Đề tài Việc làm và kế hoạch giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển kinh tế- Xã hội

Tài liệu Đề tài Việc làm và kế hoạch giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển kinh tế- Xã hội: Lời nói đầu ******** Kết thúc việc thực hiên kế hoạch 1996-2000 với nhiều thành tựu đã đạt được ,GDP được duy trì ở mức 7.0%/năm, cơ cấu kinh tế đang từng bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp trong cơ cấu GDP ... .Bên cạnh đó vấn đề việc làm cũng được chú trọng quan tâm giải quyết . Trong 5 năm qua đã có thêm khoảng 6,1 triệu lao động được thu hút vào làm việc ,bình quân mỗi năm thu hút khoảng hơn 1.2 triệu lao động . Bước sang kế hoạch 2001- 2005 với dự báo hàng năm tỷ lệ lực lượng lao động sẽ gia tăng ở mức 0.35% và đến năm 2005 tổng lực lương lao động của cả nước sẽ là 42689.9 ngàn người . Và sau 5 năm lực lượng lao động sẽ tăng thêm 4046,8 ngàn người cộng thêm số lao động đang thất nghiệp có đến cuối năm 2000 khoảng 800 ngàn người và số người thiếu viêc làm là khoảng 1triệu người thì số thuộc lực lượng lao động có nhu cầu việc làm sẽ lên tới khoảng gần 20triệu người . Nếu phấn đấu mỗi năm ...

doc32 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 900 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Việc làm và kế hoạch giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển kinh tế- Xã hội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu ******** Kết thúc việc thực hiên kế hoạch 1996-2000 với nhiều thành tựu đã đạt được ,GDP được duy trì ở mức 7.0%/năm, cơ cấu kinh tế đang từng bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp trong cơ cấu GDP ... .Bên cạnh đó vấn đề việc làm cũng được chú trọng quan tâm giải quyết . Trong 5 năm qua đã có thêm khoảng 6,1 triệu lao động được thu hút vào làm việc ,bình quân mỗi năm thu hút khoảng hơn 1.2 triệu lao động . Bước sang kế hoạch 2001- 2005 với dự báo hàng năm tỷ lệ lực lượng lao động sẽ gia tăng ở mức 0.35% và đến năm 2005 tổng lực lương lao động của cả nước sẽ là 42689.9 ngàn người . Và sau 5 năm lực lượng lao động sẽ tăng thêm 4046,8 ngàn người cộng thêm số lao động đang thất nghiệp có đến cuối năm 2000 khoảng 800 ngàn người và số người thiếu viêc làm là khoảng 1triệu người thì số thuộc lực lượng lao động có nhu cầu việc làm sẽ lên tới khoảng gần 20triệu người . Nếu phấn đấu mỗi năm giải quyết cho khoảng 1.4 triệu người thì đến cuối năm 2005 số lao động có nhu cầu giải quyết việc làm còn rất lớn. Với chủ trương của Đảng : “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế , làm lành mạnh xã hội , đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân...” . Để làm được điều đó thì ngoài các giải pháp cụ thể còn phải cần có sự nỗ lực tập trung thống nhất sự chỉ đạo của Đảng đối với các cấp ,các ngành cùng toàn thể các cá nhân và cộng đồng để có thể thực hiện được mục tiêu kế hoạch đã đặt ra... Chương 1 Việc làm và kế hoạch giải quyết việc làm Trong kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 1. Môt số khái niệm cơ bản về lao động và việc làm. 1.1 Dân số hoạt động kinh tế. Bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm. Như vậy vơí khái niêm trên có thể hiểu dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động là một bộ phận của nguồn lao động nó bao gồm hai phần. Một là những người đủ 15tuổi trở lên đang có việc làm trong các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội , biểu hiện của việc làm đó là tạo ra được thu nhập mà hoạt động tạo thu nhập này không bị pháp luật cấm, ngoài ra còn cả những hoạt động cuả bộ phận dân số không trực tiếp tạo ra thu nhập nhưng lại trực tiếp giúp cho người thân, gia đình tạo thu nhập. Hai là những người đang trong độ tuổi lao động không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm và luôn sẵn sàng làm việc (như vậy ngược với phần trên thì bộ phận dân số này là những người không tạo ra được thu nhập nhưng luôn tìm cách để tạo ra thu nhập) . Ngoài ra khi nghiên cứu về lao động ta còn thường sử dụng khái niệm về dân số hoạt đông kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua: là những người từ đủ15 tuổi trở lên có tổng số ngày làm việc và ngày ngày có nhu cầu làm thêm lớn hơn hoặc bằng 183 ngày , nếu nhỏ hơn 183 ngày là dân số không hoạt động kinh tế thường xuyên . 1.2. Dân số không hoạt động kinh tế Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ số người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không hoạt đông kinh tế vì các lí do: đang đi học , hiện đang làm công việc nội trợ cho bản thân gia đình, .... Ngoài ra tuỳ theo tình trạng việc làm, dân số hoạt động kinh tế được chia thành hai loại: người có việc làm và người thất nghiệp. 1.3. Việc làm. Để hiểu rõ khái niệm và bản chất của việc làm ta phải liên hệ đến phạm trù lao động vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lao động trước hết là một hành động diễn ra giữa con người với giới tự nhiên, trong lao động con người đã vận dụng trí lực và thể lực cùng với công cụ tác động vào giới tự nhiên tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, đời sống con người , lao động là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của con người , nó là hoạt động rất cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người. Con người không thể sống khi không có lao động . Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động, sức lao động là năng lực của con người nó bao gồm cả thể lực và trí lực , nó là yếu tố tích cực đóng vai trò trung tâm trong suốt quá trình lao động , là yếu tố khởi đầu, quyết định trong qúa trình sản xuất, sản phẩm hàng hoá có thể được ra đời hay không thì nó phải phụ thuộc vào quá trình sử dụng sức lao động . Bản thân cá nhân mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định, mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã hội với tư cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được gọi là chỗ làm hay việc làm. Như vậy việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất . Người lao động được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội .Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội ,cho bản thân. Nhưng với khái niệm việc làm như trên thì chưa được coi là đầy đủ vì con người chỉ có thể tồn tại trong gia đình và xã hội, do đó việc làm được hiểu theo một cách hoàn chỉnh đó là ngoài phần người lao động tạo ra cho xã hội còn phải có phần cho bản thân và gia đình nhưng điều cốt yếu là việc làm đó phải được xã hội thừa nhận(được pháp luật thừa nhận). Như vậy một hoạt động được coi là việc làm khi có những đặc điểm sau: đó là những công việc mà người lao động nhận được tiền công, đó là những công việc mà người lao động thu lợi nhuận cho bản thân và gia đình, hoạt động đó phải được pháp luật thừa nhận. Tuỳ từng cách phân loại mà ta có các hình thức việc làm ở đây ta chỉ tiếp cận hai hình thức sau: + Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác. + Việc làm phụ:là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. Với việc nghiên cứu đặc điểm, khái niệm và phân loại việc làm giúp cho ta hiểu rõ hơn về việc làm từ đó đưa ra những tiêu chí đánh giá một cách sâu hơn nhằm xác định được các mục tiêu và giải pháp trong việc lập kế hoạch việc làm. 2. Kế hoạch giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. 2.1 Nội dung của kế hoạch việc làm. Kế hoạch việc làm dựa trên cơ sở cân đối giữa khả năng và nhu cầu của nguồn lực lao động trong nền kinh tế và đây cũng được xem là cơ sở xây dựng kế hoạch việc làm, phương pháp này được coi là phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện tại và trong những năm tiếp theo, phương pháp này được sử dụng ở nhiều quốc gia vì các quốc gia đều nằm trong tình trạng mất cân đối giữa khả năng và nhu cầu lao động . Cụ thể nội dung của kế hoạch việc làm bao gồm các nội dung chính sau: - ND1: Xác định nhu cầu lao động xã hội cần có trong kì kế hoạch ,đây chính là nhu cầu về việc thu hút và giải quyết việc làm trong các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế, nhu cầu đó đo lường bằng số vị trí, số lượng chỗ màtừng ngành ,từng lĩnh vực có thể đảm bảo giải quyết được cho người lao động. Nhu cầu lao động này phụ thuộc vào các yếu tố sau: + Quy mô, dung lượng của nền kinh tế ,khi nền kinh tế có quy mô, dung lượng lớn thì sẽ tạo ra được nhiều việc làm, và ngược lại khi nền kinh tế có quy mô, dung lượng thấp sẽ tạo ra được ít việc làm. + Năng suất lao động, khi mức lao động tăng, hiệu suất sử dụng lao động cao thì nhu cầu về sử dụng lao động có xu hướng giảm. + Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, sự thay đổi về cơ cấu lao động trong các ngành, sự thay đổi số lượng lao động và yêu cầu đào tạo nghề cũng làm thay đổi về nhu cầu lao sử dụng lao động. + Sức sản xuất của người lao động, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động dẫn đến sự thay đổi về chất lượng và cũng ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng lao động. + Trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật, khi trình độ của khoa học kỹ thuật phát triển sẽ làm thay đổi tính chất sản xuất, thay đổi cơ cấu lao động và dẫn đến thay đổi nhu cầu lao động. Phương pháp xác định nhu cầu sử dụng lao động trong kì