Đề tài Vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945- 2000

Tài liệu Đề tài Vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945- 2000: TRANG THÔNG TIN LUẬN ÁN ĐỀ TÀI “VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT 1945- 2000” - Chuyên ngành: Văn học Việt Nam - Mã số: 62.22.34.01. - Họ và tên nghiên cứu sinh: Đặng Văn Vũ - Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Hữu Tá - Tên cơ sở đào tạo: Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh. + Tóm tắt nội dung luận án: Luận án nghiên cứu vấn đề Văn hóa và Con người Tây Nguyên được thể hiện trong mảng văn xuôi nghệ thuật từ 1945 đến 2000. Trong đó các giá trị văn hóa và vẻ đẹp con người được phân tích, đánh giá một cách thấu đáo để người đọc hiểu hơn về một mảng văn xuôi có giá trị trong toàn bộ tiến trình văn học Việt Nam. + Những kết quả của luận án: 1. Luận án đã làm nổi bật vẻ đẹp cũng như sự phong phú của các giá trị văn hóa Tây Nguyên được thể hiện một cách độc đáo trong các tác phẩm văn xuôi. 2. Luận án cũng đã phân tích những yếu tố tiêu cực của các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người Tây Nguyên. 3. Lu...

pdf219 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1223 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945- 2000, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRANG THÔNG TIN LUẬN ÁN ĐỀ TÀI “VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT 1945- 2000” - Chuyên ngành: Văn học Việt Nam - Mã số: 62.22.34.01. - Họ và tên nghiên cứu sinh: Đặng Văn Vũ - Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Hữu Tá - Tên cơ sở đào tạo: Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh. + Tóm tắt nội dung luận án: Luận án nghiên cứu vấn đề Văn hóa và Con người Tây Nguyên được thể hiện trong mảng văn xuôi nghệ thuật từ 1945 đến 2000. Trong đó các giá trị văn hóa và vẻ đẹp con người được phân tích, đánh giá một cách thấu đáo để người đọc hiểu hơn về một mảng văn xuôi có giá trị trong toàn bộ tiến trình văn học Việt Nam. + Những kết quả của luận án: 1. Luận án đã làm nổi bật vẻ đẹp cũng như sự phong phú của các giá trị văn hóa Tây Nguyên được thể hiện một cách độc đáo trong các tác phẩm văn xuôi. 2. Luận án cũng đã phân tích những yếu tố tiêu cực của các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người Tây Nguyên. 3. Luận án nêu lên thực trạng biến đổi văn hóa ở Tây Nguyên theo hướng tích cực lẫn tiêu cực 4. Luận án cũng đã làm hiện lên hình ảnh người Tây Nguyên với những phẩm chất tốt đẹp của họ trong chiến đấu cũng như trong cuộc sống thường nhật. 5. Luận án cũng đã phân tích sự thay đổi về phẩm chất con người Tây Nguyên trong thời buổi hòa nhập với các dân tộc khác. 6. Luận án đã khái quát được vể đẹp văn hóa và con người Tây Nguyên mà các tác giả văn xuôi đề cao và ca ngợi. Đó như là một sự cảnh tỉnh về hiện trạng đang mất dần đi vẻ đẹp đó trong hiện tại và tương lai. + Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn hoặc những vấn đề còn bỏ ngỏ cần tiếp tục nghiên cứu: 1. Với sự độc đáo và phong phú của văn hóa và con người, Tây Nguyên là mảnh đất màu mỡ của văn chương, nghệ thuật; luận án như là một động lực cho sáng tác văn chương, nghệ thuật về đề tài Tây Nguyên. 2. Tây Nguyên có một vị thế quan trọng đối với cả nước, luận án sẽ giúp nhiều người hiểu hơn về văn hóa và con người Tây Nguyên, từ đó sẽ giúp họ- nhất là những người gánh vác trách nhiệm phát triển Tây Nguyên- ứng xử đúng đắn hơn với Tây Nguyên. 3. Luận án như là tiền đề quan trọng cho việc nghiên cứu sâu hơn về nhiều nội dung quan trọng khác được thể hiện trong văn xuôi nói riêng và văn học nói chung. 4. Đề tài chỉ nghiên cứu vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong mảng văn xuôi nên dù sao cũng chưa thật toàn vẹn, đầy đủ. Người viết sẽ tiếp tục nghiên cứu vấn đề trên (và nhiều nội dung khác) trong văn học viết về Tây Nguyên. Xác nhận của người hướng dẫn khoa học Nghiên cứu sinh PGS. TS TRẦN HỮU TÁ ĐẶNG VĂN VŨ THESIS INFORMATION PAGE TOPICS "CULTURE AND PEOPLE OF THE HIGHLANDS IN PROSE 1945 - 2000" - Major: Vietnamese Literature - Code: 62.22.34.01. - Name of graduate students: Dang Van Vu - The Instructor: Associate Professor. Dr. Tran Huu Ta - Name of institution: University of Social Sciences and Humanities City Ho Chi Minh. + Dissertation abstracts: The thesis studied the issue of Culture and People of Highland in the prose from 1945 to 2000. In which cultural values and human beauty are analyzed and evaluated thoroughly so that readers can out more about an a valuable section of the prose literature in the Vietnamese. + Results of the thesis: 1. The thesis highlights the beauty and cultural richness of the Highlands. 2. The thesis also analyzed the negative elements of the cultural Highlands 3. Thesis highlight the cultural changes Highlands positively and negatively. 4. The thesis depict people of Highlands with their good qualities in combat as well as in daily life. 5. The thesis also analyzed the changes in the human qualities in the Highlands in integration with other nations. 6. Thesis Essential beauty of human culture and the Highlands that the authors of fiction highly praised. As a warning that the current situation is that beauty fades in the present and future. + Applications / ability in practical applications or matters left open to further study: 1. With the unique and rich culture and people, the Highlands are fertile ground for literature and art the thesis can be considered a motivation for the creation of literature and art on this theme. 2. Highland has an important geographical position. Dissertation help people better understand the culture and people of the Highlands to may develop in the right direction Highlands. 3. The thesis is an important premise for the study of deeper and more literary the Highlands. 4. The thesis only study the issue of culture and human the Highland in prose should not full. Future, we will continue to research this issue (and other problems more) in the literature Highland. Science Instructor Graduate students TRAN HUU TA DANG VAN VU 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI P. Dourisboure, Jacques Dournes, Geores Condominas, Henri Maitre, Albert Maurice được xem là những người đầu tiên khám phá miền đất cao nguyên Trung phần mà ngày nay chúng ta gọi là Tây Nguyên. Bằng sự trải nghiệm cả tuổi thanh xuân, những nhà dân tộc học người Pháp này đã đem đến không những cho người Việt, người Pháp mà cả thế giới biết đến một miền đất được coi là “hoang sơ” nhất hành tinh này. Chính tại nơi đây, họ đã gặp lại thời thơ ấu của loài người, và họ nhận ra rằng nền văn minh vật chất đã làm thoái hóa lương tri con người, nơi heo hút và mông muội nhất lại là nơi con người sống với nhau đẹp đẽ nhất. Sống với người Tây Nguyên họ như được trở về với tuổi thơ trong sáng. Mọi sự cám dỗ về danh vọng họ đều xem nhẹ, thậm chí như Jacques Dournes sẵn sàng từ bỏ tôn giáo của mình để “qui y” “Tôn giáo Tây Nguyên”. Geores Condominas sau khi từ Tây Nguyên trở về Paris, giữa thủ đô hoa lệ, ông vẫn cởi trần đóng khố và khắc khoải nỗi nhớ về làng Sar Luk xa xôi. Đến tận tám mươi tuổi ông vẫn tìm về thăm lại Tây Nguyên. Tại sao những người đến từ nền văn minh hàng đầu thế giới lại hành động như vậy? Nguyên Ngọc, Vũ Hạnh, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy là những người Việt đến với Tây Nguyên từ thời chống Pháp và chống Mỹ, lúc ấy họ chưa tiếp cận được với những nghiên cứu về Tây Nguyên của người Pháp. Họ chỉ hiểu Tây Nguyên qua sự lăn lộn trong cuộc sống chiến đấu của mình. Và họ cũng bị Tây Nguyên hấp dẫn. Nguyên Ngọc đến tuổi “thất thập” mà vẫn luôn đau đáu với Tây Nguyên, vẫn luôn thấy mình còn mắc nợ với đất và người Tây Nguyên. Trung Trung Đỉnh thì “yêu Tây Nguyên như chính quê hương mình”, năm nào cũng dành thời gian về với buôn làng để “gội rửa linh hồn” khỏi bụi bẩn thị thành. Tại sao họ bị Tây Nguyên mê hoặc như vậy? 2 Có ai một lần đến với Tây Nguyên mà không khỏi ngạc nhiên với nền văn hóa độc đáo và con người thân thiện trên mảnh đất thấm đẫm chất huyền thoại này. Sự kỳ lạ của văn hóa và con người, vẻ đẹp nên thơ và hùng vĩ của thiên nhiên Tây Nguyên luôn có một sức hút mãnh liệt với những ai thích khám phá. Và đã khám phá rồi thì sẽ bị nó hút lấy, như Jacques Dournes, Geores Condominas, Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh… Vậy thỏi nam châm ấy là gì? Jacques Dournes – người đến với đất và người Tây Nguyên từ rất sớm, đắm mình trong cuộc sống của họ hơn hai mươi năm để đi đến một kết luận: Con người Tây Nguyên hôm nay là nhân chứng về quá khứ của nhân loại, chỉ cho chúng ta biết ngày xưa chúng ta là như thế nào; chỉ riêng một điều đó thôi, họ cũng đã đáng cho chúng ta chăm chú và yêu quí rồi. Quan sát họ, ta thấy hiện lên một bức tranh độc nhất và hấp dẫn về chính chúng ta trong quá khứ [82, tr. 10]. Nguyên Ngọc- người đầu tiên gieo hạt giống văn học viết trên mảnh đất Tây Nguyên, đã có lần tâm sự: Nói đến Tây Nguyên người ta thường hay nghĩ, nói ngay đến thiên nhiên, núi non, rừng rú, cảnh quan lạ lùng của nó. Tất nhiên cái đó là đúng và cũng tác động đến người mới bước chân đến đây. Nhưng còn quan trọng hơn nhiều, theo tôi là nền văn hóa của nó. Các dân tộc Tây Nguyên đã “cấy trồng” trên đất đai núi rừng của mình một nền văn hóa lớn, cực kỳ độc đáo và đặc sắc, lâu đời và bền vững [119, tr. 9]. Như vậy chính yếu tố “con người quá khứ của nhân loại”, “nền văn hóa lớn” của họ mới là nét mới lạ độc đáo làm nên sức hấp dẫn để Nguyên Ngọc, 3 Vũ Hạnh, Y Điêng, Thu Bồn, Anh Ngọc, Trung Trung Đỉnh, Phạm Kim Anh, Khuất Quang Thụy, H’Linh Niê, Thu Loan…khám phá. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nhà văn là bắc những nhịp cầu để người đọc đến với những miền đất xa lạ mà do sự ràng buộc về không gian và thời gian họ không thể đến được. Hiện nay, khoảng cách không gian giữa các vùng miền khác nhau đã trở nên gần gũi hơn nhờ sự phát triển của giao thông và khoa học công nghệ. Nhưng đối với nhiều người, Tây Nguyên vẫn xa lạ, hoang dã, “rừng rú”. Để Tây Nguyên gần gũi, thân thương hơn trong mắt mọi người, nhiều nhà văn đã khai phá mảnh đất này bằng thái độ trân trọng và tình cảm yêu thương. Là người sống và làm việc tại Tây Nguyên, chúng tôi muốn khái quát toàn bộ sáng tác văn xuôi tiêu biểu nhất về Tây Nguyên dưới góc độ văn hóa và con người để có thể xác định vị thế cũng như sắc thái độc đáo của văn hóa, văn học Tây Nguyên trong bức tranh chung của văn hóa dân tộc. Qua đó, có thể giúp cho mọi người hiểu và yêu mến hơn một vùng đất kỳ ảo Tây Nguyên. Một số tác phẩm viết về Tây Nguyên đã được đưa vào nhà trường và được nhiều người phân tích, đánh giá. Song sự phân tích ấy chỉ nặng về tìm hiểu giá trị hiện thực cũng như nội dung tư tưởng của tác phẩm. Thực ra, trong tác phẩm văn xuôi về Tây Nguyên có một dòng chảy văn hóa mà ngọn nguồn của nó là cuộc sống của con người trên một vùng đất thấm đẫm chất huyền thoại, vùng đất của cổ tích và sử thi. Nghiên cứu văn hóa và con người trong văn xuôi nghệ thuật viết về Tây Nguyên không chỉ giúp hiểu thêm về một mảng sáng tác trong văn chương dân tộc, thấy được vẻ đẹp độc đáo về cuộc sống con người và văn hóa nơi đây, mà còn phục vụ cho việc giảng dạy, học tập môn văn trong nhà trường được đúng hướng hơn, toàn diện hơn. Những chính sách về kinh tế của nhà nước nhằm phát triển Tây Nguyên cũng có hai mặt của nó. Một mặt, đời sống của đồng bào được cải thiện đáng kể, họ được tiếp xúc với các nền văn minh trước đây vốn rất xa lạ với họ, thế giới quan thần linh chủ nghĩa không còn ngự trị một cách tuyệt đối như xưa nên nhiều hủ tục được xóa bỏ. Nhưng mặt khác, sự phát triển này dẫn đến sự biến đổi văn hóa cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. Hướng tiêu cực có nguy cơ phát triển mạnh hơn làm thay đổi cả hệ thống luật tục mà từ ngàn đời nay vẫn duy trì sự ổn định cuộc sống của họ. Việc khai thác rừng một cách tàn nhẫn, sự 4 phát triển ồ ạt của các công trình thủy điện, ưu tiên mở rộng diện tích các loại cây công nghiệp v.v…đã dẫn đến sự rối loạn trong nhịp điệu của tự nhiên, xã hội ở Tây Nguyên. Trong sự rối loạn của cuộc sống đó, các tôn giáo ở nước ngoài đã nhanh chóng giành lấy một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Tây Nguyên. Hệ quả là rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp đã bị biến mất. Nghiên cứu vấn đề văn hóa và con người trong văn học cũng là góp phần nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên đang có nguy cơ mai một trước sức tấn công ồ ạt của các dòng chảy văn hóa khác. Trong thời gian gần đây, Tây Nguyên rất được chú ý cả về chính trị, kinh tế lẫn văn hóa. Về chính trị, càng ngày người ta càng nhận ra tầm quan trọng của Tây Nguyên, vì nó nằm ở vị trí là “mái nhà” của Đông Dương. Về kinh tế, vị thế của cây cà phê, hồ tiêu Tây Nguyên trên thế giới và đặc biệt là sự kiện khai thác bô-xit ở Tân Rai và Nhân Cơ đã hướng sự chú ý của tất cả các tầng lớp xã hội về Tây Nguyên. Về văn hóa, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại cũng đã dấy lên một phong trào tìm hiểu Tây Nguyên. Trong phong trào có vẻ ồ ạt đó, đã xuất hiện nhiều cách ứng xử chưa thật đúng với văn hóa Tây Nguyên. Một thực tế khác, những người làm công tác văn hóa (phần lớn là người Kinh) nhiều khi đã không tìm hiểu thấu đáo về đời sống Tây Nguyên nên vô tình họ đã làm nhòa đi màu sắc văn hóa Tây Nguyên. Những điều này đã làm cho những nhà Tây Nguyên thực thụ như Nguyên Ngọc, Nguyễn Tấn Đắc… rất bức xúc. Trước thực tế đó, chọn đề tài này chúng tôi cũng mong góp một tiếng nói của mình để có thể hiểu đúng hơn về Tây Nguyên và có những cách ứng xử phù hợp hơn. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Như trên đã nói, hiện nay Tây Nguyên là vùng đất thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu văn hóa, của giới văn nghệ sĩ. Nghiên cứu về văn hóa Tây Nguyên, các học giả tập trung sưu tầm văn học dân gian của các dân tộc. Và họ đã thu thập được một số lượng rất lớn các tác phẩm văn học dân gian Tây 5 Nguyên, trong đó nhiều nhất là các bộ sử thi. Qua công tác điều tra sưu tầm, có thể nhận thấy rằng nền văn chương bình dân ở Tây Nguyên đa dạng, phong phú không hề thua kém bất kỳ vùng đất nào. Không như văn học dân gian, không như văn học viết về Tây Bắc; văn học viết ở Tây Nguyên vẫn còn khá khiêm tốn về số lượng tác giả, tác phẩm. Ngoài số ít nhà văn với những tác phẩm gây được tiếng vang, còn lại các nhà văn địa phương cũng viết khá nhiều nhưng chưa đủ sức vươn ra khỏi “biên giới” Tây Nguyên. Nhìn chung, văn học viết về Tây Nguyên ít gây được sự chú ý của giới nghiên cứu. Theo đó, việc nghiên cứu về nó cũng chưa thật sự được quan tâm, mặc dù ít nhiều nó cũng đã tạo ra một diện mạo riêng. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể về mảng văn học viết về Tây Nguyên. Vấn đề nghiên cứu văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn học cũng đang còn bỏ ngỏ. Tuy nhiên, do có một số tác phẩm đã gây được tiếng vang nên cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nó ở cấp độ tác giả, tác phẩm. Trong số đó, nghiên cứu về Nguyên Ngọc là nhiều nhất. Những nhà văn như Y Điêng, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Thu Loan, H’Linh Niê thì chỉ có một số bài giới thiệu, bình luận tổng quát in rải rác trên các báo và tạp chí. Trong khoảng ba mươi bài nghiên cứu về Nguyên Ngọc, chỉ có một số ít bài viết tìm hiểu một cách tổng quát, còn phần lớn các tác giả tập trung phân tích tiểu thuyết Đất nước đứng lên và truyện ngắn Rừng xà nu, qua đó khái quát đặc điểm văn chương Nguyên Ngọc. Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Nguyên Ngọc, con người lãng mạn đã khẳng định vẻ đẹp độc đáo trong sáng tác nghệ thuật và quan niệm về con người của nhà văn. Ông cho rằng tâm hồn Nguyên Ngọc bắt rất nhạy những gì dữ dằn, quyết liệt và có một vẻ hoang dã như sự sống thời nguyên thuỷ. Ông nhấn mạnh: 6 Văn của anh cuốn hút người ta không phải bởi chỉ cách trần thuật bằng chính giọng điệu của nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên ngây thơ, đầy những hình ảnh ví von rất ngộ nghĩnh, mà bằng cả tâm hồn cũng rất Tây Nguyên...Nguyên Ngọc đích thực là một tri thức của núi rừng, là nhà văn hóa của Tây Nguyên [176, tr.58]. Phong Lê trong một đánh giá khái quát về những tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Ngọc đã chỉ ra rằng trong sáng tác của Nguyên Ngọc, “con người gắn bó với đất nước quê hương, gắn với truyền thống cha ông, và truyền cho đất nước sức sống của mình”, “vẻ đẹp con người đã truyền đến cho thiên nhiên, và thiên nhiên góp phần tô điểm con người”[168, tr.32]. Trong bài Nguyễn Trung Thành và những trang viết về miền Nam đất lửa, Phong Lê cũng đã chỉ ra tính chất biểu tượng trong cách miêu tả nhân vật già làng, và “cụ thể, độc đáo, hiện thực khi miêu tả lớp con trẻ như những mạch nối của văn hóa truyền thống” [169, tr. 48]. Trần Đăng Khoa trong bài báo Nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định sự thống nhất trong phong cách nghệ thuật của tác giả chính là ở việc thể hiện người thật việc thật, người tốt việc tốt; và nhà văn đã tìm đến một hình thức nghệ thuật phù hợp, nhất quán. Tác giả nhấn mạnh: “Văn Nguyên Ngọc là một dạng văn hay, giản dị, chắt lọc và trong veo” [152, tr. 6]. Nguyễn Văn Long trong những bài viết ngắn về Nguyên Ngọc cho rằng ông sáng tác không nhiều về số lượng nhưng vẫn được độc giả chú ý, “Nguyên Ngọc là một trong số hiếm hoi những cây bút gắn bó và am hiểu Tây Nguyên- một xứ sở vô cùng phong phú và đầy sức hấp dẫn cả thiên nhiên cũng như bản sắc văn hóa độc đáo mà hầu như vẫn còn giữ được nguyên vẹn” [42, tr.14]. Tác giả khái quát: “Sự quan tâm hàng đầu đến những vấn đề có ý nghĩa trọng đại lịch sử của dân tộc và cách mạng cùng với niềm say mê những tính cách anh 7 hùng khiến cho tác phẩm của Nguyên Ngọc mang tính chất hùng tráng lại đậm nét trữ tình và chất lý tưởng”[171, tr.62]. Đỗ Kim Hồi xem Nguyên Ngọc là người đầu tiên trong số những nhà văn cách mạng thành công trên một mảng đề tài mà bốn thập kỷ trước đây đang còn hoàn toàn mới lạ: Tây Nguyên. Ông nói: “Trong ký ức của chúng ta, Nguyên Ngọc sẽ được nhớ như nhà văn của Tây Nguyên, hiểu trên hai nghĩa: người viết hay nhất về Tây Nguyên cho tới hôm nay, và người mà- cũng cho tới hôm nay- những sáng tác về Tây Nguyên cũng làm nên phần hay nhất, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của mình” [286, tr. 582 ]. Trong lời giới thiệu cuốn Đất nước đứng lên của Nhà xuất bản Giáo dục Giải phóng, có nhận xét: “Qua tiểu thuyết Đất nước đứng lên, Nguyên Ngọc muốn giới thiệu cho người đọc rõ thêm về đất nước, về con người ở vùng núi rừng Tây Nguyên. Đất nước ấy hùng vĩ mà hiền hoà, giàu đẹp và nên thơ. Những con người ở đây yêu nước nồng nàn, cần cù lao động”[26a, tr.4]. Khi Đọc lại Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Trường Lưu cho rằng thành công của việc miêu tả hình tượng Núp là thành công hai mặt: kết cấu nhân vật và tính dân tộc lồng vào trong kết cấu. Hai mặt này cũng xuyên suốt cả hệ thống hình tượng trong tác phẩm. Ông nhấn mạnh: Nguyên Ngọc đã đi sâu nghiên cứu tính dân tộc của Tây Nguyên, vận dụng những bài dân ca, những câu chuyện dân gian Tây Nguyên đưa vào tác phẩm, tìm hiểu hoàn cảnh dân tộc đã sinh ra một con người như Núp. Trong Đất nước đứng lên, nếu tác giả không nắm vững tính dân tộc của Tây Nguyên thì tác phẩm chỉ có cái lõi của sự việc chứ không có linh hồn Tây Nguyên [173, tr.28]. Hà Văn Thư trong bài viết Con người dân tộc thiểu số qua một số tác phẩm của mấy nhà văn miền xuôi đã nêu lên những nét đặc sắc của con người trong Đất nước đứng lên và kết luận về Nguyên Ngọc: “Thành công của 8 Nguyên Ngọc theo tôi là do lòng yêu thương thiết tha đồng bào Tây Nguyên mà anh đã gần gũi trong những tháng ngày kháng chiến”[267, tr.44]. Như vậy đa số những bài nghiên cứu đều thừa nhận Nguyên Ngọc đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể trong những sáng tác về Tây Nguyên. Sở dĩ có được thành công này là nhờ những hiểu biết phong phú và sâu sắc về văn hóa và con người nơi đây, như ông đã từng kể: “Tôi đã sống trong các làng đồng bào Ê-đê, được cùng đồng bào đi làm rẫy, làm nương, đi săn, đi bắt cá, cùng ăn, cùng ở, cùng bàn bạc công tác, cùng đi đánh du kích, cùng dự các cuộc vui và được nghe đồng bào kể những sự tích về núi rừng, sông suối, về truyền thống bất khuất lâu đời của dân tộc”[197, tr.59]. Các bài nghiên cứu chủ yếu đánh giá một cách tổng quát sáng tác của Nguyên Ngọc, nếu đi vào phân tích cụ thể từng tác phẩm thì cũng chỉ đi tìm hiểu nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật chứ chưa đi vào nghiên cứu tác phẩm của ông như một giá trị văn hóa, dưới góc nhìn văn hóa. Chưa có công trình nghiên cứu nào xem xét một cách tổng thể có hệ thống vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong tác phẩm của Nguyên Ngọc. Sau Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh cũng có nhiều tác phẩm hay về Tây Nguyên cho nên có một số bài viết có tính chất khái quát về chất Tây Nguyên trong văn của Trung Trung Đỉnh chứ chưa có bài viết nào tìm hiểu sâu về văn hóa Tây Nguyên trong tác phẩm của ông. Nguyễn Xuân Hải nhận xét một cách khái quát về những trang viết của Trung Trung Đỉnh: “Nói đến Trung Trung Đỉnh, bạn đọc nghĩ ngay đến những trang viết đầy ắp hơi thở Tây Nguyên từ thời chống Mỹ cho đến nay”. Nguyễn Ngọc Thiện trong “Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi” cũng có nhận xét khái quát: “Là người Kinh, nhưng sống và hoạt động nhiều năm ở Tây Nguyên, do thành thạo tiếng Bana và được đào tạo chu đáo về nghề văn, tác giả đã có được những trang viết sinh động, sắc sảo về cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ nơi đây, những phong tục tập 9 quán và và các giá trị văn hóa cổ truyền còn được lưu giữ” [42, tr. 39]. Và tác giả cho rằng, với truyện ngắn Chớp trên đỉnh Kon Từng cùng với hàng loạt truyện khác cùng đề tài, đã đưa Trung Trung Đỉnh vào hàng những tác giả tiêu biểu viết về vùng đất Tây Nguyên vài chục năm gần đây. Trong bài viết Nhà văn “Lạc rừng”, Văn Công Hùng khẳng định: từ sau năm 1975 trở lại đây, Trung Trung Đỉnh là người viết thành công nhất về Tây Nguyên, bởi anh có vốn sống, vốn hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên. Là bậc “trưởng lão” trong làng văn hóa, văn học Tây Nguyên; Nguyên Ngọc đã dành cho Trung Trung Đỉnh những ngôn từ đầy trang trọng, những cảm nhận thú vị. Ông viết: Trung Trung Đỉnh không viết về Tây Nguyên. Đối với Trung Trung Đỉnh, Tây Nguyên không phải là “chất liệu”, cũng không phải là “vốn sống”…Trung Trung Đỉnh xa lạ với tất cả những thứ đó. Thậm chí đối với anh, Tây Nguyên cũng không phải là “đề tài”, là văn chương, là nghề nghiệp. Sâu xa mà đơn giản hơn nhiều, đối với anh, Tây Nguyên là tất cả. Là cuộc đời anh. Là nỗi ám ảnh, là sự mê hoặc, là cuộc sống, là sự rơi chìm, sự nhấn chìm, trùm lên toàn bộ cuộc đời anh, mê mẩn suốt đời, không cách gì rứt ra được, thoát ra được, cho đến chết [6, tr. 6-7]. Là nhà văn người Ê đê, Y Điêng có khoảng mười tác phẩm văn xuôi về Tây Nguyên, nhưng nghiên cứu về ông thì chỉ có vài bài, trong đó các tác giả đã nhìn thấy những giá trị văn hóa làm nền tảng cho văn Y Điêng. Triệu Lam Châu cho rằng truyện của Y Điêng trong trẻo, tự nhiên như trời đất. Và ông khái quát: “Đọc truyện của Y Điêng, tôi thấy hiện lên biết bao là ánh núi. Ánh núi hiện lên từ tiếng cồng chiêng âm vang cả núi rừng và lòng người. Ánh núi hiện lên từ ánh mắt nao lòng của người con gái Ê đê khi trao chiếc công cho người yêu…”. 