn tại và phát triển công ty vẫn phải đi vay vốn ngân hàng và chịu lãi. Điều này cũng cho ta thấy việc công ty phụ thuộc vào các chủ nợ khá nhiều mà chủ yếu là ngân hàng. Xét về hệ số vốn chủ sở hữu: năm 2001 là: 0,244, năm 2000 là 0,260. Chứng tỏ mức độ tự tài trợ của công ty đối với vốn kinh doanh của mình là khá thấp vì vốn tự có của công ty ít. Như vậy hệ số nợ cao đây được xem là điều có lợi vì công ty được sử dụng một lượng tài sản lớn mà chỉ đầu tư một lượng nhỏ. Nếu sử dụng một cách hợp lý thì đây lại như một chính sách tài chính để gia tăng lợi nhuận của công ty. Song công ty luôn ở trong tình trạng phải no nguồn trả nợ đúng hạn và chịu sức ép của các khoản nợ vay, đây là một hạn chế, đôi khi rất mạo hiểm trong kinh doanh. Đồng thời hệ số nợ quá cao cũng có thể làm cho các chủ nợ mất sự tự tin phần nào vào công ty về khả năng hoàn trả vốn vay đúng hạn. Xét về tính ổn định của nguồn vốn ta thấy: Nguồn vốn thường xuyên = vay dài hạn + vốn chủ sở hữu Nguồn vốn TX năm 2000 = 0 + 31.982.511 =31.982.511 (ngđ) chiếm tỷ trọng 26,04% tổng nguồn vốn. Trong đó đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư dài hạn là 4.727.512(ngđ) chiếm 14,78%. Do vậy, nguồn vốn thường xuyên chủ yếu là cho nhu cầu vốn lưu động là: 27.254.999(ngđ) chiếm 85,22% nguồn vốn thường xuyên. Nguồn vốn TX năm 2001 = 0 + 31.571.455 = 31.571.455(ngđ) chiếm tỷ trọng 24,42% tổng nguồn vốn. Trong đó đầu tư vào TSCĐ và ĐTDH là: 4.738.069(ngđ) chiếm 15,00%. Do vậy, nguồn vốn thường xuyên chủ yếu là cho nhu cầu VLĐ là: 26.833.386(ngđ) chiếm 85% nguồn vốn thường xuyên. Nguồn vốn tạm thời = Nợ ngắn hạn Năm 2000 nguồn vốn tạm thời là: 90.833.079(ngđ) chiếm 73,97% tổng nguồn vốn. Năm 2001 nguồn vốn tạm thời là: 97.779.368(ngđ) chiếm tỷ trọng 75,69% tổng nguồn vốn. Từ những tính toán phân tích ở trên ta có thêr đi đến một số nhận xét, đánh giá khái quát tình hình nguồn vốn kinh doanh của công ty trong 2 năm 2000 và 2001 như sau: Hệ số nợ quá cao, cho thấy công ty đang vay nợ nhiều mà chủ yếu là nợ ngắn hạn. Đòi hỏi công ty phải thường xuyên có các nguồn hợp lý để trả nợ đúng hạn. Nguồn vốn kinh doanh có xu hướng tăng, nguồn vốn thường xuyên chủ yếu đầu tư vào vốn lưu động đây là một điều thuận lợi trong việc huy động vốn lưu động vào phục vụ cho hoạt động kinh doanh, nó cũng phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp thương mại cần nhiều vốn lưu động. Nhìn chung, hệ số nợ lớn nhưng nguồn vốn thường xuyên cũng chiếm tỷ trọng nhỏ do đó công ty phải luôn quan tâm tới cách thức sử dụng vốn vay cho hợp lý và có hiệu quả, cũng như quan tâm tới vấn đề an ninh tài chính của công ty. 2.2.3.2. Nguồn vốn lưu động của công ty Technoimport. Là một doanh nghiệp thương mại, do đó vốn lưu động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn. Nguồn vốn lưu động của công ty gồm: nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời. Nguồn vốn lưu động thường xuyên đảm bảo một phần cho tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn VLĐ TX = TSLĐ - Nợ ngắn hạn Qua bảng 2 ta có: Nguồn VLĐ TX năm 2000 = 118.072.714 - 90.833.079 = 27.239.635(ngđ) chiếm tỷ trọng 22,18% trong tổng số tài sản lưu động. Nguồn VLĐ TX năm 2001 = 124.594.497 - 97.779.368 = 26.815.129(ngđ) chiếm tỷ trọng 21,52% trong tổng số tài sản lưu động. Qua bảng 3 ta thấy vốn lưu động năm 2001 là: 124.594.497(ngđ), năm 2000 là:118.072.714(ngđ) như vậy vốn lưu động năm 2001 tăng so với năm 2000 là 6.521.783(ngđ) tỷ lệ tăng tương ứng là 5.52%. trong đó chủ yếu là các khoản phải thu tăng 10.577.449(ngđ) tương ứng với tỷ lệ tăng là 17,28%. Tiền mặt cũng tăng 1.939.311(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là 7,48%. Tái sản lưu động khác cũng tăng 129.299(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là 7,82%. Tuy hàng tồn kho năm 2001 có giảm so với năm 2000 là 6.124.275(ngđ) với tỷ lệ giảm tương ứng là 20,9%.Song lượng hàng tồn kho của công ty còn khá lớn năm 2000 là; 29.304.274(ngđ) với tỷ trọng tương ứng là 24,81% trong tổng VLĐ, năm 2001 là: 23.179.99(ngđ) với tỷ trọng tương ứng là 18,60% trong tổng VLĐ. Có thể nói, việc luôn có lượng hàng trong kho thường xuyên để đáp ứng nhu cầu kinh doanh thường xuyên của công ty, nhưng lượng hàng tồn kho sao cho là hợp lý lai phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Với tỷ trọng hàng tồn kho quá nhiều lại là một bất lợi đối với công ty trong hoạt động kinh doanh, do bị ứ đọng một lượng vốn lớn và bị khách hàng chiếm dụng vốn, khi đó công ty cần có những biện pháp kịp thời và cứng rắn trong việc thu hồi nợ, cũng như cần nghiên cứu thị trường, thẩm định về loại hàng, chất lượng, giá cả để giảm dần lượng hàng tồn kho tới mức hợp lý nhất, từ đó làm cho đồng vốn lưu động được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Do doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn quá nhiều để hoạt động kinh doanh liên