Tài liệu Đề tài Văn hóa đạo đức kinh doanh toàn cầu: LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây ngày càng có nhiều công ty,doanh nghiệp quan
tâm đến vấn đề đạo đức kinh doanh để định hướng cho các hành vi của mình và đảm bảo rằng những họat động của họ phù hợp với những tiêu chuẩn trong nước
cũng như quốc tế.Nhiều giả thuyết đã được đưa ra để thiết lập một hệ thống các
tiêu chuẩn đạo đức toàn cầu nói chung. Khi áp dụng cho kinh doanh trong nước
hay trong kinh doanh toàn cầu, các giá trị chung như : trung thực, liêm chính, công
bằng, và vô tư … góp phần tạo nên một hệ thống đạo đức. Khái niệm đạo đức
thương trường đã có nền móng tự hàng nghìn năm trước.
Đạo đức kinh doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất cả các thành viên trong các tổ chức kinh doanh (hộ gia đình, công ty, xí nghiệp, tập đoàn) như : Ban giám đốc, các thành viên Hội đồng quản trị, công nhân viên chức. Sự điều chỉnh này chủ yếu thông qua công tác lãnh đạo, quản lý trong mỗi tổ chức đó. Đạo đức kinh doanh được gọi là đạo đức nghề nghiệp của họ.
Đạo đức kinh doanh ...
53 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 3038 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Văn hóa đạo đức kinh doanh toàn cầu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây ngày càng có nhiều công ty,doanh nghiệp quan
tâm đến vấn đề đạo đức kinh doanh để định hướng cho các hành vi của mình và đảm bảo rằng những họat động của họ phù hợp với những tiêu chuẩn trong nước
cũng như quốc tế.Nhiều giả thuyết đã được đưa ra để thiết lập một hệ thống các
tiêu chuẩn đạo đức toàn cầu nói chung. Khi áp dụng cho kinh doanh trong nước
hay trong kinh doanh toàn cầu, các giá trị chung như : trung thực, liêm chính, công
bằng, và vô tư … góp phần tạo nên một hệ thống đạo đức. Khái niệm đạo đức
thương trường đã có nền móng tự hàng nghìn năm trước.
Đạo đức kinh doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất cả các thành viên trong các tổ chức kinh doanh (hộ gia đình, công ty, xí nghiệp, tập đoàn) như : Ban giám đốc, các thành viên Hội đồng quản trị, công nhân viên chức. Sự điều chỉnh này chủ yếu thông qua công tác lãnh đạo, quản lý trong mỗi tổ chức đó. Đạo đức kinh doanh được gọi là đạo đức nghề nghiệp của họ.
Đạo đức kinh doanh là khái niệm tưởng như rất xa xỉ nhưng thực tế lại rất đời thường. Một doanh nghiệp có đạo đức kinh doanh là một doanh nghiệp không kiếm lời bằng sự lừa dối khách hàng, bằng sự hủy hoại môi trường, hay bằng sự bóc lột người lao động… Sự hủy hoại môi trường rất dễ bị phát hiện bởi người dân và các cơ quan chức năng. Sự bóc lột người lao động cũng dễ bị phanh phui và phản ứng bởi công đoàn và chính người lao động. Tuy nhiên, hành vi lừa dối khách hàng lại thường được doanh nghiệp thực hiện một cách hết sức tinh vi và được che đậy thông qua nhiều phương tiện hiện đại mà khách hàng rất khó nhận biết, hoặc dẫu có nhận biết thì cũng đã muộn vì đã lỡ mất tiền, không thể đòi lại được. Nếu như chuyện lừa dối trong các hoạt động kinh doanh sản phẩm, dịch vụ phục vụ tiêu dùng đáng bị lên án thì hành vi lừa dối trong kinh doanh giáo dục và đào tạo càng là điều không thể chấp nhận được. Hiện có nhiều cơ sở chiêu sinh, mở lớp đào tạo về quản lý, trong đó có chủ đề Văn hóa doanh nghiệp – một phần không tách rời của đạo đức kinh doanh. Lẽ đương nhiên, ai cũng nghĩ, một doanh nghiệp đã đi dạy cho người khác làm văn hóa doanh nghiệp thì không lý nào doanh nghiệp đó lại không xây dựng cho mình văn hóa trước. Và khi đã có văn hóa doanh nghiệp rồi, vấn đề đạo đức kinh doanh hẳn sẽ được đặt lên hàng đầu. Thế nhưng, thực tế không phải lúc nào cũng như nhiều người vẫn tưởng.
Bài tiểu luận này chúng tôi muốn đề cập đến vấn đề nóng hổi hiện nay là đạo đức kinh doanh của các các DN Việt Nam , cũng như các công ty tập đoàn đa quốc gia .Liệu đạo đức kinh doanh có cần thiết ? tại sao phải xây dựng triết lý kinh doanh ,đạo đức kinh doanh ,văn hóa kinh doanh ?
Phần I
CÁC KHÁI NIỆM , ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
Khái niệm đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh chính là phạm trù đạo đức được vận dụng vào trong hoạt động kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp .
Đạo đức kinh doanh có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh - do kinh doanh là hoạt động gắn liền với các lợi ích kinh tế, do vậy khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo đức không hoàn toàn giống các hoạt động khác: Tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả kinh tế là những đức tính tốt của giới kinh doanh nhưng nếu áp dụng sang các lĩnh vực khác như giáo dục, y tế... hoặc sang các quan hệ xã hội khác như vợ chồng, cha mẹ con cái thì đó lại là những thói xấu bị xã hội phê phán. Song cần lưu ý rằng đạo đức kinh doanh vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội chung
I-Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh.
1.Tính trung thực.
Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa, giữ chữ tín trong kinh doanh. Nhất quán trong nói và làm. Trung thực trong chấp hành luật pháp của nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, không sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc cấm, thực hiện những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ tục. Trung thực trong giao tiếp với bạn hàng (giao dịch, đàm phán, ký kết) và người tiêu dùng: Không làm hàng giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử dụng trái phép những nhãn hiệu nổi tiếng, vi phạm bản quyền, phá giá theo lối ăn cướp. Trung thực ngay với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt két, "chiếm công vi tư"
2.Tôn trọng con người.
Đối với những người cộng sự và dưới quyền, tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm đúng mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn hợp pháp khác.
Đối với khách hàng,tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng.
Đối với đối thủ cạnh tranh, tôn trọng lợi ích của đối thủ .Gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội.
Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt.
Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh là chủ thể hoạt động kinh doanh.
Theo nghĩa rộng, chủ thể hoạt động kinh doanh gồm tất cả những ai là chủ thể của các quan hệ và hành vi kinh doanh: Tầng lớp doanh nhân làm nghề kinh doanh.
Khách hàng của doanh nhân: Khi là người mua hàng thì hành động cuả họ đều xuất phát từ lợi ích kinh tế của bản thân, đều có tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ chu đáo. Tâm lý này không khác tâm lý thích "mua rẻ, bán đắt" của giới doanh nhân, do vậy cũng cần phải có sự định hướng của đạo đức kinh doanh. Tránh tình trạng khách hàng lợi dụng vị thế "Thượng đế" để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của doanh nhân, làm xói mòn các chuẩn mực đạo đức. Khẩu hiệu "Bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mình có" chưa hẳn đúng!!
3.Phạm vi áp dụng của đạo đức kinh doanh.
Đó là tất cả những thể chế xã hội, những tổ chức, những người liên quan, tác động đến hoạt động kinh doanh: thể chế chính trị, chính phủ, công đoàn, nhà cung ứng, khách hàng, cổ đông, chủ doanh nghiệp, người làm công.
Chức năng cơ bản của đạo đức là: đạo đức điều chỉnh hành vi của con người theo các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của giáo dục
Từ "đạo đức" có gốc từ latinh Moralital (luân lý) - bản thân mình cư xử và gốc từ Hy lạp Ethigos (đạo lý) - người khác muốn ta hành xử và ngược lại ta muốn họ. ở Trung Quốc, "đạo" có nghĩa là đường đi, đường sống của con người, "đức" có nghĩa là đức tính, nhân đức, các nguyên tắc luân lý.
Đạo đức là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi của con người đối với bản thân và trong quan hệ với người khác, với xã hội.
Từ giác độ khoa học, “đạo đức là một bộ môn khoa học nghiên cứu về bản chất tự nhiên của cái đúng -cái sai và phân biệt khi lựa chọn giữa cái đúng - cái sai, triết lý về cái đúng - cái sai, quy tắc hay chuẩn mực chi phối hành vi của các thành viên cùng một nghề nghiệp” (từ điển Điện tử American Heritage Dictionary).
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có đặc điểm:
Đạo đức có tính giai cấp, tính khu vực, tính địa phương.
Nội dung các chuẩn mực đạo đức thay đổi theo điều kiện lịch sử cụ thể.
Chức năng cơ bản của đạo đức là đạo đức điều chỉnh hành vi của con người theo các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của giáo dục.
Đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân cũng như đối với người khác và xã hội. Vì thế đạo đức là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để xây dựng lối sống, lý tưởng mỗi người.
Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức gồm: Độ lượng, khoan dung, chính trực khiêm tốn, dũng cảm, trung thực, tín, thiện, tàn bạo, tham lam, kiêu ngạo, hèn nhát, phản bội, bất tín, ác…
Đạo đức khác với pháp luật ở chỗ:
Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không có tính cưỡng bức, cưỡng chế mà mang tính tự nguyện, các chuẩn mực đạo đức không được ghi thành văn bản pháp quy.
Phạm vi điều chỉnh và ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật. Pháp luật chỉ điều chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ xã hội, chế độ nhà nước; còn đạo đức bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần. Pháp luật chỉ làm rõ những mẫu số chung nhỏ nhất của các hành vi hợp lẽ phải, hành vi đạo lý đúng đắn tồn tại bên trên luật .
4.Lắng nghe khách hàng.
Để biết rõ họ sẽ phản ứng như thế nào luôn là một công cụ hữu hiệu khi doanh nghiệp muốn sản phẩm hay kế hoạch xúc tiến kinh doanh trở nên hiệu quả hơn.
Việc lắng nghe khách hàng còn mang lại cho công ty lợi ích khác là giải quyết những phàn nàn của khách hàng một cách sáng tạo cũng chính là một trong những cách phát hiện các ý tưởng mới về sản phẩm hay dịch vụ, cơ hội cải tiến.
Bên cạnh đó, lắng nghe ý kiến của nhân viên là điều rất quan trọng nếu muốn lắng nghe khách hàng. Hãy tổ chức các cuộc họp với nhân viên bàn về các khách hàng quan trọng của công ty và họ sẽ đóng góp nhiều ý kiến để có thêm nhiều cơ hội cải tiến.
5.Chăm sóc khách hàng.
Là tất cả những gì cần thiết mà doanh nghiệp phải làm để thoả mãn nhu cầu và mong đợi của khách hàng, tức là phục vụ khách hàng theo cách mà họ mong muốn
được phục vụ và làm những việc cần thiết thiết để giữ các khách hàng đang có. Khách hàng mong muốn dịch vụ cốt lõi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thực sự đáp ứng nhu cầu của họ. Khách hàng luôn mong đợi dịch vụ hậu mãi sau bán hàng của doanh nghiệp thực sự tiện lợi.
Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, hãy xây dựng một môi trường kinh doanh thực sự chú trọng cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Đây là cách tốt nhất để tăng cường lợi thế cạnh tranh của mình. Cạnh tranh hiện nay không chỉ là cạnh tranh về sản phẩm mà còn phải làm tốt công tác chăm sóc khách hàng.
Chăm sóc khách hàng không chỉ là nhiệm vụ của nhân viên bán hàng mà bất kỳ cá nhân nào trong doanh nghiệp cũng phải thực hiện nhiệm vụ nào đó cho một số người khác trong doanh nghiệp của mình, tức là ai cũng có khách hàng và đó là khách hàng nội bộ của doanh nghiệp.
Việc chăm sóc khách hàng phải bắt nguồn từ sự cam kết của lãnh đạo cấp cao nhất và nhất quán trong mọi phòng ban. Sau đây là sáu bí quyết giúp chăm sóc khách hàng tốt nhất:
Sự thân thiện và nồng ấm trong giao tiếp với khách hàng.
Khách hàng muốn được cảm thấy mình thực sự quan trọng.
Khách hàng muốn được công ty lắng nghe những gì họ nói.
Đôi khi, việc biết tên của khách hàng cũng đem lại lợi thế cho doanh nghiệp.
Năng động, linh hoạt.
6.Tạo sự an tâm của khách hàng đối với nhãn hiệu.
Vì người mua thường cảm thấy an tâm khi mua những nhãn hiệu mà mình đã từng biết, từng nghe nói đến nhiều. Một nhãn hiệu nghe lạ tai ít có cơ may được khách hàng quan tâm đến.
7.Sự trung thành của khách hàng đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp.
Thông qua việc giữ chân khách hàng dễ dàng hơn, nhất là khi khách hàng đã thỏa mãn với nhãn hiệu của doanh nghiệp. Khách hàng thường vẫn có tâm lý ngại thay đổi nhãn hiệu, thậm chí còn quảng cáo không công cho nhãn hiệu đã quen dùng. Mức độ trung thành của khách hàng cao sẽ làm tăng ảnh hưởng đến kênh phân phối, vì người bán hàng thích bày bán những nhãn hiệu mà khách hàng muốn mua nhiều.
8.Tin tưởng của khách hàng về chất lượng.
Thể hiện thông qua sự cảm nhận của người mua về chất lượng của một nhãn hiệu, vì chất lượng của nhã hiệu không nhất thiết dựa vào sự hiểu biết rõ những qui cách, phẩm chất của nhãn hiệu mà chất lượng thấy được là những gì khách hàng cho rằng nó nói lên chất lượng. Tin tưởng của khách hàng về chất lượng sẽ tác động trực tiếp lên quyết định
mua hàng cũng như sự trung thành với nhãn hiệu. Nó cũng thuận lợi và biện minh được cho một giá bán cao hơn mà người mua cũng dễ dàng chấp nhận. Ngoài ra, nó còn là cơ sở cho doanh nghiệp mở rộng nhãn hiệu trong các lãnh vực khác có liên quan.
9.Tạo cho khách hàng có sự liên kết giữa sản phẩm và nhãn hiệu.
Thông qua việc nối trí nhớ của khách hàng đến với nhãn hiệu một cách trực tiếp hay gián tiếp. Điển hình như nói đến nước ngọt người ta nghĩ đến Coca, trông thấy cá cơm người ta liên tưởng đến nước mắm Phú Quốc. Sự liên kết mạnh của nhãn hiệu có thể là cơ sở cho việc mở rộng nhãn hiệu như trà chanh Lipton có được lợi thế cạnh tranh do sự liên kết của nhãn hiệu Lipton. Nếu một nhãn hiệu được định vị một cách vững chắc dựa vào một thuộc tính then chốt của sản phẩm sẽ là một rào cản đối với các nhãn hiệu khác muốn cạnh tranh.
II- Đạo đức cần cho thương hiệu
Không phải quá ngạc nhiên, tại hầu hết các thị trường phát triển, một vụ vi phạm về các chuẩn đạo đức kinh doanh bị phạt rất nặng. Tuy nhiên, "án phạt" nặng nhất cho những trường hợp đó chính là việc người tiêu dùng tẩy chay dùng sản phẩm.
