Tài liệu Đề tài Vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích doanh thu của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương: A/ Lời mở đầu
Thống kê học là gì ?
Thuật ngữ “ thống kê” có hai nghĩa: theo nghĩa thứ nhất, thống kê là các con số được ghi chép để phản ánh các hiện tượng tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế, xã hội. Theo nghĩa thứ hai, thống kê được hiểu là hệ thống các phương pháp ghi chép, thu thập và phân tích các con số về những hiện tượng tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế, xã hội để tìm hiểu các bản chất và tìm qui luật vốn có của những hiện tượng ấy.
Do vậy, thống kê học chính là khoa học nghiên cứu hệ thống các phương pháp thu thập , xử lí và phân tích các con số ( mặt lượng) của những hiện tượng số lớn để tìm hiểu bản chất và tính qui luật vốn có của chúng ( mặt chất) trong những điều kiện, địa điểm và thời gian cụ thể.
Tính qui luật của thống kê có ý nghĩa rất là quan trọng đối với các hoạt động quản lí kinh tế- xã hội vì qua đó nó cho ta biết mối liên hệ giữa các hiện tượng ( trong đó quan hệ nhân quả được chú ý ), xu thế phát triển của hiện tượng cũng như các dao động chu kỳ của hiện tượng đó, qu...
49 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích doanh thu của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ Lời mở đầu
Thống kê học là gì ?
Thuật ngữ “ thống kê” có hai nghĩa: theo nghĩa thứ nhất, thống kê là các con số được ghi chép để phản ánh các hiện tượng tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế, xã hội. Theo nghĩa thứ hai, thống kê được hiểu là hệ thống các phương pháp ghi chép, thu thập và phân tích các con số về những hiện tượng tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế, xã hội để tìm hiểu các bản chất và tìm qui luật vốn có của những hiện tượng ấy.
Do vậy, thống kê học chính là khoa học nghiên cứu hệ thống các phương pháp thu thập , xử lí và phân tích các con số ( mặt lượng) của những hiện tượng số lớn để tìm hiểu bản chất và tính qui luật vốn có của chúng ( mặt chất) trong những điều kiện, địa điểm và thời gian cụ thể.
Tính qui luật của thống kê có ý nghĩa rất là quan trọng đối với các hoạt động quản lí kinh tế- xã hội vì qua đó nó cho ta biết mối liên hệ giữa các hiện tượng ( trong đó quan hệ nhân quả được chú ý ), xu thế phát triển của hiện tượng cũng như các dao động chu kỳ của hiện tượng đó, qui luật phân phối của các tổng thể chứa đựng đang nghiên cứu...
Hiện nay khoa học thống kê đang có những bước phát triển mạnh do đã vận dụng tốt các thành quả của môn khoa học tính toán, các phương tiện công cụ tính toán mới rất hiện đại như máy tính, máy vi tính...và chỉ số cũng là một trong các phương pháp của thống kê học, đang có những bước nhảy vọt đáng kể. Như trước đây, phương pháp chỉ số chỉ được vận dụng để đánh giá biến động của giá cả. Còn hiện nay, phương pháp chỉ số đã được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực kinh tế nhằm phục vụ cho các mục đích nghiên cứu khác nhau. Do vậy, phương pháp chỉ số trở thành một phương pháp nghiên cứu quan trọng của thống kê học.
Ngày nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, sản xuất phát triển mạnh mẽ, cơ cấu và chủng loại sản phẩm thay đổi nhanh chóng, sản phẩm mới xuất hiện nhiều...Phương pháp chỉ số cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cần được kiểm nghiệm và nghiên cứu để đưa ra những kết luận chính xác nhất như: quan niệm về chỉ số, vận dụng chỉ số để phân tích các nhân tố, nguyên tắc so sánh trong chỉ số, vận dụng các phương pháp toán học trong chỉ số trong dự đoán kinh tế...
Trước những thực tế đó, em chọn đề tài:
“ Vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích doanh thu của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương”
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế quốc dân, các thầy cô trong khoa Thống kê và đặc biệt là giáo sư phó tiến sĩ Trần Ngọc Phác đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề án môn học này.
B/ Nội dung
Chương I: Vai trò của thống kê trong phân tích sự biến động của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương.
Thống kê học chính là khoa học nghiên cứu hệ thống các phương pháp thu thập và xử lí, phân tích được qui mô, kết cấu, quan hệ so sánh, trình độ phổ biến, tốc độ và xu hướng phát triển của hiện tượng kinh tế xã hội. Hay thống kê thông qua mặt “lượng” để nói lên bản chất và tính qui luật phát triển của hiện tượng kinh tế xã hội. Ta nhận thấy khi các mặt hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng phát triển thì thống kê càng đóng vai trò quan trọng. Do đó, chúng ta cần phải nghiên cứu và ngày càng phải hoàn thiện nó bằng lí luận và thực tiễn. Thực tiễn là ngày nay bất cứ một nền kinh tế nào hay các hãng kinh doanh nói chung và đặc biệt “ Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương” nói riêng cần phải sử dụng thống kê một cách rộng rãivà phải coi nó như một công cụ sắc bén để phân tích và dự đoán trong kinh doanh. Vì thông qua phân tích các nhà kinh doanh (các nhà quản lí) có thể nhận thấy tình hình kinh doanh của doanh nghiệp mình để rút ra được những mâu thuẫn tồn tại, những nguyên nhân khách quan và chủ quan để từ đó đưa ra được các mục tiêu và biện pháp hợp lí làm cơ sở cho việc để ra những quyết định tối ưu trong hoạt động kinh doanh và trong lĩnh vực quản lí doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh là quá trình sử dụng đồng vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Muốn sử dụng có hiệu quả đòi hỏi các nhà đầu tư phải đưa ra được các dự án cũng như kế hoạch kinh doanh đòi hỏi phải phân tích và đưa ra được các chỉ tiêu.
Qua phân tích, giúp cho nhà quản lí nhìn nhận đúng, đánh giá đúng kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình thực tiễn các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, cũng như các chỉ tiêu định mức kinh tế- kĩ thuật để thấy được mức độ hoàn thành, lượng tăng giảm tương đối và tuyệt đối...từ đó xem xét các mục tiêu cần phải đạt tới.
Trong bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh nào chỉ tiêu về doanh thu là chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh lợi nhuận kinh doanh cũng như kết quả về tiêu thụ hàng hoá. Khi doanh thu của doanh nghiệp biến động tăng hay giảm cũng là một nhân tố tác động đến thu nhập, thông qua đó để tái sản xuất mở rộng và giản đơn...Do đó dựa vào thống kê để phân tích tình hình doanh thu của công ty để nắm bắt và đánh giá một cách chính xác và khách quan tình hình tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp mình trong từng chu kì kinh doanh.
Từ đó ta thấy được những kết quả đạt được cũng như những mâu thuẫn tồn tại trong quá trình tiêu thụ hàng hoá để tìm ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan, để tìm ra những chủ trương, biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình cung ứng, trao đổi và tiêu thụ nhằm mục đích tăng doanh thu để tăng lợi nhuận cho công ty.
Như vậy, phân tích doanh thu bằng “phương pháp thống kê” giúp ta thấy được những nhân tố tác động và ảnh hưởng đến doanh thu. Ngược lại, để từ đó giúp cho nhà quản lí đưa ra những chính sách và quyết định tối ưu trong việc chủ đạo hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế và xác định được kết quả tài chínha của doanh nghiệp mình.
Chương II: Phương pháp chỉ số và ứng dụng phương pháp chỉ số trong phân tích doanh thu.
I- ý nghĩa, tác dụng của chỉ số.
1- Khái niệm chỉ số.
Chỉ số trong thống kê là phương pháp biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của một hiện tượng kinh tế.
Ví dụ: Sản lượng lúa của địa phương X năm 2001 so với năm 2000 bằng 1,978 lần ( hay 197,8 %).
Như vậy, chỉ số này được biểu hiện bằng số tương đối phát triển. Với những mục đích nghiên cứu khác nhau, thì số tương đối có thể là số tương đối nhiệm vụ kế hoạch và số tương đối hoàn thành kế hoạch. Ngoài ra số tương đối còn có thể là so sánh mức giá của một hoặc một nhóm sản phẩm của thị trường này so với giá cũng của loại hàng hoá đó ở thị trường khác...
Vậy trong thống kê chỉ số được áp dụng rộng rãi, với mục đích so sánh và nghiên cứu các đối tượng các hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp. Khi tính các chỉ tiêu này chúng ta phải đưa ra các tiêu thức về cùng một dạng đồng nhất để từ đó ta tính toán đưa về một kết quả. Khi so sánh xem xét các nghiên cứu, các hiện tượng chưa đầy đủ và xác đáng, không phân tích chỉ tiêu này với các chỉ tiêu có liên quan thì việc nhận định và đưa ra kết luận không chínhẫác. Trái lại, nếu chúng ta so sánh kết hợp giữa các chỉ tiêu một cách đầy đủ thì chúng ta sẽ đưa ra các kết luận đánh giá tình hình cần nghiên cứu sẽ rõ nét hơn.
2- Đặc điểm của phương pháp chỉ số.
Bất kỳ một nội dung kinh tế nào biểu hiện bằng số mà đứng riêng rẽ, tự nó không so sánh với những con số khác về nội dung kinh tế cùng loại thì vẫn không có tính chất tiêu biểu , nghèo nàn về nội dung. Nhưng nếu đem so sánh nó với nhưng con số cùng loại , nó trở nên sáng rõ hơn, tiêu biểu hơn, nội dung phản ánh cũng phong phú hơn. Tuy nhiên việc so sánh, đánh giá nhận định phải đảm bảo những nghuyên tắc nhất định sau:
- Khi muốn so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế phức tạp, trước hết ta phải chuyển các đơn vị hoặc phàn tử có tính chất khác nhau thành dạng cùng loại để có thể cộng chúng lại với nhau. Ví dụ như khối lượng các loại sản phẩm được sản xuất trong một xí nghiệp không giống nhau, ta không thể cộng chúng được lại với nhau. Muốn cộng chúng lại ta phải chuyển về dạng giống nhau, thường là dạng giá trị để so sánh.
Những số tương đối phải là những thước đo các nội dung kinh tế cụ thể. Mỗi một số tương đối hay chỉ số phải là sự so sánh giữa hai chỉ tiêu kinh tế. Như tính chỉ số:
Ipq= Sp1q1 = Sp1q1 x Spoq1
Spoqo Spoq1 Spoqo
Ta đã so sánh chỉ tiêu về tổng doanh thu kì nghiên cứu so với kì gốc của một tổng thể sản phẩm nào đó. Trong đó tử số là tổng doanh thu kì nghiên cứu, còn mẫu số là tổng chi phí. Chỉ số cho ta biết biến động về giá cảc và sản lượng.
Thông qua chỉ số là số “tương đối” thì hiệu quả kinh tế còn được biểu hiện ở số “tuyệt đối” là hiệu số của tử số và mẫu số. Vậy khi tính chỉ số, ta nên tính cả chỉ số tuyệt đối vì thông qua đó cho ta biết được mức chênh lệch giữa tổng doanh thu và chi phí của doanh nghiệp là bao nhiêu thông qua sự tác động của giá và sản lượng. Đây là một trong những đặc điểm của lí luận của chỉ số trong thống kê thời kì hiện nay và đặc biệt lí luận này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các nước.