tục và bình thường thì tất yếu doanh nghiệp lại phải đi vay ngân hàng. Bảng 3. Nguồn vốn lưu động của công ty Technoimport. Đơn vị tính: ngđ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền Tt% Số tiền Tt% Số tiền Tỷ lệ% I.VLĐ 118.072.714 100 124.594.497 100 6.521.783 5,52 1.Tiền 25.928.639 21,96 27.867.950 22,36 1.939.311 7,48 2.Các khoản phải thu 61.187.019 51,82 71.764.468 57,60 10.577.449 17,28 3.Hàng tồn kho 29.304.274 24,81 23.179.999 18,6 -6.124.275 -20,90 4.TSLĐ khác 1.652.781 1,39 1.782.080 1,43 129.299 7,82 II.Nguồn VLĐ 118.072.714 100 124.594.497 100 6.521.783 5,52 Theo thời gian huy động và sử dụng Nguồn VLĐ thường xuyên 27.239.653 23,07 26.815.129 21,52 -424506 -1,55 Nguồn VLĐ tạm thời 90.833.079 76,93 97.779.368 78,48 6.946.289 7,64 Năm 2000 nguồn VLĐ tạm thời là: 90.833.079(ngđ) chiếm tỷ trọng 76,93% tổng nguồn vốn lưu động. Năm 2001 nguồn VLĐ tạm thời là: 97.779.368(ngđ) chiếm tỷ trọng78,48%. Như vây nguồn vốn lưu động tạm thời năm 2001 tăng so với năm 2000 là 6.946.289(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là 7,64%. điều này sẽ ảnh hưởng đến sự chủ động về vốn lưu động của công ty. Từ đó có thể gây ra nhiều khó khăn cho công ty khi thực hiện chiến lược kinh doanh nhất là những chiến lược kinh doanh lâu dài và nhiều khi công ty mất đi những cơ hội kinh doanh do thiếu vốn nhất là nguồn vốn lưu động thường xuyên. cụ thể nguồn vốn lưu động thường xuyên của công ty có xu hướng giảm năm 2001 so với năm 2000 là: 424.506(ngđ) với tỷ lệ giảm tương ứng là 1,55%. Song xét trên tình hình thực tế của công ty cũng như kết quả hoạt động kinh doanh những năm gần đây cho thấy công ty đã biết khai thác và sử dụng tốt nguồn vốn lưu động tạm thời nhằm đảm bảo nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh. Điều này chứng tỏ công ty rất năng động trong việc tổ chức nguồn vốn lưu động đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả cao nhất. 2.2.3.3.Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty Technoimport. Để kinh doanh bất kì doanh nghiệp nào cũng cần có vốn với mỗi doanh ngiệp khác nhau lại có cơ cấu vốn khác nhau nhất định. Song việc phân bổ vốn ấy như thế nào cho hợp lý lại có tính chất quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. Nhiều nhà quản trị doang nghiệp cho rằng, hiện nay việc huy động vốn không khó bằng quản lý và sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả và đem lại lợi nhuận. Qua số liệu bảng 4 cho ta thấy: Năm 2001 vốn lưu động đã tăng so với năm 2000 là 6.521.783(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng 5,52%. Vốn lưu động tăng chủ yếu do các nguyên nhân sau: Chủ yếu là do các khoản phải thu tăng, năm 2001 so với năm 2001 các khoản phải thu tăng 10.577.449(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là 17,29%. Đồng thời trong cả hai năm các khoản phải thu luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tồng VLĐ. Cụ thể năm 2000 chiếm tỷ trọng 51,82%, năm 2001 chiếm tỷ trọng 57,6% trong tổng vốn lưu động. Như vậy đây là điều bất lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty, có thể do công tác thu hồi vốn kém hiệu quả dẫn đến công ty bị chiếm dụng vốn một lượng khá lớn. Bảng 4. Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty Technoimport. Đơn vị tính: ngđ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền Tt% Số tiền Tt% Số tiền Tỷ lệ% I.Tiền 25928639 21,96 27867950 22,37 1939311 7,48 1.Tiền mặt tại quỹ 1386542 5,35 2058631 7,39 672089 48,47 2.TGNH 24542 94,65 25809317 92,61 1267220 5,16 II.Các khoản đầu tư TCNH III.Các khoản phải thu 61187019 51,82 71764468 57,60 10577449 17,29 1.Phải thu của KH 48239923 78,48 44573280 62,11 -3666643 -7,60 2.Trả trước cho NB - - 8369891 11,66 8369891 - 3.Thuế GTGT được khấu trừ 1136821 1,86 2164931 3,02 1028110 90,44 4.Các khoản phải thu khác 11810275 19,30 16656365 23,21 4846090 41,03 IV.Hàng tồn kho 29304274 24,82 23179999 18,60 -6124275 -20,90 1.Hàng mua đang đi trên đường 16342113 55,77 6000642 25,89 -10341471 -63,28 2.Hàng gửi đi bán 12962161 44,23 17179357 74,11 4217196 32,53 V.TSLĐ khác 1652781 1,40 1782080 1,43 129299 7,82 1.Tạm ứng 289850 17,54 420495 23,60 130645 45,07 2.Chi phí trả trước 1362931 82,46 1361585 76,40 -1346 0,10 Tổng cộng 118072714 100 124594497 100 6521783 5,52 Do sự thay đổi của vốn tiền mặt. Năm 2000 vốn tiền mặt là: 25.928.639(ngđ) chiếm tỷ trọng 21,96% tổng vốn lưu động, năm 2001 vốn tiền mặt là: 27.867.950(ngđ) chiếm tỷ trọng 22,37% tổng vốn lưu động.Như vậy vốn tiền mặt năm 2001 tăng so với năm 2000 là 1.939.311(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là 7,48%. Do tài sản lưu động khác tăng, năm 2001 tài sản lưu động khác tăng so với năm 2000 là: 129.299(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là: 7,82%. Trong khi đó hàng tồn kho lại chiếm một tỷ trọng khá lớn qua các năm cụ thể: năm 2000 chiếm tỷ trọng 