Tài liệu Đề tài Vận dụng cặp phạm trù khả năng hiện thực của phép biện chứng duy vật để thấy rõ tình hình phát triển của du lịch Việt Nam từ 1960 -2010: Lời mở đầu
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu, phân tích và phát hiện du lịch là mọt hiện tượng kinh tế mới, là tiềm năng nếu được khai thác tốt sẽ là động lực để khắc phục những hậu quả nặng nề về kinh tế do chiến tranh để lại. Họ tin tưởng rằng du lịch sẽ tác động đến sự duy trì, mở rộng mối quan hệ kinh tế thế giới.
Do ứng dụng thành tựu Khoa học kỹ thuật vào các ngành kinh tế khác nhau, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai các nước công nghiệp cũng như các nước thuộc thế giới thứ ba đều bước vào thời kỳ phát triển kinh tế mới. Sau thời kỳ khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại, kinh tế phát triển với tốc độ cao, đời sống dân cư được cải thiện. Giao thông và các công trình hạ tầng cơ sở được khôi phục, phát triển mới. Theo số liệu của tổ chức du lịch thế giới năm 1950 có 26,58 triệu lượt người đi du lịch sau 10 năm 1960 đã tăng lên 69,3 triệu. Năm 1970 có 165,7 triệu năm 1980 có 248,2 triệu năm 1990 có 455,8 triệu và năm 1995 là 567 triệu. Thu n...
20 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1097 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng cặp phạm trù khả năng hiện thực của phép biện chứng duy vật để thấy rõ tình hình phát triển của du lịch Việt Nam từ 1960 -2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu, phân tích và phát hiện du lịch là mọt hiện tượng kinh tế mới, là tiềm năng nếu được khai thác tốt sẽ là động lực để khắc phục những hậu quả nặng nề về kinh tế do chiến tranh để lại. Họ tin tưởng rằng du lịch sẽ tác động đến sự duy trì, mở rộng mối quan hệ kinh tế thế giới.
Do ứng dụng thành tựu Khoa học kỹ thuật vào các ngành kinh tế khác nhau, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai các nước công nghiệp cũng như các nước thuộc thế giới thứ ba đều bước vào thời kỳ phát triển kinh tế mới. Sau thời kỳ khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại, kinh tế phát triển với tốc độ cao, đời sống dân cư được cải thiện. Giao thông và các công trình hạ tầng cơ sở được khôi phục, phát triển mới. Theo số liệu của tổ chức du lịch thế giới năm 1950 có 26,58 triệu lượt người đi du lịch sau 10 năm 1960 đã tăng lên 69,3 triệu. Năm 1970 có 165,7 triệu năm 1980 có 248,2 triệu năm 1990 có 455,8 triệu và năm 1995 là 567 triệu. Thu nhập về du lịch cùng thời gian đó là 1950 có 2,1 tỷ USD, 1960 có 6,87 tỷ USD, 1970 có 17,9 tỷ USD, 1980 có 103,2 tỷ USD, 1990 có 261 tỷ USD và 1996 là 372 tỷ USD.
Số lượt người tham gia hành trình du lịch năm 1996 so với 1950 tăng gần 22,16 lần. Thu nhập ngoại tệ tăng 177 lần. Du lịch đã thật sự trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội. Hoạt động du lịch được coi là một ngành kinh tế có hiệu quả cao. Ngày nay du lịch đã được xã hội hoá, phát triển ở mức độ cao và trở thành một ngành kinh tế. Nhiều nước trên thế giới đã đặt du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, là quốc sách. Theo ông G.Lipmen Chủ tịch WTTC hội đồng du lịch thế giới có 252 triệu (10,7%) của tổng số việc làm trên thế giới là do ngành du lịch tạo ra và 100 triệu việc làm nữa sẽ được tạo ra trong 10 năm tới. Theo báo cáo của WTTC tổng thu nhập của năm 1997 của ngành du lịch thế giới là 3,8 nghìn tỷ USD tương đương 10,7% tổng sản phẩm quốc dân (GDP) thế giới.
Những điều trình bày ở trên giúp chúng ta thấy được vai trò của công nghiệp du lịch trong nền kinh tế quốc dân từ đó chúng ta suy nghĩ về phương hướng và đổi mới trong cung cách nhằm phát triển du lịch ở nước ta . Xuất phát từ đó phạm vi của việc nghiên cứu là trong phạm vi hẹp em đã nghiên cứu đề tài: “Vận dụng cặp phạm trù khả năng hiện thực của phép biện chứng duy vật để thấy rõ tình hình phát triển của du lịch Việt Nam từ 1960 -2010”.
Đề tài gồm ba phần:
Phần I: Đặt vấn đề
Phần II: Cơ sở lý luận và thực tiễn của tình thình phát triển du lịch ở nước ta (1960 -2010)
Phần III: Kết luận
phần nội dung
1. Cơ sở lý luận triết học được sử dụng:
Cặp phạm trù khả năng và hiện thực được dùng để phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự (hiện thực) với những gì hiện chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng (khả năng).
