Tài liệu Đề tài Vấn đề đồng tiền chung: Trang : 1
CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ ĐỒNG TIỀN CHUNG
1.1 Tiền tệ
1.1.1 Bản chất :
Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo
lường và biểu hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác; đồng thời nó thể hiện lao
động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất.
Bản chất này xuất phát từ việc ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của
các hình thái giá trị :
• Ở hình thái giá trị giản đơn ngẫu nhiên của giá trị, giá trị của một vật được
biểu hiện bằng giá trị sử dụng của một vật khác đóng vai trò là vật ngang giá.
• Ở hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng, giá trị của một vật được biểu hiện ở
giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác có tác dụng làm vật ngang giá.
• Ở hình thái chung của giá trị, giá trị của tất cả hàng hoá được biểu hiện bằng
giá trị của một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung
này được chọn tùy theo tập quán địa phương mang ý nghĩa tượng trưng như lông
thú, da thú, vòng đá,...
126 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vấn đề đồng tiền chung, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang : 1
CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ ĐỒNG TIỀN CHUNG
1.1 Tiền tệ
1.1.1 Bản chất :
Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo
lường và biểu hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác; đồng thời nó thể hiện lao
động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất.
Bản chất này xuất phát từ việc ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của
các hình thái giá trị :
• Ở hình thái giá trị giản đơn ngẫu nhiên của giá trị, giá trị của một vật được
biểu hiện bằng giá trị sử dụng của một vật khác đóng vai trò là vật ngang giá.
• Ở hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng, giá trị của một vật được biểu hiện ở
giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác có tác dụng làm vật ngang giá.
• Ở hình thái chung của giá trị, giá trị của tất cả hàng hoá được biểu hiện bằng
giá trị của một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung
này được chọn tùy theo tập quán địa phương mang ý nghĩa tượng trưng như lông
thú, da thú, vòng đá, vỏ sò….
• Ở hình thái tiền tệ, khi lực lượng sản xuất phát triển, việc tồn tại nhiều vật
ngang giá chung gây khó khăn cho thị trường trao đổi hàng hoá. Điều này dẫn đến
sự ra đời của vật ngang giá chung bằng kim loại thay thế dần cho các vật ngang giá
chung khác, mà đáng kể nhất đó là bạc, sau đó là vàng (kim tệ)
Như vậy, tiền tệ là một sản phẩm tự phát và tất yếu. nó gắn liền vời sự tồn tại
và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Không những thế, nó còn chứa đựng và
biểu hiện nhiều mối quan hệ xã hội giữa người với người.
1.1.2 Chức năng :
Tiền tệ có 5 chức năng như sau :
a./ Chức năng thước đo giá trị : Đây là chức năng cơ bản của tiền tệ. Chức năng này
được thể hiện thông qua việc tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị cho các
hàng hoá khác và chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả hàng hoá. Để thực hiện chức
năng này, tiền tệ đòi hỏi phải có giá trị đầy đủ, có tiêu chuẩn giá cả, và được thể
Trang : 2
hiện trong tư duy, ý niệm. Việc giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đã
tạo mối tương quan nghịch giữa giá trị tiền tệ và giá cả hàng hoá, đồng thời cho
thấy rằng tiền tệ là một công cụ đặc biệt quan trọng để thực hiện quy luật giá trị,
quy luật phổ thông của nền sản xuất hàng hoá.
b./ Chức năng phương tiện lưu thông : Thể hiện ở việc tiền được dùng làm phương
tiện trung gian cho quá trình trao đổi hàng hoá (H-T-H) và phương tiện để thực hiện
giá trị của hàng hoá. Điều này thể hiện ở việc hàng hoá sẽ không được phép trao đổi
trực tiếp (H-H), mà trước tiên, giá trị của hàng hoá được biểu hiện thành giá trị tiền
tệ thông qua việc bán hàng hoá (H-T) ; rồi sau đó, hàng hoá đựợc mua lại với giá trị
tương đương với giá trị tiền tệ (T-H).
Như vậy, tiền tệ không phải là mục đích của trao đổi, mà chỉ đóng vai trò
trung gian. Tuy nhiên, để tạo một sự lưu thông hàng hoá được mạch lạc, cần thiết
phải có một khối lượng tiền thật sự và tiền này cũng không nhất thiết phải là tiền có
đầy đủ giá trị như vàng, nó được thay thế bằng các loại tiền ký hiệu.
c./ Chức năng phương tiện cất trữ : Chức năng này được thể hiện ở việc tiền được
đưa ra khỏi quá trình lưu thông nhằm mục đích cất trữ và sử dụng sau này.
Xuất phát từ khả năng có thể trực tiếp chuyển hoá thành bất kỳ một loại hàng
hoá nào, tiền cất trữ phải có đầy đủ giá trị và tạm thời không phục vụ cho quá trình
lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, người ta cũng có thể sử dụng tiền ký hiệu cho việc
cất trữ, các loại tiền này được đảm bảo bằng vàng của quốc gia sản xuất tiền giấy ký
hiệu đó.
d./ Chức năng phương tiện thanh toán: Chức năng này đựợc thể hiện ở việc tiền
đựơc dùng làm phương tiện để thanh toán các khoản nợ phát sinh trong trao đổi
hàng hoá, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Khi thực hiện chức năng này, tiền vận động
tương đối độc lập so với hàng hoá, dịch vụ thậm chí giữa chúng với nhau cũng có
một sự tách rời nhau cả về không gian và thời gian. Do đó, tiền ở đây có thể là tiền
vàng, hoặc tiền ký hiệu, hay tiền ghi sổ. Mặc dù vậy, tiền vẫn không nằm ngoài quá
trình lưu thông, mà còn có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá ;
từ đó, giúp cho sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Trang : 3
e./ Chức năng tiền tệ thế giới: Chức năng này thể hiện ở việc tiền thực hiện các chức
năng trong phạm vi thế giới. Điều này đòi hỏi tiền phải được chấp nhận của các
quốc gia trên thế giới. Do đó, tiền đầy đủ giá trị mới thực hiện được chức năng này.
Tuy nhiên, hiện nay, tiền ký hiệu của một số nước cũng đựơc áp dụng hoặc
chấp nhận rộng rãi ở nhiều nước. Do đó, cũng có quan điểm cho rằng các loại tiền
này cũng có chức năng tiền tệ thế giới.
Tóm lại 5 chức năng trên của tiền tệ không đơn lẻ mà chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Trước tiên, tiền tệ thực chiện chức năng chuyển giá trị hàng hoá
thành giá cả. Khi đó, hàng hoá chính thức bước vào lưu thông. Khi giá cả được thực
hiện thì hàng hoá đã chuyển thành tiền, số tiền này có thể được cất trữ cho việc sử
dụng trong tương lai hoặc dùng để thanh toán cho việc mua hàng hoá khác phục vụ
cho nhu cầu sản xuất hoặc nhu cầu tiêu dùng. Khi quá trình trao đổi hàng hoá vượt
ra ngoài biên giới của một quốc gia thì cũng là lúc tiền tệ thực hiện chức năng phạm
vi thế giới.
1.1.3 Vai trò của tiền tệ :
• Tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển kinh tế hàng
hoá. Thông qua chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu thông và phương tiện
thanh toán, việc trao đổi hàng hóa diễn ra thuận lợi và thống nhất hơn. Nó góp phần
giúp đỡ người sản xuất kinh doanh hạch toán được rõ ràng chi phí và hiệu quả sản
xuất mà họ thực hiện; đồng thời tiến hành tích lũy tiền tệ để mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh.
• Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Xuất
phát từ nhu cầu phát triển của nền kinh tế, thị trường quốc nội đã dần mở cửa hướng
ra thị trường thế giới lớn hơn thông qua con đường ngoại thương. Nhờ ngoại
thương, mà các chức năng thanh toán và chức năng tiền tệ thế giới của tiền tệ đã
phát huy triệt để vai trò của mình. Từ đó, mối quan hệ giữa các quốc gia không chỉ
đơn thuần về mặt kinh tế mà còn lan sang các lĩnh vực khác như chính trị, văn
hoá….
Trang : 4
• Tiền tệ là công cụ để phục vụ cho mục đích của chủ sỡ hữu. Khi mà các quan
hệ kinh tế – xã hội đều bị tiền tệ hoá thì cũng là lúc tiền tệ trở thành công cụ để xử
lý và giải quyết mọi mối quan hệ phát sinh cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Chính vì vậy, người chủ sỡ hữu tiền tệ có thể sử dụng nó để thoả mãn mọi nhu cầu
của mình. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá, thì chừng đó dòng tiền sẽ
còn phát huy mạnh mẽ sức mạnh vạn năng của nó.
1.2 Liên minh tiền tệ :
Nền tảng cho việc hình thành đồng tiền chung ở Châu Âu có thể tính bằng
việc ra đời của các liên minh tiền tệ: Liên minh tiền tệ Latinh, Liên minh tiền tệ
Đức, Bản vị vàng . . . vào khoảng đầu thế kỷ 19. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
vào những năm 30 của thế kỷ 19 thúc đẩy các nước Châu Âu hình thành ý tưởng
đồng tiền chung nhằm ổn định nền kinh tế chung của toàn khối. Tuy nhiên cho đến
năm 1950 thì liên minh tiền tệ vẫn chưa được đề cập tới trong các chương trình nghị
sự. Trong khi đó hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods đang tồn tại và gây ảnh
hưởng đến nền kinh tế chung, biểu hiện của nó là Pháp và Đức đã lần lượt phá giá
đồng tiền của mình (đồng Franc và đồng Mác) trong năm 1969, điều này đe dọa đến
sự ổn định của các đồng tiền khác trong khối đến nỗi Thủ tướng Đức lúc đó Ông
W.Brandt đã đề nghị phải khôi phục lại các kế hoạch về Liên minh tiền tệ Châu Âu.
Năm 1970, kế hoạch thành lập một đồng tiền chung Châu Âu do Thủ tướng
Luýchxămbua lúc đó, Ông Werner đưa ra, trong đó báo cáo này lần đầu tiên sử
dụng thuật ngữ Liên minh tiền tệ (EMU – Economic and Monetary Union), kế
hoạch Werner chia ra làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn I: Thành lập đơn vị tiền tệ thống nhất gọi là đơn vị tiền tệ Châu Âu
(ECU – European Currency Unit) phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ giữa các
quốc gia trong khối.
Giai đoạn II: Chuyển đồng ECU thành đồng tiền chung được sử dụng song song
với các đồng tiền khác trong khối và dần trên phạm vi quốc tế.
Báo cáo Werner chưa được triển khai thì Châu Âu phải đối đầu với sự sụp đổ
của của hệ thống Bretton Woods và ngày 24-04-1972 Châu Âu thành lập “con rắn
Trang : 5
tiền tệ ” nhằm mục đích giới hạn sự dao động của các đồng tiền Châu Âu ở dưới
mức dao động quốc tế. Tuy nhiên hệ thống này hoạt động không mấy thành công,
bằng chứng là chỉ trong 2 năm 1974 - 1975 Pháp và Đức, hai nước chủ chốt trong
hệ thống, đã lần lượt rút khỏi hệ thống này đến hai lần.
Không thành công với hệ thống tỷ giá cố định, Châu Âu đã tìm sự ổn định
mới cho hệ thống tiền tệ của mình, bắt đầu với việc này là ngày 07-07-1978, hiệp
ước Breme (Đức) về việc thành lập hệ thống tiền tệ Châu Âu (SME – Système
Monétaire Européenne). Năm 1979, hệ thống này bắt đầu hoạt động với cơ chế quy
định giới hạn sự biến động của tỷ giá trong biên độ dao động 2.25%, riêng đồng
peseta Tây Ban Nha và livre là 6%. Tuy nhiên, hệ thống này cũng không đáp ứng
được yêu cầu thực tế khi Pháp và Ý liên tục phá giá đồng tiền của mình. Tháng
06/1988, Hội đồng Châu Âu ký quyết định giao cho Ông Jacques Delors, Chủ tịch
Ủy ban Châu Âu đương thời, chịu trách nhiệm chuẩn bị và đề xuất các bước đi cụ
thể về việc thành lập Liên minh kinh tế tiền tệ Châu Âu (EMU). Năm 1989 tại
Madrid Hội đồng Châu Âu phê chuẩn báo cáo Delor. Giai đoạn I của Liên minh tiền
tệ bắt đầu vào tháng 7/1990, báo cáo Delor cũng là nền tảng cho Hiệp ước
Maastricht, được ký vào năm 1992, xác định chính thức các vấn đề liên quan đến
khối đồng tiền chung duy nhất Châu Âu, cơ chế vận hành các Tổ chức thiết chế
Châu Âu, chính sách đối ngoại và an ninh chung, chương trình hợp tác Tư pháp và
cũng đã đưa ra những tiêu chí để gia nhập đồng tiền chung Châu Âu.
