Tài liệu Đề tài Việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế: Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục từ viết tắt tiếng Anh
Chữ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
AFACT
Asia-Pacific Council for Trade Facilitation and E-Business
Hội đồng Kinh doanh điện tử và Thuận lợi hóa thương mại Châu Á – Thái Bình Dương
B2B
Business To Business (electronic commerce)
Thương mại điện tử giữa DN và DN
B2Bi
Business To Business Integration
Tích hợp hệ thống thương mại điện tử B2B
B2C
Business To Consumer (electronic consumer)
TMĐT giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng
C2C
Consumer To Consumer (electronic commerce)
TMĐT giữa người tiêu dùng và người tiêu dùng
CA
Certification Authority
Cơ quan chứng thực CKĐT
CISG
Convention on International Sales of Goods
Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế
CRM
Customer Relationship Management
Quản trị quan hệ khách hàng
eCoSys
Electronic Certificate of Origin System
Hệ thống khai báo C/O điện tử
EDI
Electronic Data Interchange
Trao đổi dữ liệu điện tử
EDIFACT
United Nations...
259 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục từ viết tắt tiếng Anh
Chữ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
AFACT
Asia-Pacific Council for Trade Facilitation and E-Business
Hội đồng Kinh doanh điện tử và Thuận lợi hóa thương mại Châu Á – Thái Bình Dương
B2B
Business To Business (electronic commerce)
Thương mại điện tử giữa DN và DN
B2Bi
Business To Business Integration
Tích hợp hệ thống thương mại điện tử B2B
B2C
Business To Consumer (electronic consumer)
TMĐT giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng
C2C
Consumer To Consumer (electronic commerce)
TMĐT giữa người tiêu dùng và người tiêu dùng
CA
Certification Authority
Cơ quan chứng thực CKĐT
CISG
Convention on International Sales of Goods
Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế
CRM
Customer Relationship Management
Quản trị quan hệ khách hàng
eCoSys
Electronic Certificate of Origin System
Hệ thống khai báo C/O điện tử
EDI
Electronic Data Interchange
Trao đổi dữ liệu điện tử
EDIFACT
United Nations/Electronic Data Interchange For Administration, Commerce, and Transport
EDI trong quản lý, thương mại và vận tải
ERP
Enterprise Resource Management
Hoạch định nguồn lực doanh nghiệp
E-SIGN
Electronic Signature on Global and National Commerce
Luật CKĐT trong TM quốc gia và quốc tế của Hoa Kỳ
ICANN
Internet Corporation for Assigned Names and Numbers
Cơ quan quản lý về tên miền quốc tế
IDC
International Data Corporation
Công ty dữ liệu quốc tế
ITC
Information and Communication Technology
Công nghệ thông tin và truyền thông
OASIS
Organization for the Advancement of Structured Information Standard
Tổ chức xúc tiến các chuẩn thông tin có cấu trúc
Root CA
Root Certification Authority
Cơ quan chứng thực chữ ký điện tử gốc
SCM
Supply Chain Management
Quản trị chuỗi cung ứng
UCC
Uniformed Commercial Code
Luật thương mại thống nhất của Hoa Kỳ
UETA
Uniformed Electronic Transaction Act
Luật Giao dịch điện tử thống nhất của Hoa Kỳ
UN/
CEFACT
United Nations Centre for Trade Facilitation and E-Business
Trung tâm của LHQ về Thuận lợi hóa TM và KD điện tử
UNCITRAL
United Nations Commission for International Trade Law
Ủy ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
UNCTAD
United Nations Conference for Trade and Development
Ủy ban của Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển
UNeDocs
United Nations electronic Trade Documents
Hệ thống xử lý chứng từ điện tử trong TM quốc tế của LHQ
UPS
United Parcel Service
Công ty dịch vụ chuyển phát nhanh United Parcel Service
WIPO
World Intellectual Property Organization
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
R&D
Research & Development
Nghiên cứu và phát triển
CMS
Content Management System
Hệ thống quản trị nội dung
XAMPP
X-cross platform, A-Apache, M-MySQL, P-Php, P-Perl
Gói phần mềm máy chủ web và cơ sở dữ liệu
Danh mục từ viết tắt tiếng Việt
Chữ viết tắt
Tiếng Việt
CKĐT
Chữ ký điện tử
CKS
Chữ ký số
CNTT
Công nghệ thông tin
CNTT&TT
Công nghệ thông tin và truyền thông
CTĐT
Chứng thực điện tử
GDĐT
Giao dịch điện tử
HĐĐT
Hợp đồng điện tử
TMĐT
Thương mại điện tử
Danh mục các bảng
Bảng 1.1. Chủ thể của hợp đồng điện tử trong các mô hình TMĐT 28
Bảng 1.2. Những khác biệt giữa việc ký kết HĐ truyền thống với HĐĐT 44
Bảng 1.3. Một số ưu điểm của chữ ký số so với chữ ký trên giấy 46
Bảng 1.4. Phương thức thực hiện hợp đồng điện tử 65
Bảng 2.1. Số người sử dụng Internet theo khu vực trên thế giới năm 2008 78
Bảng 2.2. Top 10 Website có số lần giao dịch trực tuyến nhiều nhất 79
Bảng 2.3. Tỷ lệ các DN ký kết HĐĐT qua Internet trong năm 2006 80
Bảng 2.4. Các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng và giải pháp GDĐT 104
Bảng 2.5. Tăng trưởng về dịch vụ CNTT tại EU 114
Bảng 2.6. Các nhà cung cấp DV chứng thực CKĐT tại một số nước 117
Bảng 2.7. Mức độ sử dụng máy tính trong doanh nghiệp 137
Bảng 2.8. Điều kiện về kết nối mạng Internet (2008) 138
Bảng 2.9. Mục đích sử dụng Internet trong doanh nghiệp 141
Bảng 2.10. Các phương thức nhận đơn đặt hàng điện tử 142
Bảng 2.11. Tính năng chính của website thương mại điện tử 144
Bảng 2.12. Tình hình ứng dụng TMĐT trong quản trị doanh nghiệp 146
Bảng 2.13. Các phương thức giao hàng trong thực hiện HĐĐT 149
Bảng 2.14. Các phương thức thanh toán trong thực hiện HĐĐT 149
Bảng 2.15. Thực trạng giao dịch tìm kiếm đối tác trên ECVN 151
Bảng 2.16. Doanh số bán hàng trên website www.25h.vn 154
Bảng 3.1. Mục đích sử dụng Internet của doanh nghiệp 2008 175
Bảng 3.2. Cản trở đối với thương mại điện tử 176
Bảng 3.3. Tác dụng của thương mại điện tử 179
Bảng 3.4. Các hình thức nhận đơn đặt hàng điện tử 180
Bảng 3.5. Một số giải pháp thương mại điện tử 181
Bảng 3.6. Đề xuất hệ thống phần cứng và phần mềm để ký kết HĐĐT 191
Bảng 3.7. Đặc điểm và tính năng của website thương mại điện tử 191
Danh mục các hình và biểu đồ
Hình 1.1. HĐĐT hình thành qua quá trình duyệt web (browse-wrap) 20
Hình 1.2. HĐĐT hình thành qua kích chuột (click-wrap) 21
Hình 1.3. HĐĐT hình thành trong giao dịch tự động 22
Hình 1.4. Hợp đồng điện tử hình thành qua các email 23
Hình 1.5. Minh họa HĐĐT (mua điện thoại di động trên Internet) 24
Hình 1.6. Một số mô hình cổng thương mại điện tử B2B điển hình 33
Hình 1.7. Quy trình ký kết và thực hiện HĐĐT trên SGD điện tử 37
Hình 1.8. Hợp đồng điện tử B2C giữa Amazon.com và khách hàng cá nhân 41
Hình 1.9. Thiết bị tạo chữ ký điện tử và nhận dạng chữ ký điện tử 45
Hình 1.10. Minh họa nội dung của chứng thư số 47
Hình 1.11. Quy trình tạo chứng thư điện tử 48
Hình 1.12. Quy trình ký số và xác thực chữ ký số 49
Hình 1.13. Quy trình ký kết hợp đồng điện tử có sử dụng chữ ký số 50
Hình 1.14. Các bộ phận cấu thành hệ thống giao dịch điện tử 54
Hình 1.15. Phần mềm catalogue điện tử của HP Shopping.com 55
Hình 1.16. Các bên liên quan đến thực hiện HĐĐT B2B trên Bolero.net 57
Hình 1.17. Quy trình thực hiện các hợp đồng điện tử B2B của Dell 59
Hình 1.18. Quy trình thực hiện hợp đồng điện tử B2C 62
Hình 1.19. Mô hình tổ chức thực hiện hợp đồng điện tử B2C 64
Hình 1.20. Điều kiện đặt hàng trực tuyến trên website NWA 68
Hình 1.21. Chào hàng trực tuyến trên website của Kodak 70
Hình 1.22. Điều kiện sử dụng dịch vụ của UPS 73
Hình 1.23. Các tranh chấp liên quan đến TMĐT được ODR giải quyết 75
Hình 1.24. Smartsettle và mô hình giải quyết tranh chấp trực tuyến 76
Hình 1.25. Phương tiện điển hình trong giải quyết tranh chấp trực tuyến 76
Hình 2.1. Tỷ lệ các doanh nghiệp EU nhận đơn đặt hàng trực tuyến 81
Hình 2.2. Tỷ lệ các doanh nghiệp EU sử dụng HĐĐT 81
Hình 2.3. Website về chuẩn giao dịch điện tử ebXML 95
Hình 2.4. Chuẩn GDĐT của UN/CEFACT 97
Hình 2.5. Quy trình ký kết hợp đồng điện tử trên hệ thống của OASIS 98
Hình 2.6. Mô hình khung ký kết HĐĐT - BCAF 100
Hình 2.7. Mô hình 4W về các yếu tố tác động tới HĐĐT 100
Hình 2.8. Mô hình các giai đoạn ký kết và thực hiện HĐĐT 102
Hình 2.9. Minh họa HĐĐT trên Goodle Adwords 105
Hình 2.10. Ứng dụng TMĐT trong một số ngành hàng tại EU và Hoa Kỳ 112
Hình 2.11. Ứng dụng CNTT và GDĐT trong ngành thép tại EU 113
Hình 2.12. Các yếu tố hỗ trợ giao dịch điện tử 115
Hình 2.13. Mức độ sử dụng CNTT&TT trong các doanh nghiệp EU 116
Hình 2.14. Tỷ lệ hộ gia đình truy cập Internet băng rộng tại Singapore 124
Hình 2.15. Nguồn nhân lực CNTT&TT tại Singapore, 1999-2008 124
Hình 2.16. Tỷ lệ người dân mua sắm trực tuyến tại Singapore 125
Hình 2.17. Hệ thống GDĐT trên Trade Exchange 127
Hình 2.18. Mô hình dịch vụ e-Logistics của CWT 128
Hình 2.19. Khối lượng giao dịch điện tử tại Trung Quốc qua các năm 130
Hình 2.20. Doanh thu thương mại điện tử của Malaysia (1997-2005) 131
Hình 2.21. Giá trị giao dịch điện tử từ hai mô hình TMĐT B2B và B2C 132
Hình 2.22. Các ứng dụng CNTT trong DN 139
Hình 2.23. Tỷ lệ nhân viên sử dụng máy tính thường xuyên trong công việc 140
Hình 2.24. Các tính năng chính trên website thương mại điện tử 141
Hình 2.25. Các phương thức giao dịch điện tử phổ biến 142
Hình 2.26. Tỷ lệ doanh nghiệp có website qua các năm 143
Hình 2.27. Các hoạt động liên quan đến ký kết và thực hiện HĐĐT 145
Hình 2.28. Khai trương hệ thống thanh toán điện tử 147
Hình 2.29. Dịch vụ thanh toán cho giao dịch thương mại điện tử 148
Hình 2.30. Các phương thức vận chuyển trong thực hiện HĐĐT 149
Hình 2.31. Các phương thức thanh toán trên website 150
Hình 2.32. Giới thiệu sản phẩm, dịch vụ trên cổng TMĐT 151
Hình 2.33. Chào hàng trực tuyến trên sàn TMĐT 25h.vn 152
Hình 2.34. Minh họa website bán vé điện tử trực tuyến của Jetstar 153
Hình 2.35. Thanh toán bằng tiền ảo trên VTC PayGate 159
Hình 3.1. Mức độ ứng dụng TMĐT trong DN 177
Hình 3.2. Minh họa quy định về đăng bài trên AAAS 187
Hình 3.3. Minh họa website ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử 192
Hình 3.4. Minh họa quy trình ký kết hợp đồng điện tử 193
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, công nghệ thông tin (CNTT) và thương mại điện tử (TMĐT) đã xâm nhập vào mọi góc cạnh của đời sống xã hội nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Đối với doanh nghiệp, thương mại điện tử góp phần hình thành những mô hình kinh doanh mới, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh và dễ dàng ký kết hợp đồng với mọi đối tác trong và ngoài nước. Đối với người tiêu dùng, thương mại điện tử giúp người mua có thể ngồi tại nhà mà vẫn có thể lựa chọn hàng hóa, dịch vụ trên các thị trường ở mọi nơi trên thế giới chỉ bằng một vài động tác kích chuột và sử dụng bàn phím. Đó chính là những thủ tục đơn giản đầu tiên của quy trình ký kết hợp đồng điện tử mà thời gian đầu được gọi là sự trao đổi dữ liệu điện tử, giao dịch “không giấy tờ”. Nhờ những thành tựu có được từ công nghệ thông tin, giao dịch “không giấy tờ” đã đem lại những lợi ích thật bất ngờ: một dịch vụ mua bán vé máy bay trực tuyến trung bình trước đây phải mất 10.00 USD nhưng khi tiến hành qua Internet (phi giấy tờ) chỉ mất chi phí khoảng 1.00 USD [59, tr.18]. Bên cạnh đó, thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax và bằng 0,5% thời gian giao dịch qua bưu điện [72, tr.25]. Điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp và người tiêu dùng tích cực khai thác và ứng dụng những thành tựu của CNTT trong kinh doanh.
