Tài liệu Đề tài Vấn đề giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ: Lời nói đầu
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong việc đảm bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không chỉ có nhu cầu vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy móc, các doanh nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng, trả lương cho công nhân, mở rộng sản xuất trong mùa vụ… Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ - dễ gặp phải khó khăn về vốn ngắn hạn mà không có khả năng giải quyết - do đó nhu cầu vay vốn ngắn hạn, đặc biệt là nguồn vay từ ngân hàng là rất cao.
Chính vì sự quan trọng của tín dụng ngắn hạn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ mở rộng sản xuất, kích thích tính năng động sáng tạo của chúng, các NHTM đặc biệt là...
88 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 929 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vấn đề giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong việc đảm bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không chỉ có nhu cầu vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy móc, các doanh nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng, trả lương cho công nhân, mở rộng sản xuất trong mùa vụ… Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ - dễ gặp phải khó khăn về vốn ngắn hạn mà không có khả năng giải quyết - do đó nhu cầu vay vốn ngắn hạn, đặc biệt là nguồn vay từ ngân hàng là rất cao.
Chính vì sự quan trọng của tín dụng ngắn hạn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ mở rộng sản xuất, kích thích tính năng động sáng tạo của chúng, các NHTM đặc biệt là các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội đã có những biện pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn nhằm giúp các doanh nghiệp này.
Là một chi nhánh còn khá non trẻ nhưng NHNo&PTNT Láng Hạ đã đạt được khá nhiều thành tích đáng ghi nhận. Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho Chi nhánh trước tình hình hiện nay là tỷ trọng cho vay ngắn hạn tại Chi nhánh rất nhỏ và có xu hướng giảm. Trong khi đó, địa bàn Hà Nội là nơi đông dân cư và tập trung nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ với nhu cầu vốn ngắn hạn cao. Do đó, bức xúc hiện nay của Chi nhánh là làm thế nào để mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn, từng bước giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, từ đó góp phần phát triển kinh tế, xã hội.
Nắm bắt được yêu cầu cấp thiết trên, sau thời gian thực tập tại phòng Tín dụng NHNo&PTNT Chi nhánh Láng Hạ, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ”.
Theo đó, luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận cấu gồm 3 phần chính:
Chương I: tín dụng ngắn hạn và mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại các NHTM.
Chương II: thực trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ.
Chương III: giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh láng hạ.
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Xuân Quế và các anh chị cán bộ phòng Tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ đã tận tình quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và làm luận văn.
Hà Nội, 6 - 2003
Chương I
Tín dụng ngắn hạn và mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại.
1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá ngân hàng thương mại đã ra đời và trở thành một thứ dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động một cách nhịp nhàng thông suốt. Ngân hàng thương mại đã hình thành và tồn tại như một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất lưu thông hàng hoá càng phát triển nhu cầu giao lưu giữa các vùng càng tăng, tuy nhiên do sự khác biệt giữa các vùng về tiền tệ cũng như sự khác biệt về địa lý làm nhu cầu đổi tiền cũng như gửi tiền và thanh toán hộ của các thương gia xuất hiện. Và cũng chính nhờ hoạt động nhận tiền gửi và thanh toán hộ mà những người giữ tiền đã nắm trong tay một khối lượng tiền lớn từ đó họ dễ dàng thực hiện hoạt động cho vay do tính vô danh của tiền tệ. Ngân hàng thương mại đã ra đời từ đó cùng với những nghiệp vụ cơ bản của nó, đến nay trải qua bao thăng trầm của nền kinh tế hoạt động của Ngân hàng thương mại đã mở rộng không chỉ quy mô, chất lượng mà số lượng, loại hình các dịch vụ cũng ngày càng mở rộng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Từ đó Ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế, hoạt động của Ngân hàng thương mại ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế.
Trải qua thời gian tương đối dài với những biến động của nền kinh tế, rất nhiều khái niệm về Ngân hàng thương mại đã được hình thành. Ta thấy rằng Ngân hàng thương mại được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác như:
ở Việt Nam theo sắc lệnh 018CT/LDGCQL/SL ngày 20/10/1969 của chính quyền Sài Gòn cũ cho rằng: Ngân hàng thương mại là mọi xí nghiệp công hay tư lập, kể cả những chi nhánh hay phân cục ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính với tiền ký thác của tư nhân hay chi nhánh hay chi nhánh công quyền.
Hay một cách tiếp cận Ngân hàng thương mại dựa trên những dịch vụ mà ngân hàng mang lại như Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính tiền tệ cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh tế nào trong nền kinh tế.
Theo pháp lệnh ngân hàng 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Như vậy nhìn chung từ khái niệm ta có thể thấy rằng Ngân hàng thương mại có các đặc trưng :
+ Là tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
+ Được phép nhận ký thác để cho vay, chiết khấu và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác.
Như vậy ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với với mục đích thu lợi nhuận.
Do sự bùng nổ về thông tin và công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng ngày càng được hiện đại hoá. Do đó để có thể cạnh tranh và hợp tác, hoạt động ngân hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà hoà nhập trong toàn cầu. Điều đó tạo ra một cơ hội mới cho các ngân hàng trong việc phát triển sản phẩm mở rộng thị trường nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức cho các ngân hàng trong sự cạnh tranh.
Không những vậy, căn cứ vào tính chất sở hữu và hình thức góp vốn có rất nhiều loại Ngân hàng thương mại như Ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng cổ phần, liên doanh, ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam… góp phần đa dạng hoá các loại hình ngân hàng tại Việt Nam. Từ đó thúc đẩy sự tự do cạnh tranh một cách lành mạnh, giúp các ngân hàng từng bước tự phát triển, đổi mới, mở rộng hoạt động kinh doanh.
1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh doanh tiền tệ do đó các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng đều hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này Ngân hàng thương mại trong quá trình phát triển đã không ngừng đổi mới, không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ sẵn có mà còn thường xuyên nghiên cứu nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới phục vụ nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, một Ngân hàng thương mại luôn luôn tiến hành 3 nghiệp vụ cơ bản :
Huy động vốn
Đối với hoạt động huy động vốn, đây là hoạt động “đầu vào” của ngân hàng, ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động tiền vốn nhàn rỗi tạm thời trong nền kinh tế.
Thông thường ngân hàng có các loại tiền gửi là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Để thực hiện được hoạt động huy động vốn, ngân hàng cần có một lượng vốn nhất định là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn sử dụng song nó rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Đây là cơ sở thu hút tiền gửi của khách hàng, là nguồn để trang trải rủi ro khi gặp phải trong kinh doanh và là chỉ tiêu để Ngân hàng Trung ương quản lý Ngân hàng thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn ở đây bao gồm: hoạt động cho vay, hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành bại của ngân hàng bởi đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng. Chính vì vậy đây cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh rủi ro tín dụng xảy ra, việc quản lý tiền vay được tiến hành một cách rất chặt chẽ, đặc biệt với món vay lớn, thời hạn cho vay dài. Từ đó ngân hàng phải phân chia tín dụng ra nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích dễ quản lý.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng tính lỏng cao và được coi như tiền mặt. Do đó ngân hàng phải duy trì tài sản này ở mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh lời.
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoán trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng.
Hoạt động trung gian
Hoạt động trung gian là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ liên quan như chuyển tiền, thanh toán hộ khách hàng thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng, phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng khoán, quản lý hộ tài sản, tư vấn cho doanh nghiệp…
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động ngân hàng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ mọi hướng, chính vì vậy các ngân hàng tiến tới hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau. Vì vậy các dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng ngày càng tăng thêm như: kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh, tư vấn, kinh doanh chứng khoán, dịch vụ rút tiền tự động, bảo đảm an toàn vật có giá, nghiệp vụ thuê mua,…Tất cả các nghiệp vụ đều có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ nhau một mặt thoả mãn nhu cầu của khách hàng một mặt mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
2. Tín dụng ngân hàng.
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thức xã hội khác nhau. Tín dụng là nghiệp vụ chính cơ bản nhất của các NHTM chính vì vậy những về tín dụng đã được các nhà kinh tế tìm hiểu từ rất lâu. Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra những khái niệm khác nhau về tín dụng.
Theo cách hiểu thông thường, tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể dựa trên nguyên tắc tin tưởng nhau. Trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hay tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian thoả thuận. Hay nói một cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả tại một thời điểm nhất định trong tương lai với một lượng giá trị lớn hơn.
Theo luật NHNN, tín dụng được định nghĩa như sau: “Cấu thành một nghiệp vụ tín dụng là bất cứ động tác nào qua đó người đưa hay người hứa đưa vốn cho người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này như đảm bảo, bảo chứng hay bảo lãnh có thu tiền”.
2.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng.
Như vậy, dù cách này hay cách khác, quan điểm về tín dụng đều thể hiện các nội dung sau:
Người cho vay sẽ chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Lượng giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.
Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất định sau khi hết hạn theo thoả thuận phải hoàn trả cho người cho vay.
Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
Như vậy ở đây - tiền không được bỏ ra để thanh toán hay để bán mà là để cho vay, tiền chỉ được nhượng đi với điều kiện là nó sẽ quay lại điểm xuất phát sau một thời gian nhất định - đó là đặc trưng thuộc về bản chất của ngành ngân hàng. Ngoài ra sự hoàn trả không chỉ phải bảo tồn về mặt giá trị mà còn cần có phần tăng thêm dưới hình thái lợi tức. Lợi tức về tín dụng là thu nhập người cho vay nhận được từ khoản cho vay, nó là giá cả của hàng hoá cho vay.
2.3. Phân loại tín dụng.
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất và cũng mang lại lợi nhuận chủ yếu cũng như rủi ro cho các ngân hàng. Chính vì vậy, các nhà ngân hàng luôn phải tìm ra các tiêu thức phân loại tín dụng để có thể dễ dàng quản lý, kiểm tra từ đó phòng tránh rủi ro tín dụng. Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân loại tín dụng như sau:
Căn cứ vào thời gian của khoản vay:
Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai loại: tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Đây là hình thức tín dụng thường có thời hạn dưới một năm và mục đích thường để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán tiền, hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương.
Tín dụng trung, dài hạn:
Tín dụng trung hạn: Đây là hình thức tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm. Các khoản vay thường với mục đích để đầu tư, cải tiến máy móc, trang thiết bị, đầu tư vào một ngành kinh doanh mới.Tuy nhiên các máy móc trang thiết bị này cần có thời hạn khấu hao không quá dài, hay dự án kinh doanh cần có kế hoạch thu hồi vốn sớm, để có thể kịp thời trả vốn cho ngân hàng.
Tín dụng dài hạn: Đây là các khoản tín dụng được cấp có thời hạn từ 6o tháng trở lên và cũng thường được sử dụng với mục đích xây nhà xưởng, đầu tư dây chuyền sản xuất lớn, những dự án có thời hạn thu hồi vốn dài. Tuy nhiên thời gian cho vay không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đơn vị, pháp nhân và không quá 15 năm đỗi với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Căn cứ theo hình thức bảo đảm:
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: trong trường hợp này ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh mà dựa vào uy tín của khách hàng. Những khách hàng được cấp tín dụng loại này thường là những khách hàng quen, đã có uy tín với ngân hàng về việc trả đúng và đầy đủ các khoản nợ của mình từ trước tới nay.
Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng dựa trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Tài sản dùng để thế chấp cầm cố có thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các trang thiết bị hay các tài sản hình thành từ vốn vay, vật có giá hay giấy tờ có giá. Ngoài ra, để đảm bảo cho khoản vay có thể được thực hiện bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba được ngân hàng chấp nhận.
Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Cho vay sản xuất kinh doanh: các khoản vay này thường được sử dụng để tài trợ vốn lưu động của doanh nghiệp hay tài trợ cho việc xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị, mua nguyên vật liệu
Cho vay tiêu dùng: chủ yếu phục vụ cho nhu cầu mua sắm tiêu dùng của các hộ gia đình và cá nhân như mua nhà cửa, xe máy, ô tô và các phương tiện cần thiết khác.
Căn cứ vào phương thức cho vay:
Cho vay theo hạn mức tín dụng: theo hình thức này ngân hàng và khách hàng thoả thuận và ký kết một hợp đồng hạn mức tín dụng duy trì theo thời hạn nhất định hoặc theo chu kì sản xuất kinh doanh.
Cho vay từng lần: đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng thoả thuận và ký kết hợp đồng riêng với mỗi khoản vay khi khách hàng có nhu cầu. Mỗi lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết hợp đồng sẽ được thực hiện lại từ đầu.
Cho vay từng dự án đầu tư: tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Cho vay hợp vốn: đối với những khoản vay lớn, một ngân hàng không đủ khả năng hay không được phép cho vay đòi hỏi một nhóm các TCTD cùng cho vay. Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các TCTD khác để cho vay.
Cho vay trả góp: khi vay vốn ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ thành nhiều kỳ trong hợp đồng vay.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết bảo đảm cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tuy nhiên nhiều trường hợp khách hàng cần một lượng vốn lớn hơn, do đó ngân hàng và khách hàng thường thoả thuận một hạn mức tín dụng dự phòng lớn hơn. Đồng thời khách hàng và ngân hàng thường phải quy định về thời hạn hiệu lực và mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng chấp thuận cho khách hàng đựơc sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hay điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thoả thuận bằng văn bản pháp luật chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng.
Căn cứ vào phương thức trả nợ:
Trả nợ một lần: khách hàng và ngân hàng thoả thuận sẽ trả cả lãi và gốc một lần duy nhất.
Trả nợ làm nhiều lần: ngân hàng tính toán chia khoản nợ ra thành nhiều kỳ để khách hàng có thể dễ dàng trả nợ.