1.3 Thuyết khu vực đồng tiền tối ưu.
Lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu do các nhà kinh tế Mỹ R.Mundell và
R.Mc.Kinnon đưa ra vào đầu thập kỷ 1960. Xuất phát từ định hướng khi đó của
cộng đồng kinh tế Châu âu (EEC) là nhằm đạt được tự do hoàn toàn trong việc lưu
chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao động, tức là lưu chuyển tự do các “yếu tố
sản xuất”. Lý thuyết này đề cập những cơ sở của sự thống nhất tiên tệ Châu Âu và
gây được sự chú ý lớn :
• Định nghĩa Khu vực tiền tệ tối ưu : là lãnh thổ bao gồm những nước cùng
chung những điều kiện, khả năng thích hợp nhất để sử dụng một loại tiền thống
Trang : 6
nhất, hoặc chung những khả năng để thiết lập một đồng giá vững chắc giữa các
đồng tiền quốc gia của mình. Vài khu vực tiền tệ sẽ là “tối ưu” nếu trong lãnh thổ
đó tồn tại khả năng cơ động giữa các “yếu tố sản xuất” ( bao gồm cả sự cơ động bên
trong và bên ngoài). Ví dụ nội bộ EEC được tự do hoàn toàn việc giao lưu hàng
hoá, vốn và sức lao động và có sự thoả hiệp giữa các nước thành viên về các vấn đề
kinh tế, chính trị, sự phối hợp các thể chế, chính sách kinh tế.
• Khu vực tối ưu phải đảm bảo tiêu chí là : Các nước thành viên sẵn sàng chấp
nhận hy sinh tính độc lập của mình trong việc giải quyết các vấn đề về tiền tệ – tín
dụng. Khu vực tiền tệ tối ưu là khu vực trong đó không một bộ phận cấu thành nào
của nó đòi quyền có đồng tiền riêng và chính sách tiền tệ độc lập.
Những điều kiện cho tồn tại của khu vực tiền tệ tối ưu là tốc độ lạm phát
giữa các nước thành viên ít nhiều phải đồng đều để có thể thực thi ngân sách, kinh
tế và tiền tệ có hiệu quả. Đồng thời, các nước này phải đạt được những mục đích
như ổn định giá cả, tỷ lệ thất nghiệp thấp và sự cân bằng trong cán cân thanh toán.
Chẳng hạn khu vực đồng tiền chung Châu Âu, quy định các nước phải có thâm hụt
ngân sách dưới 3% và nợ quốc gia phải dưới 60% tổng sản lượng quốc gia.
1.4 Đồng EURO – Mô hình đầu tiên của liên minh tiền tệ.
1.4.1 Quá trình thực hiện đồng tiền chung EURO: gồm 3 giai đoạn :
Giai đoạn 1 (tư ̀năm 1990 đến 1993) : Thống nhất chính sách tiền tệ quốc
gia, rút ngắn sự cách biệt giữa các nền kinh tế của các nước thành viên. Thực hiện
tự do hoá lưu thông vốn thanh toán qua việc hoàn thành thị trường thống nhất vào
ngày 1/1/1993. Các ngân hàng trung ương các nước thành viên thông qua Ủy ban
thống đốc của mình phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ để giữ ổn định tỷ giá cố
định giữa các đồng tiền trong hệ thống tiền tệ Châu Âu.
Giai đoạn 2: (1994 – 1999) : cùng với sự ra đời của viện tiền tệ Châu Âu
(EURO pean monetary Instituse – EMI), EMI không có trách nhiệm thực hiện chính
sách tiền tệ cũng như can thiệp hối đoái trong toàn liên minh, hai nhiệm vụ chủ yếu
của EMI là :
Trang : 7
1./ Thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các ngân hàng trung ương quốc gia trong
việc thực hiện chính sách tiền tệ.
2./ Chuẩn bị cho việc hình thành hệ thống ngân hàng trung ương Châu Âu và liên
minh kinh tế – tiền tệ Châu âu.
Tháng 12/1995, hội đồng Châu Âu nhất trí đơn vị tiền tệ chung của liên minh
là đồng EURO. Tháng 12/1996, EMI hoàn thành dự thảo các yếu tố nên tảng cho cơ
chế tỷ giá mới và được thông báo vào tháng 6/1997. Chi tiết mệnh giá của đồng
EURO đã được thông qua.
5/1998, 11nước thành viên đủ tiêu chuẩn được lựa chọn tham gia khu vực
đồng EURO đợt đầu. Tỷ giá chuyển đổi song phương giữa các đồng tiền quốc gia
thành viên được ấn định căn cứ vào cơ chế tỷ giá của EMI. Đồ̀ng thời, Chủ tịch,
Phó chủ tịch và Ban giám đốc điều hành của ngân hàng Trung ương Châu Âu
(ECB) đã được chỉ định.
Tháng 6/1998 , ECB thành lập và cùng các ngân hàng khác hình thành hệ
thố́ng ngân hàng trung ương Châu Âu (ESCB). Đến lúc này, EMI đã hoàn thành
nhiệm vụ và ngừng hoạt động. Tháng 6/1998 đến 12/1998 là giai đoạn kiểm tra cuối
cùng các hệ thống và thủ tục cho việc xuất hiện đồng EURO.
Giai đoạn 3 (từ ngày 1/1/1999): EMU bắt đầu hoạt động với một chính sách
tiền tệ thống nhất toàn khu vực. Tuy vậy, giai đoạn này có thể chia thành 3 bước
chính :
Bước 1 : Bước chuẩn bị , ngày 2/5/1998 và kết thúc 1/1/1999. Hội nghị
thượng đỉnh đặc biệt của EU tại Brussels (Bỉ). Các nhà lãnh đạo Châu Âu sẽ quyết
định nước nào trong số 15 nước thành viên sẽ tham gia liên minh tiền tệ.
Ngay khi hội đồng Châu âu chính thức công bố danh sách những nước đủ
điều kiện tham gia đồng tiền chung, tỷ giá hối đoái song phương cố định vĩnh viễn
giữa đồng tiền các nước thành viên cũng được công bố. Đây là bước đi táo bạo góp
phần tạo nên ổn định, tránh đồng EURO khỏi những đầu cơ ngay từ những ngày
đầu tiên phát hành.
Trang : 8
Hội nghị công bố quyết định thành lập ngân hàng Trung ương Châu âu
(ECB). Giống như cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED), ECB chịu trách nhiệm vận hành
chính sách tiền tệ chung trong toàn bộ khu vực đồng EURO. Bắt đầu từ 1/1/1999
ECB có vai trò cung cấp chính sách tiền tệ ổn định và đáng tin cậy, thực thi và kiểm
soát chính sách tiền tệ ổn định và đáng tin cậy, thực thi và kiểm soát chính sách tiền
tệ thống nhất của cộng đồng. ECB hoàn toàn độc lập với các nhà nước thành viên
và ủy ban Châu Âu trong việc hoạch định , tổ chức và điều hành chính sách tiền tệ.
Bước hai, diễn ra trong 3 năm 1999, 2000 và 2001 : Thời kỳ chuyển đổi hoặc
thời kỳ quá độ. Bắt đầu bằng việc giới thiệu đồng EURO là đồng tiền của 11 nước
thành viên. Tuy nhiên trong khoảng thời gian 3 năm này, EURO chỉ tồn tại như
đồng tiền ghi sổ, nghĩa là chưa lưu hành tiền giấy và tiền xu EURO trên thực tế.
Đồng EURO có thể được sử dụng trong mọi hoạt động từ séc cá nhân, bảng cân đối
tài sản của doanh nghiệp các hệ thống kế toán cho đến các hoá đơn có giá trị hàng
triệu USD, các bảng báo cáo tài chính của các công ty xuyên quốc gia.
Liên minh áp dụng chính sách “ không bắt buộc, không ngăn cấm” sử dụng
EURO trong giao dịch. Tuy nhiên, tầm quan trọng của đồng tiền ghi sổ này không
phải là thấp vì giao dịch thanh toán bằng tiền mặt chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
các hoạt động kinh doanh. Bằng chứng là tổng giá trị tiền mặt lưu thông ở Châu Âu
chỉ chiếm tỷ lệ chưa đầy 6% GDP của khu vực này.
Đến đầu năm 1999 tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia và đồ̀ng
EURO mới được xác định. Các tỷ giá này đựơc tính toán dựa trên cơ sở so sánh giá
trị giao dịch của đồng tiền trong liên minh kinh tế tiền tệ với đồng USD vào ngày
giao dịch cuối cùng của năm 1998 và được cố định kể từ ngày đó trở đi.
Chuyển giao quyền tự chủ trong chính sách tiền tệ của các nước cho ECB,
chịu sự chỉ đạo của ECB. Tất cả trái phiếu của chính phủ những nước tham gia
đồng EURO đều phải phát hành bằng đồng EURO. Các thị trường tiền tệ, thị trường
ngoại hối, hệ thống thanh toán bù trừ chuyển sang sử dụng đồng EURO.
Bước 3 : Tiến hành đổi tiền thực sự bằng tiền giấy và tiền xu được phát hành
vào lưu thông sau năm 2002. Đồng tiền này đơn vị là Cent các loại sau :
Trang : 9
Tiền xu : 1, 2, 5,10, 20, 50 cent và loại 1, 2 EURO.
Tiền giấy : 5, 10, 20, 50, 100, 200 và 500 EURO.
Ước tính có khoảng 13 tỷ tiền giấy đã đựơc phát hành vào năm 2002. Vào
tháng 6/2002 các đồng tiền quốc gia thành viên cuối cùng đã loại bỏ khỏi lưu thông
nhường chỗ cho đồng EURO.
1.4.2 Các quy tắc khi thực hiện đồng tiền chung.
Các quy tắc khi thực hiện đồng tiền chung được tiến hành theo thoả thuận
của hiệp ước Maastricht, nó đặt ra cho các nước muốn tham gia đồng EURO là :
Thứ nhất, lạm phát phải ở cùng một mức trung bình dưới 2,72%, lạm phát
ngắn hạn không vượt quá 1,5% so với mức lạm phát bình quân của 3 nước thành
viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất.
Thứ hai, tỷ lệ lãi suất tiết kiệm của các nước thành viên không được khác
nhau quá nhiều. Tỷ lệ lãi suất dài hạn và trung hạn không vượt quá 2% so với mức
lãi suất bình quân của 3 nước thành viên có tỷ lệ lãi suất thấp nhất.
Thứ ba, các khoản thâm hụt ngân sách của chính phủ không đựơc vượt quá 3
% GDP.
Thứ tư, nợ chính phủ không được vượt quá 60% GDP.
Thứ năm, phải duy trì một tỷ giá trao đổi ổn định nằm trong khuôn khổ cho
phép của cơ chế tỷ giá hối đoái (ERM) ít nhất là 2 năm.
Khi hiệp ước Maastricht đã được ký kết, chỉ có một vài nước đủ điều kiện và
tiêu chuẩn để tham gia đồng EURO. Theo thống kê của ECB năm 1995 thì thâm hụt
ngân sách bình quân của EU là 4,7% GDP. Tuy nhiên các nước EU vẫn quyết tâm
xây dựng một đồng tiền chung nhờ các chính sách cải tổ cần thiết nhất để giảm
thâm hụt ngân sách của chính phủ . Italia đã phải tạo ra khoảng 12 nghìn tỷ lia “thuế
EURO” để giảm thâm hụt ngân sách. Đức đã bán vài nghìn tấn dầu trong quỹ dự trữ
chiến lựơc. Pháp đã thay đổi các quy định kế toán đối với khoản tiền 37,5 nghìn tỷ
Frc trong quỹ hưu trí của tập đoàn France Telecom và chuyển chúng vào ngân sách
của chính phủ. Tiếp đó Pháp còn tăng mức thuế. Đối với công ty lớn nhất nước,
thậm chí còn áp dụng cả với lợi nhuận thu được từ năm trước đó. Phần Lan cắt giảm
Trang : 10
mạnh thâm hụt ngân sách Chính phủ khoảng 45 tỷ Markla từ năm 1991 đến 1996.