kế hoạch: dựa vào mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế đã đặt ra trong kì kế hoạch để xác định nhu cầu sử dụng lao động trong nền kinh tế. - ND2: Xác định khả năng cung cấp lao động trong nền kinh tế. Khả năng cung cấp lao động được hiểu là tổng số bộ phận dân số tham gia hoạt động kinh tế có thể cung cấp cho nền kinh tế trong thời kì kế hoạch ,khả năng này được đo lường bằng số người lao động sẽ tham gia vào thị trường lao động trong một thời gian nhất định. Tuỳ từng đặc điểm của từng loại lao động mà ta có thể chia thành các nhóm sau: . Những người đến tuổi lao động đang tham gia vào thị trường lao động . Những người trong tuổi lao động vẫn chưa có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm. . Những người quá tuổi lao động nhưng vẫn còn khả năng động và cũng có nhu cầu làm việc. Khả năng cung cấp lao động phụ thuộc vào các yếu tố sau: + Quy mô dân số, khi quy mô dân số tăng thì khả năng cung cấp lao động tăng + Cơ cấu dân số,cơ cấu dân số cũng là yếu tố tác động trực tiếp đến khả năng cung cung cấp lao động , tuỳ từng loại dân số ,dân số theo độ tuổi theo giới tính mà ảnh hưởng đến khả năng cung cấp lao động. + Những quy định về độ tuổi lao động của từng quốc gia mà cũng ảnh hưởng đến khả năng cung cấp lao động. Phương pháp xác định khả năng cung cấp lao động thông qua các con số thống kê kì trước. Nhìn chung các quốc gia đều có sự mất cân đối về nhu cầu và khả năng cung cấp lao động nhưng tuỳ từng đặc điểm của mỗi nước mà có cung- cầu về lao động khác nhau thường đối với các nước đang phát triển thì cung lớn hơn cầu, còn đối với các nước phát triển thì lại có xu hướnglà cung nhỏ hơn cầu. Đối với Việt nam là nước đang phát triển cộng với cơ cấu dân số trẻ, vì vậy mức cung về lao động hàng năm luôn lớn hơn mức cầu về lao động, đặc trưng này phản ánh nó vừa là lợi thế và cũng là khó khăn để phát triển kinh tế . - ND3: cân đối nhu cầu với khả năng cung cấp lao động trong nền kinh tế , việc cân đối này phải dựa trên đặc điểm của từng loại lao động (bao gồm lao động thành thị và lao động nông thôn. Đối với lao động thành thị cần xác định tỷ lệ thất nghiệp thực tế (thất nghiệp hữu hình ). Đối với lao động nông thôn cần xác định phần trăm số thời gian lao động vì lao động nông thôn là loại lao động theo mùa vụ mà Việt Nam là nước nông nghiệp thì việc xác định thời gian lao động thực tế của lao động nông thôn là rất quan trọng. Cân đối về lao động là một trong những cân đối lớn của nền kinh tế, là một cân đối quan trọng trong các cân đối của hệ thống kế hoạch phát triển: cân đối thu chi, cân đối tích luỹ tiêu dùng…. Cân đối giữa nhu cầu với khả năng là một khâu quan trọng của kế hoạch việc làm, từ việc cân đối này ta có thể xác định được nhu cầu có thể đáp ứng được bao nhiêu so với khả năng cung cấp từ đó xác định được số lượng dư thừa hay thiếu hụt trong từng khu vực thành thị hoặc nông thôn. - ND4: Từ việc cân đối giữa nhu cầu với khả năng ta có thể xác định được tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và quỹ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn và đưa ra các giải pháp xử lí. Giải pháp xử lí ở đây là từng cách thức, bước đi mang tính chủ quan của con người nhằm thực hiện và sử dụng nguồn lực đạt mục tiêu một cách hiệu quả nhất. Trong kế hoạch việc làm, giải pháp là một khâu quan trọng nhất để có thể thực hiện được mục tiêu, kế hoạch đặt ra có thực hiện được hay không thì đòi hỏi giải pháp như thế nào để đạt được mục tiêu đó một cách hiệu quả nhất phù hợp với khả năng nguồn lực hiện có. Mỗi một giải pháp được đưa ra và thực hiện đòi hỏi phải khắc phục được những hạn chế và tận dụng được lợi thế, điều kiện khách quan của nguồn lực. Với kế hoạch việc làm thì giải pháp có thể được xây dựng trên nhiều cơ sở thành các nhóm giải pháp: - Nhóm giải pháp về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Nhóm giải pháp về tạo việc làm ở thành thị. - Nhóm giải pháp về tạo việc làm ở nông thôn. - Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách của nhà nước…. 2.2 Vai trò của việc làm và kế hoạch giải quyết việc làm. 2.2.1 Vai trò của việc làm Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá nhân, thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào những vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng,..), vào những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độ văn hoá thấp,..). Việc không có việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn có. Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu vào không thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và kinh tế, tức là luôn bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững, ngược lại nó cũng duy trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động. Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích cực, mặt khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội , không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ…Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì vậy trong nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Ngoài ra khi không có vệc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu nghèo là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình chính trị. Vai trò việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng, vì vậy để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi nhà nước phải có những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này. 2.2.2 Vai trò của kế hoạch giải quyết việc làm. Vai trò của kế hoạch giải quyết việc làm cũng được đánh giá trên các mặt kinh tế và xã hội. Trước hết kế hoạch giải quyết việc làm là bộ phận quan trọng trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội vì nó đưa ra các mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế xã hội. Kế hoạch giải quyết việc làm cũng giống các kế hoạch khác là đều đưa ra những tiêu chí, mục tiêu và hệ thống các chính sách giải pháp, mặt khác, kế hoạch giải quyết việc làm khác với các kế hoạch khác ở chố kế hoạch ở đây vừa đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế và vừa đảm bảo mục tiêu phát triển xã hội. Đối với phát triển kinh tế thì kế hoạch giải quyết việc làm đặt ra các mục tiêu để sử dụng hiệu quả nguồn lực lao động nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng. Có các mục tiêu và hệ thống các giải pháp, chính sách sau: + Mục tiêu về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. + Mục tiêu về tỷ lệ lao động qua đào tạo. + Mục tiêu về xuất khẩu lao động ra nước ngoài…. + Các chính sách về khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trong nước ,chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ,chính sách phát triển ngành nghề nông thôn… + Hệ thống các giải pháp thực hiện mục tiêu sử dụng việc làm cho tăng trưởng. Đối với phát triển xã hội kế hoạch giải quyết việc làm đặt ra các mục tiêu về giải quyết việc làm nhưng mang tính xã hội ,mục tiêu việc làm ở đay đảm bảo sự phát triển trong mối quan hệ giữa việc làm và xã hội : + Mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị , nâng quỹ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn…. + Hệ thống các chính sách về tạo việc làm và nâng cao năng suất lao động … + Các chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm ở Việt nam trước khi chưa chuyển đổi nền kinh tế thì trong xã hội không có nạn thất nghiệp do mọi người trong xã hội đều được nhà nước phân phối việc làm khi đến tuổi lao động, về nguyên tắc là mọi người đều có quyền đòi hỏi được lao động và có thu nhập mà không phải tìm việc làm, kế hoạch giải quyết việc làm ở đây là kế hoạch chỉ tiêu pháp lệnh, mọi mục tiêu đã được ấn định từ trước, vì vậy nó mang nặng tính chủ quan vì yếu tố quan trọng là thị trường đã bị bỏ qua.Kiểu phân phối trên có nhiều ưu điểm đó là mọi người được giải quyết việc làm nhanh chóng khi đến tuổi lao động, người lao động đều có quyền bình đẳng như nhau, nhưng nó cũng có nhiều hạn chế như: lạm phát tăng, người lao động không được bố trí phù hợp với khả năng …dẫn đến sức cạnh tranh của nền kinh tế kém đôi khi còn có khả năng dẫn đến khủng hoảng. Từ khi chuyển xang nền kinh tế thị trường kế hoạch không còn mang nặng tính chủ quan như trước kia mà phải chấp nhận yếu tố thị trường và các quy luật thị trường, trong thị trường luôn có thất nghiệp .Nhà nước điều tiết kinh tế ở tầm vĩ mô thông qua các công cụ ,kế hoạch việc làm không vì thế mà mất đi vai trò quan trọng của mình , kế hoạch việc làm trở nên ngày càng linh hoạt với thị trường và trở thành công cụ quan trọng không thể thiếu trong các công cụ quản lí của nhà nước , thông qua kế hoạch việc làm Nhà nước thể hiện vai trò quản lí,điều tiết của mình đối với vấn đề việc làm trong nền kinh tế. Trong những năm tiếp theo khi mà vấn đề việc làm ngày càng trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội thì kế hoạch việc làm càng trở nên quan trọng và rất cần thiết. 