24,82% tổng VLĐ, năm 2001 chiếm tỷ trọng 18,6% tổngVLĐ. Mặc dù hàng tồn kho năm 2001 có giảm đi so với năm 2000 là 6.124.275(ngđ) tỷ lệ giảm tương ứng là 20,9%. Tuỳ vào tình hình cụ thể mà lượng hàng tồn kho là nhiều hay ít, nêu quá nhiều vốn sẽ bị ứ đọng, làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ, còn nếu quá ít lại không đảm bảo khả năng cung cấp thường xuyên cho thị trường cũng như trong việc chớp cơ hội kinh doanh. Như vậy vốn lưu động năm 2001 có xu hướng tăng so với năm 2000 ( tỷ lệ tăng 5.52%) đây là một tốc độ tăng khá lớn. Việc tăng vốn tiền mặt, cũng như việc giảm hàng tồn kho là một biểu hiện tốt. Công ty cần phát huy điểm mạnh này. Song các khoản phải thu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng VLĐ lại có xu hướng tăng với tốc độ lớn, mà chủ yếu là các khoản phải thu của khách hàng và các khoản phải thu khác chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng các khoản phải thu. Điều này là một hạn chế trong công tác thu hồi nợ của công ty. Bởi vậy công ty cần xem xét cụ thể và có biện pháp thu hồi nợ một cách có hiệu quả nhất. Cũng như công ty cần có biện pháp thích hợp trong việc tiêu thụ tránh hàng tồn kho quá nhiều làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 2.2.3.4.Vốn tiền mặt và khả năng thanh toán của công ty Technoimport. Trong hoạt động kinh doanh vốn tiền mặt là hết sức quan trọng và cần thiết, nó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của doanh nghiệp hàng ngày như mua sắm hàng hoá, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Ngoài ra còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để ứng phó với những nhu cầu vốn bất thường chưa dự đoán được và động lực trong“đầu cơ” trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng kinh doanh khi xuất hiện các cơ hội kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao. Việc duy trì một mức dự trữ vốn tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu được triết khấu trên hàng mua trả đúng kỳ hạn, làm tăng hệ số khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Song việc dự trữ tiền mặt phải luôn luôn chủ động và linh hoạt. Từ bảng 4( tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty Technoimport) ta thấy: Năm 2000 vốn tiền mặt là: 25.928.639(ngđ) chiếm tỷ trọng 21,96% trong tổng VLĐ. Năm 2001 vốn tiền mặt là: 27.867.950(ngđ) chiếm tỷ trọng 22,37% trong tổng VLĐ. Như vậy vốn tiền mặt năm 2001 đã tăng so với năm 2000 là:1.939.311(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng 7,48%. Vốn tiền mặt tăng là do: Tiền mặt tại quỹ năm 2001 tăng so với năm 2000 là: 672.089(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là 48,47%. Song tiền mặt tại quỹ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn tiền mặt. Trong khi đó TGNH lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn tiền mặt. Cụ thể năm 2000 là: 24.542.097(ngđ) chiếm tỷ trọng 94,65% tổng vốn tiền mặt. Năm 2001 là: 25.809.317(ngđ) chiếm tỷ trọng 92,61% tổng vốn tiền mặt. Như vậy TGNH năm 2001 tăng so với năm 2000 là:1.267.220(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng 5,26%. Việc tăng TGNH là một diều có lợi cho công ty vì khi đó ta không chỉ được hưởng lãi mà việc dùng chúng để thanh toán cũng khá thuận tiện, nhanh gọn, chống thất thoát nhờ hệ thống thanh toán của ngân hàng. Nó đặc biệt quan trọng đối với một công ty hoạt động xuất nhập khẩu như Technoimport. Lý do TGNH tăng do trong kỳ những khoản chưa dùng đến công ty đem gửi vào ngân hàng như: quỹ phát triển kinh doanh, quỹ khen thưởng phúc lợi hoặc do khách hàng thanh toán cho công ty qua ngân hàng. Việc dự trữ lượng tiền mặt tại quỹ thấp sẽ giúp công ty tăng được các tài sản lưu động sinh lãi giảm chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Mặt trái của nó là công ty phải đi vay ngắn hạn ngân hàng để trang trải khoản chi phát sinh, khi đó chi phí sử dụng vốn sẽ tăng cao hơn ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Như vậy ta thấy công ty dự trữ một lượng khá lớn vốn tiền mặt trong tổng vốn lưu động. điều này cho phép công ty có thể đáp ứng nhanh các khoản chi khi cần thiết, cũng như chớp cơ hội kinh doanh. Song công ty luôn phải xem xét để có một tỷ trọng hợp lý sao cho hiệu quả sử dụng vốn tiền mặt là hiệu quả và hợp lý nhất. Khả năng thanh toán của công ty Technoimport Việc dự trữ một lượng vốn tiền mặt nói riêng và tình hình vốn lưu động nói chung có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của công ty. Trong nền kinh tế thị trường, các đối tác kinh doanh, nhất là các bạn hàng thường xuyên quan tâm đến khả năng thanh toán để xem xét và đưa ra các quyết định tài chính khi quan hệ với doanh nghiệp. Đối với công ty technoimport việc xem xét khả năng thanh toán còn có ý nghĩa trong việc đánh giá và điều chỉnh lại tình hình tài chính của mình sao cho đảm bảo khả năng thanh toán tốt hơn cũng như