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng nhiều phương thức để phân loại khác như dựa vào hình thái tiền tệ hay dựa vào đối tượng vay... từ đó để ngân hàng có thể dễ dàng trong việc quản lý tránh nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng.
2.4. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Điều hoà vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế. Ngân hàng là chiếc cầu nối giữa những người có vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế với những người cần vốn để mở rộng kinh doanh, tiêu dùng…. Trên cơ sở huy động nguồn vốn trong dân cư hay đi vay các tổ chức kinh tế khác ngân hàng tiến hành cho vay với các cá nhân, tổ chức kinh tế đang cần vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu thiếu vốn. Nhờ nguồn vốn mà ngân hàng cho vay doanh nghiệp không những đảm bảo quá trình sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại để hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ đó các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Như vậy, tín dụng ngân hàng đã biến các phương tiện hoạt động có hiệu quả, thu hút nhanh chóng các vật tư lao động, những tiềm năng sẵn có khác vào sản xuất.
Tín dụng ngân hàng giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tín dụng ngân hàng là một trong những công cụ hữu hiệu để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nếu muốn khuyến khích ngành nghề hay thành phần kinh tế nào phát triển, ngân hàng sẽ thực hiện ưu đãi tín dụng với ngành nghề hay khu vực đó. Từ đó ngân hàng sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp đó dễ dàng tiếp cận được vốn vay ngân hàng, trở thành đòn bẩy để giúp ngành nghề đó phát triển.
Để thực hiện được việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục đích đã định, các nhà ngân hàng cần phải nghiên cứu và thực thi chính sách tín dụng phù hợp để có thể tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này đang là một vấn đề hết sức quan trọng ở nước ta, trong tình trạng cơ cấu kinh tế hiện nay còn nhiều bất hợp lý. Đặc biệt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta cần phải có những biện pháp để thúc đẩy sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại, du lịch…bởi ở nước ta tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm quá lớn trong khi tỷ trọng các ngành khác còn quá thấp so với các nước trên thế giới. Để làm được điều này chính sách tín dụng đóng một vai trò hết sức quan trọng, chú trọng vào công tác tín dụng như vậy sẽ là một biện pháp để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Kích thích tính năng động linh hoạt cuả các doanh nghiệp. Trong thời đại ngày nay, khi thông tin và công nghệ thông tin thay đổi liên tục và phát triển một cách rất nhanh chóng, các doanh nghiệp luôn luôn đứng trước yêu cầu cần phải thay đổi cho phù hợp nhu cầu của thời đại. Để thực hiện được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi máy móc, kỹ thuật thay nâng cấp nhà xưởng, đổi mới sản phẩm…và ngân hàng chính là nơi cung cấp vốn trung và dài hạn tốt nhất cho các doanh nghiệp. Qua đó, ngân hàng sẽ mang đến cho doanh nghiệp cơ hội để đổi mới kích thích tính năng động của doanh nghiệp. Không chỉ vậy, tín dụng ngân hàng còn thường xuyên bổ xung vốn lưu động cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động giúp doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội đầu tư.
Tín dụng ngân hàng giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông. Qua đó tín dụng ngân hàng giúp Nhà nước tăng cường quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thông qua tín dụng, ngân hàng huy động được một lượng lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, thực hiện cho vay, đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà không cần phát hành thêm tiền mặt. Qua đó, ngân hàng còn thực hiện được nhiệm vụ điều hoà vốn giữa các vùng các ngành, các thành phần kinh tế qua đó việc quản lý, lưu thông tiền tệ sẽ được thực hiện tốt hơn. Hoạt động tín dụng càng mở rộng thì càng hạn chế phương thức thanh tóan dùng tiền mặt do ngân hàng sử dụng phương thức chuyển khoản, L/C ... từ đó giảm chi phí lưu thông tiền mặt trong nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong xu thế hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các nước trên thế giới và trong khu vực được mở rộng và phát triển đa dạng cả về chiều rộng và chiều sâu. Đây là một trong những nhân tố quan trọng tạo điều kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển trên thế giới trong đó có nước ta. Thực hiện chủ trương mở rộng hợp tác kinh tế, tăng cường các quan hệ đối ngoại do đó đầu tư vốn tín dụng thúc đẩy xuất khấu hàng hoá là mối quan tâm của các ngân hàng trong tình hình hiện nay. Ngân hàng với tư cách là tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động cho vay sẽ trở thành nền tảng, là người cung cấp vốn cho các nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Từ đó ngân hàng sẽ trở thành đòn bẩy thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu kinh tế quốc tế, là phương tiện nối liền nền kinh tế các nước.
Qua đó ta thấy, tín dụng ngân hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế, là phương tiện, công cụ Nhà nước không chỉ có thể sử dụng để quản lý, kiểm soát mà còn sử dụng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, thực hiện các chủ trương của Nhà nước.
3. Tín dụng ngắn hạn.
3.1. Khái niệm tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn là một hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại được phân theo thời gian của khoản vay. Đó là những khoản vay có thời hạn ngắn- dưới 1 năm do đó khoản vay này thường được dùng để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán hàng hoá, tài trợ, bổ xung vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương và phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
3.2. Đặc điểm.
Do nguồn vốn tín dụng ngắn hạn dùng để cung cấp vốn cho chi tiêu, mua nguyên vật liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động nên số vốn vay thường nhỏ, nguồn vốn được quay vòng nhiều. Trong khi đó đối tượng sử dụng vốn từ nguồn trung và dài hạn thường là những tài sản cố định có thời gian sử dung lâu dài vì vậy thời gian sử dụng vốn lâu, nguồn vốn không được quay vòng nhiều.
Thời hạn thu hồi vốn nhanh: do vốn tín dụng ngắn hạn thường được sử dụng để bù đắp những thiếu hụt trong ngắn hạn, để đảm bảo cân bằng ngân quỹ, giúp doanh nghiệp đối phó với những chênh lệch thu chi trong ngắn hạn... Thông thường những thiếu hụt này chỉ mang tính tạm thời hay mang tính mùa vụ, sau đó khoản thiếu hụt này sẽ được bù đắp hoặc sẽ sớm thu lại dưới hình thái tiền tệ vì vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh.
Rủi ro do tín dụng ngắn hạn mang lại thông thường không cao. Do khoản vay chỉ cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động không thể lường trước của nền kinh tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn. Ngoài ra, các khoản vay được cung cấp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa trên tài sản bảo đảm, bảo lãnh... đồng thời khoản vay thường đựơc tiến hành khi có nhu cầu cấp thiết về vốn ngắn hạn và chắc chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì vậy rủi ro mang đến thường thấp.
Lãi suất thấp: lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay trả cho nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của ngươì khác. Chính vì rủi ro mang lại của khoản vay thường không cao do đó lãi suất người đi vay phải trả thông thường nhỏ hơn lãi suất khoản vay tín dụng trung và dài hạn tương ứng.
- Hình thức tín dụng phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách hàng, để góp phần phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển các hình thức cho vay trong nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của mình. Điều đó đã làm cho các hình thức tín dụng ngắn hạn rất phong phú như: nghiệp vụ ứng trước, nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu...
- Là loại hình kinh doanh chủ yếu tại các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ đặc trưng của ngân hàng thương mại: là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, mà trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn, nên để đảm bảo khả năng thanh khoản của mình, các ngân hàng thương mại đã cho vay chủ yếu là ngắn hạn.
3.3. Các hình thức tín dụng ngắn hạn
3.3.1. Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại, trong đó ngân hàng trao cho người có trái phiếu một số tiền bằng giá trị đáo hạn của trái phiếu trừ đi một số tiền lãi, hoa hồng và một số chi phí khác. Tiền lãi tính từ ngày chiết khấu tới ngày đáo hạn trái phiếu.
Chứng từ chiết khấu có một số đặc trưng là: chứng từ có giá ; được thanh toán số tiền đúng bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu; thời hạn thanh toán là thời hạn ngắn ( 90 đến 180 ngày).
Trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng đưa cho khách hàng của mình một số tiền để sử dụng ngay và chỉ thu số tiền đó về khi trái phiếu đáo hạn. Về nguyên tắc, ngân hàng có thể nhận chiết khấu tất cả các trái phiếu nhưng thông thường ngân hàng thích nhất là hối phiếu.
Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu, khách hàng phải nộp cho ngân hàng các loại giấy tờ sau:
Đơn xin chiết khấu
Bảng kê thương phiếu kèm theo các thương phiếu xin chiết khấu.
Sau khi nhận được các hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định các mặt sau:
Tính hợp pháp, hợp lệ của các thương phiếu
Xem xét mối quan hệ thương mại của các chủ thể liên quan đến thương phiếu.
Nghiên cứu khả năng trả nợ của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là người thụ lệnh (người phải thanh toán thương phiếu) và người thụ hưởng (người xin chiết khấu).
Ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu những thương phiếu đủ điều kiện sau:
Còn thời hạn thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
Phải hợp lệ về mặt hình thức và nội dung
Đối với hối phiếu thì phải có chữ ký chấp nhận của người thụ tạo
Khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình thức ký hậu.
Sau khi thẩm định, ngân hàng loại trừ những thương phiếu không đủ điều kiện chiết khấu hay còn nghi ngờ khả năng thanh toán, rồi tính số tiền ngân hàng trả cho khách hàng theo các thương phiếu nhận chiết khấu.
Đến thời hạn thanh toán thương phiếu, ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người chịu trách nhiệm thanh toán thương phiếu. Nếu người này không thanh toán, ngân hàng có thể chọn một trong hai cách xử lý sau:
Ngân hàng có thể trích tài khoản tiền gửi thanh toán của người xin chiết khấu để thu hồi, sau đó trả lại thương phiếu để họ tự đòi nợ.
Ngân hàng tiến hành thủ tục để truy đòi số nợ: theo luật định, ngân hàng có quyền chỉ định một trong số những người tham gia ký chuyển nhượng thương phiếu để trả nợ cho ngân hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng thường chỉ định người nào có đủ khả năng tài chính nhất.
Ưu điểm và nhược điểm của nghiệp vụ chiết khấu:
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng có khá nhiều ưu điểm, đó là:
Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là khá chắc chắn.
Đây là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức với ngân hàng.
Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết khấu ngắn và ngân hàng thương mại có thể khá dễ dàng xin tái chiết khấu thương phiếu ở Ngân hàng Nhà nước.
Tiền cấp cho khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản tiền gửi của khách hàng, bởi vậy nó lại tạo nguồn vốn cho ngân hàng.
Tất cả những ai kí tên vào thương phiếu đều có trách nhiệm thanh toán và trong thực tế không một doanh nghiệp nào từ chối thanh toán do đó đây là hình thức cho vay ít rủi ro nhất.
Tuy vậy, trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thương mại vẫn có thể gặp phải rủi ro do ba nguyên nhân cơ bản sau:
Ngân hàng nhận chiết khấu những thương phiếu giả mạo.
Giấy nhận nợ luân chuyển theo dây chuyền trong đó có một khâu hỏng dẫn đến khó khăn trong thanh toán.
Công ty mẹ phát hành cho Công ty ty con nhưng Công ty mẹ phá sản.
3.3.2. Nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ
Tín dụng ngân quỹ là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn mà trong đó ngân hàng cho khách hàng vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của khách hàng và được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là ứng trước trên tài khoản hoặc thấu chi.
3.3.2.1. ứng trước trên tài khoản
ứng trước trên tài khoản là loại tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng vay tiền bằng cách mở và ứng cho họ một số tiền trên tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. Từ tài khoản đó, khách hàng có thể ký phiếu lĩnh tiền tới mức tín dụng mà ngân hàng cấp cho mình.
Nếu căn cứ vào tính chất đảm bảo thì tín dụng ứng trước bao gồm: ứng trước có đảm bảo và ứng trước không đảm bảo.
ứng trước có bảo đảm: khi nào khách hàng thực sự vay tiền thi phải thế chấp hay cầm cố một tài sản hay một giá trị làm đảm bảo nhất định cho khoản tiền vay đồng thời khách hàng phải ký một lệnh phiếu trao cho ngân hàng giữ cam kết hoàn trả số tiền đã vay vào thời điểm nhất định.
Trong trường hợp không có tài sản bảo đảm, hay tài sản bảo đảm kém giá trị khách hàng có thể nhờ một người có tài sản bảo lãnh số nợ đó bằng một tờ cam kết. Người bảo lãnh do khách hàng chọn nhưng phải được sự chấp nhận của ngân hàng.
Nếu căn cứ vào các thức sử dụng tiền vay thì tín dụng ứng trước có hai cách sử dụng tiền vay:
Sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng tiến hành cho vay theo mức cho vay đã thoả thuận, ngân hàng chuyển toàn bộ số tiền cho vay vào tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp để doanh nghiệp tuỳ ý sử dụng theo nhu cầu. Đây là cách cho vay mà các ngân hàng thường áp dụng.
Khách hàng được sử dụng dần số tiền vay trên tài khoản vay (tài khoản ứng trước). Việc sử dụng bằng cách phát hành séc để chi trả mang số hiệu tài khoản ứng trước. Khi tờ séc do khách hàng phát hành quay trở về ngân hàng thì ngân hàng trích tài khoản vay để chi trả.
Khách hàng có thể sử dụng tiền vay một hoặc nhiều lần. Nếu khách hàng phát hành séc để chi trả (mang số hiệu tài khoản vay) vượt mức cho vay đã thoả thuận thì ngân hàng áp dụng các biện pháp chế tài do phát hành séc không có tiền bảo chứng.
Đây là một trong hai hình thức tín dụng ứng trước mà các ngân hàng thương mại có thể áp dụng song không phổ biến.