-Thứ hai là khi nghiên cứu, thường có nhiều nhân tố cùng tác động và tham gia vào việc tính toán chỉ số. Vì vậy, để tiện cho việc nghiên cứu ta phải giả định chỉ có một nhân tố thay đổi, còn các nhân tố khác giữ nguyên. Ví dụ như khi tính chỉ số tổng doanh thu thì có nhân tố giá cả và sản lượng tham gia vào quá trình tính toán. Bây giờ ta phải cố định một trong hai nhân tố là giá cả hoặc là sản lượng ( kì gốc, kì nghiên cứu) cố định.Do đó tạo khả năng loại trừ ảnh hưởng biến động của yếu tố không nghiên cứu đối với kết quả so sánh.
Vậy phân tích kinh tế phải căn cứ vào sự thực của hiện tượng đã được lượng hoá và làm cho con số biết nói để rút ra kết luận về sự biến đổi của hiện tượng trên cơ sở chọn cho chỉ số đó một công thức tính và một hệ thống quyền số phù hợp. Do đó một công thức không thể có tính vạn năng để tính và áp dụng cho hàng loạt các hiện tượng kinh tế khác nhau được.
Ngoài ra đó là sự tư duy lí thuyết các sự kiện kinh tế nhưng không phải miêu tả các sự kiện, không phải tính xem cái gì đó hoàn thành, mà là nhằm phát hiện ra các mối liên hệ tất yếu bên trong của hiện tượng kinh tế xã hội.
3- Tác dụng của chỉ số.
Chỉ số ngày nay được nghiên cứu và vận dụng ngày càng rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế nói chung, và nó được vận dụng không chỉ phạm vi của một nước mà lan rộng ra trên toàn cầu. Phương pháp chỉ số đã được vận dụng phục vụ các mục đích nghiên cứu sau:
+) Chỉ số không gian: Nói lên sự biến động của hiện tượng qua những điều kiện không gian khác nhau. So sánh một chỉ tiêu kinh tế giữa hai xí nghiệp ( hoặc nhóm xí nghiệp) giữa hai địa phương...Các chỉ số loại này thường được gọi là chỉ số không gian hoặc chỉ số địa phương...
+) Chỉ số phát triển: Nói lên sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Các chỉ số tính theo mục đích này thường được gọi là chỉ số phát triển tính được bằng cách so sánh mức độ của hiện tượng ở hai thời gian khác nhau (kì nghiên cứu so kì gốc): giá thành, giá cả, năng suất lao động, năng suất thu hoạch, chi phí sản xuất...
+) Chỉ số kế hoạch: Nói lên tình hình thực hiện kế hoạch về các chỉ tiêu kinh tế.
Vậy thực chất phân tích các chỉ số này chính là chúng ta đi phân tích vai trò và ảnh hưởng biến động của từng nhân tố cấu thành đối với một hiện tượng phức tạp. Từ đó cho ta các thông tin mới về sự biến động của hiện tượng theo sự tác động của các nhân tố câú thành đó.
Phương pháp chỉ số ngày nay và sau này ngày càng được vận dụng rộng rãi, nên chúng ta phải phát triển và hoàn thiện hệ thống chỉ số này.
Qua đó cho thấy chỉ số khối lượng sản phẩm là chỉ tiêu có tính chất tổng hợp, biểu hiện biến động của một tổng thể sản phẩm bao gồm nhiều loại sản phẩm khác nhau. Đối với chỉ số năng suất lại là chỉ tiêu có tính chất phân tích sự biến động của một trong các nhân tố quyết định biến động của khối lượng sản phẩm, có những chỉ số lại bao gồm được cả hai tính chất tổng hợp và phân tích. Hai chức năng tổng hợp và phân tích được kết hợp chặt chẽ trong cùng một chỉ số và điều đó làm cho hệ thống chỉ số ngày càng đa dạng.
4- Các loại chỉ số
Trong thống kê thì chỉ số và hệ thống chỉ chỉ số được chia thành nhiều loại tuỳ theo mục đích nghiên cứu và yêu cầu sử dụng. Nên chúng ta phân loại thường dựa vào phạm vi tính toán...
+) Chỉ số đơn( chỉ số cá thể).
Khi ta muốn so sánh trị số của hiện tượng nào đó ở một thời kì với một thời kì làm gốc. Ví dụ chỉ số giá cả của từng mặt hàng , doanh thu của một doanh nghiệp , chỉ số khối lượng từng sản phẩm...ta có thể dùng chỉ số đơn. Đó là tỉ lệ giữa trị số của hiện tượng kì nghiên cứu với kì gốc nào đó. Vậy chỉ số tác dụng có tác dụng quan trọng đối với việc nghiên cứu sự phát triển của những sản phẩm chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân. Chỉ số này còn là chỉ số bộ phận để tính chỉ số chung.
+) Chỉ số tổng hợp.
Cho ta biết biến động của tất cả các đơn vị, các phần tử của hiện tượng phức tạp như chỉ số giá cả của toàn bộ các mặt hàng, chỉ số tổng hợp khối lượng toàn bộ các sản phẩm của một doanh nghiệp, chỉ số năng suất lao động của công nhân trong một doanh nghiệp. Chỉ số tổng hợp được sử dụng nhiều nhất trong phân tích thống kê. Ta còn có thể dùng chỉ số chung để nêu lên sự biến động của từng tổ, nhóm, đơn vị của hiện tượng phức tạp.
Ngoài ra khi chúng ta xét tính chất của chỉ tiêu nghiên cứu thường phân biệt hai loại chỉ số: chỉ số chỉ tiêu “ chất lượng” và chỉ số chỉ tiêu “ khối lượng “. Hai khái niệm này hiện nay vẫn còn là vấn đề tranh luận, bên cạnh đó việc lựa chọn công thức chỉ số, chọn quyền số cho vấn đề nghiên cứu là rất quan trọng.
++) Chỉ tiêu khối lượng: chỉ tiêu khối lượng nói lên số lượng sản phẩm , số lượng hàng hoá, số lượng cây trồng, khối lượng vận chuyển...Chỉ tiêu này nói lên qui mô, khối lượng chung của tổng thể chúng ta nghiên cứu. Ngoài ra nó còn là tổng lượng tiêu thức hoặc số lượng đơn vị có cùng một tiêu thức nào đó. Khối lượng của tổng thể không phụ thuộc vào tính chất và trị số của tiêu thức chúng ta nghiên cứu.
Chỉ tiêu khối lượng thường được biểu hiện bằng số tuyệt đối, đôi khi cả bằng số tương đối kết cấu.
++) Chỉ tiêu chất lượng: xét theo qưi ước, ta có một số chỉ tiêu như: giá thành, tiền lương, năng suất lao động, năng suất thu hoạch, tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết...Chỉ tiêu này nói lên chất lượng thực hiện công việc của một đơn vị, mức tổn sức lao động, trình độ áp dụng khoa học công nghệ. Chỉ tiêu chất lượng nói biểu hiện mức độ của hiện tượng đối với một đơn vị tổng thể. Năng suất lao động được tính bằng cách chia số lượng sản phẩm cho số lượng lao động, hoặc chia thời gian lao động cho số lượng sản phẩm...Vậy chỉ tiêu chất lượng phần lớn được biểu hiện bằng số trung bình, ngoài ra có một vài chỉ tiêu chất lượng là số tương đối cường độ như: tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết...
Trong thực tế, phân biệt chỉ tiêu chất lượng và chỉ tiêu khối lượng thường gặp nhiều khó khăn. Bởi vì sự phân biệt này còn phụ thuộc vào vai trò của mỗi chỉ tiêu trong từng trường hợp nghiên cứu. Nên một chỉ tiêu kinh tế trong từng trường hợp cụ thể , vừa là chỉ tiêu khối lượng và cũng là chỉ tiêu chất lượng. Như năng suất lao động (tháng, quí, năm) không phải là một chỉ tiêu chất lượng thuần tuý. Tại sao lại nói như vậy ?Vì không những nó nói lên trình độ của sức sản xuất (chất lượng lao động) mà nó còn nói lên khối lượng sản xuất trong một thời gian( tháng, quí, năm) của người công nhân. Năng suất lao động chúng ta có thể chia thành năng suất lao động ngày ( một nhân tố chất lượng và một nhân tố khối lượng). Cuối cùng năng suất lao động ngày cũng không phải là yếu tố chất lượng thuần tuý, vì một mặt nói lên trình độ sản xuất, nhưng mặt khác còn biểu hiện khối lượng sản phẩm được làm ra trong ngày.
Vậy mỗi chỉ tiêu kinh tế chất lượng hay khối lượng đều có những ý nghĩa rất quan trọng. Chúng ta không thể khẳng định cái nào là chủ yếu và cái nào là thứ yếu, mà chỉ có thông qua tính toán cụ thể mới xác định được vai trò của nó trong hệ thống.
II- Phương pháp chỉ số.
Chỉ số là gì ? Chỉ số là một số tương đối biểu hiện bằng số lần( %) tính được bằng cách so sánh hai mức độ của hiện tượng nghiên cứu và hai mức độ này có thể cùng loại hoặc khác loại. Thường thì người ta nghiên cứu hai mức độ của hiện tượng cùng loại.
1-Chỉ số phát triển: Nói lên sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Chỉ số này tính được bắng cách so sánh hai mức độ của hiện tượng ở hai thời gian khác nhau( 1: kì nghiên cứu; 0: kì gốc )
1.1- Chỉ số đơn.
Chúng ta muốn so sánh trị số của hiện tượng nào đó ở một thời kì với một thời kì làm gốc. Ví dụ như doanh thu của một doanh nghiệp kì nghiên cứu so với một kì trước nào đó , ta có thể dùng chỉ số đơn. Đó là tỉ lệ giữa trị số của hiện tượng kì nghiên cứu với kì gốc nào đó.
Ta tính chỉ số đơn về giá:
ip = p1 trong đó: ip: chỉ số đơn về giá cả
po p1: giá bán lẻ từng mặt hàng kì nghiên cứu
po: giá bán lẻ từng mặt hàng kì gốc.
Tính chỉ số về lượng:
iq = q1 trong đó: iq: chỉ số đơn về lượng hàng hoá
qo q1: lượng hàng hoá kì nghiên cứu
qo: lượng hàng hoá kì gốc.
Các chỉ số có những đặc tính mà các chỉ số tổng hợp không có.
Tính nghịch đảo: Nếu ta hoán vị kì gốc và kì này, kết quả thu được sẽ là nghịch đảo của trị số cũ.
Tính liên hoàn; Tích của hai chỉ số liên hoàn ( năm này so với năm kế trước)
Tính thay đổi gốc:
Vậy cách chỉ số đơn có công dụng lớn trong việc phản ánh sự thay đổi các hiện tượng đơn giản, đồng chất. Ngoài ra chúng còn quan trọng do tác dụng hỗ trợ cho việc tính các chỉ số tổng hợp, khi chỉ số tổng hợp không tính trực tiếp được.
Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là không nói lên được biến động của tất cả các đơn vị, các phần tử của hiện tượng phức tạp.
VD: Ip = Sp1 chỉ số giá của nhiều mặt hàng.
Spo
Từ đó cho thấy phương pháp này không chú ý đến tầm quan trọng đối với sự thay đổi giá của đối tượng nghiên cứu nhiều hay đối tượng nghiên cứu có khối lượng thấp. Sự thay đổi về giá của các đối tượng có khối lượng được sử dụng nhiều có thể ảnh hưởng đến kết quả tính trị số giá. Bên cạnh đó việc cộng giá của các loại hàng có giá trị sử dụng khác nhau, đơn vị đo lường khác nhau nên tổng giá cả không có ý nghĩa kinh tế.
Ngoài ra có công thức không thể sử dụng được vì công thức không xem xét đến sự khác nhau về số lượng và kết cấu hàng hoá bán ra của các loại hàng hoá. Hơn nữa nó cúng không so sánh đượck với số tuyệt đối.
Công thức đó: Sp1/po S ip
Ip = ắ ắ =
n n
Muốn khắc phục nhược điểm này, ta phải chọn quyền số để đưa vào áp dụng cho công thức chỉ số.
1.2- Chỉ số tổng hợp.
1.2.1- Chỉ số tổng hợp giá cả.
Như trên đã thấy chỉ số đơn chưa cho ta biết tình hình so sánh giá của toàn bộ các hàng hoá trên thị trường. Do đó để khắc phục nhược điểm này ta xây dựng hệ thống chỉ số giá cả, chỉ số phản ánh sự biến động của giá cả, nhất là phải đảm bảo so sánh sự biến động giá cả của những sản phẩm có cùng chất lượng ở kì này so với kì khác hoặc giữa hai khu vực với nhau...Khi nghiên cứu sự biến động của nhân tố giá cả, thì giá cả của hai kỳ phải được tính cùng một lượng hàng hoá tiêu thụ. Vậy phải cố định một kì nào đó, phải cố định cả tử số và mẫu số. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà ta chọn quyền số của chỉ số giá cả, có thể là kì gốc, kì nghiên cứu hay kì cố định. Tuỳ theo cách chọn quyền số phục vụ mục đích nghiên cứu mà ta có thể loại chỉ số của laspayres và của paashe.
1.2.1.1- Nếu chọn quyền số kì gốc, ta có chỉ số giá cả của laspayres:
I lp = Sp1qo
Spoqo
1.2.1.2- Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số giá của paashe.
I pp = Sp1q1
Spoq1
Từ 1.2.1.1 và 1.2.1.2 ta thấy:
Trong nhiều trường hợp, việc tính các trị số Sp1qo của laspayres hoặc Spoq1 của paashe quá khó khăn do không có số lượng hàng hoá từng loại ( qo hoặc q1) mà ta lại có sẵn các chỉ số giá đơn ( ip; iq) do đó các công thức trên có thể thay đổi cách tính cho việc tính toán dễ dàng hơn:
+) I lp = Sp1qo = Sp1/po x poqo = Sip x poqo = Sipdo = SipDo
Spoqo Spoqo Spoqo 100
Với: ip = p1 (lần) ; do = poqo (lần); và Do = poqo . 100 = do. 100(%)
po Spoqo Spoqo
+) I pp = Sp1q1 = Sp1q1 = 1 = 100
Spoq1 S 1p1q1 S 1 .d1 S 1 .D1
ip ip ip
Với po = pi ; d1 = p1qo (lần) và D1 = p1q1 . 100 = 100 d1(%)
ip Sp1q1 Sp1q1
- Chỉ số tổng hợp giá cả của laspayres nói lên sự ảnh hưởng biến động riêng biệt của nhân tố giá cả đối với biến động của mức tiêu thụ hàng hoá. Còn (Sp1qo - Spoqo) nói lên chênh lệch về tổng giá cả giữa hai thời kì tính toán theo lượng tiêu thụ kì gốc hay là số tiền mà người mua hàng có thể tiết kiệm được hoặc chi thêm cho kì gốc do giá thay đổi.
- Đối với chỉ số tổng hợp giá của paashe tập hợp các quyền số mới được tính toán thường xuyên cho nên nó phản ánh đúng kết cấu hàng hoá tiêu dùng thực tế qua từng năm của cư dân. (Sp1q1 - Spoq1 )cho thấy số tiền người mua thực tế tiết kiệm được hoặc chi thêm do việc mua hàng theo giá mới ở kì nghiên cứu.
Như vậy, các chỉ số laspayres và của paashe theo các logic tư duy khác nhau: so sánh giá cả thị trường theo lượng tiêu thụ nào ? Trước kia người ta hay dùng công thức “I lp ” vì nó không đòi hỏi tính ngay Sp1q1 và thường có sẵn các khối lượng kì gốc (qo). Nhưng ngày nay người ta sử dụng công thức “I pp “vì tính ứng dụng phổ cập của nó. Trong thực tế ngày nay, khi khối lượng hàng hoá kì nghiên cứu thay đổi nhiều so với kì gốc thì dẫn đến sự khác lớn giữa “I lp ” với “I pp”, dẫn đến gây khó khăn cho công tác tính.
Do đó năm 1922 IrVing Fisher nghiên cứu 134 công thức chỉ số giá cả
ông đưa ra công thức: IFp = I lp . I pp = Sp1qo . Sp1q1
Spoqo Spoq1
Chỉ số Fisher là trung bình nhân của hai chỉ số nói trên. Nên lúc này chỉ số Fisher có hai “ quyền số là kì gốc và kì nghiên cứu”. Chỉ số này thường được dùng khi tính toán với quyền số có quá hai chênh lệch, dẫn đến các kết quả quá sai biệt giữa hai chỉ số “I lp” và “ I pp”
1.2.2- Chỉ số tổng hợp khối lượng
Việc so sánh số lượng hiện tượng ( số lượng sản phẩm, số lượng lao động... ) cũng tương tự như so sánh giá cả. Vậy chỉ số tổng hợp khối lượng cho ta biết sự biến động của toàn bộ lượng hàng hoá tiêu thụ giữa hai kỳ. Nó nói lên sự biến động về qui mô, khối lượng của tổng thể nghiên cứu, tính theo một đơn vị nhất định.
1.2.2.1- Chỉ số tổng hợp khối lượng có tầm quan trọng rộng lớn. Như khi chúng ta quan sát sự biến động ( GDP) hoặc sản lượng của từng ngành, ta phải dùng giá so sánh ( chọn từ một nấc thời gian nào đó) để loại trừ ảnh hưởng biến động . Giá cả đó chính là tổng hợp số lượng laspayres. Vậy chỉ số “I lp “ có công thức:
I lp = Sq1po
Sqopo
trong công thức “I lp” ta thấy rằng “Sq1po” là tổng giá trị của hàng hoá được tiêu thụ ở kì nghiên cứu với mức giá được cố định ở kì nghiên cứu trùng kì gốc. Còn mẫu số là tổng giá trị hàng hoá được tiêu thụ ở kì gốc . Hiệu số (Sq1po - Sqopo )là một số tuyệt đối nói lên giá trị hàng hoá tăng hay giảm do sự thay đổi mức sản lượng kì nghiên cứu so với kì gốc. Ưu điểm của trị số này là loại trừ được toàn bộ ảnh hưởng của biến động giá cả tới biến động hàng hoá tiêu thụ.
Công thức trên có thể gặp khó khăn trong việc tính toán. Do đó ta có thể lợi dụng chỉ số đơn lượng “iq” để chuyển thành chỉ số lượng tổng hợp:
I lp = Sq1po = S q1/qo . qopo = Siq. qopo = Siqdo = Siqdo
Sqopo Sqopo Sqopo 100
Với iq = q1 (lần) ; do = qopo (lần); và Do = qopo . 100 (%)
qo Sqopo Sqopo
1.2.2.2- Nếu ta chọn quyền số là giá cả kì nghiên cứu ta có công thức tính chỉ số tổng hợp về lượng hàng hoá của paasche:
Ipq= Sq1p1
Sqop1
Công thức này cho thấy quyền số là giá cả kì nghiên cứu “ p1”, chỉ số này cho thấy sự biến động của lượng hàng hoá kì nghiên cứu so kì gốc. Hiệu số (Sq1p1 - Sqop1 ) là sự tăng giảm giá trị của hàng hoá do sự thay đổi sản lượng hàng hoá kì nghiên cứu so với kì gốcvới mức giá cố định kì nghiên cứu, số này gọi là số tuyệt đối.
Công thức trên chưa loại trừ được hoàn toàn ảnh hưởng của giá cả tới biến động của lượng hàng hoá tiêu thụ:
I lp = Sq1p1 = S q1p1 = 1 = 100 Sqop1 S1/iq.q1p1 S1/iq.d1 S1/iq.D1
Với q1 = q1 ; d1 = q1p1 (lần); và D1 = q1p1 . 100 (%)
iq Sq1p1 Sq1p1
Các chỉ số này cũng tiếp nối tư duy logic khác nhau của các chỉ số tổng hợp giá cả. tuy nhiên chỉ số laspayres được sử dụng nhiều hơn, nhất là khi ta đã tính chỉ số tổng hợp giá cả theo công thức paasche.
Chỉ số lượng hàng hoá của Fisher là trung bình nhân của hai chỉ số “I lq ” và “I pq”
IFq = I lq . I pq = Sq1po . Sq1p1
Sqopo Sqop1
Chỉ số này cũng có hai quyền số là mức giá ở kì gốc và kì nghiên cứu: po, p1
2-Chỉ số không gian.
Trong phân tích so sánh kinh tế, các chỉ số không gian so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế giữa các vùng và địa phương khác nhau...Chỉ số không gian cũng chia thành hai loại là chỉ số về chỉ tiêu chất lượng và chỉ số về chỉ tiêu khối lượng.
2.1- Chỉ số không gian chỉ tiêu chất lượng.
Chỉ số loại này thường so sánh giá cả của một hoặc nhiều mặt hàng giữa các chợ trong một địa phương hoặc giữa các địa phương. Ví dụ như so sánh giá cả giữa hai thị trường A, B thì quyền số của chỉ số giá cả là lượng hàng hoá tiêu thụ tại một trong hai thị trường đó.
- Nếu dùng quyền số là lượng hàng hoá tiêu thụ tại A ta có:
Ip( A/B) = SpAqA
SpBqA
- Nếu dùng quyền số là lượng hàng hoá tiêu thụ tại B ta có:
Ip( A/B) = SpAqB
SpBqB
Ta thấy rằng cùng một chỉ số giá Ip(A/B) nhưng không phải là giống nhau vì việc chọn quyền số qA khác qB sẽ cho ta các kết quả khác nhau. Để khắc phục tình trạng trên người ta đã dùng quyền số chung, tức là lấy lượng hàng hoá tiêu thụ của hai thị trường làm quyền số qA + qB
Lúc này ta có chỉ số giá cả không gian:
Ip( A/B) = SpA . ( qA + qB )
SpB . ( qA + qB )
Ip( B/A) = SpA . ( qA + qB )
SpB . ( qA + qB )
2.2- Chỉ số không gian chỉ tiêu khối lượng.