Rõ ràng CNTT là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển, là nhân tố chính đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới. Nhờ ứng dụng CNTT và TMĐT, nhờ việc tích cực ký kết hợp đồng điện tử mà các doanh nghiệp nhỏ của Việt Nam ở vùng sâu, vùng xa cũng có thể dễ dàng tiếp cận với các thị trường rộng lớn ở trong nước cũng như ngoài nước. Mạng Internet làm cho hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Nhận thức rõ tác động tích cực của việc ứng dụng CNTT, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng Toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định sự cần thiết phải “ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả; hình thành mạng thông tin quốc gia, liên kết với một số mạng thông tin quốc tế” [1, tr.20]. Để cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng và cũng để đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, năm 2005, hàng loạt các văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý phù hợp để Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó có cam kết về thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử. Tiêu biểu trong số đó là Luật Giao dịch điện tử, Luật thương mại và Luật công nghệ thông tin… Các văn bản pháp luật này đã tạo môi trường pháp lý quan trọng cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Đặc biệt, Luật Giao dịch điện tử đã dành hẳn chương IV với 6 điều khoản (từ điều 33 đến điều 38) để hướng dẫn việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử.
Mặc dù vậy, trong thực tế, việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt Nam phát triển chưa mạnh mẽ như mong muốn. Sự phức tạp về mặt công nghệ, sự đầu tư thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng, sự thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ nguồn nhân lực… cũng đang là rào cản làm cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử gặp nhiều khó khăn. Các quy định trong các văn bản pháp luật về ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử còn chung chung, quy trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử còn chưa được chuẩn hóa và còn rất phức tạp; Nhiều cá nhân, tổ chức, thậm chí nhiều doanh nghiệp vẫn còn xa lạ với việc ký kết hợp đồng điện tử.
Làm thế nào để tháo gỡ những vấn đề này? Làm thế nào để xây dựng được quy trình, thủ tục ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam? Làm thế nào để doanh nghiệp Việt Nam quan tâm hơn nữa đến việc ký kết hợp đồng điện tử và coi đây là phương tiện hữu hiệu để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của mình, như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: “từng doanh nghiệp phải khẩn trương đổi mới từ tư duy đến phong cách quản lý, đổi mới công nghệ, giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh” [2, tr.20].
Để trả lời những câu hỏi này cần phải có sự nghiên cứu vấn đề một cách đầy đủ và toàn diện. Đó chính là lý do để vấn đề “ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế” được chọn làm đề tài luận án tiến sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Ở nước ngoài
Ở nước ngoài cũng đã có một số công trình nghiên cứu, các bài viết về vấn đề hợp đồng điện tử và thực trạng pháp luật cho hợp đồng điện tử. Tiêu biểu trong số đó là công trình của các tác giả: Endshaw A, 2001, “Internet and Ecommerce Law”, Prentice Hall, Singapore; Jens T Werner, 2000, “Legal Issues Raised by Online Contracting”, London School of Economics; Thomas J. Smedinghoff, 2006, Online Transactions: The Rules for Ensuring Enforceability in a Global Environment, The Computer & Internet Lawyer Volume 23, Number 4, 4/2006; Ruth Orpwoode, 2008, “Electronic Contracts: Where We’ve Come From, Where We Are, and Where We Should Be Going”, International In-house Counsel Journal, Vol. 1, No. 3, Spring 2008, 455-466… Nội dung của các công trình này đề cập đến một số khía cạnh của hợp đồng điện tử như: những vấn đề pháp lý về hợp đồng điện tử, hợp đồng online, luật liên quan đến Internet và thương mại điện tử, một số tình huống về hợp đồng điện tử… Tuy nhiên, chưa có công trình nào phân tích toàn diện và chuyên sâu về ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập Kinh tế quốc tế. Mặc dù vậy, những tài liệu liệt kê ở trên là nguồn tài liệu tham khảo rất cần thiết để thực hiện luận án này.
2.2. Ở Việt Nam
Bắt đầu từ năm 2000 đến nay, có một số công trình, bài viết được đăng tải trên các tạp chí hoặc tham luận được trình bày tại hội thảo khoa học liên quan ít nhiều đến hợp đồng điện tử. Ví dụ: Bộ Thương mại, 2001, Ban điều hành dự án “Dự án quốc gia: Kỹ thuật thương mại điện tử”; Bộ Thương mại Việt Nam, Bộ Thương mại Hoa Kỳ, 3/2002, Hội thảo Chính sách về các vấn đề pháp lý trong thương mại điện tử; GS., TS., NGND. Nguyễn Thị Mơ, 2005, “Cẩm nang Pháp lý về Hợp đồng điện tử”, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội; PGS., TS. Lê Danh Vĩnh, 2007, “Các vấn đề kỹ thuật, công nghệ chủ yếu trong TMĐT, Lý thuyết và thực hành”, NXB Lao động; PGS., TS. Nguyễn Văn Minh, 2008, “Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) cho các doanh nghiệp Việt Nam”, Đề tài NCKH Bộ GD&ĐT… Những công trình, đề tài nêu trên phân tích chủ yếu về vai trò của thương mại điện tử, về đặc điểm của giao dịch thương mại điện tử, về một số điểm khác biệt về mặt pháp lý giữa hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống. Tuy nhiên, chưa có công trình nào phân tích một cách đầy đủ, chuyên sâu cả về lý luận và thực tiễn, về cả ba góc độ pháp lý, thương mại và công nghệ liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt Nam. Xuất phát từ quan điểm rằng khoa học vừa mang tính kế thừa, vừa mang tính mới mẻ, các công trình, bài viết trên đây của các tác giả trong và ngoài nước là những tài liệu rất bổ ích để tác giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án tiến sỹ này. Có thể nói, đây là luận án tiến sỹ kinh tế đầu tiên nghiên cứu các vấn đề ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử; sau khi phân tích thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trên thế giới và ở Việt Nam trong thời gian qua, luận án đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường việc ký kết và thực hiện HĐĐT; đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng và thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nêu rõ khái niệm, đặc điểm, lợi ích và thế mạnh của HĐĐT và phân biệt sự khác biệt giữa việc ký kết và thực hiện HĐĐT với việc ký kết và thực hiện hợp đồng truyền thống;
- Phân tích những lợi ích của hợp đồng điện tử đối với cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế;
- Phân tích để nêu bật nội dung, ý nghĩa của những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử;
- Đánh giá thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt Nam; trong đó làm rõ những cản trở về kỹ thuật công nghệ, trình độ kinh doanh làm chậm sự phát triển của hợp đồng điện tử;
- Phân tích một số hình thức ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử điển hình của những công ty thành công trong thương mại điện tử hàng đầu trên thế giới như Amazon, Cisco, Dell, Ford, Ebay, Wal-Mart...tìm hiểu kinh nghiệm một số nước điển hình về tăng cường ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện quy trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử tại Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử, trong đó đặc biệt chú trọng đến những vấn đề về thủ tục ký kết, quy trình ký kết hợp đồng điện tử, các mô hình chuẩn và điển hình để ký kết hợp đồng điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) và giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C); hình thức và nội dung của hợp đồng điện tử; thực hiện hợp đồng điện tử và những vấn đề phát sinh. Việc ký kết và thực hiện HĐĐT đòi hỏi phải có sự hiểu biết không chỉ về khía cạnh kỹ thuật, khía cạnh thương mại mà còn cả khía cạnh pháp lý của hình thức hợp đồng này. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm các vấn đề về kỹ thuật, thương mại và pháp lý của việc ký kết và thực hiện HĐĐT, trong đó có việc phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam, của quốc tế và của một số nước về ký kết và thực hiện HĐĐT.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung, phạm vi nghiên cứu của luận án là các vấn đề về kỹ thuật, về thương mại và cả những vấn đề về pháp lý liên quan đến việc ký kết và thực hiện HĐĐT. Đó là các vấn đề về quy trình và thủ tục ký kết HĐĐT, về chữ ký điện tử; về chứng thực chữ ký điện tử và các biện pháp phòng tránh rủi ro về mặt kỹ thuật và pháp lý liên quan đến ký kết và thực hiện HĐĐT. Đề tài cũng giới hạn phạm vi nghiên cứu về ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong lĩnh vực thương mại. Về mặt không gian, luận án phân tích việc ký kết và thực hiện HĐĐT ở Việt Nam, ở một số nước trên thế giới như Mỹ, EU, Singapore, Trung Quốc, Malaysia…Về mặt thời gian, những tư liệu, số liệu dẫn chiếu để phân tích trong luận án là những tư liệu, số liệu được tập hợp từ năm 1996, khi UNCITRAL ban hành Luật mẫu về thương mại điện tử cho đến đầu năm 2010, năm hoàn thành luận án. Những giải pháp và kiến nghị được đề xuất cho Việt Nam là những giải pháp được đề xuất dựa trên việc đánh giá thực trạng ký kết và thực hiện HĐĐT từ khi Luật Giao dịch điện tử được ban hành, tức là năm 2005, cho đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế, về hội nhập kinh tế quốc tế, về vai trò của công nghệ thông tin và thương mại điện tử cũng là kim chỉ nam cho phương pháp luận nghiên cứu của đề tài.
Bên cạnh đó, để thực hiện luận án, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa và phương pháp diễn giải. Đặc biệt, luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học dựa trên việc xây dựng bảng câu hỏi, phát phiếu điều tra tới trên 200 doanh nghiệp và tổng hợp kết quả điều tra để phân tích, đánh giá tình hình ký kết và thực hiện HĐĐT tại các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế của Việt Nam. (Xem phụ lục 20, 21 và 22 ở cuối luận án). Đồng thời, với đặc thù của TMĐT và HĐĐT, tác giả đã nghiên cứu và triển khai một số phần mềm giao dịch thương mại điện tử để mô phỏng, phân tích và làm rõ quy trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử.Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các tiêu chuẩn kỹ thuật về giao dịch điện tử của ISO để đề xuất hệ thống phần mềm và giải pháp kỹ thuật áp dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam.
7. Những đóng góp của luận án
- Là luận án Tiến sỹ kinh tế đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và cụ thể những vấn đề lý luận và thực tiễn về ký kết và thực hiện HĐĐT trong điều kiện Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới;
- Phân tích một cách cụ thể quy trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử từ ba góc độ là kỹ thuật, thương mại và pháp lý, ở Việt Nam, ở phạm vi quốc tế, ở một số nước phát triển và đang phát triển;
- Đánh giá thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở phạm vi thế giới, ở một số nước và ở Việt Nam, từ đó nêu bật những thuận lợi, những khó khăn mà các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp Việt Nam, gặp phải khi ký kết và thực hiện HĐĐT. Luận án cũng phân tích những tồn tại và nguyên nhân hiện đang cản trở các doanh nghiệp ký kết và thực hiện HĐĐT.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể về xây dựng và hoàn thiện quy trình ký kết cũng như quy trình thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt Nam, từ đó thúc đẩy sự chủ động của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tích cực sử dụng HĐĐT, bên cạnh hợp đồng truyền thống, nhằm tận dụng các thành tựu của CNTT trong kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập KTQT thành công.
8. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu thành 3 chương theo đề cương (không bao gồm phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, các bảng biểu...):
Chương 1: Những vấn đề chung về thương mại điện tử, hợp đồng điện tử, ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử
Chương 2: Thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trên thế giới và ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nhanh chóng việc ký kết và thực hiện HĐĐT ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ, HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ, KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ
1.1. Tổng quan về thương mại điện tử và hợp đồng điện tử
1.1.1. Tổng quan về thương mại điện tử
1.1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử
“Thương mại điện tử” (tiếng Anh là e-commerce) còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: thương mại trực tuyến (online trade), thương mại phi giấy tờ (paperless commerce), kinh doanh điện tử (electronic business)… thường được hiểu là thương mại được tiến hành trên các phương tiện điện tử và mạng viễn thông, đặc biệt là qua máy tính và mạng Internet. Do vai trò ngày càng quan trọng của thương mại điện tử trong hoạt động kinh tế xã hội, nhiều tổ chức quốc tế, nhiều quốc gia đã cố gắng xác định khái niệm thương mại điện tử nhằm giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người dân có thể hiểu và sử dụng thương mại điện tử một cách thuận tiện nhất.
Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO), “Thương mại điện tử được hiểu là việc sản xuất (production), phân phối (distribution), marketing, bán (sale) hàng hóa và dịch vụ bằng phương tiện điện tử. Phương tiện điện tử được quy định là các phương tiện truyền tin như điện thoại, fax, telex, điện tín, truyền hình, thư điện tử và các phương tiện khác [116]. Cách hiểu này của WTO cho thấy WTO đã xem xét khái niệm thương mại điện tử theo nghĩa rộng, bao gồm cả sản xuất, phân phối và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ.
Theo quan điểm của Ủy ban châu Âu (viết tắt là EC), “thương mại điện tử là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Thương mại điện tử gồm nhiều hoạt động trong đó điển hình là hoạt động mua bán hàng hóa qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác sản xuất, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp với người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng”. Như vậy, theo quan điểm của Ủy ban châu Âu, thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính), các hoạt động truyền thống (như ngân hàng, giáo dục) và các hoạt động mới (như siêu thị ảo, sàn đấu giá trực tuyến) [114]. Các quy định này của Ủy ban châu Âu về thương mại điện tử đã cho thấy Ủy ban châu Âu tiếp cận khái niệm thương mại điện tử bằng cách liệt kê các hoạt động thương mại và các phương thức kinh doanh điện tử. Mặc dù quy định dài hơn nhưng thực tế cách hiểu quả Ủy ban châu Âu về thương mại điện tử cũng tương tự như cách hiểu của WTO.
Luật mẫu của Ủy ban của Liên Hiệp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế (viết tắt là UNCITRAL) năm 1996 về thương mại điện tử không đưa ra khái niệm cụ thể về thương mại điện tử mà chỉ nhấn mạnh và làm rõ vấn đề “thông điệp dữ liệu”. Điều 1 của Luật mẫu này quy định: “Luật này chỉ áp dụng đối với các loại thông tin dưới dạng thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại”. Có thể hiểu rằng Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử chú trọng vào việc thừa nhận khái niệm thương mại và làm rõ khái niệm thông điệp dữ liệu. Theo đó, “thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, tiếp nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học và các phương tiện tương tự, bao gồm, nhưng không hạn chế ở, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, điện báo hoặc fax” [98].
Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 cũng không đưa ra khái niệm về thương mại điện tử. Luật chỉ quy định khái niệm về giao dịch điện tử, theo đó, giao dịch điện tử là “giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử”. Luật quy định rằng phương tiện điện tử là “phương tiện hoạt động trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự”. Như vậy, Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam năm 2005 cũng theo quan điển chú trọng làm rõ khái niệm giao dịch điện tử. Theo đó, telex, fax, điện thoại cũng được coi là các phương tiện để tiến hành thương mại điện tử, việc áp dụng các hình thức kinh doanh mới qua mạng Internet và các phương tiện điện tử hiện đại như máy tính, thiết bị điện tử di động chính là sự phát triển thương mại điện tử ở mức độ cao trong cuộc cách mạng công nghệ thông tin.
Những phân tích trên cho thấy, thương mại điện tử được hiểu tương đối thống nhất dù cách diễn đạt từ ngữ hay câu chữ có thể khác nhau tùy theo cách tiếp cận của mỗi nước hay mỗi tổ chức quốc tế. Mặc dù vậy, trong luận án này, thương mại điện tử được hiểu thiên về quan điểm của WTO, theo đó thương mại điện tử là việc thực hiện các hoạt động thương mại (theo nghĩa rộng) bao gồm từ các hoạt động sản xuất đến phân phối, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ dựa trên các phương tiện điện tử.
Với cách hiểu như vậy, có thể thấy TMĐT và việc triển khai TMĐT sẽ ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội: từ sản xuất, lưu thông, phân phối đến tiêu thụ sản phẩm. Trong các hoạt động từ mua sắm nguyên liệu, tổ chức sản xuất, đến tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, việc sử dụng hợp đồng điện tử là yếu tố quan trọng đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ các bên. Hợp đồng điện tử là công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp thực hiện các giao dịch điện tử trong toàn bộ quy trình sản xuất và kinh doanh từ việc mua sắm nguyên vật liệu, linh kiện, tổ chức sản xuất, phân phối, thanh toán đến cung cấp dịch vụ sau bán hàng. Cùng với hoạt động thương mại điện tử, hợp đồng điện tử (HĐĐT) là một công cụ tác động mạnh mẽ tới hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp, làm thay đổi phương thức, quy trình kinh doanh, cũng như nhận thức của doanh nghiệp trong quản lý từ khâu xây dựng chiến lược kinh doanh, cách thức thực hiện đến việc thâm nhập và phát triển thị trường thông qua thương mại điện tử. Để thấy rõ điều này, cần làm rõ những đặc điểm của thương mại điện tử.
1.1.1.2. Đặc điểm thương mại điện tử
So với thương mại truyền thống, thương mại điện tử có bốn đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, TMĐT là một phương thức kinh doanh mới, hiện đại với nhiều công đoạn được tin học hóa và tự động hóa, không cần sự can thiệp trực tiếp của con người. TMĐT được tiến hành chủ yếu trên máy tính và mạng Internet, thông qua các thông điệp dữ liệu, không cần gặp gỡ trực tiếp và giấy tờ truyền thống. Đặc điểm này làm thay đổi cơ bản cách thức tiến hành thương mại truyền thống vốn dựa trên các giấy tờ, lưu trữ, vận chuyển, bảo quản cồng kềnh và tốn kém sang một phương thức kinh doanh mới, không cần kho lưu trữ tài liệu, không cần văn phòng kinh doanh kiểu truyền thống trước đây nhưng lại cần đến một cơ sở hạ tầng công nghệ với hệ thống phần mềm, máy chủ, máy trạm, đường truyền đủ mạnh có khả năng kết nối trong nội bộ doanh nghiệp, kết nối đến các đối tác bên ngoài doanh nghiệp ở phạm vi trong nước và quốc tế; có hệ thống đảm bảo an toàn và bảo mật cho cả quá trình kinh doanh trên môi trường mạng đó. Khi hệ thống kinh doanh điện tử đạt tới trình độ chuẩn hóa, đồng bộ hóa, việc đặt hàng, lập hồ sơ khách hàng, giao dịch, thanh toán, phân phối, lên kế hoạch sản xuất và cung ứng dịch vụ,… sẽ được thực hiện một cách tự động nhờ các phần mềm ứng dụng cho phép các bên tự động hóa các giao dịch điện tử. Trong các giao dịch điện tử này, hợp đồng điện tử đóng vai trò quyết định đảm bảo tổ chức thực hiện các giao dịch chính xác và thuận tiện.
Thứ hai, TMĐT có tốc độ nhanh. Nhờ áp dụng các phương tiện điện tử nên các bước trong quá trình giao dịch đều được tiến hành nhanh hơn. Máy tính xử lý dữ liệu nhanh hơn, tốc độ đường truyền ngày càng nhanh cho phép truyền, gửi, nhận các thông điệp dữ liệu nhanh hơn. TMĐT đã đạt tốc độ nhanh nhất trong các phương thức giao dịch thương mại và có thể dễ dàng ứng dụng vào các ngành dịch vụ (như dịch vụ đào tạo trực tuyến, dịch vụ du lịch, dịch vụ tư vấn). Hợp đồng điện tử là công cụ cho phép các doanh nghiệp có thể tự động hóa quá trình giao dịch với khách hàng mọi nơi, mọi lúc nhằm tận dụng lợi thế về “tốc độ” của thương mại điện tử.
Thứ ba, TMĐT yêu cầu trình độ nhất định về ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh. Để triển khai thương mại điện tử, cần có hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin phát triển đến một trình độ nhất định có khả năng liên kết, chia sẻ thông tin giữa doanh nghiệp, nhà cung cấp, nhà phân phối, khách hàng; Từ đó cho phép các chủ thể tham gia tương tác, giao dịch với nhau qua các hệ thống thông tin. Hợp đồng điện tử khi đó là một công cụ để ghi nhận lại những giao dịch điện tử này. Tuy nhiên, cùng với hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông, TMĐT cũng đặt ra yêu cầu cần phải có một đội ngũ cán bộ, chuyên gia thành thạo về công nghệ, có kiến thức, kỹ năng về thương mại, về ngoại ngữ và pháp lý. Chính yêu cầu này của TMĐT tạo ra động lực sáng tạo góp phần tăng cường năng lực kinh doanh giúp doanh nghiệp từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, sự phát triển của TMĐT gắn liền với sự phát triển và những ứng dụng của công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT). Thương mại điện tử đã phát triển từ thấp đến cao cùng với sự phát triển của CNTT&TT. Cấp độ đầu tiên là sử dụng thư điện tử, rồi đến sử dụng Internet để tìm kiếm thông tin, đến đặt hàng trực tuyến, cung cấp dịch vụ trực tuyến, sau đó là các ứng dụng nghiệp vụ trong doanh nghiệp rồi đến các hệ thống thương mại điện tử toàn diện trong mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh. Cùng với việc mở rộng thị trường, số lượng khách hàng nhiều hơn, số lượng giao dịch nhiều hơn và nhiều giao dịch điện tử được tự động hóa. Các phần mềm chuyên dùng cho TMĐT cũng được phát triển để tổ chức quản lý doanh nghiệp tốt hơn như phần mềm quản trị chuỗi cung ứng, quản lý nguồn lực doanh nghiệp, quản trị quan hệ khách hàng… Các hệ thống này đều dựa trên cơ sở là các giao dịch điện tử mà bằng chứng là các hợp đồng điện tử.
1.1.1.3. Vai trò của thương mại điện tử
Phân tích bốn đặc điểm chủ yếu của TMĐT ở trên cho thấy vai trò quan trọng của TMĐT với ý nghĩa là một phương thức kinh doanh hiện đại, trong đó hoạt động quan trọng là ký kết và thực hiện các hợp đồng điện tử. Với ý nghĩa là một phương thức kinh doanh mới, TMĐT có vai trò quan trọng không chỉ với doanh nghiệp mà cả đối với người tiêu dùng và đối với chính phủ.
i. Vai trò của thương mại điện tử trong tiến trình hội nhập KTQT đối với VN
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đi vào chiều sâu, mang tính toàn diện hơn. Điều này thể hiện ở chỗ kể từ sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO (Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7/11/2006 và trở thành thành viên chính thức của WTO vào ngày 11/1/2007) tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã bước vào giai đoạn thực hiện cam kết trong WTO về cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường dịch vụ. Tiến trình này đòi hỏi Việt Nam, một mặt phải tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia về mọi phương diện, trong đó có yêu cầu nâng cao năng lực về ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển TMĐT. Mặt khác phải phát triển TMĐT nhằm tận dụng mọi thành tựu do công nghệ thông tin đem lại. Công nghệ thông tin là động lực quan trọng nhất của sự phát triển, đặc biệt là đối với một nước đi sau như Việt Nam. Công nghệ thông tin, thông qua TMĐT, góp phần tạo ra nhiều ngành kinh tế mới, nhiều khu vực dịch vụ mới, tạo công ăn việc làm, đem lại thu nhập cho người dân, làm thay đổi sâu sắc các ngành công nghiệp hiện tại, tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp truyền thống thông qua một hệ thống hỗ trợ như mạng Internet, các phương tiện điện tử, các dịch vụ truyền thông đa phương tiện và đặc biệt là các ứng dụng TMĐT.
Với cơ hội có thể thâm nhập vào thị trường của hơn 150 nước thành viên của WTO, thương mại điện tử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các ngành sản xuất, dịch vụ ở Việt Nam cũng như giữa Việt Nam với các nước. Nhờ ứng dụng TMĐT, Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam nói riêng có thể dễ dàng tiếp xúc với thị trường rộng lớn ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Nhờ đó, có thể tận dụng tốt những cơ hội mà WTO đem lại. Người ta đã tính ra rằng, nhờ sự phát triển TMĐT, khối lượng công việc trong hoạt động thương mại được giải quyết trong một ngày bằng cả năm 1949, số lượng các dự án khoa học bằng cả năm 1960 và số lượng thư điện tử gửi đi trong một ngày bằng cả năm 1990. Rõ ràng thương mại điện tử đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
ii. Vai trò của thương mại điện tử đối với doanh nghiệp
Với các doanh nghiệp, TMĐT có vai trò rất đặc biệt. TMĐT đóng vai trò là một phương thức kinh doanh mới, hiện đại và hiệu quả. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, môi trường kinh doanh có sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tính hiện đại và tính hiệu quả của thương mại điện tử thể hiện thông qua 3 vai trò. Đó là: thương mại điện tử giúp doanh nghiệp giảm chi phí, thương mại điện tử giúp doanh nghiệp tăng doanh thu và quan trọng hơn, thương mại điện tử giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
- Giảm chi phí: Đối với doanh nghiệp, vai trò rõ nhất mà thương mại điện tử đem lại là sự tiết kiệm chi phí trong giao kết hợp đồng cũng như trong thực hiện các hoạt động thương mại của doanh nghiệp. Với lợi thế là có tốc độ nhanh, phạm vi toàn cầu, nhiều hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: quảng cáo, quảng bá thương hiệu, và hoạt động tiếp thị ra thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế được thực hiện bằng thương mại điện tử với chi phí thấp hơn nhiều so với thương mại truyền thống. Với một website thương mại điện tử, doanh nghiệp có thể đưa thông tin quảng cáo đến hàng trăm triệu người xem ở mọi nơi trên thế giới, hơn nữa, doanh nghiệp có thể quảng cáo thông tin 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần liên tục đến khách hàng tiềm năng ở mọi nơi trên thế giới. Thương mại điện tử cũng giúp doanh nghiệp giảm chi phí hoạt động, doanh nghiệp không phải tốn kém nhiều chi phí cho việc thuê cửa hàng, thuê mặt bằng và trả lương cho đông đảo nhân viên phục vụ. Doanh nghiệp cũng không cần phải đầu tư nhiều vào hệ thống kho chứa hàng… Thông qua website TMĐT, doanh nghiệp có thể tiến hành giao dịch điện tử, ký kết hợp đồng điện tử đồng thời với nhiều khách hàng mà không phải bỏ quá nhiều thời gian và chi phí cử người đi đàm phán. Các catalog điện tử trên các website không những phong phú hơn về nội dung, số lượng, sản phẩm dịch vụ mà còn thường xuyên được cập nhật. Theo ước tính của UNCTAD (2007), việc mua sắm nguyên liệu được thực hiện qua Internet sẽ tiết kiệm được trung bình từ 10 - 20% chi phí, và tiết kiệm 80 – 90% thời gian giao dịch [108].
- Tăng doanh thu: với thương mại điện tử, khách hàng của doanh nghiệp giờ đây không còn bị hạn chế về mặt địa lý hay thời gian làm việc, vì vậy, thương mại điện tử giúp doanh nghiệp có thêm được nhiều khách hàng tiềm năng hơn. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tăng doanh thu. Thông qua thương mại điện tử, với các hình thức kinh doanh mới như bán lẻ trực tuyến (B2C), các doanh nghiệp có thể tiếp cận nhiều khách hàng hơn; thông qua hình thức sàn giao dịch điện tử (B2B – e-market place) doanh nghiệp có khả năng tiếp cận nhiều đối tác và khách hàng hơn. Nhờ đó số lượng khách hàng của doanh nghiệp tăng lên dẫn đến tăng doanh thu. Doanh thu tăng, chi phí giảm đồng nghĩa với việc lợi nhuận cũng sẽ tăng. Đây chính là lợi ích rõ rệt của thương mại điện tử và đây cũng là vai trò đáng kể mà sự phát triển thương mại điện tử đem lại cho doanh nghiệp trong nền kinh tế số hóa hiện nay.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào sản phẩm, vào chất lượng, và giá thành của hàng hóa, dịch vụ. Nhờ vai trò của thương mại điện tử như đã phân tích ở trên, việc giảm chi phí sẽ giúp doanh nghiệp giảm giá thành. Việc thường xuyên có được thông tin cập nhật về thị hiếu của khách hàng, sản phẩm của đối thủ cạnh tranh… sẽ giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng của hàng hóa và dịch vụ. Giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm là hai yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Nắm bắt chính xác nhu cầu thị trường và thông tin về đối tác sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế.
iii. Vai trò của thương mại điện tử đối với người tiêu dùng
Thương mại điện tử không chỉ có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp mà còn có vai trò tích cực đối với người tiêu dùng - khách hàng của doanh nghiệp. Vai trò đó là:
- Tạo điều kiện để người tiêu dùng có nhiều khả năng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp: TMĐT tạo cho khách hàng khả năng mua hàng và thực hiện giao dịch trên mạng từ mọi nơi, mọi lúc. TMĐT cho phép khách hàng, chỉ cần một máy tính kết nối mạng, có thể dễ dàng tìm kiếm hàng hóa, tiếp cận với dịch vụ, so sánh, lựa chọn nhanh chóng và thuận tiện, từ đó lựa chọn được hàng hóa tốt nhất, với chi phí phù hợp nhất. Trong các trường hợp đặc biệt, khi hàng hóa là những sản phẩm số hóa, phim, phần mềm, âm nhạc,… thương mại điện tử cho phép việc giao hàng có thể tiến hành nhanh chóng chỉ với một thao tác đơn giản là kích chuột và tải về để sử dụng.
