Tài liệu Đề tài Việc tín dụng cho hộ nông dân ở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Mỹ Hào: LỜI MỞ ĐẦU
Đói nghèo là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường, nó tồn tại một cách khách quan và nó là vấn đề có tính quy luật. Đặc biệt ở nước ta trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trườngvới xuất phát điểm thấp thì tình trạng đói nghèo lại càng không thể tránh khỏi thậm trí còn trầm trọng và gay gắt hơn. Đói nghèo không phải là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến ở khắp các vùng trong phạm vi toàn quốc từ thành thị đến nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng dân tộc thiểu số...
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng đã đưa nền kinh tế đất nước đạt được những thành tựu đáng kể. Trước hết là sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, năng xuất và sản lượng các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi tăng khá nhanh. Từ một nước phải lo nhập khẩu lương thực, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Cơ cấu sản phẩm nông nghiệp nói riêng và ...
60 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1000 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Việc tín dụng cho hộ nông dân ở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Mỹ Hào, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đói nghèo là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường, nó tồn tại một cách khách quan và nó là vấn đề có tính quy luật. Đặc biệt ở nước ta trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trườngvới xuất phát điểm thấp thì tình trạng đói nghèo lại càng không thể tránh khỏi thậm trí còn trầm trọng và gay gắt hơn. Đói nghèo không phải là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến ở khắp các vùng trong phạm vi toàn quốc từ thành thị đến nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng dân tộc thiểu số...
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng đã đưa nền kinh tế đất nước đạt được những thành tựu đáng kể. Trước hết là sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, năng xuất và sản lượng các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi tăng khá nhanh. Từ một nước phải lo nhập khẩu lương thực, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Cơ cấu sản phẩm nông nghiệp nói riêng và cơ cấu sản xuất nông thôn nói chung đã từng bước chuyển dịch hướng tới phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, đồng thời đã xuất hiện nhiều mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn như: Các làng nghề truyền thống, các trang trại, các tổ hợp dịch vụ... Đời sống của người nông dân dần đước cải thiện về mọi mặt.
Song cùng với sự phát triển đó sự phân hoá giữa giàu nghèo có xu hướng ngày càng tăng, một bộ phận dân cư vươn lên làm ăn có hiệu quả trong cơ chế thị trường thu nhập cao trở lên giàu có, bên cạnh đó không Ýt người do môi trường điều kiện tự nhiên, khí hậu khắc ngiệt, địa hình phức tạp thiên tai mất mùa... và nhiều nguyên nhân khác dẫn tới ngưỡng cửa đói nghèo.
Mét trong những yêu cầu bức súc hiện nay đang là vấn đề nổi cộm lên như một trở ngại lớn đối với hộ nông dân nghèo là thiếu vốn phục vụ cho sản xuất nhất là vốn cho các hộ nông dân nghèo có điều kiện sản xuất nhưnh đang trong tình trạng thiếu vốn, nghèo đói.
Tuy nhiên để ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì phải cần có nhiều điều kiện như vốn lớn muốn như vậy thì phải có những chính sách, những biện pháp huy động vốn cụ thể bên cạnh những phương hướng hoạt động cụ thể, cách thức triển khai hoạt động như thế nào cho đạt hiệu quả nhất đó.
Xuất phát từ những vấn đề đó, qua thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp, em đã lựa chọn đè tài này: “Việc tín dụng cho hộ nông dân ở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện mỹ hào ”làm báo cáo chuyên đề thực tập.
Trong báo cáo này chủ yếu về những vấn đề lý luận của việc thực hiện các chính sách và thể lệ cho vay đối hộ nông dân nghèo.
Chuyên đề được chia thành 3 phần:
Lời mở đầu
Nội dung
Tổng quan về kinh tế hộ nông dân
Hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với hộ nông dân .
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với hộ nông dân.
Kết luận.
B- NỘI DUNG
I) Tổng quan về kinh tế hộ nông dân
1) Khái niệm và những đặc trưng cơ bản về kinh tế hộ nông dân
Từ lâu chúng ta quan niệm: Hộ gia đình ở nông thôn làm nông nghiệp được gọi là nông hộ. Phát triển kinh tế hộ nông dân là phát triển kinh tế gia đình nông dân. Hầu như tất cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động của nông hộ.
Từ đó ta có thể hiểu kinh tế hộ nông dân ( kinh tế nông hộ ) là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội trong đó các nguồn lực như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi là của chung để tiến hành sản xuất. Những thành viên trong nông hộ có cùng chung một ngân quỹ, cùng ở, sinh hoạt chung một nhà. Mọi quyết định sản xuất kinh doanh và đời sống phụ thuộc vào chủ hộ. Được Nhà nước thừa nhận và hỗ trợ tạo điều kiện để phát triển. Do vậy hộ không thuê lao động, không có khái niệm tiền lương và không tính được lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Nông hộ chỉ có thu nhập của tất cả các hoạt động kinh tế. Đó là sản lượng thu được hàng năm của hộ trừ đi chi phí mà hộ đã bỏ ra phục vụ sản xuất.
Kinh tế nông hộ tồn tại độc lập với các phương thức sản xuất xã hội, nên khi phương thức xã hội nào đó bị thủ tiêu thì kinh tế nông hộ vẫn tồn tại. Nó có một số đặc trưng cơ bản là:
Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình quản lý sử dụng các yếu tố sản xuất do sở hữu trong nông hộ là sở hữu chung. Mặt khác do sở hữu trong nông hộ dựa trên cơ sở kinh tế chung và chung một ngân quỹ nên hiệu quả sử dụng lao động trong kinh tế nông hộ cao.
Lao động quản lý và lao động trực tiếp trong nông hộ có sự gắn bó chặt chẽ. Trong nông hộ, chủ hộ thường vừa là người điều hành quản lý đồng thời lại là người trực tiếp tham gia lao động sản xuất nên tính thống nhất giữa lao động quản lý và lao động trực tiếp cao.
Do kinh tế nông hộ thường được tổ chức với quy mô nhỏ hơn các loại hình doanh nghiệp nông nghiệp khác nên sự điều hành sản xuất và quản lý cũng đơn giản gọn nhẹ. Đồng thời thời tăng khả năng thích nghi và tự điều chỉnh rất cao. Nếu gặp điều kiện thuận lợi thì hộ tập trung nhân lực, thậm chí còn bớt khẩu phần tất yếu của mỗi thành viên để mở rộng quy mô sản xuất. Còn nếu gặp khó khăn thì thu hẹp quy mô sản xuất bằng cách quay về sản xuất tự cung tự cấp.
Có sự gắn bó chặt chẽ giữa quá trình sản xuất với lợi Ých của người lao động. Do mọi thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau cả trên cơ sở kinh tế và huyết tộc nên kết quả sản xuất kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp tới lợi Ých kinh tế thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển sản xuất của mỗi cá nhân, là nhân tố nâng cao hiệu quả sản xuất của kinh tế nông hộ.
2) Sự phân loại kinh tế nông hộ
Kinh tế nông hộ được chia thành bốn loại căn cứ vào tính chất, đặc diểm sau:
a) Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động:
Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không phản ứng với thị trường: loại hộ này có mục tiêu là tối đa hoá lợi Ých, tự cấp tự túc những sản phẩm cần thiết để phục vụ trong gia đình.
Hộ nông dân bắt đầu có phản ứng với thị trường: loại hộ này còn gọi là “ nửa tự cấp ”, ở đây hộ có phản ứng với thị trường , giá cả nhưng ở mức độ thấp.
Hộ nông dân sản xuất hàng hoá là chủ yếu: loại hộ này mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị trường vốn, đất đai, lao động...
b) Theo tính chất sản xuất:
Hộ thuần nông: là loại hộ chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp.
Nông hộ kiêm: là loại hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề tiểu thủ công nghiệp.
Nông hộ chuyên: là loại hộ làm dịch vụ kỹ thuật cho nông nghiệp ( cơ khí, mộc, rèn, sản xuất vật liệu xây dựng, loại hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều kiện cho phép.
c) Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ: vận tải...)
Nông hộ buôn bán: loại hộ này tập trung ở nơi đông dân cư, họ có quầy hàng riêng hoặc buôn bán ở chợ.
Các
Hộ giàu
Hộ khá
Hé trung bình
Hộ nghèo
Hộ đói
Sự phân biệt này thường dựa vào quy định chung hoặc quy định riêng ở từng địa phương.
3. Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển kinh tế hộ nông dân với ngành nông nghiệp – nông thôn Việt Nam
Muốn phát triển nông nghiệp – nông thôn không thể không bàn đến nông dân, nhất là với các nước chưa phát triển như nước ta.Nông dân quản lý và sử dụng đại đa số các nguồn lực sản xuất: đất đai, lao động, tư liệu sản xuất ( chiếm khoảng 80% dân số và trên 70% lao động xã hội ). Mức GDP trong nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn 35% so với tổng thu nhập . Do đó khi nghiên cứu nền kinh tế quốc dân ta không thể không nghiên cứu kinh tế hộ nông dân ( kinh tế nông hộ ).
Kinh tế nông hộ đã góp phần làm tăng nhanh sản lượng sản phẩm cho xã hội như lương thực, thực phẩm, các sản phẩm cây công nghiệp, nông sản xuất khẩu...ở nước ta, kinh tế nông hộ tuy quy mô còn nhỏ, phân tán và lượng vốn còn Ýt nhưng đã cung cấp cho xã hội:
+ 95% sản lượng thịt.
+ 90% lượng trứng.
+ 93% sản lượng rau quả.
+ Sản xuất nông hộ chiếm 48% giá trị tổng sản lượng của ngành nông nghiệp.
Góp phần sử dụng đầy đủ và có hiệu quả các yếu tố sản xuất nh đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất.
Tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân ở nông thôn.
Bằng nhiều biện pháp cụ thể, Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho kinh tế nông hộ phát triển: mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho nông hộ, giảm bớt những thủ tục phiền hà trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế....Kinh tế nông hộ nhờ đó mà cũng đã có một số thay đổi lớn, làm cho sản lượng lương thực qua các năm không ngừng tăng lên. Giá trị nông sản xuất khẩu tăng gần 6 lần trong 10 năm đổi mới: từ 542 triệu USD( 1987 ) lên 3.200 triệu USD( 1996 ) chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ( Theo đánh giá của Ban nông nghiệp TW ).
4) Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân :
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Thực tế cho thấy tín dụng ngân hàng kích thích sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng tích tụ vốn để đầu tư vao quá trình sản xuất nhằm nâng cao lơi nhuận cho toàn bộ nền kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, tín dụng ngân hàng giữ một vai trò quan trọng thể hiện ở các mặt sau đây:
-Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, đồng thời góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
-Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn đảm bảo tốt nhất yêu cầu nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn.
-Tín dụng ngân hàng góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hach toán kinh tế của các doanh ngiệp.
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Như chúng ta biết, nông ngiệp nông thôn nước ta có một vai trò và vị trí quan trọng đặc biệt, vì vậy trông những năm gần đây, Đảng và chính phủ ta đã rất chú trọng tập trung đầu tư trong nông nghiệp nông thôn, đẩy mạnh CNH-HĐH trong nông thôn, nâng cao đời sống người dân đặc biệt là đối với các hộ nghèo đói (chủ yếu ở trong khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa), muốn làm những điều này Đảng và chính phủ ta đã có nhiều chính sách yêu đãi đối với các hộ đói nghèo, áp dụng các chính sách như: hỗ trợ các hộ nghèo đói về vốn thông qua hoạt động của các ngân hàng đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mà cụ thể là ngân hàng phục vụ người nghèo. Đất nước ta đang từng ngày đổi mới, từng bước vươn lên hoà nhập cùng thế giới nhưng tỷ lệ nghèo đói ở nước ta còn cao cho nên vấn đề đâu tư phát triển nông nghiệp nông thôn đặc biệt là vấn đề giảm bớt tỷ lệ các hộ nghèo đói của nước ta là một vấn đề hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước ta. Chính vì vậy mà tín dụng ngân hàng có vai trò hêt sức quan trọng trong vấn đề giảm bớt tỷ lệ các hộ nghèo đói trong cả nước. Nhận thức đầy đủ vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn, tại Hội nghị lần thứ V khoá VII của Đảng đã chỉ rõ “Khai thác phát triển các nguồn tín dụng của nhà nước và nhân dân tạo điều kiện tăng tỷ lệ hộ nông dân được vay vốn sản xuất, ưu tiên cho các hộ nghèo, vung nghèo vay vốn để sản xuất”.