Người ta cũng có nhu cầu tính chỉ số không gian về khối lượng để so sánh lượng của hiện tượng giữa các địa phương khác nhau. Chỉ số khối lượng tổng hợp theo không gian có thể dùng giá cố định do Nhà nước ban hành: giả sử so sánh khối lượng sản phẩm của hai xí nghiệp A và B ta có:
Ip(A/B) = SqApn hoặc Iq (B/A) = 1/ Iq(A/B)
SqBpn
trong đó qA: sản lượng của xí nghiệp A
qB: sản lượng của xí nghiệp B
pn: giá so sánh các mặt hàng
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, ta không có đủ giá so sánh cho tất cả các mặt hàng nên ta sử dụng giá bình quân của hai địa phương cần so sánh:
p = pAqA + pBqB
qA + qB
Chỉ số tổng hợp:
Iq( A/B) = SqAp hoặc Iq(B/A) = 1/ Iq(A/B)
SqAp
loại chỉ số này cũng có thể dùng trọng số, tương tự như đối với chỉ số tổng hợp giá cả. Lúc này chỉ cần có chỉ số đơn của số lượng ( sản phẩm, hàng hoá...) và trọng số thích hợp có thể có chỉ số tổng hợp số lượng.
Như vậy, chỉ số tổng hợp cực kì quan trọng, nó là một công cụ phân tích hữu hiệu trong từng doanh nghiệp, từng tổ chức kinh tế. Trong hệ thống của chỉ số tổng hợp thì vấn đề xác định quyền số cực kì quan trọng, việc chọn đó được thể hiện như sau:
Khi dùng chỉ số tổng hợp để nghiên cứu biến động của chỉ tiêu chất lượng , thì quyền số là chỉ tiêu khối lượng có liên quan; để nghiên cứu biến động của chỉ tiêu khối lượng , thì quyền số là chỉ tiêu chất lượng có liên quan. Thời gian ( hoặc không gian) của quyền số tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và tài liệu cho phép.. Ngoài ra quyền số của chỉ số có hai tác dụng sau:
+) Biểu hiện vai trò quan trọng của mỗi phần tử hay bộ phận trong toàn bộ tổng thể, nghĩa là duy trì tỷ trọng của phần tử hay bộ phận đó tương xứng vị trí của nó trong tính toán.
+) Làm cho các phần tử vốn không thể cộng trực tiếp cộng được với nhau được chuyển về dạng đồng nhất và có thể cộng được.
Trong từng chỉ só cụ thể, quyền số có thể được biểu hiện được một hoặc cả hai chức năng trên. Vấn đề chọn quyền số có ý nghĩa quan trọng đối với việc tính chỉ số tổng hợp, vì nó quyết định ý nghĩa của mỗi chỉ số.
Qua đó cho thấy các chỉ số tổng hợp chỉ phản ánh một mặt nào đó của biến động của hiện tượng chứ không cho ta thấy toàn bộ biến động của hiện tượng một cách cụ thể. Vậy để làm rõ biến động của hiện tượng và mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong quá trình biến động người ta thường dùng phương pháp hệ thống chỉ số.
3- Hệ thống chỉ số.
Hệ thống chỉ số tổng hợp được dùng để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố cấu thành đối với một hiện tượng phức tạp, cho ta các thông tin mới về sự biến động của hiện tượng theo sự tác động của các nhân tố cấu thành đó.
Từ những phân tích ta có thể rút ra được những yếu tố cơ bản tác động đến hiện tượng, xu hướng tác động của các nhân tố đó, xu hướng phát triển... để từ đó có những biện pháp khắc phục. Từ mối liên hệ giữa hệ thống chỉ số ta cũng có thể tính và tìm ra được các chỉ tiêu khác...
3.1- Hệ thống chỉ số phát triển.
Để xây dựng hệ thống chỉ số chủ yếu dựa vào mối liên hệ các chỉ tiêu với nhau. Chúng thường được biểu hiện dưới các dạng :
+) Doanh thu =S ( giá cả hàng hoá x số hàng hoá tiêu thụ )
Chỉ số doanh thu = chỉ số giá cẩ x chỉ số lượng hàng hoá tiêu thụ.
+) Chi phí sản xuất = Giá thành đơn vị x khối lượng
Chỉ số chi phí sản xuất = chỉ số giá thành x chỉ số khối lượng sản phẩm.
Nhìn chung quan hệ này thường được biểu hiện
Giá trị = S ( giá x lượng )
Chỉ số giá trị = chỉ số giá x chỉ số lượng
Nhìn chung chỉ số này bao gồm:
++) Các chỉ số nhân tố ( hay còn gọi là chỉ số bộ phận). Các chỉ số này nêu lên biến động của một nhân tố cấu thành hiện tượng bao gồm nhiều nhân tố.
++) Chỉ số toàn bộ: nêu lên biến động của toàn bộ hiện tượng gồm nhiều nhân tố.
- Hệ thống chỉ số đơn: phản ánh sự biến động của từng hiện tượng cá biệt
Ipq = ip x iq
p1q1 p1 q1
poqo po qo
- Hệ thống chỉ số tổng hợp: ngày nay người ta sử dụng hai phương pháp:
+) phương pháp liên hoàn.
+) phương pháp ảnh hưởng đến biến động riêng biệt.
3.1.1- Phương pháp liên hoàn.
Nêu lên ảnh hưởng biến động của các nhân tố cấu thành lên hiện tượng phức tạp , trong quá trình biến động chúng tác động lẫn nhau và mỗi nhân tố có vai trò khác nhau trong quá trình biến động của hiện tượng. Cho nên quyền số của các chỉ số đó phải được xây dựng với các thời kì khác nhau.
Xây dựng bằng cách kết hợp các chỉ số tổng hợp về giá cảvà khối lượng của laspayres, paasche và Fisher ta có:
Tác giả Chỉ số tổng hợp về giá Chỉ số tổng hợp về lượng
Laspayres Ilp = Sp1qo Ilp = Spoq1
Spoqo Spoqo
Paasche Ipp = Sp1q1 Ipp = Sp1q1
Spoq1 Spoq1
Ta có:
Doanh thu = giá bán đơn vị x lượng hàng
Chỉ số doanh thu = chỉ số giá x chỉ số lượng
Sp1q1 = Ipp . Ilp = Sp1q1 . Spoq1
Spoqo Spoq1 Spoqo
Qua ba cách xây dựng trên ngày nay người ta thường sử dụng hệ thống chỉ số (1). Phương pháp xây dựng hệ thống chỉ số này gọi là phương pháp liên hoàn. Phương pháp này có ba đặc điểm chủ yếu:
+) Quyền số và các chỉ số nhân tố ở những thời kì khác nhau.
+) Với cách xây dựng trên thì hệ thống chỉ số không phải là dyu nhất.
+) Nguyên tắc chọn quyền số.
Nếu chỉ số là chỉ tiêu chất lượng thì quyền số là chỉ tiêu khối lượng có liên quan ở kì nghiên cứu.
Nếu chỉ số là chỉ tiêu khối lượng thì quyền số là chỉ tiêu khối lượng có liên quan ở kì gốc.
Trong thực tế ngày nay hay sử dụng chỉ số chỉ tiêu chất lượng, thường ta phải sắp xếp theo thứ tự các nhân tố: chất giảm dần, lượng tăng dần.
Ví dụ:
- Tốc độ tăng (hoặc giảm)
Lượng tăng giảm tuyệt đối
Lượng tăng giảm tương đối
Khi phân tích căn cứ vào tốc độ tăng giảm, lượng tăng giảm tuyệt đối và lượng tăng giảm tương đối.
Vậy phương pháp liên hoàn là phương pháp đang được vận dụng rộng rãi trong nước ta nói riêng, trên thế giới nói chung. Phương pháp này cho phép đánh giá ảnh hưởng của mỗi nhân tố tuỳ theo vai trò và vị trí của từng nhân tố cấu thành lên hiện tượng phức tạp.
Ngoài ra nó còn đồng nhất một số nhân tố có sẵn thành một nhân tố lớn hơn và ngược lại; ghép các chỉ số có liên hệ với nhau thành hệ thống chỉ số và phân tích toàn bộ thành các chỉ số bộ phận.
Tuy nhiên phương pháp liên hoàn bên cạnh những ưu thế của nó, còn có một số vấn đề đang tranh luận:
+) Phương pháp liên hoàn không sử dụng được trong nhiều trường hợp phân tích như: các nhân tố có quan hệ tổng hợp hoặc quá nhiều nhân tố...
+) Khó khăn thứ hai là trong vấn đề xác định quyền số cho mỗi chỉ số nhân tố. Đây là khó khăn nhất của việc vận dụng phương pháp liên hoàn khi có nhiều nhân tố.
+) Phương pháp liên hoàn cũng không thể trả lời được khi các nhân tố này cùng biến đổi và cùng tác động lẫn nhau.
3.1.2- Phương pháp ảnh hưởng biến động riêng biệt (gọi tắt là biến động riêng biệt)
Qua phân tích phương pháp liên hoàn không thể giải thích được khi các nhân tố này cùng biến đỏi và cùng tác động lẫn nhau. Nên để khắc phục nhược điểm này ta phải dùng phương pháp ảnh hưởng biến động riêng biệt.
Sự biến động của hiện tượng phức tạp là do ảnh hưởng của biến động riêng biệt của từng nhân tố và sự tác động qua lại giữa các nhân tố với nhau. Do đó quyền số của chỉ số nhân tố được chọn ở kì gốc, nên tích của chỉ số này không bằng chỉ số toàn bộ. Nên để cân bằng hệ thống chỉ số này người ta phải thêm vào nó một đại lượng bổ sung gọi là chỉ số liên hệ của các nhân tố.
với k : chỉ số liên hệ
hay : Ipq =
trong đó:
Chỉ số nêu lên biến động của hai nhân tố là p và q cùng tác động đến doanh thu.
Chỉ số với lượng hàng hoá tiêu thụ kì gốc, nêu lên biến động riêng của p và tác động của nó tới doanh thu.
Chỉ số với giá cả kì gốc nêu lên biến động riêng của lượng hàng hoá doanh thu và tác động của nó tới doanh thu.
Chỉ số liên hệ k nêu lên ảnh hưởng biến động của giá cả và sản lượng cùng tác động tới doanh thu.
Ta có:
Tốc độ tăng giảm (lần hoặc %)
Lượng tăng (giảm ) tuyệt đối:
*) Đặc điểm của phương pháp ảnh hưởng đến biến động riêng biệt:
+) Các chỉ số nhân tố phản ánh biến động của từng nhân tố.
+) Quyền số của chỉ số nhân tố đều ở kì gốc.
+) Nếu có n nhân tố thì có n+1 chỉ số nhân tố (1 ở đây là chỉ số liên hệ).
+) Hệ thống chỉ số này là duy nhất.