2.3. Mối quan hệ của kế hoạch việc làm với hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội Đối với hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội thì kế hoạch việc làm có mối quan hệ trực tiếp ,gắn bó thúc đẩy lẫn nhau .Kế hoạch việc làm trước hết là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển ,vì vậy nó có những mục tiêu chung với các kế hoạch khác và cũng có những mục tiêu riêng của mình. Để thể hiện được mối quan hệ này,trước về mặt kinh tế kế hoạch việc làm được coi là kế hoạch nguồn lực (vì lao động là yếu tố nguồn lực cấu thành nên tăng trưởng) và kế hoạch nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu về sử dụng hiệu quả nguồn lực lao động trong nền kinh tế thực hiện mục tiêu tăng trưởng . Trong trường hợp này kế hoạch tăng trưởng được coi là mục tiêu mà kế hoạch việc làm và các kế hoạch khác phải thực hiện và chỉ có thực hiện được mục tiêu tăng trưởng chỉ khi thực hiện được mục tiêu của kế hoạch việc làm và mục tiêu của các kế hoạch khác. Về mặt xã hội thì lế hoạch việc làm đưa ra các mục tiêu để thực hiện những vấn đề xã hội . Kế hoạch việc làm có mối quan hệ trực tiếp với các kế hoạch xã hội khác như kế hoạch dân số, kế hoạch giáo dục… ,vì vậy trong trường hợp này kế hoạch việc làm cùng với các kế hoạch xã hội khác lại là mục tiêu mà kế hoạch tăng trưởng phải thực hiện. Bởi vì các vấn đề xã hội có được giải quyết chỉ khi dựa trên tiền đề cơ bản là kinh tế. Chương 2 Tình hình thực hiện việc làm trong thời kỳ 1996 - 2000 1. Mục tiêu và phương hướng cơ bản của kế hoạch giải quyết việc làm trong thời kỳ 1996-2000 1.1. Chủ trương và quan điểm của Đảng trong kế hoạch giải quyết việclàm thời kỳ 1996- 2000 Thành tựu đạt được từ kế hoạch 1991-1995 trên các mặt kinh tế xã hội là cơ sở nền tảng cho bước phát triển tiếp theo, cho dù nền kinh tế chưa thoát ra khỏi khủng hoảng, những biến động về tình hình kinh tế chính trị đã ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu việc làm trong kế hoạch 1991-1995 cho thấy số việc làm đã được tạo thêm xấp xỉ với số người mới bổ xung vào lực lượng lao động, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế nhất định.Tiếp thu những mặt yếu kém của quá trình thực hiện kế hoạch 1991-1995 do Đảng ta đề ra từ Đại hội VII thì Đại hội VIII đã khẳng định việc tiếp tục coi trọng vấn đề giải quyết việc làm và đã đưa ra những quan điểm , phương hướng cụ thể để giải quyết vấn đề việc làm :”Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân được tư do hành nghề, thuê mướn công nhân theo pháp luật . Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên những địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tăng quỹ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn…”. So với Đại hội VII thì Đại hội VIII đã có những quan điểm mới đối với vấn đề việc làm bằng việc khuyến khích các thành phần kinh tế, mọi nhà đầu tư và mọi công dân trong việc mở mang và phát triển các ngành nghề nhằm tạo ra nhiều việc làm từ việc huy động nguồn lực trong dân để giải quyết vấn đề việc làm. Đã có những chủ trương về phân bố lại dân cư ,lao động trên địa bàn cả nước, đã chú trọng quan tâm hơn đến việc mở rộng quan hệ đối ngoại kinh tế nhằm đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động, trước kia việc xuất khẩu lao động chủ yếu chỉ xang thị trường các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng từ khi hệ thống này bị xụp đổ ở các nước Đông âu thì thị trường của chúng ta bị thu hẹp, vì vậy có thể nói đó là một hướng đi đúng đắn gắn việc giải quyết việc làm với quan hệ kinh tế đối ngoại. Với quan điểm tập trung sức tạo việc làm Đảng ta đã cho rằng vấn đề việc làm phải được giải quyết bằng sự tập trung nỗ lực của các cấp, các ngành từ TW đến địa phương, và vấn đề việc làm được giải quyết bằng cách huy động ,tập trung nguồn nội lực. 1.2. Mục tiêu của kế hoạch giải quyết việc làm trong thời kỳ 1996 - 2000. Tiếp tục phát huy những thành tựu phát triển kinh tế- xã hội mà kế hoạch 1991-1995 đã đạt được thì kế hoạch 1996-2000 đã đưa ra một số mục tiêu về việc làm như sau: . Mỗi năm thu hút được từ 1,3 – 1,4 triệu lao động có chỗ làm việc. . Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%. . Nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%. . Tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 22 – 25%. 2 . Thực trạng việc thực hiện kế hoạch giải quyết việc làm thời kỳ 1996-2000. + Về tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thời gian sử dụng lao động ở nông thôn. Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷ lệ thất nghiệp 5.88 6.01 6.85 7.40 6.4 T/g sử dụng lao động ở nông thôn 72.11 73.14 71.13 73.49 73.86 (Số liệu thống kê điều tra- năm 2000 của tổng cục thống kê) Như vậy so với năm 1996 thì xu hướng thất nghiệp tăng lên so với các năm tiếp theo bình quân mỗi năm tăng 0.13%. Riêng năm 1999 thì tỷ lệ thất nghiệp đã tăng cao lên đến 7.4%, giai đoạn này do vẫn còn bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, khối lượng vốn đầu tư vào nền kinh tế bị giảm mạnh , đặc biệt là khối lượng vốn FDI từ nước ngoài và các khoản cam kết viện trợ cho Việt nam, đầu những năm 2000 thì tỷ lệ thất nghiệp này lại có xu hướng giải đáng kể, từ 7.4%(1999) xuống còn 6.4%(2000) nguyên nhân là do Việt nam không bị ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ như các nước khác trong khu vực và năm 2000 Chính phủ đã có những giải pháp điều chỉnh mạnh mẽ cho nên nền kinh tế lại được phục hồi và phát triển, dự báo trong những năm tiếp theo với đà tăng trưởng ổn định tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục có xu hướng giảm. Tỷ lệ thời gian lao động ở nông thôn có xu hướng tăng ổn định từ 72.11%(năm 1996) lên 73.86%(năm 2000) bình quân mỗi năm tăng 0.44%, duy chỉ có năm 1998 là bị giảm xuống còn 71.13% . Với những dấu hiệu trên cho thấy mức tăng là không ổn định , có sự tăng giảm thất thường trong khi đó mức tăng chậm chỉ giao động ở mức 1% , không có những đột biến trong mức tăng hàng năm, điều đó phản ánh mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động ở trong nông thôn còn diễn ra chậm, mức đầu tư trong việc giải quyết việc làm trong nông thôn chưa được quan tâm chú trọng và đạt hiệu quả thấp. Để thực hiện mục tiêu tăng quỹ thời gian lao động ở nông thôn đến năm 2005 là khoảng 80-85% thì đây là việc làm khó đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần tập trung chỉ đạo việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn một cách mạnh mẽ đầu tư đồng bộ vào các ngành nghề,nhất là hệ thống cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông nông thôn , tiếp tục thực hiện việc đô thị hoá nông nghiệp nông nhằm tạo ra những bước đột phá trong thời gian tới thì mới có thể đạt được mục tiêu đã đề ra.... + Về quy mô của lực lượng lao động: tiếp tục gia tăng với tốc độ cao . Tính đến 1/7/2000 tổng số lực lượng lao động cả nước 38.643.089người so với kết quả tại thời điểm điều tra năm 1996 thì hàng năm mức tăng bình quân là 975.645người với tốc độ tăng 2.7%/năm, trong khi tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm là 1.15%/năm . Năm 1996 tỷ lệ lượng lao động chiếm trong tổng dân số nói chung chiếm 0.48%và năm 2000 thì tỷ lệ này chiếm 0.5%, bình quân mỗi năm tỷ lệ này gia tăng 0.4%, Dự kiến giai đoạn 2001-2005 thì hàng năm gia tăng ở mức 0.35%, đến năm 2005 tỷ lệ lao động chiếm trong tổng dân số là 51.75% tương với 42.689.900người. Như vậy sau 5 năm lực lượng lao động sẽ tăng 4.046.800người cộng thêm số lao động thất nghiệp cuối năm 2000 chuyển xang khoảng 800.000 người và số thiếu việc làm khoảng 1triệu người thì số thuộc lực lượng lao động có nhu cầu về việc làm sẽ lên tới khoảng gần 20triệu người . Nếu phấn đấu mỗi năm giải quyết khoảng 1.4 triệu lao dộng thì số lao động đến cuối năm 2005 có nhu cầu việc làm còn rất lớn và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 5% là khó thực hiện . Vì vậy trong những năm tiếp theo Chính phủ cần phải thực hiện chính sách đối với các vấn đề về dân số, lao động, việc làm...,nhằm giảm mức cung về lao động và các sức ép đối với vấn đề việc làm. + Mức cầu về lao động trong thời gian qua: (Đơnvị:nghìn người) Các tiêu chí 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số 33.978 34.352 34.801 35.679 36.205 Trong đó Theo nhóm ngành. Nông –Lâm- Ngư nghiệp 23.431 22.589 23.018 22.861 22.670 Công nghiệp – Xây dựng 3.698 4.170 4.049 4.435 4.744 Dịch vụ 6.849 7.593 7.734 8.382 8.791 (Theo số liệu điều tra 2000 – Bộ lao động thương binh -xã hội) Theo các số liệu trong biểu trên chúng ta thấy số người có việc làm thường xuyên tăng liên tục trong thời kỳ 1996-2000, mỗi năm tăng trung bình gần 740 nghìn người trong đó năm tăng nhiều nhất là năm 2000 so với năm 1999 là 347 nghìn người. Xu hướng thay đổi trên phần nào được phản ánh qua sự thay đổi cơ cấu việc làm • Với lao động trong nông –lâm –ngư nghiệp trong thời kỳ này không thay đổi nhiều có xu hướng giảm ít nhưng không đều, từ 23431nghìn người (năm 1996) giảm xuống còn 22670 (năm 2000), bình quân hàng năm giảm 190 nghìn người • Với lao động trong ngành công nghiệp – xây dựng đã có những xu hướng thay đổi tích cực số việc làm đã tăng liên tục từ 3698 nghìn người (năm 1996) lên 4744 nghìn người (năm 2000), bình quân mỗi năm tăng 264 nghìn người . • Đối với lao động trong ngành dịch vụ cũng đã có những xu hướng tăng tích cực như ngành công nghiệp số lao động trong ngành ngày càng gia tăng, từ 6849 nghìn người (năm1996) lên đến 8791 nghìn người (năm2000), trung