Tài liệu Đề tài Vi sinh vật gây ngộ độc thực phẩm và các biện pháp phòng tránh ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật: MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, thực phẩm nuôi sống con người, nhưng nó cũng có thể chứa các thành phần có hại, mà các thành phần này có thể là chất hóa học có tính độc, thậm chí số lượng của chúng rất nhỏ nhưng gây ảnh hưởng cho cơ thể rất lớn. Những chất này có thể nhiễm vào thực phẩm một cách tình cờ trong thời gian chăn nuôi, gieo trồng, chế biến nấu nướng và do sự tương tác của một số thành phần với nhau trong thực phẩm khi bảo quản đã hình thành chất độc nhưng cũng có thể là thành phần tự nhiên của thực phẩm. Vi sinh vật có thể nhiễm vào thực phẩm, từ môi trường, hoặc từ các thực phẩm khác. Những chất độc trong thực phẩm này gây nên bệnh lý cho con người, với các biểu hiện chủ yếu là nôn, tiêu chảy, đau bụng... và được gọi là ngộ độc thực phẩm [1].
Theo số liệu từ Cục an toàn vệ sinh thực phẩm – Bộ Y tế, trong 5 năm (2001 - 2005) cả nước xảy ra gần 1.000 vụ với hơn 23.000 người bị ngộ độc thực phẩm, trong đó có hơn 260 người chết. Năm 2005, xảy ra 150 vụ với hơn 4.300 người bị n...
30 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 2201 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vi sinh vật gây ngộ độc thực phẩm và các biện pháp phòng tránh ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, thực phẩm nuôi sống con người, nhưng nó cũng có thể chứa các thành phần có hại, mà các thành phần này có thể là chất hóa học có tính độc, thậm chí số lượng của chúng rất nhỏ nhưng gây ảnh hưởng cho cơ thể rất lớn. Những chất này có thể nhiễm vào thực phẩm một cách tình cờ trong thời gian chăn nuôi, gieo trồng, chế biến nấu nướng và do sự tương tác của một số thành phần với nhau trong thực phẩm khi bảo quản đã hình thành chất độc nhưng cũng có thể là thành phần tự nhiên của thực phẩm. Vi sinh vật có thể nhiễm vào thực phẩm, từ môi trường, hoặc từ các thực phẩm khác. Những chất độc trong thực phẩm này gây nên bệnh lý cho con người, với các biểu hiện chủ yếu là nôn, tiêu chảy, đau bụng... và được gọi là ngộ độc thực phẩm [1].
Theo số liệu từ Cục an toàn vệ sinh thực phẩm – Bộ Y tế, trong 5 năm (2001 - 2005) cả nước xảy ra gần 1.000 vụ với hơn 23.000 người bị ngộ độc thực phẩm, trong đó có hơn 260 người chết. Năm 2005, xảy ra 150 vụ với hơn 4.300 người bị ngộ độc thực phẩm, làm chết hơn 50 người, tỷ lệ tử vong 2005 được xác nhận là tăng 90% so với năm. Mới đây, Cục Thú y Hà Nội và TP.HCM đã khảo sát thực phẩm động vật trên 2 địa bàn và phát hiện mẫu bị ô nhiễm vi sinh vật ở Hà Nội là 81% và TP HCM là 32%. Việt Nam nếu ước tính như vậy, nhà nước sẽ phải chi phí khoảng hàng trăm tỷ đồng cho công tác cứu chữa ngộ độc thức ăn. Ngày 7-8-2003, Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký Lệnh công bố Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm, đã được Quốc hội thông qua [21].
Thức ǎn gây ngộ độc thường là thức ǎn có nguồn gốc động vật như thịt gia súc gia cầm. Theo các thống kê dịch tễ học trên thế giới thì các thực phẩm nhiễm khuẩn thường là: Thịt và các chế phẩm thịt (thịt nghiền, pate, dồi...): 40-48%; Sữa bò, bánh kem: 2-8%; Cá: 6-8%; Trứng và bột trứng: 24-35%; Bánh kẹo: 16-20%...
Thức ǎn thực vật ít khi là nguyên nhân gây ngộ độc thức ǎn. Thực phẩm gây ngộ độc thức ǎn thường có độ ẩm cao, pH không axít, đặc biệt là thức ǎn đã nấu chín dùng làm thức ǎn nguội như món đông, patê, xúc xích, dồi tiết... [9].
Việc sử dụng thực phẩm không an toàn có thể gây ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người sử dụng, cũng như có tác động xấu đến đời sống kinh tế - xã hội, an ninh an toàn xã hội và hội nhập quốc tế. Ở nước ta, nguyên nhân của các vụ ngộ độc thực phẩm chủ yếu là do các vi sinh vật gây nhiễm. Nước ta phần lớn làm nông nghiệp, có nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, mà ở những nơi ấy việc chế biến thực phẩm không đảm bảo vệ sinh, người sản xuất chưa có ý thức về VSATTP. Bởi vậy, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm đang là vấn đề bức thiết ở nước ta. Với những lý do trên chúng tôi tiến hành thực hiện tiểu luận tìm hiểu về “Vi sinh vật gây ngộ độc thực phẩm và các biện pháp phòng tránh ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật” với mục đích:
Tìm hiểu về ngộ độc thực phẩm – nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm.
Tìm hiểu về các vi sinh vật gây ngộ độc thực phẩm.
Tìm hiểu thực trạng ngộ độc thực phẩm ở nước ta hiện nay.
Đề xuất một số biện pháp phòng ngừa ngộ độc thực phẩm cho người tiêu dùng.
CHƯƠNG 1: NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM VÀ VI SINH VẬT GÂY NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM
1.1. Ngộ độc thực phẩm
1.1.1. Khái niệm
Theo tiêu chuẩn thực phẩm Quốc tế (Codex) thì "thực phẩm là tất cả các chất đã hoặc chưa chế biến nhằm sử dụng cho con người bao gồm đồ ăn, uống, nhai, ngậm, hút và các chất được sử dụng để sản xuất, chế biến hoặc xử lý thực phẩm, nhưng không bao gồm mỹ phẩm và những chất chỉ được dùng như dược phẩm" [22].
Ngộ độc thực phẩm (NĐTP) hay còn gọi là trúng độc thức ăn là do ăn phải những thức ăn có chứa chất độc, thường xảy ra một cách đột ngột hàng loạt (nhưng không phải là các bệnh dịch do nhiễm khuẩn). Người bị ngộ độc thực phẩm có những triệu chứng của một bệnh cấp tính, biểu hiện bằng nôn mửa, ỉa chảy (riêng nhiễm độc tố của vi khuẩn độc thịt lại bị táo bón) và các triệu chứng khác đặc hiệu cho mỗi loại độc tố [5].