*) Ưu điểm và nhược điểm
+) Ưu điểm: Nó nêu được biến động riêng của từng nhân tố và ảnh hưởng biến động của tất cả các nhân tố tới biến động của hiện tượng chung. Tất cả các chỉ số nhân tố đều được tình theo quyền số kì gốc. Điều đó phù hợp với yêu cầu tách riêng nhân tố nghiên cứu trình bày sự biến động của nó với điều kiện các nhân tố khác không biến động.
+) Nhược điểm: Trong một số trường hợp thì k có thể là số dương ( k > 1). Nhưng hiện giữa tử và mẫu của hiện tượng lại nhỏ hơn không.Do đó có thể nói rằng trong một số trường hợp thì việc giải thích hệ số liên hệ là rất khó khăn( ngày nay vẫn còn là vấn đề tranh luận đối với các nhà nghiên cứu).
Vậy hệ thống chỉ số phát triển bao gồm hai phương pháp xây dựng là phương pháp liên hoàn và phương pháp ảnh hưởng biến động riêng biệt. Mục đích chủ yếu của hệ thống chỉ số là giúp chúng ta phân tích ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của toàn bộ hiện tượng nghiên cứu. Ngoài ra về phương pháp tính toán thì ta có thể dựa vào hệ thống chỉ số để tính một chỉ số trong hệ thống chưa biết.
Mở rộng hệ thống chỉ số phát triển chúng ta có thể nói về một hệ thống chỉ số phản ánh mối liên hệ giữa chỉ số phát triển với chỉ số nhiệm vụ kế hoạch và chỉ số hoàn thành kế hoạch.
Ta có : số tương đối động thái = số tương đối nhiệm vụ kế hoạch x số tương đối hoàn thành kế hoạch.
( Số tương đối động thái chính là chỉ số phát triển)
Chỉ số phát triển = Chỉ số nhiệm vụ kế hoạch x chỉ số hoàn thành kế hoạch.
3.2- Hệ thống chỉ số trung bình
Hệ thống chỉ số trung bình có tác dụng rất rõ trong phân tích kinh tế xã hội. Bất cứ sự thay đổi cơ cấu nào trong tổng thể hiện tượng cũng đều tác động (có hại hoặc có lợi, tuỳ theo sự chuyển dịch cơ cấu) đến các chỉ tiêu phản ánh các mặt của hiện tượng. Do đó, thống kê có thể dùng phương pháp chỉ số để phân tích vai trò ảnh hưởng của các nhân tố đối với biến động của chỉ tiêu bình quân.
Trong hệ thống có các kí hiệu:
xo,x1: lượng biến của tiêu thức kì gốc và kì nghiên cứu.
: số trung bình kì gốc và kì nghiên cứu.
fo, f1: số đơn vị tổng thể kì gốc và kì nghiên cứu.
Ta có thể xây dựng được hệ thống chỉ số:
3.2.1- Chỉ số cấu thành khả biến: Nêu lên biến động của chỉ tiêu bình quân giữa hai kì nghiên cứu. Chỉ số này tính được bằng cách so sánh hai số bình quân của kì nghiên cứu và kì gốc.
I
Chỉ số này bao hàm sự biến động của cả hai nhân tố: tiêu thức nghiên cứu (biểu hiện bằng các lượng biến x1 và xo) và kết cấu của tổng thể (biểu hiện bằng các tỉ trọng)
3.2.2- Chỉ số cấu thành cố định: chỉ số này nói lên biến động của chỉ tiêu bình quân do ảnh hưởng của riêng tiêu thức nghiên cứu trong khi đó kết cấu của tổng thể được coi như cố định (thường được cố định ở kì nghiên cứu)
Ix =
Chỉ số này nói lên chất lượng của hoạt động kinh tế, giúp cho nhà lãnh đạo nắm được và có phương pháp luận về hiện tượng được nghiên cứu.
3.2.3- Chỉ số ảnh hưởng kết cấu: chỉ số này nêu lên biến động của chỉ tiêu bình quân do ảnh hưởng biến động của riêng kết cấutổng thể, còn bản thân tiêu thức nghiên cứu được coi như cố định (thường là ở lì gốc)
I =
3.2.4- Từ *, **, *** ta lập được hệ thống chỉ số sau:
Chỉ số cấu thành = chỉ số cấu thành x chỉ số ảnh hưởng
khả biến cố định kết cấu
tương đương:
Tốc độ tăng (giảm):
Lượng tăng giảm tuyệt đối:
Lượng tăng giảm tương đối:
3.2.5- Ngoài ra chỉ tiêu bình quân có quan hệ với tổng lượng biến tiêu thức.
Như: tổng sản lượng = (năng suất lao động bình x (tổng số công nhân)
quân một công nhân)
Từ công thức này ta xây dựng được hệ thống chỉ số:
Tốc độ tăng giảm (lần)
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối
Lượng tăng giảm tương đối (lần)
Chỉ số (I) nêu lên sự biến động của hai nhân tố chỉ tiêu bình quân và tổng số đơn vị tổng thể.
Chỉ số (II) nói lên biến động của bản thân tiêu thức được bình quân và tác động đến tổng lượng biến tiêu thức.
Chỉ số (III) nêu lên biến động của kết cấu đơn vị tổng thể và tác động đến tổng lượng biến của tiêu thức.
Chỉ số (IV) nói lên biến động của tổng số đơn vị tổng thể và tác động đến tổng lượng biến của tiêu thức.
Chương III: Vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích sự biến động về doanh thu lương thực thực phẩm của công ti trách nhiệm hữu hạn Việt Phương.
Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương là một công ty có tên giao dịch là Việt Phương, có trụ sở giao dịch tại 96 Lê Lợi- Sơn Tây- Hà Tây. Đây là một công ty có chế độ trách nhiệm hữu hạn, có hệ thống hạch toán độc lập, hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính, có tư cách pháp nhân riêngvà là công ty ra đời vào ngày 24 tháng 02 năm 1999. Kể từ ngày nhận được giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, kể từ ngày ra đời đến nay công ty không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của công ty chủ yếu là các mặt hàng như: gạo, ngô, bột mỳ, cám con cò, đậu tương, sắn...và một số loại hàng khác.
Ix = S x1f1 S xof1 x1 (**)
S f1 S f1 xo2
Chỉ số này nói lên chất lượng của hoạt động kinh tế, giúp cho nhà lãnh đạo nắm được và có phương pháp luận về hiện tượng được nghiên cứu.
3.2.3- Chỉ số ảnh hưởng kết cấu: chỉ số này nêu lên biến động của chỉ tiêu bình quân do ảnh hưởng biến động của riêng kết cấutổng thể, còn bản thân tiêu thức nghiên cứu được coi như cố định (thường là ở kì gốc)
if/Sf S xof1 S xofo xo1 (***)
S f1 S fo xo
3.2.4- Từ *, **, *** ta lập được hệ thống chỉ số sau:
Chỉ số cấu thành = chỉ số cấu thành x chỉ số ảnh hưởng
khả biến cố định kết cấu
ix =ix * if/S f
tương đương:
x1 x1 . xo1
xo xo1 xo
Tốc độ tăng (giảm):
x1 - xo (lần) ; x1 - xo1
Lượng tăng giảm tuyệt đối:
Lượng tăng giảm tương đối:
3.2.5- Ngoài ra chỉ tiêu bình quân có quan hệ với tổng lượng biến tiêu thức.
Như: tổng sản lượng = (năng suất lao động bình x (tổng số công nhân)
quân một công nhân)
Từ công thức này ta xây dựng được hệ thống chỉ số:
(I) (II) (III) (IV)
Tốc độ tăng giảm (lần)
;;;
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối
Lượng tăng giảm tương đối (lần)
=++
Chỉ số (I) nêu lên sự biến động của hai nhân tố chỉ tiêu bình quân và tổng số đơn vị tổng thể.
Chỉ số (II) nói lên biến động của bản thân tiêu thức được bình quân và tác động đến tổng lượng biến tiêu thức.
Chỉ số (III) nêu lên biến động của kết cấu đơn vị tổng thể và tác động đến tổng lượng biến của tiêu thức.
Chỉ số (IV) nói lên biến động của tổng số đơn vị tổng thể và tác động đến tổng lượng biến của tiêu thức.
Chương III: Vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích sự biến động về doanh thu lương thực thực phẩm của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương.
Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương là một công ty có tên giao dịch là Việt Phương, có trụ sở giao dịch tại 96 Lê Lợi- Sơn Tây- Hà Tây. Đây là một công ty có chế độ trách nhiệm hữu hạn, có hệ thống hạch toán độc lập, hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính, có tư cách pháp nhân riêngvà là công ty ra đời vào ngày 24 tháng 02 năm 1999. Kể từ ngày nhận được giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, kể từ ngày ra đời đến nay công ty không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của công ty chủ yếu là các mặt hàng như: gạo, ngô, bột mỳ, cám con cò, đậu tương, sắn...và một số loại hàng khác.
Có số liệu về giá và khối lượng các loại hàng lương thực thực phẩm của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương trong quý I và quý II năm 2001
Mặt hàng
Quý I
Quý II
Giá (VND)
Khối lượng(kg)
Giá (VND)
Khối lượng(kg)
Gạo
2800
5500
3000
4500
Đậu xanh
7000
980
8000
780
Bột ngô
2000
6830
2500
4590
Sẵn
1000
7530
1300
6950
Ngô
1600
8560
2300
6250
Đậu tương
5000
3560
4500
2590
Lúa
1500
12500
1700
12800
Gọi: po: giá vé quý I năm 2001
p1: giá vé quý II năm 2001
qo: khối lượng quý I năm 2001
q1: khối lượng quý II năm 2001
áp dụng công thức tính chỉ số đơn về giá và công thức tính chỉ số đơn về lượng:
Chỉ số đơn về giá: ip = p1
po
Chỉ số đơn về lượng: iq = q1
qo
Ta có chỉ số đơn về giá và lượng của các mặt hàng:
Mặt hàng
Quý I
Quý II
po (VND)
qo(kg)
p1 (VND)
q1(kg)
ip
iq
Gạo
2800
5500
3000
4500
1,071
0,818
Đậu xanh
7000
980
8000
780
1,143
0,796
Bột ngô
2000
6830
2500
4590
1,250
0,672
Sẵn
1000
7530
1300
6950
1,300
0,923
Ngô
1600
8560
2300
6250
1,4375
0,730
Đậu tương
5000
3560
4500
2590
0,900
0,727
Lúa
1500
12500
1700
12800
1,133
1,024
Bảng kết quả tính toán chỉ số đơn về giá và lượng các mặt hàng quý II so với quý I cho thấy: Có sáu loại hàng (gạo, đậu xanh, bột ngô, sắn, ngô, lúa ) đều tăng giá, trong đó giá ngô tăng mạnh nhất( tăng 43,75% hay tăng 700 VNĐ trên kg). Còn lại duy nhất giá đậu tương giảm ( giảm 10% hay giảm 500 VNĐ trên kg ).
Chỉ số đơn về lượng quý II so với quý I có duy nhất khối lượng lúa tăng (tăng 2,4 % hay 300 kg). Các loại lương thực còn lại khối lượng giảm dần; trong đó có khối lượng bột ngô giảm mạnh nhất ( giảm 32,8 % hoặc 2240 kg) và giảm ít nhất là sắn ( giảm 7,7 % hay 580 kg ).