bình mỗi năm khoảng 486 nghìn người. Nhìn chung trong thời kỳ 1996- 2000 nhu cầu về lao động trong các ngành kinh tế của đất nước đã có những dấu hiệu biến chuyển tích cực, nhu cầu về lao động trong các ngành đều được thay đổi theo xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đặt ra là tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp ,với mức thay đổi từ 33798 nghìn lao động (năm1996) lên 36205 nghìn lao động, hàng năm nhu cầu về lao động trong các ngành đã tạo ra khoảng 557 nghìn chỗ làm việc, nhưng xét một cách tổng quát về nhu cầu lao động trong thời gian qua ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, việc nhu cầu trong các ngành đều tăng nhưng mức tăng lại không ổn địnhcụ thể trong giai đoạn 1997- 1998, với ngành nông nghiệp sự tăng giảm thể hiện ở chỗ 22589nghìn người (năm 1997) lên 23018 nghìn người (năm 1998), với ngành công nghiệp thì nhu cầu đó lại giảm từ 4170 (năm 1997) xuống 4049 (năm 1998), điều đó phản ánh cơ cấu, trình độ kinh tế đất nước ta vẫn còn mang nặng tính chất nông nghiệp , các ngành công nghiệp, dịch vụ vẫn chưa đủ lớn để có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sức cạnh tranh nền kinh tế còn yếu cho nên dễ bị ảnh hưởng, tác động xấu khi có khủng hoảng kinh tế diễn ra trong khu vực, như trong cuộc khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra trong giai đoạn 1997- 1998 đã làm ảnh hưởng đến nhu cầu lao động trong các ngành kinh tế của đất nước, trong những năm tiếp theo dự báo kinh tế đất nước sẽ phát triển ổn định và không có những biến động lớn, đó sẽ là điều kiện để ta tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng hợp lí ,tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập. + Về cơ cấu lao động trong các ngành: Chỉ tiêu Năm 1996 Năm1999 Số người (ngàn người) Tỷ lệ (%) Số người (ngànngười) Tỷ lệ (%) Nông-lâm-ngư 24366.7 69.8 22725.6 63.6 Công nghiệp 3682.1 12.45 4450.2 12.45 Dịch vụ 6858.8 19.65 855.3 22.93 Về cơ cấu lao động trong các ngành có xu hướng sau : . Với lao động nông nghiệp có mức giảm từ 2366.7 nghìn người (năm 1996) xuống 22725.6 nghìn người (năm 1999) như vậy trong 4 năm đã gỉam được 1641.1 nghìn người tương đương với mức giảm là 6.2% từ 69.8% xuống 63.6% . . Với lao động trong công nghiệp đã có xu hướng tăng từ 3682.1 nghìn người (năm1996) lên 4450.2 nghìn người (năm 1999) và trong 4năm đã tăng 768.1 nghìn người và mức tăng về tỷ lệ % lại không có sự thay đổi vì tốc độ tăng trưởng lao động trong ngành công nghiệp chỉ tương đương với tốc độ tằng trưởng lực lượng lao động. . Với lao động trong ngành dịch vụ trong 4 năm qua đã tăng khoảng 1696.5 nghìn người từ 6858.8 nghìn người (năm1996 ) lên 8555.3 nghìn người trong năm 1999 tương đương với mức tăng là 3.28% từ 19.65% lên 22.93% . Trong kế hoạch 1996- 2000 nói chung về cơ cấu lao động đã có những thay đổi đáng kể, lao động trong nông nghiệp có xu hướng giảm mạnh, lao động trong khu vực công nghiệp có xu hướng tăng nhưng tốc độ tăng không cao , đối với ngành dịch vụ lao động lại có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng lao động trong ngành công nghiệp . Tuy trong thời kỳ kế hoạch 1996-2000 do nền kinh tế bị ảnh hưởng của khủng hoảng cho nên một số mục tiêu đặt ra đã không đạt được , trong chuyển dịch cơ cấu lao động với đà tăng trưởng ổn định của nền kinh tế đã được lấy lại từ năm 2000 thì cơ cấu lao động của đất nước vẫn tiếp tục được chuyển dịch mạnh mẽ, dự báo trong những năm tới đối với lao động trong nông nghiệp do được Đảng và Nhà nước quan tâm bằng các chính sách phát triển về khôi phục làng nghề, ngành nghề, phát triển trang trại...trong nông thôn, thì bộ phận này sẽ giảm mạnh và chuyển dần xang các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, do đó cơ cấu của lao động trong nông nghiệp sẽ có khả năng được giảm xuống còn 56 – 57% trong mục tiêu kế hoạch đã đề ra đến năm 2005. Đối với lao động trong công nghiệp thì xu hướnglao động ở khu vực này cũng sẽ tăng, với những phương án, định hướng phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, các ngành công nghiệp mới, các chính sách phát triển các khu công nghiệp ,khu chế xuất và các chính sách phát triển khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng lao động trong công nghiệp sẽ có xu hứơng tăng cao và cơ cấu lao động sẽ được chuyển dịch một cách mạnh mẽ, để đạt mục tiêu cơ cấu lao động trong công nghiệp từ 20 –21% vào năm 2005, đòi hỏi phải tiếp tục quan tâm phát triển các ngành công nghiệp, một mặt vừa quan tâm phát triển các ngành mà ta có thể sử dụng được các lợi thế về lao động, một mặt cần quan tâm phát triển các ngành có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao để thúc đẩy lôi kéo các ngành khác, trong thời gian tới khi đất nước tham gia qúa trình hội nhập kinh tế trong khu vực đây nó cũng vừa là cơ hội vừa là khó khăn đối với các ngành công nghiệp, vì vậy đòi hỏi các ngành cần có những chiến lược và bước đi hợp lí để có thể cạnh tranh được với các ngành công nghiệp của các nước trong khu vực . Đối với lao động trong ngành dịch vụ, trong những năm qua do sự phát triển mạnh mẽ của ngành với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 6.2%/năm, tuy là ngành có từ lâu nhưng lại mới được quan tâm phát triển trong những năm gần đây, mặc dù vậy hàng năm ngành đã giải quyết được số lượng lớn lao động ,hoạt động dịch vụ ở nước ta trong thời gian qua chủ yếu là hoạt động du lịch ,khách sạn ,nhà hàng...., vì vậy chưa phát huy hết tiềm năng của ngành , trong thời gian tới được dự báo là rất khả quan trong phát triển kinh tế và sự ổn định về tình hình chính trị đối với đất nước ta, ngành sẽ có cơ hội để tiếp tục phát triển. Để thực hiện được mục tiêu đến năm 2005 tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ sẽ là 22- 23% thì ngành cần phải tận dụng những cơ hội để phát triển bằng cách đa dạng hoá các hình thức du lịch ,vận tải, đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng ,nhằm tận dụng những lợi thế về các hình thức dịch vụ mà chúng ta đang có. +Tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo Chỉ tiêu 1996 2000 Tăng giảm bình quân hàng năm Tuyệt đối (người) Tương đối (%) Lao động không có trình độ 30.636.419 32.650.666 503.562 1.6 Đào tạo sơ cấp/họcnghề 1.955.440 2.618.746 165.835 7.58 Trung học chuyên nghiệp 1.342.515 1.870.136 131.905 8.64 Cao đẳng /đại học 806.171 1.503.541 174.313 16.86 . Với lao động không có trình độ trong bảng thống kê ta thấy chiếm đến 88.2% tổng số lao động của cả nước ,với quy mô hàng năm tăng 1,6% , như vậy tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo hàng năm ở nước ta tương đối cao và tốc độ tăng lao động ở nhóm này rất lớn ,số lao động không có trình độ này thường tập trung ở các vùng nông thôn ,vùng sau vùng xa , nơi mà không có điều kiện về giáo dục ,nếu so sánh về tỷ lệ gia tăng hàng năm mặc dù tỷ lệ này thấp nhất song do quy mô của nhóm người này lớn cho nên số lượng lao động hàng năm không có nghề lớn, vì vậy có thể nói hàng năm số lượng lao động mới bước vào tuổi lao động mà chưa được đào tạo nghề là rất lớn, đây chính là sức ép rất lớn trong vấn đề giải quyết việc làm . Với lao động đã qua đào taọ sơ cấp hoặc học nghề thì tỷ lệ này ngày càng gia tăng, với số lượng bình quân hàng năm tăng khoảng 165.835 người, tương đương với tỷ lệ gia tăng là 7.58%/năm . . Với lao động được đào tạo ở bậc trung học chuyên nghiệp, hàng năm số lao động ở bậc này tăng khoảng 131.905nghìn người với tỷ lệ gia tăng khoảng 8.64% . . Với lao động có trình độ cao đẳng, đại học trong những năm vừa qua lao động ở bậc này có sự cải thiện đáng kể, hàng năm có khoảng 174.313 nghìn người được đào tạo, vói tỷ lệ tương đối cao là 16.86%/năm .Như vậy trong những năm vừa qua lao động được đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học so với các bậc khác thì có mức tăng cao nhất, đây là những dấu hiệu cho thấy, đội ngũ lao động có trình độ khoa học kĩ thuật ngày càng được tăng cường đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong những năm tiếp theo. Nhìn chung tỷ lệ lao động trong thời kỳ 1996-2000 đã có những sự thay đổi đáng kể, mặc dù tỷ lệ gia tăng lao động hàng năm trong độ tuổi lao động còn cao, nhưng tỷ lệ gia tăng lao động ở các bậc đều được thay đổi và ngày càng tăng cao hơn, đặc biệt là lao động ở bậc cao đẳng và đại học, bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đã đạt được thì vẫn còn một số những mặt hạn chế đó là,nếu so sánh với mục tiêu của kế hoạch 1996- 2000 là nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 22-25% vào năm 2000, nhưng chỉ mới đạt được khoảng 18.35% lao động được đào tạo trong tổng số lao động của toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt sự phân bố đã qua đào tạo từ sơ cấp , học nghề trở lên cũng như công nhân kĩ thuật đều tập trung ở các khu vực thành thị , và các khu đô thị trọng điểm làm cho sức ép về lao động và việc làm ở các khu vực này ngày càng bức xúc. Lực lượng lao động ở nông thôn tuy chiếm đến 77.44% nhưng lao động đã được đào tạo từ sơ cấp, học nghề trở lên chỉ chiếm 42.26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nước , đây là vấn đề còn nhiều bất cập đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn trong những năm tiếp theo, việc bổ xung triển khai mạng lưới đội ngũ lao động ,cán bộ khoa học kĩ thuật đến tất cả các vùng nông thôn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó cấu trúc đào tạo về lao động của đất nước vẫn còn bất hợp lí , năm 1996 cấu trúc đào tạo là 1-1.7-2.4 tức là cứ có 1 lao động có trình độ cao đẳng , đại học thì cần có 1.7 lao động có trình độ trung học và 2.4 lao động dã qua đào tạo nghề,đến năm 2000 cấu trúc này là 1 –1.2 –1.7 trong khi đó mục tiêu của nghị quyết Trung ương đề ra là 1 – 4 -10 , như vậy so với mục tiêu đã đề ra thì việc thực hiện vẫn chưa đạt được mục tiêu và kết quả thực hiện còn rất khiêm tốn , điều đó cho thấy còn rất nhiều bất hợp lí trong cơ cấu đào tạo về lao động của đất nước , chính sự bất hợp lí đó đã gây nên sự lãng phí về nguồn lực và nguồn lực này đã không được sử dụng một cách hiệu quả, nguyên nhân của những hạn chế trên có thể bắt nguồn từ việc người lao động chưa ý thức rõ được vai trò quan trọng của việc đào tạo nghề, bên cạnh đó còn phải kể đến sự yếu kém của các cơ sở đào tạo nghề và sự thể hiện vai trò quản lí của Nhà nước đối với vấn đề đào tạo nghề cho người lao động bằng các công cụ chính sách chưa thực sự phát huy và coi trọng trong vấn đề này. Để thực hiện được mục tiêu về tỷ lệ lao động trong những năm tiếp theo là nâng tỷ lệ lao động của cả nước đã qua đào tạo lên 30%, thì số người có trình độ sơ cấp, học nghề ít nhất là 8 triệu 538 nghìn người, trung học chuyên nghiệp ít nhất là 3 triệu 415 nghìn người và tỷ lệ lao động qua đại học, cao đẳng trở lên phải có 854 nghìn người. Như vậy hàng năm số lượng lao động được đào tạo nghề phải tăng thêm khoảng 1184 nghìn người với tốc độ tăng là 26.7%, số lao động tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp hàng năm cần phải tăng thêm khoảng 854 nghìn ngươì và số lượng tốt nghiệp cao đẳng ,đại học trở lên cần bổ xung khoảng 214 nghìn người thì đây là nhiệm vụ không nhỏ và rất khó khăn đòi hỏi phải có sự cố gắng của mỗi cá nhân cần phải nhận thức được vai trò quan trọng của việc học nghề, đào tạo nghề, có sự nỗ lực của các cấp các ngành từ Trung ương đến địa phương ,phải coi đó là nhiệm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế, các ngành, các cấp cần thấy rõ vai trò, trách nhiệm trong vấn đề này,đặc biệt trong thời gian tới Nhà nước cần phải có những chính sách khuyến khích, động viên, hỗ trợ đối với từng người lao động, đối với các cơ sở đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phải có những chính sách ưu tiên, khuyến khích các nhà đầu tư qua tâm vào lĩnh vực này ....Có như thế thì mới có thể đạt được mục tiêu đã đề ra. Những hạn chế còn tồn tại . . Kế hoạch 1996 – 2000 đã đặt ra nhiều mục tiêu về giải quyết việc làm,Đảng và Nhà nước đã có những nỗ lực rất lớn trong vấn đề giải quyết việc làm: như đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất dịch vụ, đa dạng hoá ngành nghề... từ đó đã tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người trong việc tạo việc làm và tìm kiếm việc làm, tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp lại đang có xu hướng gia tăng ở thành thị và nông thôn với mục tiêu đặt ra trong kế hoạch 1996 – 2000 là giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 5% là chưa thực hiện được trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn ở mức 6.44% (năm 2000) ,đối với khu vực nông thôn mục tiêu đặt ra trong kế hoạch là nâng tỷ lệ quỹ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 75% vào năm 2000, thì mới chỉ thực hiện được là 73.86% trong năm 2000. Nguyên nhân không thực hiện được các chỉ tiêu trên có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trước hết phải kể đến đó là việc gia tăng tốc độ lực lượng lao động nhanh hơn tốc độ gia tăng về việc làm, hàng năm tốc độ tăng lao động khoảng 0.4% trong khi đó tốc độ tăng việc làm chỉ là 0.15%, hàng năm nhu cầu việc làm cần giải quyết từ 1.3 – 1.4 triệu lao động trong khi chỉ đáp ứng khoảng hơn 1 triệu người, vì vậy đã gây nên tình trạng thất nghiệp dặc biệt là ở thành thị, nguyên nhân thứ hai có thể kể đến đó là việc không đáp ứng được về nhu cầu lao động có trình độ lành nghề cho nền kinh tế, theo thống kê cho thấy tỷ lệ thất nghiệp thường tập trung vào bộ phận lao động chưa qua đào tạo, nguyên nhân thứ ba đó là việc chưa có sự chỉ đạo thống nhất đối với các ngành các lĩnh vực có quan tâm, các ngành các cấp chưa thực sự coi trọng việc giải quyết lao động và coi đó là vấn đề mà Nhà nước phải giải quyết, bên cạnh đó người lao động chưa thấy rõ được vai trò quan trọng của việc học nghề và đào tạo nghề, nguyên nhân thứ năm đó là việc tổ chức xây dựng và thực hiện kế hoạch còn yếu, một nguyên nhân nữa đó là các hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước nhiều khi không phát huy được tác dụng do trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn. . Cơ cấu về lao động mặc dù đã có sự thay đổi trong kế hoạch 1996 – 2000, nhưng vẫn còn tỏ ra bất hợp lí, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, sự thay đổi về cơ cấu lao động rất chậm trong khi cơ cấu kinh tế thay đổi tương đối rõ nét. Những năm qua tỷ trọng nông nghiệp giảm, tỷ trọng công nghiệp tăng nhưng tỷ trọng dịch vụ trong tổng sản lượng hầu như không thay đổi ,năm 1996 nông nghiệp chiếm 27.8%, công nghiệp – xây dựng chiếm 29.7% và dịch vụ là 42.5% trong khi đó cơ cấu về lao động là nông nghiệp 69%, lao động công nghiệp 10.9% và lao động dịch vụ là 20.1%, đến năm 2000 sản lượng nông nghiệp chiếm 24.5%, sản lượng công nghiệp – xây dựng chiếm 36.7%và sản lượng dịch vụ là 38.8% thì lao động trong nông nghiệp là 62.6%, lao động trong công nghiệp là 13.1%, lao động dịch vụ là 24.3%. Điều đó phản ánh tốc độ tăng trưởng về sản lượng và tốc độ tăng trưởng lao động trong các khu vực rất khác biệt. Nguyên nhân do cơ cấu đầu tư phát triển nguồn lao động và đầu tư chuyển dịch cơ cấu ngành chưa hợp lí, cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế cộng vào đó là do cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. .Việc đào tạo nghề cho lao động trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, nếu so với kế hoạch 1996 – 2000 là nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 22- 25% vào năm 2000, nhưng chỉ mới đạt được 18.35%. Đặc biệt sự phân bố lực lượng đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở cũng như từ công nhân kĩ thuật có bằng trở lên đều tập trung ở khu vực thành thị và các khu đô thị trọng điểm. Lực lượng lao động ở nông thôn tuy chiếm 77.44% nhưng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp học nghề trở lên chỉ chiếm 42.26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nước. Bên cạnh đó cấu trúc đào tạo vẫn còn bất hợp lí kế hoạch 1996- 2000 cấu trúc đào tạo là 1- 1.7- 2.4, trong khi đó cấu trúc đào tạo đã thực hiện là 1-1.2-1.7. Nguyên nhân của hạn chế trên có thế bắt nguồn từ việc người lao động chưa nhận thức rõ được vai trò của việc đào tạo nghề, ngoài ra còn phải kể đến sự yếu kém của các cơ sở đào tạo nghề và vai trò quản lí của nhà nước trong việc xây dựng, thực hiện các kế hoạch chương trình về đào tạo nghề và giải quyết việc làm chưa thật đúngvà triệt để. . Giải quyết việc làm đòi hỏi khẩn trương nhưng trình độ tổ chức và quản lí điều hành của chúng ta vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm , chưa theo kịp cơ chế quản lí mới, bộ máy quản lí còn cồng kềnh,mối quan hệ giữa các ngành chức năng chưa góp phần tích cực, chưa tạo ra được sự đồng bộ khi cùng nhau giải quyết một vấn đề. Hệ thống cơ sở vật chất còn nghèo nàn chưa đáp ứng đủ nhu cầu đào tạo, hàng năm mọi hoạt động đều chông chờ từ ngân sách Nhà nước cấp, cộng vào đó việc xã hội hoá giáo dục trong lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn, vì vậy việc thực hiện các chỉ tiêu Nhà nước giao nằm trong phạm vi bó hẹp không đạt kết quả. . Một số văn bản pháp quy về quản lí lao động và các văn bản hướng dẫn chưa được ban hành kịp thời dẫn đến các tiêu cực trong quá trình thực hiện, trong thời gian vừa qua việc hoạt động lộn xộn của các trung tâm tư vấn về việc làm và các trung tâm dịch vụ việc làm do không có sự điều hành của các cơ quan quản lí đã gây nên những tiêu cực ảnh hưởng xâú đến thị trường lao động… Hệ thống thông tin thị trường lao động chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra Chương 3 Những giải pháp thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm trong kế hoạch 2001 – 2005. quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề giải quyết việc làm trong thời kỳ kế hoạch 2001 – 2005. Kế hoạch 2001 – 2005 trong nghị quyết Trung ương Đảng IX đã đề ra đã chỉ rõ quan điểm, chủ trương: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của người dân. Để giải quyết về cơ bản người lao động được làm việc phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất kinh doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động. ”. Đây là quan điểm , chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước rất phù hợp với tình hình, điều kiện kinh tế của nước ta khi bước xang thế kỉ 21. Sau hơn 15 năm đổi mới kinh tế đất nước đã đạt được những thành tựu rực rỡ, bước đầu