Còn nhớ, năm 2006, khi Trung tâm Khoa học và Môi trường Ấn Độ (CSE) ra thông báo rằng: các sản phẩm của Coca-cola và Pepsi chứa nhiều độc tố quá mức cho phép, các nhà quản trị của hai thương hiệu này đã phản ứng quá mức. Họ đâm đơn lên kiện cáo buộc của CSE. Và kết quả các sản phẩm của họ bị phản đối ở thị trường này.
Ắt hẳn, rất nhiều người hiểu, cáo buộc của CSE là thái quá. Và xét về góc độ lý tính, phản ứng của nhà quản trị hai thương hiệu này là có cơ sở. Nhưng, vấn đề là người tiêu dùng, có chấp nhận sự phản ứng đó ở mức nào.
Lấy ví dụ này để thấy rằng, rõ ràng, ở những thị trường phát triển, người tiêu dùng được định danh đúng nghĩa là “thượng đế”. Và bất kì những gì ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng luôn luôn bị phản đối. Do vậy cách làm ở đây là “thuyết phục" với thái độ mềm mỏng chứ không phải là "kiện tụng". Và người tiêu dùng được quyền từ chối, vì tại thị trường của họ đã xác lập những giá trị thực tế, mà ở đó, yếu tố đạo đức quyết định cho sức sống của thương hiệu.( điển hình là trà thảo mộc DR>Thanh
Ở Việt Nam, các tập đoàn lớn, cũng có thái độ ứng xử tương tự khi gặp sự cố. Còn nhớ, khi cơn “bão melamine”, quét sang thị trường Việt Nam, vẫn có những tên tuổi lớn gặp sự cố. Đó là trường hợp của Mead Johnson bị nghi ngờ là có nhiễm melamine ở một thị trường khác. Lập tức, họ xác nhận lại mức độ chính xác của thông tin. Và kịp thời đưa thông tin đó đến người tiêu dùng với dạng “thuyết phục”. Bởi vì, hơn ai hết, họ ý thức được sự "nguy hiểm” nếu những điều tiếng này tiếp tục tồn tại. Điều quan trọng là, những giá trị chân thật, khả tín...chính là điều cần thiết để bảo vệ thương hiệu của mình. Và một tên tuổi lớn như Mead Johnson, không thể "chối đây đẩy" những thông tin như thế với khách hàng của
mình. Bởi vì, họ hiểu rằng, ngay khi mình "vô can”, những câu chuyện đại loại như vậy sẽ là "thông tin xấu” làm hoen ố hình ảnh và làm hạn chế sức sống của thương hiệu.
Vấn đề là tại sao, phần lớn các doanh nghiệp của Việt Nam không ý thức hay ý thức không đầy đủ sự tác động của những sự cố này đến thương hiệu của mình? Điều này có lẽ lý giải một phần: những chuẩn giá trị của đạo đức kinh doanh đã không được tôn trọng, và hệ lụy của nó, ắt hẳn không thể hiện ngay nước mắt, mà từ từ và lâu dài. Và điều quan trọng nhất, khi người tiêu dùng, không còn sự tín nhiệm, niềm tin, tất cả những giá trị khác sẽ chẳng còn ý nghĩa nào nữa.
Tất nhiên, thị trường có những quy luật của riêng nó. Tuy nhiên, cách làm khôn khéo là tác động vào những quy luật đó để nó chuyển động theo chiều hướng tích cực, có lợi cho doanh nghiệp.
Giá trị đạo đức trong kinh doanh không phải là điếu gì quá mơ hồ. Nó cần được những nhà quản trị doanh nghiệp xác lập trong từng hành động cụ thể và trải đều trên tất cả những lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động, kinh doanh.
Và khi nào các doanh nghiệp Việt Nam ý thức đầy đủ những điều như vậy, cơ hội để vươn lên vẫn còn rộng mở, ngược lại, tất cả những nỗ lực để xây dựng thương hiệu,vẫn là điều gì đó xa vời và không thực tế
Đưa đạo đức vào trong kinh doanh như thế nào ?
Hầu hết các doanh nghiệp đều công nhận đạo đức trong kinh doanh là một vấn đề quan trọng nhưng nhiều doanh nghiệp lại tỏ ra lúng túng không biết phải làm thế nào để đưa vấn đề này vào trong các hoạt động của mình. Dựa trên kinh nghiệm từ nhiều công ty trên thế giới và kết quả các nghiên cứu khoa học, dưới đây là một số gợi ý cho việc cần làm và yếu tố cần có để thực hiện đạo đức trong doanh nghiệp.
Quan điểm và sự gương mẫu của lãnh đạo.
Thực tế cho thấy nhiều hành vi phi đạo đức của các nhân viên là do ảnh hưởng xấu từ cấp lãnh đạo. Nếu lãnh đạo đồng tình tiếp tay cho các hành vi như khai man thuế, làm gian, làm ẩu, qua mặt đối tác… thì không thể đòi hỏi sự trung thực của nhân viên. “Thượng bất chính hạ tắc loạn” ! Ngược lại, sự quyết tâm tôn trọng các giá trị đạo đức, cho dù trong nhiều trường hợp phải chịu thua thiệt, và sự gương mẫu trong việc thực hiện những giá trị này của lãnh đạo sẽ tạo niềm tin và động lực cho mọi người cùng nhau làm ăn chân chính.
Xây dựng bộ quy tắc đạo đức thống nhất .
Phạm trù đạo đức thường rất rộng và trừu tượng, nhiều khi còn mang tính chủ quan. Do đó, để cụ thể hóa việc thực hiện các vấn đề đạo đức, mỗi doanh nghiệp nên xây dựng và áp dụng một bộ những quy tắc đạo đức thống nhất. Bộ quy tắc này được xem là một cẩm nang hướng dẫn cho nhân viên và là cơ sở để giải quyết các vấn đề liên quan đến đạo đức trong doanh nghiệp. Nội dung của bộ quy tắc đạo đức nên bao gồm bốn phần chính:
1. Sự ủng hộ và yêu cầu thực hiện đạo đức của lãnh đạo doanh nghiệp .
2. Cam kết và trách nhiệm của doanh nghiệp với nhân viên.
3. Các giá trị đạo đức và trách nhiệm mà nhân viên phải thực hiện đối với đồng nghiệp, lãnh đạo, khách hàng, chính quyền và cộng đồng.
4. Các phương thức thông tin và cách giải quyết các vướng mắc liên quan đến đạo đức.
Như vậy, trong bộ quy tắc đạo đức thì trách nhiệm của doanh nghiệp và lãnh đạo được nêu ra trước, sau đó mới đề cập đến trách nhiệm của nhân viên. Trong thực tế, các công ty ở Mỹ và Canada thường có những bộ quy tắc không dài quá hai trang, được trình bày đẹp, sinh động, ngắn gọn và dễ hiểu để phát cho mọi nhân viên. Doanh nghiệp không nên sao chép rập khuôn các quy tắc đạo đức chung chung hoặc thuê công ty tư vấn viết thay, mà nên tổ chức cho tất cả nhân viên cùng đóng góp xây dựng các quy tắc, tự đề ra trách nhiệm và hướng giải quyết khi xảy ra các vấn đề liên quan đến đạo đức. Các quy tắc cũng cần được cập nhật, điều chỉnh định kỳ cho phù hợp với tình hình thực tế và nguyện vọng của nhân viên. Khi được đóng góp ý kiến thì các nhân viên sẽ coi bộ quy tắc này là của chính mình nên sẽ tự giác thực hiện nó. Khi đó đạo đức trong kinh doanh không phải là
những nội quy cứng nhắc trên giấy mà sẽ trở thành một nét văn hóa sống động trong công ty.
Các chương trình Huấn luyện về đạo đức.
Xây dựng một bộ quy tắc chỉ là bước đầu đưa đạo đức trở thành nét văn hóa sống động trong công ty. Bộ quy tắc dù đầy đủ và rõ ràng đến đâu cũng không thể bao quát hết tình hình thực tế. Vì thế, việc hiểu và thực hiện đạo đức trong doanh nghiệp cũng cần được xem như huấn luyện các kỹ năng bán hàng, giao tiếp… Trong hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp sẽ phát sinh rất nhiều tình huống mới làm nhân viên lúng túng không biết phải xử lý thế nào cho đúng về mặt đạo đức, như nhắm mắt cho qua để đạt chỉ tiêu hay nên dừng lại để kiểm tra khi phát
hiện sản phẩm bị lỗi, hoặc có nên đuổi việc nhân viên khi vi phạm một lỗi nào đó? Trải qua những tình huống như vậy, doanh nghiệp cần tổ chức các chương trình huấn luyện về đạo đức kinh doanh để giúp nhân viên biết cách xử lý vấn đề cho đúng. Có thể đó là các khóa học tập trung hay ngoài giờ hoặc các buổi hội thảo, nói chuyện chuyên đề, hay thi đố vui xử lý tình huống, diễn kịch tuyên truyền, thi viết báo tường hay vẽ tranh cổ động… Nhiều công ty cũng có sáng kiến xây dựng các tình huống mẫu hoặc phát triển các quy tắc đạo đức chung thành những đoạn phim ngắn chiếu cho nhân viên xem.
Xây dựng các kênh thông tin(giải pháp)
Nhiều công ty như Motorola hay Sundstrand đã thành lập một hội đồng gồm các nhân viên thường trực và chuyên trách về đạo đức. Khi có thắc mắc gì về vấn đề này thì nhân viên của công ty sẽ liên lạc với hội đồng này. Tương tự, các công ty Pacific Bell và Marathon Oil cũng đã thành lập các “đường dây nóng”giải quyết các vấn đề về đạo đức kinh doanh. Tập đoàn Texas Instruments thì xây dựng kênh thông tin qua hệ thống thư điện tử, nhân viên ở khắp thế giới để có thể liên lạc trực tiếp với những người chuyên trách vấn đề ở tổng công ty tại Mỹ. Tuy nhiên, cũng cần tránh việc ỷ lại và dồn hết trách nhiệm vào những người chuyên trách.
Phần II
THỰC TIỄN VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
I-Giá trị thương hiệu và đạo đức kinh doanh.
Các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá khác nhau. Bên cạnh đó vấn đề lợi nhuận và đạo đức trong kinh doanh luôn làm đau đầu các nhà lãnh đạo.
Thương hiệu trong nền kinh tế thị trường :
Theo cơ chế cạnh tranh của thị trường tự do, trong bất cứ ngành hàng nào, từ hàng tiêu dùng nhanh, hàng điện máy, ngành quần áo thời trang hay các ngành dịch vụ,… các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá khác nhau.
Lấy ví dụ tại thị trường Việt Nam. Trong ngành dầu gội, giá bán của Sunsilk đắt gần gấp 3 lần giá bán của dầu gội đầu Mỹ Hảo. Trong ngành điện máy, giá bán của tivi Sony đắt gấp đội so với giá của nhãn hiệu nội địa Darling. Trong ngành dịch vụ quảng cáo hay trong dịch vụ về luật, giá dịch vụ của các hãng nước ngoài đắt hơn từ 3 đến 10 lần so với giá của các công ty của Việt Nam.
cTuy có mức chênh lệch giá rất lớn giữa các thương hiệu ở phân khúc thấp so với phân khúc cao cấp, nhưng càng ngày, chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ) giữa các phân khúc càng bớt khác biệt. Ngày nay, nếu bỏ nhãn hiệu đi và cho người khách hàng dùng thử, nhiều loại sản phẩm và dịch vụ có giá rất chênh nhau những lại hầu như không tạo ra sự khác biệt.
Trên thực tế các tập đoàn đa quốc gia đã chuyển khâu sản xuất của nhiều loại sản phẩm và các ngành dịch vụ sang các nước đang phát triển, nơi mà giá nhân công rẻ hơn tại thị trường tiêu thụ nhiều lần.
Chuyện gì đã xảy ra khi mức chênh lệch giá không thể hiện ở các ích lợi của sản phẩm hay của dịch vụ? Và tại sao người ta phải bỏ thêm những khoản tiền lớn để được sử dụng thương hiệu mà họ yêu thích?
II-Vấn đề về lợi nhuận và đạo đức kinh doanh.
Hiện nay bất cứ nhà kinh doanh nào cũng đều muốn nâng giá của sản phẩm, hay của dịch vụ lên càng cao càng tốt. Khi một sản phẩm có giá cao, rõ ràng khả năng mang lại lợi nhuận sẽ tăng lên đáng kể, mà công sức và thời gian và chi phí kinh doanh sẽ giám xuống. Còn gì bằng khi mà một chai bia Heineken có giá bán gần gấp 3 lần chai bia Sài Gòn (trên thực tế mức lợi nhuận sẽ chênh nhau đến cả chục lần). Tại sao một đôi giày thể thao Nike được sản xuất tại Việt Nam có giá xuất xưởng chưa tới 15 Đô-la Mỹ lại có giá bán gần 200 Đô-la Mỹ?
Tất cả những người làm kinh doanh, những chuyên gia marketing và các giám đốc nhãn hiệu đều có chung một khát khao là làm sao có thể nâng được giá bán của sản phẩm lên thật cao ở mức tối đa mà người tiêu dùng có thể chấp nhận. Một vấn đề lớn được đặt ra rằng liệu đã đến lúc phải làm rõ chuyện “bóc lột trắng trợn” của những người chủ thương hiệu đối với người tiêu dùng? Theo như những gì đang xảy ra, liệu các chủ thương hiệu có quá nhẫn tâm và tham lam khi nâng mức giá lên cao quá mức như vậy?
Trong tác phẩm “No Logo”, Naomi Klein đã nêu ra thực tế là người tiêu dùng ở các nước phương tây đã thấy rõ tình trạng này từ những thập niên chín mươi của thế kỷ XX. Đã có hàng loạt những cuộc biểu tình phản đối và tẩy chay các nhãn hiệu toàn cầu. Theo như những gì mà mọi người thấy được thì có lẽ người tiêu dùng đang bị các tập đoàn sở hữu những thương hiệu lớn bóc lột “tới tận xương”.
Nếu mọi chuyện đúng như vậy thì tất cả những người làm nghề xây dựng thương hiệu đều là những kẻ tham lam, vô đạo đức và lừa bịp khách hàng chăng?
Là một người đã nhiều năm làm nghề truyền thông tiếp thị với mục đích xây dựng nên những thương hiệu có giá trị cao (tức làm cho người tiêu dùng phải “hài lòng” bỏ tiền ra mua và sử dụng thương hiệu được quảng bá), tác giả bài viết này đã thật sự “sốc” khi đọc được những tài liệu trong cuốn sách của tiến sĩ Naomi Klein.
Là chuyên gia quản lý thương hiệu, hoặc là một chủ doanh nghiệp, liệu có gì sai khi chúng ta muốn tạo nên những thương hiệu “đắt hơn những nhãn hiệu khác nhiều lần” mà vẫn hấp dẫn người tiêu dùng? Liệu có gì trái với đạo đức kinh doanh trong việc tìm cách bắt người tiêu dùng phải trả thêm tiền chỉ bởi sản phẩm được gắn thêm một cái tên “khác biệt”?
Sự thật phía sau những cảm nhận đắt giá.
Số liệu thực tế cho thấy, sự trung thành của người tiêu dùng (hay nói cách khác là sự lệ thuộc của họ) vào các thương hiệu đắt tiền luôn bền vững và ngày càng tăng. Trong một nghiên cứu về người uống bia tại thị trường Việt Nam, khi trả lời cho câu hỏi: “nếu được thoải mái lựa chọn thì bạn sẽ chọn loại bia nào?”, hơn 70% người được hỏi đã trả lời Heineken.