Một nền kinh tế không thể tăng trưởng và phát triển một cách bền vững, ổn định mỗi khi trong xã hội vẫn còn tồn tại tỷ lệ hộ nghèo đói khá cao. Do vậy phát triển nông nghiệp nông thôn để giải quyết vấn đề đói nghèo đã và đang trở thành một yêu cầu cấp bách không chỉ về mặt phương diện kinh tế mà còn cả về phương diện xã hội. Đầu năm 1998 Chính phủ quyết định xoá đói giảm nghèo là một trong 7 chương trình quốc gia. Việc tăng cường huy động vốn trong và ngoài nước. Đòi hỏi phải xây dựng và đề xuất những giải pháp hữu hiệu hơn để giải quyết giảm số hộ nghèo đói nhanh hơn tăng số hộ giàu và làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Chính vì vậy mà vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo là vô cùng quan trọng trong tình hình ngày nay.
5) Các nhân ố ảnh hưởng đến việc sản xuất của hộ nông dân ,để ngân hàng có hướng giải quyết hợp lý
5.1) Nhân tố về các yếu tố sản xuất .
Thứ nhất là đất đai.
Các HND sản xuất kinh doanh và thu hoạch các sản phẩm chủ yếu từ ruộng đất do đó đất đai có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sản xuất của kinh tế HND cả về số lượng lẫn chất lượng . Quy mô đất đai càng lớn càng lớn càng phản ánh rõ quy mô sản xuất kinh doanh của hộ và ngược lại.
Tuy nhiên quy mô đất đai bình quân mỗi hộ còn thấp đặc biệt là các hộ sản xuất hàng hoá cần nhiều đất để phát triển trang trại
Thứ hai là vốn .
Vấn đề vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp là đặc biệt quan trọng . Hiện nay phần lớn các HND ỏ các tỉnh miền núi còn nghèo vì vậy họ rất cần vốn để sản xuất . Vốn được coi nh nhân tố quyết định sự phát triển của kinh tế HND . Muốn vậy cần có biện pháp thích hợp đáp ứng mong muốn cho các HND để họ có vốn sản xuất cần có sự điều chỉnh về cường độ cho vay vốn và thời điểm vay vì sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ.
Thứ ba là lao động.
Quá trình sản xuất được thành lập trên cơ sở kết hợp các tư liệu sản xuất và con người . Vì vậy lao động có vai trò rất quan trọng với quá trình phát triển của kinh tế HND . Nếu không có con người thì không thể tiến hành sản xuất được . Nếu lao động được đào tạo có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng thành thạo, có khả năng hiệp tác và đạo đức nghề nghiệp thì quá trình sản xuất có hiệu quả hơn, năng suất lao động cao hơn ngược lại nếu lao động không có trình độ hoặc có trình độ chuyên môn thấp quá trình sản xuất sẽ kém hiệu quả .
5.2).Nhân tố về cơ sở hạ tầng .
Địa hình các tỉnh miền núi phía Bắc đa phần là đồi núi , do đó , cơ sở hạ tầng vùng này rất phức tạp và kém phát triển .
Đường giao thông còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng . Số đường được giải nhựa rất Ýt , đường nhỏ , hẹp ,nhiều dốc điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đi lại , vận chuyển hàng hoá của các HND . Nó làm cho quá trình tiêu thụ nông sản gặp nhiều khó khăn và hạn chế sự đầu tư của các thành phần kinh tế khác vào vùng này .
Hệ thống thuỷ lợi thiếu hệ thống mương máng nội đồng cũng làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của các HND đặc biệt trong mùa khô nhiều nơi vùng cao khô ng có nước tưới làm nhiều diện tích gieo trồng bị hạn hán . Do thiếu kênh dẫn nước nội đồng nên các HND không chủ động được trong sản xuất , ảnh hưởng đến thời vụ gieo trồng làm cho kết quả sản xuất giảm .
Hệ thống điện , trường học , thông tin liên lạc còn yếu kém về nhiều mặt ảnh hưởng đến quá trình tiếp cận thông tin của các HND , chữa trị bệnh không kịp thời , tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cao , tỷ lệ trẻ em chưa được đến trường còn cao.
Vấn đề xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc cũng rất phức tạp do tập quán sinh hoạt của các dân tộc khác nhau . Đa phần các HND còn nghèo, đời sống khó khăn ,thu nhập thấp các hoạt động văn hoá xã hội không được quan tâm , các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng , sinh đẻ không có kế hoạch .
5.3). Nhân tố về chính sách vĩ mô.
Nhân tố này thể hiện sự tác động của Nhà nước đến sự phát triển của kinh tế HND . Nếu chính sách đúng, hợp lý tác động vào đúng trạng thái của kinh tế HND thì sẽ góp phần thúc đẩy , kích thích sự phát triển của kinh tế HND . Ngược lại , nếu chính sách không đúng , không hợp lý thì sẽ trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của kinh tế HND bao gồm :
+ Chính sách nhiều thành phần kinh tế : Đó là kinh tế Nhà nước , kinh tế tập thể ,kinh tế tư nhân , kinh tế hộ gia đình , kinh tế có nhân tố nước ngoài . Điều đó , nói lên kinh tế HND phát triển trong mối quan hệ hợp tác , liên doanh , liên kết với các thành phần kinh tế nhằm sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn . Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển
+ Chính sách đầu tư và hỗ trợ cho các tỉnh miền núi .
Với những điều kiện về sản xuất không được thuận lợi vì vậy sự ưu tiên đầu tư của Nhà nước cho các tỉnh miền núi có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát của kinh tế HND .Đầu tư trước hết vào việc xây dựng và cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông , điện , các cơ sở chế biến , đưa tiến bộ khoa hộc công nghệ vào sản xuất , chuyển đổi cơ cấu cây trồng , vật nuôi , phát triển các nghành nghề mới , khôi phục các làng nghề truyền thống . Hỗ trợ các tỉnh miền núi trong việc xoá đói , giảm nghèo .
+ Các chính sách liên quan khác nh chính sách thuế , chính sách giá cả , chính sách vốn…
Chúng ta chưa thực hiện nghiêm túc đướng lối đúng đắn đã được nêu trong các nghị quyết Đại hội và nhiều nghị quyết Trung ương: coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay.
Một số chính sách của Đảng và Nhà nước chậm đổi mới, chưa thông thoáng, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn và đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là các chính sách về đất đai, khoa học công nghệ, tín dụng, thị trường. Việc nghiên cứu vận dụng các kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới vào điều kiện của ta còn nhiều hạn chế. Đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp.
Trong điều hành chưa chú ý nắm bắt thực tiễn, không kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, uốn nắn sai lầm, lệch lạc trong thực hiện chủ trương, chính sách; chậm tổng kết kinh nghiệm và những mô hình mới, những nhân tố mới của quần chúng, của các đơn vị cơ sở. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố để phát huy vai trò chủ đạo và hướng dẫn, hỗ trợ kinh tế hộ, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân. Công nghiệp, thương nghiệp chưa liên kết chặt chẽ nên chưa phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Luật đất đai có những quy định chưa phù hợp; việc thực hiện còn nhiều khuyết điểm và lúng túng.
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn và yêu cầu tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa. Một số địa phương chưa xác định đúng tiềm năng, nội lực cần tập trung phát huy là ở nông nghiệp, nông thôn. Hệ thống quản lý, chỉ đạo nông nghiệp và phát triển nông thôn còn phân tán, hiệu lực thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
6) Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động của HND có thể phân biệt được các HND.
+ Kiểu HND hoàn toàn tự cấp không phản ứng với thị trường.
Mục tiêu của HND này là tối đa lợi Ých.Lîi Ých ở đây là sản phẩm cần để tiêu dùng trong gia đình. Người nông dân phải lao động để sản xuất ra lượng sản phẩm cho đến lúc không đủ sức để sản xuất nưã. Lao động nông nhàn (thời gian không lao động) cũng được coi nh một lợi Ých. Nhân tố ảnh hưởng nhất đến khả năng lao động của hộ là cấu trúc dân số của gia đình (tỷ lệ giữa tay làm và miệng ăn).
Hộ nông dân tự cấp hoạt động nh thế nào phụ thuộc vào các điều kiện sau:
+ Khả năng mở rộng diện tích (có thể tăng vụ) được hay không.
+ Có thị trường lao động hay không. Vì người nông dân có thể bán sức lao động để tăng thu nhập nếu có chi phí của lao động cao hơn.
+ Có thị trường vật tư hay không. Vì người nông dân phải bán một Ýt sản phẩm để mua vật tư cần thiết hay một số hàng tiêu dùng khác.
Kiểu hộ nông dân chủ yếu tự cấp có bán một phần sản lượng để đổi lấy hàng tiêu dùng. Kiểu hộ này có phản ứng Ýt nhiều với giá cả (chủ yếu giá vật tư).
Nh vậy, kiểu hộ này bắt đầu phản ứng với thị trường, tuy mục tiêu chủ yếu vẫn là tự cấp.
Kiểu hộ nông dân bán phần lớn sản lượng, phản ứng nhiều với giá thị trường.
Kiểu hộ nông dân hoàn toàn sản xuất hàng hoá có mục tiêu là lợi nhuận tối đa nh một xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Qua sự phân loại HND trên có thể thấy mục tiêu sản xuát của hộ quyết định sự lựa chọn sản phẩm kinh doanh, quyết định mức độ đầu tư, mức độ phản ứng với giá cả đầu tư, lao động và sản phẩm của thị trường.
Hiện nay ở nước ta vẫn tồn tại hai quan điểm về hộ nông dân. Quan điểm thứ nhất cho rằng các kiểu hộ là tự cấp , tự túc với mục tiêu chủ yếu là để tiêu dùng đó là các hộ sản xuất nhỏ. Kiểu hộ này chủ yếu có ở các tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc. Quan điểm thứ hai cho rằng một số hộ có khả năng sản xuất hàng hoá với mục tiêu lợi nhuận cao nhất nhưng do hạn chế về điều kiện sản xuất nên trình độ sản xuất vẫn ở mức sản xuất hàng hoá với qui mô nhỏ. Kiểu hộ này ở các vùng đồng bằng trong cả nước đặc biệt là các tỉnh hạn chế về đất đai.
Hộ nông dân tiến hoá từ tình trạng tự cấp sang sản xuất hàng hoá ở các mức độ khác nhau. Trong quá trình tiến hoá Êy HND thay đổi mục tiêu và cách thức kinh doanh cũng như phản ứng với thị trường. Tuy vậy, thị trường ở nông thôn là thị trường chưa hoàn chỉnh do đó HND thiếu trình độ kỹ thuật và quản lý, thiếu thông tin thị trường…được coi là những hạn chế nhất định của HND.
7) Hiệu quả tín dụng:
Hiệu quả tín dụng có nghĩa là phát triển việc cho vay đối với các hộ nghèo nhằm giúp đỡ người dân nghèo cải thiện được đời sống, thoát ra cảnh đói nghèo, giảm tỷ lệ đói nghèo xuống mức thấp nhất. Đó chính là khái niệm về hiệu quả tín dụng đối với các ngân hàng phục vụ cho người nghèo như ngân hàng người nghèo hay ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, còn hiệu quả tín dụng đối với từng ngân hàng khác nhau thì có những khái niệm khác nhau về vấn đề này. Trong đề án này là nói về hiệu quả tín dụng đối với các hộ nghèo nên khái niệm về hiệu quả tín dụng chủ yếu liên quan tới vấn đề là giúp đỡ người nghèo cải thiện cuộc sống và hơn nữa ngân hàng người nghèo là ngân hàng chính sách nhằm giúp đỡ người nghèo cải thiện cuộc sống theo định hướng của nhà nước.