Theo các nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng thực phẩm có thể gây ngộ độc cấp tính và ngộ độc mãn tính. Ngộ độc cấp tính xảy ra liền sau khi ăn, cụ thể là những vụ ngộ độc tập thể. Còn ngộ độc mãn tính là tác hại về lâu dài khi dùng thường xuyên thực phẩm không an toàn, các chất độc hại tích tụ lâu ngày trong cơ thể gây tác hại lên chức năng thần kinh, tiết niệu, sinh dục, tiêu hóa... Mặc dù trước nay chưa có thống kê về mặt xã hội đối với tác hại của thực phẩm về ngộ độc mãn tính trên con người, tuy nhiên, tình trạng bệnh ung thư ngày càng gia tăng. Trước đây, ung thư thường xảy ra ở tuổi từ 50, nhưng hiện nay bệnh xuất hiện rất nhiều ở người trẻ, mà chế độ dinh dưỡng là một trong những yếu tố gây bệnh [16], [19].
1.1.2. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm
NĐTP do các nguyên nhân [5]:
Ngộ độc do nguồn gốc vi sinh vật (VSV) nhiễm vào thực phẩm.
Ngộ độc do thức ăn hư hỏng, ôi thiu (cũng có liên quan tới vi sinh vật).
Ngộ độc do thức ăn bản thân có chất độc.
Ngộ độc do hóa chất bổ sung hoặc nhiễm vào thức ăn.
Bảng 1: Nhóm nguyên nhân gây ra ngộ độc thực phẩm (%)
(Cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Bộ Y tế, 2005) [13]
Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Vi sinh vật
48,3
32,8
38,4
42,2
49,2
55,8
51,4
Hóa chất
11
17,4
16,7
25,2
19,3
13,2
08,3
Thực phẩm có độc
06,4
24,9
31,8
25,2
21,4
22,8
27,1
Không rõ nguyên nhân
34,3
24,9
13,1
07,4
10,1
08,2
13,2
Trong các nguyên nhân trên thì nguyên nhân thứ nhất (do nhiễm vi sinh vật) thường chiếm tỷ lệ tương đối cao, nhưng tỷ lệ tử vong lại thấp, ngược lại, nhiễm độc do các nguyên nhân khác có tỷ lệ thấp nhưng nguy cơ tử vọng lại cao.
1.2. Ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật
1.2.1. Cơ chế gây ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật
Vi sinh vật gây ngộ độc thực phẩm thông qua các độc tố của chúng. Độc tố do vi sinh vật sinh ra có hai loại: nội độc tố và ngoại độc tố. Ngoại độc tố (exotoxin) là chất độc do vi sinh vật sinh ra trong tế bào rồi tiết ra ngoài tế bào. Các ngoại độc tố có tính độc cao đối với cơ thể động vật. Nội độc tố (endotoxin) là độc tố được tạo thành liên kết với các thành phần của tế bào vi sinh vật, chỉ giải phóng ra ngoài khi tế bào chết và bị phân hủy. Nội độc tố có tính độc yếu hơn ngoại độc tố, nhưng lại bền với nhiệt, ở nhiệt độ sôi của nước không bị mất hoạt tính.
Căn cứ vào sự có mặt của độc tố trong thức ăn, người ta chia ngộ độc thực phẩm làm 2 dạng:
Vi khuẩn tả tiết độc tố trong ruột
Ngộ độc do ăn phải thức ăn có độc tố của vi sinh vật mà không cần có mặt các tế bào sống của chúng (ngoại độc tố). Ngộ độc thức ăn dạng này là ngộ độc do độc tố vi sinh vật điển hình, thường là ăn phải một lượng lớn ngoại độc tố có trong thức ăn.
Ngộ độc do ăn phải một lượng lớn vi sinh vật chủ yếu là vi sinh vật có trong thức ăn. Những vi sinh vật này có khả năng sinh nội độc tố khi vào trong cơ thể chúng tiếp tục sinh trưởng và phát triển. Những vi sinh vật này bị chết, sinh khối của chúng bị tự phân và giải phóng độc tố gây ngộ độc. Ngộ độc theo dạng này gọi là ngộ độc thức ăn có điều kiện hay là ngộ độc thực phẩm nhiễm khuẩn - độc tố (toxincoinfection).
Nguồn gây ngộ độc thức ăn từ vi sinh vật chủ yếu là từ vi khuẩn, khác với các mầm bệnh nhiễm khuẩn là chúng có khả năng sống và phát triển mạnh trong thực phẩm. Khi đó thực phẩm không thấy thay đổi về các tính chất cảm quan rõ rệt. Trong quá trình sống ở thực phẩm vi sinh vật sinh ra độc tố (toxin). Ăn phải thức ăn này độc tố sẽ qua thành dạ dày và màng ruột vào máu gây ngộ độc. Có một số trường hợp vi sinh vật vào cơ thể sẽ phát triển tăng thêm và làm cho bệnh tình trầm trọng hơn [4], [5].
1.2.2. Nguồn lây nhiễm vi sinh vật vào thực phẩm
- Do bản thân thực phẩm (gia cầm, gia súc đã bị bệnh trước khi giết mổ). Thịt của những con vật ốm yếu, mang bệnh sẽ có những vi khuẩn mang bệnh.
- Do những yếu tố thuận lợi làm ô nhiễm thực phẩm như:
+ Môi trường bị ô nhiễm VSV từ đất, nước, không khí và các dụng cụ không sạch ô nhiễm vào thực phẩm, thực phẩm bị hỏng, ôi thiu, ô nhiễm chéo vào thực phẩm.
+ Do tiếp xúc của chuột, ruồi, gián, hoặc người tiếp xúc với thực phẩm bị nhiễm khuẩn.
+ Qúa trình chế biến, giết mổ hoặc sơ chế không đảm bảo vệ sinh sản phẩm sẽ bị nhiễm VSV.
+ Do nấu nướng và đun lại thức ăn chưa đạt yêu cầu làm cho vi khuẩn vẫn tồn tại trong thực phẩm hoặc bảo quản không đủ lạnh hoặc không đủ nóng làm cho vi khuẩn vẫn phát triển được [5], [25].
1.3. Các vi sinh vật gây ngộ độc thực phẩm
Các tác nhân gây bệnh là vi sinh vật bao gồm:
- Các tác nhân gây bệnh là vi khuẩn thường gặp bao gồm: Salmonella, Campylobacter, Proteus, Escherichia coli, vibri cholerae, Vibrio parahaemolyticus, Yersinia enterocolitica, Listeria, Brucella, Clostridium botulinum, Clostridium perfringens, Bacillus cereus...
- Các virus: Hepatitis A, Hepatitis E, nhóm virus Norwalk, Rotavirus, Poliovirus.
- Các loài vi nấm: Aspergillus flavus, Fusarium...
- Các ký sinh trùng và động vật nguyên sinh: Entamoeba histolytica, giun, sán, đơn bào...