Quả thật là các thương hiệu mạnh luôn có giá cao hơn hẳn những đối thủ cạnh tranh cùng ngành hàng. Tuy vậy, nếu bạn tìm hiểu kỹ lưỡng thì sẽ thấy rằng, các sản phẩm “cao cấp” đắt tiền luôn được ưa chuộng, và ngày càng được ưa chuộng hơn. Trong một đợt phỏng vấn bỏ túi với khoảng 60 phụ nữ được hỏi ý kiến, tất cả mọi người đều chọn Sunsilk làm dầu gội thay vì chọn một nhãn dầu nội địa khác có chất lượng tốt và giá rẻ hơn.
Trong cuốn “The Cult of The Luxury Brand” (tạm dịch Mốt Xài Hàng Hiệu Sang Trọng) nêu ra một số dẫn chứng về xu hướng thích xài hàng hiệu của người tiêu dùng. Đặc biệt tại Châu Á, người dân ngày càng thích chọn mua những loại hàng hóa có nhãn hiệu rất đắt tiền (có đến 94% phụ nữ ở Tokyo sử dụng sản phẩm của Louis Vuitton – một nhãn hiệu hàng hóa thuộc loại đắt nhất thế giới). Hẳn việc ưa chuộng các sản phẩm giá cao sẽ cho cảm nhận là sản phẩm tốt hơn, dẫn đến việc sẽ hài lòng hơn khi sử dụng.
Dựa trên những phân tích về giá trị của sản phẩm và giá trị của thương hiệu, chúng ta dễ thấy được là một sản phẩm mang thương hiệu sẽ tạo ra 2 loại giá trị khác biệt rất rõ ràng: giá trị lý tính và giá trị cảm tính.
Giá trị lý tính: Đây chính là những lợi ích mà một loại hàng hóa, hay một loại dịch vụ mang lại cho người tiêu dùng. Cà phê đơn thuần là một loại thức uống gây nghiện và giúp người uống tỉnh táo hơn, sảng khoái hơn. Uốn tóc là một dịch vụ giúp cho các bà các cô có mái tóc kiểu cách và đẹp hơn. Nếu một sản phẩm không có thương hiệu, nó được gọi là hàng hóa.
Giá trị cảm tính: Là một loại giá trị do các thương hiệu mang lại. Khi một loại hàng hóa với những đặc điểm cụ thể tạo nên sự khác biệt, người bán hàng sẽ được gắn thêm tên gọi cho hàng hóa đó để người tiêu dùng dễ phân biệt, dễ nhận biết. Chính cái tên mà người bán hàng gắn cho loại sản phẩm có những đặc điểm khác biệt là lý do để cho chúng ta phải trả thêm tiền để mua sản phẩm đó. Nói một cách khác, sản phẩm đó có kèm theo thương hiệu. Thương hiệu cà phê Highland có giá trên dưới 20 ngàn một ly, trong khi ly cà phê của dì Ba bán ở góc đường (cũng ngon không kém) thì giá chỉ có 4 ngàn đồng.
Dịch vụ cũng vậy, uốn một cái đầu tại tiệm uốn tóc bình dân Hồng ở trong xóm giá chỉ 100 ngàn đồng, nhưng cũng uốn một kiểu tóc tương tự ở tiệm Khôi sang trọng thì giá suýt soát 1 triệu đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt về giá cả không chỉ bởi cái tên thương hiệu. Trên thực tế, sự chênh lệch về giá ở đây thể hiện mức độ cảm nhận, hay nói cách khác là lượng cảm xúc tốt mà người khách hàng có được từ sản phẩm hay dịch vụ có cái tên đặc thù đó.
Hãy xem xét sự khác biệt.
Trước hết, tất cả mọi người đều phải công nhận rằng hàng hiệu thứ thật luôn luôn có những đặc điểm khác biệt vượt trội với chất lượng “không thể chê vào đâu được”. Kế đến là nó tạo ra các giá trị cảm tính như sự tự hào, sự hãnh diện và rất tự tin cho người xài hàng hiệu. Làm sao mà lại có thể không tự hào khi bạn mặc một chiếc áo sơ mi “hàng độc” có giá đến 6 triệu đồng, đeo một cái thắt lưng có giá 18 triệu đồng và đi một đôi giày da nai “chính hiệu” có giá gần 30 triệu đồng,…Một thương hiệu đắt tiền luôn tạo ra sự khao khát của người tiêu dùng và làm cho họ thỏa mãn hơn rất nhiều so với một nhãn hiệu bình dân.
Như vậy sự thỏa mãn chính là điều khác biệt cơ bản. Một thương hiệu bình dân sẽ đáp ứng cho những nhu cầu cơ bản của khách hàng bằng các giá trị lý tính, nhưng một thương hiệu cao cấp sẽ tạo ra thêm những giá trị cảm tính và các giá trị cảm tính này là loại mà không dễ gì mà người tiêu dùng có được (như sự hãnh diện, sự thỏa mãn, sự tự tin,…). Các giá trị cảm tính này thực tế là các cảm xúc tốt ở mức độ cao và sẽ xuất hiện mỗi khi nhãn hiệu được sử dụng.
Bạn nên biết rằng giá trị của một vật chính là lượng cảm xúc tốt mà vật đó mang lại cho người sử dụng. Đây cũng là điểm khác biệt lớn hoặc rất lớn về giá bán giữa nhãn hiệu thường và nhãn hiệu cao cấp. Để tạo ra một thương hiệu “đắt tiền” là một công việc cực kỳ khó khăn, bởi nếu người tiêu dùng không “cảm thấy” và không tin rằng thương hiệu có giá trị đúng như giá bán thì chắc chắn họ sẽ không thể nào có được cái cảm giác sử dụng “hàng hiệu” và không đời nào họ bỏ tiền ra để mua.
Theo những phân tích trên đây, việc tạo ra một nhãn hiệu cao cấp sẽ đòi hỏi rất nhiều tiền bạc cũng như nhiều thời gian. Để duy trì sự “cao cấp” đó thì còn là việc khó khăn hơn nữa. Thật may mắn là cuối cùng, những người làm nghề xây dựng nên các thương hiệu đắt tiền đã có thể tự hào rằng mình đang làm những việc rất có đạo đức chứ không phải là việc phi đạo đức như nhiều người lầm tưởng. Bằng việc tạo ra những thương hiệu cao cấp và cực kỳ sang trọng, người làm thương hiệu đã mang lại cho người tiêu dùng những cảm giác thỏa mãn, những phút giây hạnh phúc không dễ có được trong cuộc sống. Hàng hiệu là một công cụ làm cho sản phẩm, hay dịch vụ trở nên đầy cảm hứng, tạo ra sự thỏa mãn và hài lòng cho hàng ngàn hoặc hàng triệu người trong cái thế giới đầy stress và buồntẻnày. Tóm lại, giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ nào đó được tạo nên từ giá trị lý tính và giá trị cảm tính. Tuy nhiên đó cũng chưa phải là tất cả. Sự hy sinh nằm sau thương hiệu cao cấp
Một chiếc túi Longchamp bán với giá 500$ trong khi giá thành SX chỉ khoảng bằng 1/10, giày Nike giá bán 200$ trong khi giá thành 15$, Giày da nai chính hiệu giá 30mil VND khoảng 1 năm tiền lương của lao động phổ thông. Người tiêu dùng bị bóc lột, họ phải trả nhiều tiền cho những giá trị vô hình, mà giá trị vật chất của chúng không hơn các SF no-name khác. Điều đó nghe thật bất công.Nhưng thử đứng ở góc độ của các thương hiệu cao cấp xem để có được giá bán như vậy họ đã phải hy sinh những gì?
Năng khiếu trời cho.
- LANVIN một hãng thời trang cao cấp mà thân chủ của nó, bà Lanvin đã cống hiến cả cuộc đời với niềm đam mê thời trang và lòng yêu thương cô con gái vô bờ bến, và đương nhiên là cả năng khiếu nữa.
- Kenzo, đó là tài năng là quyết tâm của một sinh viên Nhật lập nghiệp tại Pháp. - Jean Paul Gautier, sự sáng tạo tuyệt vời với những tác phẩm thời trang độc đáo có một không hai
Trên tất cả đó là năng khiếu nghệ thuật của những người làm nên các SF đó một thứ mà ta không thể đong đếm như vật chất được, vậy làm sao có thể tính nó bằng tiền vải, phụ liệu và giá gia công được?
Cùng nhiều tên tuổi khác như Coco-Channel, Christian Dior, YSL, đó là những tài năng nghệ thuật mà tạo hóa ban cho thế giới của chúng ta, và đương nhiên là tính cả ông bố cô Mercedes, một tài năng kỹ thuật nữa, những người đã tạo ra những sản phẩm thật sự cao cấp.
Lịch sử.
Bên cạnh tài năng, đó là quá trình phát triển lịch sử, hàng chục năm không ngừng nỗ lực không ngừng phấn đấu, và trong quá trình cạnh tranh đó nhiều thương hiệu đã hy sinh không đủ sức lực tồn tại và nhường chỗ cho các thương hiệu như Levi's, adidas, Nike,.. Lịch sử là giá trị chứa trong sản phẩm, mà nhiều hãng đã phải ghi vào SF "since…."
Cơ hội tồn tại.
Không phải năng khiếu, không phải lịch sử, họ phải hy sinh cái gì? Đó là cơ hội tồn tại. Nếu một thưong hiệu định vị cao cấp ngay khi mới ra đời gặp thất bại thì sao? nếu HighLand cũng rơi vào trường hợp như Laser thì sao? Giá trị về mặt cơ hội có thể lớn như tổn thất của Laser, Liệu bạn có đủ can đảm để định vị cao cấp cho sản phẩm của mình hay không? xét trên góc độ này thì 20K/ly cà phê cũng đáng đấy chứ!
Ngoài ra, còn nhiều sự hy sinh khác nữa.
Hàng tồn kho giám giá: một chiếc áo old navy giá 30$ nhưng sau một thời gian tồn kho nó sẽ được bán với giá 1$, thấp hơn giá thành. Đó là sự hy sinh về mặt tiền tệ.
Hy sinh về số lượng để có limited editions, để có chiếc áo sơ mi 600$, biết đâu họ đã phải hy sinh việc bán 100 chiếc áo 6$.
Đó còn là sự đầu tư vào cửa hàng, vào con người, vào quy trình và nhiều yếu tố khác nữa, nhằm làm nên một sản phẩm cao cấp.
Bởi những sự hy sinh có thể có nên không phải ai cũng dám cho ra đời những thương hiệu cao cấp.
Còn những người sử dụng chúng là ai? Ca sĩ, diễn viên, doanh nhân, CEO, nhà đầu tư chứng khoán, kẻ thừa kế … những người có những khoản thu nhập khác người. Những khoản thu nhập nhờ tài năng, nhờ bóc lột sức lao động, nhờ may mắn … Như vậy bán các thương hiệu cao cấp cho họ cũng không thể gọi là bóc lột được, có chăng chỉ gọi đó là một sự phân phối lại thu nhập mà thôi. Chủ thương hiệu cao cấp thu tiền về mua xe xịn, chủ hãng xe gửi tiền ngân hàng, chủ ngân hàng mua bất động sản, chủ bất động sản lại mua 1 chai coca. Đó là một chuỗi của những sự phân phối lại, có ai bóc lột ai đâu. C'est la vie! Cuốn "No-logo" -NaoMi Klein mà mình chưa đọc đã thấy tức rồi, chắc chắn nó không chỉ làm cho tác giả Nguyễn Nam Trung sốc mà có thể còn gây ra làn sóng phản ứng của những người làm thương hiệu và sở hữu thương hiệu.
Có thể nói, chưa khi nào, người ta thấy được những sự kiện vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm lại gia tăng trong thời gian vừa rồi.
Trong khi dư luận chưa kịp lắng xuống vụ “nguyên liệu quá hạn sử dụng” của Tập đoàn rượu nước giải khát Việt Nam, Tân Hiệp Phát, thì lại nổi lên vụ hàng trăm tấn thực phẩm vi phạm nhãn mác và hạn sử dụng của Vinafood, một tập đoàn kinh doanh thực phẩm hàng đầu Việt Nam.
Lùi xa hơn một chút, ta thấy được vụ khủng hoảng melamine ở sữa. Và rồi lại đến việc thiếu hàm lượng đạm như đã ghi ở bao bì của một loạt nhãn hàng sữa bị phát hiện. Tất cả những điều đó đặt ra vấn đề: Tại sao hiện tượng này lại diễn ra ngày càng nhiều. Và đứng ở góc độ kinh doanh, hiện tượng đó nói lên điều gì?
III-Lợi nhuận là trên hết
Từ mà cơ quan truyền thông dung gần đây để nói về hiện tượng Vinafood, là “tẩu tán”. Tức là, sau khi bị cơ quan hữu quan phát hiện mức độ vi phạm, chính Vinafood đã “tuồn” toàn bộ lượng hàng này trở lại thị trường.
Có lẽ, do mức thiệt hại lớn, nếu số lượng hàng này bị tiêu hủy, nên Vinafood đã quyết định như trên. Một quyết định thiên về phần "lợi" hơn là “tín” và “đức”. Đạo đức, có lẽ, không được những người làm kinh doanh ở Vinafood xem như một phẩm chất, yếu tố cần thiết để thực hiện trong quá trình kinh doanh.
Nếu xét từ góc độ người tiêu dùng, liệu họ còn đủ dũng cảm để sử dụng những giò heo, sườn cốt lếch hay xúc xích...của Vinafood? Và lượng hàng đã được tuồn ra, với những người thiếu thông tin vẫn sử dụng, hậu quả để lại sẽ là gì?
Cách sự kiện vừa rồi hơn 1 tháng, một “tên tuổi lớn” khác, Tân Hiệp Phát, đã chối đây đẩy, khi hàng trăm tấn nguyên liệu bị phát hiện đang tồn trong kho của mình. Tuy nhiên, sau khi nhận được kết quả giám định của cơ quan phụ trách về an toàn vệ sinh thực phẩm là họ "vô can” thì lập tức, một "chiến dịch” dội bom người tiêu dùng qua truyền thông, đã được các nhà quản trị của Tân Hiệp Phát thực hiện rầm rộ.
Tất nhiên, với một tập đoàn có khá nhiều kinh nghiệm về marketing và thương hiệu, việc làm của Tân Hiệp Phát, nhận được nhiều ý kiến bình luận khác nhau. Tất nhiên, việc họ khôi phục lại niềm tin, ít nhất là của kênh phân phối, như Coop Mart, Big C...đã là một "nỗ lực" mà không phải doanh nghiệp nào cũng đủ khả năng và nguồn lực, làm được. Tuy nhiên, sự kiện đã qua vẫn để lại những "gờn gợn”, mà kết quả thống kê sau đó của báo Sài Gòn Tiếp Thị cho thấy: số lượng người dùng các nhãn hiệu của Tân Hiệp Phát đã giảm hẳn.
Và những thông tin sau đó càng làm mức độ hoài nghi của người tiêu dùng tăng lên, khi Tân Hiệp Phát xin được chuyển mục đích sử dụng của lô hàng này sang làm thức ăn gia súc. Câu hỏi tại sao lại được đặt ra, vấn đề nằm ở chỗ: Tránh thiệt hại.