- Giảm thời gian cho khách hàng trong việc tìm kiếm thông tin về hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp: thông qua các website TMĐT được cập nhật thường xuyên, khách hàng có thể nhận được các thông tin xác thực, và chi tiết trong vòng vài giây, trước đây việc này có thể mất vài ngày hay vài tuần. Khách hàng cũng có thể tham gia các cuộc đấu giá trực tuyến, tham khảo những ý kiến đánh giá của những khách hàng khác trong cộng đồng, chia sẻ kinh nghiệm mua sắm và sử dụng sản phẩm… Từ đó, khách hàng có thể đưa ra được những quyết định mua sắm hàng hóa và dịch vụ một cách nhanh chóng và chính xác.
iv. Vai trò của thương mại điện tử đối với Chính phủ
- Thương mại điện tử có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức: kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào tri thức, công nghệ thông tin, các công nghệ mới và các thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại. Bất kỳ xã hội nào, muốn công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì phải dựa trên tri thức, phải đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào các ngành kinh tế mũi nhọn, có lợi thế làm tăng giá trị gia tăng ở từng sản phẩm và dịch vụ của mình. Việc phát triển thương mại điện tử đóng vai trò quan trọng giúp nhà nước thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
- Thương mại điện tử là phương tiện để tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế: thương mại điện tử là động lực kích thích sự phát triển những ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh và quản lý. Việc này có ý nghĩa quan trọng đối với những nước đang phát triển, nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức, với tốc độ phát triển vũ bão của công nghệ thông tin, chỉ sau khoảng một thập kỷ các nước đang phát triển sẽ bị tụt hậu rất xa so với các nước phát triển và rất khó có khả năng hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò này của thương mại điện tử có tính chiến lược đối với chính phủ ở tất cả các nước. Việc hội nhập thể hiện ở nhiều khía cạnh của thương mại điện tử từ giao dịch điện tử, hải quan điện tử, C/O điện tử đến các lĩnh vực như tài chính, ngân hàng điện tử. TMĐT phát triển sẽ thúc đẩy đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh, từng bước tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
1.1.1.4. Quá trình phát triển của thương mại điện tử
Trong quá trình phát triển của thương mại điện tử, tính từ năm 1995 đến nay, thương mại điện tử phát triển không ngừng, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông. Có thể chia sự phát triển của thương mại điện tử thành ba giai đoạn căn cứ vào mức độ giao dịch điện tử và việc sử dụng hợp đồng điện tử:
- Giai đoạn một: Thương mại điện tử thông tin (Information E-commerce). Trong giai đoạn này các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sử dụng các phương tiện điện tử như máy tính và mạng Internet để cung cấp, tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ trên web. Các bên có thể tiến hành trao đổi, đàm phán hợp đồng điện tử với các đối tác thông qua công cụ là thư điện tử. Các doanh nghiệp cũng có thể cung cấp các thông tin, dịch vụ hỗ trợ khách hàng trực tuyến. Việc thanh toán và giao hàng đối với các hợp đồng điện tử được thực hiện như trong thương mại truyền thống.
- Giai đoạn hai: Thương mại điện tử giao dịch (Transaction E-commerce). Trong giai đoạn này các bên tham gia tiến hành hầu hết các giao dịch điện tử trực tuyến, từ việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm đến đàm phán, thương lượng và ký kết hợp đồng. Việc thực hiện hợp đồng như thanh toán, phân phối cũng được tiến hành toàn bộ hoặc một phần thông qua các giao dịch điện tử. Trong giai đoạn này, các hợp đồng điện tử được ký kết thông qua thư điện tử và các hệ thống giao dịch điện tử tự động (chủ yếu là các website bán lẻ trực tuyến B2C).
- Giai đoạn ba: Thương mại điện tử tích hợp (Integration E-business). Đây là giai đoạn phát triển cao của thương mại điện tử. Trong giai đoạn này các bên tham gia TMĐT có thể kết nối hệ thống thông tin với nhau và với các bên liên quan như cơ quan quản lý nhà nước. Trong giai đoạn này việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử được triển khai trên các hệ thống thông tin lớn đặc biệt là qua các sàn giao dịch điện tử (B2B – e-market place). Điển hình là những sàn giao dịch điện tử trong các ngành sản xuất sản phẩm điện tử, ô tô, xây dựng, vận tải, tài chính ngân hàng.
1.1.2. Khái niệm về hợp đồng điện tử
Khi các bên thương lượng, thỏa thuận, đàm phán tiến tới ký kết hợp đồng, họ đã tạo ra một công cụ pháp lý để ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên về một hoạt động cụ thể nào đó. Hợp đồng được luật pháp thừa nhận là một công cụ pháp lý để ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Theo quy định tại điều 388 của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Quy định này của Bộ luật dân sự cho thấy rõ rằng hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm tiến hành một công việc, một hoạt động hay một hành vi nhất định nhằm đem lại quyền và lợi ích nhất định cho các bên. Điều 24, Luật Thương mại (sửa đổi, 2005) cũng quy định về hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo đó, “Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập bằng văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”.
Về khái niệm hợp đồng, Điều 1, Bộ luật Thương mại thống nhất (Uniform Commerce Code – UCC) của Hoa Kỳ quy định “hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên”. Luật Hợp đồng năm 1999 của Trung Quốc quy định “hợp đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng, tự nhiên của các tổ chức (Điều 2). Những quy định này có sự tương đồng với quy định của Việt Nam ở chỗ coi hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên để quy định quyền, nghĩa vụ đối với nhau. Điều khác nhau là ở chỗ Luật Việt Nam đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự còn Luật Hoa Kỳ gọi là hợp đồng.
Với cách phân tích ở trên có thể hiểu một cách đơn giản hợp đồng điện tử là sự thỏa thuận giữa các bên, thông qua các phương tiện điện tử, nhằm quy định quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Về cơ bản, hợp đồng điện tử cũng giống hợp đồng truyền thống về chức năng, nội dung và giá trị pháp lý. Điểm khác biệt nổi bật là hình thức thể hiện, phương thức ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Điều 11, mục 1, Luật mẫu về Thương mại điện tử của UNCITRAL (1996) quy định: “Về hình thức hợp đồng, trừ khi các bên có quy định khác, chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được thể hiện bằng thông điệp dữ liệu. Khi thông điệp dữ liệu được sử dụng để hình thành hợp đồng, hợp đồng đó không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì nó được thể hiện bằng thông điệp dữ liệu”. Cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, hợp đồng điện tử cũng đã được luật pháp thừa nhận là một công cụ pháp lý để ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử cũng được quy định cụ thể tại Điều 9, Công ước của LHQ về việc Sử dụng thông điệp dữ liệu trong Hợp đồng điện tử quốc tế (2005), theo đó: “Khi pháp luật quy định một hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản thì hợp đồng điện tử được coi là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin trong hợp đồng có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết”.
Khái niệm về hợp đồng điện tử được hiểu tương đối thống nhất trong quy định của luật pháp các nước cũng như trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Sự thống nhất này thể hiện ở chỗ phần lớn ý kiến đều cho rằng hợp đồng điện tử là hợp đồng được ký kết bằng phương tiện điện tử. Hoa kỳ là quốc gia có nền thương mại điện tử phát triển hàng đầu thế giới, khái niệm hợp đồng điện tử đã được Hoa Kỳ quy định cụ thể trong Luật thống nhất về Giao dịch điện tử năm 1999 (UETA). Điều 7 của UETA quy định “hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành chỉ vì lý do duy nhất là nó tồn tại dưới dạng điện tử”. Đồng thời, điều 14 của UETA quy định rõ thêm về việc ký kết hợp đồng điện tử, theo đó, “một hợp đồng điện tử có thể được hình thành giữa các bên và hệ thống thông tin của đối tác, không cần có sự can thiệp của con người vào các giao dịch tự động đó” [96].
Tại Việt Nam, khái niệm về hợp đồng điện tử đã được quy định cụ thể tại điều 33 của Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam (2005), theo đó “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”. “Thông điệp dữ liệu” được giải thích cụ thể tại điều 4, mục 12 là “thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”. Cũng theo đó, “phương tiện điện tử” được quy định là “phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự” [23]. Như vậy, hợp đồng điện tử trước hết là một hợp đồng – một công cụ pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ các bên ký kết. Là một hợp đồng, hợp đồng điện tử cũng là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm tiến hành một công việc nhất định. Hợp đồng điện tử, do đó, có tất cả các đặc điểm của một hợp đồng nói chung và cũng có những đặc điểm riêng, đặc thù của nó.
1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng điện tử
Như mọi hợp đồng truyền thống, hợp đồng điện tử cũng có đặc điểm là: Tham gia vào hợp đồng điện tử có ít nhất hai bên (có thể là hai doanh nghiệp ký hợp đồng với nhau hoặc có thể là doanh nghiệp ký hợp đồng với người tiêu dùng); nội dung hợp đồng điện tử rất đa dạng (có thể là hợp đồng mua bán, hợp đồng vay mượn, hợp đồng vận chuyển…); hợp đồng điện tử cũng có thể là hợp đồng dân sự (nếu nó không nhằm mục đích sinh lợi) hoặc là hợp đồng thương mại (nếu mục đích của nó là sinh lợi). Khi ký kết hợp đồng điện tử, các bên không được vi phạm các điều cấm của pháp luật.
Tuy nhiên, khác với hợp đồng truyền thống, hợp đồng điện tử có những đặc điểm riêng. Đặc điểm riêng đó thể hiện ở chỗ, như điều 33 của Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định, hợp đồng điện tử được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu, được tạo ra, gửi đi và lưu trữ bằng các phương tiện điện tử nhờ sự ứng dụng kỹ thuật dựa trên công nghệ tin học, công nghệ điện hoặc công nghệ kỹ thuật số. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống.
Điểm khác biệt cơ bản này nhấn mạnh đến khía cạnh kỹ thuật công nghệ của hợp đồng điện tử và chính hợp đồng điện tử đã làm thay đổi cách thức, quy trình và thủ tục ký kết hợp đồng điện tử và hệ quả tiếp theo là làm thay đổi cách thức thực hiện hợp đồng điện tử và ít nhiều chi phối cả luật điều chỉnh và cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng điện tử. Sẽ khó có sự phân biệt điểm khác biệt này nếu không phân tích để làm rõ khía cạnh kỹ thuật và cũng chính là đặc điểm riêng của hợp đồng điện tử. Những khía cạnh kỹ thuật đó là:
- Về cách thức ký kết và công cụ để thực hiện hợp đồng điện tử: Đặc điểm nổi bật nhất của hợp đồng điện tử là cách thức ký kết và công cụ để thực hiện. Hợp đồng điện tử, như đã nêu ở trên, được ký kết và được tạo lập bởi các thông điệp dữ liệu. Để hiển thị các nội dung của hợp đồng điện tử cần có các thiết bị điện và điện tử ví dụ như máy tính, điện thoại di động, hệ thống mạng, hệ thống điện ổn định và một đội ngũ cán bộ không chỉ am hiểu về thương mại, về pháp lý mà còn phải giỏi về công nghệ thông tin. Hình thức của hợp đồng điện tử hoàn toàn khác với hình thức phổ biến của hợp đồng truyền thống trên giấy. Chính đặc điểm này của hợp đồng điện tử tạo cảm giác hợp đồng điện tử là “ảo”, “phi giấy tờ”, không dễ dàng “cầm nắm” và “sử dụng” một cách dễ dàng. (Xem phụ lục 3, 4 và 5 minh họa các hợp đồng điện tử ở cuối luận án).
- Về hình thức thể hiện: Hợp đồng điện tử do các phương tiện điện tử tạo ra, truyền gửi và lưu trữ. Điều này có nghĩa là hợp đồng điện tử được giao kết thông qua các phương tiện điện tử nhờ sự tiến bộ của các công nghệ hiện đại như: công nghệ điện tử, công nghệ số, từ tính, quang học, mạng viễn thông không dây, mạng Internet… Việc sử dụng các phương tiện điện tử và mạng viễn thông giúp việc giao kết hợp đồng trở nên thuận tiện, chính xác và nhanh hơn so với việc ký kết hợp đồng truyền thống. Đặc biệt, có những hợp đồng điện tử được ký kết hoàn toàn tự động giữa một bên là khách hàng và một bên là doanh nghiệp được đại diện bởi website bán hàng tự động như trong các mô hình TMĐT bán lẻ B2C. (Xem phụ lục 3 và 4).
- Về phạm vi ký kết: Hợp đồng điện tử được ký kết thông qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông, điển hình là mạng Internet. Chính các công nghệ này mở rộng phạm vi ký kết HĐĐT ra khắp thế giới. Đặc biệt là việc sử dụng mạng Internet trong quá trình ký kết hợp đồng đã giúp các bên có thể ký kết hợp đồng điện tử với mọi đối tác từ mọi nơi trên thế giới mà không bị rào cản về biên giới quốc gia hạn chế.