10 Mã A Lềnh nhận xét văn phong Y Điêng: Truyện dài Hơ Giang với lối kết cấu theo mạch thời gian giản dị truyền thống, không cầu kỳ sắp đặt, không xen cài, không phức tạp hóa những cảnh ngộ, không cố tạo dựng những tình huống bất ngờ, những thử thách quyết liệt. Đó là một bức tranh phẳng, thật thà tựa như những tượng gỗ trong khu nhà mồ của người Tây Nguyên. Lối diễn đạt, giọng điệu nguyên xi như người dân tộc nói, tạo nên hiệu quả đến thẳng với người đọc, không cần suy nghĩ vòng vo, không cần vận nhiều triết tự, không quá ư triết luận về nghệ thuật cao siêu. Đó là con đường ngắn nhất đến với bạn đọc, mà bạn đọc trước hết là dân tộc mình[294, tr. 69]. Khuất Quang Thụy có một thời gian dài sống ở Tây Nguyên. Với tư cách là một người lính, anh chủ yếu viết về những chặng đường của cuộc chiến tranh chống Mỹ ở Tây Nguyên. Về đề tài văn hóa, con người Tây Nguyên, anh chỉ có một số truyện ngắn, vì vậy nghiên cứu về Khuất Quang Thụy cũng chưa được chú ý. Văn Giá trong Tuyển tập Văn học dân tộc và miền núi có nhận xét khái quát về một vấn đề mà ông cho rằng Khuất Quang Thụy khá thành công, đó là lẽ công bằng của người Tây Nguyên: Nhà văn đã cố gắng khám phá và định danh cái cá tính ưu trội nổi bật mang ý nghĩa phổ quát của con người Tây Nguyên, đó là lẽ công bằng. Phẩm chất này có lẽ hình thành rất sớm từ thời công xã nguyên thủy, một phẩm chất cộng đồng mà các buôn, plây Tây Nguyên còn giữ được và trong suốt trường kỳ lịch sử những người dân Tây Nguyên luôn coi phẩm chất này như là một giá trị cao nhất trong bảng giá trị tinh thần truyền thống của mình [42, tr.151] 11 Vốn là một nhạc sĩ, nhưng H’Linh Niê cũng khá thành công trong lĩnh vực văn chương, chị có khoảng hai mươi truyện ngắn về các dân tộc Êđê, M’Nông, Jrai, Bana… Tuy nhiên chưa có cồng trình nào nghiên cứu về văn của chị. Chỉ có Lê Minh Khuê trong lời giới thiệu sách “Gió đỏ” đã nhận xét khái quát về văn hóa, con người Tây Nguyên trong văn của H’Linh Niê: Bằng lối viết nhẹ nhàng tinh tế, chị kể về những mối tình đôi lứa, về những tình cảm của con người với nhau, về một gia đình, về một buôn làng, về những làng này làng kia với những phong tục tập quán riêng, vẻ đẹp riêng. Con mắt phụ nữ của chị như nhìn thấy nét đẹp run rẩy của lá rừng mùa xuân, nhìn thấy ánh mắt của chàng trai khi yêu, nhìn thấy sự can trường của con người của núi rừng. Đọc truyện ngắn của H’Linh, ta như được du ngoạn qua cả một vùng đất con nhiều bí ẩn [20, tr.197]. Thu Loan là nhà văn sống ở Tây Nguyên khá lâu, chị có nhiều truyện ngắn viết về cuộc sống của người bản địa Tây Nguyên. Tuy nhiên, nghiên cứu về văn xuôi của chị chưa nhiều. Trong chuyên đề Tìm hiểu các sáng tác của nhà văn Thu Loan, nhóm tác giả của Hội Văn học Nghệ thuật Gia Lai cho rằng Thu Loan đã phản ánh sinh động và chân thực hiện thực đời sống văn hóa, đặc điểm con người Tây Nguyên, các tác giả viết: “Đọc các tác phẩm văn xuôi của Thu Loan, người đọc cảm giác đang sống chính trong không khí của buôn làng, núi rừng Tây Nguyên với những con người dân dã, bình dị. Trong các truyện ngắn của Thu Loan, đâu đâu cũng gặp những con người chất phác, đầy nét nguyên sơ, hoang dã. Đâu đâu cũng ngập tràn không khí Tây Nguyên: rừng đó, núi đó, suối sông đó, làng bản đó”[285, tr.12]. 12 Văn Công Hùng trong bài viết Đa mang Thu Loan cũng cho rằng Thu Loan rất thành công trong mảng sáng tác về đề tài dân tộc Tây Nguyên, trong sáng tác của chị hiện lên “những người đàn bà Tây Nguyên, buôn làng Tây Nguyên, trẻ con Tây Nguyên, tâm thức Tây Nguyên, giá trị Tây Nguyên. Chị như một sứ giả mộng du trong ấy và gặp biết bao điều mới lạ, cả ngang trái và tốt đẹp, cả phiền não và hoang mang”[285, tr.17]. Một số nhà văn địa phương khác như Phạm Kim Anh, Phạm Minh Mẫn, Nguyễn Ngọc Hòa… cũng có những tác phẩm hay về Tây Nguyên nhưng chưa tạo được ấn tượng mạnh nên cũng chưa thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu. Như vậy tình hình nghiên cứu văn học viết về Tây Nguyên chỉ “xôn xao” với tác phẩm của Nguyên Ngọc, còn với các tác giả khác thì khá lặng lẽ và thưa thớt. Tuy nhiên những gì có được cũng rất quí và đáng trân trọng . Trên cơ sở tiếp thu những nhận xét, đánh giá quí báu của người đi trước, chúng tôi xác lập hướng nghiên cứu có tính chất tổng thể nhằm tìm ra hệ thống những giá trị văn hóa cũng như tính cách con người Tây Nguyên để khám phá những thành tựu nổi bật trong sáng tác về đề tài Tây Nguyên trong văn xuôi Việt Nam 1945-2000. Từ đó khẳng định tính độc đáo mới lạ làm nên đặc trưng Tây Nguyên trong các sáng tác, qua đó thấy được những đóng góp to lớn của các nhà văn đối với việc gìn giữ và phát huy nền văn hóa của một vùng miền vẫn còn nhiều bí ẩn cần khám phá và truyền bá nhiều hơn. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1 Đối tượng Trước năm 1945, ở Tây Nguyên hầu như chỉ có văn học dân gian. Văn học viết về Tây Nguyên chỉ thật sự được định hình từ năm 1945 với sự xuất hiện của Nguyên Ngọc. Vì vậy, đối tượng khảo sát của luận án là những tác phẩm văn xuôi nghệ thuật đặc sắc viết về Tây Nguyên từ năm 1945 đến 2000, phần lớn l tc phẩm của Nguyn Ngọc. Sau đó là sáng tác của Vũ Hạnh, Trung 13 Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Đỗ Tiến Thụy, Thu Loan và một số nhà văn khác. Về tác giả là người dân tộc Tây Nguyên, người viết tìm hiểu các sáng tác của Y Điêng, H’Linh Niê (Linh Nga Niê Kđăm), Kim Nhất. Người viết chỉ tập trung khảo sát các tác phẩm phản ánh văn hóa và con người bản địa Tây Nguyên (trong không gian năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng). Các tác phẩm viết về người Kinh ở Tây Nguyên không thuộc phạm vi khảo sát của luận án. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học khá đa dạng. Đề tài chỉ tập trung tìm hiểu những vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong tác phẩm văn xuôi nghệ thuật (tiểu thuyết, truyện ngắn và một số tác phẩm ký giàu tính nghệ thuật) từ năm 1945 đến năm 2000. Ngoài ra người viết còn tham khảo văn học dân gian Tây Nguyên, nhất là sử thi để có được một cái nhìn hệ thống và biện chứng các giá trị văn hóa trong văn học. Và người viết cũng sẽ xem xét những tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên sau năm 2000 để cảm nhận đầy đủ hơn một diện mạo văn học. Đồng thời cũng sẽ tìm hiểu tất cả những công trình nghiên cứu về văn học, văn hóa Tây Nguyên từ xưa đến nay nhằm xác định hướng đi mới của mình, tránh sự trùng lặp. Để tiện so sánh, người viết cũng tham khảo những tác phẩm viết về miền núi phía Bắc và các vùng miền khác. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1 Phương pháp xã hội học Được vận dụng để nhìn nhận cơ sở xã hội của sáng tác và tiếp nhận, từ đó phân tích hiệu quả nghệ thuật của mối quan hệ tương tác giữa xã hội và văn học. Cơ sở xã hội của văn học viết về Tây Nguyên chính là xã hội Tây Nguyên 14 trong một khung thời gian nhất định làm nền cho những giá trị văn hóa và con người trong văn học. 4.2 Phương pháp hệ thống Để có được cái nhìn cụ thể và lôgíc về vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên, người viết sẽ đặt các nội dung một cách hệ thống theo trục dọc trong các tác phẩm, từ đó mà phân tích khái quát nhằm làm nổi rõ vấn đề. 4.3 Phương pháp liên ngành Để vấn đề được nhìn nhận, đánh giá một cách thấu đáo, người viết vận dụng những kiến thức về xã hội học, dân tộc học, lịch sử, tôn giáo, chính trị…để giải mã, cắt nghĩa các hiện tượng văn học. Trong quá trình tìm hiểu, phân tích những giá trị văn hóa và đặc điểm con người, người viết không tách rời tác phẩm văn chương với môi trường, thời đại và đặc trưng thẩm mỹ của văn học. 4.4 Phương pháp so sánh, đối chiếu So sánh tác phẩm viết về Tây Nguyên với tác phẩm viết về các vùng đất khác. So sánh sáng tác của các tác giả với các tác phẩm văn học dân gian tiêu biểu. Đối chiếu với đời sống văn hóa và con người trong thực tế để thấy được giá trị hiện thực cũng như giá trị biểu hiện của hình tượng. 4.5 Thao tác phân tích, tổng hợp Người viết chủ yếu đi vào phân tích những biểu hiện văn hóa cũng như tính cách con người Tây Nguyên để làm hiện lên một cách rõ ràng các giá trị về văn hóa và con người trong văn học. Từ đó khái quát đặc trưng văn hóa con người Tây Nguyên trong hệ thống văn hóa, con người Việt Nam. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN Như đã nói ở trên, nghiên cứu đề tài này, người viết muốn đem đến một cái nhìn tổng thể toàn bộ sáng tác văn xuôi về Tây Nguyên. Và nó có tính chất 15 mở đường cho nghiên cứu về văn học viết về Tây Nguyên một cách có hệ thống. Luận án góp phần làm nổi lên bức tranh văn hóa Tây Nguyên từ nhiều đường nét, màu sắc độc đáo để có thể khẳng định giá trị của một nền văn hóa có thể sẽ một đi không trở lại nếu không được hiểu đúng và ứng xử đúng về nó. Luận án cũng góp phần vào việc phân tích tính cách và đặc điểm hình tượng con người Tây Nguyên thông qua cuộc sống sinh hoạt, lao động và chiến đấu của họ để từ đó có thể rút ra được những ý nghĩa sâu xa về sự tồn sinh, về nhân sinh quan tốt đẹp mà con người càng văn minh càng dễ bị đánh mất. 6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung được triển khai như sau: Chương 1: Văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945-2000. Chương 2: Con người Tây Nguyên trong xuôi nghệ thuật 1945-2000. Chương 3: Nghệ thuật thể hiện văn hóa con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945-2000. CHƯƠNG 1 VĂN HÓA TÂY NGUYÊN TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT 1945 - 2000 1.1 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa khác nhau bởi mỗi người đứng dưới một góc độ để xem xét. Tuy nhiên dù ở phương diện nào cũng không nằm ngoài việc xác định văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong trường kỳ lịch sử để phục 16 vụ cho sự tồn tại của mình. Trong hàng trăm định nghĩa về văn hóa, có nhiều định nghĩa đã làm nổi rõ điều đó. Như định nghĩa của E.B. Tylor: “Văn hóa là một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đã đạt được”[80, tr.10]. Định nghĩa của UNESCO:”Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu- những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng dân tộc”[80, tr. 10]. Từ những quan niệm về văn hóa, chúng ta thấy văn hóa có mặt trong toàn bộ đời sống của xã hội loài người. Mọi sự sáng tạo có giá trị của con người đều là văn hóa. Tuy nhiên cũng cần phải khu biệt khái niệm để cho công việc nghiên cứu văn hóa tránh sự trùng lặp với nhiều ngành khoa học khác. Văn hóa, theo cách hiểu thông thường nhất, chính là bộ mặt tinh thần và vật chất của xã hội. Văn hóa làm nên diện mạo của dân tộc này so với dân tộc khác. Văn hóa phản ánh mọi mặt đời sống của một dân tộc. Muốn tìm hiểu bản sắc của một dân tộc thì không có cách nào khác hơn là phải đi khảo sát văn hóa của dân tộc đó. “Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc bắt nguồn từ trong sức sống, khả năng sinh tồn của dân tộc ấy. Văn hóa là cái có tính chất nội sinh, vì vậy bản sắc văn hóa cũng là vẻ đẹp tự nhiên, là thuộc tính của mỗi nền văn hóa”[99, tr.45]. Văn hóa là sản phẩm của một cộng đồng người được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Trong ý nghĩa đó, mỗi một dân tộc dù ở trình độ văn minh nào thì cũng đều có nền văn hóa riêng của dân tộc mình. “Không có dân tộc nào lại không có văn hóa và cũng không có văn hóa nào lại không gắn liền với cuộc sống của một dân tộc cụ thể. Dân tộc là cội nguồn vĩnh cửu, là mảnh đất vô biên của văn hóa” [270, tr. 56]. Nền văn hóa ấy biểu hiện cụ thể trong đời sống vật chất cũng như tinh thần, trong cuộc sống lao động và chiến đấu của họ trước sức mạnh của tự nhiên, trước sự khống chế của dân tộc khác. 17 Là nhân tố quan trọng bậc nhất, văn học của một dân tộc góp phần làm nên bản sắc văn hóa của dân tộc đó. Dòng chảy của văn học có nguồn mạch từ những giá trị văn hóa dân tộc, cho nên: “Văn học nếu có chức năng phản ánh hiện thực thì cũng không thể phản ánh trực tiếp được mà chỉ có thể phản ánh thông qua lăng kính văn hóa, thông qua “bộ lọc” của cá giá trị văn hóa [258, tr.67]. Văn học, trong ý nghĩa chung nhất là sản phẩm tinh thần dân tộc. Khi nói đến văn học của một dân tộc người ta hay nghĩ đến văn hóa của dân tộc đó. Và khi nói đến văn hóa của dân tộc người ta cũng quan tâm hàng đầu đến văn học. Những tác phẩm văn học có giá trị, được cộng đồng chấp nhận, trường tồn cùng thời gian thì đó cũng là sản phẩm văn hóa của dân tộc. Một tác phẩm văn học độc đáo, vượt ra ngoài biên giới một quốc gia, có tính nhân loại thì trước hết tác phẩm ấy phải có tính dân tộc sâu sắc. Như vậy, văn hóa chính là cái nôi nuôi dưỡng cho văn học, tạo cho văn học một sắc thái riêng, mang đậm hơi thở của dân tộc mình. Về phần mình, văn học lại góp phần quan trọng trong việc tôn tạo, bổ sung những giá trị văn hóa làm cho đời sống văn hóa ngày càng phong phú hơn. Văn học luôn có những tác động tích cực đến văn hóa. Văn học như một tấm gương phản chiếu đời sống xã hội và văn hóa dân tộc. Các tác phẩm văn học có thể giúp người ta nhận thức rõ hơn về hiện thực cuộc sống, ý thức sâu sắc hơn về cộng đồng, về dân tộc, về truyền thống lịch sử…Văn học cùng với các hình thức nghệ thuật khác cũng là nơi giữ gìn các giá trị văn hóa cổ xưa. Nhà văn bao giờ cũng có công lớn trong việc xây dựng các giá trị văn hóa, định hướng những chuẩn mực thẩm mỹ để hình thành tính nhân văn trong phẩm chất con người của dân tộc mình. Văn học là một bộ phận của văn hóa, nó nằm trong cái tổng thể văn hóa. Quan hệ giữa văn học với văn hóa là quan hệ có tính biện chứng giữa cái tổng thể và cái bộ phận. Mà cái tổng thể bao giờ cũng chi phối cái bộ phận, cái bộ phận chịu sự qui định của cái tổng thể. Cái riêng chỉ tồn tại trong mức độ nó 18 liên hệ với cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Nói như thế không có nghĩa là văn học không có những qui luật riêng của mình, không có con đường đi riêng của mình. Cũng như cây xanh bám rễ từ đất để vươn lên bầu trời cao rộng, văn học có gốc rễ từ văn hóa dân tộc nhưng nó có xu hướng