Ưu, nhược điểm của loại tín dụng ứng trước
Ưu điểm:
Đối với ngân hàng: vốn ngân hàng cho vay thường không phải rút ngay một lúc vì nhu cầu vốn của khách hàng phát sinh dần dần và nếu khách hàng dùng tiền ứng trước đó vào việc thanh toán cho khách hàng khác có tài khoản tại ngân hàng ấy thì nguồn vốn của ngân hàng không bị hao hụt. Mặt khác, với cách cho vay này thì ngân hàng được hưởng một khoản lãi tính trên toàn bộ số tiền ứng trước trong suốt thời gian cho vay dù khách hàng có sử dụng hết hay không hết số tiền đó.
Đối với khách hàng: được sử dụng vốn một cách chủ động. Có thể đáp ứng tính thời vụ về vốn của họ.
Nhược điểm:
Đối với ngân hàng: loại cho vay này có rất nhiều rủi ro do ngân hàng khó kiểm soát việc sử dụng tiền vay của khách hàng.
Đối với khách hàng thì phải chịu toàn bộ lãi tính trên số tiền cho vay trong thời gian đã thoả thuận (dù thực tế họ không sử dụng hết).
3.3.2.2. Thấu chi.
Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép khách hàng được sử dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản vãng lai với một số lượng và thời hạn nhất định. Xuất phát từ việc nếu doanh nghiệp có số dư trên tài khoản tiền gửi mới được quyền chi tiêu, nhưng do một lý do nào đó mà số dư trên tài khoản tiền gửi không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Trường hợp đó ngân hàng có thể xem xét chấp nhận để khách hàng được quyền chi tiêu một số tiền vượt quá số hiện có trên tài khoản. Mục đích của ngân hàng chỉ để giúp khách hàng giải quyết khó khăn tạm thời về tài chính.
Tài khoản vãng lai là tài khoản có tính chất đặc biệt, trong đó khách hàng và ngân hàng cam kết trả nợ lẫn nhau bằng phương pháp bù trừ. Với những tài khoản tiền gửi khác, khách hàng chỉ được phép sử dụng trong giới hạn số dư có của tài khoản đó, nếu sử dụng quá số tiền trên là vi phạm vì phát hành séc không có hay thiếu tiền bảo chứng. Song đối với tài khoản vãng lai, giữa ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận cho phép tài khoản dư có hoặc dư nợ, số dư nợ được hai bên thoả thuận đến một giới hạn tối đa nào đó (hạn mức dư nợ), quá hạn mức này thì các tờ séc của khách hàng bị coi như thiếu hay không có bảo chứng.
Như vậy, nếu tài khoản dư có thì số dư đó thể hiện tiền gửi của khách hàng ở ngân hàng và thông thường ngân hàng phải trả cho khách hàng lãi tiền gửi. Nếu tài khoản dư nợ thì số nợ đó thể hiện tiền ngân hàng cho vay và khách hàng phải trả lãi tiền vay cho ngân hàng.
Điều kiện đi vay của khách hàng:
Đơn vị có tình hình tài chính tốt.
Nhu cầu chi tiêu đó thực sự là bức bách và không quá lớn như nhu cầu trả lương cho cán bộ công nhân viên.
Khách hàng cần chứng minh được là sẽ có nguồn thu để trả
Qua phần trình bày trên, ta thấy tín dụng thấu chi có các đặc điểm sau:
Giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng để khách hàng được sử dụng số dư nợ trên tài khoản vãng lai trong một thời hạn nhất định.
Khách hàng sử dụng vốn bằng cách phát hành séc mang số hiệu tài khoản vãng lai hoặc bằng các công cụ thanh toán khác.
Doanh số cho vay có thể lớn hơn hạn mức nếu trong quá trình sử dụng tiền trên tài khoản khách hàng có tiền nộp vào bên có.
Hạn mức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận với nhau chưa phải là tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (có xuất hiện dư nợ của tài khoản vãng lai) mới được coi là ngân hàng cho vay và được tính tiền lãi trên số dư nợ đó.
Vượt chi tài khoản là kỹ thuật cho vay mà số dư nợ thường xuyên biến động vì thế khó thực hiện được đảm bảo tín dụng bằng hình thức bảo đảm đối vật.
Ưu nhược điểm của loại tín dụng vượt chi tài khoản
Đối với khách hàng loại tín dụng vượt chi là khoản tạo cho khách hàng những thuận lợi đáng kể nhờ vào sự chủ động, linh hoạt khi sử dụng. Việc cho phép vượt chi trên tài khoản vãng lai giúp cho việc cân đối ngân quỹ mà tránh phải đi xin vay nhiều lần với thủ tục phức tạp trong một kỳ, khi mà ngay sau đó lại có những khoản thu được chuyển vào tài khoản để giảm bớt việc phải trả lãi cho ngân hàng.
Do tính chủ động và linh hoạt như vậy mà tín dụng vượt chi tài khoản đáp ứng được yêu cầu của những doanh nghiệp mong muốn quản lý vốn có hiệu quả, do đó hầu hết các doanh nghiệp có yêu cầu sử dụng hình thức tín dụng này nhằm điều hoà thường xuyên ngân quỹ của họ.
Với hình thức tín dụng này, ngân hàng luôn luôn phải dự trữ vốn để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng khi họ còn hạn mức tín dụng, nhưng trên thực tế họ có thể không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức tín dụng đó. Trong khi ấy, ngân hàng không được tính lãi trên toàn bộ số tiền và thời hạn cho vay đã thoả thuận (để giải quyết mâu thuẫn này các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải trả một khoản phí cam kết theo một tỷ lệ nhất định tính trên hạn mức tín dụng, không kể đến việc hạn mức tín dụng đó được sử dụng như thế nào).
Mặt khác, tiền ngân hàng cho vay không nhằm mục đích cụ thể nào theo chỉ định của ngân hàng mà thường do khách hàng tuỳ ý sử dụng. Các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, ngân hàng khó có thể kiểm soát được việc sử dụng tiền vay. Vì vậy, sự rủi ro của ngân hàng có thể nhiều hơn các nghiệp vụ tín dụng khác. Từ những nhược điểm trên mà ngân hàng thường áp dụng hình thức tín dụng này đối với những khách hàng quen thuộc, có tín nhiệm và ngân hàng có ý muốn giúp đỡ mà thôi.
3.4. Nhu cầu tín dụng ngắn hạn.
Trong giai đoạn quá độ hiện nay, hơn 90% số doanh nghiệp kinh doanh trên nước ta là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, lượng vốn tự có của doanh nghiệp không cao do đó doanh nghiệp rất dễ mắc phải những khó khăn dưới đây dẫn đến nhu cầu vay các khoản ngắn hạn.
Trong chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp, ban đầu tiền mặt được sử dụng để mua nguyên liệu dự trữ, bán thành phẩm hoặc thành phẩm; hàng hoá được sản xuất hoặc dự trữ để bán sau đó được bán ra (thường là bán chịu) ; cuối cùng là thu tiền mặt về. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể tránh khỏi có sự lệch pha giữa thời hạn thanh toán tiền hàng của khách hàng và thời gian mua nguyên vật liệu để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Chính vì vậy, doanh nghiệp thường phải vay vốn ngân hàng để đáp ứng sự thiếu hụt tiền mặt tạm thời này. Do đó khoản vay cũng thường đựơc đảm bảo bằng khoản sẽ thu hay hàng tồn kho.
Doanh nghiệp có khó khăn tạm thời về tài chính: doanh nghiệp cần tiền để thanh toán nhưng lại không có chứng từ để phản ánh mối quan hệ mua bán chịu đó trong khi đó số dư trên tài khoản của họ không đủ chi tiêu khi đó doanh nghiệp rất cần các khoản vay ngắn hạn để giải quýêt những khó khăn này. Trường hợp này xảy ra khi đến kỳ trả lương cho nhân viên, phải trả nợ thiếu của khách hàng, thông thường các khoản này không quá lớn và ngân hàng có thể xem xét cho khách hàng chi vượt.
Doanh nghiệp có một lượng tài sản dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong tương lai gần, lượng tài sản này gây trở ngại làm ứ đọng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, trường hợp này doanh nghiệp muốn sử dụng lượng tài sản này để xin vay giải quyết khó khăn về vốn do lượng tài sản này gây ra.
Vào mùa kinh doanh sản phẩm của mình doanh nghiệp cần mở rộng quy mô, gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn đầu tư mở rộng. Khi nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường được dự đoán tăng cao nhưng doanh nghiệp hiện thời thiếu vốn để mở rộng…
3.5. Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều rộng, thúc đẩy mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những vai trò quan trọng nhất của tín dụng ngắn hạn. Thông qua việc cung cấp vốn tín dụng để mua nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tín dụng ngắn hạn góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Nước ta đang trên đà CNH- HĐH, tuy nhiên do đặc điểm nước ta nền kinh tế vẫn đang trong giai đoạn quá độ vì vậy sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu- các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 90% tổng số các doanh nghiệp. Đặc điểm chủ yếu của loại hình doanh nghiệp này lại là sản xuất nhỏ, nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, hoạt động kinh doanh lại gắn với địa phương và theo mùa vụ. Chính vì vậy, nhu cầu vay vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp này là khá lớn và thường xuyên. Đảm bảo cung cấp vốn tín dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp chính là giúp các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất từ đó có thêm nguồn vốn đầu tư vào kinh doanh dần dần trở thành các doanh nghiệp với quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
Kích thích tính năng động, linh hoạt, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp: Tín dụng ngắn hạn là nguồn cung cấp vốn kịp thời cho các nhà kinh doanh trong trường hợp họ gặp khó khăn về vốn tạm thời như: muốn mở rộng sản xuất vào mùa vụ, cần trả tiền cho khách để giữ uy tín, trả lương cho công nhân... từ đó giúp doanh nghiệp có thể đối phó với những khó khăn về vốn, giữ cân bằng thu chi, điều hoà vốn. Ngoài ra vốn tín dụng ngắn hạn chỉ cung cấp trong một thời gian ngắn do đó đòi hỏi doanh nghiệp cần đẩy nhanh tiến độ sản xuất kinh doanh – kích thích tính năng động của các doanh nghiệp.
Giúp tăng nhanh vòng quay của vốn: do tín dụng ngắn hạn là khoản tín dụng cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp nhanh chóng thu hồi vốn để trả nợ ngân hàng qua đó thúc đẩy gia tăng vòng quay vốn.
4. Mở rộng hoạt động tín dụng.
4.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Những năm 70 khi hầu hết các NHTM trên thế giới đều chịu sự quản lý hết sức chặt chẽ của chính phủ thông qua việc ấn định lãi suất tiền gửi, hạn chế mở chi nhánh, giới hạn mức cho vay tối đa, giới hạn phạm vi hoạt động… Các ngân hàng không phải đối phó với những thay đổi đột xuất trên thị trường, nên yên tâm hoạt động không cần quan tâm đến nhu cầu của khách hàng. Chính phủ khống chế sao cho “chiếc bánh thị trường” luôn đủ no cho các NHTM. Do đó các ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc yên tâm bán cái mình có. Tuy nhiên, sau thời kỳ trên, nhằm tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách mới…tất cả đã tạo nên không khí cạnh tranh sôi nổi, buộc các ngân hàng phải quan tâm tới thị trường, khách hàng nếu muốn mở rộng tín dụng, muốn tồn tại.
Ngoài những yếu tố mang tính khách quan tác động đến quy mô và cơ cấu khoản vay như vị trí địa lý của ngân hàng, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, quy mô, cơ cấu ngân hàng… thì những vấn đề bên trong ngân hàng như chính sách khách hàng, dịch vụ ngân hàng cung cấp, công tác thông tin tuyên truyền, mở rộng mạng lưới… là những nhân tố đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng hoạt động tín dụng. Mục tiêu cuối cùng của các chính sách đó chính là nhằm thoả mãn một cách tối đa nhu cầu của khách hàng, qua đó thu hút khách hàng quan hệ tín dụng với ngân hàng. Đó cũng chính là mục tiêu của hoạt động Marketing.
Chính vì vậy, để thực hiện tốt chính sách khách hàng, công tác mở rộng mạng lưới, thông tin tuyên truyền thì ngân hàng cần nhất phải chú trọng công tác Marketing ngân hàng - đó là công cụ hữu hiệu nhất để nâng cao sức mạnh cạnh tranh, để chiến thắng đối thủ cạnh tranh, mở rộng các đối tượng và quy mô vay vốn của khách hàng.
4.2. Nội dung của Marketing tín dụng.
Nội dung của Marketing tín dụng tập trung vào 4 vấn đề chính: Chính sách về sản phẩm, chính sách về giá cả, chính sách về phân phối và chính sách tuyên truyền quảng cáo.
4.2.1. Chính sách về sản phẩm tín dụng
Cụ thể là nghiên cứu các hình thức tín dụng, mỗi hình thức cho vay là một sản phẩm cụ thể. Nội dung của chính sách này phải giải quyết được câu hỏi: Khả năng thích ứng của các hình thức tín dụng hiện tại đối với nhu cầu thị trường ở mức nào? Định hướng cải tiến đổi mới hình thức tín dụng cũ và phát triển ra đời các hình thức tín dụng mới. Ngân hàng cần tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng với chất lượng cao để khách hàng lựa chọn.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngoài hai thuộc tính như những hàng hoá, dịch vụ thông thường, nó còn mang những nét đặc thù riêng biệt bởi lẽ ngân hàng không chỉ hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà còn nhiệm vụ quan trọng khác là ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế, kiểm soát lạm phát tạo đà tăng trưởng kinh tế. Sản phẩm của ngân hàng thường đơn điệu- bao gồm những nghiệp vụ cơ bản- và có tính xã hội hoá và tính công cộng cao do tất cả các ngân hàng đều kinh doanh những sản phẩm này. Tuy nhiên hoạt động của ngân hàng lại phải chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, phải hoạt động trong hành lang hẹp của pháp luật. Cho nên, ngân hàng phải có chính sách sản phẩm tốt và phù hợp bằng những biện pháp như:
Hoàn thiện và củng cố chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có
Phát triển sản phẩm mới, cần đưa ra thị trường những sản phẩm thay thế khi thấy đủ điều kiện và ở thời điểm thích hợp, chọn cách đưa sản phẩm mới vào thị trường hợp lý.