Để đạt được hiệu quả tín dụng với mức cao nhất thường thì có nhiều yếu tố tác động làm hiệu quả tín dụng không đạt được kết quả theo như mong muốn trong đó có một số các nhân tố như: Đất nước ta là một nước đang phát triển, đi lên từ một nước thuần nông nghiệp, lại phải trải qua 2 cuộc chiến tranh bị tàn phá nặng nề cho nên về cơ bản điểm xuất phát của nước ta là rất kém, đời sống của nhân dân còn rất kém. Đất nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu có nhiều sông ngạch, cơ sở hạ tầng thấp kém, giao thông thuỷ bộ kém phát triển dẫn đến trong công tác tín dụng gặp nhiều khó khăn đậưc biệt là các vùng sâu, vùng xa dân cư sống thưa thớt. Do nước ta là mọt nước thuộc khu vực ôn đới gió mùa nên năm nào cũng có bão mạnh đổ bọ vào gây khó khăn cho đời sống nhân dân, ảnh hưởng tới công tác tín dụng, đồng vốn tín dụng cho dân vay trong trường hợp này có nguy cơ mất điều này cũng ảnh hưởng tới hiêu quả tín dụng. Trình độ dân trí chưa cao khi họ nhân được vốn tín dụng họ không biết làm sao cho có lợi đó là điều rất thiệt thòi cho chóng ta đặc biệt là cho tín dụng ngân hàng, do thiếu hiểu biết nhiều người còn chưa biết đến tín dụng vay vốn, khi có vốn trong tay người dân không dám mạnh dạn đầu tư kinh doanh, không dám cầm tiền đưa vào kinh doanh chấp nhận rủi ro. Đó là những nhân tố ảnh hưởng một cách khách quan tới hiệu quả tín dụng cón những nhân tố chủ quan đó là những chính sách đối với tín dụng, cơ chế quản lý kém hiệu quả. Về chính sách đối với tín dụng chưa đồng bộ còn bộc lộ nhiều sơ hở kém linh hoạt không đáp ứng được cơ chế thị trường, cơ chế quản ký yếu kém dẫn đến trường hợp một số cán bộ yếu kém đạo đức lợi dụng chiếm đoạt tài sản của công, quản lý không mang lại hiệu quả, không mạnh dạn áp dụng các biện pháp chính sách trong công việc
Xét trong phạm vi doanh nghiệp, vốn là toàn bộ giá trị tài sản được thể hiện dưới dạng tài sản cố định và tài sản lưu động. Còn ở đây, với phạm vi đề cấp là nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân thì vốn được hiểu là giá trị của tất cả các tài sản đầu vào dùng trong quá trình sản xuất của nông hộ. Hay nói một cách khác là toàn bộ khả năng của nông hộ dùng vào quá trình tái sản xuất.Khả năng đó được thể hiện dưới hình thức: tiền, tài sản, sản phẩm dùng vào sản xuất được sản xuất ra trước đó. Đó là kết quả của quá trình sản xuất trước là chủ yếu. Do vậy ta cũng có thể hiểu vốn của nông hộ để phát triển kinh tế là sản phẩm của quá trình tái sản xuất của kinh tế nông hộ.
Vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân. Nhờ có vốn mà hộ nông dân đã có thể đầu tư lớn hơn vào tái sản xuất mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, đa dạng hoá sản phẩm...Ngoài ra, người nông dân còn tạo được những điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất:
Khắc phục được những hạn chế rủi ro do thiên nhiên gây ra bằng cách xây dựng các công trình thuỷ lợi, hệ thông tưới tiêu...
Giải quyết vấn đề cải tạo đất đai ( chua phèn, nhiễm mặn...)
Mua những loại giống tốt cho năng suất cao. Mở rộng sản xuất bằng việc trồng thêm các loại cây ăn quả, chăn nuôi các loại gia sóc gia cầm...
Phân loại nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân:
Theo tính chất sở hữu: - vốn tự có
- vốn đi vay
Theo hình thái biểu hiện: - Vốn bằng tiền.
- Vốn bằng hiện vật.
Theo mục đích sử dụng: - vốn dùng vào sản xuất
- vốn dùng cho đời sống và tiêu dùng khác
Theo thời hạn vốn vay: - vay ngắn hạn
- vay trung hạn
- vay dài hạn.
Trong những năm gần đây, kinh tế hộ nông dân với chiều hướng ngày càng được mở rộng và phát triển có hiệu quả, nên việc huy động tạo được nguồn vốn cần thiết và hợp lý để phát triển sản xuất có ý nghĩa quan trọng đối với từng hộ nông dân. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách, cụ thể, đặc biết là chính sách mở rộng cho vay, mượn vốn, mở rộng tín dụng nông thôn để tạo điều kiện cho các nông hộ có điều kiện phát triển sản xuất.
Khi hộ nông dân muốn tiến hành phát triển sản xuất kinh tế, ngoài các yếu tố đặc thù cơ bản của ngành nông nghiệp sản xuất ( ruộng, đất đai, lao động, tư liệu sản xuất...) thì hộ nông dân còn cần phải có nguồn tài chính thích hợp với quy mô sản xuất của mình.
Để tạo được nguồn tài chính đó, hộ nông dân có thể huy động, tạo ra từ các nguồn chủ yếu sau:
Phần tiết kiệm từ quá trình sản xuất của hộ
Tiết kiệm = thu nhập - tiêu dùng
Nh phạm vi đề cập ban đầu về nguồn vốn của hộ nông dân, thì tiền, tài sản, sản phầm dùng vào sản xuất được sản xuất ra trước đó, đó là kết quả của quá trình sản xuất trước là chủ yếu. Do vậy, nếu nh nông hộ tiết kiệm được một khoản tài chính lớn do biết cách tiêu dùng hoặc hạn chế dùng thì họ sẽ dành được một khoản tiền lớn để đầu tư vào sản xuất, phát triển kinh tế. Nó đồng nghĩa với họ tạo được ra một nguồn vốn lớn cho sản xuất từ tiết kiệm.
Vốn vay
Đối với nguồn vốn này khi huy động phải tính toán dựa trên nhu cầu cần thiết và đảm bảo tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay, có phương án chủ động chi trả, chi khi đến thời han yêu cầu hay thoả thuận. Khi huy động loại vốn này, hộ nông dân cần phải có: đơn từ, thế chấp, xem xét lãi suât vay, thời hạn vay, lượng vay... Hộ nông dân có thể vay vốn từ các nguồn:
+ Tổ chức tín dụng chính thống: Đó là các tổ chức được Nhà nước thừa nhận và có chức năng kinh doanh tiền tế.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: đây là tổ chức lớn nhất cung ứng vốn cho nông dân với tư cách tổ chức kinh doanh tiền tệ hợp pháp.
Quỹ tín dụng ( với tư cách là một công cụ tài chính ): Từ 1999, đựoc Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý và cho vay các nguồn tài trợ của Nhà nước, tổ chức quốc tế ... cho các dự án ( việc làm, xoá đói giảm nghèo, lao động nữ...)
Ngân hàng Chính sách xã hội
Theo tài liệu thống kê 2007, doanh sè cho vay cả hộ nông dân để phát triển kinh tế ( % ) là:
- Ngân hàng Nông nghiệp : 86,8%
- Quỹ tín dụng : 13%
- Ngân hàng Chính sách xã hội : 20%
+ Tổ chức, cá nhân không chính thống: đây là hình thức tồn tại khá phổ biến ở nông thôn nước ta:
Các tổ chức kinh doanh ( thường cho vay tiền với lãi suất cao hơn mức quy định của Nhà nước ).
Chơi hụi, chơi họ ...
Vay cá nhân ( cũng với lãi suất cao )...
Vốn từ thừa kế tách hộ: loại vốn này không phải ai cũng có. Nó phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nông hộ và không phải lúc nào nó cũng thể hiện dưới dạng vốn bằng tiền ( nó có thể là tư liệu sản xuất, ruộng đất đai...).
Vốn từ các nguồn đầu tư, tài trợ: đây cùng là loại vốn không phải hộ nông dân nào cũng có. Nguồn vốn này phụ thuộc vào sự phân bổ của Ngân sách Nhà nước, các dự án, chương trình đầu tư của các tổ chức nước ngoài và thường ưu tiên dành cho những vùng nông thôn khó khăn những hộ nông dân nghèo cần vốn để phát triển sản xuất hoặc những hộ nông dân có những sáng kiến mang lại hiệu quả kinh tế cao...
Tuy nhiên, khi hộ nông dân đã huy động được vốn thì vấn đề đặt ra lúc này là vốn đó sẽ phải được phân phối và sử dụng nh thế nào để đảm bảo tính hiệu quả của việc sử dụng vốn, đặc biệt là với những nguồn vốn vay.
Đối với nông dân, hộ nông dân, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước tham gia sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nụng, lõm, ngư nghiệp và các chủ thể kinh tế khác có liên quan được hỗ trợ kinh phí hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất nụng nghiệp.Khụng điều tiết thuế thu nhập trong những năm đầu đối với nguồn thu do ứng dụng thành công tiến bộ khoa học và công nghệ; miễn, giảm thuế cho các hoạt động ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; được đào tạo, bồi dưỡng miễn phí một phần hoặc toàn bộ. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý cấp xã về kiến thức khoa học và công nghệ để triển khai thực hiện các chương trình, dự án về ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ ở nông thôn, đặc biệt ở cỏc vựng khó khăn. Coi trọng việc chuyển giao tri thức để lực lượng lao động tại chỗ có thể chủ động lựa chọn, tiếp nhận tiến bộ khoa học và công nghệ; tạo điều kiện cho nông dân vay vốn tín dụng (phải trả lãi nhưng với lãi suất thấp) để có thể tự quyết định hình thức đầu tư phù hợp nhất cho kinh tế hộ hoặc trang trại của họ.
5) Phương thức phân phối và sử dụng nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân:
Quá trình sử dụng vốn xét về mặt bản chất chính là quá trình thực hiện chuyển vốn bằng tiền của các nông hộ thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất, kinh doanh hàng hoá nông nghiệp. Như vậy quá trình sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế hộ nông dân là duy trì tiềm lực sẵn có của đất đai hoặc tiềm lực lớn hơn cho diện tích đất đai cố định nhằm nâng cao sản lượng hàng hoá nông nghiệp phục vụ cho múc đích của hộ nông dân.
Với mục đích phân phối và sử dụng vốn có hiệu quả, hộ nông dân cần phải xác định rõ:
Đầu tư vốn vào cái gì?
Đầu tư vốn như thế nào?
Số lượng vốn là bao nhiêu?
Khi người nông dân vay vốn để phát triển kinh tế thì họ đã hình thành nên một mối quan hệ giữa:
người cho vay ( các tổ chức tài chính kinh doanh tiền tệ – chủ nợ ).
người đi vay ( hộ nông dân – người nợ).
Khi đã hình thành mối quan hệ này thì hộ nông dân không được phép tự mình quyết sử dụng nguồn vốn vay mà nó còn phụ thuộc vào chủ nợ. Bởi vì, khi hộ nông dân muốn vay vốn để phát triển kinh tế thì nguồn vốn cho vay lúc này có danh nghĩa là vốn vay để phát triển sản xuất, nó phân biệt với các loại vốn vay không dành cho mục đích này, hộ nông dân sẽ phải làm các thủ tục lập một dự án hay phương án sản xuất, kinh doanh cụ thể, nói một cách rõ ràng cách thức, kế hoạch sản xuất, số lượng vốn hoặc loại vốn dự tính cần vay,...sau khi lập xong phương án sản xuất hộ nông dân trình xin cấp vốn. Lúc này, trách nhiệm của người cho vay sau khi xác định rõ loại vốn vay họ sẽ tiến hành bước thẩm đinh dự án trên các yêu cầu:
+ tính khả thi của dự án
+ khả năng bảo toàn vốn của dự án
sau khi đã thẩm định xong thì các ngân hàng cho vay quyết định giải ngân theo dự án với người vay.
Còn về phía người vay, hộ nông dân thì có trách nhiệm :
phải tổ chức, triển khai, thực hiện dự án sản xuất đúng nh đơn xin vay vốn.
Trong quá trình thực hiện dự án nếu có gì thay đổi thì phải thông báo kịp thời tới ngân hàng.