Tuy nhiên, Hiệp ước Maastrict cũng cho phép có mức độ linh hoạt nhất định khu
đánh giá tiêu chí hội tụ của các nước thành viên. Nó không chỉ đơn thuần dựa vào
các chỉ tiêu đạt được mà còn dựa vào triển vọng kinh tế của các nước thành viên
thông qua giải pháp đựơc sử dụng một cách tích cực và hiệu quả nhằm đạt được các
chỉ tiêu của hiệp ước.
Cuối cùng thì những năm tháng cải tổ cũng đã kết thúc thành công. Ngày
5/12/1998, hội đồng Châu Âu đã đưa ra danh sách những nước thoả mãn 5 quy tắc
của hiệp ước. Đó là 11 trong số 15 thành viên EU sẽ tham gia đồng EURO đợt đầu
bao gồm : Đức , Pháp, Italia, Bỉ, Hà lan, Lucxămbua, Tay Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Áo , Phần Lan và Ailen. Bốn nước chưa tham gia gia đợt đầu là Anh, Thụy Điển ,
Đan Mạch và Hy Lạp. Sau đó, Hy lạp đã hội đủ điều kiện tham gia đồng EURO, và
gọi là EURO 12.
Việc tuân thủ những thoả thuận của hiệp ước không chỉ diễn ra một lần. Các
kiến trúc sư của đồng EURO biết rằng, trách nhiệm với chính sách tài khoá chỉ có ý
nghĩa khi có được duy trì liên tục nên EU đã soạn thảo “Hiệp ước tăng trưởng và ổn
định” hiệp ước này nhằm trừng phạt những nước trong khu vực đồng EURO có
thâm hụt ngân sách quá mức. Nếu một nước có thâm hụt ngân sách vượt quá 3%
GDP thì nước này sẽ phải đặt cọc một khoản tiền không được hưởng lãi tại ECB
trong suốt thời gian tiến hành điều chỉnh. Số tiền phaṭ bằng 0,2% GDP năm phát
sinh thâm hụt ngân sách quá mức cộng với 0,1% số chênh lệch thâm hụt ngân sách
vi phạm. Giới hạn tối đa của khoản tiền này là 0,5% GDP. Nếu như sau hai năm
nước này cải thiện đựoc tình trạng thâm hụt ngân sách quá mức thì số tiền này sẽ
được ECB hoàn trả lại. Còn nếu không cải thiện được tình hình thì Ủ̉y ban Châu âu
sẽ coi đó là khoản tiền nộp phạt vĩnh viễn đóng góp cho ngân sách liên minh. Tuy
vậy, nước vi phạm sẽ được hưởng trường hợp ngoại lệ nếu như nước này đang trong
thời kỳ suy thoái.
Trang : 11
1.4.3 Ảnh hưởng của đồng EURO đối với nền kinh tế thế giới.
Khi đồng EURO ra đời, các quốc gia trên thế giới đều tin rằng đồng EURO
sẽ là đồng tiền mạnh dựa vào thực lực của nền kinh tế Châu Âu. Việc ra đời của
đồng EURO là một sự thiết lập rõ ràng thế 3 cực của nền kinh tế thế giới: Mỹ – Tây
Âu – Nhật Bản. Việc đồng EURO ra đời đã chia sẻ thế độc tôn của đồng đô la Mỹ
vốn đã bá chủ trong thanh toán quốc tế từ mấy chục năm qua. Vậy đồng EURO sẽ
ảnh hưởng đến nền kinh tế tài chính của thế giới như thế nào. Sau đây là những xem
xét cụ thể.
a. Tác động đến đầu tư quốc tế.
Trên khía cạnh đầu tư quốc tế, đồng EURO ra đời đã đem lại rất nhiều tiềm
năng thu hút vốn đầu tư, mở rộng sản xuất trong nội khối cũng như sang các khu
vực khác trên thế giới. Lý do là:
• Đồng EURO được hình thành đã tạo ra một thị trường rộng lớn ở Châu Âu
với hơn 300 triệu dân, là thị trường chiếm 19.4% tổng sản phẩm của thế giới và
18.6% thương mại quốc tế, tất cả điều này sẽ là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư trong
khối cũng như ngoài khối Châu Âu.
• Khi tham gia đồng tiền chung, các quốc gia trong khối phải thực hiện những
điều kiện kiểm soát chặt chẽ về lãi suất và lạm phát, điều này giúp cho đồng tiền ổn
định, do đó hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế vốn coi Châu Âu là một nơi an toàn kể
từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á. Một mức lãi suất thấp
cũng sẽ làm tăng nguồn vốn đầu tư từ trong chính các nước thành viên. Hơn nữa,
việc thực hiện một đồng tiền duy nhất sẽ giúp cho việc thẩm định, đánh giá các dự
án đầu tư vào các nước thành viên trở nên dễ dàng hơn do không phải nhức đầu với
vấn đề tỷ giá. Việc thực hiện đồng tiền chung cũng giúp cho việc quản lý trở nên
đơn giản, giảm đi các chi phí giao dịch ngoại tệ … do vậy kích thích khả năng hấp
dẫn của thị trường EU đối với các nhà đầu tư ngoài khối lẫn trong khối.
* Tác động tới các nước Châu âu nằm ngoài khu vực đồng euro.
Đối với những nước mong muốn gia nhập EMU, sẽ có sự nghiên cứu thị
trường một cách kỹ lưỡng, với phản ứng đột ngột về sự chênh lệch lãi suất gia tăng
Trang : 12
nếu những diễn biến như sự trượt dốc của chính sách ngân sách đưa một quốc gia đi
chệch hướng các tiêu chuẩn cho việc gia nhập khu vực đồng EURO. Nếu như việc
phối hợp chính sách của khu vực đồng EURO trở thành một điểm nóng trong giai
đoạn đầu của EMU thì điều đó cũng có thể tác động lên thị trường và làm thay đổi
các tỷ giá cân bằng trong ERM II.
Những nước không tham gia ERM II có thể tiếp tục điều hành các chính sách
tiền tệ của mình một cách linh hoạt trong việc điều tiết các cú sốc không cân xứng
giữa họ và khu vực đồng EURO, bao gồm cả tiến trình chuyển sang sử dụng đồng
EURO. Một số nước trong số này có thị trường tài chính rất quan trọng (ví dụ như
Anh, Thụy sĩ) có thể phải đối mặt với những khó khăn về mặt tài chính nếu không
chắc chắn về quan điểm chính sách của khu vực đồng EURO làm nảy sinh các
luồng vốn lớn ra và vào.
Nauy và Thụy Sĩ, mặc dù không phải là thành viên của EU và không đủ tiêu
chuẩn để tham gia, sẽ trực tiếp chịu tác động của liên minh tiên tệ do vị trí gần gũi
về địa lý và các liên hệ về tài chính, thương mại với khu vực sử dụng đồ̀ng EURO.
b. Tác động đến thị trường tài chính tiền tệ thế giới.
Khi đồng EURO ra đời, các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng đồng EURO
sẽ là một đối trọng với đồng đô la Mỹ, dự đoán này dựa trên cơ sở về tiềm lực kinh
tế, chính trị, thị trường của các nước thực hiện đồng tiền chung so với Mỹ.
BẢNG 1.1 SO SÁNH TIỀM LỰC 3 CỰC KINH TẾ THẾ GIỚI năm 1997
EU Hoa kỳ Nhật Bản
Dân số (triệu người) 289,4 271 125
Tốc độ tăng trưởng (%) 2,5 3,8 0,9
GDP (tỷ ECU) 5,546 6,846 3,712
Tỷ trọng trổng GDP thế giới (%) 19,4 19,6 7,7
Tỷ trọng trong thương mại quốc tế (%) 18,6 16,6 8,2
Mức tiết kiệm tuyệt đối (tỷ USD) 600 275 685
Tiết kiệm trong GDP (%) 8,7 3,8 15
Hàm lượng dùng đồng tiền trên thế giới ECU USD Yên
+ Dự trữ ng̣oại tệ (%) 25,8 56,4 7,1
+ Giao dịch ngoại hối (%) 35 41,5 12
Thương mại quốc tế (%) 31 40 5
+ Nợ của các nước ĐPT (%) 15,8 50,2 18,1
Trang : 13
+ Nợ qua phát hành trái phiếu (%) 34,5 37,2 17
Qua bảng ta thấy, Châu Âu (EU-12) với dân số hơn 320 triệu, GDP đạt 8.000
tỷ USD năm 2004 so với Mỹ dân số hơn 250 triệu, GDP đạt 10.000 tỷ USD, với
tiềm lực kinh tế như thế, trong tương lai thì chỉ có đồng EURO mới có thể sánh
ngang với đồng USD, vì sức mạnh của khu vực các nước đồng EURO đã cao hơn
so với Nhật Bản - là một cực trong nền kinh tế thế giới. Kể từ khi ra đời và được ấn
định tỷ giá ban đầu là 1 EURO = 1.1667 USD, đồng EURO đã liên tục dao động và
tỏ ra suy yếu. Có những lúc 1 EURO chỉ đổi được 0.85 – 0.9 USD, mất giá tới 25%
so với đồng USD. Tuy nhiên, trong năm 2003, 2004 đồng EURO lại dần dần lấy lại
được ưu thế và có những lúc đã đạt đến 1 EURO = 1.2 USD. Theo Ông Yves
Thibault Silguy – Cao ủy Châu Âu về tiền tệ thì giá trị thực của đồng EURO so với
đồng USD Mỹ phụ thuộc vào lòng tin của thế giới đối với Châu Âu. Đồng Euro ra
đời đã tạo ra thế “chân vạc” trong hệ thống tiền tệ thế giới đó là đồng USD Mỹ,
đồng EURO và đồng Yên Nhật Bản. Đồng EURO đạt được điều này là bởi vì : thứ
nhất, trong lĩnh vực thương mại, các nước EU chiếm 60% thương mại toàn cầu vì
thế tất yếu các nước sẽ sử dụng đồng EURO trong thanh toán; thứ hai, bản thân các
quốc gia cũng muốn sử dụng đồng EURO nhằm phân tán bớt rủi ro và bớt phụ
thuộc vào đồng USD cũng như nền kinh tế Mỹ.
Đồng EURO ra đời đã làm thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại tệ của nhiều quốc
gia, điều này là hoàn toàn có thể xảy ra vì như đã đề cập ở trên, các quốc gia trên
thế giới trong nhiều thập niên qua đã gắn việc dự trữ ngoại tệ của mình vào một
đồng tiền chủ yếu đó là đồng USD. Điều này khiến cho các quốc gia gặp rủi ro nếu
sự biến động của đồng USD không theo như ý mong đợi. Việc đa dạng hóa đồng
tiền dự trữ sẽ giúp cho các quốc gia giảm thiểu bớt rủi ro và tự chủ nhiều hơn trong
hoạch định ngân sách. Trên thực tế đã có nhiều quốc gia thực hiện việc này, chẳng
hạn như trong cuộc hội thảo quốc tế về ngân hàng tại Saint Peterburg, thống đốc
ngân hàng Trung ương Nga Sergei Ignatyev thông báo dự trữ ngoại tệ của Nga đến
tháng 06 năm 2003 đạt 64,9 tỷ USD, trong đó tỷ trọng đồng EURO trong dự trữ
ngoại tệ của Nga đã vượt con số 25%. Thứ trưởng tài chính Nga Alexe Ulyukayev
Trang : 14
cũng cho biết dự trữ ngoại tệ bằng đồng EURO của Nga sẽ tiếp tục tăng nhằm đảm
bảo sự đa dạng trong dự trữ ngoại tệ. Còn tại Trung Quốc, hiện nay dự trữ ngoại tệ
cũng đã có những thay đổi so với trước. Nếu như trước đây dự trữ ngoại tệ của
Trung Quốc chủ yếu bằng đồng USD , thì nay cơ cấu đó là 62% bằng đồng USD,
8% đồng Yên Nhật Bản và 19% bằng đồng EURO, trong thời gian tới Trung Quốc
dự tính sẽ tăng dự trữ ngoại tệ bằng đồng EURO lên tới 30 % - 40% trong dự trữ
ngoại tệ của mình. Hàn Quốc, Singapore, Malaixia cũng thay đổi tỷ lệ dự trữ ngoại
tệ bằng đồng EURO.