vươn tới những giá trị mới để hình thành những chuẩn mực thẩm mỹ mới. Nhưng những ngả đường dù có phong phú đến đâu nó cũng không vượt ra ngoài “khoảng trời văn hóa” mà nó tồn tại. Giá trị văn hóa là kết quả của quá trình hoạt động có ý thức của con người được thời gian gạn lọc, một khi được hình thành thì nó bao giờ cũng tác động tích cực đến ý thức cũng như hành động của con người, khi đó mọi hoạt động của con người đều bị chi phối bởi giá trị ấy. Với phạm vi khái quát đời sống rộng lớn của mình: tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, khát vọng, ý chí…của con người; phong tục, đạo đức, pháp luật, truyền thống, triết học, tín ngưỡng, tôn giáo…của xã hội; văn học là một bộ phận quan trọng bậc nhất của văn hóa. Vai trò to lớn đó đã khẳng định rằng, nghiên cứu văn hóa không thể không quan tâm đến văn học, đặc biệt là những nền văn hóa trong đó văn học đóng vai trò trung tâm như văn hóa Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa ở nước ta khi khái quát đặc điểm, bản sắc văn hóa dân tộc đã lấy cơ sở từ nhiều cứ liệu văn học, nhất là từ kho tàng tục ngữ, ca dao và những tác phẩm cổ điển của văn học thành văn của dân tộc. Xem các giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam sẽ thấy rõ điều đó. Ở phía ngược lại, nghiên cứu văn học bao giờ cũng làm nổi bật các giá trị văn hóa mà nó chứa đựng, có như vậy mới có thể khám phá một cách đầy đủ và có chiều sâu một tác phẩm văn học, và quan trọng hơn là tránh được xu hướng đơn giản hóa, dung tục hóa tác phẩm. Dù muốn hay không, có ý thức hay không có ý thức phản ánh, thì văn hóa bao giờ cũng tồn tại trong văn học. Bởi nhà văn bao giờ cũng là một con người cụ thể của một giai tầng và dân tộc, một thời đại 19 cụ thể; bởi thế giới nghệ thuật của anh ta bao giờ cũng tồn tại dưới một “bầu trời” văn hóa cụ thể. Vì vậy, nghiên cứu văn học không thể tách rời văn học với nhiều yếu tố khác có liên quan, trong đó văn hóa là một cơ sở quan trọng. Không thể hiểu một cách sâu sắc và đúng đắn tác phẩm văn học nếu không đặt nó vào cơ sở văn hóa. Ngành nghiên cứu văn hóa ra đời và phát triển sau ngành nghiên cứu văn học rất lâu. Khi lý luận về nghiên cứu văn hóa được du nhập vào nước ta, thì đồng thời với nó lý luận về sự giao thoa giữa văn hóa và văn học cũng được giới thiệu. Và với mối liên hệ nội tại của văn hóa và văn học, nghiên cứu văn học ở phương diện văn hóa đã nhanh chóng phát triển nhờ vào ưu thế nổi bật của nó trong việc khám phá nhiều giá trị sâu sắc và phong phú của văn chương. Nếu con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội thì văn chương là tổng hòa các hình thái ý thức của con người. Nếu con người luôn có ý thức vượt thoát những giới hạn của sự hiểu biết thì nghiên cứu văn học cũng luôn có xu hướng thoát khỏi những ràng buộc có tính truyền thống của mình để khám phá nhiều chiều kích mới, đó là cơ sở để chúng ta tiếp nhận nhiều trường phái lý luận văn học mới. Nghiên cứu văn học không chỉ giới hạn trong tính nghệ thuật, chức năng thẩm mỹ, cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, hệ thống thi pháp, cá tính sáng tạo, tư duy hình tượng v.v… mà luôn mở rộng phạm vi của lý thuyết hệ thống để đi vào những chân trời mới. Nghiên cứu văn hóa trong văn học nằm trong xu hướng ấy. Trong các thể loại văn học thì văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết có sức khái quát đời sống xã hội vô cùng rộng sâu, cho nên nó có ưu thế rất lớn trong việc đi vào các nguồn mạch văn hóa, phản ánh các giá trị văn hóa một cách toàn diện và đầy đủ nhất. Tất nhiên, văn hóa trong văn học thường được thể hiện một cách “nghệ thuật” chứ không phải chỉ là sự miêu tả ở phạm vi “hiện thực” của nó. Tuy nhiên, trong nhiều tác phẩm, các giá trị văn hóa- nhất là phong tục, 20 tập quán của người Tây Nguyên- chỉ được “sao chụp” lại. Bên cạnh đó cũng có nhiều truyện ngắn phản ánh văn hóa Tây Nguyên chỉ với mục đích là truyền bá hơn là biểu hiện nên người đọc tiếp nhật các giá trị ấy như là trong một tác phẩm ký. Nhưng dẫu sao văn hóa Tây Nguyên đã đem đến cho các tác phẩm văn xuôi nghệ thuật viết về Tây Nguyên nhiều màu sắc sinh động, hấp dẫn người đọc bởi tính kỳ lạ độc đáo và đậm chất nguyên sơ. Ngược lại, chính các tác phẩm ấy đã làm hiện lên một cách khá hoàn chỉnh bức tranh văn hóa Tây nguyên đa sắc màu và đậm chất nhân văn để độc giả có thể hiểu và mến yêu cuộc sống của con người nơi đây. Tác phẩm văn xuôi của Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh, Y Điêng...chính là chiếc cầu nối để người đọc có thể đến với một vùng văn hóa đặc sắc ở Việt Nam. Sự đặc sắc của văn hóa Tây Nguyên được thể hiện khá đầy đủ trong các tác phẩm văn xuôi nghệ thuật. Ở đó chúng ta sẽ được tiếp xúc với một nền văn hóa vô cùng phong phú: sự hiền minh của rừng, niềm kiêu hãnh của làng, sự huyền hoặc của cồng chiêng, sự linh thiêng của lửa, sự “ngọt ngào” của nước, tính đa chức năng của nhà rông, cái độc đáo của rượu cần, sự đa dạng của lễ hội, sự kỳ lạ của những đêm kể khan v.v… 1.2 Rừng, bản nguyn của sự sống Tây Nguyên Mỗi cộng đồng người đều gắn bó với những không gian sống cụ thể. Không gian hay môi trường tự nhiên ấy có ảnh hưởng không nhỏ đến đặc điểm tính cách của con người, từ đó mà góp phần hình thành nên diện mạo văn hóa. Văn học phản ánh đời sống qua những hình tượng cụ thể, và thông qua các hình tượng ấy mà khái quát một vấn đề nhân sinh nào đó. Trong quá trình tái hiện đời sống, nhà văn luôn chọn không gian cho nhân vật hoạt động. Sự chọn lựa ấy phụ thuộc vào ý đồ biểu hiện của nhà văn, đồng thời cũng phụ thuộc vào môi trường trực tiếp. Đối với người Tây Nguyên, môi trường sống của họ là rừng. Rừng là bản nguyên của sự sống nên rừng cũng là cội nguồn của văn hóa nơi đây. 21 Tại sao nói rừng là bản nguyên của sự sống Tây Nguyên? Khác với người Chăm phần lớn định cư ở vùng duyên hải nam Trung bộ, người Khơ-me định cư ở hạ lưu sông Mêkông; các dân tộc Tây Nguyên sống ở miền rừng núi - một vùng “rừng thiêng nước độc” đối với người Kinh. Ở Tây Nguyên, trừ những khoảng đất của làng ra còn lại là rừng, rừng mênh mông bất tận. Sự phong phú của rừng đã tạo dựng cho cư dân nơi đây một cuộc sống lấy rừng làm điểm tựa, cả vật chất lẫn tinh thần. Người Tây Nguyên bước ra khỏi làng là đến rừng. Về cơ bản, làng là văn hóa, rừng là tự nhiên. Cái thế giới tự nhiên ấy vừa thân tình vừa bí hiểm, vừa hiền lành vừa dữ dội, vừa hiện thực vừa huyền thoại. Nhà dân tộc học Jacques Dournes trong Rừng, đàn bà, điên loạn có viết: “Con người đứng trên một thế cân bằng kỳ lạ, và kỳ diệu: họ đứng “mấp mé”giữa làng và rừng, giữa văn hóa và hoang dã, giữa “cô gái làng” và “cô gái rừng”[82, tr.11]. Nói chung, rừng Tây Nguyên là tài nguyên vật chất, đồng thời là cội nguồn tâm linh. Rừng luôn ám ảnh con người nên rừng luôn hiện hữu trong các tác phẩm văn chương viết về Tây Nguyên. Do ra đời vào “thời thơ ấu của loài người” nên trong thần thoại sử thi, rừng là một thế giới huyền bí linh thiêng, là nơi ngự trị của thần linh ma quái với một sức mạnh dữ dội sẵn sàng đe dọa bất cứ ai. Trong văn học viết, rừng được phản ánh một cách khoa học và biện chứng hơn, nhưng các tác giả cũng không thể không quan tâm tâm đến tính linh thiêng của rừng; tức là “cô gái rừng” trong huyền thoại Tây Nguyên vẫn không thể không ám ảnh các nhà văn, nhất là những nhà văn đã từng sống nhiều với cư dân bản địa. Vì thực tế, người Tây Nguyên vẫn rất “sợ” rừng, vì rừng già chứa đầy bí ẩn: “Càng đi vào trong, cây cối càng rậm dày hơn, nhiều thân cây cao vút thẳng, che rợp bóng xuống thâm u, lá cành đều mọc một lớp lông dài để chống khí lạnh quanh năm bốc tỏa từ trong thớ đất ẩm ướt tuôn đầy lá mục. Một chất meo mốc quánh dẻo đóng vàng bên ngoài làm cho hình dáng cây cối trở nên cổ quái và kinh dị” [15, tr.33]. Dẫu vậy, họ vẫn 22 rất yêu rừng: “Già Đinh Lao hít một hơi thật mạnh cảm nhận mùi hương từ rừng như mùi hoa, trong như nước suối, tinh khiết như hơi sương tràn đầy lồng ngực”[17, tr. 46]. Yêu, vì rừng đã sinh ra, đã tạo dựng nên cuộc sống Tây Nguyên (theo quan niệm của người Tây Nguyên). Có thể nói rừng là nơi bắt đầu của mọi giá trị văn hóa. Nếu không hiểu rừng thì không hiểu gì về Tây Nguyên, con người Tây Nguyên, văn hóa Tây Nguyên. Trập trùng núi cao và hun hút thung sâu làm nên vẻ đẹp riêng của núi rừng Tây Bắc: “…Đường đi trên các sống núi, ngước lên thăm thẳm màu xanh biên thùy, nhìn xuống thung sâu hun hút, lác đác những bản làng nhỏ xíu phơi mình trong nắng chói chang”[27, tr.110]. Khác với địa hình Tây Bắc, Tây Nguyên, trừ vùng cực bắc và cực nam có địa hình hiểm trở, còn lại là những cao nguyên mênh mông nối tiếp nhau nên rừng hiện lên trong những trang văn trước hết là một thế giới đầy thơ mộng và trữ tình. Những cánh rừng già bạt ngàn màu xanh, dập dìu mây trắng đã làm nên chất thơ trong những trang văn xuôi: “Chúng tôi dừng chân ngang sườn núi Chư Sao. Dưới chân chúng tôi, mùa thu rộng rãi và ngơ ngác phủ lên tất cả cao nguyên Buôn Hồ một màu xanh non pha vàng, êm dịu và buồn rười rượi”[30, tr.320]. Rừng cũng vang lên bản hòa âm độc đáo của các loài chim: “Lũ chim bắt đầu rời tổ ríu rít gọi đàn đi kiếm mồi, những con chim họa mi, chim chào mào, chim pơ rơ tơk, lại thi nhau hót vang rừng. Một đàn chim amră xòe đuôi, đôi chân bước uyển chuyển như một diễn viên múa thực thụ. Lũ chim tơ pơk, chim grăch, xơ rông, chim pơ liêu, pơ lang cũng bị thu hút vào vũ điệu”[19, tr.13]. Rừng Tây Nguyên hiện lên không chỉ như là bức tranh êm dịu mà con như một bản nhạc rộn rã âm thanh. Nhưng cái man mác trữ tình, hài hòa như một bài thơ ấy chỉ là ở mùa khô. Khi mùa mưa đến thì rừng Tây Nguyên trở thành một con thú hung dữ, lồng lộn, gầm thét: “Mùa mưa rừng Tây Nguyên ai đã nếm qua hẳn nhớ đời…Từng trái núi khổng lồ đổ ập xuống, và từng dãy núi dài cao vút mọc lên, 23 những hố sâu hun hút đột nhiên toác ra ở chỗ mới hôm trước là đất bằng, rừng già”[26, tr.168]. Núi rừng Tây Nguyên vào mùa mưa là thế, luôn mang phẩm chất của gã khổng lồ hung dữ sẵn sàng gây gổ với bất cứ ai. Có lẽ sự thâm u, bí hiểm và “gầm thét” của rừng già là nguồn gốc của nỗi sợ hãi làm nên “tín ngưỡng rừng”, làm nên các huyền thoại Tây Nguyên. Bên cạnh đó, vẻ hiền hòa của nó đã hình thành tình yêu rừng, bồi đắp tâm hồn phong phú, đầy chất nghệ sĩ của người Tây Nguyên. Trong văn xuôi viết về Tây Nguyên, các tác giả “khai thác” rừng chủ yếu dưới khía cạnh thân tình với con người. Vì trong thực tế, rừng không bao giờ đứng ở thế đối lập với con người, nhất là người Tây Nguyên rất hiểu rừng. Rừng chỉ hung dữ và trừng phạt khi con người đối xử tàn nhẫn đối với nó. Người Tây Nguyên luôn quan niệm: “Có rừng, có trảng, có đá là có thần”[7, tr. 54]. Rừng là thế giới của thần linh nên luôn bí hiểm. Tuy nhiên, sự bí hiểm của rừng không ngăn được con người đến với nó, bởi vì rừng là không gian sống chủ yếu, làng chỉ là một lát cắt của rừng, không gian làng vẫn bị nhấn chìm bởi không gian rừng, nhất là về đêm. Đời sống của người Tây Nguyên gắn bó mật thiết với rừng. Họ yêu rừng như ngư dân yêu biển. Họ trở về rừng như đứa con đi xa về với mẹ. Rừng là người mẹ chở che, rừng là người bạn tâm tình, rừng là người yêu chung thủy... Trong chiến đấu, người dân Tây Nguyên luôn dựa vào rừng để chống lại kẻ thù. Ở tiểu thuyết Đất nước đứng lên, Núp cùng với dân làng Kông Hoa đã tận dụng mọi khả năng của rừng để có thể trường kỳ kháng chiến và đã làm cho giặc Pháp nhiều phen kinh hồn bạt vía. Người Tây Nguyên lấy cái ăn, cái uống từ rừng, khi gặp hiểm nguy thì họ cũng nhờ rừng chở che. Chính địa thế hiểm trở của rừng là một địa bàn lý tưởng cho chiến tranh du kích. Đội du kích của Núp đã lợi dụng từng con dốc, từng hòn đá, từng gốc cây để làm vũ khí chống lại kẻ thù. Họ dựa vào đồi dốc để làm bẫy đá, lấy cây rừng để làm “chông trên trời” và chông dưới đất. Họ lấy chất độc từ mủ cây tang-nang để tẩm vào mũi chông, 24 mũi tên. Họ lấy trái lô-pang ăn thay muối chờ ngày thắng lợi có muối Bok Hồ v.v...