Có trách nhiệm nộp lãi và hoàn trả vốn tuỳ theo thời hạn quy định của ngân hàng ( theo tháng, quý, năm hoặc hết chu kỳ vay... )
Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi của mình, các ngân hàng cho vay cùng cử người hướng dẫn cách thức phân phối sử dụng vốn đúng mục đích, kiểm tra việc tiến hành thực hiện dự án để đảm bảo đồng vốn mình cho vay được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Thông thường các ngân hàng phân phối nguồn vốn cho vay tới hộ nông dân dưới 3 dạng:
vốn ngắn hạn ( vốn vay dưới 1năm)
vốn trung hạn ( vốn vay dưới 3 năm)
vốn dài hạn ( vốn vay trên 3 năm)
ở đây các hộ nông dân sử dụng vốn tuỳ vào mức thu nhập của từng hộ:
Đối với loại hộ nghèo và hộ đói: nguồn vốn vay chủ yếu được dùng vào
cải thiện mức sống, thoát khỏi tình trạng hộ nghèo và đói, tạo điểm khởi đầu để phát triển sản xuất từ đó phát triển kinh tế. Họ không có những dự án lớn mà thường là những dự án quy mô nhỏ, đòi hỏi nguồn vốn không nhiều, quay vòng vốn nhanh. Đó thường là những hình thức sản xuất đơn giản đòi hỏi Ýt đầu tư: nuôi lợn, gia cầm, trồng cây ăn quả ngắn ngày..., bên cạnh đó họ có thể trích một phần nhỏ để ổn định cuộc sống đảm bảo cho nhu cầu sống của mỗi thành viên trong nông hộ. Những hình thức sử dụng vốn này có thể chưa có lãi cao, thu nhập chưa lớn song nó lại mang lại hiệu quả cao trong việc tạo nên một nguồn tích luỹ ban đầu, là cơ sở cho quá trình tái đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh tế cho những hộ này. Đồng thời nó đảm bảo cho quyền lợi của ngân hàng cho vay thu hồi được tiền vốn và đảm bảo lãi bởi vì đây thường là những nguồn vốn vay ngắn hạn.
Đối với loại hộ khá và hộ giàu: vốn được dùng nhằm mục đích mở rộng
sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hộ nông dân sang kinh tế trang trại vừa, lớn hoặc nhỏ tuỳ vào điều kiện hoàn cảnh của từng hộ. Do họ đã có tiềm lực kinh tế ban đầu khá vững chắc nên vốn này sẽ chỉ dành cho mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế. Có thể đầu tư vốn vào:
giống: tìm chọn những giống cây trồng, vật nuôi... mới có năng
suất cao, hiệu quả kinh tế lớn
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt, bảo quản
chế biến sau thu hoạch để nâng cao năng suất, đảm bảo chất lượng sản phẩm, đảm bảo giá trị của sản phẩm.
đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng một cách khoa học ( cải
tiến chuồng trại, đưa kỹ thuật hiện đại vào áp dụng một cách phù hợp...) nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
ngoài ra một số hộ nông dân còn sử dụng vốn để tự đầu tư thành
lập khâu bao tiêu sản phẩm sau thu hoạch, thiết lập những kênh phân phối, đại lý giới thiệu và bán sản phẩm với phạm vi rộng...
Để làm được điều nay, hộ nông dân đòi hỏi phải có một nguồn tài chính đủ lớn và mạnh, các ngân hàng cung cáp cho các hộ này nguồn vốn dài hạn hoặc trung hạn sau khi đã thẩm định và xét duyệt dự án, tính khả thi của dự án.
đối với hộ nông dân thuộc diện hé trung bình: mục đích sử dụng vốn
cũng nhằm mở rộng phát triển kinh tế nhưng quy mô chưa thật lớn như hộ giàu và khá do sự chênh lệch về kinh tế. Các hộ này cũng sử dụng vốn để cải tiến kỹ thuật sản xuất, chọn lựa tìm kiếm những giống mới cho năng suất chất lượng cao, một phần dành đầu tư vào cở sở hạ tầng, tiến tới loại hộ khá và giàu.
Các hộ nông dân muốn phát triển kinh tế có hiệu quả thì cần phải nhận thức được tầm quan trọng cuả vốn để từ đó có được phương thức phân phối và sử dụng đúng đắn và hợp lý.
Nguồn vốn và rủi ro lãi suất: Ngân hàng phải đương đầu với rủi ro trong mức chênh lệch lãi suất. Lãi suất thay đổi sẽ dẫn đến sự tăng hoặc giảm giá trị của tài sản hay những khoản thu nhập từ tài sản của ngân hàng.
Sù thay đổi trong lãi suất và cơ cấu nguồn vốn đều có thể làm tăng hoặc giảm đáng kể lợi nhuận cuả ngân hàng, tuy nhiên trong nhiều trường hợp đối với một số ngân hàng những thay đổi này đem lại cho họ một khoản thu nhập lớn nhưng số khác sẽ gặp rủi ro về lãi suất khi đó thu nhập tiền lãi ròng của ngân hàng bị thu hẹp thậm chí có thể là số âm nếu chi phí trả lãi tăng nhanh hơn thu nhập từ lãi. Như vậy, quản lý rủi ro lãi suất luôn gắn liền với quản lý nguồn vốn và sử dụng vốn.
Nguồn vốn của các ngân hàng ngày càng trở nên nhạy cảm hơn với lãi suất do sự biến động thường xuyên của lãi suất và sự phát triển của các công cụ nợ trên thị trường tiền tệ. Ngày nay, những người gửi tiền, nhà đầu tư có xu hướng sử dụng những tài sản tài chính ngắn hạn nhằm tránh rủi ro lãi suất thì các ngân hàng phải trả lãi suất hấp dẫn hơn nhằm khuyến khích những khoản tiền gửi có thời hạn dài hơn, hoặc phải xác định lại lãi suất một cách thường xuyên. Lãi suất trả cho nguồn vốn tuỳ theo sù thay đổi lãi suất trên thị trường.
Mặc dù trong thời gian gần đây ngân hàng đã tìm ra những phương pháp mới nhằm hạn chế rủi ro lãi suất (các hợp đồng tài chính kỳ hạn, các hợp đồng quyền, hợp đồng trao đổi lãi suất...) nhưng những rủi ro này vẫn chưa được và cũng không thể bị loại bỏ hoàn toàn. Hơn nữa, cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng ngày càng quyết liệt sẽ đẩy các ngân hàng lâm vào tình trạng phải đối mặt với nhiều rủi ro, nhất là rủi ro lãi suất vì cho vay và đầu tư chiếm phần lớn trong tổng tài sản.
Nguồn vốn và rủi ro thanh khoản:
Rủi ro về khả năng thanh toán luôn gắn chặt với cơ cấu, tính chất vận động của nguồn vốn. Để duy trì các mối quan hệ dài hạn với những người gửi tiền và quản lý các nguồn tiền gửi do những người gửi tiền luôn đòi hỏi những lợi Ých lớn hơn trên các khía cạnh lãi suất và dịch vụ mà ngân hàng cung ứng cho họ. Nếu không được đáp ứng thoả đáng, kịp thời những người này có thể rút tiền hoặc chuyển tiền đến gửi tại các ngân hàng khác. Do đó, yêu cầu quản lý rủi ro thanh khoản là sức Ðp rất lớn đối với các NHTM. Mặt khác, ngân hàng còn chịu rủi ro về việc nếu không đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và cho vay đối với những khách hàng chất lượng tốt, nếu không tăng nguồn tiền mặt kịp thời có thể sẽ mất nhiều khách hàng và dẫn tới sự sụt giảm về lợi nhuận. Tình trạng thiếu hụt tiền mặt cũng có thể dẫn đến người gửi tiền không ngừng rút vốn và cuối cùng là ngân hàng sụp đổ.
Cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các trung gian tài chính một mặt tạo cơ hội chọn lựa cho khách hàng gửi tiền, mặt khác nó buộc các ngân hàng phải quản lý các thành phần nguồn vốn chặt chẽ hơn. Nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng rất nhậy cảm với lãi suất, khả năng xuất hiện các dòng tiền ra lớn nên rủi ro về thanh toán càng lớn, vì vậy các ngân hàng cạnh tranh với nhau để có được nguồn vốn có kỳ hạn dài và ổn định.
Vốn và độ an toàn của ngân hàng:
Vốn chủ sở hữu thường không lớn trong tổng nguồn vốn nhưng nó có vai trò nh cái đệm để chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản- là điều có thể đưa ngân hàng đến tình trạng không trả được nợ.
Hệ số giữa nguồn vốn nợ so với vốn chủ hữu được gọi là hệ số đòn bẩy. Đó là một tiêu thức đánh giá độ an toàn, vì vậy luật pháp các nước quy định mức tổng tài sản tối đa ngân hàng có thể có so với vốn của chủ sở hữu, hoặc hạn chế khả năng huy động tiền gửi, khả năng hùn vốn, mua chứng khoán công ty của một ngân hàng trên cơ sở nguồn vốn tự có của nó.
Những thay đổi trong cơ cấu, chi phí nguồn vốn của ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận. Lợi nhuận sụt giảm dẫn đến tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu giảm từ đó hệ số đòn bẩy cũng nh chi phí nguồn vốn có thể tăng lên làm ảnh hưởng xấu đến độ an toàn của ngân hàng.
1.2.3. Các phương thức tạo lập vốn của NHTM
1.2.3.1 Huy động vốn
Các NHTM với tư cách là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính trung gian, nhận tiền gửi từ khách hàng có tiền nhàn rỗi, hoặc phát hành các công cụ tài chính nh các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu v.v..để thu hút vốn.
Thông qua việc làm trung gian thanh toán và chuyển hoá các phương tiện thanh toán ,các ngân hàng thu hút được số lượng lớn các tổ chức, cá nhân mở tài khoản tạo ra tiền gửi giao dịch . Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nên các NHTM thường xuyên cải tiến các phương tiện, mở ra nhiều tiện Ých, nâng cao công nghệ thanh toán để thắng thế trong việc hấp dẫn khách hàng gửi tiền và bán các dịch vụ cho khách hàng. ở các nước phát triển loại tiền gửi này giữ một vị trí tương đối quan trọng trong kết cấu nguồn vốn của NHTM, chẳng hạn ở Mỹ số tiền trên các tài khoản thuộc loại này chiếm khoảng 30% tiền gửi ngân hàng.
ở Việt Nam mét trong các yêu cầu bắt buộc khi mét doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh là phải mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một NHTM. Tài khoản này vừa là nơi thu nhận tiền từ những người mua hàng hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp này cung ứng, vừa là nơi bảo quản tài sản tài chính an toàn, khi cần có thể được chi trả bất cứ lúc nào và trong nhiều trường hợp, số dư của nó được dùng để bảo lãnh hay đặt cọc cho các hợp đồng hoặc các thoả ước khác. Qua đó ngân hàng vừa là thủ quĩ, vừa cung cấp dịch vụ thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân thường mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một hoặc một số NHTM nhất định.
Trong khi thực hiện là trung gian thanh toán các ngân hàng thương mại còn nhận được tiền gửi các tổ chức tín dụng là một loại tiền gửi giao dịch.
Để thu hút được tiền gửi phi giao dịch của các tổ chức và cá nhân, ngân hàng sử dụng các tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn các tổ chức kinh tế xã hội hoặc phát hành các loại giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi.
Ngân hàng phát hành thẻ tiết kiệm không kỳ hạn để thu hút những món tiền nhỏ lẻ hoặc những khoản tiền có thời gian nhàn rỗi ngắn. Tài khoản này có thể gửi thêm hoặc rót ra bất cứ lúc nào nhưng không được phát hành séc (đây là điểm khác biệt với tiền gửi giao dịch).
Do nhu cầu gửi tiền của khách hàng rất đa dạng tuỳ theo kế hoạch sử dụng tiền của họ trong hiện tại cũng như tương lai nên ngân hàng qui định nhiều loại kỳ hạn gửi tiền cho khách hàng lựa chọn ,có thể kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng hoặc 12 tháng.v.v..để thu hút tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Để huy động khối lượng vốn lớn theo nhu cầu tài sản từng thời kỳ, NHTM phát hành kỳ phiếu, trái phiếu với lãi suất hấp dẫn hơn vì đối tượng khách hàng này rất quan tâm đến thu nhập từ tài sản của họ .
Ngoài ra các NHTM còn cung cấp các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn đối với các tổ chức kinh tế- xã hội. Khi việc sử dụng vốn được kế hoạch trong tương lai, các tổ chức này gửi tiền theo kỳ hạn phù hợp một mặt nhờ ngân hàng bảo quản, mặt khác họ thu thêm được một khoản tiền lời do ngân hàng trả.
Ngoại trừ một số khoản tiền gửi giao dịch để đảm bảo khả năng thanh toán nh ký quĩ, bảo lãnh dự thầu hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng . v.v được qui định mang tính bắt buộc, các hình thức gửi tiền khác mang tính tự nguyện. Khách hàng có thể lựa chọn ngân hàng để gửi tiền theo các kỳ hạn khác nhau, do đó cạnh tranh về huy động vốn diễn ra quyết liệt giữa các NHTM, các tổ chức tài chính.