Thường xuyên đánh giá, phân tích sản phẩm dịch vụ để tìm kiếm lợi ích riêng có của sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Luôn gắn biểu tượng, hình ảnh tốt của ngân hàng mình trong các sản phẩm dịch vụ chung ứng cho khách hàng.
Việc phát triển hình ảnh của sản phẩm doanh nghiệp ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng. Đi đôi với nó là sự phát triển và duy trì nhóm sản phẩm doanh nghiệp thích hợp trên cơ sở tập hợp những yêu cầu của khách hàng; nhóm sản phẩm dịch vụ đó cần được theo dõi để hoàn thiện và đưa ra sản phẩm dịch vụ mới. Quá trình phát triển sản phẩm dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng có xu hướng tập trung vào việc hoàn thiện những sản phẩm dịch vụ hiện tại và phát triển sản phẩm dịch vụ mới.
4.2.2. Chính sách về giá cả (lãi suất cho vay)
Giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng là số tiền mà khách hàng hay ngân hàng phải trả để được quyền sử dụng một khoản tiền trong thời gian nhất định hoặc sử dụng các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Với các sản phẩm là các khoản tín dụng ngân hàng cung cấp ở đây thì giá cả chính là lãi suất cho vay. Chính sách giá cả cần hướng tới những mục tiêu:
Thu hút khách hàng mới và phải tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng.
Tăng doanh số hoạt động là mục tiêu quan trọng của chiến lược giá.
Chiến lược giá phải nhằm vào việc tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Định giá là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động và kết quả hoạt động của cả ngân hàng và khách hàng, đến thu nhập và mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Việc định giá sản phẩm dịch vụ ngân hàng hết sức phức tạp vì nó bị chi phối bởi nhiều nhân tố. Vì vậy, khi xây dựng chính sách giá, các ngân hàng thường phải dựa trên những căn cứ sau:
Chi phí là các nguồn lực mà ngân hàng phải bỏ ra để duy trì sự hoạt động và cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Chi phí gồm hai loại cơ bản là chi phí cố định và chi phí biến đổi. Giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng tối thiểu phải bù đắp đủ các chi phí phát sinh. Cách thức tổ chức cung ứng sản phẩm dịch vụ, chất lượng dịch vụ, trình độ kỹ thuật, chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên khác nhau sẽ dẫn đến chi phí khác nhau và cũng tạo nên sự khác biệt về giá giữa các ngân hàng. Thực tế, các ngân hàng thường gặp khó khăn trong việc xác định chính xác cơ cấu chi phí đối với từng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Vì vậy, việc định giá sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng thường hướng tới việc xác định tổng chi phí, tổng thu nhập hơn là xác định chi phí cho từng loại sản phẩm dịch vụ.
Rủi ro thực chất là các khoản chi phí tiềm ẩn. Khi rủi ro phát sinh, nó sẽ trở thành các khoản chi phí thực mà ngân hàng phải bù đắp trong quá trình hoạt động. Do vậy, định giá cho các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phải tính đến yếu tố rủi ro. Đối với các sản phẩm có rủi ro cao hơn, ngân hàng thường phải định một mức giá cao hơn và ngược lại.
Đặc điểm cầu của khách hàng. Các nhóm khách hàng khác nhau đặc điểm đường cầu khác nhau và có phản ứng khác nhau với những thay đổi của giá (có nhóm nhạy cảm nhưng có nhóm không nhạy cảm với giá). Do đó, để tối ưu hoá lợi nhuận, ngân hàng thường định giá căn cứ và sự phản ứng của khách hàng đối với giá. Đối với nhóm ít nhạy cảm, ngân hàng có thể áp dụng mức cao hơn và ngược lại.
Giá của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngân hàng phải tính tới yếu tố này khi xác định giá sản phẩm dịch vụ, vì giá là nhân tố ảnh hưởng lớn tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Nếu một ngân hàng định giá cao trong khi chất lượng sản phẩm dịch vụ không có gì vượt trội, sức hấp dẫn của sản phẩm dịch vụ lại thấp chắc chắn sẽ có nhiều khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng khác có giá kích thích hơn.
4.2.3. Chính sách phân phối.
Đây là chính sách bán hàng của ngân hàng. Nội dung chủ yếu là bán hàng cho ai và bán hàng như thế nào? Đối với ngân hàng, việc lựa chọn để bán hàng cho ai cực kỳ quan trọng vì ngân hàng chỉ bán “quyền sử dụng vốn” chứ không bán “quyền sở hữu vốn”. Do đó, nguyên tắc bán hàng là “chọn mặt gửi vàng”. Bán như thế nào là nghiên cứu tập hợp toàn bộ những phương tiện và phương pháp đưa vốn tín dụng đến khc theo các mục tiêu đã chọn.
Nhờ có chính sách phân phối mà sản phẩm dịch vụ của ngân hàng được thực hiện nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chính sách phân phối đóng vai trò tích cực trong việc nắm bắt nhu cầu của khách hàng để ngân hàng chủ động trong việc cải tiến hoàn thiện sản phẩm dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cho khách hàng.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng mang nét đặc thù rất lớn do vậy trong quá trình phân phối cũng cần có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đội ngũ nhân sự năng động, tinh nhuệ:
Nhà cửa đồ sộ, chắc chắn tạo uy tín với khách hàng, thu hút khc nhiều hơn bởi độ tin cậy vào tài sản.
Đội ngũ nhân sự năng động, nhiệt tình, kỹ thuật nghiệp vụ cao có thiện cảm với khách hàng, mức phán quyết về khối lượng dịch vụ cung ứng cho mỗi loại nhân viên ngân hàng là cần thiết, tạo niềm tin cho khách hàng.
Mạng lưới văn phòng giao dịch, chi nhánh trong phân phối cũng rất cần thiết, một địa điểm phù hợp, thuận tiện cho giao dịch sẽ tiết kiệm và đẩy nhanh tiêu thụ. Một mạng lưới rộng khắp, phân theo địa danh hành chính đôi lúc gây cản trở, lãng phí trong giao dịch ngân hàng, ngược lại một mạng lưới phân phối được nghiên cứu kỹ càng “ở đâu có nhu cầu về sản phẩm, xét thấy hiệu quả” đặt chi nhánh văn phòng giao dịch, số lượng nhân viên tuỳ thuộc vào khối lượng công việc, sự phát triển của đơn vị.... là tiết kiệm, hiệu quả. Hoạt động ngân hàng cung cấp dịch vụ tại nhà thông qua bưu điện, máy vi tính được nối mạng, đội ngũ nhân sự tận tâm hoà nhã cũng giúp cho ngân hàng phân phối sản phẩm tốt có hiệu quả. Phong cách phục vụ, thái độ phục vụ, kỹ năng ứng xử với khách hàng, mối quan hệ gia đình, bạn bè thân thuộc cũng giúp ích cho việc phân phối dịch vụ ngân hàng tốt hơn.
Hiện nay, có các cách cung cấp sản phẩm, dịch vụ như:
Các chi nhánh cung cấp tất cả các loại sản phẩm, dịch vụ, đây là cách cung cấp truyền thống yêu cầu khách hàng phải đến ngân hàng để giao dịch.
Các chi nhánh cung cấp một số dịch vụ ngân hàng đặc biệt hay chuyên biệt: Ưu điểm chi phí thấp, chuyên môn cao, chỉ cung cấp các dịch vụ có lợi nhuận cao do đó nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.
Các chi nhánh tự động hoàn toàn nhờ vào kỹ thuật điện tử: Ưu điểm nhanh chóng, phí thấp, nhưng đôi lúc mọi người cũng không tin vào máy móc lắm.
Thiết bị đầu cuối thông minh đảm bảo liên lạc giữa khách hàng và ngân hàng thông qua máy tính được nối mạng, khai thác để thực hiện các dịch vụ chuyển tiền, tín dụng thu, nhận từ ngân hàng tất cả các thông tin tư vấn, giải thích.
Các dịch vụ ngân hàng tại nhà: Thực hiện các giao dịch tại nhà thông qua hệ thông thông tin liên lạc bằng điện thoại, với sự trợ giúp đắc lực của máy tính các dịch vụ ngân hàng được xử lý, cung ứng nhanh chóng thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng mà họ không phải ra khỏi nhà.
Việc lựa chọn cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng bằng cách nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đó là đặc điểm của thị trường, tính chất của sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc điểm của môi trường kinh doanh, mức độ cạnh tranh trên thị trường, trình độ kĩ thuật công nghệ của ngân hàng, quan điểm của các nhà lãnh đạo ngân hàng, đặc biệt là nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu của khách hàng trên thị trường ngân hàng.
4.2.4. Chính sách tuyên truyền quảng cáo
Các hoạt động truyền thông làm cho công chúng hiểu rõ, đầy đủ hơn về sản phẩm dịch vụ ngân hàng giúp khách hàng có căn cứ quyết định việc lựa chọn sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. Các hoạt động quan hệ giúp các nhà ngân hàng nắm được những thông tin phản hồi từ khách hàng cả về mức độ thoả mãn và sự không hài lòng của chất lượng sản phẩm dịch vụ. Đây sẽ là căn cứ quan trọng để ngân hàng điều chỉnh sản phẩm, giá, hệ thống phân phối và các hoạt động khác cho phù hợp với nhu cầu mong muốn của khách hàng.
Trong hoạt động tín dụng, chính sách tuyên truyền quảng cáo nhằm mục đích giới thiệu các hình thức, thể loại cho vay, cơ chế, chính sách cho vay... Vấn đề này giúp ngân hàng mở rộng và phát triển các loại dịch vụ cung ứng, tạo mối quan hệ rộng lớn từng bước mở rộng thị trường, tăng sự thích ứng, tăng hiệu quả trong kinh doanh.
Như vậy, mục tiêu của chính sách tuyên truyền quảng cáo, nhằm đạt đến:
Số lượng người biết đến ngân hàng nhiều lên trong thời gian ngắn.
Số lượng sản phẩm dịch vụ tiêu thụ tăng lên, doanh thu tăng lên.
Chi phí quản lý điều hành phân bổ cho sản phẩm tiêu thụ giảm xuống, lợi nhuận tăng lên trên một đơn vị sản phẩm.
Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo phải được thực hiện thường xuyên, lựa chọn cách thức quảng cáo phù hợp:
Có thể quảng cáo thông qua ưu thế sản phẩm riêng có trên thị trường.
Quảng cáo gây ấn tượng, cảm giác mạnh, lâu quên...
Trong khi tuyên truyền, quảng cáo cấn lưu ý các vấn đề cơ bản sau:
Ngôn từ, hình ảnh, biểu tượng khi quảng cáo phải chuẩn xác, thống nhất, ngắn gọn, gây ấn tượng, dễ hiểu, dễ nhớ.
Phải phản ánh được tầm nhìn, mục tiêu chiến lược mà ngân hàng muốn đạt tới hiện tại và tương lai.
Phải giới thiệu được hình ảnh riêng biệt của ngân hàng khi tuyên truyền, quảng cáo.
Những biện pháp cơ bản của ngân hàng để đặt được mục tiêu chiến lược và tạo được hình ảnh riêng có của mình.
Phải tạo ra một phản ứng dây chuyền từ cá nhân, nhóm này sang cá nhân, nhóm khác và cứ như vậy...
Trong khi tuyên truyền về sản phẩm, dịch vụ chúng ta phải tuân thủ đầy đủ các bước mang tính hệ thống, có như vậy việc tuyên truyền mới có hiệu quả:
Xác định các mục đích của tuyên truyền hiệu quả.
Chuẩn bị thông tin tuyên truyền thật chu đáo, chuẩn xác.
Lựa chọn phương tiện thông tin tuyên truyền hợp lý
Thực hiện các phương pháp tuyên truyền thích hợp
Phân tích các kết quả của chiến lược tuyên truyền, quảng cáo.
Tất cả những vấn đề trên cho chúng ta thấy rằng chính sách tuyên truyền quảng cáo là việc làm cần thiết. Thông qua tuyên truyền quảng cáo chúng ta mau chóng thâm nhập và mở rộng thị trường, tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí mang lại lợi ích kinh tế cho mỗi ngân hàng. Thông qua mức bán, số lượng người mua, mức tăng lên của thị phần mà chúng ta có thể đánh giá chính sách tuyên truyền, quảng cáo có phù hợp hay không phù hợp....
4.3. Vai trò của Marketing ngân hàng
Với những nội dung hoạt động như trên Marketing ngân hàng có những vai trò hết sức quan trọng với hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
Trước hết, Marketing là công cụ chiến thắng các đối thủ cạnh tranh. Cơ chế thị trường là cơ chế cạnh tranh nên làm thế nào để chiến thắng các đối thủ cạnh tranh luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng. Thông qua công tác nghiên cứu thị trường, với chính sách mở rộng thị phần, và các chính sách về khách hàng của mình ngân hàng đã tổ chức thu thập được thông tin, hiểu rõ về thị trường qua đó hiểu nhu cầu của khách hàng từ đó tạo ra những sản phẩm có khả năng thoả mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng- nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. Marketing ra đời gắn liền với cạnh tranh, do đó mục tiêu chiến thắng đối thủ cạnh tranh luôn được các nhà marketing ngân hàng quan tâm. Do đó trong quá trình ra quyết định các nhà quản trị marketing luôn phải cân nhắc đến những phản ứng của khách hàng cũng như đối thủ cạnh tranh.