đảm bảo về sự lành mạnh taì chính của công ty. Căn cứ vào số liệu bảng 2( vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty trong những năm gần đây) và bảng 4(tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty Technoimport). Ta có thể xét về khả năng thanh toán của công ty qua một số chỉ tiêu sau: Tổng tài sản + Hệ số thanh toán tổng quát = Nợ ngắn hạn và nợ dài hạn 122.800.226 Hệ số TTTQ năm 2000 = = 1,35 > 1 lần 90.817.715 129.332.566 Hệ số TTTQ năm 2001 = = 1,32 > 1 lần 97.761.111 Hệ số TTTQ như trên là rất tốt, chứng tỏ tất cả các khoản huy động bên ngoài đều có tài sản đảm bảo. Hệ số TTTQ năm 2001 có giảm so với năm 2000. Là do trong năm 2001 công ty đã huy động thêm vốn từ bên ngoài là: 97.761.111 - 90.817.715 = 6.943.396(ngđ) Trong khi tài sản chỉ tăng: 129.332.566 - 122.800.226 = 6.532.340(ngđ) TSLĐ và ĐTNH + Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn = Tổng nợ ngắn hạn 118.072.714 Khả năng thanh toán nợ NH năm 2000 = = 1,3 90.817.715 124.594.497 Khả năng thanh toán nợ NH năm 2001 = = 1,27 97.761.111 Như vậy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn năm 2001 có thấp hơn năm 2000, nhưng vẫn có thể coi là an toàn, bởi vì vào năm 2001 công ty chỉ cần giải phóng 1/1,27 = 78,74% số tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn hiện có là đủ thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên không phải hệ số này càng lớn càng tốt, vì khi đó có một lượng tài sản lưu động tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng vốn không hiệu quả, vì bộ phận này không vận động, không sinh lời. Nhưng dây là doanh nghiệp thương mại do đó tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, thì hệ số này lớn và ngược lại. Khi đó lại có được sự hợp lý trong khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. TSLĐ và ĐTNH - vật tư hàng Hoá tồn kho + Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Tổng nợ ngắn hạn 118.072.714 - 29.304.273 Hệ số KNTTN năm 2000 = = 0,98 <1 90.833.079 124.594.497 - 23.179.999 Hệ số KNTTN năm 2001 = = 1,04> 1 97.779.368 Hệ số khả năng thanh toán nhanh năm 2001 lớn hơn năm 2000. Nhưng nhìn chung công ty gặp ít khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Vì các tài sản lưu động và đầu ngắn hạn và vật tư hàng hoá tồn kho có thể nhanh chuyển đổi thành tiền đáp ứng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Bảng 5. Tổng kết khả năng thanh toán của công ty. Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch 1. HSTTTQ 1,35 1,32 - 0,03 2. HSTTNNH 1,30 1,27 - 0,03 3. HSTT nhanh 0,98 1,04 + 0,06 2.2.3.5.Tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty Technoimport. Trong quá trình kinh doanh do nhiều nguyên nhân khác nhau thường tồn tại một khoản vốn trong quá trình thanh toán, đó là các khoản phải thu. Tỷ lệ các khoản phải thu trong các doanh nghiệp có thể khác nhau, thông thường chúng chiếm từ 15% đến 20% trên tổng tài sản của doanh nghiệp. Để xem xét tình hình quản lý các khoản phải thu của côngty là hợp lý hay không ta xét bảng sau: Qua bảng 4 và bảng 6 trên ta thấy khoản phải thu năm 2001 tăng so với năm 2000 là: 10.577.449(ngđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là: 17,29%, cụ thể: Năm 2000 tổng các khoản phải thu là: 61.187.019(ngđ) chiếm 51.82% tổng vốn lưu động. Năm 2001 tổng các khoản phải thu là: 71.764.468(ngđ) chiếm 57,60% tổng vốn lưu động. Ta xem xét cụ thể các khoản phải thu theo bảng 6. Bảng 6. Tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty. Đơn vị tính: ngđ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền Tt% Số tiền Tt% Số tiền Tỷ lệ% Các khoản phải thu 61.187.019 100 71.764.468 100 10.577.449 17,29 1. Phải thu của khách hàng 48.239.932 78,84 44.573.280 62,11 - 3.666.643 - 7,60 2.Phải trả trước cho người bán 8.369.891 11,66 8.369.891 - 3. Thuế GTGT được khấu trừ 1.136.821 1,86 2.164.931 3,02 1.028.110 90,44 4. Các khoản phải thu khác 11.810.275 19,30 16.656.365 23,21 4.846.090 41,03 Việc tăng các khoản phải thu là do ảnh hưởng của các nguyên nhân sau: Khoản phải thu của khách hàng giảm đi 3.666.643(ngđ) với tỷ lệ giảm tương ứng 7,60%. Nhưng các khoản phải thu của khách hàng lại chiếm tỷ trọng cao trong tổng các khoản phải thu. Cụ thể năm 2000 các khoản phải thu của khách hàng là: 48.239.923(ngđ) chiếm tỷ trọng 78,84% tổng các khoản phải thu. Năm 2001 các khoản phải thu của khách hàng là: 44.573.280(ngđ) chiếm tỷ trọng 62,11% tổng các khoản phải thu. Do đó công ty đã bị các khách hàng chiếm dụng một khoản vốn lớn làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm đi rõ rệt dẫn đến làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh chung của công ty. Mặt khác công ty còn phải trả trước cho người bán năm 2001 là: 8.369.891(ngđ) với tỷ trọng 11,66% tổng các khoản phải thu. Đây là do nhu cầu kinh doanh cũng như yêu cầu của người bán, nên đã hạn chế phần nào hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Để đánh giá đúng tình hình quản lý các khoản phải thu ta sử dụng một số chỉ tiêu sau: Doanh thu(thuần) + Vòng quay các khoản phải thu = Số dư bình quân các khoản phải thu 326.325.976 Vòng quay các khoản = = 4,91 (vòng) phải thu năm 2001 61.187.019 + 71.764.468 2 360 + Kỳ thu tiền trung bình = Vòng quay các khoản phải thu 360 Kỳ thu tiền trung bình năm 2001 = = 73,32(ngày) 4,91 Với các chỉ tiêu tính toán trên ta có thể rút ra một số nhận xét sau: Vòng quay các khoản phải thu năm 2001 là 4,91(vòng) nên tốc độ thu hồi các khoản phải thu là không tốt. Điều đó chứng tỏ công ty phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu(phải cấp tín dụng nhiều cho khách hàng). Tình trạng này rất rễ xảy ra sự thiếu hụt vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh của công ty. Kỳ thu tiền trung bình năm 2001 là 73,32(ngày). Đây là một biểu hiện không được tốt. Có nghĩa là gần hai tháng rưỡi công ty mới thu hồi được các khoản phải thu. Mặt khác khoản phải thu năm 2001 lại có xu hướng tăng so với năm 2000. Đây là một hạn chế lớn của công ty trong công tác thu hồi nợ. Nhưng để đánh giá chi tiết hơn về tình hình công nợ của công ty chúng ta đi sâu xem xét và so sánh giữa các khoản phải thu và các khoản phải trả của công ty. ở đây ta chỉ so sánh các khoản phải thu với các khoản phải trả mang tính chất chu kỳ, đó là những khoản không phải trả lãi. Những khoản này là: Phải trả cho người bán; phải trả phải nộp nhà nước; phải trả công nhân viên; phải trả nội bộ. Nếu ta so sánh sẽ mất đi tính sát thực với công ty. Bảng 7. Tình hình công nợ của công ty năm 2001. Đơn vị tính: ngđ Các khoản phải thu Số tiền Các khoản phải trả Số tiền 1.Các khoản phải thu của KH 44.573.280 1. Phải trả cho KH 2.033.154 2.Trả trước cho NB 8.369.891 2. Phải nộp Nhà nước - 168.032 3.Thuế GTGT được khấu trừ 2.164.930 3. Phải trả CNV 844.625 4.Các khoản phải thu khác 16.656.365 4. Phải trả phải nộp khác 22.377.405 5. Người mua trả tiền trước 32.902.795 Tổng cộng 71.764.466 Tổng cộng 57.989.947 Năm 2001 cho thấy tổng số tiền phải thu lớn hơn tổng số tiền phải trả. Chứng tỏ công ty bị chiếm dụng vốn. Số tiền bị chiếm dụng là: 13.774.519(ngđ). Nguyên nhân cụ thể: Do các khoản phải thu của khách hàng quá lớn là 44.573.280(ngđ) chủ yếu công ty bán cho khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước do đó có sự ưu đãi trong thanh toán mặt khác đó là các thiết bị có giá trị lớn khách hàng không thể thanh toán ngay. Bên cạnh các thiết bị do công ty phải nhập từ các đối tác nước ngoài nên khi nhập thiết bị công ty phải trả trước một lượng tiền nhất định cho khách hàng. Như vậy công ty đã bị người khác chiếm dụng vốn làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm xuống dẫn đến hiệu quả kinh doanh cũng giảm sút đáng kể trong năm 2001. Chủ yếu vẫn là do các khách hàng trả chậm nợ, dây dưa chiếm dụng vốn của công ty làm tăng lãi ngân hàng ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh. Tính tỷ trong tổng số tiền phải thu so với số tiền phải trả có tính chất chu kỳ ở đầu năm so với cuối kỳ cho thấy. Tổng số tiền phải thu + Tỷ trọng giữa các phải thu = so với các khoản phải trả. Tổng số tiền phải trả 61.187.019 Tỷ trọng đầu năm 2001 = x 100% = 67,37% 90.817.715 71.764.468 Tỷ trọng cuối năm 2001 = x 100% = 73,41% 97.761.111 Kết quả trên cho ta thấy. Tỷ trọng giữa các khoản phải thu so với các khoản phải trả đầu năm và cuối năm 2001 sự chênh lệch là không đáng kể. Tỷ trọng khoản phải thu so với khoản phải trả đầu năm 2001 là 67,37%. Cuối năm 2001 tỷ trọng này là: 73,41%. Vì vậy,mối quan hệ giữa khoản phải thu so với khoản phải trả cuối kỳ so với đầu năm tăng 6,04%. Như vậy cuối năm 2001 so với đầu năm 2001 ta thấy cả các khoản phải thu và các khoản phải trả đêù tăng, song tốc độ tăng của các khoản phải thu lớn hơn các khoản phải trả. Từ những số liệu tính toán trên ta thấy, công ty còn bị hạn chế trong việc thu hồi các khoản phải thu, làm cho tỷ trọng các khoản phải thu trong tổng vốn tăng lên đáng kể. Tóm lại, công ty cần phải có những biện pháp cứng rắn trong việc thu hồi nợ sao cho từng bước tăng được vòng quay các khoản phải thu và giảm được kỳ thu tiền trung bình. Có như vậy mới đảm bảo được tình hình công nợ lành mạnh, nâng cao hiệu quả quản lý các khoản phải thu nói riêng cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói chung. 2.2.3.6.Tình hình quản lý hàng tồn kho của công ty. Đây là một doanh nghiệp thương mại nên hàng tồn kho chủ yếu là sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ, mà cụ thể ở công ty Technoimport là các thiết bị nhập khẩu có giá trị lớn phục vụ cho các công trình lớn như: Các nhà máy thuỷ điện: Hoà bình, Trị an, Đa nhim, Thác bà.... Các nhà máy nhiệt điện: Phả lại, Uông bí.... Các nhà máy cơ khí: Hà nội, Cẩm phả.... Các nhà máy giấy: Bãi bằng, Tân mai.... Đây chủ yếu là tồn kho dự trữ ở dạng sản phẩm, nên việc tồn bao nhiêu lại phụ thuộc vào: Cách thức tiêu thụ sản phẩm. Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và khách hàng. Khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Để xem xét hàng tồn kho của công ty là hợp lý hay không ta trở lại xét bảng 5. Theo bảng5 (Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty) ta thấy hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn lưu động,cụ thể. Năm 2000 hàng tồn kho là 29.304.274(ngđ) chiếm tỷ trọng 24,82% tổng vốn lưu động, năm 2001 hàng tồn kho là: 23.179.999(ngđ) chiếm tỷ trọng 18,60% tổng vốn lưu động. Như vậy hàng tồn kho năm 2001 so với năm 2000 giảm đi: 6.124.275(ngđ) tỷ lệ giảm tương ứng là 20.9%. Điều này là biểu hiện tốt. Song tỷ trọng này vẫn còn khá cao, công ty cần có biện pháp sao cho việc dự trữ tồn kho đúng mức hợp lý sẽ giúp cho công ty không bị thiếu sản phẩm hàng hoá để bán, đồng thời sử dụng tiết kiệm và hợp lý vốn lưu động. 2.2.3.7. Đánh giá hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động ở công ty Technoimport. Từ những kết quả phân tích trên, ta nhận thấy rằng mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự quyết tâm cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên nên công ty Technoimport đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Công ty đã khai thác triệt để nguồn vốn hiện có và vốn đi vay, do đó doanh thu hàng năm và lợi nhuận các năm vừa qua được cải thiện đáng kể. Để biết tình hình cụ thể, ta có thể xem xét một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty Technoimport. Bảng 8. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Technoimport. Đơn vị tính: ngđ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tuyệt đối Tỷ lệ% Doanh thu thuần 1.280.318.059 326.325.976 -953.992.083 -74,51 Giá vốn hàng bán 1.267.595.355 314.832.503 -952.762.852 -75,16 Tổng mức luân chuyển 1.280.318.059 326.325.976 -953.992.083 -74,51 Lợi nhuân trước thuế 3.155.626 1.026.941 -2.128.685 -67,46 VLĐ bình quân 121.889.135 121.33.605 -555.530 -0,46 Hàng tồn kho bình quân 29.090.891 26.242.136 -2.848.755 -9,79 Số dư bình quân khoản phải thu 66,314.867 66.471.243 156.376 0,24 Số vòng quay VLĐ 10,50 2,69 -7,81 -74,38 Kỳ luân chuyển VLĐ 34,29 133,83 99,54 290,29 Số vòng quay hàng tồn kho 44,01 12,44 -31,57 -71,73 Vòng quay các khoản phải thu 19,30 4,90 - 14,40 - 74,61 Kỳ thu tiền trung bình 18,65 73,46 54,81 293,89 Mức DLVLĐ trước thuế 2,59% 0,85% -1,74% -67,18 Mức lãng phí VLĐ 90.229.132 Qua số liệu tính toán ở bảng 8 trên, ta thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty năm 2001 đạt thấp hơn năm 2000, cụ thể như sau: + Tốc độ luân chuyển VLĐ năm 2001 chậm hơn năm 2000 biểu hiện trong các chỉ tiêu sau: - Số vòng quay VLĐ giảm từ 10,5 vòng năm 2000 xuống còn 2,69 vòng năm 2001, tỷ lệ giảm tương ứng là 7,81%. - Kỳ luân chuyển VLĐ từ 34,29(ngày/vòng) năm 2000 đã tăng lên 133,83 (ngày/vòng) năm 2001, tức là tăng 99,54 ngày tỷ lệ tăng tương ứng là 290,29%. - Xét đến mức tiết kiệm hay lãng phí VLĐ. Ta thấy công ty đã sử dụng lãng phí số vốn là: 90.229.132(ngđ). Có thể nói đây là một biểu hiện không tốt trong công tác sử dụng VLĐ năm 2001 so với năm 2000. Chủ yếu là do tổng mức luân chuyển vốn giảm rất lớn năm 2001 so với năm 2000. Cụ thể năm 2000 tổng mức luân chuyển là: 1.280.318.059(ngđ), năm 2001 tổng mức luân chuyển chỉ là: 326.325.976(ngđ). Như vậy năm 2001 so với năm 2000 thì tổng mức luân chuyển đã giảm đi là: 935.992.083(ngđ) với tỷ lệ giảm tương ứng: 74,51%. đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc lãng phí VLĐ cũng như làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty. * Xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Doanh thu Hiệu quả sử dụng VLĐ = VLĐ bình quân Hiệu quả sử dụng VLĐ năm 2000 = 10,5 Hiệu quả sử dụng VLĐ năm 2001 = 2,69 Ta thấy năm 2000 cứ 1 đồng VLĐ có thể làm ra 10,5 đồng doanh thu. Năm 2001 cứ 1 đồng VLĐ chỉ có thể làm ra 2,69 đồng doanh thu. Như vậy hiệu quả sử dụng VLĐ năm 2001 đã giảm đi rõ rệt so với năm 2000 là 7,81 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là 74,38%. Hàm lượng VLĐ(hay còn gọi là mức đảm nhận VLĐ). VLĐ bình quân Hàm lượng VLĐ = Doanh thu 121.889.135 Hàm lượng VLĐ năm 2000 = = 0,095 1.280.318.059 121.333.605 Hàm lượng VLĐ năm 2001 = = 0,372 326.325.976 Kết quả trên cho thấy năm 2000 để đạt được 1 đồng doanh thu cần 0,095 đồng VLĐ, năm 2001 để đạt được 1 đồng doanh thu cần 0,372 đồng VLĐ. Như vậy để đạt 1 đồng doanh thu năm 2001 so với năm 2000 công ty cần nhiều VLĐ hơn là 0,277 đồng. Điều này cũng cho thấy hiệu quả sử dụng VLĐ năm 2001 giảm đáng kể so với năm 2000. * Xét tỷ suất lợi nhuận trước thuế VLĐ (mức DLVLĐ trước thuế) ta thấy: Mức DLVLĐ trước thuế năm 2000 = 2,59% Mức DLVLĐ trước thuế năm 2001 = 0,85% Cho thấy năm 2000 cứ 1 đồng VLĐ có thể tạo ra 0,0259 đồng lợi nhuận trước thuế. Năm 2001 cứ 1 đồng VLĐ có thể tạo ra 0,0085 đồng lợi nhuận trước thuế. Như vậy mức DL VLĐ năm 2001 giảm đi so với năm 2000 là 1,74% với tỷ lệ giảm tương ứng 67,18%. Chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ năm 2001 giảm đi so với năm 2000. 