1.3.1. Ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn
Vi khuẩn có ở mọi nơi xung quanh chúng ta. Phân nước thải, rác bụi, thực phẩm tươi sống là ổ chứa của nhiều loại vi khuẩn gây bệnh. Trong không khí và ngay ở trên cơ thể người cũng có hàng trăm loại vi khuẩn, cư trú ở da (đặc biệt là ở bàn tay), ở miệng, ở đường hô hấp, đường tiêu hóa, bộ phận sinh dục, tiết niệu. Thức ăn chín để ở nhiệt độ bình thường là môi trường tốt cho vi khuẩn trong không khí xâm nhập và phát triển rất nhanh, đặc biệt các thức ăn còn thừa sau các bữa ăn chỉ cần một vài giờ là số lượng vi khuẩn có thể sinh sản đạt đến mức gây ngộ độc thực phẩm [3].
1.3.1.1. Ngộ độc thức ăn do độc tố của vi khuẩn
Trong những bệnh ngộ độc thức ăn nguy hiểm nhất là ngộ độc do độc tố của vi khuẩn là độc thịt, rồi đến của tụ cầu khuẩn.
Ngộ độc do độc tố của vi khuẩn độc thịt (botulizm)
Vi khuẩn độc thịt có tên là Clostridium botulinum. Vi khuẩn này ở thịt sinh độc tố botulin (có nghĩa là giò chả), vì vậy vi khuẩn này được gọi là vi khuẩn độc thịt. Ngộ độc do độc tố của vi khuẩn độc thịt cực kỳ nguy hiểm. Vi khuẩn này sinh độc tố có độc lực mạnh hơn 7 lần so với độc lực của vi khuẩn uốn ván. Loại độc tố này không bị các enzim tiêu hóa và môi trường axit dạ dày phá hủy. Triệu chứng ngộ độc rất nặng và có tỷ lệ tử vong cao.
Là trực khuẩn hình que và sinh bào tử lớn hơn đường kính của tế bào, hình dáng tương tự cái vợt tenis. Clostridium botulinum sống kỵ khí rất nghiêm ngặt, sinh trưởng mạnh ở khoảng 20 – 370C, ở dưới 150C nó vẫn phát triển nhưng ít tạo thành độc tố, lên men được một số đường và tạo axit, sinh hơi. Clostridium botulinum chịu lạnh tốt, nhạy cảm với môi trường axit, với pH dưới 4,5 sẽ không phát triển được. Các tế bào sinh dưỡng của Clostridium botulinum bị chết ở 800C sau 30 phút, nhưng bào tử lại rất bền ở nhiệt độ cao: 1000C bào tử chết sau 6 giờ, ở 1050C chết sau 2 giờ và ở 1200C chết sau 20 phút. Ở điều kiện lạnh bào tử giữ nguyên được khả năng nảy mầm trong nhiều tháng.
Clostridium botulinum phổ biến rộng rãi ở trong đất, trong bùn ao hồ, trong phân chuồng, trong ruột cá và các động vật máu nóng, trong thịt và trên hoa quả. Ngoài ra vi khuẩn này còn thấy ở nguyên liệu và sản phẩm thực phẩm. Do tính kỵ khí nghiêm ngặt nên trực khuẩn độc thịt chỉ sinh trưởng ở bên trong các xúc thịt lớn, bên trong đồ hộp thịt, cá và xúc xích, lạp xường và trong các đồ hộp khác đã đóng kín. Trong đồ hộp chúng phát triển sinh hơi (CO2 và H2) làm cho đồ hộp bị phồng.
Clostridium botulinum có 6 tip huyết thanh A, B, C, D, E và F. Trong đó có 3 típ gây ngộ độc là A, B, E (độc nhất là típ A rồi đến típ B). Khi vi khuẩn rơi vào thực phẩm tạo điều kiện ký khí sẽ phát triển và sinh độc tố. Khi ăn phải thức ăn có độc tố thịt (hoặc có thể là cá hoặc rau quả giàu protein) sẽ bị ngộ độc. Thời gian phát bệnh sau khi ăn là vài giờ đến vài ngày tùy thuộc vào lượng độc tố ăn phải nhiều hay ít. Độc tố này chủ yếu làm tác động đến hệ thần kinh não bộ, ngoài ra hệ tiêu hóa, hệ tuần hoàn và hô hấp cũng bị tê liệt, dẫn đến tử vong. Tỷ lệ tử vong do nhiễm botulin thường rất cao (khoảng 60% – 70%) [5].
Ngộ độc do độc tố của tụ cầu khuẩn (Staphylococcus)
Có thể nói tụ cầu khuẩn là một trong những vi khuẩn nổi tiếng nhất: được các nhà khoa học nổi tiếng quan tâm nghiên cứu, tỉ lệ gây bệnh rất cao, có khả năng gây nhiều bệnh nặng cũng như đề kháng kháng sinh rất mạnh. Tụ cầu khuẩn (tiếng Anh: Staphylococcus có nguồn từ tiếng Hy lạp Staphyle nghĩa là chùm nho) là các cầu khuẩn Gram dương không tạo thành bào tử có đường kính khoảng 1 µm, không di động và sắp xếp theo mọi hướng và thường tạo thành cụm (tụ) trông giống như chùm nho. Staphylococcus có khă năng chịu được khô hạn và sinh sắc tố trên môi trường nuôi cấy. Nhiệt độ tối thích cho sinh trưởng của chúng là 370C, độc tố tạo thành ở trên 40C. Tụ cầu khuẩn chịu được nhiệt độ tới 700C, ở 80 – 850C chết sau 20 - 25 phút. Chúng là các thể hiếu khí tùy tiện, có thể phát triển được cả trong điều kiện hiếu khí và cả trong kỵ khí. Môi trường thích hợp cho chúng phát triển là đủ cả độ ấm và pH ở vùng trung tính, axit hoặc kiềm nhẹ, ở pH dưới 4 phát triển bị ngừng. Tụ cầu khuẩn chịu được trong dung dịch muối tới 12% và đường tới 50%. Do vậy chúng có thể tồn tại trong một số bánh kem có nồng độ đường cao, trong pho mát mặn, trong kem sữa, trong các món ăn đã chế biến từ thịt cá [6].
Tụ cầu khuẩn có ở rải rác khắp nơi trong tự nhiên: không khí, đất, nước, trên da, trong họng... và chỉ gây ngộ độc khi hình thành độc tố ruột (Enterotoxin). Tụ cầu khuẩn phát triển trên thực phẩm sẽ sinh ra ngoại độc tố ruột (enterotoxin). Độc tố ruột bền với nhiệt, chịu được ở môi trường axit với pH = 5 và cồn. Ở nhiệt độ thấp chất này vẫn giữ được nhiệt độ sau 2 tháng. Để phá hủy hoàn toàn ngoại độc tố do tụ cầu vàng sinh ta phải đun sôi thực phẩm liền trong 2 giờ hoặc hấp ở áp lực hơi nước 1200C trong 30 phút. Độc tố ruột sinh ra trên các cơ chất khác nhau là không giống nhau về thời gian và số lượng tạo thành. Ở điều kiện bình thường trong các sản phẩm thực phẩm tụ cầu khuẩn phát triển và tạo thành độc tố khá nhanh.