Marketing- công cụ hữu hiệu thu hút khách hàng. Kinh doanh trong cơ chế thị trường thì khách hàng là lực lượng nuôi sống mình, bởi vậy các nhà quản trị luôn tìm mọi cách để duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng. Mục tiêu cuối cùng của Marketing là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, chính vì vậy marketing nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, tìm cách đưa đến khách hàng những dịch vụ phù hợp nhất, nhanh nhất với giá cả hợp lý nhất; tạo cho khách hàng cảm giác thoải mái nhất khi tiến hành giao dịch; chỉ dẫn cho khách hàng tiện ích mới mà khách hàng chưa biết… Do đó marketing là công cụ hữu hiệu nhất thu hút khách hàng.
Marketing- công cụ kinh doanh hiện đại của các NHTM trong cơ chế thị trường. Với những chính sách phù hợp của Chính phủ nhằm tạo một sân chơi bình đẳng cho các NHTM đã làm thị trường trở lên sôi động hơn, cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn đòi hỏi các ngân hàng buộc lòng phải quan tâm đến thị trường, đến khách hàng thông qua việc sử dụng công cụ marketing. Sự thay đổi lớn lao trong môi trường văn hoá xã hội và công nghệ thông tin đã thúc đẩy các NHTM thừa nhận và sử dụng marketing như một một cách mạnh mẽ hơn. Các xu hướng tiêu dùng mới, sự hiểu biết của khách hàng…làm thay đổi nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng. Do đó các ngân hàng cần một công cụ mới giúp họ đối phó với thị trường một cách hợp lý hơn, đồng thời đảm bảo có thể chào bán cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất.
Marketing công cụ kết nối hoạt động của ngân hàng với thị trường. Định hướng thị trường trở thành một điều kiện tiên quyết trong kinh doanh của các ngân hàng hiện nay. Thị trường là nơi các ngân hàng có thể tìm kiếm nhu cầu khách hàng, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, tìm kiếm thông tin… qua đó thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Chương II
Thực trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ.
1. Lịch sử hình thành và ra đời NH No & PTNT chi nhánh Láng Hạ.
1.1. Sơ lược về NHNo&PTNT Việt Nam
Lịch sử phát triển nền kinh tế Việt Nam trong gần 15 năm đổi mới mở cửa cũng chính là thực tế sinh động của quá trình hình thành và phát triển NH No&PTNT Việt Nam. Ra đời từ 26/3/1998 với tên gọi là Ngân hàng phát triển nông nghiệp theo quyết định số 400/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ngày 14/11/1990 và được thành lập lại theo quyết định số 280/QĐ-NH5 ngày 15/10/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Từ đó đến nay, NH No&PTNT Việt Nam luôn bám sát các nghị quyết của Đại hội Đảng, xây dựng và triển khai các chương trình chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp thực tiễn. Chính vì vậy trên con đường đổi mới của Đảng và nhà nước, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản lý của nhà nước đồng thời NHNo&PTNT Việt Nam cũng có những bước tiến mạnh bạo và vững chắc từ một ngân hàng mang nặng tính bao cấp trở thành một ngân hàng lớn mạnh với hệ thống mạng lưới rộng khắp.
Một trong những nguyên nhân khiến ngân hàng có thể vượt qua những bước thăng trầm để đạt thành tựu như ngày nay là do ban lãnh đạo ngân hàng luôn quan tâm đến vấn đề thị trường, việc mở rộng thị phần cũng như việc nâng cấp các dịch vụ đem đến cho khách hàng. Do đó ngân hàng đã có những đóng góp to lớn trong việc thúc đẩy hoạt động của các công ty, cá nhân sản xuất kinh doanh cũng như sự lớn mạnh của nền kinh tế.
1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ.
Từ chính sách mở rộng mạng lưới của NH No&PTNT Việt Nam đặc biệt ở cả khu vực đô thị nói riêng và tình hình năm 1997 nói chung khi toàn ngành ngân hàng quyết tâm thực hiện những hoạt động nhằm chấn chỉnh hoạt động tín dụng, ngân hàng sau thanh tra nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại và uy tín của ngành. Ngày 1/8/1996 tại quy định số 334/NHNo-02 của NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh đã chính thức được thành lập và đi vào hoạt động từ 18/3/1997. Quá trình thành lập và đi vào hoạt động của chi nhánh bước đầu đã gặp phải rất nhiều khó khăn cũng như thuận lợi riêng, tuy nhiên chi nhánh trong quá trình hoạt động đã biết tận dụng, khai thác những thuận lợi, vượt qua khó khăn để khẳng định mình, đạt được những thành công đáng ghi nhận.
1.3. Nhiệm vụ, chức năng của NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ và các phòng ban.
Theo quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam ban hành theo quy định số 169/QĐ HĐBT-02 (ngày 7/9/2000) của Hội đồng quản trị NH No&PTNT Việt Nam, chi nhánh Láng Hạ là chi nhánh NHNo&PTNT loại II.
Căn cứ theo quy định này, nhiệm vụ của chi nhánh Láng Hạ được ghi trong chương II điều 9 như sau:
Huy động vốn:
- Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kì hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế và nước ngoài bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kì phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo.
- Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân khác trong và ngoài nước theo quy định của NHNo Việt Nam.
- Được phép vay vốn các tổ chức tài chính tín dụng trong nước khi Tổng giám đốc NHNo cho phép.
Cho vay:
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng Việt Nam đồng đối với cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
Kinh doanh ngoại hối: huy động vốn, cho vay mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ, NH No&PTNT Việt Nam.
Kinh doanh dịch vụ: thu chi tiền mặt, mua bán vàng bạc , máy rút tiền tự động, dịch vụ thẻ tín dụng, két sắt, nhận cất giữ, chiết khấu các loại giấy tờ có giá, thẻ thanh toán, nhận uỷ thác cho vay của tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các dịch vụ khác được NHNN và NHNo cho phép.
Cân đối điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh NHNo&PTNTtrực thuộc trên địa bàn.
Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của NHNo.
Thực hiện đầu tư dưới các hình thức: hùn vốn liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác khi được NHNo cho phép.
Làm dịch vụ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo.
Quản lý nhà khách, nhà nghỉ và đào tạo tay nghề trên địa bàn (Nếu được Tổng giám đốc NHNo giao).
Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, thi đua khen thưởng theo phân cấp uỷ quyền của NHNo.
1.4. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NH No&PTNT chi nhánh Láng Hạ.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ mà ngân hàng Trung Ương giao phó, theo tiến trình đi lên của Đảng và nhà nước, qua các thời kỳ đổi mới, hoàn thiện sao cho phù hợp tình hình mới, đến nay chi nhánh có cơ cấu phòng ban như sau:
Ban giám đốc gồm: 1 giám đốc phụ trách chung.
Ban phó giám đốc gồm: 1PGĐ phụ trách kinh doanh.
1PGĐ phụ trách Thanh toán quốc tế
1PGĐ phụ trách kế toán – ngân quỹ
Cơ cấu phòng ban bao gồm 7 phòng ban với cơ cấu tổ chức theo sơ đồ:
Hành chính quản trị
Tổ chức cán bộ & đào tạo
Kiểm tra kiểm toán nội bộ
Giám đốc
Phó GĐ kinh doanh
Tín dụng
Kế hoạch nguồn vốn
Thanh toán quốc tế
Kế toán – ngân quỹ
Phó GĐ
TTQT
Phó GĐ
KT - NQ
Từ những năm 1997 chi nhánh chỉ với nguồn nhân lực 13 người lần lượt tăng lên theo các năm theo yêu cầu đổi mới hoàn thiện và mở rộng chi nhánh đến năm 1998 là 25 người, năm 1999 là 35 người đến năm 2000 là 58 người và năm 2001 lên đến 89 người, tính đến 30/6/2002 là 125 người.
2. Thực trạng hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Láng Hạ.
Là một chi nhánh có tuổi đời còn rất trẻ, lại được sinh ra trong một thời kỳ chuyển biến mạnh của nền kinh tế, do đó trên chặng đường 5 năm chi nhánh đã gặp không ít những khó khăn cũng như thuận lợi. Tuy nhiên do tập thể cán bộ, nhân viên ngân hàng đã biết tận dụng lợi thế, vượt qua thử thách để có những bước đi đúng hướng. Nhờ đó mà trong 5 năm hoạt động thì 2 năm chi nhánh là lá cờ đầu toàn khu vực thành thị và 1 năm là lá cờ đầu cả nước.
Thông qua bảng số liệu tình hình hoạt động kinh doanh ta thấy
Bảng tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh
( Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
2002
1. Nguồn vốn
858
1143
2000
2630
3811.8
- Nội tệ
772
986
1714
2276
3299.1
- Ngoại tệ
86
157
286
354
512.7
2. Sử dụng vốn
81
521
661
1030
1500
- Ngắn hạn
61
187
164
197
501.7
- Trung & dài hạn
20
334
497
833
998.3
3. Nợ quá hạn(%)
0.074
0.06
0.024
0
0
4.Lợi nhuận
18
23
47
36.9
48
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Như vậy với những bước đi đúng hướng chi nhánh luôn đạt được những thành tích cao, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng góp phần khuyến khích sản xuất kinh doanh, tăng đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đi sâu vào từng hoạt động cụ thể của ngân hàng ta thấy.
2.1. Về hoạt động tín dụng.
2.1.1. Hoạt động huy động vốn.
Để biết được mức độ biến động vốn qua các thời điểm, ta cần xem xét hoạt động huy động vốn qua các thời điểm qua bảng sau:
tình hình biến động của nguồn vốn huy động qua các thời điểm.
(Đơn vị : tỷ đồng)
Thời điểm
Nguồn huy động
Tăng giảm so với thời điểm trước
Chênh lệch
%
31/12/1998
858
+625
268
31/12/1999
1143
+285
33
31/12/2000
2000
+857
75
31/12/2001
2630
+630
28.7
31/12/2002
3811.8
+1181.8
44.9
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, mặc dù tình hình kinh tế rất nhiều biến động nhưng qua các năm nguồn huy động đêù tăng, so với con số 202 tỷ ban đầu, năm 1997 đến nay đã gấp tới gần 20 lần qua 5 năm hoạt động đầy khó khăn. Qua đó ta có thể thấy được sức mạnh vững chắc của chi nhánh qua từng thời kỳ hoạt động.
Ta có thể phân tích cụ thể qua bảng biểu sau, về tình hình huy động vốn:
Tình hình huy động vốn qua các thời điểm
(Đơn vị : tỷ đồng)
Nguồn vốn
31/12/1998
31/12/1999
31/12/2000
31/12/2001
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
1Tiền gửi không kỳ hạn
92
10.7
353
31
425
21.1
468.5
17.8
2Tiền gửi có kỳ hạn
766
89.3
790
69
1575
78.8
2161
82.2
Tổng nguồn
858
1143
2000
2630
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2001)
Đến năm 2002 thì số lượng tiền gửi có kỳ hạn lên đến 2850,1 tỷ đồng và tiền gửi không kỳ hạn lên đến 961,7 tỷ. Đây là thuận lợi cho ngân hàng do tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ lệ không nhỏ trong các năm đặc biệt là các năm đầu giúp chi nhánh có nguồn vốn ổn định để tham gia đầu tư quay vòng vốn. Tuy nhiên tỷ lệ này đang có xu hướng giảm dần, năm 2002 vừa qua tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn có tỷ lệ cao hơn các năm (chiếm khoảng 30%) và trong đó tiền gửi thanh toán chiếm tỷ lệ đáng kể. Ngoài ra số lượng tài khoản thanh toán qua các năm không ngừng tăng đến nay đã lên đến 1800 tài khoản. Chính cũng vì khả năng huy động vốn một cách có hiệu quả này mà NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ là chi nhánh tuy mới thành lập nhưng lại đứng thứ hai trong hệ thống NH No&PTNT trên địa bàn Hà nội về khả năng huy động vốn (chiếm 36.5% trong tổng nguồn huy động tại Hà nội).
Đó là kết quả của sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ cán bộ ngân hàng đã thực hiện tốt những nội dung sau:
- Thường xuyên theo dõi chặt chẽ những biến động của thị trường nhằm đưa ra những điều chỉnh kịp thời, đặc biệt là những thay đổi về lãi suất để cạnh tranh đồng thời thực hiện việc kinh doanh đúng đắn có hiệu quả.
- Luôn củng cố và tăng cường quan hệ với các khách hàng truyền thống như các công ty Bảo hiểm, hệ thống kho bạc.. .
- Làm tốt công tác thanh toán với các công ty lớn, các bạn hàng chí cốt như công ty Xăng dầu Việt Nam, Bưu chính, Điện lực.. .và các doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90, 91.
- Mở rộng mạng lưới hoạt động, từng bước chiếm lĩnh thị trường kinh doanh, đồng thời luôn chú trọng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
- Đảm bảo công tác thu chi tiền mặt và thanh toán luôn nhanh nhạy đảm bảo an toàn,c hính xác, đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
2.1.2. Về hoạt động sử dụng vốn.
Để tiến hành được các nghiệp vụ cơ bản ngân hàng phải huy động vốn tuy nhiên vấn đề sử dụng vốn mới là khâu cuối cùng quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng qua đó thúc đẩy hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả.
Ta có thể thông qua bảng biểu sau để xem xét tình hình sử dụng vốn của chi nhánh.