2.2.4. Những vấn đề đặt ra trong công tác tổ chức quản lý và sử dụng VLĐ ở công ty Technoimport. Cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường công ty Technoimport cũng còn gặp nhiều bỡ ngỡ trong công tác quản lý và sử dụng VLĐ. Đó là một số vấn đề cụ thể sau: + Doanh nghiệp còn thiếu về vốn do đó hàng năm luôn phải đi vay một lượng vốn lớn làm công ty phải trả nhiều lãi vay cũng như không chủ động trong việc kinh doanh, do các khoản vay chủ yếu là ngắn hạn. + Công ty chưa làm tốt công tác thanh toán và thu hồi nợ. Với mục đích là mở rộng thị phần nên công ty muốn có nhiều bạn hàng mới, chính sách tín dụng nới lỏng hơn cả về thời gian, số lượng và phạm vi. Chưa có các biện pháp cứng rắn trong việc thu hồi nợ, do đó các khách hàng vẫn thanh toán nợ chậm, dây dưa chiếm dụng vốn của công ty làm tăng lãi trả ngân hàng ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh cũng như làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. + Chất lượng nghiên cứu thị trường chưa cao cũng như công tác vận chuyển, công tác bán hàng chưa tốt đã làm cho hàng tồn kho còn nhiều do đó hiệu quả sử dụng VLĐ bị giảm đi đáng kể. + Trong việc sử dụng vốn lưu động công ty vẫn còn bị lãng phí một lượng vốn rất lớn. + Công ty chưa khai thác hết đượctiềm năng của nhân tố con người. Công tác quản lý nhân sự chủ yếu trên góc độ hành chính nên hiệu quả hoạt động kinh doanh giảm mà chi phí quản lý donh nghiệp vẫn cao. Trên đây là một số vấn đề đặt ra trong công tác quản lý và sử dụng VLĐ ở công ty Technoimport. Từ thực tế này, công ty cần nhìn nhận và đánh giá lại tình hình thực tế hoạt động kinh doanh nói chung và tình hình tổ chức quản lý, sử dụng VLĐ nói riêng để tìm ra những giải pháp hữu hiệu và cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty trong thời gian tới. đây luôn là mục tiêu mà công ty cần làm thường xuyên, hợp lý và có hiệu quả, làm được như vậy mới giúp cho công ty không ngừng phát triển, lớn mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu sao cho xứng đáng là đơn vị dẫn đầu của bộ thương mại. Chương 3. Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty technoimport. 3.1.Phương hướng, mục tiêu hoạt động kinh doanh của công ty Technoimport trong năm 2002. Trong những năm vừa qua mặc dù gặp rất nhiều khó khăn và thử thách, nhưng công ty đã đạt được những thành tựu nhất định. Trong năm 2002 này để phấn đấu trở thành “Đơn vị dẫn đầu ngành thương mại” công ty vẫn luôn lấy mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước làm phương hướng kinh doanh xuất nhập khẩu, tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm của mình nhằm phục vụ tốt hơn nữa mọi nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. đồng thời để duy trì, phát huy và dần nâng cao hiệu quả kinh doanh, công ty thường xuyên đánh giá hoạt động kinh doanh qua từng năm, qua đó rút ra những điểm thuận lợi để phát huy cũng như từng bước khắc phục những tồn tại còn vướng mắc, từ đó đưa ra phương hướng, mục tiêu hoạt động kinh doanh cụ thể cho năm tới. Ngoài ra công ty còn có các biện pháp trong tổ chức quản lý, khai thác nhiều đơn đặt hàng mới nhằm mở rộng thị trường, từ đó tạo điều kiện làm việc tốt hơn, cũng như tăng thu nhập bình quân hàng năm của cán bộ công nhân viên, đồng thời tăng đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Trong năm 2002 công ty tiếp tục nghiên cứu và tìm các phương án kinh doanh mới, để đa dạng hoá loại hình kinh doanh, tìm thêm các đối tác mới sao cho lợi ích đem lại cho công ty là nhiều nhất. Mặt khác công ty coi trọng việc đẩy nhanh việc thanh toán và thu hồi nợ để rút ngắn kỳ thu tiền trung bình, tăng vòng quay các khoản phải thu cũng như vòng quay vốn lưu động nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Cụ thể năm 2002 công ty được bộ thương mại cũng như ban giám đốc công ty đưa ra một số chỉ tiêu kế hoạch được thể hiện cụ thể dưới bảng sau: Kế hoạch năm 2002 Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật. Các khoản mục Đơn vị tính Kế hoạch I.Các khoản nộp ngân sách Triệu đồng 28.400 II.Xuất khẩu 1.Tổng kim ngạch xuất khẩu 1.000 USD 4.900 2.Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 1.000 USD 3.800 III.Nhập khẩu 1.Tổng kim ngạch nhập khẩu 1.000 USD 70.500 2.Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu 1.000 USD 70.500 IV.Tổng doanh thu Triệu đồng 257.000 Trong đó: - Bán hàng trên thị trường nội địa Triệu đồng 221.500 - Doanh thu từ xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ Triệu đồng 28.000 - Thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu lao động Triệu đồng 7.500 V.Lợi nhuận Triệu đồng 1.400 VI.Các chỉ tiêu lao động và tiền lương - Lao động định biên Người 245 - Đơn giá tiền lương Ng.