Đồng EURO ra đời cũng là động lực thúc đẩy cho những khu vực kinh tế
hình thành ý tuởng thiết lập đồng tiền chung. Ý tưởng này đã xuất hiện ở nhiều nơi
từ Châu Phi đến Châu Á. Một trong những ý tưởng đó hình thành ở các nước Châu
Phi khi ngày 22-12-2001, các nhà lãnh đạo các nước tham dự Hội nghị cấp cao
ECOWAS đã quyết định lấy từ “ECO” làm tên gọi cho đồng tiền chung sẽ được sử
dụng tại 5 nước thuộc khu vực tiền tệ thứ 2 của ECOWAS là : Gambia, Ghana,
Guinea, Nigeria, Sierra Leon. Tiếp đến bàn cãi chung quanh việc sử dụng đồng tiền
chung giữa Ú́c và NiuZilân khi viện nghiên cứu chính sách Niu Zilân đã mở một
điều tra trên 400 công ty tại Niu Zilân cho thấy đại đa số (60%) ủng hộ mạnh mẽ
việc sử dụng đồng tiền chung, chỉ có 14% phản đối. Tranh cãi quanh đồng tiền
chung của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA.
c. Tác động đến quan hệ thương mại toàn cầu
Sự xuất hiện của đồng Euro với tư cách là đồng tiền chung của một thực thể
kinh tế quan trọng với gần 300 triệu dân, chiếm 19,4% tổng sản phẩm của thế giới
và 18,6% thương mại quốc tế, sẽ tăng cường hội nhập và phúc lợi kinh tế của các
nứơc thành viên EU và chắc chắn sẽ đem lại những cơ hội cũng như những thử
thách mới cho các nước trên thế giới.
Trang : 15
Kết luận chương I.
Có thể nói thế giới chúng ta đang chứng kiến một xu thế khu vực hoá, toàn
cầu hoá hết sức mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính. Chính xu thế này đã góp phần
nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư quốc tế bằng cách chuyển chúng đến những
nơi hứa hẹn có nhiều lợi nhuận nhất.
Sự ra đời của đồng EURO đang được là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm
của đồng USD. Ảnh hưởng đến vị trí độc tôn của đồng USD trên thị trường thanh
toán quốc tế. Do đó, cũng không khó hiểu khi đồng EURO ra đời đã vấp phải nhiều
sự phản ứng từ phía Mỹ.
Từ lúc ra đời cho đến nay, đồng EURO đang biến động khá phức tạp. Lúc
đầu, nó liên tiếp giảm giá trị so với đồng USD nhưng sau đó lại vượt lên mạnh mẽ
và vượt qua luôn cả mức quy định ban đầu. Điều này xuất phát từ xu hướng muốn
cải thiện cán cân thương mại đang bị thâm hụt lớn của Mỹ bằng cách giảm giá đồng
USD để kích thích xuất khẩu cộng với tình hình tăng trưởng chậm chạp và kém ổn
định của các nước EU.
Nhưng dù sao, với sự ra đời của đồng EURO, bản đồ tài chính quốc tế kể từ
đó đang được vẽ lại, hứa hẹn sự sôi động hơn và bình đẳng hơn trong các giao dịch
tài chính trên thế giới. Trong tương lai, các đồng tiền đựơc sử dụng quốc tế và được
chấp nhận rộng rãi trong thanh toán quốc tế sẽ không còn là sự độc tôn của USD mà
ít nhất sẽ có một người đồng hành là EURO.
Trang : 16
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG KINH TẾ TÀI CHÍNH
ASEAN
2.1 Tổng quan về tình hình kinh tế của các quốc gia ASEAN.
Tình hình kinh tế năm 2003, Chiến tranh và dịch bệnh khiến cho tình hình
trở nên ảm đạm đến mức vào giữa năm nhiều chính phủ trong khu vực phải hạ thấp
dự báo mức tăng trưởng. Nhưng rồi những nổ lực mới đã cải thiện tình hình. Tốc độ
tăng trưởng khu vực Châu Á Thái Bình Dương ( bao gồm ASEAN và Đông Bắc Á)
được coi là nhanh nhất thế giới với 6,1 % vào năm 2003 và đạt đến 6,4% năm 2004
(số liệu cuả Ngân Hàng Thế Giới). Bên cạnh những nổ lực cải thiện môi trường du
lịch, từ tháng 10-2003, những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản hưá
hẹn khả năng tăng cường xuất khẩu cuả nền kinh tế ASEAN, nhờ đó tốc độ tăng
trưởng kinh tế có thể thay đổi nhiều . Các chỉ số kinh tế cơ bản đã nêu phản ánh tình
hình kinh tế vĩ mô khá lành mạnh cuả nền kinh tế khu vực.
Tuy nhiên, Các thành viên ASEAN vẫn tiếp tục thực hiện tích cực tiến trình
hợp nhất khu vực , coi đó là việc cấp thiết trước những thách thức toàn cầu hiện
nay. Mục tiêu mới bây giờ là tiến tới 2010 xoá bỏ thuế nhập khẩu giữa các thành
viên cũ và tới năm 2015 đối với các thành viên mới bao gồm Campuchia, Lào,
Myanmar và Việt nam. Thương mại giữa các thành viên ASEAN đã tăng từ 44 tỷ
USD năm 1993 lên 87 tỷ USD năm 2001 nhờ giảm thuế theo AFTA. Với những
mục tiêu đặt ra như thế, các nước thành viên đang xúc tiến thúc đẩy nhanh quá trình
kinh tế, thông qua hàng loạt chính sách kinh tế khu vực như khu vực đầu tư ASEAN
(AIA), hợp tác công nghiệp (AICO)…. tạo thuận lợi thu hút đầu tư FDI từ cả các
nước ASEAN lẫn ngoài ASEAN. Theo hiệp định AIA , các nước ASEAN cam kết
dành ưu đãi huệ quốc cho các nhà đầu tư ASEAN. Thời hạn rút ngắn từ 2020 thành
2010.
Trang : 17
2.2. Thực tiển phát triển khu vực trong giai đoạn hiện nay :
Hợp tác ASEAN được thực hiện ở hai phạm vi : hợp tác của từng thành viên
trong nội khối và hợp tác của ASEAN với tư cách là một khối độc lập với bên
ngoài. Trong đó, phạm vi nội khối quy mô tương đối toàn diện : ngoại giao , kinh tế,
an ninh….
2.2.1 Liên kết và tự do hoá thương mại trong khu vực ASEAN :
a. Hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại (AFTA)
Mặc dù tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các thành
viên ASEAN là khá lớn, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này trong
những năm 1980 đầu những năm 1990 là rất cao và tương đối đồng đều, tạo điều
kiện cơ sở thúc đẩy cho các nước ASEAN tăng cường hợp tác kinh tế sâu rộng mà
bắt đầu là hiệp định thương mại thuế quan (PTA) tạo cơ chế tự do hoá buôn bán
trong khu vực. Tuy nhiên, xu hướng hội nhập khu vực đòi hỏi một cơ chế hợp tác
toàn diện hơn giữa các nước ASEAN và từ đó mậu dịch tư do ASEAN (AFTA) ra
đời. Hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại (AFTA) ký 28/1/1992. Khu mậu
dịch tự do ASEAN được xây dựng nhằm mục đích sau :
(i)Tăng cường buôn bán nội bộ các nước trong khu vực thông qua việc dỡ bỏ hàng
rào; (ii) Thuế quan và phi thuế quan, giảm bớt lệ thuộc thị trường bên ngoài; (iii)
Tạo điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đây là mục tiêu chính. (iv)
Tăng cường củng cố tiến trình hội nhập kinh tế .
Nếu xét về lộ trình hội nhập kinh tế theo chiều dọc, thì AFTA là chiếc cầu
nối để các nước thành viên ASEAN tham gia một cách đầy đủ và hiệu quả vào các
tổ chức thương mại quốc tế, như diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương (APEC), tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nếu xét về chính sách kinh tế
đối ngoại, đối tác chủ yếu của các nước thành viên trong hiệp hội thì vẫn là hướng
vào các nước lớn, các cường quốc kinh tế trên thế giới. Do vậy , mục tiêu chủ yếu
của các thành viên không chỉ đơn thuần là AFTA, mà thông qua tổ chức này, tạo ra
được những lợi thế mới để tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.
Trang : 18
So với EU hoặc NAFTA, thể chế AFTA còn đơn giản và lộ trình thực hiện
theo từng bước với những mốc kết thúc của các nước thành viên không đồng nhất.
AFTA tạo cho ASEAN một không gian mới, một thị trừơng thống nhất từ đó giúp
các nước thành viên tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, tạo dựng
ASEAN thành một cơ sở sản xuất, cạnh tranh hướng ra thị trường thế giới.
BẢNG 2.2 : TỶ LỆ ÁP DỤNG CEPT TRUNG BÌNH CÁC NƯỚC ASEAN (%)
NƯỚC 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Brunei 1,37 1,55 1,26 1,17 0,96 1,04
Indonesia 7,06 5,36 4,76 4,27 3,69 2,17
Malaysia 3,46 3,2 3,32 2,71 2,62 1,95
Philipines 7,72 7,34 5,18 4,48 4,13 3,82
Singapore 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Thailand 10,24 9,58 6,12 5,67 4,97 4,63
ASEAN – 6 5,22 4,79 3,64 3,22 2,89 2,39
Cambodia 10,39 10,39 8,89 7,94
Lao 5,00 7,54 7,07 7,08 6,72 5,86
Myanmar 2,39 4,45 4,43 4,57 4,72 4,64
Vietnam 3,95 7,11 7,25 6,75 6,92 6,43
ASEAN – 10 4,91 5,01 4,43 4,11 3,84 3,33
Nguồn : Ban thư ký ASEAN
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khởi phát từ Thái lan (7/1997) lan nhanh
nhiều nước khác và đã để lại nhiều hậu quả tới tất cả các nước ASEAN. Làm suy
giảm đà tăng trưởng kinh tế khu vực, ảnh hửơng không nhỏ đến thành tựu Kinh tế –
Trang : 19
Xã hội của nhiều nước trong hiệp hội và các hoạt động hợp tác kinh tế ASEAN.
Một trong những hậu quả là kim ngạch thương mại nội khối và FDI giảm đáng kể .
Chủ trương thực hiện “ các biện pháp táo bạo“ của các nước ASEAN nhằm
đẩy mạnh việc thực hiện CEPT/AFTA xuống còn 9 năm (từ 1/93 – 1/2002) đối với
nhóm 6 nước ASEAN cũ, còn đối với các thành viên mới sẽ tối đa số dòng thuế có
thuế suất 0 – 5% vào 2003 ( Việt nam) 2005 (Lào và Mianma); tăng tối đa số dòng
thuế suất 0% vào 2006 đối với Việt nam, 2008 đối với Lào và Mianma. Khi đó, thuế
quan trong thương mại nội bộ ASEAN còn trong khoảng 0 – 5%. Đồng thời, các
nước thành viên cũng thoả thuận loại bỏ dần các hạn chế về định lựơng và hàng rào
phi thuế quan vốn đa dạng đang cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực.
b. Hiệp Định Thương Mại Tự Do Song Phương Và Liên Kết Asean (FTA)
Sau cuộc khủng hoảng 1997 một xu thế mới xuất hiện trong các nước
ASEAN đó là yêu cầu thiết lập hiệp định thương mại tự do (FTA). Sự phát triển
mạnh mẽ sôi động của các FTA trong những năm gần đây bắt nguồn từ hàng loạt
các nhân tố kinh tế, chính trị và chiến lược. Về những nhân tố kinh tế kỹ thuật, có
thể kể ra là:
Thứ nhất: Việc hình thành các FTA song phương bắt nguồn từ những khó
khăn và bế tắc của các vòng đàm phán đa phương từ Seattle, đến Doha rồi Cacncun.
Thứ hai: Những ưu thế mà FTA có được so với đàm phán đa phương được
hiện rõ trên nhiều phương diện. Tốc độ của các cuộc đàm phán đa phương thường
diễn ra chậm và dễ lâm vào bế tắc do sự tham gia của quá nhiều bên khiến cho các
nước không thoả mãn được nhu cầu mở rộng thị trường cũng như gia tăng lợi ích
của mình trong các hoạt động thương mại. Trong khi đó, việc các đàm phán và ký
kết FTA song phương lại diễn ra theo chiều hướng thuận lợi nhiều hơn với các ưu
thế như dễ chọn đối tác, dễ thảo thuận và họ có thể nhìn thấy rõ lợi ích.