Tình hình sử dụng vốn qua các thời điểm.
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
31/12/98
31/12/99
31/12/2000
31/12/2001
31/12/2002
1. Tổng dư nợ
81
521
661
1030
1500
2. Doanh số cho vay
256
748
741
1174
1543
3.Doanh số thu nợ
231
308
601
804
1073
4. Nợ quá hạn(%)
0.074
0.06
0.024
0
0
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Liên tục qua các năm, dư nợ tăng, tỷ lệ nợ quá hạn thấp dần đến năm 2001 và 2002 thì 100% dư nợ của chi nhánh là nợ lành mạnh, không có nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên trên 90% dư nợ là cho vay DNNN, tỷ lệ cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho vay tiêu dùng chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng dư nợ. Chi nhánh đã có biện pháp đẩy mạnh loại hình cho vay này như triển khai cho vay mua ô tô trả góp (chi nhánh Bà Triệu) và bứơc đầu đã đạt những kết quả khả quan.
Để đạt được kết quả như trên là do cán bộ chi nhánh đã thực hiện tốt các giải pháp đã đưa ra sau:
- Giữ củng cố tăng cường có hiệu quả quan hệ tín dụng, thanh toán tới các khách hàng truyền thống trên cơ sở thẩm định và tư vấn đối với các dự án, phương án kinh doanh khả thi, có phương án thanh toán để tiến tới lựa chọn dự án có hiệu quả.
- Thường xuyên tiếp cận các dự án lớn thuộc mục tiêu chiến lược của chính phủ, các ngành để kịp thời phối hợp cùng các đơn vị khách hàng nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp hữu hiệu phục vụ công tác đầu tư.
- Thường xuyên coi trọng công tác thẩm định và phân loại khách hàng, tiếp cận các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài để nâng cao khối lượng đầu tư trên cơ sở đảm bảo an toàn vốn.
- Rút ngắn thời gian giải quyết từng giao dịch cụ thể trên cơ sở thẩm định bảo đảm đúng chế độ tín dụng nên đã tạo điều kiện chi việc giải ngân nhanh kịp thời cung cấp vốn cho các đối tượng khách hàng.
* Nghiệp vụ bảo lãnh
Là một trong những nghiệp vụ được chi nhánh quan tâm ngay từ những ngày đầu thành lập, với phương châm an toàn, hiệu quả chi nhánh đã bảo lãnh và gây dựng được uy tín cao đối với các khách hàng. Tính đến 31/12/2001 tổng số dư các loại bảo lãnh đã lên đến 342 tỷ. Cũng chính từ nghiệp vụ này đã hỗ trợ công tác đầu tư vốn cũng như góp phần hỗ trợ tích cực cho công tác huy động vốn, tăng trưởng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng qua chi nhánh. Qua đó tạo được một khối lượng đáng kể vốn rẻ và tăng thêm nguồn thu dịch vụ.
2.2. Hoạt động kế toán - thanh toán - ngân quỹ.
2.2.1. Hoạt động kế toán – thanh toán.
Với số lượng thanh toán viên không lớn nhưng công tác thanh toán đặc biệt cho các cơ quan Bảo hiểm, tổng công ty 90, 91.. .đã được chi nhánh thực hiện một cách có hiệu quả. Con số khách mở tại khoản liên tục tăng qua các năm, từ năm 1998 với số lượng 587 tài khoản đến năm 2001 là 2400 tài khoản. Sang đến năm 2002 con số tài khoản đã lên đến 3.032 tài khoản với 605 tài khoản doanh nghiệp còn lại là tài khoản cá nhân.Mặc dù số lượng tài khoản lớn như vậy nhưng công tác thanh toán và kế toán luôn bảo đảm an toàn và kịp thời chính xác.
Kế toán liên hàng,thanh toán điện tử cũng đạt được những kết quả khả quan qua các năm. Sang đến năm 2002, tổng doanh số thanh toán đạt 80.000 tỷ bằng 125% so cùng kỳ năm 2001, doanh số thanh toán điện tử đi đạt 12.908 tăng 60%, doanh số thanh toán điện tử đến đạt 3.069 tỷ tăng 95% so với năm 2001. Trong đó doanh số thanh toán liên hàng đạt 2.254 tỷ, doanh số thanh toán bù trừ đạt 4.950 tỷ.
2.2.2. Hoạt động ngân quỹ.
Tình hình thu chi tiền mặt, ngân phiếu, ngoại tệ trong những năm qua tăng trưởng mạnh cả về lượng và về chất, nhờ uy tín trong hoạt động kinh doanh ngày càng tăng mà tình hình ngày càng khả quan thể hiện qua bảng số liệu
Tình hình thu chi tiền mặt nội tệ qua các thời điểm
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
2002
Tiền mặt nội tệ
- Thu
925
857
1526
2701
3131
- Chi
937
844
1272
2486.5
3120
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Tình hình thu chi tiền mặt ngoại tệ cũng tăng cao qua các năm, mặc dù doanh số thu chi tiền mặt lớn, bình quân tốc độ thu một ngày qua quỹ nghiệp vụ từ 4 -5 tỷ đồng và thường xuyên phải lĩnh tiền gửi từ NHNN, chi trả cho các công ty Bảo hiểm và kho bạc. Riêng tiền chi trả cho BHXH các quận trong năm 2002 đạt 736,6 tỷ đồng gấp 3,5 lần năm 2001, tuy nhiên hoàn toàn không xảy ra các trường hợp sai sót nhầm lẫn... Ngoài ra một kết quả đáng ghi nhận là năm 2002 bộ phận kiểm ngân đã trả lại cho khách hàng tổng số 478 món với số tiền là 243.689 nghìn đồng.
2.3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế (KDNT & TTQT)
Tình hình kinh tế tài chính trong chặng đường 5 năm hoạt động vừa qua có rất nhiều biến động, đặc biệt trong năm 2002 là năm cải cách về chính sách tiền tệ. Tháng 6/2002 áp dụng cơ chế lãi suất mới, các Ngân hàng Thương mại tích cực thực hiện Đề án tái cơ cấu Ngân hàng nhằm nhanh chóng hoà nhập khu vực và thế giới.. . Xem xét tình hình thu chi ngoại tệ ở bảng dưới ta thấy.
Tình hình thu chi ngoại tệ
Chỉ tiêu
Đơn vị
(triệu)
2000
2001
2002
Tỷ lệ % so với
năm 2001
Doanh số mua
USD
147
183
266
145
Doanh số bán
USD
146
182
274
151
Thu phí KDNT
VNĐ
1.500
1.100
700
64
Doanh số TTQT
USD
125
152
241
159
Phí TTQT
VNĐ
696
1.024
1.150
112
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động KDNT & TTQT)
Chi nhánh đã đạt được những bước tiến đáng kích lệ về hoạt động KDNT & TTQT như:
Về thanh toán quốc tế :
- Chi nhánh đã triển khai hoạt động TTQT tại các Chi nhánh Bà Triệu, Chi nhánh Bách Khoa nâng số đầu mối giao dịch lên 3 đầu mối và số cán bộ tín dụng từ 6 lên 14 người thanh toán viên tại các Chi nhánh.
- Doanh số TTQT tăng từ 152 triệu năm 2001 lên 241 triệu USD (kể cả các ngoại tệ khác đã quy đổi) tăng 59% so với năm 2001 và vượt mức kế hoạch 30%, qua đó tăng thêm uy tín trong hoạt động của chi nhánh.
- Số điện SWIFT chuyển ra nước ngoài trong năm 2002 đạt 1.400 bức (tăng 19% so với năm 2001) tất cả đều được thực hiện một cách an toàn, nhanh chóng và chính xác tuân thủ đúng quy trình thao tác.
- Qua quá trình thực hiện, thao tác nghiệp vụ trình độ cán bộ cũng được nâng cao.
Về kinh doanh ngoại tệ:
- Doanh số giao dịch tăng 46% so với năm 2001 và vượt 33% kế hoạch đề ra trong năm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng tạo vị thế thuận lợi cho Chi nhánh trong cạnh trạnh
Lãi thu từ hoạt động KDNT giảm chỉ đạt 64% năm 2001 do biến động về tỷ giá năm 2002 chưa tới 2% thấp hơn rất nhiều so với năm 2001 là 3,8%.
Theo quy định NH No&PTNT Việt Nam thì các chi nhánh không được phép mua bán ngoại tệ với các chi nhánh khác trong hệ thống và bán ngoại tệ ra ngoài hệ thống. Do đó các loại hình giao dịch mua bán như Forward, Swap rất hạn chế.
2.4. Kết quả kinh doanh.
Từ các năm 1999-2001 Chi nhánh luôn được Thống đốc NHNN Việt Nam, chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội tặng bằng khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh trong năm. Đặc biệt trong năm vừa qua Chi nhánh đã được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ các năm 1998-2000.
Trong suốt quá trình hoạt động Chi nhánh đã luôn nỗ lực phấn đấu vươn lên, điều đó thể hiện trong bảng dưới.
Kết quả tài chính
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng thu
56.424
100.083
128.036
171.500
210.169
Tổng chi
38.420
77.020
80.725
134.600
160.169
Quỹ thu nhập
18.004
23.018
47.311
36.900
50.000
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Trong tổng thu nội bảng thì thu lãi hoạt động tín dụng thông thường chiếm trên 90%, riêng năm 2002 chiếm đến 94,4%, thu từ dịch vụ chỉ chiếm 4,6% trong tổng thu. Trong tổng chi nội bảng thì chi cho huy động vốn là chủ yếu (chiếm khoảng 90-91%).
Quỹ lương qua các năm đều có chiều hướng ra tăng riêng năm 2001 do bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng ở mức thấp, thị trường tài chính quốc tế nhiều biến động phức tạp, đầu tư nước ngoài giảm xút…gây ảnh hưởng nhiều đến tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
2.5. Các công tác khác.
Công tác kiểm toán nội bộ.
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ tính đến 31/12/2001 có 5 người (năm 2000 là 3 người) đều có trình độ cao và đã qua công tác thực tế nhiều năm trong ngành. Trong năm 2001 tiến hành kiểm tra được 69.142 chứng từ, phát hiện 140 chứng từ sai sót chủ yếu là thiếu chữ ký của kế toán, kiểm soát nhật ký quỹ, hoàn toàn không có sai sót về nghiệp vụ. Ngoài ra các cán bộ của phòng đã tiến hành kiểm tra công tác TTQT tại chi nhánh và kiểm tra 16/18 đơn vị có quan hệ tín dụng với 152 món vay với số tiền là 463 tỷ đồng.
Công tác tổ chức cán bộ
Công tác đào tạo
Công tác tổ chức cán bộ và đào tạo luôn được chi nhánh chú trọng, số ngày được đào tạo bình quân cho một cán bộ trong năm là 39.3 ngày qua đó góp phần nâng cao kiến thức về mọi mặt cho môĩ cán bộ. Trong năm 2002 Chi nhánh đã mở 4 lớp học nghiệp vụ, 2 lớp học ngoại ngữ, tin học với tổng số ngày là 40,7 ngày/người ( do Chi nhánh tự tổ chức).
Công tác thi đua khen thưởng
Trong năm các phong trào thi đua đều được Chi nhánh hưởng ứng tham gia và đạt được kết quả cao như phong trào thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ, thi đua 2 giỏi, thi đua xây dựng ngân hàng trong sạch vững mạnh…. Hiện chi nhánh đã hoàn tất hồ sơ đề nghị Hội đồng thi đua tặng giải thưởng sao đỏ cho đồng chí giám đốc.
Công tác tin học và hiện đại hoá ngân hàng.
Tại Chi nhánh công tác đào tạo nâng cao trình độ vi tính, ngoại ngữ, nghiệp vụ luôn được duy trì thường xuyên, hiện tại Chi nhánh đã triển khai khá đầy đủ kịp thời các chương trình của Trung tâm Công nghệ thông tin như chương trình giao dịch trực tiếp thông tin báo cáo; chuyển tiền điện tử; thanh toán liên hàng; cài đặt chương trình nhập lương cho một số đơn vị có quan hệ thanh toán tin cậy với ngân hàng... Ngoài ra, Chi nhánh còn thường xuyên trang bị thêm, sửa đổi hệ thống máy tính góp phần giúp khách hàng có thể rút tiền nhanh chóng và thuận tiện.
Công tác mở rộng mạng lưới hoạt động.
Thực hiện định hướng và mục tiêu chiến lược giai đoạn 2000-2010 của Hội đồng quản trị và ban tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Trong quý III năm 2001 Chi nhánh đã có đề án và được Tổng giám đốc phê duyệt cho phép thành lập phòng giao dịch Bách khoa- là nơi địa bàn đông dân cư phát triển khá thuận tiện.
Đánh giá chung về hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Láng Hạ.
Thành công.
Sự thành công của NHNo&PTNT Việt Nam được ghi nhận trong những thành tích trong các phong trào thi đua của ngành ngân hàng như: năm 1998 và năm 1999 là lá cờ đầu khu vực Đô thị toàn quốc, ngoài ra năm 1999 Chi nhánh tiếp tục được tặng danh hiệu lá cờ đầu toàn quốc.
Sự thành công của Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ cũng như thành côn0g của cả hệ thống NH No&PTNT đã khẳng định sự đúng đắn trong chiến lược: củng cố và giữ vững thị trường nông thôn, tiếp cận nhanh và mở rộng thị trường thành thị, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đảm bảo kinh doanh đa năng, thúc đẩy phát triển nền kinh tế.
Vấn đề cần khắc phục.
Trình độ cán bộ viên chức còn bất cập so với yêu cầu của công tác kinh doanh về nhiều mặt đặc biệt về ngoại ngữ và tin học.