Đoạn văn sau đây là một chiến công ngoạn mục từ “vũ khí rừng”: “Giàng ơi! Đá chạy xuống, đá chạy xuống! Nó vụt chạy. Đá đuổi theo. Nó chạy chừng nào đá đuổi chừng ấy. Đá cứ chạy theo đường mòn, nhảy tưng tưng. Pháp sợ quá. Nó la um sùm. Nó chạy vô núi. Nó vấp một cái dây. Cái dây đứt phựt, bốn cái lao dài, nhọn, sáng phóng ra trúng thằng Pháp ở giữa ngực” [26, tr. 435] . Những trận đánh như thế này chỉ có ở núi rừng. Khi con người với rừng gắn bó máu thịt với nhau thì giặc dù có xe tăng, tàu bay, đại bác cũng không thể nào tiêu diệt được. Sức mạnh của con người Tây Nguyên bắt nguồn từ sức mạnh của rừng, rừng là nguồn năng lượng bất tận tiếp sức cho họ. Cuộc chiến đấu của Núp cùng với dân làng Kông Hoa thu được những thắng lợi quan trọng là nhờ họ biết tận dụng ưu thế của rừng. Trong truyện ngắn Rừng xà nu, rừng là biểu tượng cho tinh thần cách mạng của những thế hệ con người nối tiếp nhau đứng lên chiến đấu bảo vệ dân làng. Rừng xà nu gắn bó sâu sắc với cộng đồng Xô man. Tnú và Mai học bằng cái bảng xông khói xà nu. Dân làng Xô man tập trung tại nhà ưng cũng dưới ngọn đuốc xà nu. Tnú bị bọn thằng Dục đốt mười đầu ngón tay bằng vải tẩm dầu xà nu. Cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú trong đêm anh về thăm làng dưới ngọn đuốc xà nu bập bùng v.v… Những lớp cây xà nu tương ứng với các thế hệ người dân Xô Man kiên cường: cụ Mết- cây xà nu già, Tnú- cây xà nu lớn, bé Heng- cây xà nu con. Sức sống của rừng xà nu là sức sống của của các thế hệ con người mà không một sức mạnh nào có thể tàn phá nổi: “Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời...”[26, tr. 133]. Trùng trùng lớp lớp cây xà nu gợi sức mạnh tiềm tàng, bất diệt của con người Tây Nguyên. Có ai đọc Nguyên Ngọc mà không bị ám 25 ảnh bởi rừng xà nu. Hình ảnh rừng xà nu là biểu trưng cho câu chuyện về anh Tnú và làng Xô Man quật cường, là sự trường tồn của cuộc sống Tây Nguyên. Vũ Hạnh trong truyện ngắn Núi rừng bất khuất đã ngợi ca tinh thần bất khuất của dân làng Chò. Trước sự đe dọa của lính Pháp, người làng Chò “theo rừng” để không theo giặc: “Ông Dô và dân làng đi mãi vào rừng sâu. Bàn tay kẻ thù không đủ chiều dài để với tới họ, viên đạn kẻ thù không đủ sức mạnh để ngăn chặn họ. Họ ở nơi này ít lâu, họ lại dời đi nơi khác. Chỗ nào trong núi rừng này chẳng nuôi sống được những con người bất khuất”[12, tr.249]. Và địa thế hiểm trở đã giúp họ thiêu cháy quân Pháp trong cơn lửa rừng ngút ngàn thù hận. Điểm tựa rừng còn được tác giả Trung Trung Đỉnh thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết Lạc rừng. Khi đội du kích làng Đê Chơ Rang thất thế, thì rừng là nơi che giấu họ một cách kín đáo nhất, bởi vì “Rừng già có khả năng yên tĩnh tới mức, chiến tranh chừng như cũng không khuấy động nổi nó”[5, tr. 105]. Và, cũng như đội du kích Kông Hoa, đội du kích Đê Chơ Rang cũng dựa vào rừng để đánh địch. Trong thế chênh lệch về trang bị và lực lượng, rừng là địa bàn lí tưởng cho chiến tranh du kích. Nhờ đó mà các dân tộc Tây Nguyên thu được nhiều thắng lợi quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, góp phần to lớn vào chiến thắng chung của dân tộc. Trong cuộc sống hòa bình, thế ứng xử của con người Tây Nguyên trước rừng luôn uyển chuyển, họ luôn tôn trọng rừng không phải chỉ do quan niệm rừng là vị thần toàn năng mà còn do chính giá trị của rừng trong đời sống con người: “Cái rừng cái núi nó nuôi chúng ta” là câu văn được lặp lại rất nhiều lần trong các sáng tác về Tây Nguyên của Vũ Hạnh. Con người Tây Nguyên từ ngàn đời nay đã xây dựng một nền văn hóa trong mối tương tác với rừng. Rừng không chỉ có giá trị to lớn trong chiến đấu chống kẻ thù, rừng còn là môi trường sống chính yếu đối với họ, cho nên người bản địa Tây Nguyên không bao giờ 26 tàn phá rừng một cách tàn nhẫn, mặc dù họ sản xuất bằng cách đốt rừng làm rẫy. “Núi rừng che chở cho chúng ta, chúng ta phải bảo vệ núi rừng”[12, tr.241]. Lời của già Dô tuyên bố trước dân làng Chò trong tiểu thuyết Lửa rừng của Vũ Hạnh đã thể hiện rõ ý thức và hành động của người Tây Nguyên với rừng. Khó có thể tìm được trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người Tây Nguyên một thứ gì mà lại không liên quan đến rừng. Hạt gạo cũng được làm từ một khoảng đất của rừng. Thức ăn cũng từ rau rừng, thú rừng. Cái khố để mặc cũng từ vỏ cây rừng. Nhà sàn để ở, nhà rông để sinh hoạt đều làm từ cây rừng. Chất men rượu cần được chế từ những loại thảo mộc trong rừng. Các loại nhạc cụ phần lớn cũng đều được làm từ những sản vật rừng...Trong Đất nước đứng lên, Núp nói với dân làng: “Trong rừng Bana cái gì cũng quí. Sợi mây làm nhà, ngọn rau ăn no bụng, cây to làm cột, cây nhỏ làm củi”[26, tr. 425]. Có thể khẳng định: rừng gần như là tất cả đời sống của người Tây Nguyên. Người Tây Nguyên đi vào rừng như đi vào bản nguyên tâm linh của mình, cho nên họ rất thích lang thang trong rừng. Chỉ khi sống với rừng thì con người Tây Nguyên mới bộc lộ tất cả phẩm chất của mình: “Bơn cũng là nhân vật lạ. Anh ta chậm cả đôi chân lẫn chậm cái đầu. Chỉ lúc cầm súng vào rừng săn thú, anh mới thực sự là anh Bơn khác. Cái anh Bơn ủ dột, yếm thế lúc nào cũng gườm gườm không còn nữa, mà rõ là anh Bơn của núi, của rừng”[6, 93]. Đối với anh hùng Núp thì còn hơn thế nữa, sức mạnh của Núp là sức mạnh của rừng, thiếu rừng, Núp liền ngã bệnh. Thiếu rừng, người Tây Nguyên họ sẽ trở nên lạc lõng, sẽ không còn là chính họ nữa, và vì thế sẽ không còn văn hóa Tây Nguyên. Trong đời sống hàng ngày, người Tây Nguyên có thể suốt ngày đi lang thang trong rừng mà không sợ bị lạc hay thú dữ. Họ đi tìm niềm vui và lẽ sống trong chính người bạn rừng, họ xa rừng như cá xa nước: “Càng đi Dinh càng 27 nhận thấy anh không thể nào thiếu được Y Kla giữa chốn núi rừng. Y Kla là sự dẫn lối, là sức chở che, Y Kla rẽ lá, vạch cây, xuống dốc, lên đồi, trầm tĩnh khôn ngoan. Y Kla đi giữa núi rừng như các lội trong sóng nước”[12, tr.193]. Y Kla (Lửa rừng- Vũ Hạnh) lấy chồng người Kinh, cô được chồng đưa về đồng bằng. Xa rừng cô chịu không nổi, nên chỉ được một ngày cô bỏ chồng trở về với núi rừng thân yêu của mình. Làm sao có thể xa được rừng, vì con người Tây Nguyên sinh ra và lớn lên với rừng, rừng làm nên khí chất và tính cách của họ; tâm hồn của họ là những cánh rừng ngút ngàn, trái tim của họ luôn hướng về rừng: Y Kla muốn vươn mình lên trên những ngọn núi xa kia như bắt chộp lấy hồn mình ở đấy. Phải tìm trở lại những gì làm nên sức mạnh, làm nên sự sống, làm nên máu tủy của mình. Phải đòi lấy nó, ôm ghì được nó, đắm mình trong nó, lăn lộn từng hồi, uống ngợp từng dòng, no nê vì cái núi rừng, đau khổ vì cái núi rừng, sao cho đá núi cào tuôn máu ở đôi chân, gai rừng đâm nát mấy lần da thịt, khói núi mờ mịt che mù đôi mắt [12, tr.202]. Tâm trạng da diết nhớ rừng của Y Kla cho thấy rằng núi rừng chính là cuộc đời của người Tây Nguyên. Một cuộc đời như vậy đối với người sống ở đồng bằng có lẽ là hơi buồn tẻ vì môi trường tiếp xúc ấy chỉ là thiên nhiên. Nhưng ở một khía cạnh nào đó, nó chính là một lẽ sống tinh khiết, trong sạch. Con người càng hiện đại, họ càng khát khao được trở về với tự nhiên. Bây giờ người ta chẳng phát triển loại hình du lịch sinh thái đó sao? Các dân tộc khác họ thường có tôn giáo của mình để gội rửa linh hồn được trong sạch và tạo dựng niềm tin cho cuộc đời. “Tôn giáo” của người Tây Nguyên đó là rừng. Có thể trong thời hiện đại nhiều tôn giáo của phương Tây như Thiên Chúa, Tin Lành đã du nhập vào Tây Nguyên và họ cũng rất sùng đạo, nhưng ở phương diện truyền thống, rừng vẫn giữ một vai trò không thể thay thế. Ngày nay, một bộ phận người Tây 28 Nguyên theo đạo có thể sám hối trước Chúa, nhưng họ sẽ trở về với rừng khi từ biệt cõi đời. Lễ Bỏ mả tức là nghi lễ giao con người lại cho rừng, trả về lại với mẹ rừng. Khi sáng tác về Tây Nguyên, các tác giả luôn có ý thức xây dựng bức tranh văn hóa lấy rừng làm nền. Rừng hiện lên khá phong phú, sinh động, hấp dẫn và trong sự gắn bó thiết thân với con người. Dường như rừng không phải là đối tượng miêu tả tồn tại bên ngoài mà luôn đồng hiện trong ý thức nghệ thuật của các nhà văn, bên cạnh ý thức về con người. Bởi vậy rừng luôn là “nhân vật chính” trong thế giới nghệ, nó giữ một vai trò rất quan trọng trong nội dung tư tưởng của tác phẩm. Rừng không phải chỉ như là một phương tiện nghệ thuật để làm nổi bật con người; rừng còn là biểu tượng cho khát vọng tự do, cho sức mạnh vô biên của con người Tây Nguyên. Nhưng cao hơn và quan trọng hơn, rừng là biểu tượng cho sự trong sạch và cao quí mà con người luôn khát khao đạt đến. Nhưng giá trị cao đẹp ấy sẽ đi về đâu khi rừng Tây Nguyên đã bị tàn phá nặng nề. Người Tây Nguyên chỉ biết “ngơ ngẩn” nhìn rừng thân yêu bị những phương tiện hiện đại tàn phá. Trong truyện ngắn Làng Mô, nhà văn Thu Loan chua xót: “Cánh rừng thâm u xưa kia giờ chói chang nắng, chỉ còn những vạt cỏ dày, những đám cây dại thấp lè tè, không một tiếng động của rừng, nhịp sinh sôi của muông thú, mùi hương của cỏ cây”[41, tr. 274]. Rừng chảy máu, rừng oằn oại cùng những âm thanh thảng thốt của tiếng máy cưa, máy ủi: - Hỡi lũ làng! Các người phạm tội chết. Ta nghe rừng đang nổi giận ầm ầm kia. - Không phải đâu già ơi. Người ta ngả cây. Cây đổ đằng đông, đằng tây, cây đổ đằng nam, đằng bắc, cây to cây nhỏ, cây lớn cây bé, chặt tuốt, đổ tuốt [41, tr.274]. 29 Là một người con của núi rừng, nhà văn H’Linh Niê cũng đau đớn nhìn những khu rừng bị chặt phá. Tâm trạng ấy được nhà văn gửi gắm qua nhân vật Y Thoan trong truyện ngắn Chim Kơrao lại hót: “Ông đã đến đó chiều nay. Trông mà xót ruột. Chỉ có trong hai ngày mà gần 6 ha rừng già cổ thụ bị những chiếc rìu chặt đổ nằm ngổn ngang, như vừa qua một trận động đất”[20, tr.53]. Sự xót xa của những nhà văn chỉ thể hiện trên những trang viết, nó làm nhói đau những người yêu rừng, yêu văn hóa Tây Nguyên. Nhưng cuộc sống cứ cuồn cuộn đi tới cuốn phăng rừng Tây Nguyên, biến những dải rừng xanh thẳm và hun hút thành những vạt đất đỏ ngầu trơ trọi gốc cây. Rừng Tây Nguyên từ Nguyên Ngọc, Vũ Hạnh đến Thu Loan, H’Niê đã biến đổi từ một cây cổ thụ thành cây cao su, cà phê. Từ ông Mết (Nguyên Ngọc), ông Chúp (Vũ Hạnh) quắc thướt, vững chãi, thăm thẳm huyền thoại biến thành thằng Nhí, thằng Gíp (Thu Loan) ốm yếu, xanh xao, đau đáu thị thành. Những nhà văn như Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy… rất bức xúc trước tình trạng tàn phá rừng khốc liệt hiện nay. Qua những trang viết đầy tinh thần trách nhiệm, họ đã chỉ ra rằng, tàn phá rừng chính là tàn phá môi trường văn hóa tồn tại hàng ngàn đời nay ở đây. Làm sao để giữ được rừng Tây Nguyên? Đó là câu hỏi, cũng là những trăn trở, những nỗi niềm của các nhà văn để lại trên những trang văn. 1.3 Làng, môi trường văn hóa chính yếu của người Tây Nguyên Tây Nguyên là khu vực cư trú của nhiều tộc người. Mỗi tộc người quần tụ thành những làng riêng biệt. Làng là những khoảnh đất được cắt ra từ rừng. Làng thường nằm ở ven sông, suối hay trên các triền núi. Nguồn nước tốt là ưu tiên hàng đầu cho việc lập làng. Làng là cách gọi của người Kinh. Các dân tộc bản địa thường gọi là plây. Ngoài ra, người Êđê, Mơnông gọi là buôn, người Jrai gọi là pơlơi, người Bana gọi là kon... Mỗi làng có một khu vực trồng trọt, luân canh rộng lớn nên khoảng cách giữa làng này với làng kia khá xa. Và toàn 30 bộ đời sống của người Tây Nguyên gói gọn trong không gian buôn làng. Giáo sư Nguyễn Tấn Đắc cho rằng: “Vì chưa có một tổ chức xã hội trên làng nên trong quá khứ, người Tây Nguyên chỉ biết có làng mà không có ý niệm về quốc gia, cho dù ở mức độ thấp và nhỏ bé”[95, tr.256]. Làng là một khối cộng đồng thống nhất bền chặt, chính sự bền chặt ấy là yếu tố quan trọng nhất để người Tây Nguyên tồn tại trước sự dữ dội của tự nhiên, trước sự xâm chiếm lại của rừng. Sự hoang vu lạnh lẽo của rừng, sự nguy hiểm của thú dữ, sự đe dọa của các tộc người khác đã cố kết các thành viên trong làng lại với nhau. Tình cảm buôn làng là một nét đẹp tạo nên một cuộc sống đầy tình thân ái, tạo nên văn hóa làng. Văn hóa Tây Nguyên khởi nguyên từ rừng và tồn tại ở làng. Làng là không gian văn hóa gần như là duy nhất, hiếm có sinh hoạt văn hóa nào vượt khỏi biên giới làng. Làng có một vị trí đặc biệt trong đời sống và trong ý thức của người dân Tây Nguyên. Bởi vậy, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Đối với người Tây Nguyên, làng là tất cả. Là đất nước, là quê hương, là xã hội, là cộng đồng khắng khít nhất và duy nhất. Con người gắn chặt với làng, hoà tan trong làng, bị đồng nhất và tự đồng nhất mình với làng. Toàn bộ đời sống của con người Tây Nguyên, vật chất và tinh thần, toàn bộ số phận con người đều gắn liền sinh tử với làng”[27, tr.69]. Do đời sống kinh tế tự cấp tự túc, môi trường lao động của người Tây Nguyên chủ yếu là ở trong rừng, ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài nên văn hóa của họ là văn hóa làng. Không gian sống của họ là: sáng lên rẫy, trưa nghỉ tại căn chòi ở rẫy, tối về làng. Khi thu hoạch mùa màng xong, đến mùa “ăn năm uống tháng” thì họ la cà trong làng, hội hè đình đám suốt ngày suốt đêm. Vẻ đẹp làng được tái hiện khá rõ trong tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên. Những