Đề tài Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Điện lực I

Tài liệu Đề tài Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Điện lực I: Lời nói đầu Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi tư cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường cơ sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi đó ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội. Cũng là lúc có sự ra đời của hàng loạt các loại hình doanh nghiệp mới như Công ty TNHH... Nền kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt hơn do cung lớn hơn cầu. Do vậy, để thích ứng với điều kiện mới mỗi doanh nghiệp phải tìm một con đường đúng đắn nhất. Muốn thực hiện được điều đó doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tăng đến mức tối đa lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Vì lợi nhuận được coi là mục tiêu hàng đầu của bất cứ một doanh nghiệp nào. Lợi nhuận là biểu hiện của hiệu quả sản xuất kinh doanh, là việc hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Do vậy quản lý và sử dụng vốn sao cho hợp lý, có hiệu quả nhất và việc tạo lập vốn kinh doanh là vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp nó góp phần tạo nên lợi nhuận để thực hiện quá trình tái sản x...

doc61 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1034 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Điện lực I, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi tư cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường cơ sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi đó ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội. Cũng là lúc có sự ra đời của hàng loạt các loại hình doanh nghiệp mới như Công ty TNHH... Nền kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt hơn do cung lớn hơn cầu. Do vậy, để thích ứng với điều kiện mới mỗi doanh nghiệp phải tìm một con đường đúng đắn nhất. Muốn thực hiện được điều đó doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tăng đến mức tối đa lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Vì lợi nhuận được coi là mục tiêu hàng đầu của bất cứ một doanh nghiệp nào. Lợi nhuận là biểu hiện của hiệu quả sản xuất kinh doanh, là việc hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Do vậy quản lý và sử dụng vốn sao cho hợp lý, có hiệu quả nhất và việc tạo lập vốn kinh doanh là vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp nó góp phần tạo nên lợi nhuận để thực hiện quá trình tái sản xuất, mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh, đồng thời nâng cao đời sống cho người lao động trong doanh nghiệp. Và hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp có vai trò rất lớn đối với sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế đất nước. Là doanh nghiệp Nhà nước nên có sự thuận lợi về vốn ban đầu do Ngân sách Nhà nước cấp và doanh nghiệp Nhà nước có quyền sử dụng vốn vào mục đích sử dụng sản xuất kinh doanh theo định hướng của Nhà nước. Quá trình sản xuất kinh doanh cũng là quá trình hoàn thành phân phối và sử dụng vốn kinh doanh. Là Công ty sản xuất điện thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam. Công ty điện lực I chuyên sản xuất điện đến các hộ tiêu dùng. Tình hình vốn cố định và Vốn lưu động nói riêng của Công ty cũng hạn hẹp vì vậy sử dụng vốn có hiệu quả như thế nào cho hiệu quả luôn là điều cần giải quyết đối với các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý của Công ty. Điều đó luôn đòi hỏi Công ty luôn phấn đấu không ngừng về đầu tư vốn để phát triển, sản xuất. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề về vốn kinh doanh trong thời gian thực tập ở Công ty, thông qua việc tìm hiểu thực tế của công ty nói riêng em mạnh dạn trình bày chuyên đề: “Vốn kinh doanh và những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Điện lực I”. Nội dung gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung Chương II: Tình hình tổ chức và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Điện lực I. Chương III: Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Điện lực I. Trong thời gian thực tập tại Công ty Điện lực I Hà Nội các cán bộ phòng Tài chính - Kế toán của Công ty đã tạo điều kiện cho em được học hỏi và bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế. Em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc Công ty Điện lực I Hà Nội và các cán bộ nhân viên phòng Tài chính - Kế toán đã giúp dỡ và tạo điều kiện cho em trong thời gian thực tập để hoàn thành tốt đề tài báo cáo. Đồng thời em cũng xin cảm ơn thầy Đào Duy Hưng là thầy giáo bộ môn Tài chính - Kế toán của trường Tài chính - Kế toán Hà Nội đã nhiệt tình chỉ bảo hướng dẫn khi em làm đề tài báo cáo này. Do thời gian thực tập có hạn, mặc dù đã có sự hướng dẫn giúp đỡ song đề tài báo cáo thực tập của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý phê bình của thầy cô của trường Tài chính - Kế toán Hà Nội, các cán bộ nhân viên phòng Tài chính - Kế toán của Công ty Điện lực I để em hoàn thiện hơn về chuyên đề thực tập của mình Em xin chân thành cảm ơn! Chương I Những vấn đề chung 1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: 1.1.Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh: Theo Điều 3 luật doanh nghiệp năm 1999, doanh nghiệp là tổ kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, một chủ thể muốn trở thành DN phải hội tụ đủ các đặc trưng sau: - Có đầy đủ các đặc điểm của chủ thể kinh doanh (có VKD, có hành vi kinh doanh, được đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước) - Phải là một tổ chức, nghĩa là một thực thể pháp lý được kết hợp bởi các yếu tố trên nhiều phương diện (có tên riêng, có tài sản, trụ ổn định, con dấu riêng...) - Doanh nghiệp không phải là một tổ chức chính trị hay xã hội mà là một tổ chức kinh tế, nghĩa là tổ chức đó phải lấy hoạt động sản xuất kinh doanh làm chủ yếu và hoạt động này phải có tính liên tục. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã thực hiện chính sách đa dạng hoá các thành phần kinh tế. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một loại hình doanh nghiệp nhất định. Các DN đều phải tiến hành hạch toán kinh doanh là lấy thu bù chi đảm bảo có lãi, các doanh nghiệp có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trước pháp luật. 1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay thành công hay thất bại phần lớn phụ thuộc vào tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mô hình tổ chức doanh nghiệp không nên xem xét ở trạng thái tĩnh mà nó luôn luôn ở trạng thái vận động. Tuỳ những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà có những mô hình tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, các mô hình tổ chức doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ yếu sau đây: 1.2.1. Hình thức pháp lý tổ chức của các doanh nghiệp: Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện có các loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau đây: Doanh nghiệp Nhà nước Công ty cổ phần Công ty trách nhiệm hữu hạn Doanh nghiệp tư nhân Những đặc điểm riêng về mặt hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các doanh nghiệp trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức tài chính của DN như: Tổ chức và huy động vốn - Phân phối lợi nhuận Dưới đây xem xét việc tổ chức quản lý của một số doanh nghiệp phổ biến: 1.2.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh, hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập được ngân sách nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, DNNN được quyền huy động vốn dưới hình thức như phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết liên doanh và các hình thức sở hữu của DN và phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp) được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn doanh nghiệp quản lý. Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp nhà nước chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. 1.2.1.2. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một công ty trong đó: - Các thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ phần để hoạt động. - Số vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần - Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. - Cổ đông có quyền tự do chuyện nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp có quy định của pháp luật. - Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ động tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần các đặc điểm: + Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý có tư cách pháp nhân, các thành viên góp vốn vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Trong quá trình hoạt động, công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mới để huy động thêm vốn (nếu có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo luật định) điều đó tạo cho công ty có thể dễ dàng tăng thêm vốn chủ sở hữu trong kinh doanh. + Các chủ sở hữu có thể chuyển quyền sở hữu về tài sản của mình cho người khác mà không làm gián đoạn các hoạt động kinh doanh của công ty và có quyền hưởng lợi tức cổ phần, quyền biểu quyết, quyền tham dự và bầu Hội đồng quản trị. + Quyền phân chia lợi tức sau thuế thuộc các thành viên của công ty quyết định. + Chủ sở hữu của công ty chỉ chịu TNHH trên phần vốn mà họ góp vào công ty. 1.2.1.3.Công ty trách nhiệm hữu hạn: Theo Luật doanh nghiệp hiện hành ở nước ta, có hai dạng công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. - Công ty TNHH (có hai thành viên trở lên) là doanh nghiệp trong đó: + Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vốn vào doanh nghiệp. + Phần vốn góp của các thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật (theo quy định tại điều 32 – Luật doanh nghiệp). + Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên theo quy định của pháp luật. Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Ngoài phần vốn góp vốn của thành viên, công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn theo quy định của pháp luật nhưng không được quyền phát hành cổ phiếu. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp, nhưng trước hết phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty. Chỉ được chuyển nhượng có người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết. Thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình, nếu thành viên đó bỏ phiếu chống hoặc phản đối bằng văn bản đối với quyết định của Hội đồng thành viên về các vấn đề: Tổ chức lại công ty Các trường hợp khác quy định tại điều lệ công ty. Trong quá trình hoạt động, theo quyết định của Hội đồng thành viên,công ty có thể tăng hoặc giảm vốn theo qui định của pháp luật. Hội đồng thành viên của công ty quyết định phương án sử dụng và phân chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty. - Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp. Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, tuy nhiên công ty không được quyền phát hành cổ phiếu. Chủ sở hữu công ty không trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào công ty, chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Chủ sở hữu công ty là người quyết định sử dụng lợi nhuận sau thuế. 1.2.1.4. Doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân là người bỏ vốn đầu tư của mình và cũng có thể huy động thêm vốn từ bên ngoài dưới hình thức đi vay. Trong khuôn khổ của luật pháp, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên loại hình doanh nghiệp này không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn trên thị trường. Qua đó cho thấy nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân là hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp này thường thích hợp với kinh doanh quy mô nhỏ. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình, có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác hoặc có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Việc thực hiện cho thuê hay bán doanh nghiệp hoặc tạm ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu của của pháp luật hiện hành. Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt tài chính chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Đây cũng là một điều bất lợi của loại hình doanh nghiệp này. 1.2.1.5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam gồm có doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn nhằm thực hiện các mục tiêu chung là tìm kiếm lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, tổ chức và hoạt động theo quy chế của công ty trách nhiệm hữu hạn và tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh có đặc điểm: Phần vốn góp của bên ngoài vào vốn pháp định không hạn chế ở mức tối đa nhưng lại hạn chế ở mức tối thiểu, tức là không được thấp hơn 30% của vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định. Việc góp vốn của các bên tham gia có thể bằng tiền nước ngoài, tiền Việt Nam, tài sản hiện vật, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, giá trị quyền sử dụng đất, các nguồn tài nguyên thiên nhiên...theo quy định của pháp luật tại Việt Nam (có quy định cụ thể cho mỗi bên nước ngoài và Việt Nam). Các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng giá trị phần vốn của mình, nhưng phải ưu tiên chuyển nhượng cho các bên trong liên doanh. Lợi nhuận sau thuế thu nhập của doanh nghiệp liên doanh được trích lập quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng. Việc các nhà đầu tư nước ngoài có lợi nhuận và muốn chuyển số lợi nhuận đó về nước họ thì phải nộp một khoản thuế về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài tuỳ thuộc vào mức vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài: là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thành lập tại Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài quy định trên cơ sở quy chế pháp lý về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. 1.2.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh: Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật khác nhau. Những ảnh hưởng đó thể hiện: 1.2.2.1. ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh: ảnh hưởng này thể hiện trong thành phần cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất – kinh doanh, cũng như tỷ lệ thích ứng để hình thành và sử dụng chúng, do đó có ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn (vốn cố định và vốn lưu động), ảnh hưởng tới phương pháp đầu tư, thể thức thanh toán chi trả. 1.2.2.2. ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất - kinh doanh: Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất có ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu vốn sử dụng và doanh thu tiêu thu sản phẩm. Những doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ ngắn thì nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, doanh nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp dễ đàng đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền, cũng như trong việc tổ chức và đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu kinh doanh. Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài phải ứng ra một lượng vốn lưu động giữa các quý trong năm thường có sự biến động lớn, tiền thu về bán hàng cũng không được đều, tình hình thanh toán, chi trả cũng thường gặp những khó khăn. Cho nên việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng như đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền của doanh nghiệp cũng khó khăn hơn. 1.2.2.3. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp: Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động của doanh nghiệp trong đó có hoạt động tài chính. Dưới đây chủ yếu xem xét tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động tài chính doanh nghiệp. - Sự ổn định của nền kinh tế: - Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế, của thị trường có ảnh hưởng trực tiếp tới mức doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu về vốn kinh doanh. Những tác động của nền kinh tế có thể gây nên những rủi ro trong kinh doanh mà các nhà tài chính doanh nghiệp phải lường trước, những rủi ro đó ảnh hưởng tới các khoản chi phí về đầu tư, chi phí trả lãi hay tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị hay việc tìm nguồn vốn tài trợ. - Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng tới một tốc độ nào đó thì doanh nghiệp muốn duy trì và giữ vững vị trí của mình, cũng phải phấn đấu để phát triển với nhịp độ tương đương. Khi doanh thu tăng lên, sẽ đưa đến việc gia tăng tài sản, các nguồn doanh nghiệp và các loại tài sản khác. Khi đó, các nhà tài chính doanh nghiệp phải tìm nguồn tài trợ cho sự mở rộng sản xuất, sự tăng tài sản đó. - ảnh hưởng của giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế: - Giá cả thị trường, giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp tiêu thu có ảnh hưởng lớn tới doanh thu do đó ảnh hưởng lớn tới khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng nếu có sự thay đổi về giá cả. Sự tăng, giảm lãi suất và giá cổ phiếu cũng ảnh tới sự tăng giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của các hình thức tài trợ khác nhau. Mức lãi suất cũng là một yếu tố đo lường khả năng huy động vốn vay. Sự tăng hay giảm thuế cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình kinh doanh, tới khả năng tiếp tục đầu tư hay rút khỏi đầu tư. - Tất cả các yếu tốt trên có thể được các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp sử dụng để phân tích các hình thức tài trợ và xác định thời gian tìm kiếm các nguồn vốn trên thị trường tài chính. - Sự cạnh tranh trên thị trường và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ: - Sự cạnh tranh về sản phẩm đang sản xuất và các sản phẩm tương lai giữa các doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn tới kinh tế, tài chính của doanh nghiệp và có liên quanh chặt chẽ đến khả năng tài trợ để doanh nghiệp tồn taị và tăng trưởng trong một nền kinh tế luôn luôn biến đổi và người giám đốc tài chính phải chịu trách nhiệm về việc cho doanh nghiệp hoạt động khi cần thiết. - Cũng tương tự như vậy, sự tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp phải ra sức cải tiến kỹ thuật, quản lý, xem xét và đánh giá lại toàn bộ tình hình tài chính, khả năng thích ứng với thị trường, từ đó đề ra những chính sách thích hợp cho doanh nghiệp. - Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp: Như chính sách khuiyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách xuất khẩu, nhập khẩu, chế độ khấu hao tài sản cố định... Đây là những yếu tố tác động lớn đến các vấn đề tài chính của doanh nghiệp. - Sự hoạt động của thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức tài chính trung gian: - Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà doanh nghiệp có thể huy động vốn hay đầu tư những khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi. Sự phát triển của thị trường tài chính làm nảy sinh các công cụ tài chính mới, doanh nghiệp có thể sư dụng để huy động vốn đầu tư. Chẳng hạn, khi xuất hiện hình thức thuê tài chính, doanh nghiệp có thể nhờ đó giảm bớt được số vốn cần đầu tư hoặc khi hình thành thị trường chứng khoán, doanh nghiệp có thêm phương tiện để huy động vốn hay đầu tư vốn...Sự phát phát triển và hoạt động có hiệu quả của các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ tín dụng...cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động vốn. - Khi xem xét tác động của môi trường kinh doanh, không chỉ xem xét ở phạm vi trong nước mà cần phân tích đánh giá cả môi trường khu vực và thế giới, vì biến động về kinh tế - tài chính trong khu vực và trên thế giới tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của một nước. 2. Vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp: 2.1. Vốn kinh doanh: 2.1.1. Khái niệm về vốn kinh doanh: Để tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng cần phải có vốn. Vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định đến quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời. Khi phân tích hình thái biểu hiện và sự vận động của vốn kinh doanh, cho thấy những đặc điểm nổi bật sau: - Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt. Mục tiêu của quỹ là để phục vụ cho sản xuất - kinh doanh tức là mục đích tích luỹ, không phải là mục đích tiêu dùng như một vài quỹ khác trong doanh nghiệp. - Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất - kinh doanh. - Vốn kinh doanh của doanh nghiệp sau khi ứng ra, được sử dụng vào kinh doanh và sau mỗi chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho kỳ hoạt động sau. - Vốn kinh doanh không thể mất đi. Mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với nguy cơ phá sản. Cần thấy rằng có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Thông thường có tiền sẽ làm nên vốn, nhưng tiền chưa hẳn là vốn. Tiền được gọi là vốn phải đồng thời thoả mãn những điều kiện sau: - Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định. Hay nói cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực. - Hai là: Tiền phải được tích tụ và tập trung ở một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung lượng tiền đến hạn độ nào đó mới làm cho nó đủ sức để đầu tư vào một dự án kinh doanh nhất định. - Ba là: Khi tiền đủ lượng phải được vận động nhằm mục đích kiếm lời. Cách thức vận động của tiền là doanh nghiệp phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Phương thức đầu tư của một doanh nghiệp, có thể bao gồm: + Đối với đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, công thức vận động của vốn như sau: TLSX T - H ...SX...H’ - T’ SLĐ + Đối với đầu tư cho lĩnh vực thương mại, công thức đơn giản hơn: T - H - T’ + Đối với đầu tư mua trái phiếu hoặc cổ phiếu, góp vốn liên doanh thì công thức vận động là: T - T’ 2.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh: - Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên muốn có được lượng vốn đó, các doanh nghiệp phải chủ động khai thác, thu hút vốn trên thị trường. - Mục đích vận động của tiền vốn là sinh lời. Nghĩa là vốn ứng trước cho hoạt động sản xuất - kinh doanh phải được thu hồi về sau mỗi chu kỳ sản xuất, tiền vốn thu hồi về phải lớn hơn số vốn đã bỏ ra. 2.2. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp: 2.2.1.Căn cứ vào mối quan hệ sở hữu về vốn: 2.2.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạn, bao gồm: vốn điều lệ, vốn tự bổ sung, vốn doanh nghiệp nhà nước tài trợ (nếu có). Trong đó: - Nguồn vốn điều lệ: Trong các doanh nghiệp tư nhân vốn đầu tư ban đầu do chủ sở hữu đầu tư. Trong các doanh nghiệp Nhà nước vốn đầu tư ban đầu do Nhà nước cấp một phần (hoặc toàn bộ) - Nguồn vốn tự bổ sung: bao gồm tất cả các nguồn vốn mà doanh nghiệp tự bổ sung từ nội bộ doanh nghiệp như từ lợi nhuận để lại, quỹ khấu hao, các quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Nguồn vốn chủ sở hữu là một nguồn vốn quan trọng và có tính ổn định cao, thể hiện quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng của nguồn vốn này trong cơ cấu nguồn vốn càng lớn, sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Vốn CSH tại = Tổng - Nợ phải 1 thời điểm NV trả 2.2.1.2. Nợ phải trả: Là tất cả các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế, bao gồm: - Nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp: Trong quá trình SXKD của doanh nghiệp đương nhiên phát sinh các quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với các tác nhân kinh tế khác như với Nhà nước, với CBCNV, với khách hàng, với người bán từ đó mà phát sinh vốn chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng. Thuộc về vốn chiếm dụng hợp pháp có các khoản vốn sau: + Các khoản nợ khách hàng chưa đến hạn trả. + Các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước chưa đến hạn nộp. + Các khoản phải thanh toán với CBCNV chưa đến hạn thanh toán. Nguồn vốn chiếm dụng chỉ mang tính chất tạm thời, doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng trong thời gian ngắn nhưng vì nó có ưu điểm nổi bật là doanh nghiệp không phải trả chi phí sử dụng vốn, đòn bẩy tài chính luôn dương, nên trong thực tế doanh nghiệp nên triệt để tận dụng nguồn vốn này trong giới hạn cho phép nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mà vẫn đảm bảo kỷ luật thanh toán. - Các khoản nợ vay: bao gồm toàn bộ vốn vay ngắn - trung - dài hạn ngân hàng, nợ trái phiếu và các khoản nợ khác. Thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động SXKD. Sự kết hợp giữa hai nguồn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động cũng như quyết định tài chính của người quản lý trên cơ sở điều kiện thực tế của doanh nghiệp. Làm thế nào để lựa chọn được một cơ cấu tài chính tối ưu? Đó là câu hỏi luôn làm trăn trở các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp bởi sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự khôn ngoan hay khờ dại của doanh nghiệp đó khi lựa chọn cơ cấu tài chính. 2.2.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn: 2.2.2.1. Nguồn vốn thường xuyên: Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời gian dài, bao gồm: Nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn. Nguồn vốn này thường được sử dụng để đầu tư TSCĐ và một bộ phận TSLĐ thường xuyên, cần thiết. 2.2.2.2. Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu về vốn có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, lập kế hoạch tài chính và hình thành những dự định về tổ chức vốn một trong tương lai. 2.2.3. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn: 2.2.3.1. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động được từ bản thân doanh nghiệp bao gồm: tiền khấu hao TSCĐ, lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, thu từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ. 2.2.3.2. Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài gồm: vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, vốn liên doanh liên kết, vốn huy động từ phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. 2.3. Quản lý và sử dụng vốn kinh doanh: 2.3.1. Vốn cố định: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư bên trong ứng trước về tài sản cố định của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất - kinh doanh được cũng phải có đủ 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Tư liệu lao động: là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, nó góp phần quyết định đến năng suất lao động. Tư liệu lao động trong các doanh nghiệp bao gồm những công cụ lao động mà thông qua chúng người lao động sử dụng lao động của mình tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm (máy móc thiết bị, công cụ làm việc...) và những phương tiện làm việc cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất – kinh doanh bình thường (như nhà xưởng, công trình kiến trúc...) Để thuận tiện cho việc quản lý tài sản người ta chia tư liệu lao động thành 2 bộ phận: tài sản cố định và công cụ lao động nhỏ. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị đơn vị lớn và thời hạn sử dụng lâu. Về mặt thời gian sử dụng thì hầu hết các quốc gia đều áp dụng là trên một năm, về mặt giá trị đơn vị thì tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia vận dụng cho phù hợp trong từng giai đoạn nhất định. Ví dụ: ở nước ta giai đoạn 1990 đến 1996 giá trị đơn vị được quy định là 500.000 VNĐ trở lên, từ năm 1997 đến nay được điều chỉnh thành 5.000.000 VNĐ trở lên. Ngoài ra những tư liệu lao động nào mà không hội đủ 2 điều kiện nói trên được gọi là công cụ lao động nhỏ và do doanh nghiệp nguồn vốn lưu động tài trợ. Tài sản cố định là một bộ phận của tư liệu lao động cho nên đặc điểm vật chất của tài sản cố định cũng chính là đặc điểm của tư liệu lao động. Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất - kinh doanh, bị hao mòn dần nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu và giá trị của nó cũng giảm dần tương ứng với mức độ hao mòn của tài sản cố định. Từ những phân tích trên đây có thể thấy: tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, có thời gian sử dụng lâu và có giá trị đơn vị lớn. Đặc điểm chung nhất của chúng là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và không thay đổi hình thái vật chất ban đầu. Trong quá trình đó tài sản cố định bị hao mòn dần và giá trị của nó giảm dần tương ứng, phần giá trị này được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm mới mà nó tham gia sản xuất ra. Mặc dù tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật trong suốt thời gian sử dụng, song năng lực sản xuất cũng giảm sút dần do chúng bị hao mòn trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất. Hao mòn tài sản cố định được phân thành 2 loại: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. + Hao mòn hữu hình của tài sản cố định: là sự hao mòn về mặt vật chất làm giảm dần giá trị và giá trị sử dụng của tài sản cố định, doanh nghiệp tác động của các yếu tố tự nhiên gây ra hoặc khi tài sản cố định tham gia vào hoạt động sản xuất thì bị cọ xát, mài mòn dần. Trong trường hợp do quá trình sử dụng, mức độ hao mòn của tài sản cố định tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng chúng vào sản xuất - kinh doanh. Mặt khác cho dù tài sản cố định không sử dụng chúng cũng bị hao mòn do tác động của các yếu tố tự nhiên: độ ẩm, khí hậu, thời tiết...làm cho tài sản cố định bị han rỉ, mục nát dần. Trong trường hợp này, mức độ hao mòn của tài sản cố định nhiều hay ít phụ thuộc vào công tác bảo dưỡng, bảo quản tài sản cố định của doanh nghiệp. + Hao mòn vô hình: là loại hao mòn về mặt giá trị, làm giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định (còn gọi là sự mất giá của tài sản cố định). Nguyên nhân dẫn đến hao mòn vô hình của tài sản cố định không phải do chúng sử dụng ít hay nhiều trong sản xuất, mà là do những tài sản cố định cùng loại mới được sản xuất ra có giá rẻ hơn hay hiện đại hơn hoặc doanh nghiệp chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm làm cho tài sản cố định trở nên không cần dùng hoặc giảm giá. Để có nguồn vốn đầu tư cho tài sản cố định mới, yêu cầu phải có phương thức thu hồi vốn khi tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất. Phương thức này goi là khấu hao tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định là một phương thức thu hồi vốn cố định bằng cách bù đắp phần giá trị tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất - kinh doanh nhằm tái tạo lại vốn cố định đảm bảo quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả. Như vậy vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ. Đặc điểm của vốn cố định là luân chuyển dần dần từng bộ phận tương ứng với giá trị hao mòn của TSCĐ, khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng vốn cố định mới được thu hồi đầy đủ và kết thúc một lần tuần hoàn vốn. Quản lý vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Từ những nghiên cứu về tài sản cố định trên đây, cho thấy việc bảo toàn và phát triển vốn cố định là nội dung cần quan tâm của người làm công tác tài chính. Bảo toàn vốn cố định là việc duy trì lượng vốn cố định thực chất ở các thời điểm sau ngang bằng với thời điểm ban đầu. Phát triển vốn cố định là làm cho vốn cố định thực chất ở các thời kỳ càng về sau càng lớn hơn thời kỳ trước. Để bảo toàn và phát triển vốn cố định của doanh nghiệp cần thiết phải sử dụng các biện pháp chủ yếu sau đây: - Phải đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác. - Phải lựa chọn các phương pháp khấu hao mức khấu hao thích hợp. - Phải áp dụng biện pháp nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định như: tận dụng hết công suất máy móc thiết bị, giảm thời gian ngừng hoạt động, có chế độ sửa chữa thường xuyên, định kỳ. - Dự phòng giảm giá TSCĐ: để dự phòng giảm giá TSCĐ, doanh nghiệp được trích khoản dự phòng này vào giá thành. Nếu cuối năm không sử dụng đến thì khoản dự phòng này được hoàn nhập trở lại. 2.3.2. Vốn lưu động: Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận vốn đầu tư được ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp thực hiện được thường xuyên và liên tục. Như đã phân tích phần trên, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Song mỗi yếu tố sản xuất có những đặc điểm hoạt động khác nhau, có công dụng kinh tế khác nhau đối với quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động là bộ phận của vốn nhằm tài trợ cho các yếu tố sản xuất ngoại trừ tài sản cố định. Nếu cắt quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp ra từng chu kỳ sản xuất chúng ta có thể mô tả theo mô hình sau:  Khâu dự trữ Khâu trực tiếp sản xuất Khâu lưu thông - Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất: vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối tượng lao động như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế... ở giai đoạn này vốn đã thay đổi từ hình thái tiền tệ sang vật tư. - Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất: là quá trình sử dụng các yếu tố sản xuất để chế tạo ra sản phẩm. Khi quá trình sản xuất chưa hoàn thành, vốn lưu động biểu hiện ở các loại sản phẩm dở dang hoặc bán thành phẩm và khi kết thúc quá trình sản xuất vốn biểu hiện ở số thành phẩm của doanh nghiệp. - Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: lúc này hình thái hàng hoá được chuyển thành hình thái tiền tệ. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của tài sản lưu động cũng khác nhau. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh thì tài sản lưu động thường được cấu tạo bởi hai phần là tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông. - Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... và tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm dở dang đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế, chi phí đợi phân bổ. - Tài sản lưu thông của doanh nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ (hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản phải thu. Dù là ở khâu nào, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông đều thể hiện các yếu tố: đối tượng lao động, công cụ lao động nhỏ và sức lao động. Đặc điểm vận động của chúng do đặc điểm của đối tượng lao động quyết định, vì đây là bộ phận chính chiếm tỷ trọng ưu thế. Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm, theo đó giá trị của nó cũng được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm tiêu thụ và hoàn thành một vòng tuần hoàn vốn khi kết thúc một chu kỳ tái sản xuất. Cũng cần thấy rằng, các chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp là nối tiếp và xen kẽ nhau chứ không phải là độc lập và rời rạc. Trong khi một bộ phận của vốn lưu động được chuyển hoá thành vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang thì một bộ phận khác của vốn lại chuyển từ sản phẩm hàng hoá sang vốn tiền tệ do quá trình sản xuất của doanh nghiệp là thường xuyên, liên tục. Điều này nhắc nhở những nhà quản lý tài chính cần xây dựng những biện pháp thích hợp cho quản lý sử dụng và bảo toàn vốn lưu động. Sau đây là những nội dung cần chú ý trong quản lý sử dụng vốn lưu động. Một là: Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc ước lượng chính xác số vốn lưu động cần dùng cho doanh nghiệp sẽ có tác dụng đảm bảo đủ vốn lưu động cần thiết, tối thiểu cho quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến hành liên tục, đồng thời tránh ứ đọng vốn không cần thiết, thúc đẩy tốc độ luân cguyển vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hai là: Tổ chức khai thác nguồn tài trợ vốn lưu động. Trước hết doanh nghiệp cần khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên trong hoạt động kinh doanh. Nếu số vốn lưu động còn thiếu, doanh nghiệp phải tiếp tục khai thác các nguồn vốn bên ngoài như: vốn liên doanh, vốn vay của các ngân hàng hoặc các công ty tài chính, vốn do phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Khi khai thác các nguồn vốn bên ngoài, điều đáng chú ý nhất là cân nhắc các yếu tố lãi suất tiền vay. Về nguyên tắc, lãi do đầu tư vốn phải lớn hơn lãi suất vay vốn thì người kinh doanh mới đi vay vốn. Ba là: Phải luôn luôn có những biện pháp bảo toàn và phát triển vốn lưu động. Cũng như vốn cố định, bảo toàn vốn lưu động có nghĩa là bảo toàn giá trị thực của vốn, nói cách khác bảo toàn vốn là đảm bảo được sức mua của vốn không được giảm sút so với ban đầu. Điều này được thể hiện qua khả năng mua sắm tài sản lưu động và khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong kinh doanh. Để thực hiện được mục tiêu trên, trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp thường áp dụng các biện pháp tổng hợp như: đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, xử lý kịp thời các vật tư, hàng hoá chậm luân chuyển để giải phóng vốn, phải thường xuyên xác định phần chênh lệch giá về những tài sản lưu động tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, linh hoạt trong việc sử dụng vốn. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, bảo toàn vốn, doanh nghiệp cần hết sức tránh và xử lý kịp thời những khoản nợ khó đòi, tiến hành áp dụng các biện pháp hoạt động của tín dụng thương mại để ngăn chặn các hiện tượng chiếm dụng vốn. Bốn là: Phải thường xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động. Để phân tích người ta sử dụng các chỉ tiêu như: vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng vốn lưu động, hệ số nợ... Nhờ các chỉ tiêu trên đây, người quản lý có thể điều chỉnh kịp thời các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm tăng mức doanh lợi. 2.3.3. Vốn đầu tư tài chính: Vốn đầu tư tài chính còn gọi là vốn đầu tư ra bên ngoài của doanh nghiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận và khả năng đảm bảo an toàn về vốn. Xuất phát từ quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, làm cho các doanh nghiệp luôn đứng trước nguy cơ phá sản nếu như họ chỉ có một lĩnh vực đầu tư bên trong lại đang gặp bất lợi. Để đối phó với tình hình trên, việc sử dụng vốn linh hoạt cho nhiều mục tiêu đầu tư sẽ cho phép doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận từ nhiều phía cũng như nhằm phân tán rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: doanh nghiệp bỏ vốn để mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác, hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường hợp nhờ đầu tư tài chính ra bên ngoài mà các doanh nghiệp có thể tự tháo gỡ những khó khăn bên trong, tránh nguy cơ phá sản, thay vì một hướng đầu tư đang gặp bất lợi chuyển sang một lĩnh vực kinh doanh mới khả quan hơn. Đó cũng là một giải pháp để kéo dài chu kỳ sống của một doanh nghiệp. Trong khi phân tích những ưu thế của việc đầu tư ra bên ngoài cũng không nên quên những hạn chế của hình thức đầu tư này. Điều quan trọng nhất khi đi tới quyết định đầu tư tài chính ra bên ngoài là cần hết sức cân nhắc độ an toàn và tin cậy của dự án. Vì thế, nhà kinh doanh phải am hiểu tường tận những thông tin cần thiết, phân tích, đánh giá những mặt lợi, hại của dự án để chọn đúng đối tượng và loại hình đầu tư phù hợp. Thông thường các dự án có lợi nhuận càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn, ở đây không chỉ vì lợi nhuận trước mắt mà còn tính đến độ an toàn của vốn. 3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh: 3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ: Điểm xuất phát để tiến hành kinh doanh là phải có một lượng vốn nhất định với nguồn tài trợ tương ứng song việc sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng của mỗi doanh nghiệp. Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng nguyên giá tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu bán hàng. Công thức tính: Doanh thu bán hàng Hiệu suất sử dụng TSCĐ = NG bq TSCĐ cần tính KH 3.1.2 Mức sinh lợi VCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn cố định bình quân tham gia vào hoạt động kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Công thức tính: LN hoạt động KD Mức sinh lợi của VCĐ = VCĐ bq 3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ: Trong quá trình sản xuất - kinh doanh vốn lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình sản xuất (Dự trữ - sản xuất - tiêu thụ). Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.2.1. Mức sinh lợi của VLĐ: Các nhà quản lý tài chính quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động trên mức sinh lợi của vốn lưu động xem một đồng vốn lưu động làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận hoạt động kinh doanh trong kỳ. Công thức tính: LN hoạt động KD Mức sinh lợi của VLĐ = VLĐ bq Từ đó đánh giá mức sinh lời của vốn lưu động cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tốt và ngược lại. 3.2.2. Số vòng quay và kỳ luân chuyển bình quân của VLĐ: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được xem xét trên góc độ vòng quay của vốn lưu động hay hệ số luân chuyển. Công thức tính: Doanh thu thuần Số vòng quay của VLĐ = Vốn lưu động Số ngày trong năm (360ngày)  Kỳ luân chuyển bình quân = Số vòng quay vốn trong năm Hoặc = Vốn lưu động x 360 Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động của doanh nghiệp đã chu chuyển được bao nhiêu vòng trong kỳ. Số vòng quay càng nhiều thì vốn lưu động luân chuyển càng nhanh, hoạt động tài chính càng tốt, doanh nghiệp càng cần ít vốn và tỷ suất lợi nhuận càng cao. Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, tuy nhiên để đánh giá đúng, chính xác thì các nhà quản lý phải có trình độ chuyên môn vững vàng, dựa trên cơ sở phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và thực trạng nền tài chính của doanh nghiệp để có thể ra những quyết định cần thiết đối với việc sử dụng vốn của doanh nghiệp. 3.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VKD: Trên đây ta đã xem xét các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn. Để có cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, cần đi vào phân tích các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. 3.3.1. Vòng quay tổng vốn: Vòng quay tổng vốn = Doanh thu thuần  VKD bình quân Vòng quay tổng vốn cho biết toàn bộ vốn SXKD của doanh nghiệp trong kỳ luân chuyển được bao nhiêu vòng, qua đó có thể đánh giá được trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp. 3.3.2. Tỷ suất LN VKD: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh Tỷ suất LN VKD = VKD bình quân Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận VKD phản ánh một đồng VKD sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tương đối chính xác khả năng sinh lời của tổng vốn. 3.3.3. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Lợi nhuận HĐKD Tỷ suất lợi nhuận VCSH = VCSH bình quân Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cho thấy mỗi đồng vốn chủ sở hữu sử dụng trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. 3.3.4. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: Lợi nhuận HĐKD Tỷ suất lợi nhuận trên DT = Doanh thu thuần Đây là chỉ tiêu phản ánh mỗi đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp thu được trong kỳ có bao nhiêu đồng lợi nhuận. 3.3.5. Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ: Lợi nhuận HĐKD Tỷ suất LN trên giá thành toàn bộ = Giá thành T.bộ của SP tiêu thụ Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ cho thấy mỗi đồng giá thành toàn bộ bỏ ra trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trên đây là một số chỉ tiêu thường được sử dụng để làm căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Đánh giá tình hình sử dụng VKD của doanh nghiệp tốt hay chưa tốt, ngoài việc so sánh các chỉ tiêu này với các chỉ tiêu kỳ trước, các chỉ tiêu thực hiện so với kế hoạch nhằm thấy rõ chất lượng và xu hớng biến động của nó, nhà quản lý doanh nghiệp cần gắn với tình hình thực tế, tính chất của ngành kinh doanh mà doanh nghiệp hoạt động để đưa ra nhận xét sát thực tế về hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của doanh nghiệp. 3.4. Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán: Tình hình tài chính của doanh nghiệp được đánh giá là lành mạnh trước hết phải được thể hiện ở khả năng chi trả, vì vậy nhà quản lý doanh nghiệp cần phải đánh giá, phân tích khả năng thanh toán. Đây là chỉ tiêu rất được nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp nguyên liệu... Họ luôn đặt câu hỏi: hiện doanh nghiệp có đủ khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn thanh toán hay không? 3.4.1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: Hệ số khả năng thanh toán tổng quát là mối quan hệ giữa tổng tài sản mà hiện nay doanh nghiệp đang quản lý sử dụng với tổng số nợ phải trả (nợ ngắn hạn và nợ dài hạn), công thức: Tổng tài sản Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng nợ phải trả Nếu hệ số này < 1 báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu bị mất toàn bộ, tổng tài sản hiện có (TSLĐ và TSCĐ) không đủ trả số nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán. 3.4.2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời: Hệ số khả năng thanh toán hiện thời là mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn (TSLĐ) với các khoản nợ ngắn hạn, công thức: Tổng TSLĐ và đầu tư ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán hiện thời = Tổng nợ ngắn hạn Trong đó: + Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn là những tài sản mà doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng và sở hữu. + Tổng nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong khoản thời gian dưới 1 năm, bao gồm các khoản vay ngắn hạn, phải trả cho người bán, thuế và các khoản phải nộp cho nhà nước, phải trả cho công nhân viên, nợ dài hạn đến hạn trả, các khoản phải trả khác. Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi một bộ phận tài sản thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn, vì thế hệ số này cũng thể hiện mức độ đảm bảo thanh toán của TSLĐ với các khoản nợ ngắn hạn. Nếu hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp ở mức độ thấp và cũng là dấu hiệu báo trớc khó khăn về tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong việc trả nợ. Khi hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh năng lực thanh toán của doanh nghiệp là tốt, nghĩa là khi đó có một lượng TSLĐ tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng tài sản không hiệu quả vì bộ phận này không vận động, không sinh lời (có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi, nợ phải đòi, hàng tồn kho ứ đọng...) Tính hợp lý của hệ số này phụ thuộc ngành nghề kinh doanh. Ngành nghề nào chiếm tỷ trọng TSLĐ lớn trong tổng tài sản thì hệ số này lớn càng tốt và ngược lại. 3.4.3. Hệ số khả năng thanh toán nhanh: TSLĐ trước khi mang đi thanh toán cho chủ nợ phải đợc chuyển đổi thành tiền. Trong TSLĐ hiện có thì vật tư, hàng hoá cha có thể chuyển đổi ngay thành tiền được và do đó khả năng thanh toán kém nhất. Vì thế hệ số khả năng thanh toán nhanh là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của đơn vị. Đó là thước đo khả năng trả nợ ngay, không dựa vào bán các loại vật tư, hàng hoá tồn kho. Hệ số khả năng thanh toán nhanh được xác định bằng mối quan hệ giữa TSLĐ - Hàng tồn kho với tổng số nợ ngắn hạn, công thức: Tổng TSLĐ - Hàng tồn kho Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Tổng nợ ngắn hạn ở đây hàng tồn kho bị loại trừ ra vì được coi là tài sản không dễ dàng chuyển đổi nhanh thành tiền và cũng thấy rằng tài sản dùng để thanh toán nhanh còn được xác định là: tiền cộng với tiền tương đương. Tiền tương đương là các khoản có thể chuyển đổi thành một lượng tiền biết trước (thương phiếu, các loại chứng khoán ngắn hạn...) 4. Một số phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp: 4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: Việc tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố khác nhau bao gồm các nhân tố khách quan và chủ quan. 4.1.1. Về khách quan: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau: - Cơ chế quản lý và chính sách vĩ mô của Nhà nước - Tác động của nền kinh tế có lạm phát - Sự phát triển của khoa học công nghệ - Sự biến động của thị trường đầu ra - đầu vào của DN. Ngoài ra, hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp còn chịu tác động của yếu tố rủi ro bao gồm các rủi ro từ phía thị trường và những rủi ro bất khả kháng như: thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn... 4.1.2. Về chủ quan: Có nhiều nhân tố chủ quan thuộc về bản thân doanh nghiệp ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp như: - Việc bố trí cơ cấu vốn đầu tư: nếu sự bố trí giữa VCĐ và VLĐ và tỷ trọng của từng khoản mục trong từng loại vốn chưa hợp lý, chưa phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp thì hiệu quả sử dụng vốn kém là không thể tránh khỏi. - Việc xác định nhu cầu vốn: nếu xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn, cả hai trờng hợp đều ảnh hưởng không tốt đến qúa trình SXKD của doanh nghiệp và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. - Việc tổ chức sử dụng vốn kinh doanh trong từng khâu: hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao nếu như VKD trong từng khâu được tổ chức hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Ngược lại, nếu doanh nghiệp sử dụng vốn lãng phí chẳng hạn như mua các loại vật tư không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, kém phẩm chất hay không huy động cao độ TSCĐ vào SXKD sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. - Trình độ quản lý của doanh nghiệp: Nếu trình độ quản lý yếu kém có thể dẫn đến tình trạng vốn bị ứ đọng, vật tư, hàng hoá chậm luân chuyển, hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài, vốn bị thâm hụt sau mỗi chu kỳ sản xuất. Trên đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp. Ngoài các nhân tố đó, còn có thể có rất nhiều nhân tố khác tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xem xét thận trọng từng nhân tố để từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm phát huy những nhân tố ảnh hưởng tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất những nhân tố ảnh hưởng tiêu cực nhằm từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng VKD. 4.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VKD: 4.2.1. Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ: - Sử dụng đòn bẩy kinh tế nhằm kích thích gắn liền với trách nhiệm về tài chính. Thưởng phạt về bảo quản, sử dụng TSCĐ, nghiên cứu phát minh sáng chế ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh. - Đảm bảo khả năng tài chính nhằm thực hiện quyết định đầu tư dài hạn để tăng quy mô và điều chỉnh cơ cấu TSCĐ. - Nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ từ đó giảm bớt TSCĐ và nắm vững TSCĐ hiện có đang sử dụng, chưa dùng, không cần dùng để giải phóng (thanh lý, nhượng bán) những TSCĐ ứ đọng. Mặt khác, tài chính doanh nghiệp phải tham gia xây dựng chế độ quản lý sử dụng TSCĐ tránh tình trạng mất mát hư hỏng và có biện pháp xử lý kịp thời những thiệt hại về TSCĐ. 4.2.2. Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ: - Xác định chính xác nhu cầu VLĐ thường xuyên, cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. - Tăng tốc độ luân chuyển VLĐ ở cả 3 khâu: ở khâu dự trữ, trong khâu SX, trong khâu lưu thông. - Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện hiệu quả sử dụng VLĐ của DN. - Đối với bộ phận vốn nhàn rỗi cần được sử dụng một cách linh hoạt thông qua các hình thức đầu ra bên ngoài như đầu tư góp vốn liên doanh, đầu tư vào tài sản tài chính, hoặc cho vay nhằm thu lợi tức tiền vay. Trên đây là một số phương hướng, biện pháp nhằm đẩy mạnh việc tổ chức và sử dụng vốn trong DN. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng DN mà nhà quản lý DN đa ra những giải pháp phù hợp mang tính khả thi để không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của DN mình. Chương II Tình hình tổ chức và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Điện lực I Hà Nội, 1. Một vài nét chính về tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Điện lực I Hà Nội. 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. Tên giao dịch Việt Nam: Công ty Điện lực I Hà Nội Tên giao dịch quốc tế: HANOI POWER COMPANY N01 Tên viết tắt: PC 1 Trụ sở chính: 20 Trần Nguyên Hãn - Hà Nội Điện thoại: 84 - 4 - 8255074. Công ty Điện lực I Hà Nội được thành lập căn cứ vào quyết định số 146-CP ngày 06/10/1969 của Bộ Điện và Than. Công ty Điện lực I Hà Nội là một trong những doanh nghiệp lớn của Nhà nước thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam. Ra đời trong bối cảnh đất nước đang trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Công ty Điện lực I đã có một quá trình phát triển đầy thử thách gian nan, song rất đầy tự hào. Quá trình hoạt động của công ty gắn liền với quá trình phát triển và trưởng thành của ngành điện, gắn liền với việc thực hiện những nhiệm vụ chiến lược do Đảng ta đề ra cho mỗi giai đoạn của cách mạng vn. Trong những năm qua Công ty Điện lực I đã có những bước phát triển, trưởng thành từ cục quản lý Nhà nước sang một công ty điện lực (quốc gia), hoạt động sản xuất - kinh doanh điện năng, hạch toán độc lập. Công ty có 26 đơn vi điện lực tỉnh làm nhiệm vụ cung cấp điện cho 26 tỉnh trên miền Bắc, 9 đơn vị phụ trợ sản xuất - kinh doanh khác và 3 trường đào tạo. Công ty Điện lực I có những nhiệm vụ chủ yếu: Kinh doanh điện năng Thiết kế, xây dựng, quản lý khai thác và qui hoạch tổng thể hệ thống lưới điện phân phối. Sản xuất, chế tạo và sửa chữa các thiết bị vật tư ngành điện. Thí nghiệm, đo lường các thiết bị điện, trạm điện có cấp điện áp đến 500kv. Công ty luôn đầu tư việc nhập khẩu các thiết bị vật tư, vật liệu ngành điện, đào tạo mới, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên chuyên ngành điện nhằm tăng năng suất lao động. Với đội ngũ kỹ sư giàu kinh nghiệm và công nhân kỹ thuật lành nghề, với năng lực thiết bị ngày càng hiện đại, công ty đã xây dựng công trình lưới điện như điện lực Hải Phòng, điện lực Hoà bình, điện lực Hà Nam, điện lực Lào Cai... Công ty đã chỉ đạo hình thành các ban chuẩn bị sản xuất của thuỷ điện Thác Bà, nhiệt điện Ninh Bình, Phả Lại. Cùng với kết quả kinh doanh và tổ chức đời sống của cán bộ công nhân viên, trong những năm qua Công ty Điện lực I được phong tặng danh hiệu đơn vị anh hùng và 6 cá nhân được phong tặng danh hiệu anh hùng lao động. Trong những năm tới công ty sẽ tiếp tục đổi mới trang thiết bị hiện đại, tăng cường công tác liên kết với nước ngoài để không ngừng tăng cường cung ứng điện của toàn miền cho các thành phố. Công ty Điện lực I Hà Nội là doanh nghiệp của Nhà nước. Nguồn vốn công ty do nhà nước cấp vốn. Vốn của công ty gồm: các khoản nợ phải trả và vốn do công ty cấp hạch toán tập chung của công ty được hình thành theo quy định của nhà nước. 1.2.1. Đặc điểm cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của nhà nước công ty Điện lực I Hà Nội. Nhà máy được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng: Bộ máy quản lý gọn nhẹ để nhằm đảm bảo quản lý tốt, sản xuất đạt hiệu quả cao Với sơ đồ như trên thì sẽ phát huy được vai trò tham mưu của các phòng ban chức năng, phát huy được tính năng động sáng tạo của cán bộ công nhân viên trong Công ty Điện lực I Hà Nội. Đồng thời đảm bảo quyền chỉ huy trực tiếp việc truyền mệnh lệnh theo tuyến. * Ban lãnh đạo gồm 4 thành viên: Giám đốc và 3 Phó Giám đốc - Giám đốc: Là người đứng đầu trong bộ máy lãnh đạo của toàn Công ty, đồng thời Giám đốc là người đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của Công ty trước cơ quan cấp trên và các cơ quan pháp luật. - Phó Giám đốc đầu tư và xây dựng: Phụ trách lĩnh vực khoa học công nghệ, công tác đầu tư xây dựng cơ bản, công tác thiết kế và tư vấn, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và định mức lao động. - Phó Giám đốc sản xuất: có nhiệm vụ giúp việc cho Giám đốc các lĩnh vực được phân công điều hành công tác sản xuất của Công ty. - Phó Giám đốc kinh doanh và Vật tư: là chỉ đạo bộ phận Marketing thị trường tham mưu cho Giám đốc Công ty trong công tác đối ngoại kinh doanh và hợp tác kinh tế, tìm đối tác mới, mở rộng liên doanh liên kết. Bên cạnh đó còn trực tiếp chỉ đạo công tác tiêu thụ sản phẩm, ký kết các hợp đồng sản xuất, các đơn đặt hàng. * Hệ thống chức năng của các phòng ban. - Phòng máy tính: Giúp cung cấp các dữ liệu việc quản lý tài chính , báo cáo các kế hoạch của Công ty. - Phòng kỹ thuật: Quản lý lĩnh vực kỹ thuật công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm. - Phòng thanh tra an toàn: Quản lý thiết bị an toàn lao động. - Phòng quản lý xây dựng: Làm chức năng cải tạo, nâng cấp, xây dựng mạng lưới điện. - Phòng hành chính tổng hợp: Tham mưu cho giám đốc lĩnh vực hành chính, quản lý công tác tổ chức và đào tạo nhân sự. - Phòng kinh tế đối ngoại: Tìm mở rộng liên doanh liên kết, công tác tiêu thụ sản phẩm. - Phòng tổ chức lao động: Quản lý sắp xếp lao động một cách hợp lý để thúc đẩy sản xuất. - Phòng thanh tra bảo vệ: Chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh trật tự và tài sản Công ty, theo dõi việc chấp hành quy chế của cán bộ công nhân viên của Công ty. - Phòng kế hoạch sản xuất và đầu tư Xây dựng: Làm chức năng đệ trình các kế hoạch sản xuất và đầu tư Xây dựng cho Giám đốc thực hiện các hợp đồng kinh tế của Công ty. - Phòng Tài chính - Kế toán: Quản lý trong lĩnh vực Tài chính, lập báo cáo quyết toán hàng năm. - Phòng kiểm tra và kiểm toán nội bộ: Tổng hợp thanh quyết toán toàn Công ty theo dõi hoạt động tài sản Cố định. - Phòng vật tư và xuất nhập khẩu: nhiệm vụ cung ứng vật tư, lên kế hoạch báo cáo cho Giám đốc cần xuất và nhập các trang thiết bị. - Phòng kinh doanh điện năng: là bộ phận Marketing thị trường giúp Công ty tìm đối tác mới hợp đồng kinh tế. - Phòng điện nông thôn: Quản lý mạng lưới điện ở vùng nông thôn. 1.2.1.2. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán tài chính của Công ty Công ty Điện lực I đã tiến hành tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức kế toán tập trung. Theo hình thức tổ chức kế toán này thì toàn bộ công tác kế toán được thực hiện trên phòng Kế toán - Tài chính của Công ty từ khâu tổng hợp số liệu, ghi sổ kế toán, lập báo cáo kế toán. Kế toán trưởng Sơ đồ bộ máy tổ chức kế toán Thủ quỹ Kế toán thanh toán Kế toán tổng hợp Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương Kế toán TSCĐ và vật tư Kế toán Tài chính Nhiệm vụ chung của phòng là lập và thực hiện tốt kế hoạch tổ chức, tính toán và ghi chép chính xác về nguồn vốn và tình hình TSCĐ chứng từ và các loại vốn bằng tiền vay, lập báo cáo kế toán kịp thời đầy đủ và chính xác. - Kế toán trưởng: Phụ trách phòng kế toán Tài chính, trực tiếp tổ chức công tác chỉ đạo và giám sát công tác tài chính kế toán, trực tiếp điều hành xử lý các nội dung liên quan đến công tác tài chính và hoạch toán của toàn Công ty. - Bộ phận kế toán tài chính: Thực hiện và phản ánh, ghi chép và xử lý chính xác kịp thời số liệu có tình hình sử dụng về tiền mặt, tiền gửi ngân hàng trên các sổ sách kế toán phù hợp. - Kế toán TSCĐ và vật tư: Phản ánh tính tăng giảm vật tư và tính khấu hao TSCĐ, phản ánh cả về số lượng và chất lượng của từng loại vật tư theo từng kho và từng người phụ trách vật tư. - Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương: Được chia đều cho các kế toán viên tương ứng chịu trách nhiệm tính lương phải trả cho công nhân viên ở bảng thanh toán lương, sau đó được chuyển đến cho kế toán tổng hợp, thực hiện phần còn lại của kế toán tiền lương và các khoản trích lương trên các sổ sách kế toán. - Kế toán tổng hợp: Tổng hợp thanh quyết toán toàn Công ty theo dõi hoạt động và tổng hợp quyết toán của thị trường xuất nhập khẩu và hợp tác theo dõi TSCĐ, khấu hao TSCĐ trực tiếp thực hiện báo cáo nhanh theo quy định. - Kế toán thanh toán: chịu trách nhiện thanh quyết toán với Nhà nước, với khách hàng. - Thủ quỹ: giữ trách nhiệm thu - chi tiền mặt tiền gửi Ngân hàng, kết hợp kế toán trưởng giải quyết các việc liên quan đến Tài chính của Công ty. 1.2.2. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Công ty. Quy trình công nghệ sản xuất là một trong những căn cứ quan trọng để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành thực tế và phương pháp tính giá thành thực tế. Quy trình công nghệ sản xuất là một yếu tố ảnh hưởng tới công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành thực tế ở Công ty. Dưới đây là quy trình công nghệ sản xuất điện của Công ty. - Tại nhà máy phát điện bao gồm có Thuỷ điện, nhiệt điện, diegen, tua bin khí. Từ nhà máy phát điện thành lập Công ty truyền tải lưới điện 500kv, 220 kv và 110 kv. Theo quản lý lưới điện thì bán điện theo giá nội bộ cho Công ty phân phối điện ( Công ty điện lực I). ở Công ty lại bán điện cho các hộ tiêu dùng, tại đây các hộ tiêu dùng mua theo giá quy định của Nhà nước. Hộ tiêu dùng Điện Điện Công ty phân phối Điện Công ty truyền tải lưới điện 500kv Nhà máy phát điện Mạng lưới điện 110kv Mạng lưới điện 220kv Nhà máy thuỷ điện Mạng 35kv Mạng lưới điện 110kv Nhà máy nhiệt điện Mạng 10kv Diezen Tua bin khí Bàn giao thành phẩm phân phối 1.2.3. Kết quả sản xuất kinh doanh trong những năm gần đây được thể hiện qua các chỉ tiêu chung sau đây đã chứng tỏ sự phát triển không ngừng của Công ty. ĐVT: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2001 2002 1 Doanh thu thuần 636.415 77.4021 2 Số vốn kinh doanh 130.603 1.345.318 Số vốn cố định Số vốn lưu động 2.167.993 81.470 2.851.635 83.359 3 Thuế 127.413 237..076 4 Lãi 10.189 979.859 5 Thu nhập (đồng/tháng/người) 600.000 700.000 2. Thực trạng về tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Điện lực I 2.1. Đánh giá thực trạng và tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của Công ty. 2.1.1. Những thuận lợi Công ty Điện lực I Hà Nội là một Công ty đã trải qua các thời kỳ chiến tranh thời kỳ bao cấp, thờikỳ chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong thời kỳ đầu thừa lao động thiếu việc làm. Công ty đã tổ chức lại lao động cùng với sự cố gắng của tập thể lãnh đạo Công ty và các cán bộ công nhân viên đã thu được một số những thuận lợi sau: Trong quá trình sử dụng vốn, Công ty đã tận dụng tối đa nguồn vốn ngân sách cấp và vốn tự bổ sung chho sản xuất kinh doanh đồng thời huy động vốn vay không nhỏ cho việc đầu tư thiết bị công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất ngoài nguồn vốn rất hạn chế do ngân sách cấp, Công ty còn phát động phong trào huy động vốn nhàn rỗi trong cán bộ công nhân viên và được mọi thành viên trong Công ty hưởng ứng nhiệt liệt nên đã giảm bớt khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư. Điều quan trọng nhất là trong thời gian qua công tác quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả đã đem lại một số vốn và lợi nhuận nhất định cho Công ty. Vì vậy Công ty đã tạo ra được uy tín của mình với khách hàng, sản phẩm của Công ty đáp ứng nhu cầu thị trường. 