đã hình thành nền tảng cơ sở vững chắc để tạo đà cho những năm tiếp theo. Việc thực hiện được những kết quả tốt trong kế hoạch 1996 – 2000 trong điều kiện có nhiều biến động trong khu vực và trên thế giới, đã là nguồn cổ vũ động viên lớn để chúng ta tiếp tục đưa nền kinh tế phát triển mạnh trong những năm tới, Việt nam hiện nay vẫn còn là nước đang phát triển, nguy cơ tụt hậu với các nước trong khu vực và trên thế giới là rất rõ ràng, vì vậy để có thể giảm nguy cơ đó chỉ bằng cách chúng ta phải phát triển kinh tế và phải cố gắng thực hiện bằng được các mục tiêu mà chúng ta đã đề ra . Nguồn lực về lao động của chúng ta còn dồi dào với đặc điểm là dân số trẻ, vì thế trong những năm tiếp theo đây vẫn là một lợi thế rất lớn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhưng để làm được điều đó Đảng đã chỉ rõ là cần phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng lao động ở các ngành công nghiệp ,dịch vụ và giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp, bên cạnh đó cần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nhằm huy động nội lực và thu hút ngoại lực cho phát triển kinh tế, cần phải giải quyết được các vấn đề xã hội bức xúc, tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn, đây là những tư tưởng, quan điểm chiến lược định hướng cho một thời kỳ dài về lao động và việc làm .Tạo nhiều việc làm mới là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh và phát triển kinh tế, ổn định xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu bức xúc của người dân. Cần phải kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng và việc làm, tạo nhiều ngành nghề mới thu hút lao động. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm thông qua thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, các chương trình xoá đói giảm nghèo, các hoạt động tín dụng ưu đãi để tạo việc làm, thông tin tư vấn và giới thiệu việc làm. Tiếp tục tăng cường việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động, xây dựng và thực hiện chặt chẽ cơ chế, chính sách đồng bộ về đào tạo nguồn lao động đưa lao động ra nước ngoài. Đây là những căn cứ xác định các giải pháp về việc làm. Một số chỉ tiêu kế hoạch việc làm giai đoạn 2001 – 2005. . Phấn đấu bình quân mức tăng GDP là 7.5%/năm. . Tỷ trọng nông – lâm –ngư nghiệp chiếm: 20 – 21% GDP. . Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng : 38 –39% GDP. . Tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm: 41 – 42% GDP. . Đến năm 2005 phải tạo việc làm mới và ổn định việc làm cho 7.5 triệu lao động bình quân 1.5 triệu lao động /năm. . Tăng tỷ trọng lao động trong sản xuất công nghiệp – xây dựng lên 20 – 21%. . Tăng tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ lên 22 – 23%. . Giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp xuống còn 56 – 57%. . Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 5.4%. . Tăng quỹ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 80%. . Tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30%, trong đó đào tạo nghề đạt 18 – 19%. 2 .Những giải pháp để thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm. 2.1. Nhóm giải pháp về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực hiện chuyển đổi kinh tế theo hướng tiến bộ, tích cực bằng cách tăng nhanh tỷ trọng của các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp nhằm tạo cơ cấu của một nền kinh tế, có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới và thu hút ngày càng nhiều lượng lao động. Bên cạnh đó cần đẩy nhanh qúa trình đô thị hoá nông thôn làm cơ sở cho việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở nông thôn, để làm được điều đó thì vai trò của nhà nước là rất quan trọng cần phải quan tâm chú trọng đầu tư và phát triển hệ thông cơ sở hạ tầng trong nông thôn như :giao thông, mạng lưới cung cấp điện, hệ thống thông tin liên lạc, các trung tâm thương mại, dịch vụ... Cải tiến và đổi mới cơ chế huy động vốn cho đầu tư phát triển: Cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và thường xuyên điều chỉnh lãi suất cũng như đơn giản hoá các thủ tục gửi tiền rút tiền tiết kiệm nhằm huy động ngày càng nhiều vốn . Cần hình thành đồng bộ thị trường vốn và vận hành tốt loại thị trường này, nhằm nhanh chóng huy động vốn và di chuyển dễ dàng giữa các khu vực và giữa các thành phần kinh tế . Cải tiến cơ cấu sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước theo hướng là là chủ yếu được dùng để đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác đầu tư phát triển vào các lĩnh vực, các ngành kinh tế có khả năng tạo thêm nhiều việc làm hơn . Trong những năm vừa qua với việc sử dụng vốn của nhà nước đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng , đã khuyến khích được sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế nước ngoài , những thành phần kinh tế này đã đóng góp lớn vào tốc độ tăng trưởng của cả nước và đã giải quyết được nhiều việc làm cho nên kinh tế . Để thực hiện và tiếp tục phát huy ưu điểm những thành phần kinh tế trên thì trong những năm tới nguồn vốn của Nhà nước vẫn được coi là rất quan trọng trong việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhưng để đảm bảo được hiệu quả sử dụng cần quản lí và giám sát tốt hơn nhằm tránh việc đầu tư sai mục đích gây thất thoát và lãng phí vốn. Ngoài ra cần chú trọng đầu tư vào các vùng, các miền mà do khó khăn về điều kiện địa hình, thời tiết nhằm để khơi dậy tiềm năng của các vùng, các miền. Cần tiếp tục đầu tư vào các vùng kinh tế được coi là trọng điểm có lợi thế về mọi mặt so với các vùng khác nhằm biến nơi đây thành những trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Để thực hiện được nhanh quá trình đô thị hoá trong nông thôn và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động thì việc đầu tư nguồn vốn từ ngân sách nhà nước từ khu vực nông thôn là rất cần thiết, vì vậy trong những năm tiếp theo nguồn vốn được đầu tư vào đây cần phải có những cơ chế cho vay thông thoáng hơn với nhiều hình thức cho vay phù hợp, đặc biệt cần tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạn, do đặc điểm sản xuất kinh doanh ở nông thôn vẫn còn mang tính nhỏ lẻ và manh mún cho nên hình thức cho vay trung hạn và dài hạn là phù hợp nhất. Đối với nguồn vốn từ nước ngoài bao ngoài vốn đầu tư trực tiếp và vốn ODA. Với vốn đầu tư trực tiếp để huy động được nguồn vốn này thì cần tiếp tục tạo những cơ chế chính sách dễ dàng, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, đảm bảo an toàn về vốn cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn có hiệu quả và lâu dài tại Việt Nam. Với vốn ODA thì vấn đề quan trọng vẫn là sử dụng có hiệu quả và thực hiện được việc giải ngân nhanh, vì vậy khi sử dụng nguồn vốn này cần phải có sự giám sát chặt chẽ, tránh việc đầu tư sai mục đích gây thất thoát vốn. Đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để thực hiện được mục tiêu là giảm tỉ trọng GDP của nông nghiệp còn 16% - 17%, tăng tỉ trọng GDP của công nghiệp lên 40 –41% và tăng tỉ trọng của dịch vụ lên 42 – 43% thì giải pháp trong những năm tới là: Trong công nghiệp: cần tăng đầu tư cho các ngành công nghiệp mũi nhọn có đủ sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế và phải gắn chặt các ngành này với xuất khẩu, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực mới, các ngành mà chúng ta chưa đủ năng lực cạnh tranh, qua đó với kinh nghiệm và nguồn vốn của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ giải quyết được bài toán khó đối với các ngành này khi tham gia hội nhập kinh tế. Trong nông nghiệp cần hoàn thiện quy hoạch tổng thể về sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư (đây là giải pháp quan trọng). Vốn đầu tư trong nông nghiệp trong những năm tới phải chiếm đến 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cần chú trọng đầu tư phát triển vào các vùng chế biến nguyên liệu, công nghiệp nông thôn và các làng nghề, đặc biệt là vấn đề nâng cao dân trí và đào tạo nghề cho nông dân. Ngoài ra cần tạo môi trường đầu tư để kêu gọi các nhà đầu tư đầu tư vào nông thôn. Trong dịch vụ: với thành công đạt được trong kế hoạch 1996 – 2000 thì cụ thể ngành du lịch trong những năm tới cần chú trọng phát triển đa dạng các hình thức du lịch, đầu tư và nâng cao cơ sở hạ tầng tại các điểm du lịch nhằm tạo ra những nơi thông thoáng mà khách du lịch cảm nhận khi tới Việt Nam, phải tiếp tục đầu tư phát triển các khu du lịch mới nhằm khơi dậy tiểm năng du lịch của các khu vực này. Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, chuẩn bị tốt điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực kết hợp với đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại cởi mở, thông thoáng. Tập trung vào đổi mới công nghệ, nâng cao kĩ năng lao động, hình thành và phát triển năng lực các ngành nghề chế biến nhằm tăng quy mô và tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến, giảm xuất khẩu nguyên liệu thô, cần đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, trước mắt cần tập trung xuất khẩu các sản phẩm có dung lượng lao động cao như dệt may, giầy dép, lương thực, thực phẩm, dầu thô, thuỷ hải sản,.