Thứ ba: Đối với các nước châu Á, cuộc khủng hoảng tài chính 1997 – 1998
đã đặt ra cho các nước những vấn đề phát triển mới nhằm ứng phó với những thay
đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu. Nhật bản và Hàn quốc muốn thực hiện
Trang : 20
FTA song phương nhằm thúc đẩy những cải cách trong nước, duy trì thế cạnh tranh
trong khu vực và trên thế giới. Trung quốc đẩy mạnh các FTA song phương với
ASEAN và các nước nhằm mở rộng không gian kinh tế , tìm kiếm các cơ hội cho
phát triển. Đối với các nước ASEAN, sự chênh lệch về trình độ phát triển đã buộc
các nước tương đối phát triển ký kết các FTA để bứt phá, tiến lên phía trước
Dẫn đầu là quốc gia Singapore, Thailand . Điều này đã đặt áp lực hội nhập
trong nội bộ khu vực ASEAN theo hướng thúc đẩy một cuộc chạy đua thiết lập
FTA giữa các nước trong ASEAN với các nước bên ngoài. Đây được xem là động
thái mới đưa khu vực thoát khỏi tình trạng ì ạch trong nỗ lực hội nhập, nhất là hội
nhập nội bộ ASEAN.
Hiện nay, nhằm có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn, hàng hoá với chi phí
thấp hơn. ASEAN đang từng bước đạt được thoả thuận tự do thương mại với các
nền kinh tế quan trọng. Đây cũng chính là mục tiêu thúc đẩy mở cửa tự do các hàng
hoá sản xuất trong vùng, trong cuộc họp thường niên các bộ trưởng ASEAN, các
nước hy vọng sẽ đạt được thoả thuận tự do thương mại với Trung quốc đầu tiên vào
năm 2010, Ấn độ 2011 và Nhật bản năm 2012
Đặc điểm của tiến trình liên kết được thúc đẩy mạnh bởi nhu cầu nội tại của
từng quốc gia khu vực chứ không vì yếu tố bên ngoài. Thậm chí, mục tiêu liên kết
đặt ra rõ ràng đó là ngăn chặn cuộc khủng hoảng trong tương lai. Việc tập trung đầu
tư xuất khẩu vào các thị trường lớn như Nhật và Mỹ, làm cho độ rủi ro càng cao.
Nhật bản đang trải qua một quá trình dài suy thoái kinh tế, khả năng tiêu thụ hàng
hoá giảm sút nghiêm trọng. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu thụ hàng hoá
và làm trầm trọng thêm việc thu ngoại tệ từ xuất khẩu.
* Vấn đề đặt ra : Việc phát triển của các FTA, các nước trong nhóm ASEAN 6
(gia nhập đầu tiên) dường như đã tìm ra lối thoát cho mình. Tuy nhiên, nó lại đẩy
các nước nhóm ASEAN 4 ( gia nhập sau) vào thế cô lập đối với quá trình phát triển
chung của khu vực. Tính liên kết và hợp tác khu vực suy giảm do giữa hai nhóm
Trang : 21
nước không tìm được lợi ích chung. Do vậy FTA của các nước thành viên cần phải
đặt trong tổng thể chung lợi ích của các nước trong khu vực.
Vấn đề cần quan tâm trước mắt là ASEAN phải đẩy nhanh lộ trình AFTA,
đẩy nhanh quá trình hợp tác kinh tế khác, trong đó quan trọng nhất là khu vực dịch
vụ và đầu tư. Có như vậy khi ACFTA ra đời, các nền kinh tế trong ASEAN mới có
thể đứng vững trước sự bành trướng của nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc. Khi đó
ASEAN không bị “hoà tan” trong ACFTA, hàng hoá Trung Quốc không thể lấn át
thị phần của hàng hoá ASEAN ngay tại thị trường ASEAN và có thể thu hút đầu tư
nước ngoài. Việc các nước ASEAN thoả thuận rút ngắn lộ trình AFTA xuống 3
năm tức là vào năm 2007 với ASEAN-6 (6 nước tham gia ASEAN đầu tiên) và năm
2012 với ASEAN-4 (4 nước gia nhập sau) là một động thái tích cực theo hướng đó.
c. Tự do hoá thương mại, Cộng đồng kinh tế Asean - AEC :
Những chương trình hiện có của ASEAN không đủ hiệu quả để có thể đưa
ASEAN đạt mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hội nhập kinh tế. Đặc biệt, kể từ cuộc khủng
hoảng năm 1997, sự sụt giá chung đồng tiền các nước trong khu vực đã làm thay
đổi khả năng cạnh tranh thông qua hội nhập ASEAN. Sự nổi lên và tham gia của
Trung quốc vào lĩnh vực thương mại và kinh tế trong khu vực đã khiến khả năng
cạnh tranh và sức hấp dẫn đầu tư vào ASEAN bị thu hẹp. Vào thời điểm hậu SARS
này, nền kinh tế Trung quốc vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6 –7 % trong khi tỷ lệ tăng
trưởng của ASEAN chỉ khoảng 3 –4% (Ban thư ký ASEAN, 2003). Các nhân tố
trên là lý do để các nước ASEAN cần xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN nhằm “
thúc đẩy tiến trình hội nhập ASEAN nhanh chóng hơn nữa sau lộ trình cắt giảm
thuế quan AFTA hoàn tất” và coi đó là “chiếc chìa khoá để thực hiện tầm nhìn
ASEAN 2020”
* Lộ trình hội nhập 11 ngành ưu tiên, Áp dụng chế độ hải quan một cửa.
Trong bước đi thứ 2 của liên minh tiền tệ, liên minh thuế quan đóng một vai
trò quan trọng, nó tạo một hành lang pháp lý về việc vận chuyển hàng hoá giữa các
quốc gia với nhau. Lộ trình hội nhập 11 ngành hàng ưu tiên bao gồm các biện pháp
Trang : 22
cụ thể, toàn diện nhằm hỗ trợ liên kết các ngành kinh tế mà ASEAN đang có ưu thế
hoặc nhiều tiềm năng phát triển như nông nghiệp, thủy sản, cao su, dệt may, điện tử,
du lịch……nhằm nâng cao cấp độ hội nhập kinh tế nội khối và nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường thế giới 11 ngành ưu tiên hội nhập bao gồm 7 ngành là hàng
hoá (dệt may, ô tô, điện tử, đồ gỗ, sản phẩm cao su, nông sản, thủy sản) và 4 ngành
là dịch vụ (du lịch, vận tải, hàng không, y tế). Hình thành một thị trường rộng lớn
có sức thu hút đầu tư từ bên ngoài, tạo môt thị trường tự do di chuyển về lao động,
vốn, khoa học kỹ thuật, chất xám. Giảm bớt sự phụ thuộc vào các thị trường bên
ngoài, chủ động trong việc tìm kiếm nơi tiêu thụ…... Cơ chế hải quan một cửa sẽ
được áp dụng thử nghiệm tại Philippines trong năm 2005 và dự kiến từ ngày
1/1/2006 sẽ áp dụng ở các nước khác thuộc ASEAN có đủ điều kiện, các nước
ASEAN không đủ điều kiện về hạ tầng và nguồn lực sẽ được lùi lại thêm một thời
gian nữa.
ASEAN cũng đã chọn ra một số nước làm điều phối cho các mặt hàng để đẩy
mạnh nhanh hơn nữa hợp tác phát triển như Indonesia với gỗ và ô tô, Malaisia với
cao su và dệt may, Myanmar với nông sản và thủy sản, Philippin với điện tử ,
Singapore với y tế, Thái lan với vận chuyển hàng không và du lịch. Tuy nhiên, các
nhà lãnh đạo ASEAN cũng thể hiện quan điểm “ ASEAN là một hiệp hội các nhà
nước độc lập , có chủ quyền và đặc biệt là trình độ phát triển, điều kiện chính trị, xã
hội khác nhau. Mục tiêu thị trừơng trong cuộc cạnh tranh ở quy mô thế giới này sẽ
không thể đạt được nếu thiếu vai trò chủ động của cộng đồng doanh nghiệp
ASEAN”.
Bên cạnh đó, Trong khuôn khổ hợp tác phát triển và hội nhập Hải quan
ASEAN, nhiều kết quả hợp tác có hiệu quả trong giai đoạn 1998 – 2004 , như áp
dụng trị giá hải quan của WTO trong ASEAN, áp dụng danh mục hàng hoá nhập
khẩu hài hoà ASEAN (AHTN), xây dựng những cơ sở pháp lý để thiết kế và thực
hiện Hải quan một cửa ASEAN nhằm tạo thuận lợi thương mại đầu tư trong khu
vực .
Trang : 23
d. Các hình thức hợp tác khác xem phụ lục 4
2.2.2. Kinh tế khu vực, thế giới tác động xu hướng phát triển kinh tế ASEAN
a. Tác động phát triển Châu Á –Thái Bình Dương đến sự liên kết ASEAN:
Trong báo cáo thừơng kỳ 6 tháng một lần, công bố ngày 27/4, WB cho rằng
tăng trưởng kinh tế của các nứơc Đông á, trừ Nhật bản, có thể đạt 6% năm 2005.
Trong khoảng 10 năm qua đã có một sự dịch chuyển về xuất khẩu và FDI từ
ASEAN ( không kể Singapore) sang Trung quốc. Trong giai đoạn 1985 –1995 FDI
bình quân đầu người hàng năm của ASEAN ( bao gồm 6 nước) là 18 USD, còn
Trung quốc là 6 –10 USD, bình quân các nước đang phát triển là 12 USD. Ngược
lại, giai đoạn 2001 – 2002, tại Trung quốc là 30 – 40 USD còn các nước đang phát
triển là 37 USD, ASEAN là 10 USD. Một trong những lý do của tình trạng này là
các nước ASEAN chịu cú sốc năm 1997 nặng nề hơn so với các nước Châu Á khác
và đã tụt lại so với tất cả các nước đang phát triển khác. Xuất khẩu các nước chỉ
tăng khoảng 6,5% từ năm 1998 – 2002. Giá cả đều giảm nhẹ, trong khi đó từ 1995
–2003 xuất khẩu Trung quốc đều đạt 12%. Bên cạnh đó với tỷ lệ tiêt kiệm cao,
chính trị ổn định, chi phí lao động thấp, cùng một thị trường khổng lồ, Trung quốc
có những lợi thế hơn ASEAN Mặt khác, cường quốc kinh tế hàng đầu Châu á là
Nhật bản vẫn chưa thoát khỏi cơn suy thoái và trì trệ kéo dài hàng chục năm nay.
Trong những năm gần đây , các chính sách vĩ mô kích thích sự phục hồi tăng trưởng
các nền kinh tế Châu á đã hỗ trợ mạnh mẽ cho quá trình phục hồi dù còn khiêm tốn
của nền kinh tế Nhật bản. Nền kinh tế Nhật bản đang phải đối diện với nhiều thách
thức, đặc biệt là do các chương trình kích thích tài chính và các khoản chi tiêu của
chính phủ hỗ trợ quá trình phục hồi đã làm cho món nợ công của Nhật bản tăng lên
nhanh chóng trong vài năm qua. Do đó, dự báo chắc chắn về triển vọng phục hồi
kinh tế Nhật bản là không chắc chắn. Điều này ảnh hưởng lớn đến thị trường tiêu
thụ của các nước ASEAN, vốn phụ thuộc khá nhiều vào thị trường Nhật bản.
Trang : 24
Sự phát triển khác nhau của hai lực lượng chủ yếu trong khu vực trên (các
cường quốc “trẻ” nổi lên và các cường quốc “già” suy yếu) đang hình thành nên
một cục diện mới, tác động rất mạnh đến sự tồn tại lẫn triển vọng của ASEAN.