Khả năng như đã nói trên là “cái hiện chưa có”. Vậy bản thân khả năng có tồn tại không? Có, song nó là một sự tồn tại đặc biệt, cái sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại đặc biệt cái sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại song bản thân khả năng thì tồn tại.
Tất cả mọi khả năng đều tồn tại thực sự, do hiện thực sản sinh ra đều hình thành và lớn lên ở ngay trong lòng bản thân hiện thực. Khả năng bao giờ cũng là khả năng thực tế.
Tuy tất cả các khả năng đều là khả năng thực tế nhưng sự hình thành chúng không hoàn toàn như nhau. Có các hình thành một cách tất nhiên, có cái lại hình thành một cách ngẫu nhiên. Vì vậy, tất cả các khả năng trước hết có thể phân thành khả năng tất nhiên (được gây nên bởi các tương tác tất nhiên của hiện thực và khả năng ngẫu nhiên (được gây nên bởi các tương tác ngẫu nhiên của hiện thực).
Đến lượt mình khả năng tất nhiên lại có thể phân thành khả năng gần và khả năng xa. Khả năng gần là khả năng có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để tiền thành hiện thực.
Ngoài các dạng khả năng chính trên đây, còn có thể phân các khả năng thành khả năng chủ yếu và khả năng thứ yếu, khả năng tốt và khả năng xấu, khả năng thuận nghịch và khả năng bất thuận nghịch, khả năng cùng tồn tại và khả năng loại trừ lẫn nhau.
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, luôn luôn chuyển hoá lẫn nhau, vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng còn khả năng hướng tới biến thành hiện thực trong thực tế quá trình phát triển chính là quá trình trong đó khả năng biến thành hiện thực còn hiện thực này vì những quá trình phát triển nội tại của mình lại sản sinh ra các khả năng mới, các khả năng ấy trong những điều kiện thích hợp lại biến thành hiện thực mới... và ai thế tiếp tục mãi, tạo thành một quá trình vô tận.
Cùng trong những điều kiện nhất định ở cùng một sự vật có thể tồn tại một số khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng.
Ngoài một số khả năng vốn sẵn có ở sự vật trong những điều kiện đã có nào đấy, khi có thêm những điều kiện mới bổ sung thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới. Với sự bổ sung thêm điều kiện mới, về thực chất một hiện thực mới phức tạp hơn đã xuất hiện do sự tác động qua lại của hiện thực cũ với điều kiện mới vừa được bổ sung. Từ đó làm cho số tương tác tăng thêm và dẫn đến chỗ làm tăng thêm số khả năng mới. Ngoài ra ngay bản thân mỗi khả năng cũng không phải là không thay đổi. Tăng lên hoặc giảm đi tuỳ thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong điều kiện cụ thể.
Để một khả năng nào đó biến thành hiện thực thường cần có không chỉ một điều kiện mà là một tập hợp điều kiện. Tập hợp đó được gọi là cần và đủ nếu có nó thì khả năng nhất định biến thành hiện thực, sự biến thành hiện thực nhất định xuất hiện.
Vai trò của các điều kiện khách quan và chủ quan trong sự chuyển biến khả năng thành hiện thực.
Trong giới tự nhiên quá trình khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là một quá trình khách quan. Nói "chủ yếu" là trong giới tự nhiên không phải mọi khả năng đều biến thành hiện thực một cách tự phát cả. ở đây, có thể phân ra ba trường hợp:
Thứ nhất: Loại khả năng mà điều kiện để biến chúng thành hiện thực chỉ có thể bằng con đường tự nhiên. Đó là trường hợp xảy ra trong quá trình vũ trụ và địa chất.
Thứ hai: Loại khả năng có thể biến thành hiện thực bằng con đường tự nhiên cũng nhờ sự tác động của con người.
Thứ ba: Loại khả năng mà trong điều kiện hiện nay nếu không có sự tham gia của con người thì không thể biến thành hiện thực. Các khả năng này vốn có ở khách thể, nhưng để biến chúng thành hiện thực cần có những điều kiện mà hiện nay không thể tạo ra bằng con đường tự nhiên.
Trong lĩnh vực xã hội bên cạnh các điều kiện khách quan khả năng muốn biến thành hiện thực cần có các điều kiện chủ quan là hoạt động thực tiễn của con người khả năng không khi nào nó tự biến thành hiện thực nếu không có sự tham gia của con người.
Hoạt động có ý thức của con người trong đời sống xã hội có vai trò hết sức to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy mạnh hoặc kìm hãm quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực, có thể điều khiển cho khả năng phát triển theo hướng này hay hướng khác bằng cách tạo ra các điều kiện thích ứng . Không thấy rõ tác dụng cực kỳ quan trọng của nhân tố chủ quan trong quá trình chuyển biến khả năng thành hiện thực, chúng ta sẽ mắc phải sai kèm hữu khuynh chịu bó tay khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh tác dụng của nhân tố chủ quan, xem thường các điều kiện khách quan chúng ta sẽ mắc sai lầm tả khuynh, phiêu lưu mạo hiểm. Kết hợp một cách đúng đắn tác động của nhân tố chủ quan với các điều kiện khách quan là một trong những đảm bảo cho thành công của chúng ta trong hoạt động thực tiễn.
Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự còn khả năng là cái chưa có nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không thể dựa vào khả năng. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là có thể bỏ qua, xem thường khả năng. Vì khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai, nên tuy không dựa vào khả năng, nhưng ta phải tính đến các khả năng để có thể đề ra chủ trương, kế hoạch hành động, cho sát đúng. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức nói chung của nhận thức khoa học nói riêng là phải tìm ra, xác định cho được khả năng phát triển sự vât.
Khi xác định các khả năng chúng ta cần chú ý:
+ Vì khả năng do sự vật gây nên và tồn tại trong sự vật cho nên chỉ có thể tìm ra các khả năng phát triển của sự vật ở ngay chính bản thân nó chứ không thể ở nơi nào khác.
+ Vì khả năng nảy sinh vừa do tác dụng qua lại giữa các mặt khác ở bên trong của sự vật với hoàn cảnh bên ngoài nên chỉ có thể căn cứ vào "tương quan lực lượng" giữa các mặt bên trong sự vật vào sự phát triển của mâu thuẫn nội tại trong nó cũng như điều kiện bên ngoài, trong đó sự vật đang vận động và phát triển, để dự kiến cho những khả năng phát triển của nó.
+ Để tránh sai lầm trong quá trình xác định khả năng với hiện thực cần lưu ý đến dấu hiệu hết sức quan trọng phân biệt khả năng với hiện thực, đó là: hiện thực là cái đã có, đã tới còn khả năng là cái hiện chưa có, hiện chưa tới.
+ Do khả năng tồn tại ngay trong hiện thực, gắn bó hết sức chặt với hiện thực nên sẽ là sai lầm nếu tách rời cái nọ khơi cái kia. Kết quả của sai lầm đó là trong hoạt động thực tiễn hoặc sẽ không nhìn thấy khả năng tiềm năng trong sự vật, do đó không tạo ra điều kiện cần thiết để thúc đẩy (hoặc ngăn cản) sự chuyển biến này tuỳ theo yêu cầu của mình.
+ Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh tới mối liên hệ khăng khít giữa khả năng và hiện thực mà quên mất sự khác biệt về chất giữa chúng, lẫn lộn cái nọ với cái kia thì cũng sẽ sai lầm. Sai lầm này sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại trong hoạt động thực tiễn khi ta dựa lầm vào cái mới đang tồn tại dưới dạng khả năng chứa chưa phải là hiện thực. VI. Lênin đã chỉ rõ "người mác xít chỉ có thể sử dụng, để làm căn cứ cho chính sách của mình nhưng sự thật được chứng minh rõ rệt và không thể chối cãi được.
- Sau khi đã xác định được khả năng phát triển của sự vật, nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn là phải tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này cần lưu ý.
+ Vì sự vật trong cùng một lúc có thể chứa đựng nhiều khả năng khác nhau cho nên trong hoạt động thực tiễn cần tính đến mọi khả năng có thể có, tốt cũng như xấu tiến bộ cũng như lạc hậu, và trên cơ sở đó dự kiến các phương án hành động thích ứng cho từng trường hợp có thể xảy ra. Chỉ có thể như vậy mới tránh được sự bị động trong hành động.
+ Trong số các khả năng hiện có ở sự vật, trước hết cần chú ý đến khả năng tất nhiên, đặc biệt là các khả năng cần tạo cho nó các điều kiện cần và đủ.
+ Vì trong xã hội, khả năng không tự biến thành hiện thực, mà có sự tham gia của nhân tố chủ quan, nên trong lĩnh vực này, tuỳ theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện cần thiết để nhân tố chủ quan có thể tham gia tích cực vào quá trình biến đổi hoặc ngăn cản sự biến đổi khả năng thành hiện thực ở đây cần tránh hai thái cực sai lầm, hoặc tuyệt đối hoá vai trò của nhân tố chủ quan, hoặc xem thường vai trò ấy trong việc biến đổi khả năng thành hiện thực.
Vận dụng lý luận triết học Mác để phân tích thực trạng của vấn đề : Trước hết ta cần phải hiểu qua về tình hình và xu thế phát triển du lịch ở Việt Nam.
2. Quá trình hình thành, phát triển du lịch - thực trạng của ngành du lịch từ 1960
* Giai đoạn 1960 - 1975
Mặc dù được coi là một nước có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, Việt Nam trước năm 1960 du lịch chưa được tổ chức và phát triển. Điều kiện kinh tế kém phát triển, tình trạng chiến tranh kéo dài, du lịch không được tổ chức và phát triển. Du lịch không được tổ chức và phát triển do vậy hoạt động lữ hành cũng nằm trong hoàn cảnh chung. Do điều kiện đất nước tạm bị chia cắt thành hai miền và sự tồn tại hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc các thành phố bị chiến tranh tàn phá, các trung tâm du lịch được xây dựng từ giai đoạn trước như Tam Đảo, Sa Pa bị phá huỷ, cơ sở vật chất còn lại ở Đồ Sơn, Hà Nội trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, hoạt động du lịch cho đến năm 1960 chỉ là tự phát.