IV. ĐẠO ĐỨC KINH DOANH TẠI VIỆT NAM -
THỰC TẠI VÀ GIẢI PHÁP
( TS NGUYỄN HOÀNG ÁNH---ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI )
1.Thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Đạo đức kinh doanh là một vấn đề mới ở Việt Nam. Các vấn đề như đạo đức kinh doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp… mới chỉ nổi lên kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách Đổi mới và tham gia vào quá trình quốc tế hóa và tòan cầu hóa vào năm 1991. Trước đó, trong thời kinh tế kế hoạch tập trung, những vấn đề này chưa bao giờ được nhắc tới. Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà nước chỉ đạo, vì thế những hành vi có đạo đức được coi là những hành vi tuân thủ lệnh cấp trên. Do khan hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng, để mua được đã là rất khó, nên không ai có thể phàn nàn về chất lượng hàng hóa. Vì cầu vượt quá cung, chất lượng phục vụ trong mạng lưới cung cấp vô cùng thấp nhưng ít người dám than phiền. Vào thời gian đó, các ngành công nghiệp của Việt Nam chưa phát triển, có rất ít nhà sản xuất và hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước, nên không cần quan tâm đến vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ. Hầu hết lao động đều làm việc cho nhà nước, nơi mà kỷ luật và chế độ lương thưởng đều thống nhất và đơn giản. Tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước là rất khó khăn nên không có chuyện đình công hay mâu thuẫn lao động. Mọi hoạt động trong xã hội đều phải tuân thủ quy định của Nhà nước nên những phạm trù trên là không cần thiết.
Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam tham gia quốc tế hóa, có nhiều phạm trù mới được xuất hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, đình công, thị trường chứng khoán… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến hơn trong xã hội. Qua kết quả phân tích các số liệu điều và những tài liệu thu thập qua sách báo, chúng ta có thể rút ra được những kết luận sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam.
1.1. Nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh
Cho đến nay, có rất ít sách chuyên môn về đạo đức kinh doanh được xuất bản ở Việt Nam, và hầu hết là được dịch từ sách của Mỹ. Cuốn sách đầu tiên về đề tài này được xuất bản ở Việt Nam có lẽ là cuốn: “WHAT'S ETHICAL IN BUSINESS?” by Verne E.Henderson, của Nhà xuất bản McGraw - Hill Ryerson. Cuốn sách này được dịch giả Hồ Kim Chung dịch là “Đạo đức kinh doanh là gì?” và được Nhà Xuất bản Văn hóa phát hành tháng 11 năm 1996. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách khá mơ hồ, không đầy đủ, nên đã không gây được nhiều sự chú ý trong giới nghiên cứu ở Việt Nam. Thời gian gần đây, do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, đã có khá nhiều bài báo trên các báo và tạp chí như: Chúng ta (Tạp chí lưu hành nội bộ của công ty FPT, website: www.chungta.com) hay báo Diễn đàn
doanh nghiệp (tờ thời báo cho giới doanh nhân Việt Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI phát hành, website: www.dddn.com.vn) và một số báo và tạp chí khác như: Saigon Times, Thời báo kinh tế Sài Gòn, báo Lao động, etc. Nhưng các bài báo này thường chỉ dừng ở việc nhận định về những sự kiện gần đây ở Việt Nam có liên quan đến đạo đức kinh doanh hoặc cung cấp về một số vụ việc trên các sach báo nước ngoài, chứ không tiến hành khảo sát hay đưa ra một khái niệm cụ thể nào về đạo đức kinh doanh. Hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng dạy về kinh doanh ở Việt Nam đều chưa có môn học này, hoặc nếu có cũng chỉ dừng ở hình thức môn tự chọn. Trong nội dung của các môn học có
liên quan như kinh doanh quốc tế hay quản trị kinh doanh cũng chưa đề cập đến khái niệm này, hoặc nếu có thì nội dung cũng quá sơ sài. Ví dụ, trong giáo trình môn Văn hóa kinh doanh tại một trường Đại học Kinh tế ở Việt Nam có giành một chương cho Đạo đức kinh doanh nhưng lại coi đạo đức kinh doanh là việc tuân thủ pháp luập trong kinh doanh! Quan niệm như vậy là quá hạn hẹp, chưa đánh giá hết tầm quan trọng của khái niệm này. Do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam đề cập khá nhiều đến vấn đề này nhưng lại không đưa ra được một khái niệm chuẩn mực nào. Chính vì vậy,mặc dù thường được nghe về đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các
doanh nghiệp về vấn đề này còn khá mơ hồ. Thực trạng đó đã được thể hiện khá rõ qua kết quả của cuộc điều tra. 40/60 số người được hỏi xuyên nghe nhắc đến những vấn đề lien quan đến đạo đức kinh doanh, 20/60 đôi khi nghe nhắc đến vấn đề này. Lưu ý là cuộc điều tra này được tiến hành ở Hà Nội, thủ đô và là thành phố lớn thứ hai của Việt Nam, nên con số này chưa phải là cao. Nhưng khi được hỏi về quan niệm, thế nào là đạo đức kinh doanh, 55/60 số người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là tuân thủ đúng pháp luật”, chỉ có 5/60 người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là bảo vệ quyền lợi cho khách hàng” và không ai cho đạo đức kinh doanh phải bao gồm cả hai khái niệm trên! Chính sự hiểu biết mơ hồ này
về đao đức kinh doanh đã dẫn đến những thiếu hụt trong thực thi của doanh nghiệp.
1.2.Trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội (corporate social responsibility - CSR)
Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi tập trung vào 2 khía cạnh, trách nhiệm của doanh nghiệp với chất lượng hàng hóa và vấn đề bảo vệ môi trường. Câu hỏi thứ nhất về vấn đề này được đặt ra là: “Doanh nghiệp sẽ làm gì nhận được thông tin là có một số hàng hóa của mình bị kẻ xấu tráo đổi với những hàng kém chất lượng, mà bằng hình thức bên ngoài không có khả năng phân biệt được, có thể gây tác hại cho người tiêu dùng?”. Câu hỏi này dựa trên một tình huống có thật là năm 1981, một người bệnh tâm thần đã cho thuốc độc vào một số lọ thuốc giảm đau nhãn hiệu Tylenol do Johnson & Johnson (J&J) sản xuất và bày bán ở các quầy hàng bán thuốc trong những siêu thị ở thành phố Chicago. Sự kiện trên đã làm bảy người thiệt mạng và cảnh sát không bắt được thủ phạm. Mặc dù vụ việc đáng
tiếc này chỉ xảy ra ở Chicago và bộ phận an ninh cho rằng người thủ phạm chỉ cho thuốc độc vào một số lọ Tylenol đã bày bán ở những siêu thị này, ban lãnh đạo J&J đã cương quyết tiến hành thu hồi để kiểm định toàn bộ 31 triệu lọ thuốc Tylenol đã phân phối không chỉ ở Mỹ mà ở toàn thế giới, vì theo J&J, không có gì bảo đảm là thủ phạm chỉ bỏ thuốc độc vào các lọ Tylenol lúc đã bày bán, mà không bỏ vào trong lúc sản xuất hoặc trước khi được phân phối. Toàn bộ chi phí để thực hiện quyết định trên là 100 triệu USD. Tuy nhiên, sự thể hiện trách nhiệm xã hội cao của công ty Johnson & Johnson cộng thêm chiến dịch PR đúng
đắn đã giúp Tylenol giành lại vị trí trên thương trường chỉ trong vòng 6 tháng. Nhưng trong cuộc diều tra của chúng tôi, chỉ có 42 người , chiếm 42%, chọn phương án “Thu hồi ngay toàn bộ lô hàng đó, chấp nhận thua thiệt về kinh tế”, 50 người, chiếm 50% chọn phương án là “Thông báo tại nơi bán, và để người tiêu dùng tự quyết định”, thậm chí có 8 người, chiếm 8%, chọn phương án ”Không làm gì cả, vì không phải lỗi tại công ty của mình”!
Câu hỏi thứ hai là: ”Cho biết quan điểm của bạn, khi một công ty XK sang thị trường EU nước tương có tỷ lệ chất 3 - MPCD nằm trong phạm vi cho phép của Luật Việt Nam,nhưng lại vượt gấp nhiều lần tỷ lệ cho phép của EU?” cũng dựa trên một sự kiện có thật là năm 2002, nước tương của Chinsu, một công ty khá có tiếng ở Việt Nam, đã bị Cơ quan kiểm nghiệm chất lượng thực phẩm của Bỉ phát hiện có chứa chất 3 - MCPD - một chất độc hóa học có thể gây bệnh ung thư ở động vật và con người - ở mức 86 mg/ kg, trong khi đó, tiêu chuẩn của EU chỉ cho phép ở mức 0.05 mg/ kg, tức là gấp gần 200 lần. Nhưng công ty Chinsu tuyên bố không chịu trách nhiệm vì họ không XK nước tương sang Bỉ. Sản phẩm đó
có thể được một công ty nào khác tái xuất sang hoặc là hàng nhái. Hơn nữa, tuy hàm lượng 3 - MCPD trong nước tương của họ cao hơn mức quy định của EU nhưng lại nằm trong phạm vi cho phép của Việt Nam! Sự kiện này lần đầu tiên đã cảnh báo các cơ quan chức năng và người tiêu dùng Việt Nam về tác hại của chất 3 - MCPD trong nước tương, một sản phẩm vốn được coi làa an toàn vì sản xuất từ đậu tương, là sản phẩm tự nhiên. Đây chính là yếu tố châm ngòi cho scandal năm 2007 về việc 90% doanh nghiệp sản xuất nước tương ở Việt Nam bị cơ quan chức năng tuyên bố vi phạm VSATTP, do hàm lượng chất 3 - MCPD
vượt quá mức cho phép, gây điêu đứng cho ngành công nghiệp này. Kể từ đó, toàn thể các doanh nghiệp sản xuất nước tương đều được yêu cầu phải dán nhãn: “Không có 3 - MCPD”lên sản phẩm của mình.
Có lẽ do vụ việc này đã quá nổi tiếng nên quan điểm của người được hỏi trong cuộcđiều tra này đã rõ ràng hơn. 33% số người được hỏi cho đó là “Vi phạm luật pháp”, 25% cho là “Vi phạm đạo đức kinh doanh” và 42% cho là vi phạm cả hai! Không ai coi doanh nghiệp là không vi phạm. Nhưng kết quả này vẫn cho thấy sự mơ hồ trong phân định giữa luật pháp và đạo đức kinh doanh, vì ở đây đúng ra là doanh nghiệp đã vi phạm cả hai, do khi XK hàng hóa vào nước nào phải tuân thủ quy định của nước đó.
Câu hỏi về trách nhiệm của doanh nghiệp với môi trường cũng dựa trên thực tế là có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam đã lợi dụng những yếu kém trong quy định về bảo vệ môi trường của Việt Nam để sử dụng những công nghệ sản xuất gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động và dân cư, nhằm tiết kiệm chi phí. Các ví dụ cho vấn đề này rất phổ biến ở Việt Nam như: các nhà máy dệt không có thiết bị làm sạch không khí, gây bệnh phổi cho công nhân và cư dân xung quanh, nhà máy da giầy sử dụng xả nước thải gây ô nhiễm nguồn nước, các công ty xây dựng không che chắn công trình gây ô nhiễm cho khu vực, không có thiết bị bảo hộ cho người lao động dẫn đến tỷ lệ tai
nạn lao động cao….Trong trường hợp này, doanh nghiệp tuy không vi phạm luật pháp nhưng rõ ràng đã cố tình vi phạm đạo đức kinh doanh, vì họ hoàn toàn ý thức được tác hại của hành vi này. Nhưng quan điểm của người được hỏi ở đây lại khá bao dung và ôn hòa! Trả lời cho câu hỏi: “Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty nước ngoài đến lập nhà máy ở Việt Nam để lợi dụng sự lỏng lẻo trong những quy định về môi trường của Việt Nam?“, chỉ có 75% cho là “Không thể chấp nhận được, họ đã vi phạm đạo đức kinh doanh”, còn 25% lạicho là “Bình thường thôi, kinh doanh cần biết tận dụng cơ hội”. Kết quả này cho thấy thực tế
là vấn đề môi trường còn ít được quan tâm ở Việt Nam và người Việt Nam còn quá lệ thuộc vào luật pháp khi đánh giá về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Vấn đề sở hữu trí tuệ (Intellectual property) ở Việt Nam
Đây là vấn đề nóng, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các nước đang pháttriển khác. Tình trạng vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân. Trước hết,cho đến đầu thế kỷ XX Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, những thành tựu về các sản phẩm cần bảo hộ như kiểu dáng công nghiệp, phát minh,… hầu như chưa có, nên không có các quy định về bảo hộ SHTT. Hơn nữa, là nước có nền văn hóa trọng tập thể, người Việt Nam không có truyền thống bảo hộ sở hữu cá nhân. Trong thời phong kiến và cả thời kỳ trước hội nhập ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ, đều sống bằng lương chứ luật pháp không quy định chế độ bản quyền tác giả, thù lao cho tác giả rất ít ỏi vì quan niệm là phải phục vụ tập thể. Vấn đề này chỉ được thật sự đặt ra sau năm 1991, khi Việt Nam thamgia vào tiến trình hội nhập và nhất là sau năm 1997, khi Việt Nam ký Hiệp định TRIPS. Nhưng với thời gian quá ngắn ngủi, chỉ hơn 10 năm so với lịch sử bảo hộ hàng trăm năm của các nước Âu - Mỹ, ý thức về bảo hộ quyền SHTT của người dân Việt Nam còn rất sơ sài. Một lý do nữa cho việc vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam là nguyên nhân kinh tế. Khi thu nhập của người dân còn quá thấp, trong khi giá cả các sản phẩm có bản quyền lại quá cao và rất phổ biến thì khó có thể hy vọng SHTT sẽ được tôn trọng. Một ví dụ về vấn đề này là về việc xuất bản cuốn sách về cậu bé phù thủy Harry Potter của J.K. Rowling, một tác phẩm văn học thiếu nhi rất được ưa chuộng ở Việt Nam. Tháng 8 năm 2007, cùng với thiếu
nhi trên toàn thế giới, trẻ em Việt Nam rất hồi hộp chờ mong tập 7 và cũng là tập cuối cùng trong Bộ sách này: Harry Potter and the Deathly Hallows, nhưng lúc đó chỉ có bản tiếng Anh. Cùng với phong trào học tiếng Anh, việc đọc sách bằng nguyên bản ngày càng phổ biến hơn. Hơn nữa, nếu muốn đọc bản dịch các em sẽ phải chờ chừng 6 tháng nữa. Nhưng các bậc cha mẹ ở Việt Nam lại bị đặt trước một tình thế nan giải nếu họ muốn bảo vệ bản quyền. Giá bìa của quyển sách này là 38 USD, trong khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2007 chỉ ở mức trên 600 USD và giá sách lậu chỉ có khoảng 7 USD.
Một cách vi phạm SHTT khá phổ biên ở Việt Nam là việc công ty cố tình đặt tên cho nhãn hiệu hàng hóa của mình tương tự một nhãn hiệu nổi tiếng đã có trước để trốn tránh luật rpháp và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Ví dụ cho tình trạng này quá nhiều, như Hongda và Honda, La Vierge và La Vie, … Kết quả điều tra về vấn đề này đã khẳng định cho nhận định trên về SHTT ở Việt Nam. Để trả lời cho câu hỏi: “Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty cố tình đặt tên nhãn hiệu hàng hóa của mình gần giống với một nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng ?", chỉ có 16 người cho là “Vi phạm luật pháp“, 37 người cho là: ”Vi phạm đạo
đức kinh doanh“, và 47 người cho là: “Không vi phạm gì cả vì không hoàn toàn giống“. Đáng chú ý là trong số 47 người không cho là vi phạm, có 8 người sinh viên, là nhóm người ít nhiều có được học về vấn đề này, chứng tỏ SHTT còn là vấn đề nan giải ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.4. Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động
Thời gian qua, đình công đang là một vấn đề nóng ở Việt Nam. Theo thống kê, từ năm 1995 đến nay tại Việt Nam đã xảy ra hơn 1.000 cuộc đình công lớn nhỏ. Chỉ tính riêng trong quý 1/2007 đã xảy ra 103 cuộc đình công tại 14/64 tỉnh, thành phố với hơn 62.700 lượt công nhân lao động tham gia. Nhiều nhất là tại Đồng Nai với 35 cuộc, tiếp đến là Bình Dương 22 cuộc, Tp.HCM 26 cuộc... trong đó 98/103 cuộc đình công là do lý do kinh tế. Các nguyên nhân chính dẫn đến đình công bao gồm:
- Người lao động không hài lòng với điều kiện làm việc, môi trường ô nhiễm, công cụ lao động không được thẩm tra, an toàn lao động kém, không có kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân công và tình trạng tai nạn nghề nghiệp khá phổ biến.