Thực phẩm nhiễm tụ cầu khuẩn thường khó nhận biết bằng cảm quan. Điều này rất nguy hiểm vời người tiêu dùng. Cũng cần chú ý rằng ngộ độc thức ăn do tụ cầu không phải là một nhiễm trùng, mà là một nhiễm độc do ngoại độc tố đơn thuần giống như ngộ độc botulizm. Con người rất nhạy cảm với độc tố của tụ cầu vàng, có tới 90% số người ăn thức ăn nhiễm khuẩn bị ngộ độc. Bệnh xảy ra có khi lẻ tẻ, có khi cả một tập thể cùng bị một như một vụ dịch đã thông báo có trên 1000 học sinh đã cùng bị do ăn sữa bột. Người bệnh lợm giọng, bụng đau quặn, nôn mửa dữ dội, ỉa chảy, mệt mỏi rã rời, co giật, huyết áp hạ... nhưng ít khi dẫn đến tử vong [7].
Ngộ độc do độc tố của Bacillus cereus
Vi khuẩn Bacillus cereus là vi khuẩn hình que, Gram dương, sinh bào tử và chuyển động yếu, có nhiều trong đất và hiếu khí. Vi khuẩn sống ở đất, bụi, trong các hạt ngũ cốc và gia vị, trong rau quả và trong các sản phẩm thực phẩm hàng ngày. Nhiệt độ tối thích cho sinh trưởng là 370C, tối thiểu 3 – 50C, phát triển tốt nhất ở môi trường trung tính hoặc kiềm nhẹ. Bào tử chịu được ở nhiệt độ cao. Đôi khi vẫn thấy có bào tử ở những đồ hộp thực phẩm và sữa đã hấp thanh trùng.
Vi khuẩn Bacillus cereus không đòi hỏi các điều kiện dinh dưỡng đặc biệt, do vậy chúng dễ phát triển ở đa số thực phẩm. Nếu 1 g thực phẩm có trên 100 ngàn tế bào trực khuẩn này thì thực phẩm sẽ là nguy hiểm. Vi khuẩn phát triển trên thực phẩm sinh độc tố và gây ngộ độc. Người bị ngộ độc có biểu hiện nôn mửa, ỉa chảy, suy nhược toàn thân [20].
Các thực phẩm hay bị nhiễm Bacillus cereus như ngũ cốc, rau quả khô, khoai tây, sữa, bánh có kem. Gạo, gia vị và các thực phẩm đã chế biến như các sản phẩm thịt nướng, thịt khô, xúp, lòng đỏ trứng khô, xôi, cơm bị nhiễm vi khuẩn ở nhiệt độ môi trường sẽ sinh độc tố hoặc trong quá trình chế biến mất vệ sinh [10].
1.3.1.2. Ngộ độc do nhiễm khuẩn độc tố (Toxininfection)
NĐTP loại này chỉ xảy ra với điều kiện là ăn phải thức ăn với số lượng vi khuẩn sống khá lớn. Vì vậy ngộ độc kiểu này được gọi là ngộ độc do nhiễm khuẩn – độc tố hay là ngộ độc thức ăn có điều kiện. Loại ngộ độc này phần lớn là do vi sinh vật tự nhiên có trong thực phẩm. Các vi khuẩn mầm bệnh có thể phát triển được ở thực phẩm và cả ở trong cơ thể người.
Nhiễm khuẩn – độc tố có thời gian ủ bệnh ngắn (khoảng vài giờ). Thông thường phát bện sau khi ăn phải món ăn nhiễm khuẩn với số lượng lớn (từ 105 – 106 tế bào/1 g thức ăn). Khi ở trong cơ thể chúng phát triển làm tổn hại đến cơ quan trong cơ thể, có thể gây sốt và khi chúng bị chết tế bào bị phân hủy, nội độc tố giải phóng ra ngoài gây ngộ độc như kiểu ngộ độc đường tiêu hóa nói chung. Hiện nay, có rất nhiều bệnh ngộ độc do nhiễm khuẩn - độc tố, nhưng phổ biến nhất là nhiễm nhóm Salmonella, ngoài ra còn có: Proteus, vi khuẩn đường ruột nhóm coliform, Clostridium perfringens..[5].
Bệnh nhiễm khuẩn độc tố do Salmonella
Ngộ độc do Salmonella đã biết được từ rất lâu, lần đầu tiên cách đây hơn 100 năm, một người chết do bị ăn phải thịt bị nhiễm khuẩn. Ngộ độc gây ra bởi Salmonella được gọi là bênh salmonelloz. Có trên 2000 loại Salmonella khác nhau, trong đó có khoảng 1/10 loại gây nên ngộ độc thực phẩm hàng năm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây các vụ ngộ độc gây nên dịch thường do loại Salmonella enteritidis và Salmonella typhi.
Salmonella là trực khuẩn Gram âm, hiếu khí hoặc kỵ khí tủy tiện, không sinh bào tử, dễ mọc trên các môi trường thông thường. Nhiệt độ phát triển từ 5 – 470C, thích hợp nhất là từ 35 – 370C. pH có thể phát triển được là từ 4,5 – 9,0, thích hợp nhất ở pH = 6,5 – 7,5. Khi pH dưới 4 và trên 9 vi khuẩn có thể bị tiêu diệt. Khả nǎng chịu nhiệt của vi khuẩn kém: ở 50oC trong 1 giờ, ở 70oC trong 15 phút và 100oC trong 5 phút [15]. Như vậy diệt khuẩn thực phẩm bằng phương pháp Pasteur có tác dụng tốt. Các cách chế biến thức ǎn thông thường như sào nấu, luộc rán... có thể diệt khuẩn tốt hoặc cách làm chua như dầm giấm cũng là món ǎn tốt [13].
Ở nồng độ muối 6 - 8% vi khuẩn phát triển chậm và ở nồng độ muối là 8-19% sự phát triển của vi khuẩn bị ngừng lại. Tuy vậy với vi khuẩn gây ngộ độc thức ǎn chỉ bị chết khi ướp muối với nồng độ bão hòa trong một thời gian dài.
Khả nǎng gây ngộ độc thức ǎn của Salmonella cần có hai điều kiện:
- Thức ǎn phải bị nhiễm một lượng lớn vi khuẩn vì khả nǎng gây ngộ độc của Salmonella yếu.