câu chuyện về cuộc sống, chiến đấu của người Tây Nguyên đều xảy ra trong làng. Người đọc sẽ dễ dàng nhận ra đặc trưng của làng Tây Nguyên. Không rải rác như ở Tây Bắc, không theo từng xóm nhỏ như ở đồng bằng; làng ở đây tập trung theo từng cụm nhà ở các sườn núi, ven sông hoặc ven suối. Làng Tơ Trá treo lơ lửng trên sườn núi Ngọc Linh, làng Kông Hoa 31 nằm dưới chân núi Chư Lây, làng Xô Man nằm ẩn dưới cánh rừng xà nu, cạnh con nước lớn v.v... Hình ảnh làng Tây Nguyên đã in đậm dấu ấn trong lòng người đọc bởi diện mạo riêng của nó: “Những ngôi nhà sàn xúm xít bên nhau, nhìn xa xa như những bầy voi khổng lồ quần tụ bên bìa rừng. Mái nhà rông cao vút lộng gió như con voi đầu đàn đầy dũng khí”[41, tr. 241]. Lấy hình ảnh đàn voi để so sánh những ngôi nhà sàn, đoạn văn đã để lại một dấu ấn riêng trong lòng người đọc. Ấn tượng làng không chỉ ở những ngôi nhà sàn, nhà dài, nhà rông mà nó còn nằm giữa những bức tranh núi rừng tươi đẹp. Trong truyện ngắn Làng Mô của Thu Loan, hình ảnh làng Tây Nguyên hiện lên với những nét đặc trưng: “Làng nằm gọn trong thung lũng, có con suối chảy qua, xung quanh làng là rừng, xa xa, những đỉnh núi mờ xanh bao phủ…Ở làng Mô không có tiếng cãi cọ, chỉ có tiếng gọi nhau ơi ới ra suối lấy nước, tiếng hò hát và giã gạo trong những ngày bỏ mả, những đêm trăng”[41, tr 268]. Vẻ đẹp của tự nhiên là đối tượng yêu thích của nghệ thuật, vẻ đẹp của cuộc sống là đối tượng khám phá của văn chương. Văn xuôi viết về Tây Nguyên không thể không hướng đến vẻ đẹp làng với dáng vẻ rất riêng của nó. Và chính vẻ đẹp ấy mà nhà văn đã khái quát nên nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp gắn liền với cuộc sống buôn làng. Cuộc sống sinh hoạt làng buôn Tây Nguyên trong những trang văn luôn để lại những cảm xúc ngọt ngào của tình làng nghĩa xóm và thường làm dấy lên những tình cảm yêu thương. Yêu thương vì ta được tiếp xúc với một cuộc sống thật đầm ấm, yên vui, thắm đợm tình người. Và đôi khi cũng xót xa trước nỗi buồn hủ tục. Ở làng, người ta thường tổ chức những cuộc đi săn đầy lý thú để phục vụ cho các lễ hội, để dân làng sống lại thời nguyên sơ, và để tình cảm cộng đồng càng gắn bó nhau hơn:“Cuộc đi săn sắp được tổ chức…Núi rừng sống lại thời nguyên sơ cùng với những tiếng reo tiếng hú, tiếng chó sủa và ánh đuốc, gợi cho ta cảm hứng tuyệt vời về tự nhiên”[6, tr. 244]. Những cuộc đi săn như vậy luôn nhận được sự tham gia nhiệt tình của mọi thành viên. Sau những cuộc săn bắt ấy, phụ nữ tất bật cùng nhau nấu nướng, thanh niên sửa soạn rượu cần, các cụ già so chiêng (chỉnh thang âm của chiêng) chuẩn bị cho cuộc vui thâu đêm suốt sáng. Và sau đó là sự thăng hoa của tình làng: “…Những cánh váy hoa nhiều tua cùng với những khuôn ngực rắn chắc, săn mẩy tất bật gùi nước, gùi 32 củi, gùi niềm vui ào ào quanh những đống lửa…”[6, tr. 246]. Còn gì đẹp hơn một cuộc sống đơn sơ, giản dị nhưng nồng ấm tình người, mặn mà tình làng như thế. Một cuộc sống ít tính toán thiệt hơn, luôn hết mình với nhau, dìu nhau vào tận cùng của niềm vui, để rồi sau đó lại miệt mài nương rẫy. Có thể nói, mùa “ăn năm uống tháng” là mùa mà người Tây Nguyên có một cuộc sống khác hẳn, hoàn toàn xa lạ với sự thiếu thốn trước đó. Điều này cho thấy vì sao người Tây Nguyên sống gắn bó với làng, họ ít khi đi khỏi làng: “Con gái lớn lên lo dệt vải, lấy củi, múc nước, sau đó lo chồng con. Con trai khi lớn bằng cha lo phát rẫy, đan gùi, đi săn bắt, có ai đi xa nhà đâu”[8, tr.30]. Khi phải đi xa, trái tim họ luôn “thắt lại” với buôn làng: “Bây giờ đã cách xa rồi, rừng núi kia ơi! Y Kla tưởng như lòng mình thắt lại. Khói đã về chiều, cánh chim đầu núi, máng nước chênh vênh từ lòng hố thẳm dẫn về chân buôn…Tất cả, tất cả xa cách từ đây, nhớ nhiều lắm, khổ sở cái thân không biết chừng nào”[12, tr.202]. Nỗi niềm của cô gái Y Kla khi phải theo chồng về xuôi cũng chính là tâm trạng chung của người Tây Nguyên, vì toàn bộ cuộc sống của họ gói gọn trong làng. Và chính cuộc sống ấy đã làm nên tình yêu làng thắm thiết: “Cũng vừa lúc này, những gì quen thuộc với buôn làng đến với Hơ Giang, từ con suối, đường rẫy, cây đổ kiến vàng. Những bóng cây trên đường rẫy sau khi đi làm cỏ về cùng bạn bè ngồi thổi kèn đinh tút đinh năm. Cứ từng mùa, từng mùa chúng nó về với Hơ Giang, trói Hơ Giang lại với buôn làng của mình”[7, tr.62]. Không phải chỉ có người Tây Nguyên mới có tình yêu làng, nhưng khác với người Kinh, làng là máu thịt của người Tây Nguyên nên họ không thể bỏ làng của mình. Anh hùng Núp (Gặp lại anh hùng Núp- Nguyễn Khắc Trường), nhạc sĩ Y Dơn (Người hát rong giữa rừng- Nguyên Ngọc), ca sĩ H’Ben (Người về Kông Ch’ro-Nguyên Ngọc), họa sĩ Xu Man (Cuộc đời họa sĩ Xô Man- Trung Trung Đỉnh) đều nhẹ nhàng từ bỏ cuộc sống tiện nghi chốn thị thành để trở về với buôn làng. Vì sao vậy? Vì ở đó là máu thịt của họ, là tình yêu: “Tình yêu 33 trai gái, yêu rừng, yêu con suối đầu làng, yêu trái núi muôn đời cô quạnh, yêu con nai tơ ra ăn chồi tranh buổi sớm mờ sương…”[26, tr.198]. Đó là kỷ niệm, là sự đùm bọc nhau: “Ở đó có làng Kông Hoa nghèo khổ đốt đi làm lại không biết mấy lần rồi, nhưng cũng ở đó mới có vui, mới có tiếng đờn tơ rưng của Ghíp, tiếng kèn đing nam hòa lẫn với tiếng phụ nữ hát ở rẫy. Ở đó người làng biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau. ”[26, tr.341]. Tiếng đờn tơ rưng, kèn đing nam, tiếng cồng chiêng, tiếng suối róc rách, tiếng í ới gọi nhau đi lấy nước vào các buổi sáng của các cô gái… tất cả những âm thanh đó của buôn làng đã trở thành miền ký ức đẹp đẽ của người Tây Nguyên. Âm thanh gợi nhớ của chốn thị thành là tiếng chuông nhà thờ đổ hay tiếng rao đêm; của làng đồng bằng là tiếng mái chèo đuổi cá, là tiếng sáo diều vi vút thinh không; âm thanh da diết của làng miền núi là tiếng cồng chiêng vang vọng đêm đêm, là tiếng chày giã gạo chuyên cần của người phụ nữ mỗi sớm: “Bây giờ anh chợt hiểu ra rằng, hình như cái mà anh nhớ nhất ở làng, nỗi nhớ day dứt lòng anh suối ba năm nay chính là tiếng chày đó, tiếng chày chuyên cần rộn rã của những người đàn bà, cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa…”[26, tr.137]. Vậy đó, người Tây Nguyên có một mối ràng buộc đặc biệt với làng. Làng lọt thẳm giữa mênh mông rừng già. Mà rừng già bao giờ cũng ẩn chứa sự bí ẩn của tự nhiên, sự linh thiêng của Yàng (Thần thiện), sự ghê gớm của Caa (Thần ác) nên con người tồn tại trong ý thức tựa lưng vào nhau, trong sự kết dính đặc biệt với làng. Làng là cả thế giới của người Tây Nguyên. Nói như thế không có nghĩa là người dân không biết gì về cuộc sống của các làng bên ngoài. Trong những hoàn cảnh nhất định, họ cũng biết liên minh giữa các làng trong một vùng cư trú nhất định để tăng thêm sức mạnh. Trong tác phẩm Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, làng Kông Hoa dưới sự lãnh đạo của Núp đã đoàn kết với các làng Đê Ta, Ta Lung, Ba Lang, Hà Ro tạo thành một thế đứng vững chãi trước kẻ thù. Trong Lửa rừng của Vũ Hạnh, buôn Nước Chò đã dựa vào buôn Nước Ràng để có đủ 34 lương thực trường kỳ kháng chiến với lính Pháp…Tuy nhiên làng vẫn là tổ chức xã hội chung nhất, duy nhất, cao nhất và rõ nét nhất đối với mọi dân tộc Tây Nguyên trước đây. Nói đến văn hóa làng là nói đến tập quán của làng. Cũng như rất nhiều dân tộc khác, trong các làng vẫn thường tồn tại những tập quán tốt lẫn tập quán xấu. Tập quán tốt là chủ yếu, nhưng cũng không ít tập quán xấu mang tính chất chung của người miền núi. Không giống như Tô Hoài, Cao Duy Sơn, Đoàn Lư… viết nhiều về cuộc sống tối tăm của người Tây Bắc; Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh, Y Điêng…rất ít phản ánh những tục lệ đen của người Tây Nguyên mà chủ yếu nói lên mặt tốt đẹp trong đời sống làng của họ mà thôi. Qua những trang viết của Tô Hoài ở Vợ chồng A Phủ, chúng ta thấy hiện lên một cách khốc liệt những hủ tục của các làng miền núi Tây Bắc dưới thời phong kiến thuộc địa, như tục cho vay nặng lãi, tục cúng trình ma tàn nhẫn… Đọc những sáng tác về Tây Nguyên, chúng ta rất ít thấy những hủ tục tàn nhẫn và cảnh bất công ngang trái của những người có chức quyền gây ra cho người dân. Trong Đất nước đứng lên, Nguyên Ngọc có đề cập sơ lược đến tình trạng cúng bái của người dân Kông Hoa. Trong Mùa xuân hoa trắng, tác giả có nói đến một tập tục trả thù mù quáng. Khi bị xúc phạm, người thanh niên Bana cầm giáo lên ngồi trên một con dốc từ sáng sớm. Người đầu tiên đi qua dốc sẽ bị đâm, nhiều khi đâm trúng cả người thân của mình. Còn trong truyện ngắn Hơ Lan, anh du kích Y Thao bị giặc bắn chết, tập tục lạc hậu của người Ê đê cho rằng những cái chết như của Y Thao là trái tự nhiên, là do bị Yàng phạt nên không được đưa vào nhà để liệm. Khác với những tác phẩm viết trước năm 1990 với cảm hứng ngợi ca, các tác phẩm viết từ những năm 1990 trở về sau với khuynh hướng phê phán nên đã phán ánh nhiều hơn những tập tục lạc hậu của người Tây Nguyên. Phạm Minh Mẫn trong truyện ngắn Người của buôn làng phản ánh tục chôn chung của 35 người Jrai: “Nếu bếp nào có người chết, khi mai táng người ta phải mở nắp quan tài cũ để chèn thêm xác mới vào. Nhiều trường hợp vì quan tài hẹp, xác cũ chưa kịp tiêu hủy, những người khỏe mạnh phải đứng trên thi thể người mới chết nhấn xuống…”[41, tr.285]. Truyện ngắn Du kích núi Đănghil của Hoàng Ngọc Châu cũng đem đến cho người đọc biết tục sinh đẻ lạc hậu K’Ho: “Con ma lai rất thích ăn máu của người đàn bà sanh, nên phải che cái chòi ngoài rẫy hoang cho người đàn bà sinh để con ma lai không vào nhà được”[39, tr.90]. Vì sinh ngoài chòi rẫy không ai chăm sóc nên rất nhiều bà mẹ đã qua đời sau khi sinh. Vấn nạn ma lai cũng là nỗi kinh hoàng ở các buôn làng Tây Nguyên. Kpuih Vêl (Anh hùng cuối vận lên ngàn- Nguyễn Ngọc Tấn) vì một câu nói vô tình mà dân làng kết tội ông là ma lai. Cả làng kéo đến đập phá tan tành nhà Puih Vêl: “Cái tin Puih Vêl là con ma lai lan ra như lửa cháy tranh khô lúc gió to. Cả làng rầm rầm kéo đến…Vợ con Vêl ôm nhau run như con chim chưa biết bay bị hất ra khỏi tổ”[41, tr.361]. Ma Lai là máu và nước mắt. Đến tận hôm nay nó vẫn không thôi chảy trên những buôn làng Tây Nguyên. Bên cạnh những tập tục lạc hậu ấy, những trang văn viết về Tây Nguyên đem đến cho chúng ta nhiều phong tục lạ của các làng. Tục nối dây (chuê nuê) được biết đến nhiều nhất. Trong sử thi Đăm San, người anh hùng Đăm San lấy cô H’Nhi và H’Bhi là vì tục nối dây. Và cũng nhờ lấy hai cô gái này mà Đăm San trở thành một tù trưởng giàu mạnh, có nhiều chiêng núm chiêng bằng. Tuy nhiên đó là trong thời của sử thi. Trong cuộc sống hiện đại, bên cạnh những ý nghĩa tích cực, tục nối dây đã đem đến cho con người biết bao điều trái khoáy, phiền muộn, như một thanh niên phải lấy một phụ nữ có năm bảy đứa con, một cô gái phải lấy một ông già, thậm chí ba chị em phải tiếp nối lấy một người chồng già: “Rơ mah H’Đênh lấy hắn không phải vì tình yêu mà vì hai chị cô đã lấy hắn và đã qua đời. H’Đài, chị cả của H’Đênh chết vì ăn phải quả độc. H’Lim lấy hắn thay chị rồi chết sau khi sinh hai đứa con sinh đôi. Thế là 36 H’Đênh phải ưng hắn”[6, tr.255]. Dù chưa thật phong phú những các trang văn cũng đã đem đến cho người đọc những cảm nhận riêng về tục lệ này. Hôn nhân của người Tây Nguyên cũng có nhiều điều thú vị. Dù được thể hiện qua văn học, nhưng các nhà văn đã tái hiện rất sát với thực tế. Có thể do phong tục nên không thể hư cấu được chăng? Với truyện Hơ Giang, tác giả Y Điêng đã đem đến cho chúng ta biết một điều lạ trong phong tục hôn nhân của người Ê đê, đó là con cô con cậu có thể lấy nhau: Hơ Giang, con của cô, lấy Ma Soa, con của cậu. Khi nhà gái rước chàng rễ về nhà mình, cứ mối lần đi qua một khu rừng hay một con suối thì đám thanh niên làng của chàng trai sẽ chặn đường không cho đi để đòi nhà gái các món lễ vật: “Nếu Ma Năng tán thành cho trai làng này một con gà mái ấp thì chúng tôi sẽ cho người làng tôi đi qua khu rừng. Bằng không chúng tôi lại kéo về thôi”[7, tr.233]. Lần thứ hai họ đòi con dê đực và ché rượu, cứ thế… Khi làm lễ cưới “ trai thì chân trái, gái chân phải đè lên chiếc rìu sắt [7, tr.237-238]. Chiếc rìu sắt tượng trưng cho sự chắc chắn, vững bền. Với hành động ấy, họ mong cho tình cảm đôi lứa luôn bền vững. Tuy nhiên, hôn nhân ở đâu cũng vậy, nhiều khi đôi lứa phải chia tay nhau. Đối với nhiều dân tộc văn minh thì phải ra tòa để ly hôn, đối với các dân tộc Tây Nguyên thì rất đơn giản. Trong truyện ngắn Làng bên kia sông, Phạm Đức Long viết: “Khi bắt chồng bắt vợ, được gia đình ưng thuận, được già làng cho phép thế là làm lễ cưới nhau. Khi bỏ nhau, già làng chỉ cần bắt hai người cầm căng hai đầu một sợi dây, rồi dùng dao cắt đứt đôi là xong”[41, tr. 247- 248]. Đây là một điều thú vị trong quan niệm về hôn nhân của người Tây Nguyên. Người Tây Nguyên trong truyền thống có tục cà răng căng tai. Cà răng căng tai là dấu hiệu của một con người trưởng thành, có bản lĩnh. Dù rất đau đớn nhưng phải làm, bởi nếu không sẽ bị người làng khinh bỉ. Nhân vật BDên là một cô gái rất đẹp, nhưng khi “cô cười phô cái lợi đỏ vì cô đã cà hết dãy 37 hàm răng trên, theo phong tục, nên nom cô cứ ngồ ngộ thế nào”[5, tr.106]. Phạm Kim Anh trong truyện Chung dòng máu đỏ cũng phản ánh điều này: “Bà Haly đuổi theo nắm lấy tay, kéo ông ra trước mọi người…Bà tươi cười để lộ hai hàm răng cà sát tận lợi”[39, tr.74]. Tục kết nghĩa anh em cũng là một phong tục khá đẹp của người Tây Nguyên: “Đồng bào Ê đê ở vùng này có tục kết bạn. Đã kết bạn thì không bao giờ phản lại bạn.”