- Về tính hiện đại: Việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử phụ thuộc vào tính hiện đại của công nghệ, của kỹ thuật tin học. Bên cạnh sự thuận tiện và tiết kiệm chi phí do sử dụng phương tiện điện tử và mạng viễn thông để ký kết hợp đồng điện tử, việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử cũng gặp phải một số khó khăn do chính những yếu tố này tạo ra. Đó là sự trục trặc về mặt kỹ thuật có thể dẫn đến sự nhầm lẫn, sự sử dụng kỹ thuật công nghệ chưa thành thạo có thể dẫn đến rủi ro; sự tấn công của hacker có thể tạo ra sự mất an toàn trong công tác bảo mật thông tin của các thương vụ…
- Về luật điều chỉnh: Với tính đặc thù về mặt kỹ thuật công nghệ như đã phân tích, hợp đồng điện tử một mặt chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật về hợp đồng, mặt khác, việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử còn cần phải tuân theo một quy trình và thủ tục đặc biệt nhằm phòng tránh rủi ro do chính yếu tố kỹ thuật đem lại. Vì vậy, bên cạnh pháp luật về hợp đồng, hợp đồng điện tử còn chịu sự điều chỉnh của một số văn bản pháp luật riêng. Một số nước đã ban hành Luật Giao dịch điện tử (ví dụ như Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Singapore, Việt Nam…) để điều chỉnh việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Một số nước khác ban hành luật Chữ ký điện tử (ví dụ như Hàn Quốc), luật Chữ ký số (như Malaysia)… (Xem phụ lục 14 ở cuối luận án)
1.1.4. Phân loại hợp đồng điện tử
Hợp đồng điện tử có thể được phân loại dựa trên tính thương mại hay phi thương mại, mức độ đơn giản đến phức tạp, chủ thể tham gia là doanh nghiệp hay cá nhân. Có thể căn cứ vào hai phương tiện điện tử được sử dụng phổ biến trong ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử là web và email để phân loại hợp đồng điện tử. Hợp đồng điện tử được ký kết qua web có thể tiếp tục chia thành các loại hợp đồng điện tử như: hợp đồng truyền thống được một bên đưa lên web, hợp đồng điện tử được hình thành qua giao dịch tự động trên web. Cụ thể như sau:
1.1.4.1. Hợp đồng điện tử được ký kết và thực hiện qua web
i. Hợp đồng truyền thống được đưa lên web
Một số hợp đồng truyền thống đã được sử dụng thường xuyên và chuẩn hóa về nội dung, do một bên soạn thảo và được đưa lên website để các bên tham gia ký kết.
Để thể hiện sự đồng ý kích chuột vào nút “Next”
Hình 1.1. HĐĐT hình thành qua quá trình duyệt web (browse-wrap)
Nguồn: Travel Club Manager, 2009
Hợp đồng điện tử loại này thường được sử dụng trong một số lĩnh vực như dịch vụ viễn thông, internet, điện thoại, du lịch, vận tải, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng… Các hợp đồng được đưa toàn bộ nội dung lên web và phía dưới thường có nút “Đồng ý” hoặc “Không đồng ý” để các bên tham gia lựa chọn và xác nhận sự đồng ý với các điều khoản của hợp đồng. Để ký kết hợp đồng này, người mua thường có hai lựa chọn phổ biến:
- Lựa chọn thứ nhất: thông qua các thao tác kích chuột để chuyển đổi trang web chứa các nội dung hợp đồng và thể hiện sự đồng ý với nội dung đó, thường là kích vào nút “Xem tiếp” (Next). Loại hợp đồng này được gọi là “Hợp đồng điện tử hình thành qua quá trình duyệt web (browse-wrap contracts)”. (Xem hình 1.1).
- Lựa chọn thứ hai: người tham gia ký kết hợp đồng kích chuột vào nút “Đồng ý” (Accept) thường đặt phía dưới các điều khoản hợp đồng, để thể hiện sự đồng ý tham gia ký kết hợp đồng điện tử. (Xem hình 1.2).
Loại hợp đồng này thường được gọi là “Hợp đồng điện tử hình thành qua kích chuột (click-wrap contracts)”.
ii. Hợp đồng điện tử hình thành qua giao dịch tự động trên web
Đây là hợp đồng điện tử được sử dụng phổ biến trên các website thương mại điện tử bán lẻ (B2C), điển hình như: Amazon.com, Dell.com, Ford.com, Chodientu.vn, Thegioididong.com.vn… Đối với loại hợp đồng điện tử này, người mua tiến hành các bước đặt hàng tuần tự trên website của người bán theo quy trình đã được tự động hóa. Quy trình này thông thường gồm các bước từ tìm kiếm sản phẩm, lựa chọn, đặt hàng, tính giá, chọn hình thức giao hàng, thanh toán, xác nhận hợp đồng… (Xem hình 1.3).
Để thể hiện sự đồng ý kích chuột vào nút “Accetp”
Hình 1.2. HĐĐT hình thành qua kích chuột (click-wrap)
Nguồn: Sun Corporation, 2009
Đặc điểm nổi bật của loại hợp đồng điện tử này là nội dung hợp đồng không được soạn sẵn mà được hình thành trong giao dịch tự động. Máy tính tự động tổng hợp nội dung hợp đồng điện tử trong quá trình giao dịch dựa trên các thông tin do người mua nhập vào. Một số giao dịch điện tử kết thúc bằng hợp đồng, một số khác kết thúc bằng đơn đặt hàng điện tử (Xem Phụ lục 3: Đơn đặt hàng trực tuyến trên website của Ford Motor và Phụ lục 4: Hợp đồng điện tử tại Amazon.com ở cuối luận án). Kết thúc quá trình giao dịch, hợp đồng điện tử được tổng hợp và hiển thị để người mua xác nhận sự đồng ý của mình đối với các nội dung của hợp đồng. Sau đó, người bán sẽ được thông báo về hợp đồng và gửi xác nhận đến người mua qua nhiều hình thức, có thể bằng email hoặc các phương thức khác như điện thoại, fax…
Để thể hiện sự đồng ý kích chuột vào nút “Place your Order”
Hình 1.3. HĐĐT hình thành trong giao dịch tự động
Nguồn: Amazon.com, truy cập 4/3/2005
1.1.4.2. Hợp đồng điện tử hình thành qua thư điện tử
Đây là loại hợp đồng điện tử được sử dụng phổ biến trong các giao dịch điện tử giữa các doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B), đặc biệt là trong các giao dịch thương mại điện tử quốc tế. Với loại hợp đồng điện tử này, các bên sử dụng thư điện tử để tiến hành các giao dịch, các bước phổ biến thường bao gồm: chào hàng, hỏi hàng, đàm phán về các điều khoản của hợp đồng như quy cách phẩm chất, giá cả, số lượng, điều kiện cơ sở giao hàng… Quy trình giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng được thực hiện giống như quy trình giao dịch hợp đồng truyền thống. Điểm khác biệt là phương tiện sử dụng để thực hiện giao kết hợp đồng là máy tính, mạng Internet và email. (Xem hình 1.4).
Hợp đồng điện tử được ký kết qua email có ưu điểm nổi bật là truyền tải được nhiều chi tiết, nhiều thông tin, tốc độ giao dịch nhanh, chi phí thấp, phạm vi giao dịch rộng. Tuy nhiên, loại hợp đồng này có một nhược điểm là tính bảo mật cho các giao dịch và khả năng ràng buộc trách nhiệm của các bên còn thấp. Hợp đồng này thường được thiết lập qua nhiều email trong quá trình giao dịch. Các bên thường tập hợp thành một hợp đồng hoàn chỉnh sau quá trình giao dịch để thống nhất lại các nội dung và cũng để thuận tiện trong xử lý chứng từ điện tử cũng như quá trình thực hiện HĐĐT sau này.
Hình 1.4. Hợp đồng điện tử hình thành qua các email
Nguồn: Bài giảng Thương mại điện tử, 2008, Trường Đại học Ngoại thương, tr.126
Cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, chữ ký số từng bước được sử dụng trong việc ký kết và thực hiện những hợp đồng điện tử có giá trị lớn, đòi hỏi sự an toàn và bảo mật trong quá trình ký kết và thực hiện. Hợp đồng điện tử được ký kết và thực hiện qua web và qua email đều có thể sử dụng chữ ký số. Điển hình của các hợp đồng điện tử được ký kết qua web có sử dụng chữ ký số là các hợp đồng điện tử trên các sàn giao dịch điện tử tiên tiến như Alibaba.com, Asite.com, Covisint.com, Bolero.net… Các hợp đồng điện tử được ký kết và thực hiện qua thư điện tử cũng có thể sử dụng chữ ký số để ký và các thư điện tử trong quá trình giao dịch. Đặc điểm nổi bật của việc sử dụng hợp đồng điện tử có chữ ký số là các bên phải có chữ ký số để ký vào các thông điệp dữ liệu trong quá trình giao dịch. Chính vì có sử dụng chữ ký số nên các hợp đồng điện tử này có độ bảo mật và ràng buộc trách nhiệm các bên cao hơn. Tuy nhiên, để có thể sử dụng chữ ký số, các chủ thể ký kết hợp đồng cần phải có sự hiểu biết về việc tạo lập chữ ký số. Ngoài ra khi sử dụng chữ ký số cũng cần có sự tham gia của các cơ quan chứng thực chữ ký số mà trên thế giới cũng như tại Việt Nam hiện nay, dịch vụ này còn trong giai đoạn bắt đầu triển khai. (Xem phụ lục 5: Minh họa hợp đồng điện tử B2B và quá trình ký số)
1.1.5. Cấu trúc của hợp đồng điện tử
Cấu trúc của một hợp đồng điện tử cũng làm nên đặc điểm của hợp đồng điện tử. Cấu trúc hợp đồng điện tử thường phức tạp hơn hợp đồng truyền thống. Ngoài những nội dung chính của hợp đồng truyền thống được thể hiện dưới dạng điện tử, hợp đồng điện tử thông thường gồm thêm các thành phần sau:
- Quy định về điều kiện mua hàng trên website TMĐT.
- Điều kiện hình thành hợp đồng điện tử.
- Điều kiện về nghĩa vụ thanh toán, giao hàng.
- Đối với hợp đồng điện tử B2B, bên cạnh các nội dung trên còn có chữ ký số được sử dụng để ký kết hợp đồng và các quy định về ký và xác thực chữ ký của các bên tham gia ký kết hợp đồng. (Cấu trúc hợp đồng điện tử B2C được minh họa tại hình 1.5)
Người bán
Người mua
Thời gian giao hàng
Phương thức thanh toán
Nội dung hợp đồng
Địa chỉ giao hàng
Hình 1.5. Minh họa HĐĐT (mua điện thoại di động trên Internet)
Nguồn: www.thegioididong.com.vn, 2/2009
Bốn loại hợp đồng điện tử nêu trên bước đầu cho thấy những đặc điểm riêng có của hợp đồng điện tử. Và những điểm riêng có này cũng chi phối việc ký kết hợp đồng điện tử trong thực tế.
1.1.6. Cơ sở pháp lý của hợp đồng điện tử
Vấn đề đầu tiên các bên tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử quan tâm là những hợp đồng này có giá trị pháp lý hay không. Ở phạm vi thế giới, các tổ chức quốc tế đã xây dựng khung pháp luật về thương mại điện tử và hợp đồng điện tử để giải quyết vấn đề này. Cơ sở pháp lý của hợp đồng điện tử đã từng bước được khẳng định với việc ra đời của Luật mẫu về TMĐT do Ủy ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) ban hành năm 1996, Luật mẫu về chữ ký điện tử được UNCITRAL ban hành năm 2001 và công ước năm 2005 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng điện tử quốc tế. Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL (1996) đã khẳng định giá trị pháp lý của giao dịch điện tử, khẳng định thông điệp dữ liệu đáp ứng các yêu cầu đối với hình thức của văn bản và khẳng định giá trị pháp lý của chữ ký điện tử. Như vậy, luật mẫu này đã khẳng định giá trị pháp lý của các yếu tố cần thiết, liên quan đến hợp đồng điện tử. Luật mẫu này cũng khẳng định cụ thể giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử tại điều 11: “khi một thông điệp dữ liệu được sử dụng trong việc hình thành hợp đồng, giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành của hợp đồng đó không thể bị phủ nhận chỉ với lý do duy nhất là một thông điệp dữ liệu đã được dùng vào mục đích đó”. Để ký kết các hợp đồng điện tử, một điều kiện cơ bản là phải sử dụng chữ ký điện tử. Luật mẫu về chữ ký điện tử của UNCITRAL năm 2001 tiếp tục công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử được tạo ra theo quy định của luật này có giá trị pháp lý như chữ ký trong văn bản giấy truyền thống. Để tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử, đặc biệt là hợp đồng điện tử quốc tế, Liên hợp quốc đã ban hành Công ước về việc sử dụng thông điệp dữ liệu trong Hợp đồng điện tử quốc tế vào ngày 23/11/2005. Công ước này đã điều chỉnh không chỉ hợp đồng điện tử mà cả quá trình giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Trên cơ sở các luật mẫu và công ước trên, các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã từng bước xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh cụ thể về hợp đồng điện tử. Tại Việt Nam, Luật Giao dịch điện tử đã được ban hành vào ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ 1/3/2006, Luật này đã thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử, quy định cụ thể các nguyên tắc giao kết hợp đồng điện tử và quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng điện tử. Điều 36, Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam (2005) đã khẳng định trong giao kết hợp đồng điện tử, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu. Tiếp đó, chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2006/NĐ-CP để cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến chữ ký điện tử dùng trong ký kết hợp đồng điện tử. Để hướng dẫn cụ thể về quyền và trách nhiệm của các bên trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử thông qua website TMĐT, Thông tư số 09/2008/TT-BCT đã được ban hành ngày 21/7/2008 quy định chi tiết về giao kết hợp đồng trên website TMĐT. Như vậy, trong thời gian khoảng gần 15 năm tính từ năm 1996 đến nay, cơ sở pháp lý của hợp đồng điện tử đã liên tục được xây dựng và hoàn thiện để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng đúng đắn và hiệu quả công cụ này.