- Để thu hút đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư Việt Nam đưa ra mức lương tối thiểu rất thấp (chỉ có 35USD/tháng trong Luật ĐTNN 1997) nên mặc dù không làm trái luật pháp nhưng mức lương các doanh nghiệp trả cho lao động vẫn rất thấp so với mặt bằng giá cả. Vì thế, người lao động không hài lòng và không trung thành với doanh nghiệp.
- Xuất thân từ nông dân, hầu hết người lao động thiếu kiến thức về Luật Lao động và thiếu kỹ năng làm việc trong môi trường công nghiệp nên nanwg suất lao động thấp và có những phản ứng trái pháp luật khi có xung đột.
Điều đáng ngạc nhiên là tình trạng này xảy ra không chỉ ở các doanh nghiệp tư nhân trong nước, được coi là ít vốn và không am hiểu luật pháp, mà còn rất phổ biến ở nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Đài Loan và Hàn Quốc. Theo Viện Công nhân và Công đoàn thuộc Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong 10 năm qua đã có 878 cuộc đình công xảy ra tại các doanh nghiệp FDI, chiếm 70,7% tổng số cuộc đình công ở Việt Nam.
Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là sáng ngày 25 tháng 7 năm 2007, ở khu chế xuất Linh Trung I (quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh), một cuộc biểu tình của 1300 công nhân đã diễn ra tại công ty Danu Vina (công ty 100% vốn Hàn Quốc) vì chính sách lương bổng bất hợp lý của công ty này. Từ tháng 7 năm 2007, công ty tăng lương thêm 50.000 đồng (khoảng 3 USD) cho công nhân làm từ 1 đến 5 năm và 70000 đồng (gần 4 USD) cho công nhân làm từ 5 đến 7 năm. Tuy nhiên, việc tăng lương chỉ áp dụng cho những công nhân ký hợp đồng từ tháng 7 trở về trước của các năm, còn những người ký hợp đồng từ tháng 8 trở đi thì không giải quyết. Ngoài ra, công ty trả tiền chuyên cần ở mức 25.000 đồng/tháng là quá thấp, bữa ăn giữa ca trị giá 4.000 đồng không bảo đảm chất lượng; công ty không có nhà để xe, không có chỗ để giày dép dẫn đến xe hư, mất dép; phòng vệ sinh thiếu nước... ảnh hưởng đến sức khỏe và sự an toàn của người lao động.
Kết quả của một cuộc điều tra của Viện Công nhân và Công đoàn năm 2007, được tiến hành ở các địa phương tập trung nhiều công ty vốn đầu tư nước ngoài như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hải Dương, cho thấy công nhân tại 45% các công ty FDI than phiền về lương thấp, tại 16% công ty, công nhân phải làm thêm giờ quá nhiều (có doanh nghiệp làm thêm đến 500 - 600 giờ/năm). Hầu hết các công nhân ở các công ty có vốn đầu tư nước ngoài nhận mức lương chỉ khoảng từ 800.000 VND (50USD) đến 1.000.000 VND (62 USD) một tháng. Như vậy, chỉ có 30% công nhân ở công ty FDI có thể trang trải được chi phí cuộc sống. Để nâng cao thu nhập hàng tháng cho chi tiêu hàng ngày, 42,5% công nhân phải làm
thêm giờ, đặc biệt là những người làm trong ngành may mặc và thuộc da8. Ở trong nhiều xí nghiệp may mặc, tỷ lệ nữ công nhân làm việc thêm giờ lên tới 55%, nhiều người làm 16h một ngày đến khi ngất xỉu, nhưng cũng chỉ được nghỉ hôm đó, hôm sau phải đi làm tiếp nếu không muốn bị đuổi việc!9. Đây là một hành vi không thể tha thứ được!
Trong vòng ba năm kể từ 2007 trờ về trước, hơn 20% công nhân ở các công ty FDI không được tăng lương, mặc dù theo luật pháp, cứ ba năm công nhân phải được tăng lương một lần. Kể cả khi được tăng, mức tăng cũng ít hơn quy định. Rất nhiều xí nghiệp cũng không thực hiện những điều ghi trong hợp đồng với công nhân và các hợp đồng lao động tập thể, như mức tăng lương, giờ làm việc và các trợ cấp xã hội, bao gồm nghỉ phép định kỳ, đau ốm, tình trạng mang thai và đền bù cho tai nạn lao động. Cho đến nay, chỉ 50% công ty FDI ký hợp đồng lao động tập thể để đảm bảo lợi ích cho người lao động, điều dẫn đến bất
đồng giữa người lao động và chủ.
Để giải quyết tình trạng này, Viện đã tổ chức một cuộc thanh tra gắt gao và đưa ra những hình phạt cứng rắn cho những công ty vi phạm luật lao động, bao gồm cả thiếu cung cấp bảo hiểm y tế và bảo hiểm thân thể. Viện cũng đề nghị Nhà nước sửa đổi Luật Lao động và các luật có liên quan để xây dựng khung pháp lý cho đình công, bảo vệ được quyền lợi của cả người lao động lẫn chủ xí nghiệp10. Đây là một vấn đề cần được sớm giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và nâng cao tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư ở Việt Nam, nhằm thu thút các nhà đầu tư nước ngoài.
Có lẽ do vấn đề quan hệ chủ - thợ đã được đề cập nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, nên trong cuộc điều tra của chúng tôi, kết quả trả lời khá khả quan. Luật pháp Việt Nam quy định chủ doanh nghiệp không có quyền từ chối nhận lao động nữ với lý do đang nuôi con nhỏ, lao động nữ có con nhỏ dưới 3 tuổi được quyền đi làm muộn 1h và không bị buộc phải làm thêm giờ. Nhưng trên thực tế, quy định này chỉ được tuân thủ tại các cơ quan nhà nước và ít được để ý tại các doanh nghiệp tư nhân hay FDI. Khi được yêu cầu phát biểu quan điểm về việc “Một doanh nghiệp từ chối tiếp nhận lao động nữ đang nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi lao động nữ đang nuôi con dưới 3 tuổi”, 25% số người được hỏi cho là vi phạm luật pháp, 66,67% cho là vi phạm đạo đức kinh doanh và chỉ có 5 người (chiếm 8.33%) cho là không vi phạm, vì mọi người lao động có nghĩa vụ làm việc như nhau. Như vậy, chúng ta có thể cho là mặc dù còn những hạn chế về nhận thức nhưng đại đa số người tham gia điều tra đã có ý thức tương đối rõ ràng về vấn đề này!
1.5. Nghĩa vụ và trách nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà đầu tư
(The moral rights and duties between a company and its shareholders)
Đây là vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam do thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất non trẻ (chưa đầy 10 tuổi) nên những quy định về tính trung thực trong báo cáo tài chính, công khai thông tin với các nhà đầu tư của doanh nghiệp,… vẫn còn chưa chặt chẽ. Vì vậy, thời gian qua đã xuất hiện hiện tượng các doanh nghiệp đưa ra những thông tin chưa chính xác để trục lợi, gây lao đao cho nhiều nhà đầu tư.
Vụ việc nghiêm trọng đầu tiên là việc Joint stock Bien Hoa Confectionery Company (Bibica) gian dối trong việc khai báo kết quả kinh doanh năm 2002 và 6 tháng đầu năm 2003. Bibica là một trong 21 công ty đăng ký lên sàn đầu tiên ở Việt Nam và là công ty niêm yết đầu tiên trong ngành bánh kẹo. Vì vậy, các nhà đầu tư trông đợi rất nhiều vào lợi nhuận của công ty sau khi niêm yết. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, thời gian này công ty đã đồng loạt triển khai các dự án đầu tư mới nhằm mở rộng sản xuất – kinh doanh, đầu tư phát triển các sản phẩm mới (bánh trung thu, Layer Cake, chocolate), xây dựng Nhà máy Bánh kẹo Biên Hòa 2… nên số nợ ngân hàng gia tăng. Thêm vào đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng nhanh, tình hình nhân sự trong bộ phận Tài chinh - Kế toán có nhiều biến động đã làm gia tăng thêm các khó khăn cho công ty. Trước tình hình đó, công ty cần thu hút thêm các nhà đầu tư để gia tăng vốn nên đã đưa ra một báo cáo tài chính không chính xác. Khi vụ việc vỡ lở, các cổ đông được biết năm 2002, Công ty đã lỗ 10,086 tỷ đồng (tương đương 7.500.000 USD), gần gấp đôi con số lỗ 5,4 tỷ đồng mà công ty từng công bố. Hậu quả là giá cổ phiếu Bibica sụt thê thảm, gây thiệt hại lớn cho các cổ đông. Cùng thời điểm đó, Bibica phải đối mặt với hình phạt vì vi phạm luật quản lý chứng khoán của Ủy ban chứng khoán nhà nước (SCCI) và rơi vào tình trạng gần như phá sản. Nhưng do lợi nhuận trên thị trường chứng khoán quá lớn, nên những vụ việc tương tự vẫn tiếp diễn. Thiên Việt là một công ty chứng khóan mới thành lập đầu năm 2007, nhưng đã được các nhà đầu tư hết sức quan tâm vì Nguyễn Trung Hà, Chủ tịch của Thiên Việt là Phó TGĐ của một công ty hàng đầu Việt Nam và trong giấy tờ đăng ký kinh doanh,
Phạm Kinh Luân, một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực tài chính, được nêu tên với tư cách là Tổng Giám đốc của Thiên Việt. Vì vậy mặc dù chưa niêm yết nhưng cổ phiếu của Thiên Việt đã được các nhà đầu tư săn lùng. Đặc biệt, từ khi Ban Giám đốc Thiên Việt đưa ra thông tin là họ đã ký hợp đồng liên doanh với Goldman Sachs, một tập đòan tài chính hàng đầu của Mỹ, thậm chí Thiên Việt còn đưa ra bản thỏa thuận hợp tác với chữ ký của Chủ tịch Goldman Sachs và Thiên Việt với các phương tiện thông tin đại chúng, thế nên giá cổ phiếu của Thiên Việt tăng rất nhanh, gấp nhiều lần so với giá niêm yết. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau các phương tiện thông tin đại chúng đã cung cấp thông tin rằng Goldman Sachs từ chối hợp tác với Thiên Việt:
“Edward Naylor, Giám đốc bộ phận truyền thông của Goldman Sachs ở châu Á, trong email gửi cơ quan thông tấn Việt Nam, đã nhấn mạnh rằng Goldman Sachs không liên kết với công ty chứng khóan Thiên Việt.”
“Gần đây chúng tôi đã có một cuộc gặp mặt không chính thức mang tính chất thăm dò như chúng tôi đã thực hiện với các công ty chứng khoán khác,” bức thư viết. “Cho đến nay, đại diện của Thiên Việt và Goldman Sachs mới chỉ gặp mặt trong các buổi gặp “thăm dò” như Goldman Sachs với các công ty chứng khoán khác ở Việt Nam”.
Khi được hỏi về bản thỏa thuận hợp tác với chữ ký của cả hai bên mà Thiên Việt đã đưa ra cho các phương tiện thông tin đại chúng, ông Naylor nói rằng Goldman Sachs đôi khi ký những thỏa thuận tương tự với những công ty chứng khoán tư nhân khi tập đoàn đang tìm kiếm các cơ hội kinh doanh ở Việt Nam, để Goldman Sachs có thể thâm nhập được vào thị trường Việt Nam. Thỏa thuận đó không thể được coi là bằng chứng về một sự liên kết của 2 công ty”.
Thêm vào đó, ông Phạm Kinh Luân cũng cho biết ông chưa hề ký HĐ làm việc cho Thiên Việt. Vì vậy, Thiên Việt đã bị phạt nặng bởi Trung tâm giao dịch chứng khóan thành phố Hồ Chí Minh (HSTC) và Ủy ban chứng khoán nhà nước vì đưa ra thông tin không rõ ràng và không ngay thẳng. Người thiệt hại nhiều nhất ở đây chính là các nhà đầu tư, những người đã bị thu hút bởi những thông tin sai lệch mà Ban Giám đốc công ty Thiên Việt đưa ra.
Nhưng những vụ việc như vậy vẫn có nguy cơ xảy ra bất cứ lúc nào vì luật pháp cũng như ý thức của các nhà kinh doanh Việt Nam về vấn đề này còn chưa đầy đủ. Trong kinh doanh việc gặp khó khăn hay rủi ro là khá thường xuyên. Khi gặp tình huống này, những công ty uy tín trên thế giới thường chọn cách thông báo rộng rãi cho các cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn. Mặc dù tiềm ẩn nhiểu rủi ro nhưng cách này giúp công ty giữ được lòng tin của các nhà đầu tư, và thoát khỏi nguy cơ bị bỏ rơi khi thông tin bại lộ. Nhưng trong cuộc điều tra của chúng tôi, để trả lời câu hỏi : “Khi một dây chuyền sản xuất trong công ty bị hỏng, dẫn đến sản lượng sản xuất bị suy giảm, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra ngoài, cổ phiếu của công ty sẽ bị mất giá nghiêm
trọng, thì công ty nên làm gì?”, chỉ có 42% số người được hỏi chọn cách thông báo rộng rãi cho các nhà đầu tư, 50% chọn cách “Kìm giữ thông tin một thời gian để tìm cách sửa chữa dây chuyền sản xuất” và 8% chọn cách “Không thông báo gi cả cho đến khi bắt buộc!” Mặc dù kết quả này là khá khả quan,vì đến 92% số người được hỏi không có ý định che giấu thông tin, ít ra là trong một thời gian nhưng đây cũng là một thiếu sót trong nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam.
2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
2.1. Đánh giá về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Do điều kiện thời gian và thông tin nên chắc chắn bài viết này chưa thể trình bày được hết các khía cạnh về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua những ví dụ thực tế và kết quả điều tra nêu trên, bước đầu chúng ta cũng có thể đưa ra một số nhận xét sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam:
Hiểu biết của nhà kinh doanh cũng như người dân Việt Nam nói chung về đạo đức kinh doanh còn rất hạn chế, hầu hết đều gắn khái niệm đạo đức kinh doanh với tuân thủ pháp luật trong kinh doanh. Cách hiểu này đã thu hẹp đáng kể phạm vi áp dụng đạo đứckinh doanh, hơn nữa tại một quốc gia mà hệ thống phát luật chưa đầy đủ và chặt chẽ như Việt Nam thì cách hiểu này càng làm ý thức về đạo đức kinh doanh khó phát huy tác dụng.