ở Miền Nam ngành du lịch có được tổ chức, các trung tâm du lịch chính: Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu, du lịch nội địa có điều kiện phát triển, du lịch quốc tế chỉ đạt được những kết quả khiêm tốn. Tổng cục du lịch là cơ quan quản lý Nhà nước ở miền Nam trước ngày đất nước thống nhất năm 1975. Các hãng lữ hành tư nhân được tổ chức và hoạt động ở quy mô doanh nghiệp nhỏ với chức năng môi giới là chính.
Các doanh nghiệp lữ hành hoạt động với quy mô lớn và các tour operator lớn chưa xuất hiện.
Ngày 09 tháng 7 năm 1960 Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ban hành nghị định 26/CP về việc "Thành lập Công ty du lịch Việt Nam" đánh dấu thời điểm ra đời của ngành du lịch Việt Nam.
Công ty du lịch Việt Nam được thành lập trực thuộc Bộ Ngoại thương với một cơ sở vật chất hết sức nghèo nàn bao gồm một vài khách sạn cũ từ thời Pháp để lại đã xuống cấp, chỉ có 20 giường còn đủ điều kiện đón khách du lịch. Cơ sở vật chất khác gần như ở con số bắt đầu. Số cán bộ công nhân viên ngành du lịch sau một năm tổ chức và hoạt động là 112 người, hầu hết không được đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành.
Chức năng, nhiệm vụ chính của Công ty du lịch Việt Nam là đón tiếp các đoàn khách của Đảng và Nhà nước. Nhiệm vụ kinh doanh du lịch là thứ yếu.
Cho đến trước ngày đất nước được thông nhất ở cả hai miền chủ yếu phát triển du lịch nội địa, du lịch quốc tế kém phát triển. Việc tổ chức cho người Việt Nam đi du lịch nước ngoài chưa được khuyến khích. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam với số lượng ít. ở miền Bắc, trước năm 1975 chưa bao giờ đạt đến mức khai thác 10.000 khách quốc tế/năm.
* Giai đoạn 1975 - 1986
Năm 1975 một sự kiện chính trị đặc biệt ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch Việt Nam. Đất nước được thống nhất hoàn toàn sau ngày 30 - 4 - 1975.
Sau ngày miền Nam được giải phóng lịch sử ngành du lịch đã tiếp thu một số cơ sở vật chất chuyên ngành du lịch từ các tỉnh phía nam bao gồm một hệ thống khách sạn, nhà hàng du lịch đặc biệt là đội ngũ nhân viên du lịch lành nghề được đào tạo cơ bản và trưởng thành trong hoạt động lâu năm trong ngành du lịch.
Ngành du lịch bắt đầu một giai đoạn mới biến chuyển về chất lượng. Ngày 27 - 6 - 1978 Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ban hành nghị quyết số 282/NQ-QH K6 phê chuẩn thành lập Tổng cục du lịch Việt Nam. Ngày 23 - 01 - 1979 Phủ thủ tướng đã ban hành Nghị quyết số 32 CP về việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục du lịch.
Tổng cục du lịch được thành lập và trở thành cơ quan quản lý Nhà nước và tổ chức hoạt động kinh doanh du lịch trong cả nước có những chức năng, nhiệm vụ chính:
- Nghiên cứu trình chính phủ những chương trình phát triển du lịch dài hạn.
- Xây dựng trình chính phủ quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trên phạm vi quốc gia.
- Ban hành các thông tư của Ngành hoặc liên Bộ về lĩnh vực phát triển du lịch
- Tổ chức nghiên cứu thị trường du lịch quốc tế, đánh giá phân tích để có định hướng giúp doanh nghiệp du lịch có đủ điều kiện và thông tin tham gia vào thị trường du lịch quốc tế và khu vực.
- Được uỷ quyền của Chính phủ ký hiệp định phát triển du lịch với các nược tạo điều kiện cho du lịch Việt Nam và du lịch các nước khác thâm nhập lẫn nhau, thúc đẩy phát triển du lịch hai chiều (tạo điều kiện cho người Việt Nam đi du lịch nước ngoài và người nước ngoài vào du lịch Việt Nam).
- Hỗ trợ công tác đào tạo, tư vấn các dự án cấp quốc gia, cấp ngành trong công tác nghiên cứu và phát triển du lịch.
- Tổ chức cho các doanh nghiệp du lịch tham gia các tổ chức du lịch quốc tế và khu vực.
Tổng cục du lịch được thành lập, ngành du lịch quản lý Nhà nước theo hai cấp: Ngành và địa phương phối hợp quản lý theo Ngành và Lãnh thổ. Tuy có những thuận lợi về mặt tổ chức nhưng giai đoạn 1979 - 1986 hoạt động du lịch vẫn chỉ đạt được những kết quả hết sức khiêm tốn: Đến cuối năm 1986 toàn ngành khai thác và phục vụ được 59.353 lượt khách quốc tế và 474.174 lượt khách du lịch nội địa.
Nguyên nhân chính là sự kìm hãm của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp từ mô hình quản lý kế hoạch hoá trung tâm.