1.2.3.2 Vay các tổ chức tín dụng khác
Các ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng khác. Đây là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ để bổ xung dự trữ bắt buộc, bù đắp thiếu hụt trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn với lãi suất thoả thuận, tuy nhiên đây là nguồn vốn thường có thời hạn ngắn và chi phí cao nên việc vay mượn có tính tạm thời ,về lâu dài các NHTM tìm cách khai thác nguồn vốn tiền gửi để trả khoản nợ này.
1.2.3.3 Vay chiết khấu hay tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương
Việc vay vốn từ Ngân hàng Trung ương nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của nguồn vốn do sự giảm sút số vốn hiện có so với tài sản của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, nhu cầu khoản vay này phải phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Trung ương. ở nhiều nước khoản vay này phải ký quĩ bằng thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác. Đặc điểm nguồn vốn này là thời hạn ngắn do đó các NHTM phải tăng cường huy động các nguồn vốn khác để trả nợ ngay khi đến hạn .
II) Hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp với hộ nông dân.
1) Ngân hàng nông nghiệp mỹ hào :
NHNN được thành lập gồm có Hội đồng quản trị đứng đầu là chủ tịch hội đồng quản trị và các thành viên của hội đồng, người đứng ra quản lý trực tiếp là tổng giám đốc NHNN và ban Tổng giám đốc, Tổng kiểm soát Hội đồng quản trị, NHNN được thành lập ở tất cả các tỉnh trong cả nước, ở mỗi tỉnh lại có nhiều chi nhánh ở các huyện, quận và người lãnh đạo ở các tỉnh là giám đốc NHNN cùng ban lãnh đạo ngân hàng. Cùng với mô hình đặc thù, có Hội đồng quản trịvà Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp, đã tập hợp được sức mạnh tổng hợp các ngành, các cấp, các đoàn thể chính trị xã hội và đông đảo cộng đồng dân cư từ mọi miền đất nước góp tiền, góp sức phát huy tinh thần tương thân tương ái của dân tộc ta.Tính đến nay NHNN được thành lập ở hầu hết các tỉnh trong cả nước và hoạt động có nhiều hiệu quả.
Từ ngày thành lập và hoạt động, NHNN vừa kiện toàn bộ máy hoạt động và xây dựng cơ chế nghiệp vụ, vừa triển khai các hoạt động huy động vốn và cho vay nhưng cũng đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc cung cấp vốn tín dụng tới những hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Kết quả đó thể hiện:
Kết quả nguồn vốn huy động 6 tháng đầu năm 2008 nh sau:
Ngoại tệ: 1.073.000 USD
- Nội tệ: 2.942.372 triệu
Về kết quả cho vay: Với tổng nguồn vốn nêu trên, NHNN đã thực hiện cung cấp tới phần lớn các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn trên phạm vi toàn quốc. Tính đến ngày 30/9/2007, đã có hơn 5,3 triệu lượt hộ nông dân nhận được vốn vay tín dụng từ NHNN với tổng số tiÒn là 8.396 tỷ đồng.
NHNN-PTNT mỹ hào được đặt tại trung tâm của huyện, có đầy đủ các thành phần kinh tế. Trên địa bàn huyện, ngoài NHNN-PTNT còn có các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác nh: ngân hàng đầu tư, ngân hàng tài chính, các tổ chức tín dụng ở các xã. nhưng với nguyên tắc và thủ tục cho vay hợp lí đã làm cho hoạt động kinh doanh của NHNN-PTNT huyện mỹ hào ngày càng phát triển.
Tại khu công nghiệp xã DỊ SỬ do hoạt động kinh doanh phát triển, nhiều hộ gia đình có du cầu vay vốn nên NHNN-PTNT huyện mỹ hào đã phối hợp với cơ quan ban nghành ở xã đặt một điểm thu ngân tại xã, để tiến hành thu lãi cho vay. Các cán bộ thay nhau để trực và thực hiện công việc đó.
Kết quả cho vay năm 2007 của NHNN-PTNT huyện mỹ hào nh sau.
Doanh sè cho vay:7.324.000.000đ/2.472 lượt hộ.
Doanh sè thu nợ:4.746.000.000đ/1.432lượt hộ.
Dư nợ 11.763.000.000đ, tăng 5.962.000.000đ, số hộ dư nợ là 4.163 hô tăng 302 hé so với năm 2000.
Dư nợ cho vay nghành nghề và dịch vụ 1.323 hộ, số tiền là 4.023.000.000đ tăng 1.251.000.000đ so với năm 2000. Dư nợ bình quân / hộ vay đạt 2,4 triệu giảm 0,2 triệu nợ quá hạn còn 4 triệu giảm 4 triệu đ so với năm 2006.
Đầu năm 2008 tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn huyện có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được kết quả khả quan, hoạt dộng ngân hàng đi vào chiều sâu với chất lượng ngày càng tăng lên. Chính phủ, Ngân hàng nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy tạo điều kiện cho Ngân hàng nông nghiệp nói chung và NHNN-PTNT huyện mỹ hào nói riêng kinh doanh đạt kết quả khá trên các mặt công tác, luôn hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của ngành giao.
Sáu tháng đầu năm 2008, hoạt động của NHNN-PTNT mỹ hào được thực sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ngân hàng nông nghiệp tỉnh, UBND huyện được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp uỷ đảng, các ban ngành trong huyện nên kết quả kinh doanh đã mang lại nhiều thành quả đáng khích lệ.
Dư nợ đến ngày 31/8/2007 là 83.241.000.000 đồng tăng so với đầu năm 25.100.000.000 đồng.
Về đối tượng phục vụ: Là những hộ gia đình nghèo có sức lao động, có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn. Hộ nghèo được nhận diện theo chuẩn mực phân loại do Bé Lao động Thương Binh và Xã hội công bố từng thời kỳ, các đối tượng này chưa được vay vốn ở các toỏ chức tín dụng. Các hô gia đình nghèo thuộc diện chính sách xã hội như già cả neo đơn, tàn tật, không có sức lao động, hoặc các gia đình nghèo gặp rủi ro bệnh tật, thiên tai, thiếu ăn do Quỹ xã hội của Ngân sách Nhà nước tài trợ. Những hộ này không thuộc đối tượng được vay vốn của NHNN. Hộ nhèo vay vốn NHNN phải thực sự sản xuất kinh doanh dich vụ, không được sử dụng vốn vay vào mục đích tiêu dùng, sinh hoạt, chữa bệnh, cứu đói, tổ chức hội hè, chơi đề, nghiện hút...
Ưu đãi về lãi suất cho vay: Nhà nước có chính sách ưu đãi về lãi suất cho vay đối với người nghèo, NHNN cho hé nông dân vay vốn với lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, Quỹ tín dụng nhân dân. NHNN cho vay cung 1 mức lãi suất cho các loại cho vay khác nhau(ngắn hạn, trung hạn). Lãi suất cho vay hộ nghèo vùng 3(Theo quy định của Uỷ ban Dân tộc và miền núi) được giảm 0,1% so với lãi suất cho vay thông thường. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay ghi trên sổ vay vốn. (Thấp hơn so với lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng thương mại là bằng 150% lãi suất cho vay thông thường). Lãi suất cho vay được thay đổi theo tưng thời kỳ do chính phủ quy định căn cứ sự thay đổi mặt bằng lãi suất chung trên thị trường. Trong 5 năm qua, đã có 5 lần thây đổi theo hướng hạ lãi suất cho vay đối với hộ nghèo từ mức lãi suất 1,2%/tháng hạ xuống 1%/tháng; 0,8%/tháng và hiện nay đang áp dụng là 0,7%/tháng, riêng đối với hộ nghèo vùng III được vay lãi suất 0,6%/tháng và đều thấp hơn lãi suất cho vay hiện hành của các NHTM và Hợp tác xã tín dụng.
Về thời hạn cho vay: Việc xác định thời hạn cho vay căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và trả nợ của người vay nhưng tối đa không quá 60 tháng. Hộ nghèo được vay vốn nhiều lần cho đến khi thoát khỏi ngưỡng nghèo theo chuẩn mực phân loại của Bộ lao động thương binh xã hội. Thời hạn cho vay trung hạn tối đa 36 tháng, nay được nghiên cứu áp dụng thời hạn tối đa 60 tháng. Ngoài ra, NHNN còn áp dụng các hình thức cho vay lưu vụ, gia hạn nợ.
Về thủ tục cho vay: Thủ tục cho vay hộ nghèo đơn giản. Hộ nghèo vay vốn không phải thế chấp tài sản. Hộ nghèo chỉ phải điền vào đơn xin vay theo mẫu đã được ngân hàng in sẵn. Trong đơn nêu rõ mục đích vay tiền, số tiền xin vay và cam kết của hộ vay vốn đối với ngân hàng.
Các quy định khác:
Hộ nghèo vay vốn phải có trách nhiệm trả gốc và lãi đầy đủ theo đúng thời hạn đã cam kết với ngân hàng. Hộ nghèo vay vốn chỉ phải trả khoản lãi vay theo lãi suất vay vốn đước NHNN công bè theo từng thời điểm cụ thể, không phải trả thêm bất kỳ một khoản phí nào khác. Việc trả lãi có thể trả theo tháng hoặc quý tuỳ theo sự thoả thuận của ngân hàng với người vay vốn. NHNN không tính lãi chưa trả để nhập vào gốc. Nừu lãi chưa thu được của kỳ trước chuyển sang thu vào kỳ kế tiếp.
NHNN phát tiền vay trực tiếp cho những hộ nghèo nằm trong danh sách đã được tổ bình nghị và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Chính sách xử lý rủi ro: Nhà nước có chính sách xử lý rủi ro để hỗ trợ hộ nghèo vay vốn gặp rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dich bệnh... gây thiệt hại đến tài sản của hộ vay vốn trong đó có vốn vay ngân hàng. Những trường hợp rủi ro này dù xảy ra trên diện rộng hay trên diện hẹp, dù khoản vay đến hạn hoặc chưa đến hạn sẽ được NHNN xử lý tuỳ theo mức độ thiệt hại. Trường hợp hộ nghèo vay vốn chưa trả được nợ do nguyên nhân sản xuất ra chưa tiêu thụ được sản phẩm thì NHNN cho gia hạn nợ đến khi hộ nghèo bán được sản phẩm trả nợ ngân hàng. Nhưng tối đa không quá 60 ngày.
2) Hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với các hộ nông dân :
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân.