đồng 14.400 - Quỹ lương tính đơn giá Triệu đồng 3.700 3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Technoimport. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty dược xem là một mục tiêu quan trọng của công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nhưng làm thế nào để tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu dộng một cách có hiệu quả nhất thì đây lại là một vấn đề lớn đòi hỏi các nhà quản lý công ty cũng như toàn thể đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty Technoimport phải không ngừng phấn đấu, nâng cao trình độ chuyên môn để nhận biết và đánh giá tình hình thực tế một cách sát thực nhất để công tác trên đạt dược hiệu quả cao nhất có thể. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh trong điều kiện khó khăn chung của các doanh nghiệp Nhà nước, cộng thêm sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các doanh nghiệp thương mại khác nhưng công ty đã thu được những thành quả đáng khích lệ, hoạt động kinh doanh liên tục có lãi, quy mô ngày càng mở rộng và đời sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đã đạt được công ty còn bộc lộ một số tồn tại trong hoạt động kinh doanh cũng như trong tác quản lý tài chính. Bằng kiến thức đã học ở nhà trường và sự tìm hiểu đánh giá của bản thân qua thực tế thực tập tại công ty, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty technoimport. 3.2.1. Cần có sự hỗ trợ của Nhà nước và sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động. Cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác, trong quá trình hoạt động kinh doanh công ty Technoimport luôn gặp khó khăn về vốn. Đặc biệt đây là một doanh nghiệp thương mại chuyên xuất nhập khẩu những thiết bị có giá tri lớn, thời gian thu hồi vốn khá lâu. Do đó đòi hỏi công ty phải luôn có một lượng vốn lớn để đáp ứng hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác các khoản vay của công ty chủ yếu là ngắn hạn, lãi suất cao nên cho dù được phép vay thì vẫn khó tìm được nguồn vốn trung và dài hạn. Bên cạnh đó những thủ tục pháp lý trong cho vay vốn của Nhà nước còn khá rườm rà, đây lại là một rào cản lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận vay vốn của các tổ chức, cá nhân một cách thường xuyên và ổn định. Vì vậy Nhà nước phải từng bước lới lỏng các thủ tục hành chính tạo điều kiện cho các công ty có thể huy động vốn từ bên ngoài. Nhà nước cũng có thể có các chính sách tín dụng ưu đãi đối với các doanh nghiệp. Có như vậy, các doanh nghiệp nói chung và công ty Technoimport nói riêng mới có cơ hội huy động vốn một cách dễ dàng hơn để đáp ứng nhu cầu vốn cũng như chớp được cơ hội đầu tư kinh doanh nhằm đem lại hiệu qủa cao nhất cho công ty. Mặt khác, cùng sự hỗ trợ một phần về vốn của Nhà nước chưa thực sự lớn, thì sự nỗ lực của bản thân công ty lại trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Công ty phải thực sự tạo được uy tín đối với các chủ nợ như trả nợ gốc và lãi đúng hạn trong hợp đồng tín dụng, hoạt động kinh doanh thường xuyên có hiệu quả... Đồng thời, công ty phải linh hoạt trong việc sử dụng các khoản vốn mà công ty đã chiếm dụng được như: Phải trả khách hàng, phải trả công nhân viên, người mua trả trước.... Tuy nhiên để sử dụng các khoản vốn này có hiệu quả thì công ty phải tuân thủ nguyên tắc không quá lạm dụng dẫn đến tình trạng người bán kiện tụng và công nhân viên đình công...gây mất uy tín của công ty. Công ty phải hoàn trả các khoản đó đúng hạn và liên tục để giữ uy tín với khách hàng và công nhân viên... có như vậy mới thực sự nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động một cách lâu dài và ổn định. Đối với các khoản công ty vay ngân hàng(vay ngắn hạn ngân hàng năm 2001 là 39.789.419(ngđ) chiếm 40,69% trong tổng nợ ngắn hạn). Với khoản vay này công ty phải trả lãi hàng tháng theo thời gian sử dụng và khi hết hạn nợ thì công ty phải có trách nhiệm thanh toán với ngân hàng. Như vậy công ty cần chủ động trong việc thanh toán tiền gốc và lãi đối với ngân hàng khi đến hạn để giữ uy tín của công ty. Vì vậy công ty cần triệt để tận dụng các khoản vốn chiếm dụng được để hạn chế các khoản vay ngắn hạn ngân hàng từ đó làm giảm bớt lãi vay phải trả sao cho chi phí sử dụng vốn bình quân là thấp nhất và từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. 3.2.2. Tổ chức tốt công tác thanh toán và thu hồi nợ. Như đã phân tích ở trên, trong năm 2001 công ty chưa làm tốt công tác thanh toán và thu hồi nợ, công ty còn bị chiếm dụng vốn nhiều mà chủ yếu nằm ở các khoản phải thu của khách hàng và các khoản phải thu khác. Năm 2000 khoản phải thu của khách hàng là: 48.239.923(ngđ) chiếm tỷ trọng 78,84% tổng các khoản phải thu,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12068.DOC
Tài liệu liên quan