…. Ngoài ra cần tìm kiếmvà mở rộng thị trường xuất khẩu. 2.2. Nhóm giải pháp về tạo việc làm ở nông thôn. Giải pháp về phát triển ngành nghề và khôi phục các làng nghề truyền thống: Phát triển ngành nghề nông thôn được coi là động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở nông thôn. Bởi vì đặc điểm của lao động nông thôn là lao động theo thời vụ vì vậy khi phát triển các làng nghề, ngành nghề sẽ sử dụng được lao động tại chỗ. Kết quả các năm vừa qua cho thấy khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn trong năm 1999 đã tạo ra hơn 2/3 tổng số việc làm trong năm. Theo số liệu của tổng cục thống kê, mối cơ sở chuyên ngành nghề tạo việc làm ổn định cho 27 lao động, mỗi hộ ngành nghề tạo việc làm cho 4 đến 6 lao động. Ngoài việc làm thường xuyên của các hộ, các cơ sỏ ngành nghề còn thu hút lao động nhàn rỗi trong nông thôn bình quân 2 đến 5 người một hộ và từ 8 đến 10 người trong một cơ sở. Nhiều làng nghề của nước ta đã thu hút trên 60% số lao động vào các hoạt động ngành nghề. Đồng thời khi các ngành nghề nông thôn phát triển đã kéo theo việc mở ra nhiều ngành nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên quan tạo thêm việc làm mới thu hút lao động. Trong những năm tới, phát triển ngành nghề và khôi phục làng nghề vẫn được coi là còn nhiều tiềm năng trong việc giải quyết việc làm ở nông thôn. Vì vậy chúng ta cần: + Tạo môi trường thuận lợi để cho các hộ tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn đăng kí sản xuất, hỗ trợ phát triển thành các doanh nghiệp tư nhân hoặc các công ty trách nhiệm hữu hạn, các hộ này khi phát triển đều phải được quyền bình đẳng như các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, vay vốn tín dụng, xuất khẩu trực tiếp,…. + Khuyến khích thành lập các hiệp hội nghề nghiệp để hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tránh việc cạnh tranh không lành mạnh nhằm tạo ra những tiếng nói chung và đảm bảo được quyền lợi và trách nhiệm của các thành viên khi tham gia. Đây là vấn đề cần thiết khi các làng nghề, các cơ sở ngành nghề được chú trọng và quan tâm phát triển và đặc biệt trong thời kì hội nhập kinh tế. + Thành lập quỹ phát triển các ngành nghề và làng nghề nông thôn hoặc các hình thức tín dụng ưu đãi nhằm phục vụ cho phát triển ngành nghề nông thôn để tạo điều kiện cho các hộ, các cơ sở ngành nghề vay vốn và phát triển sản xuất, phát triển các quỹ tín dụng ở nông thôn để huy động vốn nhàn rỗi phát triển ngành nghề, tăng cường đầu tư từ ngân sách cho phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản và phát triển ngành nghề nông thôn. + Nhà nước tạo điều kiện giúp các hộ tiểu thủ công nghiệp tiếp cận được với thị trường trong và ngoài nước bằng cách cung cấp thông tin về thị trường, tổ chức các hội chợ triển lãm để giới thiệu hàng hoá và có những ưu đãi về thuế quan xuất khẩu…. + Chú trọng bồi dưỡng nghệ nhân và đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn bằng hình thức mở các lớp đào tạo nghề cho lao động trực tiếp ngay tại cơ sở nhằm trang bị cho lao động những kiến thức cơ bản về nghề nghiệp từ đó làm ra những sản phẩm có giá trị cao. Bên cạnh đó cần phải khuyến khích các hộ làng nghề đổi mới công nghệ và các trang thiết bị phù hợp với điều kiện phát triển, tránh lao động dồn ra thành thị. + Cần quan tâm và chú trọng đến việc giải quyết về môi trường. + Phải có các quy hoạch cụ thể về phát triển ngành nghề, làng nghề phù hợp với điều kiện từng vùng và quy hoạch phải được coi là nền tảng để xây dựng và phát triển các làng nghề mới, các cụm công nghiệp nông thôn. Giải pháp khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: với giải pháp này, một mặt vừa huy động được nguồn lực để phát triển kinh tế, một mặt vừa giải quyết được việc làm ở nông thôn. Với việc ra đời của luật doanh nghiệp năm 1999 thì các tổ chức, các cá nhân được quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm, điều đó đã tạo ra cơ chế thông thoáng trong việc huy động nguồn lực trong dân để phát triển kinh tế. Thực tế cho thấy hiện nay nguồn lực trong dân còn rất lớn, nhưng do các cơ chế chính sách chưa đồng bộ cho nên việc huy động này còn chưa đạt hiệu quả, trong những năm tiếp theo cần: + Phổ biến rộng rãi nội dung của luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành đến từng người dân, phải cho mọi người nắm bắt được các chủ trương chính sách của Đảng, điều đó giúp cho người dân thấy được lợi ích khi tham gia vào thực hiện các công việc sản xuất kinh doanh. + Tạo cơ chế thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở nông thôn, các cơ chế về thủ tục thành lập, cơ chế cho vay ưu đãi, cơ chế về thế quan, các thủ tục cho thuê địa điểm…Đặc biệt cần chú trọng ưu tiên cho các nhà đầu tư vào các lĩnh vực mà tạo ra được nhiều việc làm giải quyết được nhiều lao động tại chỗ của địa phương. Giải pháp về phát triển mô hình trang trại: thực tiễn nông nghiệp trên thế giới cũng như ở nước ta những năm qua cho thấy trang trại là hình thức sản xuất phù hợp với những đặc điểm của nghề nông, với yêu cầu của kinh tế thị trường là một hình thức sản xuất hiệu quả trong nền kinh tế nông nghiệp hàng hoá, một mặt tạo ra được số lượng sản phẩm hàng hoá lớn, mặt khác giải quyết được vấn đề việc làm trong nông thôn, sử dụng hiệu quả lao động nhàn rỗi và các lao động dôi dư từ các ngành nghề khác. Do đặc điểm của hình thức kinh tế trang trại một mặt phát triển kinh tế mặt khác góp phần quan trọng nâng cao diện tích che phủ đồi trọc, tạo thế cân bằng sinh thái môi sinh môi trường…Xu hướng trong những năm tới không những tiếp tục phát triển về số lượng mô hình này mà còn phát triển cả về chất lượng của mô hình kinh tế trang trại. Cần thực hiện một số giải pháp sau: + Phải có quy hoạch cụ thể về đất đai đối với từng vùng quy hoạch về phát triển các loại cây, con mỗi vùng vì tuỳ theo đặc điểm của từng vùng mà ta có thể chuyên canh những loại cây, con khác nhau. Từ đó có thể khuyến khích việc tập trung đất đai hình thành các trang trại có quy mô hợp lí trên cơ sở quy hoạch không gian về vùng lãnh thổ. + Phải có những chính sách của nhà nước về giao đất, cho thuê quyền sử dụng đất đối với từng người dân trong lâu dài để cho họ yên tâm phát triển trang trại. Các chính sách về cho vay vốn đối với các chủ trang trại đặc biệt các chủ trang trại là đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa có nguyện vọng, ý chí, khả năng sản xuất với quy mô lớn. Để đảm bảo hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn vay cần chú trọng đến các nguồn vốn trung và dài hạn với lãi suất hợp lí. Ngoài ra nhà nước cần phải hỗ trợ một phần đối với việc phát triển cơ sở hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông,… + Nhà nước cần thực hiện vai trò là người “bảo trợ”, cung cấp các thông tin về thị trường trong và ngoài nước, cung ứng các yếu tố đầu vào như giống, vốn, kĩ thuật sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu thụ đầu ra. + Cần tăng cường phát triển công nghiệp chế biến và các kĩ thuật bảo quản nông sản để hỗ trợ cho các trang trại, cụ thể là xây dựng các cơ sở chế biến nông sản dựa trên quy hoạch các vùng chuyên canh tập trung đảm bảo giải quyết được đầu ra ngay tại chỗ cho các chủ trang trại. Tăng cường các công nghệ hiện đại trong bảo quản nông sản, điều đó sẽ giúp cho việc bảo quản sản phẩm được lâu hơn, giá trị sản phẩm được giữ nguyên trong quá trình vận chuyển hoặc cất giữ. Hình thành và tổ chức thực hiện có kết quả các chương trình, mục tiêu quốc gia về việc làm, chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn, chương trình trồng 5 triệu hécta rừng, chương trình đánh bắt hải sản xa bờ, … Khi thực hiện các chương trình này sẽ đảm bảo giải quyết được số lượng lớn lao động. Nhóm giải pháp về tạo việc làm ở thành thị Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm tạo ra được việc làm đáp ứng nhu cầu của người lao động. Đối với thành thị, từ khi có luật doanh nghiệp ra đời, việc phát triển các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,… đã phát triển nhanh và giải quyết được số lao động thất nghiệp. Trong thời gian tới cần: +Tiếp tục đơn giản hoá cơ chế thành lập và quản lí nhằm tiếp tục phát huy nguồn lực trong dân. + Có những ưu tiên về chính sách thuê mặt bằng hoạt động sản xuất kinh doanh, vay vốn,… đối với những doanh nghiệp có khả năng tạo được nhiều việc làm. Tạo môi trường thuận lợi hấp dấn với cơ chế thông thoáng nhằm kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các khu chế xuất, khu công nghiệp. Trong những năm vừa qua, xu hướng đầu tư trực tiếp vào nước ta đang giảm dần nguyên nhân là do các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc có có cơ chế hấp dẫn hơn về thủ tục, về cơ sở hạ tầng, …Vì vậy trong những năm tới để cạnh tranh trong vấn đề kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài chúng ta cần: + Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy nhằm tạo ra thủ tục đơn giản trong việc hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. + Có những chính sách ưu tiên cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam như các chính sách về thuê đất, chính sách về thuế, chính sách về hỗ trợ xuất khẩu,… + Tiếp tục đầu tư và nâng cấp cơ sở hạ tầng như giao thông, các khu công nghiệp, khu