NHNN được thành lập nhằm mục đích giúp các họ nghèo vượt lên khó khăn thoát ra khỏi cảnh đói nghèo hoà nhập với cuộc sống nhưng bên cạnh đó nó cũng hoạt động nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận nhưng với mức thấp. Chính vì vậy mà khi nãi đến hiệu quả tín dụng của NHNN chóng ta phải nói tới vấn đề sử dụng vốn và hiệu quả của việc sử dụng vốn đó nh thế nào thu được lợi nhuận cao hay thấp. Cho đến nay sau 5 năm được thành lập NHNNcó tổng số vốn ban đầu là 521 tỷ đồng và bây giờ là 5015 tỷ đồng như vây sau 5 năm được thành lập NHNN đã đưa tổng nguồn vốn của mình tăng thêm giúp ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn, tốt hơn. Thu lãi cho vay vẫn là khoản thu chính, duy nhất của NHNN nên vẫn được NHNN các cấp tích cực khai thác nhằm giảm bớt căng thẳng về kinh phí hoạt động cũng như tạo tiền đề cho việc sử lý một số vấn đề có liên quan đến khả năng tài chính của NHNN, tổng số lãi thu được trong năm 2008 là 3025 tỷ tăng 15,6% so với năm 2007, tỷ lệ thu lãi bình quân toàn quốc đạt 86,6% tăng 1,6% so với năm 2007. Thu lãi từ tiền gửi đây là khoản lãi phát sinh từ số vốn tạm thời nhàn rỗi đang trên tài khoản tiền gửi tại NHNN. Tổng thu lãi tiền gửi là 502 tỷ đồng năm 2007. Hệ số sử dụng vốn trong năm 2007 bình quân cả năm là 92,6%. Nói hiệu quả tín dụng cũng là nói đến vấn đề đã cho vay được bao nhiêu tiền trong 1 năm và nó đã có tác dụng gì giúp các hộ nghèo đói chính vì vậy mà khi đánh giá hiệu quả tín dụng của NHNg chóng ta thường nhìn vào kết quả này, thật kích lệ là cho đến nay sau 5 năm thành lập nói chung là trong thời gian ngắn nhưng với sự hoạt động có gắng và có hiệu quả NHNN hàng năm cho các đối tượng thuộc diện được vay vốn vay vốn với số tiền hàng tỷ đông mỗi năm như năm 2007 doanh sè cho vay là 2171 tỷ đồng trong đó doanh sè cho vay quý IV là 724 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33,4% doanh sè cho vay cả năm. Doanh sè thu nợ đạt 1364 tỷ đồng, trong đó doanh sè thu nợ quý IV là 452 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33,1% doanh sè thu nợ cả năm. Đến ngày 31/12/2008, tổng dư nợ cho vay hộ nghèo đạt 4704 tỷ đồng, tăng 807 tỷ đông(20,7%) so với năm 2007, trong đó quý IV tăng 326 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 40,4% trong tổng số dư nợ cả năm và đạt 89,4% kế hoạch năm 2008. Hiện có gần 2,5 triệu hộ thuộc 208 ngàn tổ vay vốn còn dư nợ NHNN. Dư nợ bình quân một hộ là 1880 ngàn đồng, tăng so với năm đầu tiên hoạt động (1996) là 500 ngàn đồng/hộ và tăng so với năm 2007 là 200 ngàn đồng/ hộ. Tính đến ngày 30/9/2008, đã có hơn 5,3 triệu hộ nghèo nhận được vốn tín dụng từ NHNN với tổng số tiền là 8396 tỷ đồng. Với số vốn vay hộ nghèo đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chủ yếu là đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ, mở rộng ngành nghề, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập để trả nợ ngân hàng với doanh sè thu nợ đạt 4017 tỷ đồng. Hiện còn 2467 ngàn hộ dư nợ ngân hàng với số tiền 4379 tỷ đồng, bình quân mỗi hộ dư nợ tới 1,7 triệu dồng. Thời gian qua, tín dụng NHNN đã tập trung đầu tư cho hộ nghèo thực sự có hiệu quả, góp phần tạo việc làm, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển dich cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ổn định cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho dân nghèo. Đến nay, theo báo cáo của các chi nhánh vốn NHNN đã góp phần giúp cho 425 ngàn hộ thoát khỏi ngưỡng nghèo đói, vươn lên hoà nhập với cộng đồng.
3) Thủ tục vay vốn của hộ nông dân tại ngân hàng
Khi có nhu cầu vay vốn người vay phải mua bộ hồ sơ vay vốn tại ngân hàng và hoàn tất các thủ tục cần thiết nh:
+Giấy đề nghị vay vốn( bao gồm tên, địa chỉ của người vay, số tiền cần vay, mục đích vay vốn, các cam kết sử dụng tiền vay, trả nợ, trả lãi và các cam kết khác.)
Các tài liệu cần thiết liên quan đến việc vay vốn nh phương án sản xuất kinh doanh, hồ sơ công trình, dự án công trình…
Căn cứ vào hồ sơ vay vốn, cán bộ ngân hàng chuyên quản sẽ tiến hành thẩm định hồ sơ xem xét có đủ điều kiện và nguyên tắc vay vốn hay không. Việc thẩm định dựa trên các nguồn thông tin sau:
-Nguồn thông tin từ người vay; bao gồm toàn bộ các nguồn thông tin thu được truy cập trên cơ sở các tài liệu kế toán mà người vay phải có nghĩa vụ cung cấp, sổ sách, chứng từ, các báo cáo quyết toán tài chính…
Nguồn thông tin từ bên ngoài người vay; bao gồm các thông tin từ bạn hàng, khách hàng của người vay, từ kho bạc, từ các tổ chức tín dụng có quan hệ với người vay, từ trưởng xã, trưởng thôn nơi khách hàng cư trú nhằm kiểm tra tính trung thực các nguồn tin, do người vay cung cấp đảm bảo tính toàn diện và đồng bộ của các nguồn tin.
Khi cán bộ chuyên quản thẩm định song sẽ trình trưởng phòng tín dụng và giám đốc để phán quyết cho khách hàng vay hay không vay và mức cho vay bao nhiêu. Người vay và ngân hàng sẽ kí kết hợp đồng tín dụng, đây là cơ sở pháp lí để xác định quyền và nghĩa vụ của người vay với ngân hàng.
Dựa trên quyết định cho vay của trưởng phòng tín dụng và giám đốc đưa xuống, phòng kế toán và thủ quỹ sẽ tiến hành làm thủ tục cho khách hàng vay vốn, chi tiền vay hoặc chuyển tiền vào tài khoản tiền gửi của khách hàng. Sau đó giao một bản hợp đồng tín dụng, kèm theo bản phụ lục hợp đồng (theo dõi cho vay, thu nợ ) cho khách hàng vay, còn một bản hợp đồng kèm theo giấy tờ đề nghị vay vốn và phụ lục hợp đồng lưu trong tập hồ sơ tại ngân hàng được theo dõi.
Sau khi phát tiền vay đến khi người vay thanh toán song toàn bộ nợ vay. Qua kiểm tra nếu phát hiện vốn vay bị sử dụng sai mục đích mà người vay đã cam kết hoặc tình hình thực hiện phương án, kế hoạch kinh doanh của ngưòi vay kém hiệu quả khó có khả năng thu hồi vốn để thanh toán nợ vay. Ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ, ngân hàng cũng ngừng cho vay đối với các khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, sai đối tượng, nợ nần dây dưa, kinh doanh kém hiệu quả, có nguy cơ phá sản.
III) Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng của NHNN đối với hộ nông dân.
Giải pháp về huy động vốn:
Để NHNN có thể phát triển bền vững thì cần phải có một nguồn vốn tương
đối lớn. Muốn vậy phải tập trung mọi nguồn vốn tài trợ gắn với xoá đói giảm nghèo mà lâu nay đang được các bộ, các ngành, các cấp, tổ chức đoàn thể quần chúng quản lý về một đầu mối là NHNN quản lý và cho vay. Không thể tồn tại mãi tình trạng nhiều chương trình hỗ trợ vốn cho nông nghiệp nông thôn, cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo mà người nghèo lại thiếu vốn sản xuất, Cho nên phải chú trọng việc huy động vốn, bảo toàn vầ không ngừng phát triển nguồn vốn vì NHNN hoạt động vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo không vì mục tiêu lợi nhuận.
- Đối với nguồn vốn từ ngân sách: Để từng bước thực hiện chương trình
xoá đói giảm nghèo, Nhà nước cần phải dành một tỷ lệ nhất định trong các khoản chi ngân sách hàng năm để lập các quỹ tài trợ cho chương trình dự án quốc gia như: Quỹ giải quyết việc làm, quỹ bảo trợ nông nghiệp, quỹ xoá đói giảm nghèo... Thực tế cho thấy, việc hỗ trợ vốn cho người nghèo với hình thức cấp phát của ngân sách sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo tâm lý mong chờ ỷ lại đối với người nghèo và số vốn sẽ không được sử dụng vào mục đích sản xuất mà chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Để vốn tài trợ của Nhà nước sử dụng đúng mục đích, đúng đối tuượng và phát huy được hiệu quả cần phải thực hiện thông qua kênh tín dụng. Vì vậy, Nhà nước nên có kế hoạch và phương án chuyển số vốn tài trợ hàng năm về phát triển nông thôn theo các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm...qua hệ thống NHNN để quản lý và cho vay với một mức lãi suất thống nhất thì mới phát huy tốt hiệu quả các chương trình.
- Đối với nguồn vốn tài trợ của các tổ chức cá nhân, nguồn vốn đống góp quỹ xoá đói giảm nghèo từ cán bộ công nhân viên chức, trong dân cư và cộng đồng những người nghèo để không ngừng phát triển quỹ cho vay, tạo điều kiện cho NHNN hoạt động chủ động hơn. Ngoài nguồn vốn đóng góp bắt buộc của các ngân hàng thương mại, NHNN có thể huy động nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức kinh tế tài chính, tín dụng và cá nhân trong nước và ngoài nước,nguồn vốn này được hình thành từ việc trích một phần vốn kinh doanh, nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để tài trợ theo các chương trình nhân đạo, từ thiện hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Để khơi tăng nguồn vốn này NHNN cần phải :
+ Thực hiện tốt hơn nữa việc cho vay hộ nông dân nghèo từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo và các nguồn vốn tài trợ theo chương trình dự án của Chính phủ.
+ Phối kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, ban xoá đói giảm nghèo các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan hữu quan để xây dựng các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn có tính khả thi nhằm thu hút các nguồn vốn tài trợ cả trong và ngoài nước.
+ Cùng với các cơ quan đoàn thể, tổ chức hiệp hội tuyên truyền vận động mọi cán bộ công nhân viên chức, mọi tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp... Hãy vì người nghèo mà đóng góp vào quỹ xoá đói giảm nghèo, coi đó là lương tâm và trách nhiệm của toàn xã hội.
- Đối với nguồn vốn huy động tiền gửi tiết kiệm của hộ nông dân: Nguồn vốn tăng trưởng thông qua huy động từ nhiều kênh nhueng không thể đáp ứng nếu như NHNN không huy động được tiền gửi tiết kiệm của dân, nhưng nếu huy động vốn theo lãi suất thị trường để cho vay ưu đãi là chuyện nghịch lý.Biện pháp ở đây là Nhà nước phải có cơ chế xử lý lãi suất thích hợp. Nhiều quan điểm cho rằng hộ nông dân nghèo không thể giữ tiết kiệm được vì mức thu nhập của họ quá thấp lại phải dành đa phần cho ăn uống, sinh hoạt, thuốc men... thì llàm gì còn tiền gửi tiết kiệm nữa, nhưng cũng có quan điểm cho rằng hộ nghèo vẫn có tiền để gửi tiết kiệm vì: Bản chất người nông dân Việt Nam là cần cù và tiết kiệm, họ vẫn thường dành dụm tiết kiệm chút vốn chắt chiu để đề phòng lúc giáp hạt, mất mùa hoặc các nhu cầu đột xuất khác. Sản xuất và các ngành nghề phụ ở nông thôn có tính thời vụ, thu nhập của người nông dân lại mang tính tổng hợp, ngoài thu nhập chính họ còn thu nhập thường xuyên các nghề phụ như tăng gia mí rau, con gà... họ có thể tích kuỹ được từ đó. Nừu coi việc giữ tiền tiết kiệm như một điều kiện bắt buộc để được vay tiền Ngân hàng thì sẽ khuyến khích hộ nông dân để dành tiền gửi.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy hầu hết các chương trình tín dụng cấp cho người nghèo đạt kết quả không phải do việc giảm lãi suất, mà do tạo được nhiều cơ hội làm ăn cho người nghèo, do kiểm soát khắt khe việc sử dụng vốn, gắn việc huy động tiết kiệm bắt buộc thông qua tổ nhóm với tín dụng để tạo ý thức tiết kiệm trong toàn dân. Để tạo thêm nguồn vón cho vay ở khu vực nông thôn, cần phải có cơ chế chính sách, các biện pháp cần thiết đó là:
+ Phải tập trung mọi cố gắng để phát triển thị trường tiền tệ, thị trường vốn ở nông thôn, NHNN phải có chi nhánh hoạt động ở địa bàn nông thôn, ccàn đổi mới phương thức hoạt động, cải tiến các hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện ở nông thôn đẻ khuyến khích họ đến với ngân hàng. Có cơ chế khuuyến khích băng vật chất thích hợp với từng chi nhánh, từng cán bộ tham gia huy động vốn và cho vay ở tận làng, ở vùng sâu, vùng xa, phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể quần chúng tuyên truyền vận động nhân dân tham gia gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng.
+ Thực hiện cơ chế bù lỗ thích hợp, kịp thời cho NHNN để thực hiện việc cho vay theo mức lãi suất ưu đãi mà phải sử dụngnguồn vốn huy động.
+ Thực hiện phương thức huy động vốn tiết kiệm bắt buộc và tiết kiệm tự nguyện vì hai phương thức này là yếu tố quan trọng trong việc động viên và thu hút nguồn vốn tích luỹ của hộ nông dân nghèo, nhằm khơi tăng nguồn vốn ưu đãi để tiếp tục mở rộng diện cho vay và mức cho vay của NHNN.