Ý thức của người dân về những phạm trù như: Trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội, Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, Nghĩa vụ và trách nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà đầu tư còn khá mơ hồ, lệ thuộc vào luật pháp chứ chưa ý thức được trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng và xã hội. Một tỷ lệ cao những người được hỏi tỏ ra bị động, chỉ chịu thực thi trách nhiệm khi bị bắt buộc chứ chưa chủ động hành động vì lợi ích xã hội.
Điểm yếu kém nhất trong nhận thức của người Việt Nam thể hiện qua cuộc điều tra này chính là ý thức về môi trường và về vấn đề sở hữu trí tuệ. Điều này cũng trùng hợp với những kết quả điều tra của LHQ và những nguồn thông tin khác. Về lâu dài đây là vấn đề cần được lưu ý giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững cho Việt Nam.
Tuy nhiên, cuộc điều tra cũng cho thấy một số tín hiệu đáng mừng về tương lai của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Trước hết, 100% số người được hỏi đã từng được nghe về đạo đức kinh doanh. Mặc dù khái niệm đạo đức được truyền đạt còn mơ hồ nhưng chỉ riêng việc người dân có quan tâm nhều hơn tới vấn đề này cũng đã là một tín hiệu đáng mừng. Một khía cạnh đáng mừng nữa là kết quả trả lời của khối sinh viên, dù phần lớn là sinh viên năm thứ nhất, tức là chưa được đào tạo nhiều về kiến thức chuyên môn, nhưng đã chính xác hơn nhiều so vơi khối doanh nghiệp. Hầu hết sinh viên thường xuyên nghe nói về đạo đức kinh doanh (17/20 người được hỏi), cao hơn hẳn so với tỷ lệ chung (85% so với 67%). Tỷ lệ
sinh viên cho đạo đức kinh doanh là “bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng” cũng cao hơn nhiều so với tỷ lệ chung (35% so với 8%). Trong tình huống 3, để trả lời câu hỏi về phản ứng của doanh nghiệp với việc hàng của công ty bị kẻ xấu đánh tráo, không sinh viên nào đồng ý với phương án “Không thông báo gì cả vì không phải là lỗi của doanh nghiệp”, so với 8% tỷ lệ chung. Trong tình huống 6, khi trả lời câu hỏi về việc một công ty nước ngoài đến lập nhà máy ở Việt Nam để trốn tránh sự lỏng lẻo trong những quy định về môi trường của Việt Nam, không sinh viên nào đồng ý với phương án “Doanh nghiệp được phép tận dụng cơ hội” so với 25% tỷ lệ chung. Nhưng trong tình huống số 7 về sự kiện “một dây chuyền sản xuất trong công ty bị hỏng, dẫn đến sản lượng sản xuất bị sút giảm nghiêm trọng, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra ngoài, cổ phiếu của công ty sẽ bị sút giảm nghiêm trọng“, mặc dù có tới 65% sinh viên cho là doanh nghiệp cần “Thông báo rộng rãi cho các cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn” so với 42% tỷ lệ chung, nhưng lại có tới 3 sinh viên (chiếm 15% so với so với tỷ lệ chung là 8%) cho là nên “Không thông báo gi cả cho đến khi bắt buộc”. Kết quả này có thể bắt nguồn từ việc thị trường chứng khoán còn quá mới mẻ ở Việt Nam, các em lại là sinh viên những năm đầu nên những hiểu biết về trách nhiệm của doanh nghiệp với thị trường này chưa nhiều. Tương tự như vậy, trong câu số 8 về quan điểm trước việc “Một doanh nghiệp từ chối tiếp nhận lao
động nữ đang nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi lao động nữ đang nuôi con dưới 3 tuổi”, cũng có tới 40% sinh viên cho đó là vi phạm luật pháp so với 24% tỷ lệ chung, nhưng vẫn còn 15% so với 8% tỷ lệ chung cho là “Không vi phạm vì mọi người lao động phải có nghĩa vụ làm việc như nhau!” Đây có lẽ là kết quả của việc thiếu hiểu biết về luật lao động và thói quen áp dụng máy móc những nguyên tắc về bình đẳng giới, vốn được tuyên truyền rất phổ biến ở Việt Nam. Mặc dù kết quả điều tra về hai khía cạnh này chưa cao, nhưng nhìn chung, nhận thức của khối sinh viên về đạo đức kinh doanh rõ ràng cao hơn và thể hiện một tinh thần trách nhiệm tốt hơn so với kết quả điều tra chung.
Với số mẫu điều tra còn ít ỏi nhưng những kết quả khảo sát ban đầu của khối sinh viên, những nhà kinh doanh tương lai, cũng có thể coi là tín hiệu khả quan về nâng cao nhận thức của giới doanh nhân Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Một số đề xuất nhằm phát triển và hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Qua những ví dụ thực tế và số liệu thu thập được về trạng đạo đức kinh doanh ở Việt nam, chúng ta có thể thấy mặc dù có một số tín hiệu khả quan, nhưng hiểu biết về đạo đức kinh doanh của cả giới trí thức và giới doanh nghiệp ở Việt Nam đều có những thiếu sót nghiêm trọng. Những thiếu sót này không những đã gây tác hại cho người tiêu dùng, cho các nhà kinh doanh, cho xã hội mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của doanh nghiệp, làm doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và lâu dài sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia trên thị trường quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, tác giả xin mạn dạn đưa ra một số đề xuất sau:
Trước hết, cần nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện khung luật pháp Việt nam nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho đạo đức kinh doanh
Đây là biện pháp tiên quyết, vì luật pháp chính là khung dễ thấy nhất cho đạo đức kinh doanh. Cần hoàn thiện các Bộ Luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ Người tiêu dùng, Luật Môi trường… Một nguyên nhân quan trọng cho tình trạng yếu kém của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay xuất phát từ sự thiếu hoàn thiện trong pháp luật Việt nam. Nếu luật pháp quy định chặt chẽ hơn, hợp lý hơn sẽ tránh được tình trạng doanh nghiệp nệ vào sự sơ hở của luật pháp mà trốn tránh nghĩa vụ đạo đức của mình. Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là Luật bảo vệ người tiêu dùng. Vừa
qua, tại Hội thảo “Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và định hướng xây dựng Luật Bảo vệ quyền người tiêu dùng” do Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) vừa tổ chức tại Hà Nội, ông Hank Baker (đại diện Dự án Star Việt Nam) khẳng định, người tiêu dùng Việt Nam chưa được đảm bảo quyền lợi khi sử dụng các hàng hóa, dịch vụ. Đa số vẫn trông chờ vào “lòng tốt” của người bán hàng khi mua các sản phẩm trên thị trường.Theo ông Baker : “Khi gặp một sản phẩm không ưng ý, chúng ta vẫn hy vọng mình sẽ may mắn lấy lại được tiền. Trong khi đó, trên thị trường lại có quá nhiều người bán hàng không có tâm với hàng hóa mình bán ra. Hậu quả cuối cùng là người tiêu dùng phải chịu thiệt thòi”.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng tại Việt Nam chưa được thực thi một cách hiệu quả. Theo bà Vũ Thị Bạch Nga, Trưởng Ban Bảo vệ người tiêu dùng (Cục Quản lý cạnh tranh), hiện chỉ có hai văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này là Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (năm 1999) và Nghị định 55/2008/NĐ - CP ngày 24/4/2008 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh này. Tuy nhiên, bà Nga cho biết, các quy định của pháp lệnh lại chưa phát huy được hiệu lực trên thực tế. Quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng đang được quy định rất
chung chung. Các quy định mới chỉ được “gọi tên” mà chưa đi sâu phân tích bản chất cụ thế của các quyền và trách nhiệm đó. Ví dụ, điều 8 của Pháp lệnh có ghi : « người tiêu dùng được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe và môi trường khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ... » nhưng lại không quy định quyền này được thể hiện như thế nào trên thực tế? Người tiêu dùng phải làm gì để được đảm bảo an toàn? Ngoài ra, còn tồn tại những bất cập trong quy định về quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Luật Bảo vệ Người tiêu dùng cũng không quy định các chế tài để xử lý hành vi vi phạm của tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ như cân, đong sai, thông tin về dịch vụ hàng hóa thiếu trung thực... “Điều 16 của Pháp lệnh quy định, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải giải quyết kịp thời mọi khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ của mình khi chúng không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục ra sao, hậu quả pháp lý mà cá nhân tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện yêu cầu này như thế nào lại không được nói tới”, bà Nga phân tích. Có mặt tại cuộc Hội thảo, Đại diện Cục Quản lý cạnh tranh cũng cho rằng, những quy định về quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vẫn còn mang tính chất “nghị quyết”, chưa thực sự đảm bảo cơ chế cho việc thực thi các quyền này. Theo đại diện Cục Quản lý cạnh tranh, những hạn chế trong các văn bản quy phạm pháp luật đã khiến cho người tiêu dùng Việt Nam chưa được bảo vệ tốt nhất về quyền lợi. Tuy nhiên, ông Hank Baker tỏ ý quan ngại rằng, nếu dự luật vẫn được thiết kế theo cách cũ là tập trung xử phạt hành vi vi phạm, thì hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng không cao. Theo ông Hank Baker, yêu cầu đặt ra lúc này đối với thực tế Việt Nam là cần có luật về hội để tăng cường vai trò của các hội trong công tác bảo vệ người tiêu dùng. Nếu không nhanh chóng sửa đổi những thiếu sót này thì quyền lợi của người tiêu dùng vẫn chưa được đảm bảo, hay như ông Hank Baker thừa nhận: “Tôi không thích là người tiêu dùng Việt Nam!”.
Cần nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Cần lưu ý là không chỉ các nhà kinh doanh, các nhà nghiên cứu mới cần nắm được kiến thức về đạo đức kinh doanh mà cả xã hội cần ý thức điều này. Vi vậy, trước hết các phương tiện thông tin đại chúng nên tiến hành phổ cập các kiến thức về đạo đức kinh doanh nhằm định hướng hành vi của người dân, để người dân có thể nắm được nhằm tự bảo vệ quyền lợi cho mình và giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Tiếp theo, các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, hướng dẫn doanh nghiệp như Bộ Công thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, Sở Kế hoạch - Đầu tư ở các tỉnh, Thành phố cần quan tâm phổ biến những kiến thức chung nhất về đạo đức kinh doanh. Việc này có thể tiến
hành bằng nhiều cách như tổ chức các lớp học cho doanh nghiệp về đạo đức kinh doanh, chọn lựa dịch và xuất bản một số sách có uy tín của nước ngoài về đề tài này… Nên lưu ý là sách cho doanh nghiệp cần ngắn gọn, nhiều tình huống thực tế, kiểu Cẩm nang về đạo đức kinh doanh chẳng hạn… Các Trường Cao đẳng, Đại học khối Kinh tế cũng cần đưa nội dung về đạo đức kinh doanh vào chương trình đào tạo của mình, có thể dưới dạng một môn riêng hay gài vào các môn học khác như quản trị nhân sự, nghiệp vụ kinh doanh… Vì bản quyền của các sách kinh doanh thường đắt và dịch thuật không dễ dàng, nên có thể tranh thủ sự trợ giúp của các tổ chức nước ngoài để đảm bảo hiệu quả cho việc làm này. Một ví dụ
cho cách làm này là sự kiện tháng 3 năm 2008, Trung tâm Thông tin thuộc Đại sứ quán Hoa Kỳ đã tài trợ cho Nhà Xuất bản Trẻ để dịch và xuất bản cuốn “Business Ethics: A Manual For Managing A Responsible Business Enterprise In Emerging Market Economies” của các tác giả Igor Y. Abramov, Kenneth W. Johnson and Donald L. Evans, Nhà xuất bản Diane Pub Co mới phát hành tháng 5 năm 2004, một cuốn sách được đánh giá là có uy tín trong giới nghiên cứu. Đây là một cách làm hay, trên thế giới hiện nay có khá nhiều tổ chức có uy tín về đạo đức kinh doanh như Hiệp hội Quốc tế về Kinh doanh,Kinh tế và Đạo đức (The International Society of Business Economics and Ethics - ISBEE), được thành lập từ năm 1989, có trụ sở chính ở Mỹ, và là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức các Đại hội về Đạo đức kinh doanh 4 năm 1 lần…. Nếu tranh thủ được sự trợ giúp của họ để lưu hành và phổ biến những tài liệu có chất lượng về vấn đề này sẽ tiết kiệm được kinh phí và phổ biến được những kiến thức tiên tiến nhất.
Cần có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh của mình
Chúng ta cần ý thức rằng, không có ranh giới cố định nào đạo đức mà đạo đức là một phạm trù mà con người luôn cần vươn lên để đạt đến nó. Rất khó kiểm soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật rất nhiều. Với đạo đức kinh doanh, vấn đề còn phức tạp hơn vì việc tuân thủ đạo đức trong ngắn hạn thường không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, trong khi lợi nhuận mới là mục đích chính của doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan hữu quan cần có những biện pháp để khuyến khích doanh nghiệp có thành tích trong đạo đức kinh doanh như trong các giải Sao Vàng Đất Việt, Bông Hồng Vàng… có thể đưa việc có thành tích trong đạo đức kinh doanh là một tiêu chuẩn để xét. Các cơ quan thông tin đại chúng có thể đăng bài tôn vinh những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này… Ngược lại, các cơ
quan quản lý cũng cần có biện pháp phạt những doanh nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh với mức phạt tương xứng. Không thể tiếp tục tình trạng doanh nghiệp buộc người lao động làm thêm giờ 16 - 20h/ngày hàng tuần liền đến mức lao động ngất xỉu mà chỉ bị phạt vài triệu VND; Các doanh nghiệp vi phạm quy định bảo vệ môi trường như xả hóa chất ra sông làm cá chết hàng loạt,người dân không có nước sinh hoạt, etc. mà lại được cho phép tiếp tục hoạt động trong khi tìm biện pháp xử lý….
Cũng như văn hóa, đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng là những phạm trù phức tạp, cần nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện và phát triển. Là một quốc gia đang phát triển, mới tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa, những phạm trù như văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh còn khá mới mẻ ở Việt nam. Được biết trong thời gian tới, chính phủ Việt Nam đang có chủ trương nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan đến hội nhập KTQT và toàn cầu hóa. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường Đại học và Cao đẳng cần đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với trình độ chung trên thế giới. Có được những yếu tố thuận lợi này và truyền thống đạo đức lâu đời của người Việt Nam, hy vọng là trong thời gian tới,
nhận thức của người VN về DDKD sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy trì sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt Nam .
V-Một Số ví dụ thực tiễn về đạo đức kinh doanh :
Chuyện kể rằng, có một cậu bé tên Mạc Đỉnh Chi tuy nhà nghèo nhưng rất ham học. Nhà nghèo, cậu bé không thể đến lớp cùng bè bạn mà chỉ đứng ngoài lớp học nghe thầy giảng bài. Đêm đến, không có đèn thắp sáng, cậu bé phải bắt đom đóm rồi cho vào vỏ quả trứng để có ánh sáng học bài. Chính lòng say mê ham học ấy, sau này cậu đã đỗ trạng nguyên, học vị cao nhất thời bấy giờ. Mạc Đỉnh Chi đã trở thành một tấm gương vượt khó học giỏi và câu chuyện đom đóm đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Thấu hiểu được tinh thần ham học, vượt khó của câu chuyện Đom Đóm, Dutch Lady Việt Nam phối hợp với báo Khăn Quàng Đỏ tổ chức chương trình khuyến học “Đèn Đom Đóm” với mong muốn thắp sáng ước mơ cho những mảnh đời trẻ thơ nhọc nhằn. Câu chuyện của chú đom đóm nhỏ bay đến mọi nơi của đất nước mang ánh sáng của tri thức đến hàng ngàn trẻ em nghèo hiếu học bắt đầu từ đây. Chỉ với một thao tác đơn giản cùng một tin nhắn, bạn đã có cơ hội giúp đỡ các mảnh đời nhỏ hiếu học được cắp sách đến trường. Với mong muốn mạng lại niềm vui cho các em, VHT Corp. cùng Dutch Lady thực hiện chương trình khuyến học “Đèn Đom Đóm”. Chương trình khuyến học Đèn Đom Đóm của Dutch Lady được triển khai từ năm 2002. Để chung tay ủng hộ chương trình Đèn Đom Đóm, hãy soạn tin : DDD [Mã trường] gửi 8704 (15.000 VNĐ/tin).