- Vi khuẩn vào cơ thể phải phóng ra một lượng độc tố lớn. Vấn đề này phụ thuộc nhiều vào phản ứng cơ thể của từng người. Điều này giải thích hiện tượng nhiều người cùng ǎn một loại thức ǎn như nhau nhưng có người bị ngộ độc có người không bị, có người bị nhẹ, có người bị nặng... Thông thường thì nhưng người già, người yếu và trẻ em nhỏ bao giờ cũng bị nặng hơn.
Vi khuẩn Salmonella có thể sinh trưởng ở thực phẩm, nhưng không sinh độc tố ở đây. Chỉ khi chúng theo thức ăn vào trong ruột hoặc vào máu mới sinh độc tố. Chúng gây viêm mạc ruột. Tế bào của chúng bị chết, bị tự phân và độc tố được giải phóng. Độc tố có tác dụng dung giải mau, gâu tác động lên hệ thần kinh của huyết quản, giảm độ căng của huyết quản gây ỉa chảy... và làm giảm chức năng điều tiết của cơ thể [1].
Ngộ độc do nhóm Proteus
Vi khuẩn Proteus phân bố rộng rãi trong tự nhiên, trong ruột người và động vật. Chúng là các trực khuẩn nhỏ, không sinh bào tử, chuyển động. Nhiệt độ thích hợp cho phát triển của chúng là 25 – 370C. Vi khuẩn Proteus có hoạt tính proteaza nhẹ. Ngộ độc thực phẩm do Proteus thường xảy ra khi ăn phải thức ăn sau khi đã pha chế biến chín. Khi vi khuẩn xâm nhập vào thực phẩm chín, vi khuẩn không làm phân hủy protein đến giai đoạn thối rữa ôi thiu, nên tính chất cảm quan vẫn bình thường. Nhưng khi Proteus nhiễm vào thực phẩm sống thì làm trạng thái cảm quan thay đổi ngay vì Proteus tham gia vào quá trình làm thay đổi protein, kết hợp cùng với các vi khuẩn gây thối rữa khác [5].
Ngộ độc thực phẩm do Proteus chỉ xảy ra khi thức ăn có một lượng lớn vi khuẩn này trong thực phẩm. Tuy nhiên, tỷ lệ ngộ độc do loại này cũng khá cao do không đảm bảo các điều kiện vệ sinh trong khi chế biến thực phẩm, để thực phẩm sau khi đã chế biến ở nhiệt độ cao và sử dụng các thực phẩm quá hạn [25].
Ngộ độc do vi khuẩn đường ruột
Nhóm Coliform
Các vi sinh vật cư trú ở ruột già người và động vật thường được gọi là vi khuẩn đường ruột. Chúng gồm có nhóm Coliform (đại diện E.coli), nhóm Clostridium perfringens và nhóm cầu khuẩn (Entercoccus hoặc Streptococcus faecalis). Hình dáng của các vi khuẩn này phần nhiều là hình que (trực khuẩn) hoặc hình que ngắn (gần với hình cầu) và hình cầu. Các trực khuẩn này không sinh bào tử, chuyển động, sống kỵ khí, sinh trưởng trên nhiều loại môi trường. Nhiệt độ tối thích cho phát triển của chúng là 370C [9]. Các loài vi khuẩn đường ruột có sức chống chịu khá tốt với môi trường bên ngoài. ở trong nước, trong đất chúng có thể sống được vài tháng. Vì vậy chúng dễ nhiễm vào thực phẩm.
Bình thường, trong cơ thể người, vi khuẩn đường ruột có vai trò tích cực: tạo thành vitamin nhóm B, có tính đối kháng với các vi khuẩn gây bệnh. Tuy nhiên, khi cơ thể yếu mệt, ốm bệnh có thì chúng lại trở thành gây bệnh cho người. Nhiều trường hợp chúng phát triển trong thức ăn gây ngộ độc nhiễm khuẩn độc tố. Khi người ăn phải thức ăn có số lượng vi khuẩn lớn sẽ bị ngộ độc. Nguyên nhân do vi khuẩn tiếp tục phát triển trong cơ thể sinh độc tố, khi chết tế bào bị phân hủy, giải phóng độc tố ra ngoài. Bệnh phát sau khoản 5 – 8 giờ kể từ khi ăn cá, thịt, xa lát, sữa... có nhiều trực khuẩn này. Người bị ngộ độc do vi khuẩn đường ruột có triệu chứng nôn, mửa, ỉa chảy, sốt [24].
1.3.2. Ngộ độc thực phẩm do vi nấm
Nấm mốc thường gặp trong môi trường sống, nhất là ở trong các lô ngũ cốc, quả hạt có dầu dự trữ trong điều kiện khí hậu nóng ẩm như ở nước ta. Nấm mốc nhiễm vào lương thực – thực phẩm, gặp điều kiện thuận lợi như độ ẩm, nhiệt độ thích hợp sẽ phát triển và có thể sinh độc tố. Mỗi loài nấm mốc có thể sinh ra một loại hoặc nhiều loại độc tố, nhưng cũng có khi nhiều loài mốc sinh ra một loại độc tố. Độc tố do nấm mốc sinh ra rất đa dạng và phức tạp về cấu trúc cũng như về cơ chế bệnh lý. Aflatoxin là độc tố vi nấm được biết rõ nhất do nấm Aspergillus Flavus và Aspergillus Parasiticus sản sinh ra trong ngô, đậu và lạc ẩm mốc có thể gây ung thư gan.
Ngoài ra có trường hợp ngộ độc do ăn phải độc tố của nấm Fusarium. Nấm này nhiễm vào hạt và bột dễ phát triển và sinh độc tố. Chất độc này bền với nhiệt, khi nấu không bị phá hủy. Triệu chứng ngộ độc là phù thũng, đau xé ở thực quản và ở miệng. Ngộ độc do độc tố nấm mốc ít khi dẫn đến tử vong nhưng độc tố tích tụ trong cơ thể lâu dài sẽ gây bệnh nguy hiểm [6].
1.3.3. Ngộ độc thực phẩm do virus
Những virus sống trong đường tiêu hóa của người (virus entersiques humains) được thải ra ngoài theo phân và nhiễm vào thực phẩm, từ đó lây nhiễm vào đường tiêu hóa của người khác. Thực phẩm làm trung gian đem virus vào cơ thể. Những virus này được gọi là virus thực phẩm.
Có ba nhóm virus thực phẩm, bao gồm: virus gây rối loạn tiêu hóa (thường gặp Rotavirus và Norovirus), virus thực phẩm gây viêm gan (đại diện virus Hepatis virut A), và virus thực phẩm gây những bệnh khác [10].
Virus chỉ phát triển trong cơ thể và thuốc kháng sinh không có tác dụng diệt virus.