Các chỉ số đơn mới chỉ cho thấy sự biến động của giá và từng lượn từng mặt hàng nên vẫn chưa cho biết tình hình so sánh giá cả và lượng hàng hoá trong công ty. Để biết sự biến động về giá cả và khối lượng hàng hoá của toàn bộ các loại hàng hoá ta tính các chỉ số tổng hợp về giá cả và chỉ số tổng hợp về lượng.
+) Chỉ số tổng hợp về giá cả của laspayres:
Ilp = S p1qo = 108 162 000 = 1,1544 (lần)
S p1qo 93 696 000
Tốc độ tăng ( giảm ): 15,44 %
Lượng tăng ( giảm ) tuyệt đối:
Sp1qo - Spoqo = 108 162 000 - 93 696 000 = 14 466 000 (VNĐ)
Giá cả quý II so với quý I tăng 15,44 % chênh lệch về tổng giá trị giữa quý II và quý I là 14 466 000 (VNĐ) hoặc số tiền mà khách hàng phải trả thêm hay công ty thu tăng lên do việc thay đổi về giá cả chung.
+) Chỉ số tổng hợp về giá cả của paasche:
Ipp = Sp1q1 = 88 040 000 = 1,1533 (lần)
Spoq1 76 340 000
Tốc độ tăng ( giảm): 15,33 (lần)
Lượng tăng ( giảm ) tuyệt đối: 11 700 000 (VNĐ)
Giá cả quý II so với quý I tăng 15,33%, chênh lệch về tổng giá trị giữa quý II và quý I tính theo khối lượng hàng hoá quý II là 11 700 000 (VNĐ) hay đây chính là số tiền khách hàng phải chi thêm và cũng là khoản tiền công ty thu tăng thêm do sự biến động chung về giá.
Hai chỉ số tổng hợp trên cho thấy: chỉ số tổng hợp về giá cả của laspayres lấy quyền số là lượng hàng hoá quý I. Chỉ số này nói lên ảnh hưởng biến động riêng biệtcủa nhân tố giá đối với lượng hàng hoá tiêu thụ, loại trừ được ảnh hưởng của lượng hàng hoá. Còn chỉ số tổng hợp về giá cả của paasche lấy quyền số là khối lượng hàng hoá quý II. Chỉ số này phản ánh đúng hướng kết cấu hàng hoá thực tế nhưng nó vẫn chưa loại trừ được ảnh hưởng của nhân tố lượng tới biến động về giá.
+) Chỉ số tổng hợp về khối lượng của laspayres:
Ilq = Sq1po = 76 340 000 = 0,8147 (lần)
Sqopo 93 696 000
Tốc độ tăng (giảm): - 18,53 %
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối:
Sq1po - Sqopo = 76 340 000 - 93 696 000 = - 17 356 000 (VNĐ)
Lượng hàng hoá quý II so với quý I giảm 18,34%, chênh lệch về tổng giá trị ( hay doanh thu ) giữa quý II so với quý I là 17 356 000 (VNĐ) làm cho doanh thu giảm đi do sự thay đổi về lượng hàng hoá tiêu thụ.
+) Chỉ số tổng hợp về lượng của paasche:
Ipq = Sq1p1 = 88 040 000 = 0,814 (lần)
Sqop1 108 162 000
Tốc độ tăng (giảm): - 18,6%
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối:
Sq1p1 - Sq1p1 = 88 040 000 - 108 162 000 = - 20 122 000 (VNĐ)
Lượng hàng hoá quý II so với quý I giảm 18,6%, chênh lệch về doanh thu của quý II so cvới quý I tình theo giá quý II là - 20 122 000 (VNĐ) hay doanh thu của công ty giảm đi do sự biến động về lượng hàng hoá tiêu thụ.
Trong hai chỉ số tổng hợp về lượng thì chỉ số Ilq lấy quyền số là giá quý I. Chỉ số này nêu lên biến động về lượng hàng hoá tiêu thụ, ngoài ra còn loại trừ được hoàn toàn ảnh hưởng biến động giá cả tới biến động của lượng. Còn chỉ số Ipq có quyền số là giá quý II, chỉ số này nêu lên biến động của lượng hàng hoá quý II so với quý I. Bên cạnh đó nó chưa loại trừ được hoàn toàn ảnh hưởng của giá cả hàng hoá tới biến động của khối lượng hàng hoá tiêu thụ.
Các chỉ số tổng hợp về giá cả và chỉ số tổng hợp về lượng chỉ nêu lên sự biến động của giá cả và lượng hàng hgoá tiêu thụ. Do vậy các chỉ số tổng hợp nay7f còn có những mặt hạn chế. Để nghiên cứu sự biến động về doanh thuta dùng hệ thống chie số tổng hợp của Fisher.
Chỉ số doanh thu = chỉ số giá x chỉ số lượng.
Ipq = Ipp x Ilq ( * )
Ipq = Ilp x Ipq ( ** )
Trong thực tế, chúng ta thường dùng hệ thồng chỉ số (*). Vì xuất phát từ nguyên tắc chọn quyền số: quyền số của nhân tố chất lượng là nhân tố khối lượng cố định ở kỳ nghiên cứu, quyền số của nhân tố khối lượng là nhân tố chất lượng cố định ở kỳ gốc.
Ta có: Sp1q1 Sp1q1 Sq1po
Spoqo Spoq1 Spoqo
88 040 000 88 040 000 76 340 000
93 696 000 76 340 000 93 696 000
0,9396 = 1,533 x 0,8147 ( lần)
ị Tốc độ tăng( giảm ):
( - 6,04 %) ( 15,33 %) ( - 18,53 %)
ị Lượng tăng (giảm) tuyệt đối:
Sp1q1- Spoqo = ( Sq1po - Spoq1) + ( Sq1po - Sqopo )
88 040 000 - 93 696 000 = (88 040 000 - 76 340 000) + (76 340 000 - 93 696 000) - 5 656 000 = ( 11 700 000) + ( - 17 356 000)
ị Lượng tăng (giảm) tương đối:
Sp1q1- Spoqo Sp1q1 - Spoq1 Sq1po - Sqopo
Spoqo Spoqo Spoqo
-5656 000 11 700 000 17 356 000 ( lần)
93 696 000 93 696 000 93 696 000
0,0604 = 0,1248 - 0,1852 (lần)
6,04 % = ( 12,48 %) - ( 18,52 %).
Qua kết quả tính toán ở trên cho ta thấy tổng doanh thu của các loại hàng hoá ( gạo, đậu xanh, bột ngô, sắn, ngô, đậu tương, lúa) kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc đã giảm đi 6,04 % hay về lượng tuyệt đối đã giảm đi 5 656 000 (VNĐ) là doL:
Biến động chung về giá cả của bảy loại lương thực này ở kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc đã tăng lên 15,33% nên đã làm cho tổng doanh thu tăng lên là 11 700 000 (VNĐ) và chiếm 12,48% trong tổng số - 6,04% sự giảm đi của doanh thu.
Biến động chung về lượng hàng hoá tiêu thụ của bảy mặt hàng quý II so với quý I đã giảm đi - 18,53 % nên đã làm cho tổng doanh thu giảm đi một lượng tuyệt đối ( - 17 356 000 VNĐ) và chiếm - 18,52 % trong tổng số - 6,04 % giảm đi của doanh thu.
Vậy chúng ta thấy rằng tổng doanh thu của bảy loại lương thực trên quý II so với quý I giảm đi là do sự biến động chung của hai nhân tố giá và lượng. Ta thấy ảnh hưởng biến động chung của “lượng giảm đi” mạnh hơn ảnh hưởng biến động chung của “ giá tăng lên” ( nhân tố lượng làm cho tổng doanh thu giảm đi vì nó tác động ngược chiếu và mạnh hơn nhân tố giá) nên đã làm cho tổng doanh thu giảm đi.
Phương pháp liên hoàn nói lên biến động của hiện tượng phức tạp là do ảnh hưởng biến động riêng biệt của từng nhân tố, nên chưa nói lên sự tác động qua lại giữa các nhân tố với nhau. Vậy để khắc phục hiện tượng này, ta sử dụng phương pháp ảnh hưởng biến động riêng biệt. Do đó, quyền số cảu chỉ số nhân tố được chọn ở kỳ gốc.
Sp1q1 Sp1q1 Sq1po
Spoqo Spoq1 Spoqo * K
K Sp1q1 Spoqo
Sp1qo Sq1po (Chỉ số liên hệ)
Ipq = Ipo x Iqox K
Tốc độ tăng (giảm):
88040000 108162000 76340000 88040000 x 93696000
93696000 93696000 93696000 108162000 x 76340000
0,9396 = 1,1544*0,8147* 0,999 (lần)
Tốc độ tăng (giảm):
(-6,04%), (15,44%) , (-18,53%), (-0,1%)
Lượng tăng giảm tuyệt đối:
Sp1q1 - Sqopo = (Sp1qo - Sqopo)+( Sp1po - Sqopo) + [(Sp1q1 + Spoqo)-(Sp1qo + Sq1po)]
(88040000-93696000)=(108162000-93696000)+(76340000-93696000)+
[ (88040000+93696000)-(108162000+76340000)]
-5656000=14466000+(-17356000)+(-2766000)
Kết quả tính toán trên cho thấy:
Tổng doanh thu của 7 loại lương thực thực phẩm, quý II so với quý I giảm đi (-6,04%), về lượng tuyệt đối giảm là -5656000 (VNĐ) là do:
+ Biến động chung về giá cả của 7 mặt hàng này ở quý I đã tăng lên 15,44% nên đã làm cho tổng doanh thu tăng lên một lượng tuyệt đối (14466000VNĐ)
+ Biến động chung về lượng hàng hoá của 7 mặt hàng này ở kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc đã giảm đi (- 18,53%) nên đã làm cho tổng doanh thu giảm lượng tuyệt đối (-17356000VNĐ)
+ Tác động đồng thời của giá và lượng tới doanh thu ngược nhau và làm cho giảm đi (-0,1%) làm cho tổng doanh thu giảm (-2766000VNĐ)
Như vậy, phương pháp chỉ số có thế mạnh là qua phân tích ta có thể tính được cụ thể các mức độ tác động của từng yếu tố đối với tổng thể nghiên cứu. Mặt khác, phương pháp chỉ số dùng để phân tích nguyên nhân còn có ưu thế hơn các phương pháp khác như: phương pháp này không chỉ phân tích cho từng đơn vị riêng biệt, mà còn có thể phân tích cho toàn bộ tổng thể bằng các chỉ tiêu hiện vật và giá trị.
Phương hướng và giải pháp để tăng doanh thu của Công ty TNHH Việt Phương về việc kinh doanh 7 măt hàng trên.