Chương trình phát triển ngành sữa:
Dutch Lady Việt Nam triển khai “Chương trình Phát triển Ngành sữa”, nhằm hỗ trợ nông dân chăn nuôi bò sữa. Chương trình này hướng tới việc xây dựng mối quan hệ bền vững với người chăn nuôi bò sữa địa phương vì họ sẽ là những người cung cấp sữa tươi cho công ty.
Chương trình được khởi sự vào tháng 9 năm 1995 với tổng số tiền đầu tư ban đầu là 6,6 triệu USD, hoạt động trong vòng 10 năm. Do sự thành công của chương trình nên công ty đã quyết định tiếp tục mở rộng tài trợ cho chương trình kể từ năm 2006.
Hệ thống thu mua sữa
Mục tiêu quan trọng nhất củaChương trình Phát triển Ngành sữa là cải thiện cơ sở hạ tầng của hệ thống thu mua sữa. Do người nông dân chăn nuôi bò sữa hiện diện khắp các vùng nông thôn nên Công ty đã xây dựng mạng lưới gồm 39 Điểm Thu Mua để họ có thể bán sữa trực tiếp cho công ty. Những điểm thu mua này nằm được đặt tại các tỉnh Bình Dương, Long An, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh.
Thêm vào đó, công ty đã thành lập 3 Trung tâm Làm lạnh với tổng số tiền đầu tư là 1,7 triệu USD, sữa thu mua từ nông dân được làm lạnh tại đây trước khi được vận chuyển về nhà máy chế biến của Dutch Lady Việt Nam. Hiện nay, có khoảng 2.300 hộ chăn nuôi bò sữa tham gia vào Chương trình Phát triển Ngành sữa và dự kiến vào cuối năm 2006, họ cung cấp khỏang 90 tấn sữa tươi mỗi ngày với sản lượng sữa không ngừng nâng cao.
Quản lý chất lượng.
Sữa tươi xuyên suốt hệ thống từ nông trại về nhà máy là chìa khóa cho sự thành công của Chương trình Phát triển Ngành sữa. Muốn như vậy, không chỉ những người nông dân cần được truyền đạt về quy trình khai thác và vận chuyển sữa hợp vệ sinh; mà đội ngũ nhân viên của Chương trình Phát triển Ngành sữa cũng cần được tập huấn cách tốt nhất để duy trì chất lượng sữa trong toàn bộ hệ thống thu mua sữa. Cơ sở hạ tầng và tổ chức của hệ thống thu mua sữa được hỗ trợ và củng cố bởi hệ thống quản lý ISO. Hiệu quả của hệ thống quản lý chất lượng này là đem lại lợi ích cho người nông dân nhờ việc sản xuất ra sữa với chất lượng cao nhất từ đó gia tăng nguồn thu từ sữa; và lợi ích cho Dutch Lady Việt Nam thông qua việc mua được sữa chất lượng cao.
Phương thức chi trả tiền sữa.
Minh bạch - được áp dụng nhằm khuyến khích nông dân sản xuất sữa với chất lượng cao. Nông dân có thể nhận giá sữa cao hơn giá sữa chuẩn tùy thuộc vào chất lượng sữa cao hơn mà họ giao bán. Dutch Lady Việt Nam là công ty đầu tiên áp dụng phương thức trả tiền sữa cho phần chất lượng vượt chuẩn này.
Dịch vụ hỗ trợ nông dân :
Dutch Lady Việt Nam có đội ngũ nhân viên khuyến nông lành nghề, cung cấp các dịch vụ miễn phí cho nông dân như gieo tinh nhân tạo và dịch vụ thú y. Nông dân chỉ phải trả tiền thuốc thú y với giá thấp. Đội ngũ nhân viên khuyến nông được huấn luyện chuyên môn về kỹ thuật chăn nuôi bò sữa. Dutch Lady Việt Nam cũng tài trợ những khóa huấn luyện cho nhân viên khuyến nông về kỹ thuật chăn nuôi bò sữa chuyên nghiệp tại Hà Lan.
Tập huấn nông dân .
Việc tập huấn nông dân dựa theo phương pháp học qua thực hành và quan sát. Mục tiêu chính của tập huấn là giúp nông dân tăng khả năng hiểu biết về lợi ích chung của việc đạt được chất lượng sữa cao hơn, và nâng cao kiến thức và kỹ năng cho người nông dân để cải thiện chất lượng sữa. Cả người bán sữa và Dutch Lady Việt Nam không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến sức khỏe người tiêu dùng.
Chương trình tập huấn không chỉ tập trung vào việc huấn luyện nông dân sản xuất ra sữa đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cao mà còn tập trung vào các chủ đề khác như chăm sóc thú y, vệ sinh, kỹ thuật vắt sữa, cách chọn giống, và chăm sóc bò trong thời kỳ mang thai và khi đẻ…Nông dân được mời tham gia tập huấn tại trung tâm huấn luyện và trại bò kiểu mẫu của Dutch Lady Việt Nam. Họ được cung cấp miễn phí các phương tiện học tập.
Dutch Lady Việt Nam đề cao tình trạng vệ sinh của sữa tươi và cách sản xuất sữa tại trại bò. Để kiểm soát việc sản xuất sữa tại trại và để khuyến khích nông dân sản xuất sữa tươi trong điều kiện vệ sinh tốt, Dutch Lady Việt Nam áp dụng tiền thưởng vệ sinh sữa thêm vào cho giá sữa. Điều này cho phép người nông dân chăn nuôi bò sữa nhận được khoản tiền trả thêm vào tiền bán sữa, với điều kiện là họ quan tâm để các dụng cụ dùng trong vắt sữa luôn sạch sẽ và có kỹ thuật nuôi bò sữa phù hợp.
Lợi ích cho người chăn nuôi bò sữa :
Chương trình Phát triển Ngành sữa cung cấp một chương trình tập huấn kỹ thuật hữu hiệu cho cả những người chăn nuôi với quy mô nhỏ và quy mô lớn hơn. Họ học được các kỹ thuật mới trong chăn nuôi bò sữa và cải thiện chất lượng sữa. Nông dân cảm thấy an tâm hơn vì rủi ro từ chăn nuôi bò sữa đã giảm xuống. Họ có thể yêu cầu hỗ trợ từ đội ngũ nhân viên kỹ thuật của công ty bất cứ khi nào họ gặp khó khăn.
+ Lợi ích kinh tế: nông dân bán sữa không qua trung gian, họ nhận được giá sữa thỏa đáng khi bán sữa trực tiếp cho công ty. Thêm vào đó, công ty đã khởi tạo một thị trường tiêu thụ sữa tươi cho người nông dân.
Chương trình Phát triển Ngành sữa đã thiết lập một thị trường tiêu thụ sữa ổn định cho người chăn nuôi bò sữa ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, mà trước đây bị chi phối bởi giới mua bán trung gian. Nhờ mạng luới hỗ trợ dịch vụ rộng khắp và các khóa tập huấn do chương trình tổ chức, nông dân sản xuất sữa vượt tiêu chuẩn chất lượng sữa yêu cầu. Kết quả là nông dân nhận được giá sữa cao nhất trên toàn quốc hiện nay.
Đóng góp nhỏ bé mang đến niềm vui lớn lao!
Trong chuyến hành trình mang niềm vui và hy vọng đến cho các em học sinh ngèo hiếu học, chương trình khuyến học Đèn Đom Đóm không chỉ là một họat động của riêng Dutch Lady Việt Nam (DLV) mà còn đặc biệt nhận được sự ủng hộ và chia sẻ từ nhiều đơn vị và các cá nhân khác. Chị Nguyễn Thị Bích Thảo - khách hàng may mắn trúng giải nhất trong chương trình khuyến mãi “Cào và trúng hàng triệu giải thưởng” đã trích một phần tiền ủng hộ cho quỹ khuyến học Đèn Đom Đóm với tâm sự “Thông qua quỹ khuyến học Đèn Đom Đóm, tôi muốn được chia sẻ may mắn với các em và giúp một phần sức để các em tiếp tục học tập”. Các đối tác của DLV như công ty quảng cáo Mindshare, Leo Burnett, công ty liên doanh bao bì United, báo Khăn Quàng Đỏ… đã gửi tặng máy in, đồng phục học sinh, sách báo và cả tiền mặt như một sự chung tay khuyến khích tinh thần ham học vượt khó của các em.
Tinh thần chia sẻ của chương trình được thể hiện rõ nét bằng sự nhiệt tình của 120 nhân viên công ty, các đối tác kinh doanh, các nhà báo khi tham gia sơn, dọn trường Đèn Đom Đóm tại Dak Nhau, Bình Phước. Đặc biệt, các nhà phân phối và anh em bán hàng – những người đã luôn đồng hành cùng chương trình từ lễ trao học bổng hằng năm đến dự án xây trường Đèn Đom Đóm không đơn thuần thực hiện chương trình như một trách nhiệm đối với công ty mà còn bằng tất cả lòng tự nguyện và muốn chia sẻ với những em nhỏ ngay trên quê hương mình. Tháng 4/2007, nhà phân phối Hạnh Đức tại tỉnh Dak Lak đã chủ động hỗ trợ thêm 2 phần học bổng cho em Nguyễn Thị Hồng Sen, học sinh lớp 8A3 và em Yến Nhi học sinh lớp 6A6 trường trung học Nguyễn Trường Tộ, tỉnh Dak Lak để khuyến khích tinh thần vượt khó và tạo điều kiện giúp các em tiếp tục học tập.
Mỗi một đóng góp, dù nhỏ bé, dù bằng công sức hay bằng hiện vật cho chương trình khuyến học Đèn Đom Đóm đều mang một ý nghĩa đặc biệt không chỉ đối với các em học sinh nghèo hiếu học mà đó còn là cách mỗi cá nhân thể hiện sự quan tâm chia sẻ của mình đối với cộng đồng.
Để đáp ứng nhu cầu về sân chơi bổ ích cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện và góp phần thực hiện phong trào xây dựng trường học thân thiện, vừa qua Vụ Giáo dục Tiểu học – Bộ Giáo dục & Đào tạo phối hợp với nhãn hàng Cô Gái Hà Lan của công ty Friesland Campina Việt Nam, chính thức phát động cuộc thi mang tên “Cùng Cô Gái Hà Lan xây sân chơi kỳ diệu” dành cho các em học sinh tiểu học (từ lớp 1 – lớp 5) trên phạm vi cả nước .
Chơi và học là điều kiện cần và đủ để trẻ phát triển toàn diện. Các em học sinh tiểu học đa phần có mặt ở trường từ sáng tới chiều. Vì vậy, trường học sẽ phải là nơi có những sân chơi phù hợp giúp cho các em cân bằng giữa hai yếu tố: học hành và vui chơi giải trí. Bên cạnh đó, vui chơi còn là một cách học hỏi thú vị và trẻ sẽ học tốt hơn khi chúng được vui chơi. Đây không chỉ là nhu cầu mà còn là ước mơ của rất nhiều trẻ em .
Xuất phát từ nhu cầu có thực đó và với mong muốn hiện thực hoá ước mơ của các em, chương trình “Cùng Cô Gái Hà Lan xây sân chơi kỳ diệu” sẽ là một một sân chơi lớn cho các em học sinh tiểu học trên cả nước, kéo dài liên tục trong 2 tháng từ ngày 01/03/2011 đến hết ngày 30/04/2011. Cuộc thi sẽ hướng các em đến những suy nghĩ tự do, bay bổng, khuyến khích trí tưởng tượng, tài sáng tạo với hình thức thi vẽ tranh (hoặc miêu tả) về sân chơi mơ ước của mình. Phần thưởng đặc biệt dành cho các tác phẩm đoạt giải là 6 sân chơi trị giá 400 triệu/sân chơi, được hiện thực hóa từ tranh vẽ (hoặc miêu tả) của chính các em, do nhãn hàng Cô Gái Hà Lan xây dựng tại chính ngôi trường mà các em đang theo học. Các bé có tác phẩm đạt giải sẽ được vinh danh là “nhà thiết kế tài ba tí hon”
Ông Lê Tiến Thành, Vụ trưởng vụ Tiểu Học cho biết thêm: “Theo tiêu chuẩn đánh giá trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia của Bộ GD-ĐT, các trường tiểu học phải có sân chơi, sân tập thể dục và cây bóng mát (khu đất làm sân chơi, bãi tập không dưới 30% diện tích mặt bằng của trường). Nên cuộc thi chính là cơ hội lớn đối với những trường còn chưa có sân chơi và cũng góp phần thực hiện phong trào xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực. Chúng tôi mong muốn các bậc phụ huynh, các thầy cô tích cực hỗ trợ, khuyến khích và tạo mọi điều kiện để các em tham gia vào cuộc thi này.”
Bà Nguyễn Phạm Thị Diễm Hương, Trưởng phòng tiếp thị tiêu dùng của nhãn hàng Cô Gái Hà Lan cho biết: “Hoạt động vui chơi góp phần phát triển trí lực, thể lực cho học sinh và ở mỗi bậc học, các em có nhu cầu về sân chơi khác nhau. Ở bậc tiểu học, các em càng cần có sân chơi hơn vì các em đang ở độ tuổi hiếu động, thích tìm tòi khám phá, sáng tạo. Sân chơi không đơn thuần là nơi vui chơi, mà đó còn là nơi để các em thỏa sức sáng tạo sau những giờ học căng thẳng. Chính vì thế, thông qua chương trình, chúng tôi muốn khơi gợi sự sáng tạo của các em, giúp các em thực hiện những “điều kỳ diệu” ở độ tuổi của mình và từ đó tạo ra những sân chơi bổ ích, lành mạnh giúp các em phát triển cả về thể lực lẫn trí lực".
Cuộc thi một lần nữa khẳng định triết lý kinh doanh luôn hướng về cộng đồng, nhất là chăm lo phát triển cho những mầm non tương lai của tập đoàn FrieslandCampina nói chung, của nhãn hàng Cô Gái Hà Lan nói riêng nhằm phát huy những giá trị đích thực, thể hiện đúng cam kết luôn đồng hành cùng người tiêu dùng Việt Nam.Chương trình được tiến hành trong thời gian từ ngày 1/3/2011 đến hết ngày 30/4/2011 với những nội dung chi tiết như sau:
1. Thể lệ chương trình:
Trên mỗi lốc sữa tiệt trùng 180ml (không đường, có đường, hương dâu, sôcôla) hoặc sữa chua uống tiệt trùng 180ml (hương dâu, hương cam) có đính kèm 1 tờ rơi
- Bước 1: Bé cùng thu thập thật nhiều tờ rơi đính trên sản phẩm
- Bước 2: Bé sáng tạo và thể hiện ý tưởng của mình về một sân chơi kỳ diệu bằng bản vẽ thiết kế (vẽ hoặc miêu tả) rồi nộp cùng với tờ rơi thu thập được cho trường nơi bé đang học.