Từ những diễn biến trên vấn đề tự do hoá thương mại khu vực Đông Nam Á
trở thành một xu thế tất yếu khách quan. ASEAN cần tạo lập một thị trường liên kết
với dung lượng tiêu dùng của khoảng 530 triệu dân ở một khu vực có vị trí địa lý và
chính trị, kinh tế quan trọng nằm trên ngã tư nối liền châu Á với Châu đại dương
với Thái Bình Dương, Nam á với Đông Bắc Á ; có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu và công
nghiệp hoá dầu, khai khoáng, có nguồn nhân lực dồi dào với lợi thế về sức lao
động, có tiềm năng mở rộng hợp tác Đông á với Trung quốc, Nhật bản và Hàn
quốc. Đó là những nhân tố thuân lợi để mở rộng thị trường liên khu vực.
Thách thức cạnh tranh mới buộc ASEAN cũng phải có những biện pháp linh
hoạt và mở rộng thích ứng không chỉ tăng cường liên kết khu vực, mà còn mở rộng
hợp tác với các đối tác bên ngoài, đặc biệt là các đối tác đối thoại của ASEAN ở
Đông á. Hội nghị cấp cao 10 nước Đông Nam Á và 3 nước Đông Bắc á gồm Nhật
bản, Hàn quốc, Trung quốc (ASEAN +3) đã khởi động từ năm 1997. Ý tưởng hợp
tác Đông á đạt kết quả bước đầu hiện thực hoá với việc ASEAN và Trung quốc thoả
thuận lập khu vực mậu dịch tự do Trung quốc – ASEAN (CAFTA) vào năm 2010.
Hiện nay, một FTA Trung quốc – ASEAN trên lý thuyết bao gồm 1,2 tỷ dân Trung
hoa và hơn 500 triệu dân Đông Nam á với một đội ngũ doanh nhân hoa kiều đông
đảo trong vùng. Tính đến 2000, ASEAN và Trung quốc có GDP gần 1,7 nghìn tỷ
USD và tổng kim ngạch ngoại thương gần 1,3 nghìn tỷ USD. Theo ban thư ký
ASEAN, khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN ra đời sẽ làm kim ngạch xuất
khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng lên 55,1% và xuất khẩu của ASEAN sang
Trung Quốc cũng tăng 48%. Điều đó sẽ làm GDP của Trung Quốc cũng tăng 0,3%
và của ASEAN tăng 0,9%. Đến năm 2010 tổng kim ngạch mậu dịch của ACFTA sẽ
tăng trên 30%, cao gần bằng tổng kim nghạch mậu dịch nội bộ của EU. Về đầu tư,
Trang : 25
tổng số vốn đầu tư của ASEAN đã lên tới trên 50 tỷ USD, chiếm 6,6% đầu tư nước
ngoài mà Trung quốc thu hút được.
Cùng với Trung quốc, một điều gì đó tương tự cũng đang hiện lên ở Ấn độ,
tuy có vẻ kém phần mạnh mẽ. Quy mô kinh tế lớn, mở cửa và hội nhập quốc tế tích
cực hơn, định hướng phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin như là
hướng chủ đạo và những kết quả to lớn thu được từ nỗ lực này cho thấy triển vọng
dài hạn nổi bật của Ấn độ. Ấn độ đang can dự ngày càng sâu và tích cực vào các
quá trình kinh tế, chính trị của khu vực ; trong đó ASEAN được coi là đối tác đặc
biệt quan trọng. Với tất cả những gì đang thể hiện, Ấn độ đang trở thành một đối
thủ cạnh tranh mạnh đối với ASEAN, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông
tin.
b. Tác Động Từ Kinh Tế Mỹ :
Với một nền kinh tế trị giá gần 1000 tỷ USD, ASEAN là thị trường lớn thứ 4
cho hàng xuất khẩu của Mỹ, gần bằng Trung quốc, Hồng kông, Đài loan, Ma cao
gộp lại. Khu vực ASEAN cũng tiếp nhận 42 tỷ USD đầu tư của Mỹ đổi lại, Mỹ
cũng là thị trường rất quan trọng đối với Đông Nam á. Xuất khẩu Đông Nam á năm
2003 là 19.3 % so với 1995 là 13,2 %.
Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng được xem như cầu nối Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương với nguyên tắc “ buôn bán công bằng “mối quan hệ
kinh tế thương mại đã chuyển từ quan hệ đồng minh bạn bè sang quan hệ bạn bè đối
tác. Việc mở rộng ASEAN sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn , làm tăng ý nghĩa quan
trọng đối với kinh tế Mỹ. Hiện nay Mỹ đã nâng quan hệ kinh tế với ASEAN lên
thành quan hệ nòng cốt trong khu vực. Nhằm mục đích thúc đẩy thương mại hai
chiều. Mỹ đã thực hiện đàm phán song phương và đa phương (khu vực), Mỹ và
ASEAN đã thiết lập nhóm tư vấn để tăng cường sự hợp nhất về kinh tế
Trang : 26
BẢNG 2.3 : CHỈ SỐ CƯỜNG ĐỘ THƯƠNG MẠI NỘI VÙNG
Khu vực 1980 1985 1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000
ASEAN 5.1 6.1 4.6 3.8 3.8 3.8 4.3 4.1 3.7
Đông Á–15** 2,6 2,3 2,3 2,1 2,2 2,2 2,3 2,4 2,2
EU 15 1,5 1,6 1,5 1,7 1,7 1,7 1,6 1,7 1,7
NAFTA 2,1 2,0 2,1 2,4 2,4 2,3 2,3 2,3 2,1
** Đông Á – 15 gồm EA – 14 và Nhật Bản ; Nguồn : Kawai and Urta (2002)
Bên cạnh đó đầu tư của Mỹ vào ASEAN cũng đa dạng hoá hơn trước đây
nếu vào thập niên 80 đầu tư của Mỹ tập trung vào dầu mỏ và khí đốt, hiện nay là
công nghiệp chế tạo. Đầu tư của Mỹ vào ASEAN phân bố tập trung ngành công
nghiệp chế tạo 37,7%, dầu khí 28,3% dịch vụ và ngành công nghiệp khác 34,4%
điều này cũng phù hợp với thay đổi cơ cấu kinh tế ASEAN
c. Tác động từ phía kinh tế EU
EU là đối tác thương mại lớn thứ 3 của ASEAN với tỷ trọng xuất khẩu của
ASEAN sang EU đạt 18% năm 2003 so với 13.5% năm 1995. Tuy nhiên, tiềm năng
hợp tác đôi bên còn rất lớn, như thương mại EU đối với ASEAN chỉ chiếm 5% tổng
kim ngạch thương mại và vốn đầu tư trực tiếp của EU vào ASEAN chỉ bằng chưa
đầy 5% tổng số vốn đầu tư của EU ra bên ngoài…hai quốc gia Pháp, Đức đóng góp
nhiều vào động cơ tăng trưởng toàn khu vực Đông Nam á. Trong thời gian tới, nền
kinh tế khu vực đồng EURO sẽ vẫn tiếp tục vận động theo hướng đi lên. Điều này
ảnh hưởng tích cực tới kinh tế khu vực.
Một trong những giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế ASEAN – EU là
tập trung vào nội dung triển khai TREATI. TREATI là trụ cột quan trọng trong
tương lai hợp tác giữa ASEAN và EU. Sức mạnh và sự ổn định của đồng EURO sẽ
tác động tích cực đến tình hình tài chính quốc tế nói chung, khu vực EU và ASEAN
nói riêng. Các nước EU hy vọng đồng EURO sẽ mở ra kỷ nguyên mới với mức tăng
Trang : 27
trưởng kinh tế mạnh hơn, môi trường tài chính tiền tệ ổn định hơn so khi sử dụng
đồng USD.
Thuận lợi chung trong việc xúc tiến các quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư
giữa EU và ASEAN là các thủ tục thanh toán sẽ đơn giản hơn, đặc biệt trong trường
hợp có nhiều nước cùng tham gia. Khả năng lưu thông lớn và chiều sâu của thị
trường tài chính khu vực đồng EURO đã giúp chi phí giao dịch hoa hồng giảm đáng
kể. Điều này sẽ kích thích phát hành trái phiếu bằng đồng EURO. Đồng thời việc
hình thành một thị trường thống nhất về giá cả và đồng tiền thanh toán là điều kiện
thuận lợi tăng kim ngạch xuất , nhập khẩu giữa hai khối.
EU bắt đầu sử dụng đồng EURO từ 1/1/1999 có ý nghĩa rất quan trọng đối
với các nước ASEAN. Các nước ASEAN có điều kiện chuyển một phần dự trữ
ngoại tệ của mình bằng đồng USD sang đồng EURO tránh đựơc rủi ro khi đồng
USD có biến động.
2.3 Hệ thống tài chính – tiền tệ khu vực ASEAN :
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, mà tâm điểm chính là hệ thống tài chính
tiền tệ tại các quốc gia đã làm cho các quốc gia xích lại gần nhau hướng đến một
chính sách tiền tệ phối hợp cùng đối phó với những biến động không phải tại một
mà là tất cả các nước ASEAN. Hướng đến một hệ thống điều hành tài chính tiền tệ
phối hợp giữa các quốc gia, xây dựng nền tảng liên minh tiền tệ. Các sáng kiến cơ
bản về hợp tác tài chính tiền tệ đựơc đề xuất hay đang đựơc tiến hành trong khu vực
có thể chia làm 3 nhóm cơ bản và được xem là trụ cột hợp tác tài chính:
a. Cơ chế giám sát khu vực.
b. Hệ thống tiền tệ và tỷ giá khu vực.
c. Thể chế tài chính ứng dụng khu vực.
2.3.1 Cơ chế giám sát Asean, quy trình giám sát Asean :
Các quy trình giám sát khu vực được thực hiện theo nhiều hình thức khác
nhau và được tăng cường từ sau khi khủng hỏang tài chính tiền tệ 1997.
Quy trình giám sát ASEAN ( ASEAN surveilolance process) : Thành lập tháng
10/1998, là một quy trình giám sát tổng kết có đánh giá độc lập và hỗ trợ cho quy
Trang : 28
trình giám sát toàn cầu do IMF thực hiện. Các nước ASEAN thống nhất gặp mặt ít
nhất 2 năm một lần để phân tích đánh giá tình hình kinh tế vĩ mô và phát triển của
vùng, cũng như xem xét các lĩnh vực đặc biệt khác như vấn đề cơ cấu và ngành.
Việc giám sát sẽ do nhóm phối hợp giám sát thuộc ban thư ký ASEAN tiến hành, và
sẽ chuẩn bị báo cáo giám sát ASEAN 6 tháng một lần. Các nước thành viên
ASEAN phải cung cấp cho nhóm phối hợp giám sát những thông tin tương tự như
những thông tin IMF yêu cầu trong điều 4 trong quy định hoạt động tư vấn của
IMF.
Các quy trình giám sát khác xem phụ lục 6
2.3.2 Hệ thống tiền tệ và tỷ giá khu vực :
BẢNG 2.4 PHÂN LOẠI HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC
CỦA CÁC CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
Tên đồng
Tiền
Mã chữ
Mục tiêu chiến lược của
chính sách tiền tệ Quốc gia
Chế độ tỷ giá
(1) (2) (3) (4) (5)
Brunei Dollar BND Chuẩn tiền tệ X
Campuchia Riel KHR Thả nổi có điều tiết X
Indonesia Rupiah IDR Thả nổi có điều tiết X
Lào Kip LAK Thả nổi có điều tiết X
Malaysia Ringgit MYR Cố định thông thường X
Myanma Kyat BUK Thả nổi có điều tiết X
Philippin Peso PHP Thả nổi độc lập X
Singapore Dollar SGD Thả nổi có điều tiết X
Trang : 29
Thái Lan Baht THB Thả nổi có điều tiết X
Việt Nam Dong VND Thả nổi có điều tiết X
(1)Exchange rate anchor; (2) Monetary aggergate target; (3) Inflation targeting framework (4) IMF–supported or other
monetary program; (5) Orther; Nguồn: Classification of Exchange Rate Arrangement Policy Frameworks,IMF
31/12/2004
2.3.3 Thể chế tín dụng khu vực .
a. Hệ thống chuyển tiền Swap trong khu vực ASEAN + 3 : “ Sáng kiến Chiang
mai” : cơ chế hỗ trợ khả năng thanh toán ngắn hạn các nước
Tháng 5/2000 Tại Chiang Mai , Các bộ trửơng Tài chính ASEAN + 3 đã đưa
ra “ Sáng kiến Chiang Mai”, bao gồm các cơ chế hỗ trợ khả năng thanh toán ngắn
hạn cho các nước trong khu vực gặp phải những khó khăn về cán cân thanh toán.