Virus có thể chịu được rất dễ dàng những điều kiện khắc nghiệt của các phương pháp đông lạnh và trữ lạnh, là những kỹ thuật thường hay được áp dụng để làm chậm lại sự phát triển của vi khuẩn. Virus chỉ có khả năng chịu đựng được một số chất sát trùng thông thường cũng như độ pH axit của môi trường. Chỉ cần từ 10 – 100 virus là có thể gây thành bệnh được rồi. Bởi vậy, hiện nay tỷ lệ người bị ngộ độc do virus đang ngày càng tăng [16].
Các thực phẩm thường bị nhiễm virus như: sò hến sống trong nước, sữa, bánh trái, các loại trái cây nhỏ như dâu tây... Đa số các trường hợp ngộ độc thực phẩm do virus đều bắt nguồn từ con người mà ra. Vì vậy, cần phải chú trọng đến khâu vệ sinh cá nhân của người làm việc cũng như khung cảnh chung nơi sản xuất....[18].
1.3.4. Ngộ độc thực phẩm do ký sinh trùng
Trong một số trường hợp ký sinh trùng đơn bào có thể xâm nhập vào thực phẩm và gây ngộ độc. Chúng là các sinh vật sống mà cơ thể chỉ gồm một tế bào như: Amip, Entamobela hystolytica,... Biểu hiện ngộ độc xuất hiện khoảng 4 giờ sau khi ăn thức ăn hay nước uống có nhiễm ký sinh trùng [11].
Nhiễm ký sinh trùng ở thực phẩm nguy hiểm nhất là nhiễm các nang sán, trong đó có sán lá gan, sán lá phổi. Ăn thức ăn chưa chín kỹ có thể bị nhiemx giun sán vào cơ thể, vì các loài trứng giun sán vẫn có thể sống trong các thực phẩm đun nấu, đặc biệt là ăn sống rau quả không rửa kỹ, thịt tái, cá sông...[23].
1.3.5. Ngộ độc do ăn phải thức ăn bị hư hỏng do nhiễm vi sinh vật
Thức ăn là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể. Nhưng nếu thức ăn bị biến đổi thành những chất khác, không mang lại lợi ích cho cơ thể về năng lượng và tạo tế bào, ngược lại tạo ra các chất độc hại cho cơ thể, dẫn đến xuất hiện những triệu chứng và dấu hiệu của ngộ độc sau khi ăn, uống những thức ăn đó được gọi là ngộ độc thực phẩm do thức ăn biến chất.
Thực phẩm để lâu sẽ dần bị hư hỏng. Nguyên nhân gây hư hỏng là do:
- Tự thân của thực phẩm do trong các tế bào, tổ chức của các thực phẩm này đều có các enzim. Vì vậy, trong thời gian cất giữ thực phẩm nói chung – các enzim này hoạt động làm cho các nguồn dinh dưỡng có trong đó bị thủy phân thành các chất đơn giản có mùi và gây độc
- Thực phẩm, thức ăn bị nhiễm các vi sinh vật. Chính hoạt động của các vi sinh vật này đã tiết các enzym phân giải các chất dinh dưỡng tạo thành những chất chuyển hóa trung gian gây độc.
- Do tác động của môi trường như: nhiệt độ, ánh sáng, oxy, bụi môi trường cũng làm cho thực phẩm bị biến chất.
Sự hư hỏng thức ăn gắn liền với quá trình phân hủy các hợp chất protein và lipit có trong thức ăn. Quá trình này gọi là sự thối rữa và hư hỏng thức ăn. Kết quả làm cho thực phẩm có mùi khó chịu, ôi thiu khó ăn, giảm giá trị dinh dưỡng và có thể gây ngộ độc
Trong các sản phẩm thịt cá biển, tôm tép, sò hến... có chứa nhiều histamin là chất gây dị ứng mạnh. Có nhiều trường hợp người ăn các món ăn thủy sản này gây ngộ độc hàng loạt.
Gần đây theo một báo cáo của Trung tâm An toàn Thực phẩm và Dinh dưỡng Hoa Kỳ (FDA), đã từng xảy ra một vụ ngộ độc thực phẩm tại hai trường mẫu giáo ở bang Virginia do ăn cơm rang thịt gà chế biến từ cơm nguội để từ hôm trước. Thủ phạm của vấn đề này là một loại vi khuẩn có tên là Bacillus cereus. Vi khuẩn Bacillus cereus có sẵn trong gạo do bị nhiễm từ đất. Quá trình nấu gạo thành cơm không tiêu diệt được vì khuẩn này vì nó đã hình thành bào tử tự vệ. Cơm để nguội chính là điều kiện tốt để bào tử của chúng hoạt động trở lại và sản sinh ra một số độc tố. Vì vậy chúng ta không nên ăn cơm đã để nguội trong một thời gian dài..
Bảng 2: TÓM TẮT MỘT SỐ NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM THƯỜNG GẶP
DO VI SINH VẬT
NGUYÊN NHÂN
THỰC PHẨM
TRIỆU CHỨNG NGỘ ĐỘC
Salmonella
Trứng, thịt gia cầm nấu chưa chín.
Sốt, tiêu chảy, đau bụng, nôn.
Campylobater
Sữa tươi, nước chưa khử trùng hoặc đun sôi, thịt gia cầm nấu chưa chín.
Buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy, phân có máu.
V. cholerae
(phẩy khuẩn tả)
Sử dụng nguồn nước ô nhiễm để làm kem, đá hoặc tưới rửa rau quả. Nấu chưa chín hoặc ăn sống cá, nhuyễn thể sống ở nguồn nước bị ô nhiễm.
Tiêu chảy phân lỏng nhiều nước kèm theo nôn và đau bụng.
Clostridium botulinum(vikhuẩn kị khí)
Thực phẩm đóng hộp bị ô nhiễm trong quá trình chế biến: cá, thịt, các loại rau.
Giảm trương lực cơ, đặc biệt là ở mắt (nhìn mờ) và ở phổi (gây khó thở).
Escherichia Coli
Thịt, cá, rau, sữa tưới, nước bị ô nhiễm phân người.
Tiêu chảy, có loại gây triệu chứng giống hội chứng lỵ hoặc phân có máu, bệnh tả.
Staphylococcus aureus (tụ cầu)
Sản phẩm từ sữa, thịt gia cầm nấu chưa chín. Nhiễm trùng từ mũi, tay và da lây sang thức ăn chín.
Buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, không sốt, mất nước nặng.
Shigella (lỵ)
Sữa và thực phẩm bị ẩm ướt, nhiễm phân.
Tiêu chảy, phân có máu, sốt trong những trường hợp nặng.
Bacillus cereus
Ngũ cốc, rau, sữa, thịt quay hoặc rán.
Đau bụng, tiêu chảy, buồn nôn.
Độc tố vi nấm
(Aflatoxin)
Đậu, lạc, vừng, hạt hướng dương và các loại ngũ cốc.
Gây rối loạn chức năng gan có thể dẫn đến ung thư.