* Giai đoạn sau 1986
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện sau mười năm đất nước hoàn toàn thống nhất tuy đạt được nhiều thắng lợi nhưng tình tình thế giới và trong nước đòi hỏi cần có những thay đổi phù hợp với thời đại. Nghị quyết đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI khẳng định phải đổi mới toàn diện. Thực hiện chính sách kinh tế mở, Việt Nam là bạn của mọi quốc gia trên thế giới. Nhà nước chấp nhận điều hành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo cơ chế thị trường có điều tiết của Nhà nước. Cơ chế quản lý kinh tế mới đã có tác động mạnh giúp sự tăng trưởng về kinh tế, tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động nước ta với số lượng đông và chất lượng tay nghề được đào tạo. Hoạt động du lịch thật sự được mở cửa có điều kiện phát triển theo đúng nhịp độ phát triển của nền kinh tế nươc ta.
Các doanh nghiệp du lịch được thành lập với số lượng ngày một đông, đa dạng về số lượng với nhiều thành phần kinh tế khác nhau bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp với 100% vốn nước ngoài.
Nhà nước tạo những thuận lợi nhất khuyến khích công dân Việt Nam đi du lịch nươc ngoài. Có những thay đổi phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp du lịch tiếp đón khách du lịch quốc tế: Quy định thời gian tối thiểu cấp viza, hộ chiếu cho khách du lịch, đầu tư cơ sở hạ tầng, giảm tối thiểu các thủ tục xuất nhập cảnh, có chính sách khuyên khích người Việt Nam đang sống ở nước ngoài về thăm đất nước.
- Các hãng lữ hành nước ngoài đã mở văn phòng đại diện ở các trung tâm du lịch lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang.
Các ngành kinh tế khác, các cơ quan Đảng, Đoàn thể, cũng được Nhà nước cho phép kinh doanh du lịch. Hoạt động kinh doanh du lịch đã thật sự sôi động và thu được những thành quả tốt đẹp.
Nhà nước từng bước đã có những quan tâm tổ chức sắp xếp lại ngành du lịch.
- Ngày 31 - 3 - 1990 Hội đồng Nhà nước ban hành quyết định số 244-QĐ về việc thành lập Bộ văn hoá thông tin - thể thao và du lịch.
- Tháng 12 - 1991 căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ quyết định thành lập Bộ thương mại và Du lịch.
- Tháng 10 - 1992 căn cứ vào Nghị quyết của quốc hội khoá 9, Chính phủ quyết định ban hành Nghị định số 05/CP về việc thành lập Tổng cụ du lịch.
Ngày 27 - 12 -1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 20/CP quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục du lịch trong đó nêu rõ: "Tổng cụ du lịch chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với các hoạt động du lịch trong phạm vi cả nước, bao gồm hoạt động về du lịch của các thành phần kinh tế, cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Việt Nam".
Đến năm 1997 du lịch Việt Nam đã có mối quan hệ hợp tác du lịch với trên 800 hãng của 50 nước khác nhau trên thế giới. Tổng cục du lịch ký hiệp định hợp tác với 12 nước. Du lịch Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức du lịch thế giới WTO từ năm 1981, là thành viên của hiệp hội du lịch vùng Châu á Thái Bình Dương từ năm 1989. Tham gia hiệp hội du lịch ASEAN (ASEANTA) năm 1995. Du lịch Việt Nam cũng tích cực tham gia các hoạt động du lịch khu vực như: tham gia hội nghị tiểu vùng các nước sông Mêkông hợp tác phát triển du lịch. Tham gia hợp tác du lịch đường bộ Thái Lan - Đông Dương giữa ba nước: Việt Nam - Lào - Thái Lan.
Thị trường du lịch có những đặc thù riêng so với thị trường hàng hoá. Du khách thường ở rất xa các địa điểm du lịch, thiếu những thông tin cần thiết để chuẩn bị và thực hiện chuyến đi của mình. Thông tin về cơ sở lưu trú, về khí hậu của địa điểm du lịch, thông tin về phong tục.
Các hoạt động kinh doanh du lịch cũng như hoạt động lữ hành diễn biến rất phức tạp, có tính quy luật nhưng luôn biến động và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Kết quả của hiện tượng này lại là nguyên nhân thất bại hoặc thành công của hiện tượng khác. Mối quan hệ logic, nhân - quả được biểu hiện một cách tương đối. Muốn tìm ra bản chất một hiện tượng cần phải phân tích một cách khoa học môi quan hệ hữu cơ, tác động, ảnh hưởng của nhiều nhân tố phụ. Mặt khác, việc ứng dụng các thành tựu khoa học quản lý vào thực tiễn kinh doanh cũng rất phức tạp và đa dạng, nếu không cân nhắc kỹ sẽ gặp phải rủi ro hoặc thất bại... Do vậy, việc nghiên cứu đòi hỏi phải thấy được mối quan hệ hữu cơ, phải phân tích hiện tượng theo quan điểm logic, biện chứng có hệ thống và thực tiễn. Mọi hiện tượng máy móc, rập khuôn bảo thủ đều không phù hợp.