[8, tr. 104]. Câu chuyện kết nghĩa của nhân vật Bình trong tiểu thuyết Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh thật ấn tượng. Bình là bộ đội chính qui, sau trận đánh bị lạc đồng đồng đội. Anh lạc vào đội du kích làng Đê Chơ Rang. Để có thể cùng sống và chiến đấu với đội, già Phới đã yêu cầu Bình ăn thề bằng cách đưa cho Bình một gộc củi đỏ rực và hỏi: “Anh Bìn! Anh có dám cho lửa ăn chỗ đùi này không?”. Bình không thể từ chối. Sau buổi ăn thề để kết nghĩa ấy, Bình trở thành người của làng. Có thể thấy bao điều kỳ thú trong những buôn làng bé nhỏ của người Tây Nguyên. Ở đó có tình yêu thương mộc mạc, chân thành. Ở đó có sự tương trợ nhau một cách vô tư trong cuộc sống. Ở đó có sự thăng hoa của tình làng trong mùa lễ hội. Ở đó có bao nhiêu phong tục độc đáo. Cũng không thiếu những câu chuyện đau lòng từ hủ tục. Nhưng bao trùm nhất vẫn là những mối quan hệ tốt đẹp chan hoà giữa người với người. Tính cộng đồng đã trở thành nếp sống truyền thống, chi phối hành vi ứng xử của mọi người, mọi gia đình. Nó cũng trở thành chuẩn mực đạo đức, nhân cách mà mọi thành viên trong cộng đồng tuân theo và hướng tới. Như vậy có thể thấy rằng, cộng đồng làng là một tổ chức thống nhất bền chặt. Trong đó mỗi cá nhân luôn là một thành viên gắn bó mật thiết với cộng đồng. Ý thức, hành vi con người cộng đồng chi phối mạnh mẽ cá nhân. Điều này là cơ sở tạo dựng tính ổn định bền vững của đơn vị làng ngay cả trong đời sống hiện đại, dù có nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp đã bị phai nhạt ít nhiều. 1.4 Nhà Rông, hồn của làng 38 Tây Nguyên hùng vĩ và thơ mộng là rừng, duyên dáng và trữ tình là làng, uy nghi và kiêu hãnh là nhà rông. Giữa núi rừng trùng điệp, giữa những mái nhà sàn nhỏ nhắn, khiêm nhường; nhà rông nổi bật lên sừng sững hiên ngang giữa làng như một chàng trai khổng lồ trong các bản trường ca bất tận. Mái nhà hình lưỡi rìu cao vút uyển chuyển và thâm trầm, nhẹ nhàng và sâu lắng, xôn xao và lặng lẽ cùng bao thế hệ con người kiên trì bám đất, bám rừng. Cột nhà, sàn nhà vững chãi cùng với bếp lửa không bao giờ tắt, cùng với những ché rượu cần không bao giờ vơi, cùng với những bản trường ca miên man năm tháng đã ôm ấp tình người Tây Nguyên với ngôi làng thân yêu của mình. Nếu làng ở vùng đồng bằng có Đình thì làng ở vùng Tây Nguyên có nhà Rông. Nhà Rông là ngôi nhà chung hay ngôi nhà làng của các dân tộc ở phía bắc Tây Nguyên. Tùy theo mỗi tộc người, nhà rông có các tên gọi khác nhau: người Bana gọi là Rông, người Xê đăng gọi là Jơng, người Giẻ triêng gọi là Ưng v.v...Khi lập làng mới, công việc đầu tiên là dựng nhà rông, những người già của làng sẽ chọn đất, thường là trên một bãi đất đẹp ở giữa làng. Và công việc cất nhà rông được tiến hành nhanh chóng trong vòng một tuần với những lễ thức hết sức thiêng liêng. Sống giữa đại ngàn hùng vĩ, cũng như nhiều thứ khác, nhà rông được làm bằng nguyên liệu tốt nhất trong rừng: cột nhà, sàn nhà làm bằng gỗ quí, vách phên là cây lồ ô, mái lợp bằng tranh săng, dây buộc bằng song mây; và chỉ bằng một dụng cụ duy nhất là cái rìu, tuyệt đối không dùng một cây đinh nào, cũng không cần đến đục, cưa, bào. Trước khi đi kiếm gỗ quí, cả làng không đi làm ba ngày, người ngoài không được vào làng; trên đường vào rừng nếu nghe tiếng chim bồ chao, tiếng mang tác, thấy rắn bò qua đường, cành cây rơi trước mắt… là điềm xấu, đoàn người phải quay về chờ hôm sau đi lại. Trước khi dựng nhà rông, già làng làm lễ chọn đất nền. Già làng đến nơi đất chọn khấn xin Yàng. Khấn xong già làng bỏ xuống bãi đất ấy bảy hạt gạo. Sáng hôm sau nếu còn đúng bảy hạt tức là Yàng đã đồng ý. Sau khi đã chọn được 39 đất, họ làm lễ dựng nhà rông. Dựng xong thì làm lễ ăn mừng nhà rông mới, đây là một nghi lễ trong đại bậc nhất của mỗi làng. Khi đã có nhà rông thì làng mới ra làng, tức nhà rông sẽ thổi hồn vào làng, làng mới trở thành văn hóa. Nhà rông được xem là linh hồn của làng bởi vai trò to lớn của nó trong cộng đồng làng. Trong bút ký Nhà rông, hồn của làng, Nguyên Ngọc viết: Nhà rông, đấy là nơi diễn ra toàn bộ đời sống cộng đồng. Nơi ngay từ tấm bé, đứa trẻ đã được theo cha hay mẹ đến dự những buổi tụ hội cả làng quanh bếp lửa, ở đó những thế hệ con người Tây Nguyên truyền cho nhau, từ đời này sang đời khác, tiếp nối không ngừng kinh nghiệm sống và làm người giữa chốn rừng núi vừa bao dung vừa dữ dội và khắc nghiệt này: cách đi săn con thú trong rừng, cách tỉa lúa trên rẫy, cách sống với rừng và với người… [27, tr.70]. Người Tây Nguyên có tính cộng đồng rất cao. Tính cộng đồng ấy chủ yếu được thể hiện dưới mái nhà rông. Sự thân thiết, gắn bó của dân làng với nhà rông còn hơn cả đình hay chùa của người Kinh vì tính đa chức năng, nhưng quan trọng hơn là trầm tích huyền ảo đầy linh thiêng của nó. Đến những buôn làng ở bắc Tây Nguyên chúng ta có thể gặp những ngôi nhà sàn tuềnh toàng của dân làng, nhưng nhà rông thì bao giờ cũng uy nghi, bề thế. Nó là biểu tượng cho sức mạnh và sự phát triển của cộng đồng trong ngôi làng. Các tộc người ở Tây Nguyên có nhà rông đều coi đây là nơi linh thiêng, nơi con người có thể tiếp xúc với các vị thần bảo hộ làng thông qua các nghi lễ, lễ hội chung của làng. Nhà rông xuất hiện rất nhiều trong tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên. Trong hiện thực cuộc sống, nhà rông là nơi diễn ra những sự kiện trọng đại của buôn làng, của đời người. Nhận ra tầm quan trọng của nhà rông, các nhà văn thường khai thác tối đa không gian nhà rông để phản ánh cuộc sống 40 chiến đấu và sinh hoạt của người Tây Nguyên, qua đó mà gửi gắm một thông điệp, khái quát một vấn đề nhân sinh hay một giá trị văn hóa nào đó. Mà cũng không thể không nói đến nhà rông khi viết về Tây Nguyên. Không gian nghệ thuật phải lấy điểm tựa từ không gian hiện thực. Nhiều khi, hai không gian ấy thống nhất với nhau, nhất là những tác phẩm mang tính hiện thực. Các sự kiện trong truyện về Tây Nguyên đều diễn ra ở buôn làng, mà nhà rông là hồn của làng nên không gian nhà rông được khái quát với rất nhiều ý nghĩa. Nhà rông trong thực tế đã rất đẹp, khi nó trở thành hình tượng văn học thì cái đẹp ấy được tôn lên rất nhiều. Các nhà văn thường có cảm hứng đặc biệt khi miêu tả nhà rông. Nhà rông hiện lên trên những trang văn với dáng vẻ uy nghi của nó: “Mái nhà rông cao vút như con voi đầu đàn đầy dũng khí”[41, tr.241]. Uy nghi nhưng cũng đầy vẻ trữ tình: “Nhà rông cao lớn, đẹp đẽ, đúng kiểu: toàn thân như một nét nhạc, một tiếng chim vút lên giữa rừng, chỉ chực bay lên, uy nghi mà nhẹ nhõm, trang nghiêm mà gần gũi”[27, tr. 11]. Hình ảnh ngôi nhà rông với mái hình lưỡi rìu cao vút cùng những nét chạm trổ khéo léo sừng sững ngay đầu làng hoặc giữa làng là niềm tự hào của dân làng. Nhà rông là trái tim của làng, là hồn làng nên phải luôn có người canh giữ. Nhà rông là nơi ngủ bắt buộc của thanh niên chưa vợ trong làng, vì đó là lực lượng xung kích sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ làng. Không phải ngẫu nhiên mà hành động bắn thằng Pháp chảy máu của Núp lại diễn ra ở nhà rông: “Chúng nó đi vào nhà rông hết rồi....Con cọp tới gần rồi. Một bước nữa thì nó thấy Núp. Cái mũi súng của nó hỉnh lên, đánh hơi. Núp chỉ còn thấy cái bụng nó. Pựt! Núp bắn rồi”[26, tr. 241]. Đây là một sự kiện vô cùng quan trọng, nó đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong nhận thức của người Kông Hoa về kẻ thù của mình. Cũng như vậy, cụ Mết (Rừng xà nu) dẫn thanh niên của làng chém bọn thằng Dục ngay tại nhà ưng: “Tiếng cụ Mết ồ ồ: “Chém! Chém hết!” Cụ Mết, đúng rồi, cụ Mết đứng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm 41 dưới lưỡi mác của cụ Mết”.[26, tr. 161]. Nhà rông là nơi bất khả xâm phạm đối với người Tây Nguyên, họ thà chết chứ không để mất nhà rông, bởi vì mất nhà rông là mất làng, là cộng đồng bị tiêu diệt. Sức mạnh của thanh niên làng Xô Man, Kông Hoa, Đê Chơ Rang, Rê Băk… là sức mạnh của ý chí cộng đồng hun đúc từ truyền thống được truyền lại qua những đêm dài kể chuyện của già làng. Tại nhà rông, Bok Sung (Đất nước đứng lên- Nguyên Ngọc) không biết bao nhiêu lần kể chuyện gươm ông Tú cho thanh niên làng nghe để khơi dậy tinh thần đoàn kết và bất khuất trước kẻ thù. Cũng trong ngôi nhà rông, cụ Xớt (Người dũng sĩ sưới chân núi Chư Pông) thường xuyên kể cho thanh niên làng nghe về “cuộc đời” của quê hương. Tại nhà rông, cụ Xớt đã trao cho Kpa Kơ Lơng những bí mật về mũi tên A-kam gia truyền để anh trả thù cho dân tộc v.v...Ai cũng biết nhà rông là biểu tượng của uy quyền tuyệt đối, là biểu hiện linh thiêng nhất của cộng đồng dân tộc, là truyền thống bất khuất hội tụ trong sự huyền bí tâm linh được truyền qua ngọn lửa không bao giờ tắt ở nơi đây. Vì vậy, những hành động có tính chất bước ngoặt: Núp bắn Pháp chảy máu, cụ Mết chém thằng Dục, cụ Xớt trao mũi tên A-kam gia truyền cho Kpa Kơ Lơng… diễn ra ở nhà rông như là sự tiếp nối của sức mạnh truyền thống, sức mạnh của truyền thuyết Gươm ông Tú, của những sử thi Đăm San, Xinh Nhã, Đăm Di, Khinh Dú... đêm đêm vẫn sống dậy trong nhà rông. Hành động ấy diễn ra ở nhà rông cũng có ý nghĩa biểu hiện cho dũng khí và lòng yêu chuộng tự do của cộng đồng làng. Dấu ấn của người anh hùng Tây Nguyên được soi sáng bởi ngọn lửa nhà rông. Văn hóa nhà rông là cội rễ, là ngọn nguồn của mọi thắng lợi của dân làng, giúp họ tồn tại và phát triển không ngừng trong môi trường có phần khắc nghiệt của tự nhiên. Nhà rông không chỉ là nơi truyền bá và thực hành những giá trị văn hóa truyền thống, nhà rông còn là nơi dân làng tiếp nhận những giá trị văn hóa mới. Tại nhà rông những đêm mưa to gió lớn, bok Sung thường kể cho con cháu 42 nghe những câu chuyện về núi, rừng, trời, đất, sông, nước...Nhưng cũng tại nhà rông, Núp giảng giải cho dân làng nghe về về bản chất xảo quyệt của kẻ thù, về cuộc kháng chiến của dân tộc, về vị lãnh tụ kính yêu, về Đảng, về Chính phủ. Tại nhà ưng, cụ Mết đã bao lần kể cho dân làng nghe câu chuyện bi tráng của anh Tnú như là một truyền thuyết của làng Xô Man. Và cũng tại nhà ưng, Tnú đã kể cho dân làng những câu chuyện đánh giặc của anh trong ba năm đi lực lượng. Có một sự vận động tiếp nối không ngừng diễn ra ở nhà rông. Tất cả đã chứng minh rằng, sự bảo lưu hay biến đổi văn hóa làng chủ yếu diễn ra ở nhà rông. Nhà rông là sự kết tụ truyền thống bất khuất của dân làng, nó cũng là nơi để người ta thể hiện nghĩa tình với nhau. Núp đã biết tận dụng không khí nhà rông để thức tỉnh dân làng Đê Ta không đi xâu cho Pháp, phân tích kỹ cho làng Ba Lang hiểu âm mưu thâm độc của Pháp trong việc chúng phát súng cho dân làng. Ngọn lửa nhà rông có sức truyền mạnh mẽ tình cảm dân làng được kết tụ từ ngàn đời, nó khơi dậy tinh thần dân tộc cùng ý thức tự do. Tư tưởng đoàn kết của Bok Hồ được Núp thực hiện thành công là nhờ vào sự kiên trì của anh, nhưng quan trọng hơn là nhờ vào “khí thiêng” của nhà rông. Trong buổi chia tay với dân làng để ra Bắc tập kết, nhà rông là nơi Núp và dân làng lưu luyến tiễn biệt nhau: “Hôm nay ngồi trong nhà rông, lũ làng vui một bữa tiễn Núp và Thế. Ngày mai sớm hai người đi rồi. Núp muốn nói chuyện nhiều nhưng không biết nói gì. Anh Thế cũng vậy. Núp nhìn Ghíp, bok Pa, Xíp, Du, bok Sung, bok Sring…[26, tr. 476]. Sau thời gian đi tập kết ra Bắc, ngày anh hùng Núp trở về, dân làng mừng vui khôn xiết, và sau đó làng tưng bừng mở hội tại nhà rông: “Khi mọi người ăn uống xong, kéo nhau đến nhà rông để đốt lửa, nhảy múa nữa, thì đã nửa đêm; nhưng không ai muốn ngủ. Đêm hôm sau, cả làng lại đến nhà rông, nhưng không hát, không múa, mà nghe Núp kể chuyện mười một năm đi xa của mình”[38, tr. 512]. Nhà rông là nơi dân 43 làng Hà Tam chào đón ông Núp về thăm: “Ông Núp kéo tôi lên nhà rông. Chỉ một lúc sau, bà con ở các nhà nghe tin ông Núp về, cũng lục tục kéo đến. Chào hỏi xôn xao...Một đống lửa đốt lên giữa nhà”[27, tr.11]. Cũng như ngọn lửa không bao giờ tắt trong nhà rông, tình cảm của đồng bào biểu hiện đẹp nhất là ở không gian nhà rông. Có thể nói nhà rông, qua những trang văn, là không gian thực sự quan trọng trong việc nuôi dưỡng tâm hồn người, trong việc hình thành bản chất tốt đẹp cũng như khí phách hiên ngang của người dân Tây Nguyên. Trong tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên, chúng ta không thấy bóng dáng của điều xấu xuất hiện trong nhà rông, nếu có thì đó là việc nghiêm trị những ai vi phạm luật tục, như trai gái quan hệ trước hôn nhân dẫn đến có thai: “Hội đồng già làng ngồi quanh chiếc ché Tuk lớn trong gian nhà khách Ama Lâm (Ở vùng Nam Tây Nguyên không có nhà rông mà chỉ có nhà dài, gian khách của nhà dài có chức năng như nhà rông). Nét mặt ai nấy đều căng thẳng ưu tư. Cũng phải thôi, lần đầu tiên trong buôn có chuyện trai gái vụng trộm khiến củ sắn phải mọc chồi, củ khoai đã nhú lên, cái lưng con gái đã cong vào”[24]. Và hình phạt cho tội ấy là chụp lên đôi trai gái cái bao vẽ mặt heo, chỉ hở hai con mắt và miệng rồi bắt bò tới ăn cám heo trong máng, sau đó đuổi vào rừng. Thường sau hình phạt như thế này, người ta sẽ chọn cái chết. Nhà rông cũng là nơi hội đồng già làng trừng phạt tội trộm cắp bằng cái chết, vì trong các tội, ăn cắp là tội nặng nhất. Nhí (Làng Mô- Thu Loan) dù là con trai của già làng, nhưng vì mắc phải tội ăn cắp nên bị giải đến nhà rông để làng trị tội: “Họ trói tay Nhí lại rồi khiêng đi, tiếng chinh chiêng nổi lên trầm trầm buồn bã. Dân làng cúi đầu đi theo. Không ai nói với ai. Họ đi về thượng nguồn sông Ayun, nơi ấy thác gầm gào, nơi ấy mọi rác rưởi bị cuốn phăng đi để nguồn nước mãi mãi trong sạch.”