Ngộ độc nấm
Nấm độc màu vàng sáp (Gyromitra)
Ngộ độc xảy ra 8-10 giờ sau khi ăn nấm. Đau bụng, nôn, sau đó xuất hiện vàng da và có thể dẫn đến tử vong.
Nấm độc màu nhạt (Amanita phalloides)
Xảy ra 9-11 giờ sau khi ăn, gây rối loạn dạ dày, ruột kèm theo đau bụng, vô niệu, gan to, hôn mê, có thể dẫn đến tử vong.
Nấm đỏ (Amanita muscaria)
Xảy ra sau 1-6 giờ sau khi ăn, gây toát mồ hôi, chảy dãi, nôn mửa, tiêu chảy, co đồng tử, trường hợp nặng có thể hôn mê, co giật.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM
Có thể nói vấn đề ngộ độc thực phẩm trong nước ta đang ở mức báo động, khi tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm và việc sử dụng hóa chất, phụ gia phẩm màu tiếp tục tràn lan khiến những vụ ngộ độc xảy ra gần như liên tục.
Lên tiếng tại một cuộc hội thảo mới đây với chủ đề “An tòan thực phẩm – thực trạng và giải pháp”, PGS.TS Trần Đáng - Cục trưởng Cục Vệ sinh An tòan Thực phẩm Việt Nam cho biết: “Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đang là vấn đề vấn đề nóng, xảy ra không chỉ ở những xứ kém phát triển mà ngay cả tại các nước phát triển vẫn thường xuyên xảy ra tình trạng ngộ độc thực phẩm” [21].
Chẳng hạn như tại Mỹ, mỗi năm bình quân có 5 ngàn người tử vong vì ngộ độc thực phẩm. Còn tại Nhật Bản, bình quân cứ 100 ngàn dân thì có 40 người bị ngộ độc thực phẩm. Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê của các cơ quan chức năng, từ năm 1999 - 2002 cả nước có gần 20.000 người bị NĐTP; gần 300 người trong số này tử vong. Trong số đó, tình trạng ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật là nghiêm trọng nhất [22].
Theo cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế) cho biết: Chỉ tính riêng 7 tháng đầu năm 2008 cả nước xảy ra 106 vụ ngộ độc thực phẩm đã làm cho tổng số người ngộ độc là 4.718 ngưởi, trong đó hơn 3.670 người phải nhập viện điều trị và 43 người tử vong. Cục An toàn vệ sinh thực phẩm cũng cho biết, các vụ ngộ độc chủ yếu xảy ra trong gia đình với hơn 55% số vụ, tiếp đó là bếp ăn tập thể và các đám cưới, giỗ, đặc biệt ngộ độc do thức ăn đường phố lại chiếm thấp nhất, chỉ có 6,6% số vụ. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm được xác định là do vi sinh vật (chiếm 60%), còn lại là do thực phẩm có độc hay do hóa chất [12].
Việc chế biến thực phẩm không bảo đảm vệ sinh, người sản xuất chưa ý thức về về sinh an tòan thực phẩm, tình trạng sử dụng chất tăng trưởng trong chăn nuôi, phụ gia thực phẩm không rõ nguồn gốc tràn vào trong nước qua đường biên giới… là nguyên nhân chính khiến những vụ ngộ độc thực phẩm liên tục xảy ra tới mức báo động.
Vấn đề nan giải ở nước ta hiện nay là chúng ta không kiểm soát được các bếp ăn tập thể, bếp ăn ở khu công nghiệp; việc nuôi trồng, chăn nuôi gia súc gia cầm, sản xuất, chế biến thực phẩm chưa bảo đảm an toàn; tình trạng thực phẩm không đảm bảo chất lượng, cũng như hóa chất, phụ gia thực phẩm không rõ nguồn gốc tràn vào trong nước qua đường biên giới là rất nguy hiểm; tình trạng sử dụng các hóa chất để giữ thực phẩm tươi lâu; việc sử dụng các chất tăng trưởng trong chăn nuôi khá phổ biến...
Nguyên nhân của những bất cập trong công tác quản lý về VSATTP lâu nay là do trong nước không có bộ máy chuyên nghiệp, không có lực lượng thanh tra chuyên về thực phẩm, mà Thanh tra y tế phải kiêm nhiệm. Do vậy, nhà nước cần thành lập một lực lượng thanh tra chuyên về thực phẩm. Đồng thời cũng cần thiết ban hành các luật VSATTP một cách cụ thể và chi tiết để người dân thực hiện. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền để nâng cao ý thức VSATTP của hai đối tượng là người tiêu dùng và nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm; xây dựng hệ thống giám sát ngộ độc thực phẩm; đầu tư, nâng cấp các labo xét nghiệm, kiểm nghiệm; phải tiến tới chỉ tiêu 100% rau, thịt, thực phẩm bày bán trên thị trường sạch, an toàn...
Ngày 11/7/2008 vừa qua, xét báo cáo của Bộ Y tế về kết quả thực hiện "Tháng hành động vì chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2008", Thủ tướng chính phủ đã yêu cầu Bộ Y tế, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với các cơ quan liên quan, tập trung triển khai các biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng ngộ độc thực phẩm tập thể một cách hiệu quả. Thủ tướng Chính phủ cũng lưu ý, Bộ Y tế và các địa phương tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt đối với các bếp ăn tập thể, cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, thức ăn phục vụ các khu công nghiệp, trường học... đồng thời, cương quyết xử lý các sai phạm
Hơn 1.000 công nhân Công ty TNHH NOBLAND bị ngộ độc thức ăn hồi tháng 12/2006
Cơm nhiễm khuẩn Bacillus cereus không
hề có biểu hiện gì khác thường về mùi
vị, màu sắc nên không thể nhận biết
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP PHÒNG TRÁNH NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM DO VI SINH VẬT
Thế giới vi sinh vật trong tự nhiên rất phong phú, trong đó có nhiều loài làm hư hỏng thực phẩm và có những loài gây bệnh dễ nhiễm vào thực phẩm, đặc biệt ở nước ta khí hậu nóng và ẩm – là hai yếu tố rất thuận lợi cho các vi sinh vật này phát triển. Vì vậy, công tác vệ sinh thực phẩm cần phải hạn chế một cách hữu hiệu những vi sinh vật có hại đối với thực phẩm và người tiêu dùng.
Ở đây chúng tôi xin đưa ra một số biện pháp phòng tránh và hạn chế nguy cơ ngộ độc thực phẩm cụ thể:
- Phải quản lý các lò giết mổ kể cả các lò mổ lớn và lò mổ tư nhân kiểu gia đình. Các lò mổ phải đạt được các yêu cầu vệ sinh và thực hiện đúng các quy định về thú y.Các con vật ốm yếu bị bệnh không được đem giết mổ làm thức ăn. Cần có các văn bản pháp quy về thú y ở đây cần phải thực hiện như là các luật định. Bên cạnh đó cũng cần chú ý tới vấn đề thuốc bảo vệ thực vật với thực phẩm.