Công tác phối kết hợp trong mối quan hệ tác nghiệp giữa các đơn vị trong Chi nhánh còn chưa đạt kết quả cao.
Công tác tổng kết hoạt động đúc rút kinh nghiệm thực chất còn được thực hiện chưa thường xuyên do đó khó đưa ra những biện pháp hiệu quả.
3. Thực trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ.
NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ tuy là đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nhưng hoạt động cho vay của Chi nhánh không nhằm vào các hộ sản xuất nông nghiệp hay hợp tác xã mà chủ yếu là các doanh nghiệp. Để xem xét tình hình tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh ta lần lượt xem xét.
3.1. Cơ cấu cho vay.
3.1.1 Cơ cấu cho vay theo thời gian.
Bảng cơ cấu cho vay
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Dư nợ
Ngắn hạn
Trung dài hạn
DS cho vay
Ngắn hạn
Trung dài hạn
661
164
497
741
538
203
100
24.8
75.2
100
72.6
27.4
1030
197
833
1173
722
451
100
19.1
80.9
100
61.6
38.4
1500
501.7
998.3
1543
614.4
928.6
100
33.4
66.6
100
39.82
60.18
(Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ)
Nhìn vào bảng ta thấy tổng dư nợ qua các năm tăng lên liên tục từ 81 tỷ đồng năm 1998 lên đến 521 tỷ năm 1999 (gấp 6.43 lần năm 1998). Đến năm 2000 đạt 661 tỷ đồng (gấp 1.27 lần năm 1999), năm 2001 tổng dư nợ lên đến 1030 tỷ gấp 1.5 lần so với năm 2000. Đến 31/12/2002 con số này lên đến 1500 tỷ đồng và gấp 18.5 lần so với năm 1998. Điều này chứng tỏ cán bộ chi nhánh đã hết sức nỗ lực phấn đấu, vượt qua những khó khăn trong thời gian năm năm vừa qua. Ra đời trong điều kiện phải cạnh tranh với hơn 50 ngân hàng đã có từ trước trên thị trường với đầy kinh nghiệm và công nghệ hiện đại, đạt được điều này Chi nhánh đã đang và sẽ liên tục phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, ta thấy dư nợ tín dụng trung và dài hạn thì chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng qua các năm, so với năm 1998 khi mới bắt đầu hoạt động kinh doanh tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn chỉ đạt chưa tới 25% đạt 20 tỷ thì tới năm 2001 đã đạt tới 833 tỷ chiếm trên 80% dư nợ. Trong khi đó tỷ trọng cho vay ngắn hạn có xu hướng ngày càng giảm, năm 1998 dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng 75.3% đạt 61 tỷ thì đến năm 2001 tỷ trọng dư nợ ngắn hạn chỉ đạt 197 tỷ đồng chiếm 19.1% tổng dư nợ. Có hiện tượng như trên là do khách hàng chủ yếu của ngân hàng là các Tổng công ty 90, 91, do đó dư nợ trung và dài hạn phục vụ đầu tư vào cho doanh nghiệp, thực hiện các chương trình đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ nhằm tăng năng lực sản xuất là chủ yếu.
Do nằm trên vị trí địa lý thuận lợi- tập trung đông dân cư, nơi tập trung các doanh nghiệp lớn chính vì vậy Chi nhánh ngày càng củng cố và phát triển tốt mối quan hệ với các khách hàng lớn truyền thống là các tổng công ty lớn, các công ty Bảo hiểm, công ty Xăng dầu... Tuy nhiên, do trên địa bàn phần lớn là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ- nhu cầu vay vốn ngắn hạn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh lớn, đồng thời địa bàn Hà nội là nơi đông dân cư, nhu cầu vay tiêu dùng cũng không phải là nhỏ. Chính vì vậy, năm 2002 Chi nhánh đã có kế hoạch mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn, vừa kết hợp giữ vững mối quan hệ truyền thống với các tổng công ty vừa mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Do đó sang năm 2002 tỷ trọng tín dụng ngắn hạn đã đạt 501.7 tỷ đồng chiếm khoảng 30% tổng dư nợ. Kế hoạch năm 2003 Chi nhánh sẽ đạt có tỷ lệ tín dụng ngắn hạn đạt 35% tổng dư nợ.
Đối với doanh số cho vay cũng tương tự như số dư nợ: qua các năm đều có tăng tuy nhiên tỷ trọng cho vay ngắn hạn trong tổng doanh số cho vay có xu hướng giảm dần qua các năm. Điều này xảy ra là do có sự gia tăng mạnh trong cho vay trung và dài hạn cho các DNNN, các Tổng Công ty 90, 91. Nếu năm 1998 doanh số cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng là 95% thì đến năm 2000 chỉ còn trên 70% và năm 2001 là khoảng 60% và đến năm 2002 sụt xuống còn chưa đến 40% tổng doanh số cho vay. Trong khi đó tỷ trọng cho vay trung và dài hạn có xu hướng tăng dần qua các năm, từ 5% năm 1998 đến năm 2002 đã chiếm đến 60% tổng doanh số cho vay.
Mặc dù vậy ta thấy doanh số cho vay ngắn hạn từ năm 1998 đến 2001 đều có sự gia tăng đáng kể (từ 193 tỷ lên đến 722 tỷ đồng), chỉ có sự sụt giảm trong năm 2002 do tình hình tiêu thụ sản phẩm nhìn chung giảm do đó nhu cầu vốn vay ngắn hạn để mở rộng sản xuất giảm, đồng thời sự cạnh tranh gay gắt với các TCTD khác cũng làm cho doanh số cho vay ngắn hạn của Chi nhánh giảm.
3.1.2. Cơ cấu cho vay ngắn hạn theo ngành kinh tế.
Cơ cấu cho vay ngắn hạn theo ngành kinh tế.
(Đơn vị: tỷ đồng)
Ngành
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Dư nợ
Tỷ lệ (%)
Dư nợ
Tỷ lệ (%)
Dư nợ
Tỷ lệ (%)
Công nghiệp
5.2
3
5
2.5
45.6
9.1
TM & dịch vụ
160.2
97
193.1
97.5
456.1
90.9
Nông nghiệp
0
0
0
0
0
0
Tổng
165.4
100
198.1
100
501.7
100
(Nguồn Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ)
Qua bảng trên ta thấy: doanh số cho vay đối với ngành nông nghiệp qua các năm đều bằng 0. Đối với ngành công nghiệp đã có những bước tiến đáng kể trong năm 2002 vừa qua. Nếu những năm trước số dư nợ đối với ngành công nghiệp chỉ đạt khoảng 5 tỷ đồng và chỉ tiến hành cho vay đối với một đến hai doanh nghiệp trong cả năm thì sang năm 2002 dư nợ đối với ngành công nghiệp lên đến 45.6 tỷ chiếm trên 9% tổng dư nợ. Trong năm 2002 Chi nhánh đã tiến hành cho vay phục vụ sản xuất công nghiệp cho 6 doanh nghiệp (trong đó 3 doanh nghiệp quốc doanh và 3 doanh nghiệp ngoài quốc doanh). Riêng đối với ngành thương mại và dịch vụ, mặc dù tỷ trọng trong tổng dư nợ năm vừa qua có giảm nhưng doanh số cho vay đối với ngành thương mại và dịch vụ vẫn là chủ yếu trong tổng dư nợ. Qua các năm dư nợ trong ngành thương mại đều tăng, từ năm 2000 với 160.2 tỷ đến năm 2002 Chi nhánh đã tiến hành cho vay đối với trên 20 doanh nghiệp với số tiền lên đến trên 450 tỷ đồng chiếm trên 90% tổng dư nợ. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do Chi nhánh nằm trên địa bàn Hà Nội, vị trí 24 Láng Hạ là nơi hội tụ, tập trung nhiều Công ty lớn – hoạt động kinh doanh thương mại diễn ra khá sôi động. Do đó nhu cầu tín dụng phục vụ các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp hay thuỷ sản đều không có tuy nhiên nhu cầu về các khoản vay phục vụ sản xuất, kinh doanh nông nghiệp lại rất cao. Hơn nữa do bám sát định hướng phát triển của NHNo nên Chi nhánh có chiến lược củng cố và phát triển quan hệ với các khách hàng lớn như các Tổng Công ty 90 – 91, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông, tổng Công ty Xăng dầu và các Công ty xây dựng công trình, Tổng công ty Gang thép Thái Nguyên… do đó nhu vầu về các khoản vay phục vụ sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng lên, tuy nhiên nhu cầu vay của các Công ty này chủ yếu lại là phục vụ nhu cầu trong dài hạn
3.1.3. Cơ cấu cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế.
Cơ cấu cho vay ngắn hạn theo thành phần kt.
(Đơn vị: tỷ đồng)
Thành phần
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Dư nợ
Tỷ lệ (%)
Dư nợ
Tỷ lệ (%)
Dư nợ
Tỷ lệ (%)
Tổng
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Cá nhân hộ gia đình
165.4
162.1
3.3
0
100
97.9
2.1
0
198.1
184.45
9.85
3.8
100
93.1
4.97
1.92
501.7
452.2
38.2
11.3
100
90.1
7.6
2.3
(Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ)
Ta có sơ đồ biểu diễn cơ cấu cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế tương ứng như sau:
Nhìn vào sơ đồ ta thấy Chi nhánh chủ yếu tiến hành hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh, doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng cao (trên 90%) và tăng dần qua các năm. Trong khi đó cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cá nhân tiêu dùng rất thấp. Việc cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho vay hộ gia đình chiếm tỷ lệ rất thấp do việc tiếp cận khách hàng của cán bộ tín dụng với các doanh nghiệp và các hộ gia đình còn hạn chế. Mặt khác, là một Chi nhánh mới thành lập nên việc tạo lập khách hàng quen và truyền thống không nhiều, lại chủ yếu là các DNNN – nên Chi nhánh chủ yếu quan tâm nhiều đến những doanh nghiệp này. Sang năm 2002, do việc nhìn nhận tiềm năng vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vai trò của cho vay tiêu dùng thay đổi, Chi nhánh đã có biện pháp thúc đẩy hoạt động này như việc khuyến khích mua xe trả, quan tâm hơn tới các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do đó doanh số cho vay ngắn hạn các đối tượng này có biểu hiện tăng với con số vượt hẳn so với các năm trước như thấy trong sơ đồ.
3.2. Tình hình thu nợ.
Tình hình thu nợ và nợ quá hạn ở Chi nhánh được thể hiện qua bảng sau:
Tình hình thu nợ
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
DS thu nợ
Ngắn hạn
Trung dài hạn
601
561
40
100
93.3
6.7
804
689
115
100
85.7
14.3
1073
477.3
595.7
100
44.5
55.5
Nợ quá hạn
0,0165
0,025
0
0
0
0
NQH khó đòi
0
0
0
0
0
0
(Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ)
Theo báo cáo từ phòng Tín dụng từ năm 1998 đến năm 2002 ta có: doanh số thu nợ của Chi nhánh qua các năm đều tăng, từ 178 tỷ đồng năm 1998, đến năm 1999 đã lên đến 280 tỷ (tăng 1.57 lần), đến năm 2000 là 601 tỷ (gấp 2.15 lần năm 1999). Trong những năm đầu hoạt động đầy khó khăn thì những kết quả này là một con số đáng khích lệ, thể hiện sự nỗ lực cao của cán bộ Chi nhánh. Sang năm 2001 doanh số thu nợ đã lên đến 804 tỷ và năm 2002 là 1073 tỷ – gấp 6.03 lần năm 1998. Tuy nhiên, doanh số thu nợ chủ yếu là thu nợ ngắn hạn, nhất là trong 3 năm đầu doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm trên 90% tổng thu nợ, đặc biệt năm 1998 chiếm gần 99% tổng thu nợ. Điều này xảy ra là do Chi nhánh mới đi vào hoạt động nên các khoản cho vay trung và dài hạn chưa đến thời hạn thanh toán. Chính vì vậy, nợ quá hạn qua các năm cũng chủ yếu là từ các khoản cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên Chi nhánh đã có những giải pháp tháo gỡ và định hướng tốt trong lựa chọn khách hàng nên qua các năm 2001 và 2002 vừa qua nợ quá hạn đều không có. Ngoài ra hoàn toàn trong 5 năm hoạt động Chi nhánh hoàn toàn không có nợ quá hạn khó đòi. Điều này chứng tỏ chất lượng tín dụng ở Chi nhánh là rất tốt và Chi nhánh cũng có những bước đi định hướng đúng đắn về công tác khách hàng.
Mặc dù chủ yếu nợ quá hạn là từ các khoản cho vay ngắn hạn, tuy nhiên, nợ quá hạn cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Nếu năm 1998 là 0.074% tương đương gần 60 triệu thì sang năm 1999 chỉ có hơn 30 triệu chiếm 0.06% tổng dư nợ. Đến năm 2000 chỉ còn 16.5 triệu chiếm 0.025% và năm 2001 cũng như năm 2002 thì hoàn toàn không có nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn trong những năm vừa qua thấp là do rất nhiều lí do:
Do dư nợ tín dụng tăng cao và liên tục qua các năm (từ 81 tỷ năm 1998 lên đến 1500 tỷ đồng năm 2002) điều này làm tỷ lệ nợ quá hạn chiếm tỷ lệ rất thấp (=nợ quá hạn/ dư nợ).
Do Chi nhánh mới đi vào hoạt động nên rất ít các khoản cho vay trung và dài hạn đến hạn trả nợ.
Do mới đi vào hoạt động nên Chi nhánh được thừa hưởng một số lượng lớn khách hàng chất lượng tốt của NHNo Việt Nam.