1.2. Ký kết hợp đồng điện tử
1.2.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng điện tử
Như phần trên đã trình bày, hợp đồng điện tử cũng là hợp đồng. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng điện tử, các bên vừa phải nắm được nguyên tắc ký kết hợp đồng nói chung vừa phải tuân thủ nguyên tắc được quy định dành riêng cho hợp đồng điện tử. Nguyên tắc ký kết hợp đồng điện tử nói chung được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 389 đưa ra hai nguyên tắc là nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng nhưng không được trái với pháp luật, đạo đức xã hội và nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Đây là hai nguyên tắc quan trọng, cơ bản chi phối việc ký kết mọi loại hợp đồng, dù là hợp đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử; dù là hợp đồng mua bán hàng hóa hay hợp đồng cung ứng dịch vụ; dù là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại; dù là hợp đồng trong nước hay hợp đồng có yếu tố quốc tế. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý rằng, khi ký kết hợp đồng thương mại, các bên ký kết còn phải tuân thủ sáu nguyên tắc cơ bản được quy định trong luật Thương mại năm 2005 (từ điều 10 đến điều 15). Đó là nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại; Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên; Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.
Hai nguyên tắc do Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định ở trên chi phối việc ký kết hợp đồng điện tử trong lĩnh vực dân sự. Sáu nguyên tắc do luật Thương mại 2005 quy định tiếp tục chi phối việc ký kết hợp đồng điện tử trong lĩnh vực thương mại (từ điều 10 đến điều 15). Đặc biệt là điều 15 nêu rõ nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại. Theo đó, trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng điện tử, các bên giao kết hợp đồng cần phải nắm vững tất cả các nguyên tắc ở trên nhằm đảm bảo tính hiệu lực về mặt pháp lý của hợp đồng điện tử. Ngoài ra, khi ký kết hợp đồng điện tử, các bên, chủ thể của hợp đồng điện tử phải tuân thủ 7 nguyên tắc được quy định tại điều 5 và điều 35 của luật Giao dịch điện tử năm 2005. Bảy nguyên tắc đó là:
- Tự nguyện lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để ký kết và thực hiện hợp đồng;
- Tự thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện hợp đồng điện tử;
- Không một loại công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch điện tử;
- Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong giao dịch điện tử;
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;
- Khi ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên phải tuân thủ các quy định của Luật Giao dịch điện tử và pháp luật về hợp đồng;
- Khi ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên có quyền thỏa thuận về yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện đảm bảo tính toàn vẹn, bảo mật có liên quan đến hợp đồng điện tử đó.
Những điều trình bày ở trên cho thấy tính đặc thù và sự phức tạp của việc ký kết hợp đồng điện tử. Rõ ràng, nếu các chủ thể ký kết hợp đồng điện tử không có sự am hiểu về kỹ thuật công nghệ thì sẽ rất khó hiểu hết ý nghĩa của 7 nguyên tắc trên.
1.2.2. Chủ thể của hợp đồng điện tử
Khác với hợp đồng truyền thống, theo đó, chủ thể ký kết thường là các cá nhân, các tổ chức (nếu là hợp đồng dân sự), hoặc là các doanh nghiệp nếu là hợp đồng thương mại, chủ thể của hợp đồng điện tử có thể là doanh nghiệp, người tiêu dùng hoặc thậm chí là cơ quan nhà nước (Xem bảng 1.1). Từ bảng 1.1 có thể thấy hợp đồng điện tử được giao kết giữa nhiều chủ thể khác nhau, có ba nhóm chủ thể chính tham gia vào thương mại điện tử và sử dụng hợp đồng điện tử là: Cơ quan quản lý nhà nước (G - Government), doanh nghiệp (B - Business) và người tiêu dùng (C - Consumer). Một số giao dịch điện tử điển hình được minh họa tại bảng 1.1. Ngoài các mô hình giao dịch điện tử trên, còn có các giao dịch điện tử khác như B2E (Business to Employee - doanh nghiệp và nhân viên), P2P (Peer to Peer - cá nhân và cá nhân)…
Tuy nhiên, ba mô hình giao dịch điện tử điển hình nhất hiện nay là B2B, B2C và C2C. Xét về khía cạnh giá trị giao dịch thương mại điện tử, B2B chiếm tỷ trọng lớn nhất, theo Công ty dữ liệu quốc tế IDC (International Data Corporation), năm 2002, doanh số B2B chiếm 83%; năm 2006 đạt 88% tổng giá trị giao dịch TMĐT [107, tr.135]. Điều này cũng có nghĩa là các doanh nghiệp thường là chủ thể phổ biến nhất của hợp đồng điện tử. Từ bảng 1.1 có thể thấy với mỗi một mô hình TMĐT khác nhau thì quy trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử cũng khác nhau. Điều này cho thấy, các chủ thể của hợp đồng điện tử phải nắm bắt được quy trình ký kết và thực hiện HĐĐT.
Bảng 1.1. Chủ thể của hợp đồng điện tử trong các mô hình TMĐT
Doanh nghiệp
(B)
Người tiêu dùng (C)
Chính phủ
(G)
Doanh nghiệp
(B)
B2B
(Business to Business)
Xuất nhập khẩu, mua bán nguyên liệu
Alibaba.com
B2C
(Business to Customer)
Bán lẻ qua mạng, Amazon.com
B2G
(Business to Government)
Mua sắm công cộng trực tuyến
Dell.com
Người tiêu dùng
(C)
C2B
(Customer to Business)
Đặt hàng theo nhóm
Priceline.com
C2C
(Customer to Customer)
Đấu giá trên
Ebay.com
C2G
(Customer to Government)
Chính phủ điện tử
Chính phủ
(G)
G2B
(Government to Business)
Cung cấp dịch vụ công trực tuyến:
Hải quan điện tử, đăng ký kinh doanh
G2C
(Goverment to Customer)
Thuế thu nhập cá nhân
G2G
(Government to Government)
Giao dịch giữa các cơ quan các chính phủ: Visa, C/O điện tử, hải quan điện tử
Nguồn: Efraim Turban (2008), Electronic Commerce, Prentice Hall
Phần 1.2.3 dưới đây sẽ phân tích quy trình ký kết hợp đồng điện tử B2B, B2C và C2C và đặc biệt là hợp đồng điện tử có sử dụng chữ ký số sau khi đã làm rõ đặc điểm về thủ tục và quy trình ký kết hợp đồng điện tử nói chung.
1.2.3. Quy trình ký kết hợp đồng điện tử
Không chỉ có sự khác biệt về nguyên tắc ký kết cũng như các chủ thể tham gia ký kết, việc ký kết HĐĐT phải tuân theo những thủ tục và quy trình nhất định. Ngoài thủ tục và quy trình chung, việc ký kết hợp đồng điện tử còn phải tuân thủ quy trình và thủ tục được áp dụng riêng cho từng loại trong bốn loại hợp đồng đã nêu ở mục 1.1.3. Do đó, khi ký kết hợp đồng điện tử, các chủ thể của hợp đồng điện tử phải nghiên cứu những quy định chung về quy trình ký kết HĐĐT.
Khác với hợp đồng truyền thống, theo đó, việc ký kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua việc các bên đàm phán trực tiếp và khi đàm phán xong thì cùng ký vào hợp đồng; hoặc, việc ký kết có thể thực hiện qua trao đổi thư từ giao dịch nếu các bên ở xa nhau và không có điều kiện đàm phán trực tiếp, hợp đồng điện tử sẽ được ký kết theo quy trình gửi và nhận thông điệp dữ liệu. Nói cách khác, ký kết hợp đồng điện tử không có quy trình các bên ký kết trực tiếp gặp nhau mà chủ yếu sử dụng quy trình trao đổi dữ liệu điện tử.
1.2.3.1. Những quy định chung
Hợp đồng điện tử được ký kết có nhiều cấp độ từ đơn giản đến phức tạp. Việc ký kết hợp đồng điện tử có thể đơn giản như đặt mua vé máy bay, mua sách hay mua một chiếc điện thoại di động qua mạng Internet… và thanh toán bằng thẻ tín dụng. Việc ký kết hợp đồng điện tử cũng có thể phức tạp hơn, ví dụ như việc lựa chọn và mua một chiếc máy tính trên website bán hàng tự động, hoặc lựa chọn và đặt mua một chiếc ô tô qua Internet. Hợp đồng điện tử còn có thể được hình thành phức tạp hơn qua hình thức đấu giá trực tuyến giữa các cá nhân trên website của eBay hoặc các nhà cung cấp linh kiện sản xuất ôtô trên website Covisint của General Motors, hay linh kiện sản xuất máy bay trên sàn giao dịch điện tử của Boeing. Mức độ phức tạp này thường không chỉ do công nghệ hình thành hợp đồng mà còn do tính phức tạp của bản thân giao dịch thương mại hay quy trình kinh doanh trong từng lĩnh vực cụ thể.
Về mặt nguyên tắc, khi ký kết hợp đồng điện tử, các bên cần phải hiểu rõ những quy định tại điều 36 của Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Điều 36 quy định về ký kết hợp đồng điện tử với hai quy định có tính hướng dẫn như sau: (1) Ký kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình ký kết hợp đồng; (2) Trong ký kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, đề nghị ký kết hợp đồng và chấp nhận ký kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu.
Phân tích quy định thứ nhất ở điều 36 nói trên, có thể thấy thủ tục và quy trình ký kết hợp đồng điện tử khác với thủ tục và quy trình ký kết hợp đồng truyền thống. Sự khác nhau này thể hiện ở thủ tục và quy trình sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành các giao dịch trong quá trình hình thành hợp đồng điện tử. Như vậy, ở đây các bên ký kết hợp đồng điện tử phải hiểu rõ về thông điệp dữ liệu để ký kết hợp đồng điện tử. Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax…. (điều 10, luật Giao dịch điện tử năm 2005). Điều này có ý nghĩa là thủ tục ký kế hợp đồng điện tử hay quy trình ký kết hợp đồng điện tử thường được thể hiện bằng việc trao đổi thư điện tử (e-mail), fax, điện tín… Việc trao đổi e-mail, fax… trong quá trình đàm phán thực chất là các bên đã tham gia vào quy trình giao kết hợp đồng điện tử. Để khẳng định giá trị pháp lý của việc giao dịch bằng thông điệp dữ liệu, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định rằng “thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu” (Điều 11). Tiếp theo, Điều 12 lưu ý “trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết”. Quy định này đặt ra một vấn đề là làm thế nào để có thể truy cập được thông tin có trong e-mail hay các thông điệp dữ liệu tương tự và sử dụng được chúng khi cần thiết.
Câu trả lời sẽ nằm ở việc biết cách sử dụng hệ thống thông tin với những kỹ năng đặc thù để lưu trữ, truy cập và sử dụng thông tin. Cùng với nó là máy tính, mạng Internet và trình độ tin học của người sử dụng. Rõ ràng, so với hợp đồng truyền thống, việc ký kết hợp đồng điện tử đã đặt ra những quy trình phức tạp hơn với những máy móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại hơn cùng với đội ngũ nhân lực phải qua đào tạo chuyên trách hơn. Nếu như vào thủa ban đầu của việc ký kết một hợp đồng truyền thống, người ta chỉ cần điểm chỉ vào một tờ giấy hay ký một chữ giản đơn vào bản hợp đồng thì ngày nay, hợp đồng điện tử đòi hỏi các bên ký kết phải biết soạn thảo hợp đồng trên máy vi tính, phải biết thao tác trên email, phải biết các công nghệ bảo mật thông tin, cũng như phải biết tạo lập chữ ký số và phải biết gửi đi và nhận về những thông tin phản hồi ngay trên các phương tiện điện tử.
Ngoài ra, các chủ thể ký kết hợp đồng điện tử còn phải biết cách lưu trữ, duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu, bởi vì, giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo…
Phân tích quy định thứ hai của điều 36 của Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cho thấy quy trình ký kết hợp đồng điện tử cũng trải qua hai giai đoạn là đề nghị ký kết hơp đồng và chấp nhận ký kết hợp đồng. Để thấy rõ khía cạnh kỹ thuật công nghệ của quy trình ký kết hợp đồng điện tử, phần dưới đây sẽ phân tích thủ tục và quy trình ký kết HĐĐT thông qua hai bước đàm phán cụ thể là đề nghị ký kết hợp đồng và chấp nhận ký kết hợp đồng điện tử.
- Đề nghị ký kết hợp đồng điện tử: Đề nghị ký kết hợp đồng điện tử cũng giống như đề nghị ký kết hợp đồng truyền thống, là thủ tục đầu tiên của quá trình đàm phán để tiến tới thỏa thuận ký kết hợp đồng. Đề nghị ký kết hợp đồng là việc bên đề nghị (còn gọi là người chào hàng hoặc người đặt hàng) thể hiện rõ ý định ký kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này đối với bên được đề nghị (Điều 390, khoản 1, Bộ luật Dân sự năm 2005). Thời điểm đề nghị ký kết hợp đồng có hiệu lực do bên đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị đó.
Khác với hợp đồng truyền thống, thời điểm ký kết hợp đồng điện tử được bắt đầu khi bên đề nghị ký kết hợp đồng gửi thông điệp dữ liệu và do đó, thời điểm gửi một thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu này nhập vào hệ thống thông tin nằm ngoài sự kiểm soát của người khởi tạo thông điệp dữ liệu. Địa điểm gửi thông điệp dữ liệu, do đó, là trụ sở của người khởi tạo nếu người này là cơ quan hoặc một tổ chức hoặc là nơi cư trú của người khởi tạo nếu người khởi tạo là cá nhân (điều 17, Luật Giao dịch điện tử năm 2005).