[41, tr. 265]. Có thể nói, không gian nhà rông là nơi thanh lọc tâm hồn con người, làm cho con người trở nên tốt đẹp hơn đối với bà con thân tộc; và trở nên gan góc mạnh mẽ hơn trước kẻ thù. Cái xấu 44 không thể tồn tại trong nhà rông. Không khí nhà rông rất linh thiêng và luôn ấm áp tình làng thông qua các lễ hội của làng. Các lễ hội có qui mô làng đều diễn ra ở nhà rông. Trong các lễ hội như vậy, con người hòa nhập tuyệt đối vào không khí nhà rông. Nhà rông uy nghiêm sừng sững như một vị thần khổng lồ đứng canh giữ cho thần dân của mình đắm chìm trong ánh lửa bập bùng huyền ảo trong miền thần thoại, trong tiếng chinh chiêng vang vọng đến tận thuở hồng hoang, trong những vòng xoang mê đắm không còn phân biệt già trẻ gái trai, trong mùi thịt nướng thơm lừng và những ché rượu cần miên man bất tận đưa mọi người vào thế giới “quên”. Quên đi mọi lo toan đói khổ, quên đi phiền muộn, quên đi mọi cách ngăn để chỉ còn lại niềm hạnh phúc nguyên sơ. Nhà rông như vậy, là nơi hội tụ diện mạo văn hóa Tây Nguyên. Linh thiêng trong việc dựng nhà và lưu giữ báu vật, nhà rông là nơi thực hành tín ngưỡng. Biểu tượng cho sự trường tồn của cộng đồng, nhà rông là nơi giữ gìn luật tục. Hội tụ sức mạnh của làng, nhà rông là nơi truyền khí anh hùng cho trai làng chiến đấu. Trung gian giữa quá khứ và hiện tại, nhà rông là nơi truyền bá giá trị văn hóa truyền thống. Nhịp cầu nối giữa hiện tại và tương lai, nhà rông là nơi tiếp nhận những giá trị văn hóa mới…Làng là “thế giới” của người Tây Nguyên. Thế giới ấy kết tinh ở nhà rông. 1.5 Cồng chiêng, hồn thiêng của núi rừng Nếu nói nhà rông là hồn của làng thì cồng chiêng là hồn thiêng của núi rừng Tây Nguyên. Không thể hình dung được con người Tây Nguyên, văn hóa Tây Nguyên sẽ như thế nào nếu thiếu cồng chiêng. Cồng chiêng là từ của người Kinh, đối với người Tây Nguyên, mỗi tộc người có cách gọi khác nhau, người Jrai, Ê đê, H’rê gọi là ching, người Bana gọi là ching chêng, người Sê đăng gọi là goong chiêng, người Mơ nông gọi goong reng, người K’ho gọi là goong kla, người Chăm H’roi gọi là kcheng v.v… Hầu hết các tộc người ở Tây Nguyên đều có cồng chiêng với rất nhiều chủng loại và số lượng. Dẫu vậy, họ không tự 45 làm ra cồng chiêng mà đi mua của người Lào, Campuchia, Chăm, Kinh…Tuy nhiên, khi mới mua, nó chưa phải là cồng chiêng thực sự, chỉ khi nào được nghệ nhân thổi vào nó âm thanh của núi rừng, buôn làng thì nó mới sống dậy và có tiếng nói của riêng mình. Tiếng nói của cồng chiêng chính là tiếng nói tâm linh, điệu thức, tiềm thức, niềm tin và cả sự sợ hãi của con người Tây Nguyên. Mỗi tộc người có một không gian tâm linh riêng nên cồng chiêng có một âm sắc riêng. Ta như nghe được cả âm thanh của núi rừng từ đoạn văn của H’Linh Niê: Hãy lắng nghe trong gió tiếng chinh cheng Bana trầm hùng như dòng Sêsan mạnh mẽ dạt dào tuôn chảy. Chiêng arap Jrai phóng khoáng như đàn ngựa hoang tung vó và rộn ràng khiến chân tay con người muốn lắc lư động đậy. Những chàng trai Sê đăng dây xa tích bạc đeo ống trầu bên hông leng keng cùng nhịp chinh cheng náo nức đưa tâm hồn con người bay lên theo biến tấu diệu kỳ của nhịp điệu bài dân ca Chim Jil đi tắm. Còn mạnh mẽ, ào ạt như những cơn gió thổi qua đồng cỏ cao nguyên là tiếng chinh char Ê đê. Khom xuống mà lắng nghe lời thủ thỉ, bụp xòa, đôi lúc lại lanh lảnh tiếng vòng đồng và các khớp ngón tay gõ lên mặt chinh K’ho, M’nông, Mạ…[24] Trong mỗi tộc người, tùy theo tính chất của sự kiện, cồng chiêng có một thông điệp riêng. Tại nhà rông hay nhà sàn, khi có tiếng chiêng vang lên là dân làng sẽ biết ở đó có chuyện gì. Gắn bó suốt một đời người nên cồng chiêng đã trở thành gió núi mây ngàn “lang thang" trên khắp núi rừng Tây Nguyên. Trên vùng đất cao nguyên mênh mông gió là mênh mang tiếng chiêng cồng, thâu đêm suốt sáng, suốt cả hai mùa mưa nắng, đậm đặc là mùa “ăn năm uống tháng”. Tiếng cồng chiêng như lời thì thầm của núi rừng, lời giục giã của thác nước, lời thôi thúc mời gọi của suối chảy, tiếng ru da diết của người mẹ, tiếng 46 réo rắt của lứa đôi, tiếng nỉ non cho một linh hồn vừa thoát… Tất cả như khuấy động lòng người, xao xuyến một điều gì đó vừa cụ thể vừa mơ hồ, vừa gần gũi vừa xa xăm đến đến tận miền sâu ký ức. Nhiều người đến với Tây Nguyên đã cảm nhận được điều này, nhất là những tâm hồn đa cảm. Có lẽ vì vậy mà trong các tác phẩm văn xuôi về Tây Nguyên, các tác giả đã thể hiện văn hóa cồng chiêng với đầy đủ giá trị, chức năng và cung bậc của nó. Tiếng cồng chiêng đã độc đáo, nhưng nó càng tuyệt diệu hơn trong tác phẩm văn chương nhờ tài năng ngôn ngữ của nhà văn, nhờ vào khả năng truyền cảm của không khí truyện. Làm sao có thể tái hiện được “không khí” Tây Nguyên nếu không nói đến cồng chiêng? Nó là diện mạo văn hóa nổi bật của từng tộc người và của cả Tây Nguyên. Không phải chỉ ở Tây Nguyên mới có cồng chiêng. Nhưng chỉ có ở Tây Nguyên cồng chiêng mới có sứ mệnh vô cùng lớn lao như vậy. Từ đời sống văn hóa thực tế và từ sự khái quát của các nhà văn, ta thấy tiếng chiêng không chỉ nhằm giao lưu với các thần linh, phương tiện thông tin đến họ hàng bè bạn, mà còn chính là tiếng nói tâm linh, là tâm hồn cao nguyên đầy trữ tình và cháy bỏng khát vọng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Người Tây Nguyên xem cồng chiêng là báu vật thiêng liêng của mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi buôn làng. Báu vật vì tính đa giá trị, đa chức năng của nó. Cồng chiêng trước hết là một thứ tài sản rất quí. Nếu ở các dân tộc khác, sự giàu sang được tính bằng vàng, tiền thì đối với người Tây Nguyên là cồng chiêng. Có nhiều bộ chiêng trong nhà, đặc biệt là chiêng cổ thì gia đình ấy không chỉ giàu sang mà còn đầy quyền uy. Bởi vì người Tây Nguyên quan niệm mỗi bộ chiêng đều có Yàng trú ngụ, chiêng càng lâu năm thì Yàng ấy càng mạnh. Yàng chiêng càng mạnh thì tiếng nói của con người với thần linh càng hiệu lực, vì chức năng lớn nhất của cồng chiêng là giao lưu với thế giới siêu nhiên. Tất nhiên, giá trị của cồng chiêng không chỉ ở khía cạnh vật chất mà quan trọng hơn là ở giá trị tinh thần, tức là ở chức năng làm chiếc cầu nối giữa con người với thần linh. Để có thể 47 giao tế với thần linh, trước tiên người ta phải thổi hồn cho chiêng, tức “lên dây” cho chiêng, còn gọi là chỉnh chiêng, so chiêng. Người có khả năng chỉnh chiêng không nhiều, mỗi làng thậm chí dăm ba làng mới có một vài người. Những người ấy luôn cho rằng chỉnh chiêng là nhiệm vụ của thần giao phó, phải chăm lo cho chiêng không bị lạc âm, sai âm bởi vì như vậy sẽ sai ý thần. Chỉ khi việc chỉnh chiêng hoàn thành, thì chiếc chiêng ấy mới thật sự có giá trị. Và từ lúc đó, mỗi khi cồng chiêng được tấu lên là con người có thể nghe được những điều không thể nói ra bằng ngôn ngữ, thần linh có thể thấu hiểu được tâm nguyện của con người; con người có thể thấy được những cái vô hình, thần linh có thể nhìn được diện mạo tinh thần của mỗi người, họ tin như vậy. Không gian, thời gian sẽ ngưng đọng khi cồng chiêng vang lên, vạn vật sẽ bị “thôi miên”. Đọc sử thi Đăm san, người ta sẽ nhớ mãi tiếng cồng chiêng: “Đánh lên! Cho tiếng chiêng lòn qua sàn xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng lọt mái nhà vang đến tận chân trời. Đánh cho khỉ quên ôm chặt cành cây, cho ma quỉ cũng quên không hại người ta. Đánh cho chuột quên đào lỗ, cho rắn nằm ngay bờ. Cho thỏ phải giật mình. Cho hươu nai ngừng nghe quên ăn cỏ”(Đăm San). Sử thi Đăm San không chỉ đẹp với lý tưởng anh hùng, với mái nhà “dài như một tiếng chiêng”… mà còn với âm thanh cồng chiêng luôn nâng tầm vóc của người tù trưởng hùng mạnh. Tiếng chiêng luôn vang lên, từ văn học cổ đến văn học hiện đại. Trong truyện ngắn Tiếng chiêng buồn, tác giả Nguyễn Văn Toàn cũng đã đưa tiếng cồng chiêng thành tiếng lòng tha thiết: “Tiếng chiêng lại ngân lên, vang đến tân rừng sâu, làm rừng sâu im tiếng, vang đến tận trời cao, làm những vì sao như mờ đi. Để chỉ còn tiếng chiêng, lúc ồn ào như thác đổ, lúc rào rạt như tiếng mưa, tiếng gió qua rừng, cứ cuộn xoáy vào nhau, tuôn chảy triền miên không dứt”[39, tr.400]. Thủ pháp điệp từ, phép thậm xưng, lối so sánh trùng điệp đã tạo nên dòng âm thanh cồng chiêng cuộn chảy rạt rào trong lòng người đọc. 48 Cách đây gần hai mươi năm, tôi từ đồng bằng khăn gói lên Tây Nguyên dạy học. Khi ấy khí hậu ở đây rất lạnh. Không khí lạnh lẽo bao trùm trong căn phòng tập thể khi về đêm. Nhưng tôi không tài nào ngủ được bởi tiếng cồng chiêng từ đâu vọng lại, lúc dồn dập, lúc khoan thai, lúc da diết, lúc nỉ non như réo rắt, như gọi mời…Một đêm, hai đêm, đêm thứ ba không chịu nổi sự thôi thúc, tôi vùng dậy đi tìm âm thanh ấy. Hơn năm cây số đường làng lấm lem bùn đất, tôi đã tìm được nơi đã phát ra âm thanh kỳ lạ đó. Trong căn nhà sàn, người ta đang tiễn đưa linh hồn người chết, mấy mươi người ngồi uống rượu cần nhưng không nói với nhau câu nào, chỉ có tiếng nói của cồng chiêng thầm thì, da diết. Và đây là âm thanh cồng chiêng tiễn biệt trong Tượng mồ đen của Thu Loan: “Lời khấn vừa dứt, dàn cồng chiêng nổi điệu pơ thi. Già Loi nghe từ xa vẳng lại những âm thanh não nề. Nghe tiếng cồng chiêng khóc người chết, gió không muốn thổi, chim không muốn bay”[17, tr.109]. Không chỉ trong tang ma, khi làm lễ Pơthi, tiếng chiêng tiễn biệt con người lần cuối: “Tiếng chiêng xoáy vào bóng đêm, trôi lang thang vô tận giữa rừng già, lặn xuống đáy dòng sông Srêpôk sâu thẳm. Âm thanh bing boong ấy không phải là tiếng than khóc, vẫn là tiếc thương, vẫn là níu kéo đấy nhưng lại lịch lãm và trang trọng dành cho sự tiễn biệt vĩnh viễn”[24]. Cồng chiêng nói hộ lòng người nỗi thương tiếc khôn nguôi khi người thân về với ông Đung bà Đai. Cồng chiêng cũng đưa lời cầu khấn của già làng trong các buổi lễ đến với thần linh. Để rồi sau đó cồng chiêng vỡ òa niềm cộng cảm của dân làng trong những vòng xoang sặc sỡ váy áo của các cô gái, trong những khuôn ngực nở nang rắn chắc của các chàng trai. Là tiếng nói của truyền thống, lời hiệu triệu của tinh thần bất khuất, cồng chiêng thúc giục trai làng vùng lên giết giặc: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên! Tiếng chiêng nổi lên…”[26, tr.162]. 49 Tiếng chiêng đã thay thế tiếng kèn xung trận mà ta vẫn thường nghe khi tái hiện những cuộc chiến ngày xưa. Bằng dũng khí của chàng Đăm San, họ đã cất cao bài ca khải hoàn. Cồng chiêng lại vang lên trong lễ mừng chiến thắng: “Ông già cầm chiếc dùi trở về ụ mối uy nghi phát lệnh…Tôi nắm đuôi khố của Bin, nhảy theo cậu, nhảy theo nhịp điệu kỳ lạ của cồng chiêng. Tất cả những gì đã diễn ra không còn ai nhớ tới nữa…Giờ chỉ có tiếng cồng chiêng và niềm vui cộng đồng”[5, tr.114]. Sức lan tỏa kỳ diệu của cồng chiêng đã biến hiện thực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthvnu0064.pdf