Doanh thu là một trong những yếu tố quan trọng để làm tăng lợi nhuận, tăng khả năng tích luỹ để mở rộng, phát triển Công ty. Muốn vậy, khi tham gia kinh tế thị trường, điều cần thiết tất yếu mọi doanh nghiệp đều phải thực hiện theo yêu cầu của quy luật cạnh tranh, cạnh tranh để tòn tại và phát triển. Khi đánh giá khả năng cạnh tranh một doanh nghiệp nào đó, một mặt hàng nào đó cần phải xem xét nó đã và đang diễn ra trên thương trường và xu thế trong tương lai. Trong cạnh tranh thế và lực của đối phương khó có thể nắm chắc: nói tới khả năng cạnh tranh là nói tới dự báo xu hướng, tương lai của doanh nghiệp so với các đối thủ cùng sản xuất và tiêu thụ loại sản phẩm đó.
Qua phân tích doanh thu của Công ty cho thấy phụ thuộc vào các yếu tố giá, lượng, chủng loại ... v.v thì giá và lượnglà hai yếu tố tác động chủ yếu tới kết quả hoạt động của Công ty. Muốn tăng doanh thu thì ta phải có các biện pháp tăng mức tiêu thụ sản lượng đối với các mặt hàng (gạo, đậu xanh, bột ngô, sắn, ngô, đậu tương) và ngoài ra còn phải phát huy lợi thế cạnh tranh đối với mặt hàng "lúa", đồng thời cần phải có biện pháp làm tăng giá "đậu tương". Tuy nhiên, giữa giá và lượng của cá mặt hàng thường có quan hệ ngược chiều nhau, chỉ có hai mặt hàng là Lúa và Đậu tương có quan hệ cùng chiều: giữa giá và sản lượng của lúa lại ngươc chiều so với đậu tương. Do đó, để tăng doanh thu thì Công ty cần phải có các chính sách, giải pháp hợp lý. Ta có thể sử dụng các biện pháp:
-Giá cả sản phẩm có vai trò quyết định trong quá trình cạnh tranh trên thị trường: Vì mức thu nhập thấp nên người mua hàng thường so sánh giá cả cùng loại hàng nhưng có nguồn gốc khác nhau với giá cả khác nhau, thậm chí yếu tố an toàn trong tiêu dùng còn phải xếp sau nhân tố giá cả..
-Vấn đề chất lượng sản phẩm cũng là nhân tố quan trọng: người ta quan niệm chất lượng là khả năng đáp ứng tất nhiên nhu cầu của người tiêu dùng.
-Phải toạ lập được thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định trong khu vực cũng như ngoài khu vực.
-Mở rộng chủng loại sản phẩm kinh doanh.
-Nâng cao chất lượng phục vụ đối với người mua
...v.v
C - Kết luận
Phương pháp chỉ số là một trong những phương pháp quan trọng của phân tích thống kê và được ứng dụng ngày càng nhiều trong phân tích kinh tế. Khi dùng phương pháp chỉ số cần đánh giá tình hình thực tế một cách khách quan những mâu thuẫn tồn tại, những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp tới vấn đề đang nghiên cứu để từ đó đưa ra những chính sách quyết định tối ưu và giải quyết những mâu thuẫn còn tồn tại trong quá khứ và thực tiễn gây ra...v.v
Qua phân tích tình hình doanh thu của Công ty cho thấy: Do hoạt động trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt, với tiềm lực về tài chính, chất lượng sản phẩm, chủng loại sản phẩm chưa đa dạng...v.v dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu... nên doanh thu của Công ty sang quý II giảm so với quý I. Vậy Công ty muốn nâng cao hiệu quả cần nhanh chóng tìm ra các giải pháp như: nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng chủng loại sản phẩm và mở rộng thị trường...v.v
Vậy, trong đề án em đã xây dựng và vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích sự biến động về doanh thu lương thực thực phẩm cua Công ty TNHH Việt Phương. Dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của thầy giá Ngọc Phác, sự cố gắng của bản thân, em đã hoàn thành đề án môn học này. Nhưng do trình độ của mình có hạn nên đề án này không tránh khỏi sai sót, em mong nhận được sự chỉ bảo và hướng dẫn của thầy.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Thống Kê, đặc biệt là thầy giáo Ngọc Phác đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình viết và hoàn thành đề án này.
Hà Nội, tháng 04 năm 2002
Mục lục
Trang
A - Lời nói đầu
1
B - Nội dung
3
Chương I: Vai trò của thống kê trong phân tích sự biến động về doanh thu của Công ty trách nhiệm hữu hạn việt phương
3
Chương II: Phương pháp chỉ số và ứng dụng phương pháp chỉ số trong phân tích doanh thu
5
I. ý nghĩa, tác dụng của chỉ số
5
1. Khái niệm chỉ số
5
2. Đặc điểm của phương pháp chỉ số
5
3. Tác dụng của chỉ số
7
4. Các loại chỉ số
8
II. Phương pháp chỉ số
11
1. Chỉ số phát triển
11
2. Chỉ số không gian
17
3. Hệ thống chỉ số
19
Chương III: Vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích sự biến động về doanh thu lương thực thực phẩm của Công ty trách nhiệm hữu hạn việt phương
29
C - kết luận
38
Có số liệu về giá và khối lượng các loại hàng lương thực thực phẩm của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương trong quý I và quý II năm 2001
Mặt hàng
Quý I
Quý II
Giá (VND)
Khối lượng(kg)
Giá (VND)
Khối lượng(kg)
Gạo
2800
5500
3000
4500
Đậu xanh
7000
980
8000
780
Bột ngô
2000
6830
2500
4590
Sẵn
1000
7530
1300
6950
Ngô
1600
8560
2300
6250
Đậu tương
5000
3560
4500
2590
Lúa
1500
12500
1700
12800
Gọi: po: giá vé quý I năm 2001
p1: giá vé quý II năm 2001
qo: khối lượng quý I năm 2001
q1: khối lượng quý II năm 2001
áp dụng công thức tính chỉ số đơn về giá và công thức tính chỉ số đơn về lượng:
Chỉ số đơn về giá: ip = p1
po
Chỉ số đơn về lượng: iq = q1
qo
Ta có chỉ số đơn về giá và lượng của các mặt hàng:
Mặt hàng
Quý I
Quý II
po (VND)
qo(kg)
p1 (VND)
q1(kg)
ip
iq
Gạo
2800
5500
3000
4500
1,071
0,818
Đậu xanh
7000
980
8000
780
1,143
0,796
Bột ngô
2000
6830
2500
4590
1,250
0,672
Sẵn
1000
7530
1300
6950
1,300
0,923
Ngô
1600
8560
2300
6250
1,4375
0,730
Đậu tương
5000
3560
4500
2590
0,900
0,727
Lúa
1500
12500
1700
12800
1,133
1,024
Bảng kết quả tính toán chỉ số đơn về giá và lượng các mặt hàng quý II so với quý I cho thấy: Có sáu loại hàng (gạo, đậu xanh, bột ngô, sắn, ngô, lúa ) đều tăng giá, trong đó giá ngô tăng mạnh nhất( tăng 43,75% hay tăng 700 VNĐ trên kg). Còn lại duy nhất giá đậu tương giảm ( giảm 10% hay giảm 500 VNĐ trên kg ).
Chỉ số đơn về lượng quý II so với quý I có duy nhất khối lượng lúa tăng (tăng 2,4 % hay 300 kg). Các loại lương thực còn lại khối lượng giảm dần; trong đó có khối lượng bột ngô giảm mạnh nhất ( giảm 32,8 % hoặc 2240 kg) và giảm ít nhất là sắn ( giảm 7,7 % hay 580 kg ).
Các chỉ số đơn mới chỉ cho thấy sự biến động của giá và từng lượn từng mặt hàng nên vẫn chưa cho biết tình hình so sánh giá cả và lượng hàng hoá trong công ty. Để biết sự biến động về giá cả và khối lượng hàng hoá của toàn bộ các loại hàng hoá ta tính các chỉ số tổng hợp về giá cả và chỉ số tổng hợp về lượng.
+) Chỉ số tổng hợp về giá cả của laspayres:
Ilp = S p1qo = 108 162 000 = 1,1544 (lần)
S p1qo 93 696 000
Tốc độ tăng ( giảm ): 15,44 %
Lượng tăng ( giảm ) tuyệt đối:
Sp1qo - Spoqo = 108 162 000 - 93 696 000 = 14 466 000 (VNĐ)
Giá cả quý II so với quý I tăng 15,44 % chênh lệch về tổng giá trị giữa quý II và quý I là 14 466 000 (VNĐ) hoặc số tiền mà khách hàng phải trả thêm hay công ty thu tăng lên do việc thay đổi về giá cả chung.
+) Chỉ số tổng hợp về giá cả của paasche:
Ipp = Sp1q1 = 88 040 000 = 1,1533 (lần)
Spoq1 76 340 000
Tốc độ tăng ( giảm): 15,33 (lần)
Lượng tăng ( giảm ) tuyệt đối: 11 700 000 (VNĐ)
Giá cả quý II so với quý I tăng 15,33%, chênh lệch về tổng giá trị giữa quý II và quý I tính theo khối lượng hàng hoá quý II là 11 700 000 (VNĐ) hay đây chính là số tiền khách hàng phải chi thêm và cũng là khoản tiền công ty thu tăng thêm do sự biến động chung về giá.
Hai chỉ số tổng hợp trên cho thấy: chỉ số tổng hợp về giá cả của laspayres lấy quyền số là lượng hàng hoá quý I. Chỉ số này nói lên ảnh hưởng biến động riêng biệtcủa nhân tố giá đối với lượng hàng hoá tiêu thụ, loại trừ được ảnh hưởng của lượng hàng hoá. Còn chỉ số tổng hợp về giá cả của paasche lấy quyền số là khối lượng hàng hoá quý II. Chỉ số này phản ánh đúng hướng kết cấu hàng hoá thực tế nhưng nó vẫn chưa loại trừ được ảnh hưởng của nhân tố lượng tới biến động về giá.
+) Chỉ số tổng hợp về khối lượng của laspayres:
Ilq = Sq1po = 76 340 000 = 0,8147 (lần)
Sqopo 93 696 000
Tốc độ tăng (giảm): - 18,53 %
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối:
Sq1po - Sqopo = 76 340 000 - 93 696 000 = - 17 356 000 (VNĐ)
Lượng hàng hoá quý II so với quý I giảm 18,34%, chênh lệch về tổng giá trị ( hay doanh thu ) giữa quý II so với quý I là 17 356 000 (VNĐ) làm cho doanh thu giảm đi do sự thay đổi về lượng hàng hoá tiêu thụ.
+) Chỉ số tổng hợp về lượng của paasche:
Ipq = Sq1p1 = 88 040 000 = 0,814 (lần)
Sqop1 108 162 000
Tốc độ tăng (giảm): - 18,6%
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối:
Sq1p1 - Sq1p1 = 88 040 000 - 108 162 000 = - 20 122 000 (VNĐ)
Lượng hàng hoá quý II so với quý I giảm 18,6%, chênh lệch về doanh thu của quý II so cvới quý I tình theo giá quý II là - 20 122 000 (VNĐ) hay doanh thu của công ty giảm đi do sự biến động về lượng hàng hoá tiêu thụ.