Hoạt động kinh tế là quá trình động thái. Quản trị lữ hành tuân theo quy luật này của khoa học quản lý kinh tế. Các hiện tượng kinh tế trong hoạt động du lịch phát triển theo chiều hướng phức tạp, đa dạng hoá hơn, do vậy về mặt lý luận khoa học ngày càng cần được bổ sung hoàn thiện và phát triển. Khoa học càng phát triển và hoàn thiện thì phương pháp lý luận càng đa dạng, phong phú, chính vì vậy cần có phương pháp chọn lọc khoa học để tiết kiệm được thời gian nghiên cứu và đạt được kết quả cao.
Khoa học quản lý kinh tế ngày càng được hoàn thiện, thực tiễn trong hoạt động kinh doanh luôn diễn biến phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Các yếu tố kinh tế không thể tách rời các nhân tố chính trị, khoa học kỹ thuật. Đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước ta có những thay đổi cơ bản về phương pháp lẫn thực tiễn ở cấp vĩ mô và vi mô. Việc chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước đã đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi quá trình nghiên cứu nội dung quản trị phải có phương pháp tư duy kinh tế mới, phương pháp dẫn đến hiệu quả và hiệu quả tối đa, tránh đi vào những đường mòn tư duy cũ, bảo thủ nhưng cũng cần tránh tư duy đổi mới thái quá dễ dẫn đến những rủi ro.
Các chỉ tiêu kế hoạch phải được xây dựng trên cơ sở khách quan, đảm bảo tính hiện thực, doanh nghiệp có khả năng thực hiện đúng với khả năng và sự phấn đấu từ nội lực doanh nghiệp. Tránh lối làm việc thiếu trách nhiệm, đưa ra những quyết định chủ quan duy lý trí. Chỉ tiêu kế hoạch được xây dựng rơi vào tình trạng quá cao không có khả năng thực hiện hoặc quá thấp không sát với khả năng phấn đấu thực tế của doanh nghiệp.
3. khả năng phát triển du lịch việt nam
Thứ nhất đầu tư khách sạn, chuyển tiếp phục vụ du lịch theo tuyến năm 2010 cần thiết 51.200 buồng; vùng II cần thêm 10.700 buồng; vùng III cần thêm 20.300 buồng, với tổng số vốn cần đầu tư là 3.039 triệu USD.
Thứ hai, tập trung xây dựng các trung tâm du lịch ở các địa bàn lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, việc đầu tư tôn tạo, giữ gìn danh lam thắng cảnh và giữ gìn di tích, môi trường di tích là cần thiết. Nên ưu tiên những dự án đầu tư cho các khu du lịch tổng hợp như dự án Non nước (Đà nẵng), Thuận an (Huế), Hạ long (Quảng ninh)...Các khu du lịch này khi đi vào hoạt động với sản phẩm chất lượng cao gắn với cảnh quan di tích lịch sử văn hoá của ta sẽ thu hút được nhiều khách du lịch.
Ngoài 4 khu du lịch được ưu tiên hàng đầu là Hà nội, Hải phòng, Tp. Hồ Chí Minh, Huế, Hạ long. Cần tập trung đầu tư cho 7 khu du lịch được ưu tiên phát triển theo xu hướng chính sau:
Đầu tư cho thủ đô Hà nội và phụ cận: Bắc ninh, Hà tây, Ninh bình... nhằm tạo ra các khu du lịch nghỉ dưỡng và du lịch cuối tuần của thủ đô Hà nội.
Đầu tư cho Hải phòng, Quảng ninh tại các khu Hạ long – Bái tử long, Cát bà, Đồ sơn... Cần tập trung vào hải đảo Cát bà và không gian trên biển của Vịnh Hạ long và Bái tử long nhằm tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh trong vùng.
Đầu tư cho Huế - Đà nẵng – Lao bảo: Các dự án đầu tư tập trung, bảo tồn khai thác các di sản văn hoá kiến trúc (Huế), cách mạng (Quảng trị) và các di sản tự nhiên ở trục Huế – Lăng cô - Hải vân – Sơn trà; Đà nẵng, dải ven vịnh Nam trung bộ đến đô thị phố cổ Hội an, động Phong Nha (Quảng bình). Chú ý đến các dự án về kết cấu hạ tầng trong việc phát triển đường sắt và đường bộ với Lào – Thái lan qua đường xuyên đến Myanma, Malaysia và Singapore trong tương lai.
Nha trang – Ninh chữ - Đà lạt: Các dự án kết hợp giữa khu du lịch biển lớn ở Việt Nam cho những năm sau năm 2000 ở vùng biển Đại lãnh, Vịnh Văn phong, Nha trang (Khánh hoà). Xây dựng tuyến du lịch Thành phố Hồ Chí Minh - Đà lạt – Nha trang.
Vùng tàu – Long hải - Côn đảo: Đầu tư phát triển du lịch nghỉ cuối tuần trên khu vực bãi biển Long hải – Phước hải. Có dự án riêng đối với Côn đảo, quy hoạch khu du lịch ở bãi trước và bãi sau thành phố Vũng tàu.