Sáng kiến Chiang Mai đã được báo cáo lên Hội nghị thương đỉnh ASEAN + 3 tại
Singapore vào tháng 11/2000. Sáng kiến bao gồm 2 nội dung chính :
Thoả thuận hoán đổi ASEAN (ASA) (ASEAN Swap Arrangement - ASA)
ASA được thiết lập vào năm 1997 với 5 thành viên chính: Indonesia,
Malaysia, Philipppin, Singapore, Thái Lan. Tổng giá trị đóng góp ban đầu là 100
triệu USD (mỗi thành viên góp 20 triệu USD).
Tháng 11/2000 thỏa thuận được các nước ký đã mở rộng thoả thuận Hoán
đổi ASEAN (ASA) cho 10 nước thành viên ASEAN tham gia và tổng trị giá của
thoả thuận là 1 tỷ USD, trong đó mức cam kết tham gia của Việt Nam là 60 triệu
USD và mức vay tối đa Việt nam trong khuôn khổ ASA là 120 triệu USD.
BẢNG 2.5 : ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NƯỚC ASEAN TRONG ASA
NƯỚC ĐÓNG GÓP (TRIỆU USD)
ASEAN – 6 (Thái lan, Philippin, Inđônêxia,
Malaixia, Xingapo, Bruney )
150
Việt Nam 60
Miến điện 20
Cam phu chia 15
Lào 10
Trang : 30
Nguồn : Theo Rana (2001)
Thiết lập mạng lưới hoán đổi song phương (BSA) (Network of Bilateral Swaps
Agreements - BSA) và thoả thuận mua lại (Repurchase Agreement - Repo)
BSA là phương tiện tài trợ được thiết lập nhằm cung cấp thể thức tài trợ ngắn
hạn (tiền mặt) dưới dạng hoán đổi USD với các đồng tiền nội địa của các nước tham
gia thoả thuận. Tại Chiang Mai, các nước ASEAN +3 đã thoả thuận về khuôn khổ
và những nguyên tắc cơ bản của các thoả thuận song phương bao gồm cả việc kết
nối với IMF, thời hạn và lãi suất. Ví dụ, các nước có thể vay tiền mặt có thế chấp
bởi các đồng tiền nội địa với sự đảm bảo của chính phủ, chứ không phải thế chấp
bằng trái phiếu kho bạc Mỹ. Thời hạn hoán đổi là 90 ngày, được gia hạn tối đa 7 lần
và với mức lãi suất tương đương với lãi suất LIBOR cộng với 150 điểm % cho lần
rút vốn đầu tiên và lần gia hạn đầu tiên. Sau đó, điểm gia tăng thêm 50 điểm %
trong các đợt gia hạn thứ 2, 4 và 6 nhưng không được quá 300 điểm %. Đàm phán
về thoả thuận hoán đổi sẽ được thực hiện song phương trên cơ sở những thoả thuận
đã được thống nhất.
BSA là phương tiện bổ sung đối với sự trợ giúp của IMF, vốn được các nước
yêu cầu và đáp ứng một khi chấp nhận chương trình điều chỉnh cơ cấu và kinh tế vĩ
mô của IMF. Tuy nhiên BSA lại cho phép rút vốn tự động tới 10% số lượng rút vốn
lớn nhất cho phép mà không cần phải chấp nhận chương trình hay các điều kiện của
IMF. Hạn chế này sẽ được gia tăng một khi khả năng giám sát khu vực được tăng
cường.
• Thoả thuận mua lại (Repo) cũng được thiết lập nhằm cung cấp phương tiện
thanh khoản ngắn hạn cho các nước thành viên tham gia, thông qua việc bán và mua
lại những chứng khoán có giá trị. Chứng khoán phù hợp là trái phiếu hoặc tín phiếu
kho bạc Mỹ với thời hạn còn lại không dài hơn 5 năm, cũng như chứng khoán chính
phủ của nước đối tác trong khuôn khổ thoả thuận mua lại.
Thời hạn của Repo là một tuần nhưng có thể kéo dài thời điểm kết thúc theo
thoả thuận giữa các nước thành viên. Mức tối thiểu của mỗi giao dịch Repo là 5%
Trang : 31
tổng giá trị Repo đã ký kết, người mua sẽ được hưởng 102% mức lãi suất cho trái
phiếu hoặc tín phiếu kho bạc Mỹ và 105% cho trái phiếu chính phủ của bên đối tác.
Sau cuộc gặp cấp cao ASEAN + 3 vào tháng 11/2000, Trung Quốc, Nhật
Bản và Hàn Quốc đã bắt đầu các cuộc đàm phán về các thoả thuận hoán đổi song
phương với các nước ASEAN. Tính đến tháng 3/2005 đã có 16 thoả thuận được ký
với tổng giá trị là 39,5 tỷ USD.
Brunây và nhóm thành viên mới của ASEAN chưa tham gia các hiệp định
này. Tuy về bản chất, các hiệp định hoán đổi theo sáng kiến Chiang Mai là song
phương chúng vẫn chứa đựng yếu tố đa phương các nước cho vay vẫn có thể phối
hợp với nhau trong trường hợp một hay nhiều đối tác của họ có nhu cầu thanh toán
ngắn hạn. Một số ý kiến cho rằng các nước Đông Á cần nâng cao mức hợp tác
thông qua một thể chế khu vực độc lập kiểu quỹ tiền tệ Châu Á để đảm bảo tính
hiệu qủa cũng như khả năng huy động vốn lớn hơn chống lại đầu cơ tiền tệ.
b. Phòng theo dõi hoặc giám sát (Monitoring or Surveillance Unit) và Thể chế
ra quyết định (Decision- making Body)
Một nhóm nghiên cứu được thành lập nhằm xây dựng một Phòng theo dõi
hoặc giám sát với nhịêm vụ thực hiện thành công những đề xuất của sáng kiến
Chiang Mai. Phòng này sẽ có trách nhiệm giám sát: i) Khả năng thanh khoản cũng
như các nền tảng kinh tế cơ bản của từng thành viên; ii) Áp dụng những chuẩn mực
chung đã được các nước thành viên thống nhất; iii) Khả năng thực thi chính sách và
cải cách; iv) Phối hợp và tạo sự hài hoà các chính sách kinh tế vĩ mô giữa các nước
thành viên.
Ngoài ra, nhiều cố gắng đang được thực hiện nhằm xây dựng một thể chế ra
quyết định (decision – making body) nhằm thực hiện sáng kiến Chiang Mai. Chức
năng của thể chế ra quyết định này là:
• Cung cấp thông tin giữa các nước ASEAN+3
• Thực hiện việc đánh giá hoạt động của các nước nhận hoán đổi
• Giám sát và thi hành các đìêu kiện và thoả thuận đạt được trong BSA
Trang : 32
• Nhận dạng các nguy cơ khủng hoảng hệ thống và nguyên nhân khủng hoảng
ở mỗi nước. Bên cạnh đó đánh giá khả năng có thể tiếp tục tham gia hoán đổi
của các quốc gia
• Đánh giá và quản lý các hoạt động kiểm tra và giám sát định kỳ của hai
nhóm: Nhóm 3 nước Đông Bắc Á và nhóm 10 nước ASEAN
• Phối hợp các hoạt động của phòng nghiên cứu giám sát với các hoạt động
tương đương của IMF và các thể chế tài chính quốc tế khác
* Những ưu điểm và hạn chế của sáng kiến Chiang Mai (CMI)
Ưu điểm
• CMI tạo những nền tảng ban đầu trong việc thiết lập liên minh tiền tệ nhằm
hạn chế sự đảo ngược dòng vốn nước ngòai và sự ổn định của tỷ giá hối đóai
• CMI nâng cao hiệu quả trong việc dự trữ ngọai tệ mà không tốn kém nhiều
cho việc duy trì một lượng lớn ngọai tệ. Điều này làm yên tâm các nhà đầu tư
nước ngòai và điều tiết được thị trừơng ngọai hối
• CMI đảm bảo khả năng trợ giúp tín dụng ngắn hạn một khi sự thiếu hụt xảy
ra, đồng thời do một tỷ trọng lớn tài trợ được gắn liền với các điều kiện của
IMF cũng như lãi suất luỹ tiến nên phương thức tài trợ này còn giảm thiểu
được hiệu ứng rủi ro đạo đức – một trong những cản trở khiến sáng kiến
thành lập Quỹ tiền tệ Châu Á năm 1997 không được ủng hộ.
Hạn chế
• Việc tài trợ được gắn với các điều kiện như IMF. Do đó sẽ không kịp thời
đáp ứng nhu cầu về ngọai tệ (10%) và khó có thể đối phó ngay được với sự
di chuyển mạnh mẽ của dòng vốn tư nhân trong điều kiện hiện nay.
• Trong khuôn khổ CMI 10% hoán đổi đó có thể được giải ngân chỉ với sự
chấp thuận của các nước cung cấp tài chính hoán đổi và các nước này cần
thiết lập sự đánh giá của chính họ về việc này chưa có cơ chế giải quyết một
cách hiệu quả.
• CMI không đề cập đến vấn đề phối hợp chính sách tỷ giá hối đoái trong khi
điều này đặc biệt quan trọng trong điều kiện thương mại nội bộ khu vực gia
Trang : 33
tăng, vốn được tự do di chuyển và các nước lại thực hiện các chế độ tỷ giá
hối đoái khác nhau. Điều này sẽ hạn chế quá trình giám sát tài chính đa
phương
• Những kết quả đạt được trong hợp tác sau CMI chỉ có tác dụng quản lý
khủng hoảng chứ chưa có tác dụng phòng ngừa khủng hoảng, hợp tác tài
chính- tiền tệ khu vực chưa thực sự được thể chế và thiếu một thể chế chung
về tư vấn, theo dõi, giám sát và điều tiết các quan hệ hợp tác trong khu vực.
c. Phát triển thị trường trái phiếu Đông Nam Á
Phân loại thị trường trái phiếu ASEAN :
Bản thân các nước Đông Nam Á vẫn chưa có một thị trường chung về trái
phiếu. Tuy nhiên trong khu vực Đông Á, các nước ASEAN có tham gia với các quy
mô khác nhau, dựa vào một vài chỉ số như quy mô hay thành phần của thị trường
trái phiếu, khối lượng giao dịch của thị trường thứ cấp hay cấu trúc đáo hạn của trái
phiếu, cơ sở hạ tầng của thị trường, có thể phân chia làm 4 nhóm về sự phát triển
chung của thị trường trái phiếu như sau:
(1) Hồng Kông và Singapore
(2) Hàn Quốc, Malaysia và Đài Loan
(3) Trung Quốc, Philippines và Thái Lan
(4) Indonesia
Thị trường trái phiếu của Hồng Kông và Singapore phát triển hơn những
quốc gia khác trong khu vực. Cả hai lãnh thổ này đều có thị trường trái phiếu tương
đối nhỏ (chỉ chiếm ¼ GDP) nhưng lại hoạt động khá hiệu quả. Cả hai đều có khung
lãi suất trái phiếu chính phủ đáo hạn kéo dài tới 10 năm – đây là một cơ sở đáng tin
cậy để định giá trái phiếu công ty, cơ sở hạ tầng thị trường hiệu quả, môi trường
điều chỉnh lành mạnh, thị trường thứ cấp có tính thanh khoản cao, luật thuế trái
phiếu ưu đãi, đơn vị phát hành đa dạng, sự quan tâm rất lớn của chính quyền để phát
triển và hỗ trợ cho thị trường trái phiếu trong nước. Mặt khác thị trường trái phiếu ở
cả hai khu vực đều mở cửa rộng rãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài, không có bất
Trang : 34
kỳ rào cản hay yêu cầu nào cả. Thị trường trái phiếu Indonesia được đánh giá là còn
rất non trẻ.
Sáng kiến phát triển thị trường Châu á được các nước ASEAN đưa ra vào
đầu năm 2003 với mục tiêu phát triển các thị trường trái phiếu có hiệu quả, thông
qua đó giúp chính phủ và khu vực tư nhân huy động nguồn vốn dài hạn, giảm rủi ro
về tỷ giá hối đoái và thời hạn đầu tư. Sáng kiến của ASEAN + 3 tập trung vào
những nỗ lực và hành động của các nước trên hai lĩnh vực là :
1./ Thúc đẩy khả năng tiếp cận thị trường của các nhà phát hành trái phiếu.