Trong hai chỉ số tổng hợp về lượng thì chỉ số Ilq lấy quyền số là giá quý I. Chỉ số này nêu lên biến động về lượng hàng hoá tiêu thụ, ngoài ra còn loại trừ được hoàn toàn ảnh hưởng biến động giá cả tới biến động của lượng. Còn chỉ số Ipq có quyền số là giá quý II, chỉ số này nêu lên biến động của lượng hàng hoá quý II so với quý I. Bên cạnh đó nó chưa loại trừ được hoàn toàn ảnh hưởng của giá cả hàng hoá tới biến động của khối lượng hàng hoá tiêu thụ.
Các chỉ số tổng hợp về giá cả và chỉ số tổng hợp về lượng chỉ nêu lên sự biến động của giá cả và lượng hàng hgoá tiêu thụ. Do vậy các chỉ số tổng hợp nay7f còn có những mặt hạn chế. Để nghiên cứu sự biến động về doanh thuta dùng hệ thống chie số tổng hợp của Fisher.
Chỉ số doanh thu = chỉ số giá x chỉ số lượng.
Ipq = Ipp x Ilq ( * )
Ipq = Ilp x Ipq ( ** )
Trong thực tế, chúng ta thường dùng hệ thồng chỉ số (*). Vì xuất phát từ nguyên tắc chọn quyền số: quyền số của nhân tố chất lượng là nhân tố khối lượng cố định ở kỳ nghiên cứu, quyền số của nhân tố khối lượng là nhân tố chất lượng cố định ở kỳ gốc.
Ta có: Sp1q1 Sp1q1 Sq1po
Spoqo Spoq1 Spoqo
88 040 000 88 040 000 76 340 000
93 696 000 76 340 000 93 696 000
0,9396 = 1,533 x 0,8147 ( lần)
ị Tốc độ tăng( giảm ):
( - 6,04 %) ( 15,33 %) ( - 18,53 %)
ị Lượng tăng (giảm) tuyệt đối:
Sp1q1- Spoqo = ( Sq1po - Spoq1) + ( Sq1po - Sqopo )
88 040 000 - 93 696 000 = (88 040 000 - 76 340 000) + (76 340 000 - 93 696 000) - 5 656 000 = ( 11 700 000) + ( - 17 356 000)
ị Lượng tăng (giảm) tương đối:
Sp1q1- Spoqo Sp1q1 - Spoq1 Sq1po - Sqopo
Spoqo Spoqo Spoqo
-5656 000 11 700 000 17 356 000 ( lần)
93 696 000 93 696 000 93 696 000
0,0604 = 0,1248 - 0,1852 (lần)
6,04 % = ( 12,48 %) - ( 18,52 %).
Qua kết quả tính toán ở trên cho ta thấy tổng doanh thu của các loại hàng hoá ( gạo, đậu xanh, bột ngô, sắn, ngô, đậu tương, lúa) kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc đã giảm đi 6,04 % hay về lượng tuyệt đối đã giảm đi 5 656 000 (VNĐ) là doL:
Biến động chung về giá cả của bảy loại lương thực này ở kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc đã tăng lên 15,33% nên đã làm cho tổng doanh thu tăng lên là 11 700 000 (VNĐ) và chiếm 12,48% trong tổng số - 6,04% sự giảm đi của doanh thu.
Biến động chung về lượng hàng hoá tiêu thụ của bảy mặt hàng quý II so với quý I đã giảm đi - 18,53 % nên đã làm cho tổng doanh thu giảm đi một lượng tuyệt đối ( - 17 356 000 VNĐ) và chiếm - 18,52 % trong tổng số - 6,04 % giảm đi của doanh thu.
Vậy chúng ta thấy rằng tổng doanh thu của bảy loại lương thực trên quý II so với quý I giảm đi là do sự biến động chung của hai nhân tố giá và lượng. Ta thấy ảnh hưởng biến động chung của “lượng giảm đi” mạnh hơn ảnh hưởng biến động chung của “ giá tăng lên” ( nhân tố lượng làm cho tổng doanh thu giảm đi vì nó tác động ngược chiếu và mạnh hơn nhân tố giá) nên đã làm cho tổng doanh thu giảm đi.
Nội dung
Chương I: Vai trò của thống kê trong phân tích sự biến động của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương.
Thống kê học chính là khoa học nghiên cứu hệ thống các pháp thu thập và xử lí, phân tích được qui mô, kết cấu, quan hệ so sánh trình độ phổ biến tốc đọ và xu hướng phát triển của hiện tượng kinh tế- xã hội. Hay thống kê thông qua mặt “ lượng” để nói lên bản chất và tính qui luật phát triển của hiện tượng kinh tế xã hội. Ta nhận thấy rằng khi các mặt hoạt động kinh tế- chính trị- xã hội ngày càng phát triển thì thống kê càng đóng vai trò quan trọng. Do đó, chúng ta chúng ta cần phải nghiên cứu và ngày càng phải hoàn thiện nó bằng lí luận và thực tiễn. Thực tiễn là gày nay bất cứ một nền kinh tế nào hay một hãng kinh doang nói chung và đặc biệt “ Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương” nói riêng cần phải sử dụng thống kê một cách rộng rãi và phải coi nó như một công cụ sắc bén để phân tích và dự đoán trong kinh doanh.Vì thông qua phân tích, các nhà kinh doanh ( các nhà quản lí) có thể nhận thấy tình hình kinh doanh của doanh nghiệp mình để từ đó có thể rút ra được những mâu thuẫn tồn tại, những nguyên nhân khách quan và chủ quan để từ đó đưa ra được các mục tiêu và các biện pháp hợp lí làm cơ sở cho việc đề ra những quyết định tối ưu trong hoạt động kinh doanh và trong lĩnh vực quản lí doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh là quá trình sử dụng đồng vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Muốn sử dụng có hiệu quả đồi hỏi các nhà đầu tư cũng như linh doanh phải đưa ra được các dự án cũng như kế hoạch kinh doanh đòi hỏi phân tích và đưa ra được các chỉ tiêu.
Qua phân tích giúp cho nhà quản lí nhìn nhận đúng, đánh giá đúng kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình thực tiễn các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra cũng như các chỉ tiêu định mức kinh tế- kĩ thuật để từ đó cho ta thấy được mức độ hoàn thành , lượng tăng giảm tương đối và tuyệt đối...,từ đó xem xét các mục tiêu cần phải đạt tới.
Trong bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh nào thì chỉ tiêu về doanh thu là chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh lợi nhuận kinh doanh cũng như kết quả về tiêu thụ hàng hoá. Khi doanh thu của doanh nghiệp biến động tăng hay giảm cũng là một nhân tố tác động đến thu nhập, thông qua đó để tái sản xuất mở rộng và giản đơn...Do đó, dựa vào thống kê để phân tích tình hình doanh thu của công ty để từ đó nắm bắt và đánh giá một cách chính xác và khách quan tình hình tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp mình trong từng chu kỳ kinh doanh. Từ đó thấy được những kết quả đạt được cũng như những mâu thuẫn tồn tại trong quá trình tiêu thụ hàng hoá để tìm ra những nguyên nhân khách quan, để đề ra những chủ trương, biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình cung ứng, trao đổi và tiêu thụ nhằm mục đích tăng doanh thu đẻ tăng lợi nhuận cho công ty.
Như vậy, phân tích doanh thu bằng “phương pháp thống kê” giúp cho ta thất được những nhân tố tác động và ảnh hưởng đến doanh thu đồng thời giúp cho nhà quản lí đưa ra những chính sách và quyết định tối ưu trong việc chỉ đạo hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế và xác định được kết quả tài chính của doanh nghiệp mình.
Nội dung
Chương I: Vai trò của thống kê trong phân tích sự biến động của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương.
Thống kê học chính là khoa học nghiên cứu hệ thống các pháp thu thập và xử lí, phân tích được qui mô, kết cấu, quan hệ so sánh trình độ phổ biến tốc đọ và xu hướng phát triển của hiện tượng kinh tế- xã hội. Hay thống kê thông qua mặt “ lượng” để nói lên bản chất và tính qui luật phát triển của hiện tượng kinh tế xã hội. Ta nhận thấy rằng khi các mặt hoạt động kinh tế- chính trị- xã hội ngày càng phát triển thì thống kê càng đóng vai trò quan trọng. Do đó, chúng ta chúng ta cần phải nghiên cứu và ngày càng phải hoàn thiện nó bằng lí luận và thực tiễn. Thực tiễn là gày nay bất cứ một nền kinh tế nào hay một hãng kinh doang nói chung và đặc biệt “ Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Phương” nói riêng cần phải sử dụng thống kê một cách rộng rãi và phải coi nó như một công cụ sắc bén để phân tích và dự đoán trong kinh doanh.Vì thông qua phân tích, các nhà kinh doanh ( các nhà quản lí) có thể nhận thấy tình hình kinh doanh của doanh nghiệp mình để từ đó có thể rút ra được những mâu thuẫn tồn tại, những nguyên nhân khách quan và chủ quan để từ đó đưa ra được các mục tiêu và các biện pháp hợp lí làm cơ sở cho việc đề ra những quyết định tối ưu trong hoạt động kinh doanh và trong lĩnh vực quản lí doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh là quá trình sử dụng đồng vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Muốn sử dụng có hiệu quả đồi hỏi các nhà đầu tư cũng như linh doanh phải đưa ra được các dự án cũng như kế hoạch kinh doanh đòi hỏi phân tích và đưa ra được các chỉ tiêu.
Qua phân tích giúp cho nhà quản lí nhìn nhận đúng, đánh giá đúng kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình thực tiễn các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra cũng như các chỉ tiêu định mức kinh tế- kĩ thuật để từ đó cho ta thấy được mức độ hoàn thành , lượng tăng giảm tương đối và tuyệt đối...,từ đó xem xét các mục tiêu cần phải đạt tới.
Trong bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh nào thì chỉ tiêu về doanh thu là chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh lợi nhuận kinh doanh cũng như kết quả về tiêu thụ hàng hoá. Khi doanh thu của doanh nghiệp biến động tăng hay giảm cũng là một nhân tố tác động đến thu nhập, thông qua đó để tái sản xuất mở rộng và giản đơn...Do đó, dựa vào thống kê để phân tích tình hình doanh thu của công ty để từ đó nắm bắt và đánh giá một cách chính xác và khách quan tình hình tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp mình trong từng chu kỳ kinh doanh. Từ đó thấy được những kết quả đạt được cũng như những mâu thuẫn tồn tại trong quá trình tiêu thụ hàng hoá để tìm ra những nguyên nhân khách quan, để đề ra những chủ trương, biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình cung ứng, trao đổi và tiêu thụ nhằm mục đích tăng doanh thu đẻ tăng lợi nhuận cho công ty.
Như vậy, phân tích doanh thu bằng “phương pháp thống kê” giúp cho ta thất được những nhân tố tác động và ảnh hưởng đến doanh thu đồng thời giúp cho nhà quản lí đưa ra những chính sách và quyết định tối ưu trong việc chỉ đạo hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế và xác định được kết quả tài chính của doanh nghiệp mình.
Chương II: Phương pháp chỉ số và ứng dụng phương pháp chỉ số trong phân tích doanh thu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 74052.DOC