- Bước 3: Trường chọn và gửi những bản thiết kế về nhãn hàng Dutch Lady để được tham gia bình chọn.
Ghi Chú: Chương trình áp dụng cho các trường tiểu học trên toàn quốc. Mỗi trường nộp tối đa 15 bản thiết kế cùng ít nhất 500 tờ rơi (số lượng tờ rơi càng nhiều, khả năng bình chọn càng cao).
2. Cơ cấu giải thưởng: - Giải đặc biệt: 6 giải, mỗi giải trị giá 400 triệu đồng, cho 6 trường nộp bản thiết kế hay và có tính khả thi nhất cùng với số lượng tờ rơi nhiều nhất.
Số tiền 400 triệu sẽ được nhãn hàng Dutch Lady sử dụng để hiện thực hóa bản thiết kế cho trường hoặc được trao nếu trường không có diện tích xây dựng sân chơi. - Giải khuyến khích: 100 giải, mỗi giải trị giá 100 thùng sữa tiệt trùng Dutch Lady 110ml cho 100 trường có số tờ rơi nhiều nhất
- Phần thưởng cho bé có thiết kế được chọn: Được vinh danh là “nhà thiết kế tí hon tài ba”.
KTNT- Nhằm hỗ trợ giúp đồng bào miền Trung gặp khó khăn trong đợt mưa lũ vừa qua. Công ty Cổ phần sữa Cô gái Hà Lan đã chuyển 21.000 thùng sữa (trị giá hơn 4 tỷ đồng) về các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị và Huế.
Bên cạnh đó, công ty cũng đã kêu gọi nhân viên toàn công ty đóng góp để giúp đỡ cho người dân các tỉnh Miên Trung. Toàn bộ số tiền quyên góp được cũng sẽ được dành cho việc giúp đỡ người dân khắc phục hậu quả của đợt lũ.Ông Trần Quốc Huân, Giám đốc Thương mại công ty, người trực tiếp tham gia chỉ đạo và giám sát việc vận chuyển & đưa số hàng cứu trợ đến với người dân vùng lũ chia sẻ: “Trong những ngày này, cả nước đều đang hướng về khúc ruột miền Trung, nơi người dân đang phải vật lộn với những trận lũ liên tiếp. Là một doanh nghiệp luôn hướng về cộng đồng, chúng tôi hy vọng những hỗ trợ của công ty sẽ phần nào giúp bà con vượt qua những khó khăn trước mắt, cùng với cả nước tiếp thêm sức mạnh tinh thần và vật chất giúp người dân từng bước khắc phục hậu quả và ổn định cuộc sống”.
Ngày 10/3, nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan cùng Viện Dinh dưỡng Quốc gia (NIN) đã công bố việc hợp tác thực hiện công trình nghiên cứu về khoa học dinh dưỡng nhằm tìm hiểu rõ hơn tình trạng dinh dưỡng, phát triển trí tuệ và vận động thể lực của trẻ em tại Việt Nam.
Đây là một trong những nghiên cứu quy mô lớn và chuyên sâu nhất được thực hiện tại khu vực trong những năm gần đây. Nghiên cứu bao gồm nhiều chỉ tiêu đánh giá được thực hiện với gần 3.000 trẻ em dưới 12 tuổi tham gia trên phạm vi toàn quốc. Đây là một phần của chương trình nghiên cứu dinh dưỡng do Royal FrieslandCampina, tập đoàn sữa sở hữu nhãn hiệu Cô gái Hà Lan, thực hiện tại khu vực Đông Nam Á. Cùng với Việt Nam, nghiên cứu cũng được tiến hành tại các nước trong khu vực gồm Indonesia, Thái Lan và Malaysia.
Cuộc nghiên cứu này sẽ cho phép nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan xác định những nhu cầu cấp thiết trong việc tăng cường sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho công ty phát triển những sản phẩm dinh dưỡng tốt hơn, nhằm đáp ứng đúng nhu cầu dinh dưỡng đặc thù của trẻ em Việt Nam. Kết quả nghiên cứu này đồng thời cung cấp một cái nhìn chuyên sâu về tình trạng phát triển của trẻ em Việt Nam so với các trẻ cùng lứa tuổi tại các quốc gia khác trong khu vực.
So với các nghiên cứu trước đây từng thực hiện tại Việt Nam, nghiên cứu này được thực hiện sâu rộng hơn, không chỉ xem xét về chế độ dinh dưỡng mà còn đánh giá tầm ảnh hưởng và mối tương quan giữa chế độ dinh dưỡng với sự phát triển trí tuệ và vận động thể lực của trẻ em. Không dừng lại ở đó, kết quả chuyên sâu này sẽ được biến thành hành động nhằm hỗ trợ người tiêu dùng Việt Nam có thể tự kiểm soát và điều chỉnh chế độ dinh dưỡng hàng ngày nhằm đảm bảo sức khỏe.
Ông Theo Queis, Giám đốc Tiếp thị phụ trách nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan cho biết: “Với vai trò là nhà cung cấp sản phẩm dinh dưỡng từ sữa đáng tin cậy tại Việt Nam, nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan mong muốn giúp mọi người luôn sẵn sàng tiến lên trong cuộc sống với các sản phẩm của chúng tôi. Chúng tôi cam kết giúp người tiêu dùng duy trì và cải thiện tình trạng dinh dưỡng của mình thông qua những lợi ích từ sữa.”
Toàn bộ dữ liệu thu thập được từ cuộc nghiên cứu dinh dưỡng này sẽ được các nhà khoa học làm việc tại NIN gia xử lý và phân tích. Đội ngũ chuyên gia từ bộ phận Nghiên cứu và Phát triển của nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan cũng sẽ linh hoạt hỗ trợ và làm việc chặt chẽ với NIN trong việc phân tích những số liệu thu thập được trong cuộc nghiên cứu.
Việc thu thập dữ liệu phục vụ cho phân tích và báo cáo sẽ kéo dài trong khoảng 12 tháng và dự kiến kết quả sẽ được công bố trong năm 2012. Các tổ chức sức khỏe cộng đồng có thể sử dụng những kết quả này để cập nhật thông tin về các chương trình dinh dưỡng quốc gia.
Bên cạnh những chương trình khuyến học đầy ý nghĩa , công ty Dutch Lady cũng rất trú trọng đến phát triển chất lượng sản phầm của công ty , điển hình là trong những năm gần đây , nhiều công ty đã nhập lậu sữa từ trung quốc về với giá thành rẻ bất chấp chất lượng tồi thậm chí là có chất gây ung thư cho sức khỏe con người như Melamine. Nhưng công ty DLV vẫn chọn những nguồn sữa tinh khiết có chất lượng tốt được nhập khẩu từ Newdiland hay tại những trang trại nuôi bò sữa của người dân do chính công ty cấp vốn , hỗ trợ kỹ thuật . Điều này chứng tỏ triết lý kinh doanh của công ty luôn hướng tới cộng đồng , công ty luôn coi sức khỏe con người được ưu tiên hàng đầu .Trong kinh doanh lợi nhuận cũng rất quan trọng nhưng đồng thời cũng phải trú trọng đến đạo đức kinh doanh sao cho phù hợp với lợi ích của công ty cũng như lợi ích cộng đồng.
Thương hiệu tốt không tự nhiên mà có.
Viện Đạo đức kinh doanh quốc tế (International Business Ethics Institute) ở Mỹ đã từng xác định 4 công việc mà các công ty cần phải thực hiện để củng cố và gia tăng uy tín cho thương hiệu của mình.
Thứ nhất, trung thực với các nhà đầu tư và người tiêu dùng. Thứ hai, cải thiện ngày một tốt hơn tình hình nội bộ hãng bằng cách gia tăng tinh thần trách nhiệm và lợi ích của các nhân viên, giảm biến động đội ngũ cán bộ, tăng năng suất lao động... Thứ ba, đánh bóng thương hiệu một cách chuyên nghiệp và thực chất. Cuối cùng, xử lý một cách bài bản những việc liên quan tới cổ phiếu và tài chính - chỉ có ứng xử thật đàng hoàng với luật pháp thì mới có thể tạo dựng tương lai lâu dài và bền chắc cho hãng.
Còn tạp chí Business Ethics trong 16 năm liền thường xuyên công bố bảng xếp hạng những công ty mà họ cho là có tính đạo đức nhất ở Mỹ. Trong số những tiêu chí để xếp hạng có tính tới quan hệ với các nhà đầu tư và đội ngũ nhân viên (trong đó có quan hệ với phụ nữ; với các cộng đồng sắc tộc thiểu số, khác màu da, tôn giáo và quan điểm...); với các cơ quan chính quyền sở tại và cộng đồng những nhà cung cấp nguyên, nhiên liệu; với những người tiêu dùng; chính sách bảo vệ môi trường... Năm 2004, tạp chí này đã bình chọn những công ty sau:
Fannie Mae (dịch vụ tài chính trong lĩnh vực bất động sản). Cũng thật bất ngờ là đầu năm nay, lãnh đạo công ty này đã đệ đơn từ chức vì bị mất lòng tin do những nhà quản lý chủ chốt đã tự đặt những món tiền thưởng quá cao
Procter & Gamble (hóa chất gia dụng và mỹ phẩm);. Intel Corporation (công nghệ máy tính và tin học);
4. St. Paul Companies SPC (dịch vụ bảo hiểm và tài chính);
5. Green Mountain Coffee Roasters Inc. (thực phẩm);
6. Deere & Company (chế tạo máy);
7. Avon Products (mỹ phẩm);
8. Hewlett- Packard Company (công nghệ máy tính và tin học);
9. Agilent Technologies (công nghệ tin học, điện tử và hoá chất);10. Ecolab (dịch vụ làm sạch nội thất và diệt côn trùng).
Những quy tắc xếp hạng của tạp chí Business Ethics có thể áp dụng rộng rãi vì những tiêu chí chính của nó dựa trên những tiền đề mà Tổ chức Bàn tròn doanh nghiệp thế giới (Caux Round Table, viết tắt là CRT) tạo nên. CRT được lập ra từ năm 1986 bởi các doanh nhân tới từ Mỹ, châu Âu và Nhật Bản, trong số này có Chủ tịch hãng Philips, Phó Chủ tịch Viện Quản trị châu Âu và Chủ tịch hãng Canon...
CRT tập hợp các tiền đề của mình trên cơ sở ý tưởng của các doanh nghiệp Nhật Bản: ý tưởng đó được thể hiện bằng từ "quơxây", nghĩa là "cùng sống và cùng làm việc". Trong các tiền đề này toát lên sự tôn trọng nguyên tắc tập thể lãnh đạo rất cần thiết cho sự cách tân liên tục và để đạt được sự hài hòa trong thế giới này.
CRT cũng nhấn mạnh tới tình bạn, sự hiểu biết lẫn nhau và sự hợp tác với nhau trên cơ sở cùng tôn trọng những giá trị đạo đức cao quý và tinh thần trách nhiệm của những cá nhân cụ thể nhằm thích ứng với môi trường ảnh hưởng của họ (tại nơi mà họ cư trú và làm việc). Khái niệm nhân phẩm coi sự thiêng liêng và quý báu của từng cá nhân như mục tiêu, chứ không phải là phương tiện để nhằm đạt mục tiêu.
Quan trọng hơn cả là tìm hiểu xem cái gì là đúng, chứ không phải tìm xem ai đúng (tức là không nên quá cố gắng tìm xem ai có lỗi, ai không, mà là đi tìm cách giải quyết vấn đề cho có hiệu quả nhất).
Tất nhiên, trong xã hội tư bản, không phải cái gì nói ra là đều thực hiện được. Lập ra các quy tắc đạo đức bao giờ cũng dễ hơn nhiều lần là thực hiện chúng.
Lợi nhuận tăng theo... đạo đức.
Có không ít người làm giàu nhanh tới chóng mặt nhờ những sự "xập xí xập ngầu" của cơ chế. Trong những xã hội đang nằm ở giai đoạn chuyển tiếp giữa các hình thái xã hội, ăn gian nói dối đôi khi dễ dàng mang lại những khoản thu khổng lồ. Tuy nhiên, bạo phát thì rất có thể cũng sẽ bạo tàn. Kết cục của một số nhà tài phiệt Nga (Oligarkh) hiện nay là một thí dụ nhỡn tiền. Họ đã kiếm được những gia sản nhiều triệu USD trong thời kỳ Moskva dưới sự lãnh đạo của ông Boris Yeltsin phát tán tài sản thừa kế từ Liên bang Xôviết và trở thành những cự phú có máu mặt trên quy mô toàn cầu.
Rồi thế thời thay đổi, khi ông Vladimir Putin lên làm Tổng thống Nga, một số nhà tài phiệt dạng kiểu Khodokovsky đã phải vào tù. Cơ quan lập pháp rất dễ dàng tìm ra đủ các thứ tội của những nhà tài phiệt dạng này để họ phải "mùa đông sẵn có hỏa lò, mùa hè nhà đá tha hồ nghỉ ngơi"...
Hai Giáo sư John Kotter và James Heskett ở trường đào tạo quản lý kinh doanh thuộc Harvard, tác giả cuốn sách "Văn hóa công ty và chỉ số hoạt động hữu ích", đã phân tích những kết quả khác nhau ở các công ty với những truyền thống đạo đức khác nhau.
Công trình nghiên cứu của họ cho thấy, trong vòng 11 năm, những công ty "đạo đức cao" đã nâng được thu nhập của mình lên tới 682% (trong khi những công ty đối thủ thường thường bậc trung về chuẩn mực đạo đức chỉ đạt được 36%). Giá trị cổ phiếu của những công ty "đạo đức cao" trên thị trường chứng khoán tăng tới 901% (còn ở các đối thủ "kém tắm" hơn, chỉ số này chỉ là 74%). Lãi ròng của các công ty "đạo đức cao" ở Mỹ trong 11 năm đã tăng tới 756% (1%).
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu này, hai vị Giáo sư khả kính trên khẳng định, gian manh chẳng lọ thật thà!
Nhận thức được vai trò quan trọng của gương mặt đạo đức đối với công việc kinh doanh, người Mỹ đã bỏ khá nhiều công sức ra nghiên cứu về vấn đề này. Chỉ tính riêng trong năm 2000, theo Trung tâm vì một nền văn hóa kinh doanh có đạo đức (Center for Ethical Business Culture), đã có tới 52 công trình nghiên cứu hàn lâm được xuất bản tại Mỹ viết về ảnh hưởng của đạo đức kinh doanh tới thu nhập tài chính của các công ty.
33 công trình phát hiện sự tỉ lệ thuận các phẩm chất đạo đức của đội ngũ lãnh đạo cũng như nhân viên và thu nhập của các công ty. 5 công trình lại phát hiện ra mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa hai yếu tố trên. 14 công trình còn lại không tìm thấy sự liên hệ gì giữa hai yếu tố trên với nhau. Thế là rõ, đại bộ phận các nhà nghiên cứu đều cho rằng, công ty có đạo đức sẽ dễ làm ăn phát đạt hơn.
Theo công trình nghiên cứu do hãng tiếp thị Environics tiến hành tại 20 quốc gia trên thế giới, uy tín xã hội của công ty có vai trò vô cùng to lớn đối với các nhà đầu tư. Thí dụ như ở Mỹ, hiện đang có khoảng 60% dân số đang sở hữu cổ phiếu của các hãng tư nhân. 28% trong số này khi quyết định làm như vậy đã dựa vào những thông tin thu thập được về hình ảnh của công ty trong con mắt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kilo11 .doc