chế xuất, hệ thống cung cấp điện, nước, … nhằm tạo cơ sở ban đầu cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt Nam đồng thời phải tạo ra được an toàn về vốn cho các nhà đầu tư khẳng định là sẽ có lãi khi đầu tư vào Việt Nam. Giải pháp về nâng cao chất lượng lao động, thông qua các hoạt động về đào tạo nghề nhằm đảm bảo đòi hỏi về yêu cầu lao động có chất lượng đáp ứng cho nền kinh tế. Việc đào tạo nghề cho lao động trong thời gian tới là yêu cầu cấp thiết và bức xúc của nền kinh tế, để đào tạo nghề cho lao động, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về chất lượng đòi hỏi phải có sự chỉ đạo tập trung và thường xuyên của nhà nước, của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương, nhà nước phải đóng vai trò là chủ đạo trong việc đề ra các chiến lược, kế hoạch đồng bộ, phù hợp với từng thời kì của nền kinh tế. Trong những năm vừa qua, việc đào tạo nghề cho người lao động đã được chú trọng nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu của nền kinh tế, số lao động lành nghề mà các ngành kinh tế yêu cầu vẫn chưa được đáp ứng đặc biệt đối với những ngành nghề chưa có lao động được đào tạo. Bên cạnh đó, cần tiếp tục quan tâm đến việc đào tạo và bồi dưỡng các đội ngũ chuyên gia có kiến thức chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu về phát triển khoa học công nghệ của đất nước. Để thực hiện được mục tiêu đến năm 2005 là nâng tỉ lệ lao động lên 30% cần tập trung giải quyết và thực hiện một số biện pháp: + Tiếp tục mở rộng các trường đào tạo nghề nhằm thu hút các lao động có nhu cầu học tập và đưa nơi đây trở thành những nơi tạo điều kiện cho mọi người học tập thường xuyên và suốt đời. + Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực đào tạo nghề cho người lao động, tạo điều kiện ưu tiên, giải quyết đối với các thành phần kinh tế này khi gặp khó khăn. + Cần hình thành quy hoạch và kế hoạch đào tạo nghề đặc biệt đối với một số lĩnh vực mới mà chúng ta chưa đào tạo, các hình thức đào tạo phải đồng bộ, phù hợp, tránh việc đào tạo ồ ạt mà có thể ảnh hưởng đến chất lượng của lao động sau khi đào tạo. + Đào tạo nghề phải gắn với việc giải quyết việc làm sau khi lao động đã qua đào tạo. Đây là một công việc khó khăn nhưng là trách nhiệm của nhà nước mà các ngành kinh tế phải giải quyết, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp liên doanh khi có nhu cầu sử dụng và đào tạo lao động cần thực hiện việc kí kết các hợp đồng lao động đối với từng lao động hoặc các trung tâm dạy nghề nhằm tránh tình trạng sa thải lao động và khi lao động được đào tạo xong lại không có việc làm. Hình thành các trung tâm dịch vụ việc làm do nhà nước và các trung tâm chức năng quản lí, biến nơi đây thành trung tâm trao đổi giữa người có nhu cầu lao động và người sử dụng lao động. Các trung tâm dịch vụ việc làm này là rất cần thiết nhưng cần phải có sự quản lí chặt chẽ, sự quan tâm thường xuyên của các cơ quan chức năng, phải tạo nơi đây thành nơi có môi trường thuận lợi đối với người sử dụng lao động cũng như người lao động. Đó còn là nơi thực hiện các nhiệm vụ tư vấn, cung cấp thông tin đối với người lao động và người sử dụng lao động, ngoài ra cần tăng cường vai trò trách nhiệm của các trung tâm dịch vụ việc làm khi là trung gian trao đổi thông tin, kí kết hợp đồng lao động. Tiếp tục hình thành và tổ chức thực hiện các mục tiêu chương trình quốc gia về giải quyết việc làm ở thành thị, đây là một vấn đề mang tính chiến lược lâu dài và có thể coi là tổng thể của các giải pháp giải quyết việc làm. Vì vậy để thực hiện được giải pháp này đòi hỏi phải thực hiện các giải pháp nhỏ, nhưng lại là rất quan trọng vì giải pháp này vạch ra những hướng đi cụ thể dựa trên những kinh nghiệm từ việc phân tích và đánh giá các kết quả của các bước đi trước. Nhóm giải pháp về chính sách Cần hình thành đồng bộ các chính sách nhằm khuyến khích đầu tư đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh, một mặt thúc đẩy kinh tế phát triển, mặt khác giải quyết vấn đề về việc làm. Đối với các nhà đầu tư trong nước thì khuyến khích đầu tư bằng cách đơn giản hoá các thủ tục đăng kí kinh doanh, có các chính sách về hỗ trợ vốn sản xuất bằng cách cho vay ưu đãi, hỗ trợ về các yếu tố kĩ thuật, các thông tin về thị trường nhằm giải quyết được đầu ra , đặc biệt cần ưu tiên đối với các nhà đầu tư vào nông thôn, các cơ sở, làng nghề ở nông thôn, vì đây là bộ phận chính giải quyết việc làm ở nông thôn. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì đẻ khuyến khích được họ đầu tư vào Việt nam cần tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn bằng cách phát triển cơ sở hạ tầng, đơn giản hoá các thủ tục đầu tư , các chính sách về xuất nhập cảnh ,chính sách ưu đãi về thuế quan, các chính sách này phải tạo ra sự công bằng giữa các nhà đầu tư ,các thành phần kinh tế, tạo môi trường ổn định về xã hội nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư làm ăn lâu dài tại Việt nam. Hình thành đồng bộ các chính sách về đào tạo lao động nhằm tạo ra sự hoạt động có hiệu quả trong vấn đề đào tạo nghề cho người lao động, chính sách đó phải tạo ra mối quan hệ hài hoà giữa các ngành, các cấp trong vấn đề giải quyết lao động.Đào tạo phải có kế hoạch phù hợp với từng thời kỳ, việc đào tạo phải gắn bó chặt chẽ với giải quyết việc làm Hoàn thiện và điều chỉnh các chính sách về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,đặc biệt chú trọng đến việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn . Tiếp tục tăng cường bổ xung các chính sách về xuất khẩu lao động, các chính sách về đào tạo lao động, phát triển đội ngũ chuyên gia phục vụ cho xuất khẩu lao động, cần quản lý thị trường lao động xuất khẩu bằng các chính sách cụ thể, tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc quan hệ kinh tế và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động. Kết luận Kế hoạch 2001 –2005 được Đảng nhận định là bước mở đầu quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001-2010. Vì vậy nhiệm vụ của kế hoạch 2001 –2005 rất quan trọng và phải thực hiện được các mục tiêu về phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện có nhiều biến động ở trong khu vực và trên thế giới, cụ thể là :”…phải đưa được nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp…”. Đây là một nhiệm vụ khó khăn nhưng phải thực hiện bằng được để có thể rút ngắn được khoảng cách về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bước sang kế hoạch 2001 – 2005 vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ngày càng trở nên bức xúc và cấp thiết vì khả năng về nguồn lực trong những năm tới là rất dồi dào do độ tuổi ra nhập lực lượng lao động ngày càng lớn, đây là công việc khó khăn nhưng cũng là lợi thế cho công cuộc công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Do đó giải quyết việc làm được coi là nhiệm vụ quan trọng và phải được gắn chặt với việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn tới sự tiếp tục phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và sinh học sẽ là những nhân tố tác động tích cực đến các vấn đề kinh tế xã hội, vì vậy vai trò của con người và trí tuệ con người ngày càng đươc coi trọng.Để nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ được tăng cường và phát huy đòi hỏi mỗi cá nhân phải ý thức được tầm quan trọng của vấn đề việc làm, bên cạnh đó cần phải có sự đặc biệt quan tâm của các cấp các nghành và sự quản lí chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Mục lục Lời mở đầu.....................................................................................................Trang 1 Chương 1. Việc làm và kế hoạch giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội..............................................................................Trang 2 Một số khái niệm cơ bản về lao động và việc làm.............................Trang 2 Kế hoạch giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội Chương 2.Tình hình thực hiện việc làm trong thời kì 1996 - 2000 Mục tiêu, phương hướng cơ bản của kế hoạch giải quyết việc làm trong thời kì 1996 - 2002 Thực trạng việc thực hiện kế hoạch giải quyết việc làm thời kì 1996 - 2000....................................................................................... Trang 10 Chương 3. Những giải pháp thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm trong kế hoạch 2001 - 2005....................................................................................... Trang 19 Quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề giải quyết việc làm trong thời kì kế hoạch 2001 - 2005.............................................................................. Trang 19 Những giải pháp để thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm................. Trang 21 Danh mục tài liệu tham khảo Nghị quyết đại hội VIII. Nghị quyết đại hội IX. Tạp chí Kinh tế và Phát triển. Tạp chí Lao động và Xã hội. Tạp chí Thông tin và Lí luận. Tạp chí Nghiên cứu và Trao đổi. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Báo Lao động. Tạp chí Thông tin thị trường lao động. Tạp chí Kinh tế và Dự báo. Niên giám thống kê năm 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA371.doc
Tài liệu liên quan