- Chấp nhận ký kết hợp đồng điện tử: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị (Điều 396, Bộ luận Dân sự năm 2005). Việt Nam là nước theo Thuyết tiếp thu, do đó, nơi ký kết hợp đồng trong trường hợp này là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng và thời điểm ký kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông. Việc áp dụng thuyết tiếp thu để xác định địa điểm và thời điểm ký kết hợp đồng điện tử cần vận dụng theo quy định tại điều 18, Luật Giao dịch điện tử 2005. Theo đó, người nhận thông điệp dữ liệu là người được chỉ định nhận thông điệp dữ liệu. Trong trường hợp các bên không có quy định, thỏa thuận khác thì người nhận được coi là đã nhận được thông điệp dữ liệu nếu thông điệp dữ liệu đó được nhập vào hệ thống thông tin do người nhận chỉ định và có thể truy cập được. Trong một số trường hợp, hệ thống giao dịch điện tử tự động có thể thực hiện việc chấp nhận đề nghị ký kết hợp đồng điện tử thay mặt cho một hoặc hai bên trong hợp đồng.
1.2.3.2. Ký kết hợp đồng điện tử B2B
B2B là chữ viết tắt của Business-To-Business để chỉ mô hình giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. Giao dịch B2B thường diễn ra tại các sàn giao dịch điện tử B2B (B2B e-marketplace), trao đổi giao dịch qua thư điện tử hoặc qua mạng trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange - EDI). Theo website nghiên cứu thị trường – eMarketer và Công ty dữ liệu quốc tế (International Data Corporation – IDC), tổng giá trị giao dịch thương mại điện tử B2B đạt 1.400 tỷ USD trong năm 2003 và 2.400 tỷ USD trong năm 2004. Cũng theo tính toán của hai công ty này, tổng giá trị thương mại điện tử B2B toàn cầu năm 2008 đạt khoảng 10.000 tỷ USD. Tỷ lệ phần trăm giao dịch B2B dựa trên Internet trong tổng giá trị giao dịch thương mại B2B không qua Internet tăng từ 0,2% năm 1997 lên 2,1% năm 2000 và khoảng 10% năm 2005. Từ năm 2006 đến nay, tỷ trọng các giao dịch thương mại điện tử B2B chiếm trung bình khoảng 85% tổng giá trị giao dịch thương mại điện tử [59].
Người bán
Người mua
Người bán
Người bán
Công ty A
Công ty C
Công ty B
Công ty D
Người mua
Công ty A
Công ty C
Công ty B
Công ty D
(a) Sàn của người bán
(b) Sàn của người mua
Sàn GD
Nhà cung cấp dịch vụ
Quản lý Hub
Chính phủ
Cộng đồng
Trường Đại học
Cơ quan khác
Người mua
Quản lý ngành
(c) Sàn giao dịch
(d) Cổng TMĐT B2B tích hợp
Người bán
Người mua
Hình 1.6. Một số mô hình cổng thương mại điện tử B2B điển hình
Nguồn: Laudon (2009), Electronic Commerce, Prentice Hall
Thương mại điện tử B2B đã trải qua 5 giai đoạn phát triển tính từ năm 1995 đến nay, bao gồm:
- Giai đoạn 1 (1995-1997): Hiện diện trên web, quảng bá và xúc tiến;
- Giai đoạn 2 (1997-2000): Đặt hàng trực tuyến B2B;
- Giai đoạn 3 (2000-2001): Sàn giao dịch điện tử B2B, B2G;
- Giai đoạn 4 (2001-2002): Hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP);
- Giai đoạn 5 (2002 - nay): Bán hàng tự động, dịch vụ trực tuyến, tích hợp hệ thống thông tin trong và ngoài doanh nghiệp, liên kết và phối hợp với đối tác thông qua hệ thống quản trị chuỗi cung ứng (Supply Chain Management – SCM) và hệ thống quản trị quan hệ khách hàng (Customer Relationship Management –CRM) [59, tr.97].
Việc ký kết hợp đồng điện tử B2B, do đó, cũng trải qua năm giai đoạn phát triển này. Hiện nay, thương mại điện tử B2B đang ở trong giai đoạn thứ năm. Trong giai đoạn này các doanh nghiệp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng các hệ thống thông tin tích hợp giữa nhà cung cấp và người mua, cải thiện dây chuyền cung ứng, nâng cao hiệu quả sản xuất bên trong và phân phối bên ngoài doanh nghiệp, xây dựng các hệ thống bán hàng và dịch vụ khách hàng thông minh, trực tuyến. Toàn bộ điều này ảnh hưởng đến quy trình ký kết hợp đồng điện tử B2B. (Xem hình 1.6)
Nhìn từ hình 1.6, có thể thấy việc ký kết hợp đồng điện tử B2B được chia thành bốn loại hình cơ bản của quy trình giao dịch.
- Quy trình a: Sàn GDĐT do người bán thành lập cho nhiều người mua.
- Quy trình b: Sàn GDĐT do người mua thành lập cho nhiều người bán.
- Quy trình c: Sàn GDĐT của trung gian cho nhiều người bán và nhiều người mua tham gia và tiến hành giao dịch điện tử.
- Quy trình d: Cổng thương mại điện tử tích hợp do nhiều bên phối hợp nhằm chia sẻ thông tin và giao dịch giữa doanh nghiệp, cơ quan quản lý, các tổ chức.
Trong thực tiễn, nhiều sàn giao dịch thương mại điện tử điển hình cho tất cả các mô hình trên nhằm giúp cho việc ký kết hợp đồng điện tử B2B được dễ dàng. Đó là các sàn như: Cisco - Sàn giao dịch của người bán; General Electric, Boeing - Sàn giao dịch của người mua; Alibaba - Sàn giao dịch của trung gian hay Belero.net - Cổng thương mại điện tử. Cisco được coi là một trong những công ty đầu tiên đã xây dựng thành công sàn giao dịch điện tử B2B trên thế giới với quy trình giao kết hợp đồng điện tử B2B khá thuận lợi.
i. Sàn giao dịch thương mại điện tử của Cisco System
Cisco Systems (www.cisco.com) là nhà sản xuất bộ định tuyến (router), bộ chuyển mạch (switch), đây là nhà cung cấp dịch vụ liên kết mạng hàng đầu thế giới. Cisco đã không ngừng mở rộng trong vài năm gần đây và đã phát triển thành sàn giao dịch thương mại điện tử lớn nhất trên thế giới chuyên cung cấp dịch vụ bán hàng trực tuyến cho các khách hàng là doanh nghiệp. Từ năm 1994, Cisco đưa toàn bộ hệ thống kinh doanh của mình lên mạng và đặt tên là Kết nối Cisco trực tuyến (Cisco Connection Online - CCO). Đến năm 2001, website này đã đón nhận khoảng 1,3 triệu lượt khách hàng và các đối tác trung gian truy cập để nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật, đặt hàng và kiểm tra tình hình thực hiện hợp đồng, hoặc download phần mềm. Đến nay, dịch vụ này thu hút khoảng 85% các yêu cầu dịch vụ của khách hàng và 95% phần mềm cập nhật được thực hiện trực tuyến. Dịch vụ trên website B2B của Cisco được cung cấp bằng 14 thứ tiếng. Mô hình của Ciso được coi là một mô hình thương mại điện tử B2B thành công điển hình đầu tiên trên thế giới [72].
Ký kết hợp đồng điện tử B2B trên sàn GDĐT của Cisco. Cisco đã xây dựng tất cả các sản phẩm của mình theo đơn đặt hàng của các khách hàng doanh nghiệp, vì thế có rất ít sản phẩm làm sẵn. Trước khi có hệ thống kinh doanh trực tuyến CCO, đặt hàng và quản lý các đơn đặt hàng là một công việc tốn thời gian, phức tạp và hay xảy ra lỗi, vì nó được tiến hành bằng fax hay thư truyền thống. Cisco bắt đầu ứng dụng các công cụ thương mại điện tử dựa trên nền tảng Web vào tháng 7 năm 1995, và trong vòng 1 năm, hệ thống giao dịch điện tử này cho phép khách hàng mua bất kỳ sản phẩm nào của Cisco trên Web. Bằng việc cung cấp giá cả và các công cụ cho phép khách hàng tự cấu hình sản phẩm theo nhu cầu của mình, hầu hết các đơn đặt hàng (khoảng 98%) đều được thực hiện thông qua CCO, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả Cisco và khách hàng. Năm 1996, trong vòng 5 tháng đầu hoạt động đặt hàng điện tử, Cisco đã ghi nhận doanh thu bán hàng trực tuyến trên 100 triệu USD. Con số này tăng lên 4 tỷ năm 1998 và hơn 8 tỷ năm 2002, năm 2008 đạt trên 20 tỷ USD [59].
ii. Giao dịch trên cổng thương mại điện tử Bolero.net
Bolero.net là một trong các mô hình sàn giao dịch điện tử quốc tế B2B được thành lập đầu tiên trên thế giới, với mục đích triển khai vận đơn điện tử và tất cả các chứng từ điện tử trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng trong thương mại quốc tế. Đặc điểm nổi bật của mô hình này là sử dụng chữ ký số trong tất cả các giao dịch. Tại mỗi bước giao dịch, các bên đều sử dụng chữ ký số để mã hóa và bảo mật thông điệp dữ liệu trước khi truyền gửi. Chữ ký số cũng có thể được sử dụng tại các sàn giao dịch điện tử, tại đó các bên có thể sử dụng chữ ký số để ký, gửi, nhận, xác thực các bên và nội dung các chứng từ điện tử.
Toàn bộ quy trình giao nhận điện tử thông qua Bolero.net trong đó bao gồm cả quy trình phát hành vận đơn điện tử, chuyển quyền sở hữu từ người xuất khẩu sang người nhập khẩu, đến việc xuất trình cho đại lý người chuyên chở tại nước nhập khẩu để nhận hàng gồm 14 bước cụ thể như sau: (xem Hình 1.7)
Bước 1: Người nhập khẩu đăng nhập vào Bolero.net và đặt hàng thông qua hệ thống xử lý thông điệp Trung tâm (BCMP - Bolero Core Messaging Platform);
Bước 2: Người xuất khẩu đăng nhập vào Bolero.net và nhận đơn đặt hàng của người nhập khẩu;
Bước 3: Người nhập khẩu gửi cho người xuất khẩu một thông điệp yêu cầu các chứng từ cần xuất trình sau khi giao hàng để được thanh toán;
Bước 4a : Người xuất khẩu gửi chấp nhận cho người nhập khẩu;
Bước 4b : Người nhập khẩu gửi tiếp thông điệp đến ngân hàng yêu cầu mở L/C;
Bước 5: Ngân hàng mở L/C thông báo cho người xuất khẩu thông qua Bolero.net và Người xuất khẩu thực hiện giao hàng như trong thương mại truyền thống;
Bước 6: Người xuất khẩu gửi các yêu cầu lấy các chứng từ cần thiết đến các cơ quan như Chứng nhận kiểm dịch, Chứng nhận xuất xứ, Chứng nhận chất lượng, Vận đơn đường biển, Bảo hiểm đơn…;
Bước 7: Các chứng từ điện tử được chuyển đến cho người xuất khẩu thông qua Bolero.net;
Bước 8: Người xuất khẩu gửi bộ chứng từ điện tử cho Trung tâm xử lý thanh toán (SURF - Settlement Utility for managing Risk and Finance) thuộc Bolero.net để tổ chức kiểm tra và tiến hành thanh toán;
Bước 9: SURF kiểm tra các chứng từ với L/C và thông báo cho người xuất khẩu và ngân hàng của người nhập khẩu;
Bước 10: Người nhập khẩu thanh toán cho Ngân hàng nhập khẩu, bộ chứng từ được chuyển cho người nhập khẩu;
Bước 11: Ngân hàng nhập khẩu thanh toán cho ngân hàng của người xuất khẩu;
Bước 12: Khi hàng đến cảng, đại lý của người chuyên chở thông báo hàng đã đến cảng cho người nhập khẩu;
Bước 13: Người nhập khẩu xuất trình vận đơn điện tử để đổi lấy lệnh giao hàng;
Bước 14: Người nhập khẩu dùng lệnh giao hàng để nhận hàng từ người vận tải .
NGƯỜI
XUẤT
KHẨU
NGƯỜI
NHẬP
KHẨU
BOLERO CORE MESSAGING PLATFORM
1. ĐẶT HÀNG
Máy chủ của Cơ quan chứng thực
2. XÁC NHẬN
3. Yêu cầu mở L/C
Chào hàng trực tuyến trên website Kodak.com
4-a. Chấp nhận
OK
4-b. Gửi
thông báo
đến Ngân hàng
NGÂN HÀNG CỦA NGƯỜI
NHẬP KHẨU
5-a. Mở L/C
5-b. Thông báo cho người Bán
7. Được cấp các chứng từ cần thiết
Đại lý của Người chuyên chở
Cơ quản kiểm dịch
Chứng nhận xuất xứ Chứng nhận chất lượng; Vận đơn đường biển;
Tờ khai hải quan;
Bảo hiểm đơn
12. Thông báo hàng đã đến cảng
6. Yêu cầu ký và chứng thực các chứng từ cần thiết
NGƯỜI
XUẤT KHẨU
NGƯỜI
NHẬP KHẨU
13. Xuất trình B/L
14. Lệnh giao hàng
8. Gửi Bộ chứng từ điện tử cho SURF
9. SURF kiểm tra với L/C và thông báo cho Ngân hàng NK và Người XK
NGÂN HÀNG CỦA NGƯỜI
XUẤT KHẨU
NGÂN HÀNG CỦA NGƯỜI
NHẬP KHẨU
10. SURF gửi Bộ chứng tử điện tử cho NGƯỜI NHẬP KHẨU
11. Thanh toán
Hình 1.7. Quy trình ký kết và thực hiện HĐĐT trên SGD điện tử
Nguồn: www.bolero.net và tác giả tự tổng hợp trong quá trình nghiên cứu
Mặc dù phương thức giao dịch điện tử trên Bolero.net, đặc biệt là việc ký kết hợp đồng và sử dụng các chứng từ điện tử, đã được phát triển qua hơn 20 năm nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu giao dịch điện tử. Nguyên nhân là do trong thương mại quốc tế có rất nhiều bên tham gia vào quá trình giao dịch, vận tải, giao nhận, thanh toán, bảo hiểm... Bên cạnh người xuất khẩu, nhập khẩu, người chuyên chở, các ngân hàng tại các nước khác nhau, còn có các công ty bảo hiểm, các công ty giao nhận, cảng khẩu, hải quan, các tổ chức quản lý của nhà nước...