Thành phố Hồ Chí Minh và phụ cận: Tận dụng thế mạnh của Thành phố Hồ Chí Minh để khai thác tuyến du lịch trên sông Sài gòn đến các vùng sông nước của đồng bằng châu thổ sông Cửu long và các dự án phát triển du lịch trên sông Mêkông đến Phnômpênh (Căm pu chia) với Lào và Thái lan. Dự án làng văn hoá các dân tộc ở thành phố Hồ Chí Minh. Một khu vực vui chơi giải trí ở thành phố Hồ Chí Minh và phụ cận.
Hà tiên – Phú quốc (Kiên giang), cần có một định chế riêng cho việc đầu tư đảo Phú quốc. Dự án đầu tư Phú quốc phải là một dự án đầu tư toàn diện và đồng bộ, một chiến lược phát triển lâu dài trong đó phát triển du lịch sinh thái là một hướng ưu tiên;
4. Giải pháp và kiến nghị
Trong chiến lược phát triển của ngành, du lịch Việt Nam đề rõ mục tiêu là: Phát triển nhanh và bền vững du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế mũi nhọn. Do đó, việc nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch là một điều kiện tiên quyết cho giữ vững định hướng chiến lược của ngành. Bởi vì, dù chúng ta có tốn bao nhiêu nguồn lực để quảng bá thu hút khách đến thăm nhưng khi du khách đến Việt Nam lại được phục vụ bởi chất lượng phục vụ kém thì hậu quả sẽ là sự tổn thất gấp bội. Nâng cao chất lượng phục vụ sẽ là một yếu tố trợ giúp tích cực cho sự phát triển bền vững của ngành bởi khách du lịch sẽ chỉ quay trở lại một quốc gia khi chất lượng phục vụ ở đó là hoàn hảo đối với cảm nhận của họ. Chất lượng dịch vụ du lịch được đề cập trên cả ba góc độ: thái độ phục vụ, tính đa dạng, tiện nghi của hàng hóa dịch vụ và khả năng sẵn sàng phục vụ đón tiếp khách.
Xét ở khía cạnh thái độ phục vụ, chủ yếu tập trung ở lĩnh vực kinh doanh khách sạn, nhà hàng và dịch vụ hướng dẫn, vận chuyển khách du lịch. Trong kinh doanh dịch vụ nhà hàng cần tạo uy tín và nét đặc trưng trong phong cách phục vụ của khách sạn Việt Nam. Nên tăng cường yếu tố bản sắc văn hóa, văn minh dân tộc trong quá trình phục vụ khách. Muốn đạt yêu cầu đó, ngành du lịch cần đào tạo một đội ngũ phục vụ tận tình, chu đáo, ân cần, văn minh, lịch sự nhằm gây ấn tượng tốt cho khách về ngành và đất nước, con người Việt Nam.
Trong việc cung cấp dịch vụ vận chuyển và hướng dẫn cũng cần có yêu cầu tương tự đối với nhân viên. Thêm vào đó, hướng dẫn viên cần có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, thông thoại về ngoại ngữ.
Về tính tiện nghi và đa dạng của hàng hóa dịch vụ, cần chú trọng phát triển thêm nhiều loại hình lưu trú mới bao gồm: khu du lịch, làng du lịch, căn hộ cho khách thuê… Ngoài việc mở rộng loại hình lưu trú, cần tăng cường tính tiện nghi trong khách sạn. Trong tương lai, các cơ sở lưu trú này không chỉ cung cấp các dịch vụ phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của khách mà phải vươn tới các dịch vụ cao cấp như cung cấp dịch vụ về mạng internet phục vụ cho đối tượng khách thương gia, dịch vụ gửi fax , tìm tin…
Đa dạng hóa các chương trình du lịch cũng là một trọng tâm trong quá trình nâng cao chât lượng phục vụ bởi tour du lịch chính là sản phẩm dịch vụ cơ bản của ngành. Trong các năm vừa qua, tình trạng các hãng lữ hành cắt xén bớt chương trình tour tùy tiện, đã tạo ấn tượng không tốt với khách. Nhược điểm này nhất định cần được khắc phục trong tương lai gần. Cần thường xuyên đưa vào khai thác các tuyến điểm mới, hoàn thiện các tuyến điểm truyền thống, có thể tổ chức các chương trình giới thiệu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm cung cấp cho khách du lịch, để giới thiệu những nét đặc sắc trong cuộc sống của con người Việt Nam.
Cuối cùng là việc nâng cao khả năng sẵn sàng phục vụ đón tiếp khách. Công tác chuẩn bị đón tiếp có liên quan đến nhiều cấp , nhiều ngành , nhiều địa phương. Nó chịu tác động của các chính sách của Nhà nước ở cấp vĩ mô, đồng thời phụ thuộc vào sự nỗ lực của bản thân các đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch. ở tầm vĩ mô, cần đơn giản hóa các thủ tục cho khách du lịch nhập cảnh vào Việt Nam. Đối với các thị trường khách du lịch trọng điểm nên được miễn visa. Mặt khác, các ngành có liên quan như hàng không, văn hóa, giao thông vận tải …cần hợp tác cùng du lịch phát triển.