Những biện pháp về cho vay đối với hộ nông dân nghèo.
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết trung ương Đảng, NHNg cần phải có những chương trình hành động cụ thể đối với việc thực hiện chủ trương công nghiệp hoá- hiện đại hoá nong nghiệp nông thôn. Hệ thống ngân hàng cânf có những nỗ lực tăng cường khả năng huy động vốn tại địa bàn dưới nhiều hình thức. Đặc biệt là NHNg phải thực hiện có hiệu quả việc huy động vốn tại địa phương với lãi suất rẻ để có đủ vốn tgực hiện các chương trình kinh tế lớn của Đảng nhằm đẩy nhanh tiến bộ công nghiệp hoá- hiện đại hoá, đồng thời tập trung vốn về khu vực nông thôn để tăng cường cho các ngành nghề Nông- Lâm nghiệp và phát triển ngành nghề, dich vụ khác phát triển. Thực hiện nhiệm vụ trên, NHNg cần phải luôn chú trọng đến hiệu quả đầu tư, phấn đấu giảm dư nợ quá hạn ở mức thập nhất góp phần củng cố và làm mạnh hoá hệ thống ngân hàng. Để đánh giá đúng thực trạng và hiệu quả hoạt động của NHNg trong thời gian tới cần phải thực hiện các biện pháp về cho vay đối với hộ nông dân nghèo sau:
2.1. Xác đinh đối tượng cho vay:
Đối tượng phục vụ của NHNN là những hộ nông dân thiếu vốn sản xuất, kinh doanh nhưng phải có năng lực sản xuất.
2.2. Xác đinh điều kiện cho vay:
Hộ nông dân muốn vay vốn NHNN thì phải hội đủ điều kiện sau đây:
- Chứng minh được mục đích vay vốn là có hiệu quả
-Có tài sản thế chấp hoặc cầm cố
-Nêu được mục đích kinh doanh,và phương án kinh doanh hiệu quả.
-Đáp ứng được một số yêu cầu của ngân hàng đề ra:
+Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
+Các khả năng tài chính để đảm bảo trả nợ vay trong thời gian cam kết.
+Có tài sản thế chấp, giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, tài sản dễ chuyển nhượng, giá trị tài sản phải lớn hơn số tiền vay.
Hiện nay trong nghiệp vụ kế toán cho vay tại NHNN-PTNT huyện mỹ hào đang áp dụng hai phương pháp cho vay.
+Phương pháp cho vay từng lần, thời hiện cho vay được xác định căn cứ vào từng phương án kế hoạch kinh doanh của người vay.
+Phương pháp cho vay theo hạn mức tín dụng.
Việc trả lãi tiền vay được thực hiện theo kì trả lãi mà người vay đã cam kết với ngân hàng. Mức lãi suất ngân hàng có thông báo trước cho khách hàng biết.
+Lãi suất cho vay ngắn hạn 0,95%/tháng
+Lãi suất cho vay trung hạn 1,05%/tháng
+Cho vay phục vụ người nghèo 0,5%/tháng
Số tiền lãi mỗi kì trả lãi được xác định theo công thức:
Lãi vay trả trước = dư nợ tính lãi * thời gian tính lãi * lãi suất cho vay
Lãi tiền vay được quyết toán theo từng kì tính lãi, trường hợp người vay không có khả năng thanh toán, ngân hàng sẽ nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi cho kì tiếp theo. Trường hợp tất cả các kì lãi mà thực tế người vay đều không thanh toán, thì đến kì trả nợ cuối cùng, toàn bộ lãi tiền vay được xác định theo :
L= T((1+R)N-1)
Trong đó : L-lãi ghép
T-số nợ gốc phải trả
R- lãi suất cho vay của một kì tính lãi
N-số kì trả lãi mà người vay không thanh
2.3. Lãi suất cho vay đối với hộ nông dân:
- Để giúp đỡ cho hộ nông dân nghèo phát triển sản xuất nên họ vay vốn với lãi suất ưu đãi, càng thấp càng tốt.
- Nên cho hộ nghèo vay vốnvới lãi suất thị trường, bình đẳng như các đối tượng khách hàng khác, vấn đề dặt ra là hộ nghèo nhận được vốn vay một cách kịp thời đầy đủ và thuận tiện, hạn chế hộ nghèo phải vay nặng lãi.
Trên thực tế có hai quan điẻm nh trên, mõi quan điểm đều có ưu, nhược điểm riêng của nó. Nếu cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và không có lãi rất dễ tạo ra cho họ tâm lý chây ỳ, ỷ lại, trông chờ vào sự tài trợ của nhà nước tiền vay sẽ không sử dụng vào sản xuất, hiệu quả thấp dẫn đến không trả được nợ. Ngược lại nếu cho vay vốn với lãi suất thị trường thì họ sẽ thiếu điều kiện và cơ hội vươn lên.
Vì vậy ở nước ta hiện nay lãi suất cho vay đối với hộ nông dân nghèo là 0,6%, thấp hơn lãi suất cho vay đối với các đối tượng khác chỉ cao hơn chút Ýt so với lãi suất huy động.
2.4. Mức cho vay, loại và thời hạn cho vay:
+ Mức cho vay: Căn cứ vào nhu cầu vốn của hộ nghèo đầu tư cho sản xuất kinh doanh theo mùa vụ hoặc dự án và vốn tự lực của các hộ để xác định mức vốn cho vay đối với hộ nghèo (mức vay tối đa hiện nay là 5 triệu đồng/hộ) với mức cho vay hiện nay, NHNN cần đầu tư vào các đối tượng: Giống cây trồng, vật nuôi, phân bón thuốc trừ sâu, thức ăn gia sóc gia cầm, mua sắm công cụ lao động nhỏ...
+ Loại và thời hạn cho vay: Mục tiêu chính của việc cho hộ nông dân nghèo vay vốn là để giúp họ duy trì sản xuất, ổn định đời sống, góp phần xoá đói giảm nghèo. Vì vậy, NHNN chỉ nên áp dụng loại cho vay ngắn hạn và cho vay trung hạn, không nên áp dụng cho vay dài hạn.
- Cho vay ngắn hạn: Thời hạn cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất của từng loại cây trồng vật nuôi, ngành nghề nhưng tối đa không quá 12 tháng.
- Cho vay trung hạn: Thời hạn cho vay từ 12 tháng đến 36 tháng tuỳ thuộc vào chu kỳ sản xuất của từng đối tượng vay cụ thể. Đối tượng chủ yếu là mua sắm công cụ lao động, phương tiện sản xuất nh: trâu, bò cày kéo, sinh sản, đào ao thả cá, trồng cây lâu niên...
2.5. Quy trình và thủ tục cho vay:
+ Cần cải tiến các cơ chế, thủ tục và hình thức cho vay theo hướng đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, đồng thời vẫn đảm bảo được các yếu tố cần thiết để đảm bảo quản lý tiền vay và thu hồi nợ, cải tiến cơ chế quản lý trước khi cho vay và trong quá trình sử dụng tiền vay, gắn trách nhiệm của người cho vay với thu hồi nợ để đảm bảo toàn vốn và giảm bớt tổn thất trong cho vay.
+ Cùng với việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng cần có kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng về hiểu biết thấu đáo các quy định trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng hộ nghèo nói riêng, tăng vường công tác kiểm tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động tín dụng.
2.6. áp dụng các biện pháp tín chấp trong việc cho vay hộ nông dân nghèo:
+ Trong quy định nghiệp vụ cho vay của NHNN không phải áp dụng tài sản thế chấp mà phải áp dụng tín chấp bởi vì: đại bộ phận nông dân nghèo không có tài sản gì đáng kể để thế chấp. Điều kiếnống của họ bó hẹp trong luỹ tre làng, họ gắn bó mật thiết và quqn hệ ràng buộc với xóm làng, cùng đức tính tốt đẹp, chân thậtcủa người lao độngvà phong tực tập quán ở làng xã, thôn xóm buộc họ phải sống với chữ tín, chỉ trừ trường hợp gặp rủi ro bất khả kháng, còn khi có thí nhập họ đều trả nợ sòng phẳng.
Để thực hiện tốt việc cho vay hộ nông dân nghèo vay vốn thông qua tổ tín chấp, NHNN có thể áp dụng các biện pháp sau:
+ Cho vay qua tổ nhóm tương trợ: Các thành viên phải tự làm đơn xin vay vốn Ngân hàng gửi cho tổ trưởng tổ tương trợ. Toàn tổ họp bình xét công khai hộ nghèo đủ điều kiện vay vốn và lập danh sách hộ nghèo đủ điều kiện vay vốn trình ban xoá đói giảm nghèo, UBND xã xác nhận và gửi ngân hàng. Cán bộ ngân hàng thẩm định và xem xét cho vay...
+ Thực hiện tín chấp thông qua chính quyền địa phương xác nhận và đảm bảo. Hiện nay ở nông thôn chính quyền địa phương (xã, thôn) gắn bó chặt chẽ với nông dân nên họ có thể trực tiếp đôn đốc người vay trả nợ ngân hàng đúng hạn cả lãi và gốc.
2.7. Phương thức cho vay:
Hiện nay NHNN đang thực hiện cho vay trực tiếp tới hộ nông dân nghèo có sự phối hợp với chính quyền xã, phường và các tổ tương trợ vay vốn. Nhưng trong tương lai để tiết giảm chi phí cho vay và tạo điều kiện để hộ nông dân nghèo được vay vốn một cách kịp thời và thuận lợi cũng như làm giảm bớt khối lượng công việc của cán bộ tín dụng mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng. NHNN phải tiến tới thực hiện cho vay hộ nông dân nghèo thông qua tổ chức trung gian theo hình thức bán buôn như nhóm liên đới trách nhiệm (Dự án SUCS).
Thông qua việc cho vay vốn NHNN-PTNT huyện mỹ hào là ngưòi đầu tư vốn của mình cho các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp cũng như mọi thành viên trong xã hội. Trong mối quan hệ này, ngân hàng vừa là người phục vụ, vừa là người kinh doanh vốn. Bởi vậy việc cho vay vốn phải được thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc, điều kiện có tính bắt buộc mà luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng đã quy định. Hiện nay NHNN-PTNT huyện mỹ hào đang áp dụng các nguyên tắc và điêù kiện vay vốn đối với khách hàng nh sau:
- Nguyên tắc vay vốn :
+Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
+Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
+Việc bảo đảm tiền vay phải thực hiện theo quy định của chính phủ và thống đốc ngân hàng nhà nước.
- Điều kiện vay vốn.
+Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
+Các khả năng tài chính để đảm bảo trả nợ vay trong thời gian cam kết.
+Có tài sản thế chấp, giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, tài sản dễ chuyển nhượng, giá trị tài sản phải lớn hơn số tiền vay.
Hiện nay trong nghiệp vụ kế toán cho vay tại NHNN-PTNT huyện mỹ hào đang áp dụng hai phương pháp cho vay.
+Phương pháp cho vay từng lần, thời hiện cho vay được xác định căn cứ vào từng phương án kế hoạch kinh doanh của người vay.
+Phương pháp cho vay theo hạn mức tín dụng.
Việc trả lãi tiền vay được thực hiện theo kì trả lãi mà người vay đã cam kết với ngân hàng. Mức lãi suất ngân hàng có thông báo trước cho khách hàng biết.
Lãi vay trả trước = dư nợ tính lãi * thời gian tính lãi * lãi suất cho vay
Lãi tiền vay được quyết toán theo từng kì tính lãi, trường hợp người vay không có khả năng thanh toán, ngân hàng sẽ nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi cho kì tiếp theo. Trường hợp tất cả các kì lãi mà thực tế người vay đều không thanh toán, thì đến kì trả nợ cuối cùng, toàn bộ lãi tiền vay được xác định theo :
b/ Thủ tục vay vốn tại ngân hàng huyện mỹ hào
Khi có nhu cầu vay vốn người vay phải mua bộ hồ sơ vay vốn tại ngân hàng và hoàn tất các thủ tục cần thiết nh:
+Giấy đề nghị vay vốn( bao gồm tên, địa chỉ của người vay, số tiền cần vay, mục đích vay vốn, các cam kết sử dụng tiền vay, trả nợ, trả lãi và các cam kết khác.)