Tuy nhiên, với tốc độ phát triển của ứng dụng công nghệ thông tin như hiện nay, khi các tổ chức này có đủ điều kiện về công nghệ và có một môi trường pháp lý đầy đủ đối với hợp đồng và các chứng từ điện tử; cùng tham gia một hệ thống các sàn giao dịch điện tử B2B tiêu chuẩn như Bolero hoặc tương tự thì việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử sẽ thực sự được áp dụng rộng rãi tạo điều kiện thuận lợi hơn để phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Quy trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử B2B quốc tế thông qua sàn giao dịch điện tử được minh họa tại Hình 1.7.
iii. Giao dịch TMĐT B2B qua mạng trao đổi dữ liệu điện tử (EDI)
Các giao dịch TMĐT B2B được thực hiện chủ yếu qua các mạng EDI và Internet. Hai trường hợp trên đã phân tích quy trình ký kết hợp đồng điện tử B2B qua mạng internet. Phần này phân tích việc ký kết hợp đồng điện tử B2B qua mạng EDI. Về bản chất, EDI là chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử cho phép gửi, nhận và lưu trữ các thông điệp dữ liệu điện tử dưới các dạng chuẩn, đã được quy định thống nhất giữa các bên tham gia. Mạng EDI được thiết lập nhằm kết nối trực tiếp giữa các bên tham gia và được sử dụng chủ yếu trong các giao dịch TMĐT thường xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần như: gửi và nhận các đơn đặt hàng, hóa đơn, hồ sơ thanh toán, chứng từ vận tải… Mạng EDI đã được sử dụng từ những năm 1980, tuy nhiên thực sự phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của internet. Mạng EDI gắn liền với sự phát triển của các doanh nghiệp lớn như: General Electric (Với trên 100.000 người sử dụng); Home Depot, Wal-Mart và hàng nghìn các nhà sản xuất lớn trên thế giới như Procter & Gamble, Levi Strauss, Toyota, và Unilever đã sử dụng mạng EDI để kết nối với mạng lưới khách hàng nhằm cung cấp hàng hóa kịp thời và sản xuất theo mô hình JIT (just-in-time). (Xem phụ lục 23: So sánh quy trình giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng B2B khi sử dụng và không sử dụng mạng EDI)
Với mạng EDI các doanh nghiệp (thường là doanh nghiệp lớn) có thể tiến hành liên tục nhiều giao dịch điện tử trên phạm vi toàn cầu. Các giao dịch điện tử được thực hiện chính xác, nhanh chóng và thuận tiện. Các đối tác có thể truy cập cơ sở dữ liệu của nhau để tiến hành các giao dịch điện tử, tăng cường hiệu quả, giảm thời gian giao dịch đặc biệt là trong thanh toán, giao nhận và lưu kho. Tuy nhiên, trước khi có mạng internet, do chi phí xây dựng mạng EDI cao nên các chỉ các doanh nghiệp lớn mới có khả năng sử dụng hình thức này. Mạng EDI dựa trên nền internet đã đem lại giải pháp cho các doanh nghiệp với chi phí thấp mà vẫn tận dụng được những lợi thế của EDI. Các doanh nghiệp thành công điển hình trong việc sử dụng mạng EDI trên nền internet để tiến hành các giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử B2B bao gồm:
- Procter & Gamble (P&G) đã thay thế hệ thống EDI truyền thống bằng hệ thống EDI trên nền internet, qua đó tăng số lượng nhà cung cấp từ 4.000 lên hàng chục nghìn. Hệ thống này cho phép P&G thu thập thông tin về quá trình mua sắm của khách hàng tại thời điểm thanh toán, luồng thông tin này được chuyển tiếp đến cho các nhà phân phối, P&G và các nhà cung cấp. Những thông tin này cho phép P&G và các nhà cung cấp biết chính xác nhu cầu trên thị trường đối với sản phẩm. Trên cơ sở đó có thể đặt kế hoạch sản xuất, cung cấp và phân phối đến nhà bán buôn và bán lẻ. Hệ thống mạng EDI đã trở thành một yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh chiến lược cho các doanh nghiệp lớn như: GE, Dell Computer, Cisco System, Microsoft, IBM, Nike, Coca-Cola, Wal-Mart, Nokia, và Hewlett-Parkard (HP).
- Boeing với vai trò là nhà sản xuất máy bay lớn nhất thế giới đã giữ vị trí quan trọng trong việc cung cấp linh kiện cho các hãng hàng không. Boeing kết nối mạng lưới 300 nhà cung cấp linh kiện máy bay trên khắp thế giới với các hãng hàng không. Bắt đầu từ tháng 11 năm 1996, Boeing đưa vào hoạt động hệ thống TMĐT B2B với tên gọi Part (Part Analysis and Requirement Tracking) sử dụng hệ thống EDI trên nền internet. Qua đó cho phép khách hàng là các doanh nghiệp trên khắp thế giới có thể kiểm tra tình trạng linh kiện, giá cả, đặt hàng, và kiểm tra tình trạng thực hiện đơn đặt hàng hoàn toàn qua mạng.
- Năm 1996 General Electric đưa vào hoạt động hệ thống TMĐT B2B với tên gọi Trading Process Network (TPN). Với hệ thống TMĐT này, phòng mua sắm nhận các yêu cầu đặt hàng từ trong nội bộ và gửi đến các nhà cung cấp thông qua hệ thống EDI trên nền internet. Trong vòng hai giờ từ khi gửi các đơn đặt hàng điện tử, nhà cung cấp trên khắp thế giới nhận được các thông báo về yêu cầu chào hàng thông qua đồng thời email, fax và EDI. Trong 7 ngày tiếp theo các nhà cung cấp gửi các báo giá cạnh tranh qua mạng EDI đến GE, quá trình xét thầu được thực hiện trong mạng nội bộ của GE và hợp đồng được ký với nhà cung cấp thông qua mạng TPN. Năm 2001, tổng giá trị mua sắm trên hệ thống này là 6 tỷ USD, chiếm 35% tổng giá trị mua sắm của GE, tiết kiệm trung bình 700 triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, do chi phí kết nối EDI cao, chỉ 25% trong tổng số 30.000 nhà cung cấp của GE được kết nối EDI, bên cạnh đó khoảng 7.500 nhà cung cấp được kết nối qua internet [59].
1.2.3.3. Ký kết hợp đồng điện tử B2C
Thương mại điện tử B2C là viết tắt từ ba từ tiếng Anh Business-To-Consumer, đây là mô hình giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với khách hàng cá nhân, điển hình là việc doanh nghiệp thông qua website bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng. Mô hình thành công nhất đến nay và cũng là một trong các mô hình thương mại điện tử đầu tiên về bán lẻ trực tuyến là Amazon.com. Khởi đầu bằng mô hình cửa hàng bán sách trực tuyến, đến nay đã phát triển thành cửa hàng trực tuyến lớn nhất thế giới.
Amazon.com có tên đầy đủ là Amazon.com Inc., được thành lập năm 1994, có trụ sở tại Seattle, Washington, Hoa Kỳ. Doanh số bán hàng của Amazon.com năm 2009 là 19,84 tỷ USD, lợi nhuận ròng là 476 triệu USD với tổng số nhân viên 17.000 người [37]. Mô hình ký kết hợp đồng B2C trên Amazon.com đã trở thành mô hình chuẩn để các doanh nghiệp bán lẻ trực tuyến tham khảo khi xây dựng quy trình bán lẻ của mình. Quy trình được thực hiện giữa một bên là khách hàng và một bên là hệ thống bán hàng tự động của Amazon.com thông qua Internet. Quy trình ký kết hợp đồng điện tử B2C trên Amazon.com gồm 10 bước, cụ thể như sau: (Xem hình 1.8)
Hình 1.8. Hợp đồng điện tử B2C giữa Amazon.com và khách hàng cá nhân
Nguồn: www.amazon.com
Bước 1. Tìm kiếm sản phẩm trên website của Amazon.com. Công cụ tìm kiếm (Search Engine) gồm nhiều chức năng tìm kiếm tinh tế để khách hàng có thể dễ dàng tìm được sản phẩm một cách nhanh chóng;
Bước 2. Cho phép khách hàng xem chi tiết sản phẩm. Tại bước này, khách hàng có thể xem các thông tin về nhà sản xuất, tác giả, thông tin chung về sản phẩm, đặc biệt là xem các bình chọn, đánh giá của khách hàng đã mua sản phẩm;
Bước 3. Thêm sản phẩm vào giỏ mua hàng (Add to Shopping Cart): Tại bước này, website tương tác của Amazon.com tự động gợi ý một số sản phẩm, đưa ra quảng cáo, khuyến mại liên quan đến sản phẩm đang mua sắm;
Bước 4. Nhập thông tin người mua hàng (Buyer login): Tại bước này, website cho phép khách hàng tự đăng nhập hoặc đăng ký thông tin về mình để thuận tiện cho các giao dịch sau này;
Bước 5. Nhập vào địa chỉ nhận hàng (Shipping address);
Bước 6. Chọn phương thức giao hàng (Delivery): Tại bước này, khách hàng có thể lựa chọn các dịch vụ giao hàng với thời hạn khác nhau, khách hàng cũng có thể đăng ký các yêu cầu riêng về giao hàng với Amazon.com;
Bước 7. Chọn phương thức thanh toán: Khách hàng có thể lựa chọn nhiều hình thức thanh toán khác nhau, bao gồm thanh toán bằng thẻ tín dụng, bằng lệnh chuyển tiền, giao hàng trả tiền;
Bước 8. Nhập vào địa chỉ người thanh toán;
Bước 9. Kiểm tra toàn bộ đơn hàng: Tại bước cuối cùng, khách hàng kiểm tra lại toàn bộ nội dung đơn hàng do hệ thống bán hàng của người bán tự tổng hợp và sau đó có thể xác nhận đơn hàng;
Bước 10. Hệ thống bán hàng gửi email xác nhận đơn đặt hàng đến địa chỉ email của người mua. Hợp đồng điện tử B2C này thường gồm các nội dung cơ bản như: Tên hàng, số lượng, đơn giá, tổng giá trị, phương thức thanh toán, địa chỉ thanh toán, địa chỉ giao hàng, phương thức giao hàng và một số nội dung khác như dịch vụ kèm theo…
Về cơ bản, hợp đồng điện tử B2C được ký kết giữa một bên là khách hàng cá nhân và một bên là hệ thống thông tin tự động của doanh nghiệp bán lẻ. Tuy nhiên, trên thực tế hợp đồng điện tử cũng có thể được ký kết một phần bằng giao dịch điện tử như trên và một phần bằng giao dịch truyền thống. Trong 10 bước giao dịch trên đây, khách hàng có thể thực hiện các bước từ 1 đến 6 thông qua hệ thống giao dịch điện tử tự động trên website sau đó việc thanh toán có thể thực hiện bằng chuyển khoản, việc xác nhận hợp đồng có thể thực hiện qua fax, điện thoại hoặc email.
1.2.3.4. Ký kết hợp đồng điện tử C2C
Mô hình giao dịch điện tử giữa cá nhân với nhau thường gọi là C2C hay Consumer-To-Consumer cho phép các cá nhân có thể tự chào bán các sản phẩm, thông qua quá trình đấu giá trực tuyến để lựa chọn người trả giá cao nhất. Website thành công điển hình của mô hình này là Ebay.com, khác với các cửa hàng bán lẻ hay siêu thị điện tử, Ebay là một website cho phép người mua và người bán gặp nhau để tiến hành các giao dịch đấu giá trực tuyến. Ebay.com cũng khác với Alibaba.com ở chỗ đối tượng tham gia Ebay chủ yếu là các cá nhân trong khi Alibaba.com thu hút đối tượng tham gia là các doanh nghiệp.
Quy trình khách hàng giao dịch và ký kết hợp đồng điện tử trên website của Ebay.com gồm các bước cơ bản như sau:
Bước 1. Đăng ký thành viên;
Bước 2. Tìm kiếm sản phẩm;
Bước 3. Lựa chọn cách thức mua hàng: Đấu giá, đặt hàng qua Ebay hoặc mua hàng trực tiếp từ Ebay;
Bước 4. Lựa chọn phương thức thanh toán;
Bước 5. Sử dụng My Ebay để lưu trữ thông tin giao dịch;
Bước 6. Liên hệ với các thành viên.
Ebay.com vẫn được coi là mô hình đấu giá trực tuyến C2C thành công nhất hiện nay. Tên đầy đủ là eBay Inc., công ty này được thành lập năm 1995, có trụ sở tại San Jose, California, Hoa Kỳ. Mô hình ban đầu là sàn đấu giá trực tuyến, sau này được mở rộng sang thanh toán điện tử - PayPal; thông tin trực tuyến – Skype; cửa hàng trực tuyến – Shopping.com; thuê xe trực tuyến – Rent.com; Quảng cáo trực tuyến – Kijiji.com; Bán vé điện tử - Stubhub.com; Mạng xã hội – StumbleUpon.com. Doanh thu của eBay năm 2007 đạt 7,67 tỷ USD. Tổng số nhân viên là 11.600 người [47].
Trên eBay, mọi người tham gia có thể đấu giá hầu như mọi thứ, eBay thu một khoản phí đăng tin đấu giá và trị giá giao dịch (1,25% đến 7,25% trị giá giao dịch). Quy trình đấu giá được bắt đầu khi người bán điền vào form thông tin về hàng hóa. Người bán cũng phải đặt mức giá tối thiểu và thời gian hiệu lực của chào bán. Trong thời gian này, người mua có thể trả giá tùy ý. Phiên đấu giá kết thúc khi hết thời gian do người bán quy định. Sau đó, người bán và người mua có thể thương lượng hình thức thanh toán, giao hàng, các điều khoản bảo hành, dịch vụ khác. Trên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan an TS - Bao ve cap Nha nuoc 2010 - V8.doc