2.1.2. Những khó khăn Bên cạnh những thuận lợi trong công tác quản lý và sử dụng vốn kinh doanh, Công ty còn có một số thiếu sót như: + Chưa xác định được phương pháp khấu hao TSCĐ hợp lý; trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo của Công ty chưa cao, tay nghề của công nhân trực tiếp lao động thấp. + Do vậy vẫn chưa phù hợp với xu thế chung của đất nước cũng như khu vực, ý thức tổ chức và kỷ luật chưa cao do đó công tác quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty chưa đạt hiệu quả cao. + Vấn đề cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm chưa đề cập một cách mạnh mẽ. Nếu vấn đề này được coi trọng thì sẽ làm được cho giá thành sản phẩm hạ, lợi nhuận tăng sẽ làm cho đời sống công nhân viên được cải thiện hơn. 2.1.3. Tình hình chung về hoạt động và kết quả kinh doanh Để có thể đánh giá khái quát về hoạt động kinh doanh của Công ty Điện lực I ta có thể lấy số liệu từ Báo cáo kết quả kinh doanh qua 2 năm gần đây là 2001 và 2002. Từ số liệu của báo cáo kết quả kinh doanh ta lập bảng kết quả hoạt động kinh doanh. Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu MS Năm 2001 Năm 2002 So sánh Số tuyệt đối Số tương đối DT bán hàng xuất khẩu 01 0 0 0 - 100 Các khoản giảm trừ 02 1.92 0 - 192 0 Chiết khấu 03 0 0 0 - 100 Giảm giá hàng bán 05 0 0 0 - 100 Giá trị hàng bán bị trả lại 06 0 0 0 - 100 Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu phải nộp 06 0 0 0 - 100 Doanh thu thuần 10 636.415 774.021 + 137.606 +21,62 Giá vốn hàng bán 11 607.109 723.817 + 116.798 + 19,24 Lợi nhuận gộp 20 29.396 502.031 + 20.807 + 70,78 Chi phí bán hàng 21 24.103 306.476 + 282.373 + 1171,5 Chi phí quản lý DN 22 42.981 44.578 + 1.597 + 73,71 Doanh thu hoạt động TC 31 1.596 3.108 + 1.512 +94,73 Chi phí TC 32 633 993 + 627 +717,31 LN thuần từ HĐSXKD 40 1.229 2.894 +1.665 135,47 Thu nhập hoạt động bất thường 41 8.033 2.598 - 5.135 + 111,39 CP hoạt động bất thường 42 814 2.894 + 2.030 + 255,52 Lợi nhuận HĐ bất thường 50 7.219 2.958 - 4.261 - 59,02 Tổng LN trước thuế LN sau thuế 60 29..238 22.309 - 6.929 - 23,69 Lợi nhuận sau thuế 80 + 20859 + 15453 - 5406 - 25,91 Qua bảng phân tích kết quả kinh doanh sản xuất kinh doanh ta thấy - Doanh thu năm 2002 đạt 774021 triệu đồng so với năm 2001 là 636415 tăng 21,62%. - Chi phí bao gồm giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Giá vốn hàng bán năm 2002 đạt 723817 triệu đồng so với năm 2001 là 607019 triệu đồng tăng lên 116.798 triệu đồng tương ứng với số tương đối là 19,24%. Điều này là không tốt, nguyên nhân là do giá vốn hàng hoá tăng kèm theo chi phí đầu vào cũng tăng theo. Chi phí quản lý doanh nghiệp năm 2002 so với năm 2001 tăng 1.597 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 3,71%. - Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh năm 2002 đạt 2894 triệu đồng so với năm 2001 là 1299 triệu với mức tăng là 1.665 triệu, số tương đối tăng 135,47% - Tổng lợi nhuận trước thuế của năm 2000 đạt 22.309 triệu đồng so với năm 2001 là 29.238 triệu đã giảm xuống 6.929 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 23, 69% - Lợi nhuận sau thuế của năm 2000 đạt 15453 triệu đồng so với năm 2001 là 20859 triệu đã giảm xuống 5406 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 70,78%. Qua bảng 1 ta có thể khẳng định rằng trong những năm qua kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Điện lực I có sự phát triển nhưng bên trong vẫn còn những hạn chế hiệu quả sử dụng vốn. Để tìm giải pháp đúng đắn ta cần đi sâu vào xem xét thực trạng sử dụng vốn kinh doanh của Công ty để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. 2.2. Thực trạng về tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty. 2.2.1. Thực trạng về tổ chức nguồn vốn kinh doanh Để làm rõ được thực trạng về nguồn vốn kinh doanh hiện có của Công ty ta phải biết rõ đâu là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu, đâu là nhân tố ảnh hưởng thứ yếu, tích cực hay tiêu cục. Để làm rõ điều này, ta không thể nhìn ngay vào bản cân đối về nguồn vốn mà có thể nhận xét chính xác được nguồn vốn qua các năm đều có sự biến động nhiều hay ít. Nó còn phụ thuộc vào sự quản lý và quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty. Để nhận xét được một cách chính xác về sự biến động nguồn vốn ta có thể lấy số liệu của 2 năm gần đây nhất là năm 2001 và năm 2002. Từ bảng cân đối kế toán của năm 2001 và năm 2002 ta lập bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn kinh doanh. Bảng 2: Bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn kinh doanh năm 2001 - 2002 ĐVT: Triệu đồng Nguồn vốn Năm 2001 Năm 2002 So sánh Số tiền Tỷ lệ % 1 2 3 4 5 A Nợ phải trả 301.950 88.327 - 213.623 - 70,74 I. Nợ vay ngắn hạn 583.587 1.559.102 +975.515 167,1 Vay ngắn hạn 323 364 41 +12,69 Phải trả cho người bán 114.416 108.241 - 6.175 -5,39 Người mua trả tiền trước 76.144 69.948 - 6.196 - 8,13 Thuế và các khoản phải nộp 297.825 19.797 - 278.028 -93,35 Phải trả phải nộp khác 22.056 255.575 +3.501 +15,87 Vay dài hạn 4.338 62.018 + 57.680 +1329,6 Phải trả cho CNV 38.179 53.239 +15.060 + 39,44 Phải trả nội bộ 301.498 502.096 +200.598 + 66,53 II. Nợ dài hạn 4.338 62.018 + 57.680 + 1329,6 Nguồn vốn CSH 145.102 169.885 + 24.783 +17,07 Quỹ vốn kinh doanh 132.567 157.549 +24.982 + 18,84 Quỹ đầu tư phát triển 33.732 35.065 + 1.333 + 3,95 Quỹ khen thưởng phúc lợi 15.669 10.110 - 5.559 - 35,47 Lợi nhuận của phân phối 25.652 22.700 - 2.952 - 11,50 Tổng cộng 1.095.939 1.592.814 + 496.875 + 45,33 Để có từ bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn ta có thể thấy ngay sự biến động về nguồn vốn qua 2 năm 2001 và 2002 như sau: Nhìn vào dòng bảng nguồn vốn ta thấy có biến động tăng 496.875 triệu đồng hay tỷ lệ tăng 45,33% vì vậy ta có thể nhận xét là nguồn vốn đang tăng lên. Tuy nhiên kết cấu của nguồn vốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố cấu thành khác và sự thay đổi của các yếu tố đó. Từ đó ta mới có thể tìm ra nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn Nhìn vào bảng ta thấy Thứ nhất: Nợ phải trả từ năm 2002 so với năm 2001 giảm 213.623 triệu đồng hay tỷ lệ giảm 70,74% có thể nói việc đi chiếm dụng vốn của Công ty năm 2002 so với năm 2001 giảm xuống. - Nợ dài hạn năm 2002 so với năm 2001 tăng lên 57.680 triệu đồng với tỷ lệ tăng 1329,6%. Điều này thể hiện công ty đã và đang thực hiện với một thời gian dài mà lượng vốn đầu tư lớn nên khoản vay ngắn hạn không đáp ứng hết được. Tình hình này thể hiện áp lực thanh toán trong năm tới của Công ty sẽ tăng. Do vậy nếu Công ty không kịp thời xử lý hàng tồn kho, thành phẩm, thu hồi vốn nhanh để hoàn thành công nợ thì Công ty sẽ gặp nhiều khó khăn. - Nợ ngắn hạn tăng lên 975.515 triệu đồng với tỷ lệ tăng 167,1% do Công ty khi có các dự án thì đương nhiên các khoản phải trả, phải nộp khác tăng lên là điều tất yếu vì đây là khoản mà Công ty có thể chiếm dụng vốn vì Công ty không phải trả ngay, đó là khoản vốn chiếm dụng tạm thời không lâu dài. Do vậy lượng vốn này phải sử dụng cho phù hợp và có hiệu quả. Thêm nữa, Công ty vay ngắn hạn cũng tăng lên 41 triệu đồng với tỷ lệ tăng 12,69%. Nguồn vốn chủ sở hữu cao nên khi thực hiện sản xuất kinh doanh Công ty cũng không phải vay thêm nhiều. Tuy nhiên Công ty cũng cần có biện pháp sử dụng vốn kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế. Đối với phải trả cho CNV tăng lên 15.060 triệu đồng với tỷ lệ tăng 39,44% cho thấy năm 2002 so với năm 2001 việc Công ty nợ lương của cán bộ công nhân viên là có. Nhưng do Công ty chưa được bên chủ đầu tư thanh toán ngay khi công trình chưa bàn giao. Vì vậy, Công ty rất khó khăn về nguồn vốn để thanh toán với người lao động. - Thuế và các khoản phải nộp giảm 278028 triệu đồng hay tỷ lệ giảm 93,35. Điều này cho thấy năm 2001 Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là mua vào để thi công các công trình chưa bàn giao nên chưa phải nộp cho NSNN. Tuy nhiên số phải trả cho người bán năm 2002 so với năm 2001 là giảm 6175 triệu đồng hay tỷ lệ giảm 5,39% phải trả cho nội bộ tăng 200598 triệu đồng hay tỷ lệ tăng 66,53%. Các khoản này tuy không giảm nhiều nhưng cho ta thấy khả năng thanh toán của Công ty có ổn định. Nhìn vào bảng ta thấy Nợ dài hạn đến hạn trả không có, chứng tỏ Công ty hoạt động có hiệu quả không với vào tình trạng đi vay mà không trả được. Thứ 2: Trong bảng nghiên cứu đánh giá biến động về nguồn vốn 2 năm 2001 - 2002 ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên có 24783 triệu đồng tăng 17,07%. Dấu hiệu nguồn vốn tăng lên do các khoản vay nợ thể hiện Công ty đã đi vay vốn của các đơn vị khác, vay ngân hàng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. - Nguồn vốn kinh doanh của năm 2002 so với năm 2001 tăng lên 24982 triệu đồng với tỷ lệ tăng tương ứng là18,84%. Đây là nhân tố ảnh hưởng thứ yếu đến nguồn vốn của doanh nghiệp bên cạnh đó lợi nhuận chưa phân phối giảm đi, năm 2001 so với năm 2002 đã giảm 2952 triệu đồng. - Nguồn vốn quỹ của Công ty năm 2002 đã tăng. Nguyên nhân nguồn vốn quỹ tăng là do quỹ phát triển kinh doanh tăng 1333 triệu đồng với tỷ lệ tăng 3,95%. Trong khi đó quỹ khen thưởng phúc lợi lại giảm nhưng giảm không đáng kể là 5559 triệu đồng. Qua đó có thể thấy tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh trong Công ty ở 2 năm qua tăng. Tuy nhiên bên trong chắc chắn vẫn còn nhiều hạn chế sử dụng. Sự thay đổi nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý và sử dụng vốn. Đồng thời sự thay đổi đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng kinh doanh của Công ty. Để biết được sự thay đổi đó ta cần đi sâu vào sự biến động của vốn kinh doanh. 2.2.2 Thực trạng về tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. 2.2.2.1. Đối với vốn cố định 2.2.2.1.1. Tổ chức và quản lý sử dụng VCĐ. Trong cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty thì VCĐ chiếm 1 tỷ lệ trọng lớn, quy mô và trình độ máy móc là nhân tố quyết định tới khả năng cạnh tranh của Công ty. Cho nên sự biến động về quy mô của VCĐ có ảnh hưởng rất lớn đến trình độ, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ và năng lực sản xuất. Vốn cố định trong Công ty bao gồm giá trị của TSCĐ, chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Từ số liệu của bảng cân đối kế toán, chúng ta tính toán và lên biểu tổng hợp, nhằm đánh giá biến động về VCĐ qua 2 năm là năm 2001 và 2002. Bảng 3: Bảng nghiên cứu đánh giá biến động về vốn cố định năm 2001 - 2002. (ĐVT: Triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2001 2002 So sánh Tuyệt đối Tương đối Nguyên giá TSCĐ 4.469.957 4.795.198 325.241 7,27 Giá trị hao mòn luỹ kế TSCĐ 2.135.524 2.621.493 485.969 22,75 Vốn cố định 2.167.993 2.851.635 683.642 31,53 Công thức áp dụng: Nguyên giá TSCĐ của 2 năm 2001 - 2002 được tính bằng số bình quân như sau: Nguyên giá TSCĐ bình quân = NGTSCĐ đầu năm + NGTSCĐ cuối năm 2 Nguyên giá TSCĐ bình quân 2001 = 3.858557 + 5.081357 2 = 4469957 tr đồng Nguyên giá TSCĐ bình quân 2002 = 33.9228 + 6.281169 2 = 4.795.198 tr đồng - Giá trị hao mòn luỹ kế của TS cũng được tính như trên + Nguyên giá TSCĐ năm 2002 so với năm 2001 tăng 325.241 triệu đồng và tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ tăng 7,27%. + Giá trị hao mòn luỹ kế TSCĐ năm 2002 so với năm 2001 tăng 485.969 triệu đồng và tỷ lệ tương ứng tăng 22,75%. - Vốn cố định năm 2002 so với năm 2001 tăng 683642 triệu đồng với tỷ lệ tăng 31,53%. Từ đó cho ta thấy VCĐ tăng 683.642 triệu đồng với tỷ lệ tăng 31,53% là do Công ty mua sắm mới thêm trang thiết bị để cái tiến việc sản xuất. Hẳn ta nhận thấy TSCĐ đã được sử dụng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và mang lại hiệu quả cao cho Công ty. Chứng tỏ rằng Công ty đã đầu tư đúng đắn sử dụng VCĐ hợp lý đáp ứng kịp thời tình hình sản xuất kinh doanh thực tế tại Công ty. Tuy nhiên tốc độ tăng của nguyên giá TS CĐ (7,27%) nhỏ hơn tốc độ tăng giá trị hao mòn luỹ kế (22,75%) làm VCĐ tăng không đáng kể 68364 triệu đồng tương ứng tỷ lệ tăng 31,53%. VCĐ là một bộ phận của vốn đầu tư tưng ứng trước cho TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. 2.2.2.1.2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định Bảng 4: Sức sản xuất kinh doanh và sự lời VCĐ ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch Số tiền Tỷ lệ % 1. Mức DT thuần 636.415 774.021 137.606 21,62 2. LN từ HĐKD 1.229 3.009 1.780 114,8 3. Vốn cố định 2.167.993 2.851.635 683.642 31,53% 4. Hiệu quả SDVCĐ (4):(3) 0,293 0,27 - 0,02 - 7,84 5. Hệ số sinh lời (2) : (3) 0,00056 0,0010 0,00044 78,57 6. Hàm lượng VCĐ (4+5) 0,29356 0,271 - 0,02 - 7,68 Từ số liệu trên cho thấy VCĐ năm 2002 đầu tư tăng rất cao 683642 triệu đồng hay tỷ lệ tăng 31,53% so với năm 2001. Đây là kết quả của những chiến lược đầu tư vào TSCĐ, nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh đáp ứng những nhu cầu của nền kinh tế hiện nay. Do đó, sau 1 năm sản xuất kinh doanh năm 2002 vốn cố định chưa thể thu hồi ngay lập tức nên ta thấy rõ sức sản xuất kinh doanh và sức sinh lời của VCĐ còn thấp. Nhưng hàm lượng của VCĐ trong 100 đồng ở năm 2001 sẽ tạo ra 0,29386 đồng doanh thu. Năm 2002 hàm lượng của VCĐ trong 100 đồng tạo ra 0,271 đồng doanh thu. Hàm lượng VCĐ năm 2002 đã giảm so với năm 2001 là 0,02 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 7,68%. Đối với hiệu quả sử dụng VCĐ năm 2001 thì cứ 100 đồng VCĐ tạo ra 0,293 đồng doanh thu thuần nhưng năm 2002 thì cứ 100 đồng VCĐ đã tạo ra 0,27 đồng doanh thu. Vậy hiệu quả sử dụng VCĐ năm 2002 giảm so với năm 2001 là 0,02 đồng tương ứng tỷ lệ giảm 7,84%. Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng VCĐ năm 2002 không tốt lắm so với năm 2001. Do vậy Công ty cần sử dụng các biện pháp quản lý VCĐ cho có hiệu quả hơn để đạt được thành tích trong quá trình sản xuất kinh doanh. Còn hệ số sinh lời VCĐ: Trong năm 2001 cứ 100 đồng tạo ra 0,00056 đồng lợi nhuận, nhưng năm 2002 cứ 100 đồng VCĐ tạo ra được 0,0010 đồng. Vậy hệ số sinh lời VCĐ tăng 0,00044 đồng với tỷ lệ tăng 78,57% điều này cho thấy hiệu quả sử dụng VCĐ đã tốt hơn, nhưng tăng vẫn còn hạn chế. Ngoài các chỉ tiêu trên còn 1 chỉ tiêu nữa cũng phản ánh hiệu quả sử dụng VCĐ đó là hiệu suất sử dụng VCĐ. Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Doanh thu thần NGTSCĐ BQ Hiệu suất SD năm 2001 = 636415 4469957 = 0,14 lần Hiệu suất SD năm 2002 = 774021 4795198 = 0,16 lần Vậy cứ 100 đồng nguyên giá TSCĐ trong năm 2001 thì tạo ra 0,14 lần doanh thu thuần, còn năm 2002 thì cứ 100 đồng nguyên giá TSCĐ tạo ra 0,16 lần doanh thu thuần. Hiệu suất sử dụng TSCĐ năm 2002 so với năm 2001 tăng 0,02 lần. Điều này là rất tốt đối với Công ty. Để có thể đạt được hiệu quả Công ty cần sử dụng các biện pháp để khuyến khích người lao động sử dụng TSCĐ một cách có hiệu quả hơn và có ý thức hơn trong việc bảo vệ TSCĐ. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả Công ty không chỉ quan tâm đến TSCĐ mà còn tiến hành quản lý và sử dụng vốn lưu động một bộ phận thứ hai trong vốn kinh doanh. 2.2.2.2. Đối với vốn lưu động 2.2.2.2.1. Tổ chức và quản lý sử dụng vốn lưu động Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ và các khoản thanh toán khác quản lý vốn lưu động đảm bảo sử dụng vốn lưu động tiết kiệm hợp lý mà nó còn có ý nghĩa là hạ thấp các chi phí kinh doanh, thúc đẩy thanh toán các khoản công nợ một cách kịp thời. Để đánh giá đúng đắn sự biến động của vốn lưu động ta lập bảng nghiên cứu để đánh giá biến động về vốn lưu động của Công ty trong 2 năm 2001 và 2002. Bảng 5: Bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động của vốn lưu động ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch Số tiền tỷ lệ % 1. Vốn bằng tiền 252.218 278.063 + 25.845 + 10,24 2. Các khoản phải thu 390.584 4.629.385 + 72.354 + 18,52 3. Chi phí SXKD dở dang 49.924 63.325 13.401 +26,84 4. NVL tồn kho 27.701 26.472 - 1.229 - 4,43 5. Vốn lưu động 81.470 83.359 + 1.889 + 2,31 6. Thành phẩm tồn kho 195 76 - 119 - 61,02 Tổng 802.092 914.233 + 112.141 + 13,98 Qua bảng 5 nghiên cứu ta thấy tuy vốn lưu động chiếm tỷ trọng nhỏ hơn vốn cố định trong tổng số vốn kinh doanh nhưng vốn lưu động cần được quản lý chặt chẽ vì kết cấu của nó khá phức tạp so với vốn cố định. Năm 2002 ta thấy quy mô vốn lưu động tăng 1889 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 2,31%. Nguyên nhân vốn lưu động tăng do lượng vốn bằng tiền, do các khoản phải thu và chi phí sản xuất dở dang tăng cao. Đây là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến VLĐ của doanh nghiệp tăng nhanh. Chi phí sản xuất dở dang tăng cao là do năm 2002 Công ty đang thực hiện nhiều công trình có thời gian sản xuất kéo dài chi phí bỏ ra nhiều, điều này không có lợi cho công ty. Nếu khoản này tăng lên sẽ làm cho giá trị của sản phẩm tăng lên và lợi nhuận về sẽ giảm thấp. Mặt khác, khoản vốn bằng tiền biến động theo chiều hướng tốt lượng tiền năm 2002 so với năm 2001 tăng 25845 triệu đồng với tỷ lệ tăng 10,24%. - Nguyên vật liệu tồn kho năm 2002 so với năm 2001 đã giảm 1229 triệu đồng với tỷ lệ giảm 4,43%,. Điều này cho ta thấy công ty đã tận dụng hết khả năng lượng vốn ứ đọng này vào sản xuất. - Các khoản phải thu năm 2002 so với năm 2001 giảm xuống 119 triệu đồng tương ứng tỷ lệ giảm 61,02%. Nguyên nhân làm cho các khoản thu giảm là do khoản phải thu của khách hàng chiếm tỷ trọng lớn. Để hiểu rõ nội dung của các khoản phải thu ta theo dõi bảng số liệu sau: Bảng 6: Bảng nghiên cứu đánh giá sự biến động của các khoản phải thu ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch Số tiền tỷ lệ % 1. Phải thu của khách hàng 80.041 45.241 - 36.800 - 44,85 2. Trả trước cho người bán 21.011 19.137 - 1.874 - 8,91 3. Thuế GTGT được khấu trừ 2.884 8.185 5.301 183,80 4. Các khoản phải thu khác 85.086 76.344 - 8.742 - 10,27 Tổng cộng 191.022 148.907 - 42.115 - 22,04 Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy các khoản phải thu không đồng đều nhau - cụ thể như: - Phải thu của khách hàng năm 2002 so với năm 2001 giảm 36800 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 44,85%. Đây là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến các khoản phải thu giảm. Điều này cho thấy lượng vốn của Công ty không bị chiếm dụng quá nhiều, không gây ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh. - Thuế GTGT được khấu trừ: Năm 2002 so với năm 2001 tăng 5301 triệu đồng tương ứng tỷ lệ tăng 183,80%. - Các khoản phải thu khác: Năm 2002 so với năm 2001 giảm 8742 triệu đồng tương ứng tỷ lệ giảm 10,27%. Như vậy xét thấy Công ty đã quản lý và tổ chức vốn lưu động chưa hiệu quả. Công ty cần có biện pháp tích cực để sử dụng vào sản xuất kinh doanh nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động. 2.2.2.2.2 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Bảng 7: Sức sản xuất kinh doanh và sức sinh lời VLĐ ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 So sánh Số tiền Tỷ lệ % 1. Doanh thu thuần 636.415 774.021 137.606 21,62 2. LN từ hoạt động kinh doanh 1.229 3.009 1.780 144,8 3. Vốn lưu động 1.470 83.359 1.889 2,31 4. Sức sản xuất KD VLĐ (1): (3) 7,81 9,28 1,47 18,82 5. Hệ số sinh lời VLĐ (2): (3) 0,015 0,036 0,021 140 6. Hàmm lượng VLĐ (4) + (5) 7,825 9,316 1,491 19,05 Tình hình sử dụng VLĐ được mở rộng quy mô lượng vốn lưu động đầu tư năm 2002 so với năm 2001 tăng 1889 triệu đồng hay tỷ lệ tăng 2,31% còn lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của năm 2002 so với năm 2001 tăng cao: 1780 triệu đồng tương ứng tỷ lệ 144,8% với tỷ lệ tăng như trên ta thấy lợi nuận hoạt động kinh doanh tăng đáng kể. Do vậy, với lượng tăng của doanh thu cao khhiến cho sức sản xuất kinh doanh của VLĐ và hệ số sinh lời của VLĐ cũng tăng cao. Đối với sức sản xuất kinh doanh của VLĐ năm 2001 thì cứ 100 đồng VLĐ thì tạo ra 7,81 đồng doanh thu thuần nhưng đến năm 2002 thì cứ 100 đồng VLĐ lại tạo ra 9,28 đồng doanh thu thuần. Sức sản xuất kinh doanh của VLĐ năm 2002 đã tăng so với năm 2001 là 1,47 đồng với tỷ lệ tăng tương ứng là 18,82%. Đây là một ưu điểm của Công ty trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Còn với hệ số sinh lời của VLĐ năm 2000 thì cứ 100 đồng VLĐ thì tạo ra 0,015 đồng lợi nhuận còn năm 2002 thì cứ 100 đồng VLĐ tạo ra 0,036 đồng lợi nhuận tăng hơn so với năm 2001 là 0,012 đồng hay tỷ lệ tăng 140%. Đây cũng là ưu điểm của Công ty trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Chính vì vậy để tăng được sức sản xuất kinh doanh của VLĐ và hệ số sinh lời của VLĐ thì Công ty cần phải phát huy hết khả năng tham gia sản xuất kinh doanh của VLĐ. Bên cạnh đó, cũng cần phải loại trừ những sản phẩm không đúng mục đích, hạ thấp chi phí sản xuất, tiết kiệm chi phí bảo quản đồng thời thúc đẩy việc thanh toán các khoản công nợ một cách kịp thời nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh để đem về doanh thu và lợi nhuận cao. - Mức hàm lượng VLĐ năm 2001 thì cứ 100 đồng doanh thu thuần thu được 7,825 đồng VLĐ còn năm 2002 thì cứ 100 đồng doanh thu thuần thu được 9,316 đồng VLĐ. Năm 2002 so với năm 2001 tăng 1,491 triệu tương ứng với tỷ lệ tăng 19,05%. Một chi tiết nữa phản ánh một cách hiệu quả sử dụng VLĐ là tốc độ lưu chuyển của vốn ngày càng lớn thì VLĐ của Công ty được quay vòng nhanh, càng được sử dụng nhiều lần và ngược lại. Dưới đây là bảng số liệu phản ánh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động tại Công ty trong 2 năm 2001- 2002 Bảng 8: Tốc độ lưu chuyển của vốn lưu động Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2001 Năm 2002 So sánh Số tiền Tỷ lệ % 1. Doanh thu thuần Tr đồng 36.415 774.021 137.606 21,62 2. Vốn lưu động Tr. đồng 81.470 83.359 1.889 2,31 3. Số vòng quay VLĐ Vòng 7,81 9,28 1,47 18,82 4. Thời gian 1 vòng quay Ngày 46,1 38,77 - 7,32 - 15,9 Như chúng ta đã biết, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh VLĐ không ngừng vận động. VLĐ trong Công ty cũng vậy nó lần lượt mang nhiều hình thái khác như tiền, NVL... số vòng quay của VLĐ thực hiện được trong kỳ phân tích hay là thời gian để thực hiện được 1 vòng quay. Do vậy chỉ tiêu của số vòng quay VLĐ cho biết muốn tăng doanh thu thuần thì phải tăng vòng quay của VLĐ. Ta thấy năm 2001 đã quay 7,81 vòng đến năm 2002 quay được 9,28 vòng. Số vòng quay tăng lên cho thấy việc sử dụng vốn đã tăng và có hiệu quả. Số vòng quay này cũng ảnh hưởng đến thời gian của một vòng luân chuyển, thời gian của một vòng luân chuyển này cho biết số ngày cần thiết để thực hiện một vòng quay. Trong năm 2001 để thực hiện được một vòng quay Công ty cần một khoảng thời gian là 46,1 ngày năm 2002 thì Công ty đã giảm xuống còn 38,77 ngày để thực hiện được 1 vòng quay. Có thể nói rằng Công ty đang giảm dần số ngày của một vòng quay và nó cũng còn có một ý nghĩa là doanh thu của Công ty sẽ có khả năng tăng lên vì Công ty đã có những biện pháp có hiệu quả trong tốc độ lưu chuyển của VLĐ. 2.2.2.3. Đối với khả năng thanh toán Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là khả năng dùng vốn tài sản của mình để chi trả các khoản nợ đối với đơn vị khác. Trong kinh doanh thời kinh tế thị trường, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp là đặc trưng nổi bật thậm chí còn được coi là một sách lược kinh doanh hữu hiệu, nhưng nó sẽ trở thành con dao 2 lưỡi nếu doanh nghiệp không biết vận dụng vào nó một cách linh và đúng đắn. Việc đánh giá khả năng tính toán giúp cho các nhà quản lý có thể nắm vững được tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó sẽ chủ động trong việc sử dụng VLĐ. Tình hình tài chính được đánh giá lành mạnh trước hết phải thể hiện được khả năng chi trả, vì vậy các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải đánh giá và phân tích khả năng thanh toán. Đây là chỉ tiêu được rất nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư, các nhà cho vay, các nhà cung cấp nguyên vật liệu. 2.2.2.3.1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng số tài sản Tổng nợ phải trả Tổng tài sản = Tổng TS đầu năm + tổng TS cuối năm 2 Hệ số thanh toán tổng quát năm 2001 = 1095939 301950 = 3,62 > 1 Hệ số thanh toán tổng quát năm 2002 = 1592814 88327 = 18,03 > 1 + Hệ số thanh toán tổng quát năm 2002 cao hơn năm 2001; từ đó cho ta thấy tình hình tài chính của Công ty đang có chiều hướng tốt, Công ty có đủ khả năng trả số nợ mà Công ty phải thanh toán. Hệ số của năm 2002 tăng 14,41 so với năm 2001 tương ứng tỷ lệ tăng 4,98%. + Năm 2001: Công ty đi vay 100 đồng thì có 3,62 đồng tài sản đảm bảo. + Năm 2002: Công ty đi vay 100 đồng thì có 18,03 đồng tài sản đảm bảo. 2.2.2.3.2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời Hệ số khả năng thanh toán hiện thời = Tổng TSCĐ và đầu tư TCNHBQ Tổng nợ ngắn hạn bình quân Hệ số khả năng thanh toán hiện thời năm 2001 = 79624 583587 = 0,13 Hệ số khả năng thanh toán hiện thời năm 2002 = 89562 389775 = 0,22 - Năm 2001: Công ty đi vay 100 đồng thì có 0,13 đồng tài sản đảm bảo - Năm 2002: Công ty đi vay 100 đồng thì có 0,22 đồng tài sản đảm bảo. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời phản ánh khả năng chuyển đổi của một bộ phận tài sản thành tièen để trang trải các khoản nợ ngắn hạn và đảm bảo mức độ thanh toán TSLĐ với các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số năm 2002 giảm hơn năm 2001 là 0,09 với tỷ lệ 40,9% là do tốc độ nợ ngắn hạn nhỏ hơn so với tốc độ của TSLĐ. Về phía Công ty, hệ số này phản ánh rằng khả năng thanh toán của Công ty đối với khoản nợ ngắn hạn là kém khả quan vì phần nợ ngắn hạn tài trợ cho TSLĐ ở mức cao, số còn lại được tài trợ bởi nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu. Công ty phải chịu áp lực thanh toán lớn. 2.2.2.3.3. Hệ số khả năng thanh toán nhanh Hệ số thanh toán nhanh = Tổng TSLĐ BQ - Hàng tồn kho BQ Tổng nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán nhanh năm 2001 = 79.624 - 93.638 583.587 = - 0,02lần Hệ số khả năng thanh toán nhanh năm 2002 = 89.562- 105.311 389.775 = - 0,04 lần Như vậy khả năng thanh toán nhanh của năm 2001 so với năm 2001 giảm không đáng kể. Ta thấy rằng Công ty cũng có những biện pháp đáng kể nhằm đẩy mạnh thu hồi tiền vốn của mình nhằm tạo ra điều kiện tài chính an toàn. 2.2.2.4. Đối với vốn kinh doanh Qua những số liệu và những chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại vốn, đồng thời để có cái nhìn tổng quát và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung của Công ty ta cần đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Dựa vào bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả kinh doanh ta lập bảng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh như sau: Bảng 9: Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2001 Năm 2002 So sánh Số tiền Tỷ lệ % 1. Vòng quay tổng vốn Vòng 4,80 4,91 0,11 2,29 2. Tỷ suất LN/VKD % 0,009 0,019 0,01 111,1 3. Tỷ suất LN/VCSH % 0,008 0,017 0,009 112,5 4. Tỷ suất LV/DTT % 0,0019 0,003 0,0011 57,9 5. Tỷ suất LN/Ztb % 0 0 0 0 Nhìn vào số liệu trên ta thấy: + Vòng quay tổng vốn: cho biết toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh của Công ty trong kỳ luân chuyển của năm 2001 là 4,80 vòng, còn năm 2002 là 4,19 vòng ta thấy rõ vòng quay tổng vốn của năm 2002 so với năm 2001 tăng 0,11 vòng tương ứng với tỷ lệ tăng 2,29%. Như vậy Công ty đã có biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả. + Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh Điều này cho thấy cứ 100 đồng vốn kinh doanh của năm 2001 tạo ra 0,009 đồng lợi nhuận, năm 2002 là 0,019 đồng lợi nhuận tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh của năm 2002 so với năm 2001 tăng 0,01 đồng với tỷ lệ tăng 111,1%. Nguyên nhân là do lợi nhuận hoạt động kinh doanh tăng và hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định cũng tăng làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh tăng theo. Vậy khả năng sinh lời của vốn tương đối cao. + Tỷ suất lợi nhuận doanh thu thuần năm 2002 so với năm 2001 tăng 0,0011 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 57,9%. Nguyên nhân do doanh thu tăng cao khiến cho tỷ suất cũng tăng. Năm 2001 cứ 100 đồng doanh thu tạo ra 0,0019 đồng lợi nhuận năm 2002 cứ 100 đồng doanh thu tạo ra 0,003 đồng lợi nhuận đây là một xu hướng phát triển tốt của Công ty. + Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu năm 2002 so với năm 2001 tăng 0,009 đồng kèm theo tỷ lệ tăng 112,5%. Như vậy cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu năm 2001 tạo ra 0,08 đồng lợi nhuận, còn năm 2002 thì tạo ra 0,017 đồng lợi nhuận. Trên đây là một số chỉ tiêu thường được sử dụng để làm căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty, từ đó cho ta thấy việc quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng. Chương III Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty điện lực i Hà Nội Qua việc xem xét tình hình tổ chức và hoạt động SXKD của Công ty trong những năm vừa qua, chúng ta thấy được mặc dù hoạt động trong điều kiện gặp nhiều khó khăn nhưng do sự cố gắng không ngừng của tập thế cán bộ công nhân viên trong Công ty nên đã vượt qua và có những thành tích đáng khích lệ: hoạt động SXKD của Công ty doanh thu năm sau cao hơn năm trước, đóng góp đáng kể cho NSNN và đời sống CBCNV ngày càng cao. Tuy nhiên đi sâu vào phân tích thực tế cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được Công ty vẫn còn một số hạn chế. Những vấn đề này cần phải nhanh chóng khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả SXKD. Trong chương III này em xin nêu ra một số ý kiến nhằm khắc phục những khó khăn và cải thiện tình hình SXKD của Công ty trong thời gian tới. Những biện pháp sử dụng gồm: 1. Tìm kiếm thị trường ổn định, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm Để cải thiện hoạt động SXKD của Công ty thì biện pháp mở rộng thị trường là vô cùng quan trọng, một khi thị trường đã được mở rộng, DT không tăng hoặc tăng chậm nghĩa là thị trường tiêu thụ hoặc tài chính của Công ty đã không được cải thiện, Đã có câu nói: “nhất thị, nhị tiền, tam duyên, tứ chí” có nghĩa là trong kinh doanh thị trường được xem là vị trí hàng đầu, sau đó vị trí thứ hai là tiền vốn, thứ ba là nghệ thuật kinh doanh, thứ tư là bản lĩnh và ý chí kinh doanh của các nhà DN. 2. Chủ động xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng VKD Tăng cường các nguồn tài trợ, góp phần giải quyết hai vấn đề. Một là góp phần tăng NV đầu tư, hai là góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Cùng với việc tăng cường tìm kiếm các nguồn tài trợ, Công ty phải chú ý đến vấn đề đảm bảo khả năng thanh toán các chi phí cho các nguồn đầu tư và TSCĐ, tính tióan trong mua bán máy móc, thiết bị trên thị trường. Việc đầu tư cho TSCĐ của Công ty đều rất lớn, do vậy Công ty tự huy động vốn bên ngoài. Huy động tối đa những TSCĐ hiện có vào SXKD. Thực trạng về vốn của Công ty cho thấy Công ty khó khăn về vốn. Để giải quyết tình trạng khó khăn và mất cân đối về vốn, Công ty cần phải cải thiện tình hình NV.Vấn đề đặt ra là phải tạo vốn như thế nào để vừa đảm bảo NV đủ cho SXKD vừa có chi phí vốn thấp nhất. Muốn vầy Công ty cần phải áp dụng một số biện pháp sau: - Tiếp tục tăng nhu cầu VLĐ cho phù hợp với năng lực sản xuất và tình hình thực tế ở thị trường thông qua việc thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả, không đầu tư tiền tràn lan, và xác định nhu cầu VLĐ cần thiết, hợp lý cho từng ngành nghề, từng phân xưởng qua các khâu: dự trữ, SX, lưu thông nhằm đảm bảo quá trình tái SX thường xuyên liên tục, từ đó có biện pháp tổ chức huy động nhằm đáp ứng kịp thời, đầy đủ, tránh tình trạng thiếu vốn, gây lãng phí hoặc ảnh hưởng đến quá trình SXKD của Công ty. Vì vậy Công ty phải tăng cường quản lý chặt chẽ nhu cầu VLĐ. - Lực lượng cán bộ kỹ thuật di chuyển nhiều, tiếp cận tính toán khối lượng, lập thiết kế thi công các công trình cách xa nhau, chi phí đi lại, giao dịch tăng lên. - Tăng cường hợp tác liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước để tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh mới nhằm phát triển Công ty. - Trong kinh doanh, những nguồn tiền vào và nguồn tiền ra không phát sinh cùng một thời điểm. Do đó đôi khi ngân quỹ của Công ty dồi dào đến mức dư thừa. Để huy động hay đầu tư ngân quỹ ngắn hạn cho một mục tiêu nhất thời, nhà quản trị cần phải biết tổng số ngân quỹ ngắn hạn và dài hạn cần thiết hay số lượng tiền đã sãn sàng dành cho đầu tư. Để có thể thực hiện tốt những ước tính này, nhà quản trị phải dự thảo một ngân sách tiền mặt. Việc dự thảo một ngân sách tiền mặt phải căn cứ trên cơ sở kế hoạch tổng thể xác định khoa học, toàn bộ những khoản thu của Công ty. 3. Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn của người LĐ Lao động là nhân tố quan trọng với bất kỳ một DN nào. Lao động là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến HĐSXKD của DN nói chung và công tác quản lý sử dụng vốn nói riêng. Sự phát triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật cùng với sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường đòi hỏi các nhà quản lý phải có tư duy đúng đắn, quán triệt cách làm việc mới làm sao để đạt hiệu quả công việc cao. Sự thành công hay thất bại của một DN dù lớn hay nhỏ phụ thuộc chủ yếu vào năng lực hiệu suất của người LĐ. Đối với Công ty Điện lực I Hà Nội, đội ngũ CBCNV không ngừng được tăng lên, là những người có tay nghề cao nhưng để đáp ứng với tình hình mới, trong điều kiện khoa học công nghệ trên thế giới cung như trong khu vực. Đổi mới công nghệ thì chúng ta không ngừng học tập và vươn lên trong hàng ngũ cán bộ quản lý các cấp của Công ty lên theo hình thức: Các cán bộ đã có kiến thức về kinh tế thì cần học thêm về kỹ thuật và ngược lại. Là Công ty Điện lực I Hà Nội hoạt động trong cơ chế thị trường bắt buộc người quản lý phải có song song hai kiến thức trên, hoặc có thể áp dụng các phương pháp đào tạo công nhân như sau: - Đào tạo trực tiếp tại chỗ: Hình thức này thường được diễn ra vào những năm việc làm đầu tiên của các nhân viên. Trong hình thức này, nhân viên vừa làm vừa học dưới sự hướng dẫn của một người có thâm niên và có tay nghề cao. - Các nhân viên kiểm tra sản phẩm theo chủng loại ngành ngề của mình cũng có thời gian xuống trực tiếp làm ra sản phẩm ở các công đoạn mà mình kiểm tra để nắm bắt các nguyên nhân dẫn đến sự hư hỏng hay chất lượng kém của sản phẩm. Nói tóm lại để nâng cao chất lượng đội ngũ LĐ, Công ty cần thực hiện các biện pháp sau: - Không ngừng đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn cho CBCNV tạo sự thích ứng con người với LĐ. - Tổ chức các khoá huấn luyện, giới thiệu quy trình sản xuất mục đích là để hướng dẫn cho họ cách thức sử dụng máy móc, với công suất triệt để tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng chất lượng sản phẩm, giảm số sản phẩm hỏng. - Bố trí người LĐ giỏi hướng dẫn người LĐ kém đồng thời thường xuyên tổ chức các cuộc thi năng cao tay nghề sản xuất của công nhân. Sử dụng đòn bẩy kích thích lợi ích vật chất tinh thần cho người LĐ. 4. Nâng cao chất lượng sản phẩm Trong những năm qua, Công ty Điện lực I Hà Nội đã thực hiện chủ trương những quy định của Nhà nước, đồng thời Công ty đã tiếp nhận mạng lưới điện của nông thôn với số lượng lớn. Công ty cũng đã tập trung nâng cấp, cải tạo các mạng lưới điện tốt, an toàn hơn và bán điện tới các hộ tiêu dùng. Do vậy mà Công ty luôn nâng cao được chất lượng sản phẩm, công trình để đảm bảo hệ thống mạng lưới điện ổn định và an toàn. Đặc biệt là các vùng sâu vùng xa và các vùng ở hải đảo. 5. Đẩy nhanh việc thu hồi vốn Thực tế cho thấy trong những năm qua Công ty huy động đủ số VLĐ cần thiết cho quá trình SXKD nhưng lại bị chiếm dụng một số không nhỏ VLĐ. Do đó Công ty phải có biện pháp thu hồi vốn đầy đủ, kịp thời VLĐ bị chiếm dụng ở khách hàng để bổ sung cho nguồn vốn lưu động, giúp Công ty sử dụng chúng có hiệu quả hơn. Để tránh tình trạng bị chiếm dụng VLĐ, trong thời gian tới Công ty phải thực hiện tốt công tác quản trị kinh doanh tăng thu nhập, tiết kiệm vốn. Bên cạnh đó Công ty cần sử lý tài sản chờ thanh lý. Đây là biện pháp giải quyết tình trạng ứ đọng vốn trong vòng quay của vốn qua đó tăng hiệu quả sử dụng vốn của Công ty. Do quá trình đổi mới mặt hàng và đa dạng hoá sản phẩm mà một số máy móc thiết bị hiện nay không còn sử dụng được hoặc chúng tiêu hao nhiều điện năng hay những sản phẩm làm trên các máy móc thiết bị này có chất lượng năng suất thấp. Bộ phận TS này thuộc nguồn vốn ngân sách cấp, nên Công ty có quyền chủ động trong việc thanh lý. Để tiến hành thanh lý nhanh số tài sản này, Công ty cần tiến hành các hoạt động như: thanh lý, đánh giá lại đúng giá trị thực của nó và tìm đối tác có nhu cầu mua lại các thiết bị máy móc này vì họ có ít vốn. Số tiền thu giải quyết ứ đọng VCĐ, sẽ phục vụ đầu tư mới thiết bị khai thác khả năng của thiết bị. Như vậy góp phần tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ của Công ty. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là nền kinh tế thị trường mở cửa của nước ta thì các DN muốn tồn tại và phát triển bằng mọi cách phải sử dụng đồng vốn một cách hợp lý nhất, có hiệu quả nhất. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý DN nói chung và quản lý tài chính nói riêng phải luôn có những phương pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn SXKD nói riêng, hiệu quả SXKD nói chung. Với đội ngũ lãnh đạo năng động và có kinh nghiệm, Công ty làm ăn có hiệu quả, đời sống của công nhân viên ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn một số những tồn tại trong việc tổ chức và sử dụng vốn SXKD. Để khắc phục tình trạng này, Công ty cần xem xét những giải pháp đã nêu trên, tạo điều kiện cho Công ty đứng vững trong thị trường và tăng hiệu quả SXKD. Xuất phát từ ý nghĩ này, trong thời gian thực tập tại Công ty Điện lực I Hà Nội , em đã chọn chuyên đề Vốn kinh doanh và một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn, dù có sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Đào Duy Hưng và tập thể cán bộ công nhân viên phòng Tài Chính – Kế Toán của Công ty đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Song chuyên đề của em vẫn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong những ý kiến đóng góp của thầy cô, tập thể cán bộ phòng TC – KT của Công ty và các bạn để Chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Mục lục Lời nói đầu Chương I: Những vấn đề chung DN trong nền kinh tế thị trường DN sản xuất kinh doanh Những nhân tố ảnh hưởng đến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12015.DOC
Tài liệu liên quan