- Cần chú trọng giữa vệ sinh thực phẩm và vệ sinh môi trường xung quanh nơi chế biến. Giữ khu vực chế biến luôn khô giáo, sạch sẽ.
- Các chủng vi sinh vật sử dụng trong chế biến thực phẩm không được sinh ra độc tố hay gây bệnh. Nếu phát hiện chủng vi sinh vật có nguy cơ gây ngộ độc thì tuyệt đối không sử dụng
- Các nguyên liệu lương thực – thực phẩm (chủ yếu là các loại hạt, bột, khô dầu) không được để nấm mốc phát triển. Nấm m ốc phát triển sẽ sinh độc tố (aflatoxin) gây ngộ độc thực phẩm.
- Lựa chọn những phương pháp xử lý, bảo quản thực phẩm thích hợp để giữ được chất lượng, hạn chế tổn hao các chất dinh dưỡng và an toàn vệ sinh thực phẩm tránh sự xâm nhiễm của các vi sinh vật.
- Sản phẩm còn tươi tốt được đựng trong các thùng đồ chứa đựng sạch sẽ với các chất sát khuẩn. Tốt nhất nên sử dụng thực phẩm khi còn tươi, khi mới chế biến.
- Tùy theo tính chất của sản phẩm thực phẩm có thể áp dụng các phương pháp bảo quản sau: bảo quản ở nhiệt độ thấp, bảo quản bằng cách thay đổi pH, bảo quản ở trạng thái vô trùng, bảo quản ở trạng thái khô, bảo quản bằng ướp muối-đường...
- Nên tiến hành bảo quản thực phẩm ở ngay thời kỳ đầu khi số lượng vi sinh vật còn ít, vi sinh vật chưa kịp thích nghi. Tốt nhất nên tiệt khuẩn trong thời gian này với số lượng vi sinh vật càng ít, hiệu quả càng cao.
- Phải nấu nướng các món ăn chín kỹ và ăn nóng, cần phải cách ly thức ăn đã nấu chín với các sản phẩm chưa chế biến, nhất là khi có nghi ngờ về nhiễm khuẩn.
- Nâng cao ý thức mỗi người về vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện rửa tay sạch sẽ trước khi ăn. Vệ sinh khu vực nấu nướng và các dụng cụ trước và sau khi chế biến cũng là một phương pháp hiệu quả hạn chế sự xâm nhiễm của vi sinh vật.
- Giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm cho người sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng. Đồng thời cần tiến hành kiểm tra, thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh và tieu dùng sản phẩm thực phẩm.
KẾT LUẬN
Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đang là vấn đề vấn đề nóng, xảy ra không chỉ ở những xứ kém phát triển mà ngay cả tại các nước phát triển vẫn thường xuyên xảy ra tình trạng ngộ độc thực phẩm.
Ngộ độc thực phẩm có thể do các nguyên nhân sau: thức ăn bị hư hỏng, vi sinh vật xâm nhiễm, hóa chất hay bản thân thực phẩm chứa chất độc. Trong đó phần lớn số ca ngộ độc thực phẩm có nguyên nhân là do độc tố của vi sinh vật xâm nhiễm vào thực phẩm. Các vi sinh vật thường xâm nhiễm vào thực phẩm gây ngộ độc thực phẩm bao gồm: vi khuẩn (hay gặp là Salmonella, Proteus, Escherichia coli, Clostridium botulinum... ), virus, vi nấm, các ký sinh trùng và động vật nguyên sinh. Các vi sinh vật này xâm nhiễm vào thực phẩm sẽ sinh ra các độc tố (toxin) là nguyên nhân gây ra hiện tượng ngộ độc thực phẩm.
Hiện nay, kiến thức, ý thức về đảm bảo VSATTP của người tiêu dùng và cả nhà sản xuất, kinh doanh chưa cao - đây là nguyên nhân chính của phần lớn các ca ngộ độc thực phẩm. Đặc biệt về phía người tiêu dùng, đại bộ phận nhận thức kém về vệ sinh trong ăn uống, nhiều người ngồi ăn uống ở những hàng quán vỉa hè nằm cạnh những chỗ mất vệ sinh như miệng cống, hố ga... Ngoài ra, chúng ta chưa có ý thức tốt về việc rửa tay sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn. Vì vậy cần nâng cao ý thức của người tiêu dùng nhằm hạn chế nguy cơ ngộ độc thực phẩm.
KIẾN NGHỊ
1. Tăng cường giám sát, kiểm tra, xử phạt hành vi thiếu vệ sinh trong kinh doanh thức ăn chế biến thực phẩm.
2. Phối hợp nhiều ngành, các cấp chính quyền, toàn dân trong thực hiện VSATTP và tuyên truyền, phổ biến kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như trách nhiệm của người kinh doanh trong việc bảo đảm vệ sinh an tòan thực phẩm hạn chế ngộ độc.
3. Giáo dục và tuyên truyền quyền lợi, nghĩa vụ, của người tiêu dùng trong việc sử dụng thực phẩm an toàn, vệ sinh, lành, ngon, đủ chất dinh dưỡng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Nhật An, Việt Hoa (2007), Công nghệ thực phẩm, NXB trẻ, Hà nội.
Nguyễn Lân Dũng và cộng sự (2000), Sinh học vi sinh vật, NXB Giáo dục.
Nguyên Tiến Dũng (2008), Phương pháp kiểm nghiệm vi sinh vật trong thực phẩm, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM.
Trương thị minh Hạnh (2008), Sinh học thực phẩm, NXB Đà nẵng.
Lương Đức Phẩm (2000), Vi sinh vật học và an toàn thực phẩm, NXB Nông nghiệp, Hà nội.
Lương Đức Phẩm (2004), Công nghệ vi sinh vật, NXB Nông nghiệp, Hà nội.
Nguyễn Xuân Phương, Nguyễn Văn Thoa (2006), Cơ sở lý thuyết và kỹ thuật sản xuất thực phẩm, NXB Giáo dục, Hà nội.
Lương Thị Kim Tuyến (2007), Lý thuyết dinh dưỡng, NXB Đại học sư phạm, Hà nội.
Nguyễn Thị Tuyết (2006), Giáo trình thương phẩm hàng thực phẩm, NXb Khoa học và kỹ thuật, Hà nội.
Phạm Văn Ty, Vũ Nguyên Thành (2007), Công nghệ sinh học, NXB Giáo dục, Hà nội, tập 5.
Tiếng Anh
Barbara A. Bowman, Robert M, Russel (2001), Present knowledge in nutrition (eigth edition) ILSI Press, Washington, DC.
Internet
Đ3
êu_nguoi_tu_vong_vi_ngo_doc_thuc_pham-10-28493.html
10_nguyentac.htm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ngo doc.doc