Các tài liệu cần thiết liên quan đến việc vay vốn nh phương án sản xuất kinh doanh, hồ sơ công trình, dự án công trình…
Căn cứ vào hồ sơ vay vốn, cán bộ ngân hàng chuyên quản sẽ tiến hành thẩm định hồ sơ xem xét có đủ điều kiện và nguyên tắc vay vốn hay không. Việc thẩm định dựa trên các nguồn thông tin sau:
-Nguồn thông tin từ người vay; bao gồm toàn bộ các nguồn thông tin thu được truy cập trên cơ sở các tài liệu kế toán mà người vay phải có nghĩa vụ cung cấp, sổ sách, chứng từ, các báo cáo quyết toán tài chính…
Nguồn thông tin từ bên ngoài người vay; bao gồm các thông tin từ bạn hàng, khách hàng của người vay, từ kho bạc, từ các tổ chức tín dụng có quan hệ với người vay, từ trưởng xã, trưởng thôn nơi khách hàng cư trú nhằm kiểm tra tính trung thực các nguồn tin, do người vay cung cấp đảm bảo tính toàn diện và đồng bộ của các nguồn tin.
Khi cán bộ chuyên quản thẩm định song sẽ trình trưởng phòng tín dụng và giám đốc để phán quyết cho khách hàng vay hay không vay và mức cho vay bao nhiêu. Người vay và ngân hàng sẽ kí kết hợp đồng tín dụng, đây là cơ sở pháp lí để xác định quyền và nghĩa vụ của người vay với ngân hàng.
Dựa trên quyết định cho vay của trưởng phòng tín dụng và giám đốc đưa xuống, phòng kế toán và thủ quỹ sẽ tiến hành làm thủ tục cho khách hàng vay vốn, chi tiền vay hoặc chuyển tiền vào tài khoản tiền gửi của khách hàng. Sau đó giao một bản hợp đồng tín dụng, kèm theo bản phụ lục hợp đồng (theo dõi cho vay, thu nợ ) cho khách hàng vay, còn một bản hợp đồng kèm theo giấy tờ đề nghị vay vốn và phụ lục hợp đồng lưu trong tập hồ sơ tại ngân hàng được theo dõi.
Sau khi phát tiền vay đến khi người vay thanh toán song toàn bộ nợ vay. Qua kiểm tra nếu phát hiện vốn vay bị sử dụng sai mục đích mà người vay đã cam kết hoặc tình hình thực hiện phương án, kế hoạch kinh doanh của ngưòi vay kém hiệu quả khó có khả năng thu hồi vốn để thanh toán nợ vay. Ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ, ngân hàng cũng ngừng cho vay đối với các khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, sai đối tượng, nợ nần dây dưa, kinh doanh kém hiệu quả, có nguy cơ phá sản.
c/ Kết quả cho vay năm 2007 của NHNN-PTNT huyện mỹ hào.
NHNN-PTNT mỹ hào được đặt tại trung tâm của huyện, có đầy đủ các thành phần kinh tế. Trên địa bàn huyện, ngoài NHNN-PTNT còn có các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác nh: ngân hàng đầu tư, ngân hàng tài chính, các tổ chức tín dụng ở các xã. nhưng với nguyên tắc và thủ tục cho vay hợp lí đã làm cho hoạt động kinh doanh của NHNN-PTNT huyện mỹ hào ngày càng phát triển.
Tại khu công nghiệp xã Dị Sử do hoạt động kinh doanh phát triển, nhiều hộ gia đình có du cầu vay vốn nên NHNN-PTNT huyện mỹ hào đã phối hợp với cơ quan ban nghành ở xã đặt một điểm thu ngân tại xã, để tiến hành thu lãi cho vay. Các cán bộ thay nhau để trực và thực hiện công việc đó.
Kết quả cho vay năm 2007 của NHNN-PTNT huyện mỹ hào nh sau.
Doanh sè cho vay:7.324.000.000đ/2.472 lượt hộ.
Doanh sè thu nợ:4.746.000.000đ/1.432lượt hộ.
Dư nợ 11.763.000.000đ, tăng 5.962.000.000đ, số hộ dư nợ là 4.163 hô tăng 302 hé so với năm 2000.
Dư nợ cho vay nghành nghề và dịch vụ 1.323 hộ, số tiền là 4.023.000.000đ tăng 1.251.000.000đ so với năm 2000. Dư nợ bình quân / hộ vay đạt 2,4 triệu giảm 0,2 triệu nợ quá hạn còn 4 triệu giảm 4 triệu đ so với năm 2006.
Đầu năm 2008 tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn huyện có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được kết quả khả quan, hoạt dộng ngân hàng đi vào chiều sâu với chất lượng ngày càng tăng lên. Chính phủ, Ngân hàng nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy tạo điều kiện cho Ngân hàng nông nghiệp nói chung và NHNN-PTNT huyện mỹ hào nói riêng kinh doanh đạt kết quả khá trên các mặt công tác, luôn hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của ngành giao.
Sáu tháng đầu năm 2008, hoạt động của NHNN-PTNT mỹ hào được thực sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ngân hàng nông nghiệp tỉnh, UBND huyện được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp uỷ đảng, các ban ngành trong huyện nên kết quả kinh doanh đã mang lại nhiều thành quả đáng khích lệ.
Dư nợ đến ngày 31/8/2007 là 83.241.000.000 đồng tăng so với đầu năm 25.100.000.000 đồng.
Để đạt được kết quả trên là do công tác quản trị điều hành có nhiều tién bộ, xác định đúng mục tiêu kinh doanh, nội bộ đoàn kết nhất trí cao, khai thác tốt thế mạnh ở địa phương. áp dụng tốt chế tài tín dụng, thủ tục vay đơn giản, rút ngắn thời gian thẩm định đến khi cho vay. Phối hợp tốt các cơ quan đoàn thể, hội nông dân, hội phụ nữ, tổ chức các hội nghị phổ biến chính sách tín dụng đối với nôn thôn, với hộ nghèo thiếu vốn sản xuất, hướng dẫn việc thành lập đối với tổ vay vốn theo đoàn thể theo địa bàn và tập huấn nghiệp vụ điều tra xét duyệt cho vay, quản lý vốn, thu nợ, thu lãi cho cán bộ các hội từ chi hội trưởng trở nên .Chuyển khai kịp thời có hiệu quả QĐ67/CP và một số chính sách của NHNN, ra quyết định thành lập các ngành công tác để xử lý các hộ nợ quá hạn, khoản nợ có hiệu quả. Do đó chất lượng tín dụng không ngừng được nâng lên đưa hoạt động kinh doanh vào nề nếp.
- Công tác kế toán có nhiều tiến bộ đã sử dụng máy tính để hoạch toán và lập báo cáo, sao kê …Kế toán trực tiếp đi giải ngân ở các địa phương, đảm bảo đúng chế độ và an toàn. Tiết kiệm chi tiêu, chủ yếu chi cho lao động và chi cho công tác tuyên truyền, chi vật liệu, chứng từ cần thiết. Thực hiện chi thù lao cho cán bộ xã và ban đại diện theo hàng quý đầy đủ theo đề nghị của người được hưởng. Kế toán hạch toán kịp thời các nghiệp vụ phát sinh trong ngày làm tốt công tác thanh toán, phong cách giao dịch niềm nợ chu đáo, cởi mở tạo đà cho sự tín nhiệm cao với khách hàng, luôn được khách hàng khen thưởng.
Công tác kiểm tra chứng từ, kiểm toán nội bộ được kiểm soát viên thực hiện hàng tháng, tỷ lệ chứng từ được kiểm soát đạt 100%. Nội dung kiểm tra hồ sơ cho vay, hồ sơ tổ vay vốn được thực hiện thường xuyên, công tác kiểm tra sử dụng vốn được thực hiện sớm sau giải ngân.
Mục đích của việc thành lập các nhóm liên đới trách nhiệm này là nhằm thiết lập một mang lưới chân rết cho NHNN và NHNN sẽ tiến hành cho vay bán buôn thông qua một hệ thống này. Cụ thể:
+ Nhóm phải được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện dân chủ bình đẳng cùng có lợi và phải được chính quyền địa phương ra quyết định công nhận và cho phép hoạt động.
+ Mỗi nhóm có trung bình khoảng 50 thành viên các thành viên bầu ra một trưởng nhóm, 1 thư ký kiêm thủ quỹ và một kế toán nhóm.
+ Các thành viên tham gia nhóm có nghĩa vụ đóng góp vào khoản tiết kiệm ban đầu và tiết kiệm bắt buộc (hàng tháng) và không được nhóm trả lãi, số tiền đó nhóm sẽ gửi vào tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và được ngân hàng trả lãi theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn tuỳ theo từng thời kỳ. Khoản tiền tiết kiệm này sẽ được bổ sung dần vào nguồn vốn tự có của nhóm sau này và đây cũng chính là nội dung tài sản thế chấp của nhóm đối với ngân hàng vì hàng tháng ngân hàng sẽ thu lãi tiền vay của nhóm bằng cách trích trên tài khoản tiền gửi của nhóm tại ngân hàng.
+ NHNN cho nhóm vay theo lãi suất hiện hành mà ngân hàng đang áp dụng cho vay trực tiếp tới hộ nghèo. Nhóm sẽ cho các thành viên vay với mức lãi suất cao hơn. Mức lãi suất phải tính toán sao cho đủ bù đắp chi phí hành chính, trả tiền thù lao của ban quản trị nhóm và để dành một phần cho việc thành lập các quỹ của nhóm.
+ Nhóm phải chịu trách nhiệm trược ngân hàng trong công việc đôn đốc các thành viên trả nợ đúng hạn, nếu có thành viên nào không trả được nợ thì phải trích quỹ rủi ro để trả thay. Điều này sẽ tạo ra một sự kiểm soát xã họi và liên đới trách nhiệm rất cao trong nội bộ nhóm, góp phần hạn chế bớt hiện tượng nợ đọng dây dưa khó đòi làm tăng chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Tóm lại: Để giải quyết cơ bản vấn đề xoá đói giảm nghèo, bên cạnhviệc hỗ trợ vốn cần phải giải quyết một loạt các vấn đề khác như: Hạn chế sự thay đổi các chính sách kinh tế vĩ mô, phát triển cơ sở hạ tầng và hạ tầng công nghệ nông thôn, vấn đề ruộng đất, kinh tế trang trại, phát huy hiệu quả công tác khuyến nông, vấn đề y tế, giáo dục và đào tạo, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, vấn đề giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng nông thôn... Một khi chóng ta chưa có một cơ chế, chính sách huy động đủ nguồn vốn, biện pháp kiểm soát sử dụng nguồn vốn và mô hình tổ chức khả dụng thì hoạt động của NHNN chưa thể đảm đương được chức năng tín dụng với hộ nông dân nghèo.
C- KẾT LUẬN:
Từ những nhận thức cơ bản về lý luận và thực tiễn, nội dung đề án đã hoàn thành cơ bản những nội dung sau đây:
- Đã khái quát hoá được thực trạng của hộ nông dân trên đất nước ta và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân trong việc phát triển sản xuất.
- Nêu lên những hoạt đọng cơ bản về ngân hàng nông nghiệp đồng thời cũng nêu lên được hiệu quả tín dụng mà ngân hàng đã làm được trong 5 năm qua, nó đã giúp các hộ nông dân nghèo đói vượt qua cảnh nghèo đói như thế nào.
- Trong chuyên đề này em đã nêu lên một số biện pháp cơ bản về huy đọng vốn và phương thức cho vay đối với các hộ nông dân.
Với mong muốn của em là đóng góp một phần nhỏ những kiến thức lý luận và thực tế về đề tài nghiên cứu nhưng đây là một đề tài mới mẻ, phức tạp vừa mang tính thời sự vừa có tính lâu dài, việc thu thập tài liệu có liên quan lại có hạn, trình độ và khả năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế, cho nên trong đề án này không tránh khỏi những thiếu xót và sai lầm cần được sửa đổi và bổ sung tiếp. Vì vậy em rất mong được cô chỉ bảo để được kết quả tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
DANH MỤC TÀI LIÊU THAM KHẢO
Tài liệu phòng kinh doanh - của NHNN.
Tài liệu hội nghị triển khai nghiệp vụ NHNN năm 2007.
Tạp chí ngân hàng
Giáo trình kinh tế nông nghiệp
Giáo trình quản trị kinh doanh nông nghiệp
Tài chính doanh nghiệp
Nghị quyết trung ương IV(khoá VIII) và vấn đề tín dụng Nông nghiệp- nông thôn.
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111454.doc