ở tầm vi mô, các đơn vị cung ứng các sản phẩm dịch vụ du lịch phải luôn luôn ở trong tình thế chủ động khi đón tiếp khách. Với khách sạn là sự vệ sinh phòng khách đã đăng kí, trong kinh doanh nhà hàng là sự bảo đảm chỗ cho khách đã đặt trước cũng như khách mới tới. Khả năng sẵn sàng đón tiếp khách còn thể hiện thông qua sự phục vụ tận tình, chu đáo của đội ngũ phục vụ, không chỉ đáp ứng yêu cầu của khách, mà còn có khả năng phục vụ ngay khi nhận biết nhu cầu của khách, nếu điều này được thực hiện, chắc chắn chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam sẽ tạo được uy tín với khách du lịch trong và ngoài nước.
Năm 2000, nhằm thực thi chính sách về nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, Tổng cục du lịch đã tổ chức bình chọn top ten trong kinh doanh khách sạn, lữ hành nhằm khuyến khích phong trào nâng cao chất lượng dịch vụ ở các lĩnh vực này. Thêm vào đó, việc ban hành qui định tiêu chuẩn xếp hạng các khách sạn của Tổng cục Du lịch đã tạo điều kiện cho sự chuẩn hóa chất lượng các dịch cung cấp tại các cơ sở. Tổng cục cũng tổ chức hai hội thi tay nghề trên phạm vi toàn ngành cho huớng dẫn viên và lễ tân khách sạn. Đây chính là một biện pháp khuyến khích có hiệu quả sự trau dồi về trình độ chuyên môn, kĩ năng thực sự hành nghề cho lao động trong ngành. Đặc biệt, Nghị định 39/2000/NĐ - CP do Thủ tướng Chính phủ ký về cơ sở lưu trú dịch vụ là điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh dịch vụ lưu trú, đồng thời là cơ sở pháp lý nhằm chuẩn hóa chất lượng dịch vụ du lịch được cung cấp.
Mặc dù, trên thực tiễn chất lượng các dịch vụ du lịch đã có nhiều hướng chuyển biến tích cực trong những năm vừa qua nhưng để thực sự nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ của ngành tương xứng với vai trò, vị trí của ngành đã được xác định trong giai đoạn 2000 - 2010. Phát triển chất lượng dịch vụ du lịch cần chú trọng các công tác sau:
Hoàn thiện công tác xếp hạng các khách sạn ở Việt Nam. Tiến hành thẩm định lại các khách sạn đã được xếp hạng nhằm bảo đảm giữ vững uy tín của hệ thống khách sạn Việt Nam.
Thực thi thí điểm các tiêu chuẩn ISO-9000 về hệ thống chất lượng dịch vụ cho các khách sạn, nhà hàng phục vụ khách du lịch.
Tổng cục du lịch nên tiếp tục việc tổ chức các hội thi tay nghề, bầu chọn top ten trong kinh doanh khách sạn, lữ hành để khuyến khích phong trào nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp ở từng người lao động cũng như các doanh nghiệp du lịch. Mặt khác, cần xúc tiến công tác thanh tra, kiểm tra giám sát và phạt, xử lý với các đơn vị kinh doanh vi phạm các tiêu chuẩn chất lượng được đề ra.
Cuối cùng, song lại hết sức cần thiết, Tổng cục Du lịch phải mở các lớp bồi dưỡng kiến thức một cách thường xuyên cho đội ngũ cán bộ quản lý. Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch tổ chức các khóa đào tạo thường xuyên cho đội ngũ lao động của mình, cuối khóa học có thể thi tổ chức kiểm tra chất lượng nếu thấy cần thiết. Công việc này giúp bảo đảm một đội ngũ lao động có đủ trình độ về năng lực chuyên môn, kỹ thuật phục vụ khách, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của ngành.
Kết luận
Được đánh giá là một quốc gia có tiềm năng phát triển du lịch, phát huy những thành tựu đã đạt được trong công cuộc cải cách kinh tế khởi đầu từ năm 1986 dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI, nhất định ngành du lịch sẽ đạt được những mục tiêu đã đề ra cho giai đoạn 2000 - 2010. Khai thác và phục vụ 9 triệu lượt khách du lịch quốc tế 25 triệu lượt khách du lịch nội địa và có doanh thu từ du lịch quốc tế: 11,8 tỷ USD vào năm 2010.
Mục tiêu đề ra đến năm 2010 của ngành du lịch phù hợp với phương hướng phát triển du lịch Việt Nam trong những năm tới là: Đẩy mạnh phát triển du lịch văn hóa, thiên nhiên, môi trường, lịch sử truyền thống để tạo ra sức hấp dẫn, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, nhân phẩm con người Việt Nam. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm du lịch để phát triển nhanh ngành du lịch sớm hội nhập với du lịch của khu vực và quốc tế dưa ngành du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin
Viện Đại học Mở Hà Nội
2. Lữ hành du lịch
Trường TH nghiệp vụ Du lịch Hà Nội
3. Tổng quan hoạt động du lịch
Trường TH nghiệp vụ Du lịch Hà Nội
4. Tạp chí du lịch
Tổng cục du lịch
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A9339.DOC