Ngoài ra công tác thu nợ trong những năm hoạt động vừa qua có rất nhiều tín hiệu khả quan: tổng doanh số thu nợ cao nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại rất nhỏ và có xu hướng giảm. Đó là biểu hiện đáng mừng cho công tác thu nợ của Chi nhánh. Tuy nhiên tỷ trọng thu nợ ngắn hạn trong những năm vừa qua so với tổng thu nợ lại có xu hướng giảm. Cùng với việc giảm doanh số cho vay ngắn hạn, thu nợ ngắn hạn năm 2002 chỉ chiếm 44.5% tổng thu nợ trong khi đó tỷ trọng thu nợ trung và dài hạn thì ngày càng tăng, đến năm 2002 đã lên đến 55.5% tổng dư nợ. Vì vậy đòi hỏi các cán bộ tại Chi nhánh cần có những biện pháp hữu hiệu để mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn từ đó không chỉ mang lại lợi nhuận cho Chi nhánh mà còn đảm bảo khả năng thanh khoản và giảm bớt rủi ro tín dụng cho Chi nhánh.
4. Công tác mở rộng hoạt động tại Chi nhánh.
4.1. Công tác khách hàng
Khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, như: Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Tổng công ty Xăng dầu, Tổng công ty Điện lực, Công ty FPT... Hiện nay, có 18 doanh nghiệp nhà nước đang có quan hệ tín dụng với NHNo&PTNT Láng Hạ với số tiền còn dư nợ chiếm 95,48%. Trong khi đó, có 54 doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần... có quan hệ tín dụng, chiếm 3,61% tổng dư nợ. Đến nay tất cả các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Chi nhánh đều làm ăn có hiệu quả, có khả năng trả nợ, trả lãi đầy đủ và đúng hạn.
Ngoài ra, Chi nhánh còn cho vay tiêu dùng, cầm cố, cho vay đồng tài trợ. Việc cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay hộ gia đình chiếm tỷ lệ thấp do việc tiếp cận khách hàng của cán bộ tín dụng với các đơn vị và hộ gia đình còn nhiều hạn chế. Mặt khác, là chi nhánh mới thành lập nên việc tạo lập khách hàng quen và truyền thống có rất ít, không đáng kể.
Để mở rộng hoạt động tín dụng, chi nhánh không chỉ quan tâm đến khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài với chi nhánh mà còn tìm nhiều biện pháp tiếp cận với khách hàng là các doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô. Tuy nhiên, thực trạng các doanh nghiệp hiện nay đã ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả hoạt động tín dụng tại chi nhánh.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp vừa và đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có nhu cầu rất lớn về vốn nhưng họ còn thiếu tín nhiệm và không đủ tài sản cầm cố, thế chấp. Các công ty cổ phần hoá rất khó vay vốn của các tổ chức tín dụng vì không có tài sản đảm bảo tiền vay. Mặt dù đã hoàn thành xong thủ tục trước bạ chuyển quyền sở hữu đất tại Chi cục thuế địa phương, nhưng khi các công ty cổ phần hoá làm hồ sơ đăng bộ tài sản cố định tại Sở địa chính thì không được chấp nhận (vì họ chưa triển khai làm thủ tục đăng bộ tài sản cố định của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá).
Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và công tác xử lý các doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài của thành phố và các Bộ còn chậm và chưa mạnh dạn. Chậm xử lý các mô hình doanh nghiệp nhà nước không còn phù hợp với thực tiễn.
Nhiều nguyên nhân khó khăn, vướng mắc từ phía doanh nghiệp ảnh hưởng đến việc hấp thụ vốn ngân hàng: Do thiếu thông tin hoặc thông tin dự báo chưa sát... nên việc nghiên cứu dự báo thị trường, và lập dự án ban đầu còn hạn chế, việc gắn sản phẩm của dự án với thị trường chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu sơ bộ và chưa có tính thuyết phục cao. Do đó, doanh nghiệp chưa có những hồ sơ dự án khả thi, đầy đủ theo yêu cầu của ngân hàng. Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thẩm định và xét duyệt cho vay.
Công tác chăm sóc khách hàng tại chi nhánh rất được coi trọng và luôn được đặt lên hàng đầu: chi nhánh đã áp dụng một loạt các chính sách nhằm giữ vững và duy trì khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài. Ngoài ra, chi nhánh còn thu hút thêm các khách hàng mới giúp tăng trưởng nguồn và dư nợ. Các chính sách chăm sóc khách hàng tại chi nhánh bao gồm:
Những khách hàng truyền thống, có nguồn tiền gửi hoặc dự nợ lớn, an toàn luôn được Chi nhánh đưa ra một số chính sách ưu đãi.
Chi nhánh thực hiện giao dịch tận nơi với những khách hàng ở xa.
Thường xuyên có chương trình lấy ý kiến khách hàng nhằm cải tiến phong cách giao dịch, phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn.
Các hoạt động giao lưu tìm hiểu các đơn vị bạn cũng được Chi nhánh tổ chức thường xuyên nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và ngày càng gắn kết chặt chẽ mối quan hệ khăng khít giữa hai bên.
Ngoài ra, Chi nhánh không ngừng đưa ra các chính sách tiếp thị và marketing tới các khách hàng đặc biệt là các tầng lớp dân cư như tờ rơi, quảng cáo qua hệ thống loa đài, báo chí, truyền thanh nhằm thực hiện chiến lược huy động vốn, giúp cho dân cư tại các địa bàn hoạt động của Chi nhánh hiểu rõ hơn về ưu đãi và dịch vụ ngân hàng cung cấp.
Cụ thể hoá các chính sách trên, Chi nhánh đã đưa ra nhiều biện pháp để huy động vốn và mở rộng phạm vi cho vay.
Đối với khách hàng là các doanh nghiệp:
Hà Nội là thành phố trung tâm của cả nước, nơi tập trung nhiều Tổng công ty lớn, nhiều cơ quan đầu não của các ngành nên có nguồn vốn tập trung lớn. Do đó, Chi nhánh đã tập trung khai thác những nguồn vốn lớn này.
Phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị khách hàng truyền thống, những đơn vị có nguồn vốn lớn do đó phải làm tốt công tác thanh toán sao cho nhanh chóng và thuận lợi, chu đáo nhất, tạo mối quan hệ gắn kết giữa khách hàng và ngân hàng. Đồng thời mở rộng quan hệ với khách hàng mới nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức này và phát triển thanh toán trong hệ thống.
Khuyến khích các đơn vị điện, nước, điện thoại, điểm bán xăng dầu; mở tài khoản, chuyển tiền tại Chi nhánh; Ngân hàng thực hiện thu tiền mặt tại đơn vị. Đối với doanh nghiệp có số dư, doanh số tiền gửi lớn, có thu tiền mặt thường xuyên, Chi nhánh thực hiện thu, chi tại chỗ, thực hiện dịch vụ kiểm ngân không thu phí, hoặc với mức thu thấp.
Đẩy mạnh khâu kinh doanh quảng cáo tiếp thị thu hút khách hàng, với phương châm lắng nghe ý kiến từ doanh nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác để điểu chỉnh kịp thời các thủ tục rườm rà bất hợp lý, áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc phát triển ổn định và lâu dài.
- Phân công người theo dõi quản lý đơn vị nguồn để nắm bắt tình hình của doanh nghiệp, xem tình hình hoạt động của doanh nghiệp, lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp để đưa ra những giải pháp phục vụ một cách tốt nhất.
Đối với khách hàng là các tầng lớp dân cư
Hà Nội cũng là thành phố có nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao nên Chi nhánh đã tận dụng để khai thác lợi thế này bằng cách tiếp cận với các doanh nghiệp có lượng lao động lớn, mức thu nhập cao để mở tài khoản chi lương. Nguồn vốn này trước mắt chưa nhiều, song đây là nguồn vốn rẻ và người dân có điều kiện tiếp cận và làm quen với hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Thực hiện trả lương cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thông quan tài khoản của doanh nghiệp và tài khoản cá nhân tại chi nhánh bằng cách làm tốt dịch vụ thanh toán chi trả lương cho cán bộ viên chức của các doanh nghiệp. Đồng thời Chi nhánh tìm các biện pháp thích hợp để khai thác khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ.
Nguồn tiền gửi dân cư tuy tăng trưởng chậm nhưng tương đối ổn định để khai thác được triệt để nguồn vốn này thái độ phục vụ của cán bộ, lòng tin của người gửi đối với Ngân hàng, lãi suất huy động vốn, thông tin quảng cáo đến khách hàng phải được tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng lĩnh, gửi tiền bằng cách: Tiếp tục mở thêm bàn giao dịch, duy trì phục vụ cả ngày thứ Bảy và Chủ nhật, đa dạng hoá các phương thức lĩnh, gửi theo Văn bản 404 của Hội đồng quản trị, đối với khách hàng có lượng tiền lĩnh, gửi lớn có thể triển khai phục vụ tại nhà có thu phí.
Mở thêm nhiều chi nhánh thành viên, các phòng giao dịch, nhiều bàn tiết kiệm để thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư, quảng bá sâu rộng cho người dân trên địa bàn thành phố về Ngân hàng Nông nghiệp.
4.2. Công tác mở rộng mạng lưới hoạt động
Công tác mở rộng mạng lưới hoạt động là một phần trong chiến lược phân phối, nó góp phần tích cực vào việc mở rộng hoạt động tín dụng của Chi nhánh: huy động được nguồn vốn lớn từ các tổ chức kinh tế, xã hội và dân cư trên địa bàn. Đồng thời cung cấp các dịch vụ, tiện ích cho các đối tượng có nhu cầu một cách nhanh chóng, qua đó giảm chi phí giao dịch, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, việc mở rộng mạng lưới cần phải chú ý đến tính hiệu quả. Bởi vì, đi kèm với nó là các chi phí phát sinh như: trụ sở phải khang trang nhằm tạo ấn tượng ban đầu với khách hàng, trang thiết bị làm việc phải hiện đại đáp ứng tốt yêu cầu của công việc... Vì vậy, việc cân nhắc lựa chọn địa điểm giao dịch là rất quan trọng: đó phải là nơi tập trung đông cơ quan, doanh nghiệp và dân cư, từ đó sẽ xuất hiện các nhu cầu về tín dụng, về các dịch vụ ngân hàng khác.
Chi phí thành lập một Chi nhánh (Phòng giao dịch)
(Đơn vị: triệu đồng)
Nội dung
Chi nhánh thành viên
Phòng giao dịch
1. Tiền thuê trụ sở
500
50
2. Chi phí tài sản
790
57
3. Thiết bị văn phòng
138
40
Tổng cộng
1428
147
Về thiết bị văn phòng: Khi chi nhánh được thành lập và đi vào hoạt động, nhu cầu về thiết bị văn phòng như máy tính, máy điều hoà, máy nổ, máy Fax, điện thoại và các thiết bị văn phòng khác sẽ làm chi phí năm đầu tiên sẽ là rất lớn nhưng sang các năm sau sẽ giảm dần do đã đầu tư ở năm đầu tiên.
Do đặc thù hoạt động kinh doanh của một phòng giao dịch với nhiệm vụ chủ yếu là huy động vốn từ dân cư và cho vay đầu tư. Do vậy, quy mô hoạt động của một phòng giao dịch nhỏ hơn một Chi nhánh thành viên rất nhiều. Tuy nhiên, Phòng giao dịch này là đại diện cho Chi nhánh nên vẫn phải có trụ sở khang trang, thời gian thuê địa điểm lâu dài để gây được lòng tin với người dân. Vì vậy, chi phí thuê địa điểm rất cao.
Từ khi thành lập, Chi nhánh chỉ có 1 quỹ tiết kiệm đặt tại trụ sở trung tâm, sau đó Chi nhánh tiếp tục thành lập một phòng giao dịch đặt tại Nhà máy chế tạo biến thế ABB để chi lương cho cán bộ công nhân viên và phục vụ các giao dịch của nhà máy.
Năm 2001, Chi nhánh đã phát triển thêm được 1 Phòng giao dịch đặt tại Bách Khoa. Sang những tháng đầu năm 2002, Chi nhánh đã mở thêm 1 chi nhánh thành viên và 3 Phòng giao dịch.
Như vậy, hiện nay mạng lưới của Chi nhánh gồm 2 Chi nhánh thành viên và 4 Phòng giao dịch đã đi vào hoạt động và mang lại những kết quả khả quan.
Chi nhánh Bà Triệu: + Nguồn vốn đạt 120 tỷ
+ Dư nợ đạt 58 tỷ
Chi nhánh Bách Khoa: + Nguồn vốn đạt 110 tỷ
+ Dư nợ đạt 18 tỷ
Thực trạng thời gian qua, tốc độ mở rộng mạng lưới hoạt động của Chi nhánh phát triển chậm, lý do Chi nhánh cân nhắc kỹ lưỡng địa điểm giao dịch và hiệu quả hoạt động của từng điểm, vì nếu không cân nhắc kỹ lưỡng không những hoạt động của mạng lưới không đạt kết quả như mong muốn mà có khi còn ảnh hưởng đến uy tín của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
Các Phòng giao dịch mở ra chưa đa dạng hoá các hình thức nghiệp vụ nên chưa phát huy hết năng lực lao động của cán bộ nhân viên và chưa khai thác được lợi thế của các điểm giao dịch nên hiệu quả kinh tế mang lại chưa cao. Để chiếm lĩnh thị phần trên địa bàn thành phố và chiến thắng trong cạnh tranh, tiến tới quá trình hội nhập, Chi nhánh cần có chiến lược mở rộng mạng lưới hoạt động trong thời gian tới.
Để thực hiện thành công chiến lược phân phối nhằm đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng, thì việc ứng dụng công nghệ hiện đại là rất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH126.DOC