2./ Tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển các thị trường trái phiếu khu vực.
Vào tháng 6/2003, các nước châu Á gồm 10 nước ASEAN, Trung quốc,
Nhật Bản, Ấn độ, Đặc khu Hồng kông , Úc , New Zealand đã chính thức thảo luận
tiến trình thành lập quỹ trái phiếu châu Á.
Theo kế hoạch, Quỹ này sẽ có vốn ban đầu là 1 tỷ USD với mục tiêu là tránh
sự phụ thuộc quá nhiều vào thị trường trái phiếu Mỹ và châu Âu, thúc đẩy mạnh mẽ
sự tác và tương trợ lẫn nhau trong khu vực về mặt kinh tế – tài chính, đồng thời tiến
tới trở thành Ngân hàng trung ương Châu Á. Mặc dù có một nguồn dự trữ ngoại tệ
lớn nhất thế giới, nhưng khu vực Châu á Thái bình Dương luôn phải đối mặt với
tình trạng “chảy máu” ngoại tệ, chủ yếu là vào thị trường trái phiếu Châu âu và Mỹ
dẫn đến tình trạng phụ thuộc tương đối lớn của các nước Châu Á, trong đó các nước
ASEAN, trước sự biến động và điều chỉnh trên thị trường trái phiếu Mỹ và Châu âu.
Tuy nhiên thực tế hoạt động của ABF có một số hạn chế: (i) Chỉ các NHTW
là các nhà đầu tư, (ii) Chỉ các cơ quan chính phủ mới được sử dụng vốn vay, (iii)
Chỉ có USD được sử dụng trong giao dịch. Do đó, ABF chưa phải là công cụ lý
tưởng nhằm thúc đẩy việc tái đầu tư vốn trong khu vực. Sự phát triển tiếp của thị
trường trái phiếu khu vực cần được thúc đẩy với sự chú ý nhiều hơn nữa tới vai trò
của các nhà đầu tư tư nhân cũng như các nhà vay nợ. Hiện nay quỹ ABF đang được
xúc tiến thành lập để đầu tư vào trái phiếu nội địa.
Trang : 35
d. Phương thức thanh tóan
Cuộc khủng hỏang Tài chính – tiền tệ đã đặt ra vấn đề sử dụng ngọai tệ trong
giao dịch thanh tóan. Việc phụ thuộc quá nhiều vào ngọai tệ mạnh đã là một trong
những nguyên nhân xảy ra tình trạng khủng hỏang. Vậy những hình thức thanh tóan
nào đã và đang được sử dụng tại các nước trong khu vực, từ đó áp dụng cho cả khu
vực.
Trung tâm thanh tóan bù trừ thuần (PCH) : Là một quy trình thanh tóan bù trừ
ròng không có sự can thiệp và thông qua các cơ quan trung ương, không cung cấp
bảo lãnh tín dụng và không gánh chịu rủi ro. Mô hình này dễ được chấp nhận ở
ASEAN. Trong PCH các nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu sẽ thông qua các ngân
hàng thương mại để thanh tóan bằng đồng nội tệ trước khi lượng thanh tóan ròng
giao dịch với nước ngòai bằng đồng USD. Có những ưu điểm sau :
PCH không chịu các rủi ro tín dụng và cũng không có chế độ bảo lãnh tín
dụng cho bất cứ nhà nhập khẩu nào.
Tất cả các ngân hàng thương mại đều có thể tham gia vào phương thức thanh
tóan bù trừ ròng này. Không bị kiểm tra năng lực, các ngân hàng Thương mại có vị
thế ngang nhau, trách nhiệm này sẽ chuyển về ngân hàng trung ương tương ứng.
Ngân hàng trung ương cũng không được phép tham gia chương trình bù trừ ròng.
Nếu không chính sách tiền tệ bị can thiệp. Giảm sự phụ thuộc của một quốc gia vào
việc dùng ngọai tệ hỗ trợ tín dụng thanh tóan và họat động ngọai thương, thu được
lợi ích từ việc gom quỹ và cân bằng vị thế ngọai tệ của các ngân hàng thương mại
ngay các cơ quan giao dịch tiền tệ có thẩm quyền.
Các nước ASEAN có thể giảm việc sử dụng USD hay vẫn duy trì được
lượng ngọai tệ trong thương mại quốc tế. Nó sẽ họat động hiệu quả trong trường
hợp NHTW khuyến khích nhà xuất khẩu chuyển đổi khỏan thu nhập bằng ngọai tệ
của họ sang đồng nội tệ một thời gian nhất định.
Các phương thức thanh toán khác xem phụ lục 5
Trang : 36
2.4 Triển Vọng Hợp Tác Tài Chính-Tiền Tệ Và Liên Minh Tiền Tệ.
2.4.1 Sự cần thiết của hợp tác tài chính - tiền tệ ASEAN
a./ Hợp tác tài chính–tiền tệ sẽ giúp cho các nước tiếp nhận ở mức cao nhất những
lợi ích của toàn cầu hoá tài chính và giảm thiểu những tác động tiêu cực của chúng
Xu thế tòan cầu hoá hiện nay của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là trong lĩnh
vực tài chính, đã khiến các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn từ đó
tính di chuyển của các dòng vốn quốc tế mang tính khu vực và quốc tế. Điều này,
đến lượt nó, lại khiến cho “cầu về hàng hoá công cộng quốc tế” (international public
goods) gia tăng. Bên cạnh đó sự cải tổ hệ thống tài chính- tiền tệ quốc tế diễn ra khá
chậm chạp. Một chính sách hợp tác tài chính-tiền tệ khu vực sẽ khiến cho các chính
sách tài chính – tiền tệ quốc gia đáp ứng sự linh họat với những phản ứng chính
sách quốc tế.
b./ Hợp tác tài chính – tiền tệ khu vực sẽ giúp cho các nước trong khu vực giảm
thiểu nguy cơ khủng hỏang tài chính – tiền tệ
Cuộc khủng hỏang Tài chính tiền tệ 1997 là một ví dụ. Các nhà đầu cơ ngoại
tệ đã “tấn công“ vào đồng tiền của một quốc gia riêng lẽ và với chính sách tỷ giá cố
định các quốc gia này sử dụng ngoại tệ ra để bảo vệ đồng nội tệ, việc sử dụng dự trữ
ngoại tệ là điều không tránh khỏi. Sự phản ứng riêng rẽ này của từng quốc gia thành
viên sẽ không thể bù đắp những khoản thâm hụt ngoại tệ. Bên cạnh đó thiếu thông
tin sẽ làm cho các nhà đầu tư đồng loạt rút vốn khi có dấu hiệu khủng hoảng xuất
hiện.
Mặt khác họat động xuất khẩu sút giảm nên thu về ngoại tệ thấp. Những yếu
tố đó tác động làm dự trữ ngoại tệ riêng lẽ từng quốc gia không đáp ứng đựơc việc
cứu vãn giá trị đồng nội tệ và thế là một sự sụp đỗ lan truyền xảy ra. Một sự liên
minh tiền tệ ở cấp độ cao sẽ tạo một nền tảng vững chắc cho cả khu vực, khả năng
tự bảo vệ là của cả một cộng đồng khu vực. Nguồn dự trữ ngoại tệ không chỉ của 1
mà là 10 quốc gia, chính sách tài chính tiền tệ thực hiện không chỉ là 1 nước mà
được áp dụng tại tất cả các nước ASEAN sẽ đứng vững trước sự tấn công đầu cơ
tiền tệ và có thể hạn chế phần nào sự mất giá của đồng tiền khu vực.
Trang : 37
c./ Hợp tác tài chính–tiền tệ thúc đẩy quá trình liên kết thương mại trong khu vực:
Từ những năm đầu thập niên 90, xu hướng tự do hóa thương mại đang được
đẩy mạnh không những trong phạm vi khu vực mà kể cả các đối tác bên ngòai,
thương mại cũng như đầu tư trong nội bộ khu vực chiếm hơn 50% tổng giá trị
thương mại khu vực năm 1998. Một liên minh tiền tệ sẽ là điều thuận lợi cho các
thành viên trong việc mua bán trong nội bộ và bên ngòai nhất là khi hầu hết các
quốc gia sử dụng chính sách hướng ra xuất khẩu .
2.4.2 Những khó khăn hợp tác tài chính – tiền tệ khu vực ASEAN
• Hiện tại ASEAN thiếu người lãnh đạo chính trị trong hợp tác giống như Mỹ
ở Châu Mỹ Latinh và Pháp – Đức ở Châu Âu.
• Một đặc điểm chung của các nước trong khu vực ASEAN là phụ thuộc nhiều
vào bên ngoài cả về thương mại lẫn đầu tư. Mặc dù thương mại nội vùng đang gia
tăng nhưng xuất nhập khẩu vào thị trường Mỹ, Châu Âu, Nhật bản vẫn chiếm tỷ
trọng lớn.
• Nguyên tắc hợp tác là sự đồng thuận, không can thiệp nội bộ. Tuy nhiên
những nguyên tắc này lại xung đột những nguyên tắc về tăng cường giám sát như :
phê bình mang tính xây dựng đối với việc hoạch định chính sách, sức ép kinh tế
ngang bằng …
• Khi kinh tế bị suy sụp một số nước ASEAN buộc phải điều chỉnh tiến trình
giảm thuế CEPT của họ. Theo Phuchatan số 22/6/1998, một số nứơc rút bớt danh
mục trong các hàng hoá thông thường phải giảm thuế theo đúng hạn định .
Inđônêxia đề nghị rút sản phẩm hoá dầu khỏi danh mục giảm thuế. Philipin không
giảm thuế đường. Malaixia không mở rộng thị trường ô tô lo sợ ảnh hưởng đến
hãng ô tô Proton ở nước này, vốn được nhà nước bảo hộ và đang chiếm tới 65% thị
phần ô tô ở nước này làm ảnh hưởng cho Thái lan, nước có lợi thế cạnh tranh về
công nghiệp ô tô. Những động thái như vậy trong tiến trình triển khai AFTA trong
thời gian vừa qua không chỉ có nguy cơ phá vỡ lộ trình AFTA của ASEAN mà còn
cung cấp thêm căn cứ cho sự hoài nghi về ý chí hợp tác của các nhà lãnh đạo trong
hiệp hội.
Trang : 38
• Khủng hoảng tài chính tiền tệ đã cho thấy ASEAN chưa xây dựng đựơc cho
các nước thành viên thói quen đặt lợi ích quốc gia trong tổng thể lợi ích chung của
toàn khu vực , chưa nhìn lợi ích quốc gia của mỗi nứơc thành viên từ góc độ lợi ích
chung của toàn hiệp hội. Cuộc khủng hoảng cũng giúp đánh giá đúng hơn những
thành tựu mà ASEAN đã đạt đựơc 30 năm qua. Tình đoàn kết, sự thông cảm lẫn
nhau, hoá ra còn chưa có đựơc một nền tảng vững chắc.
2.4.3 Tính khả thi về các điều kiện kinh tế của Đông Nam Á đối với khu vực
tiền tệ tối ưu (Optimum Currency Area - OCA)
Nhằm hướng đến một liên minh tài chính - tiền tệ mà cao nhất là một đồng
tiền chung khu vực. Một số nhà nghiên cứu đã đánh giá về những điều kiện của
ASEAN có đủ yêu cầu hình thành khu vực đồng tiền tối ưu như “lý thuyết khu vực
tiền tệ”của Mundell và Kinnon. Thông qua việc so sánh với khu vực đồng tiền
chung Châu âu. Một khu vực tiền tệ bao hàm việc phải từ bỏ chính sách tiền tệ độc
lập vốn từ lâu đã là công cụ xử lý trực tiếp đối với các cú sốc đặc thù ở quốc gia.
Chi phí của một khu vực tiền tệ do tác động của các cú sốc kinh tế vĩ mô không cân
xứng đến các nền kinh tế, với một mức độ di chuyển lao động cao những thiệt hại
này sẽ được giảm bớt.
a. Thương mại nội vùng
BẢNG 2.7 : CÁN CÂN THƯƠNG MẠI (Triệu USD)
NƯỚC 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Campuchia -538 -523 -563 -513 -660 -737 -838 -959
Indonesia 25.042 22.697 23.512 24.439 25.179 25.098 24.917 24.759
Lào -205 -191 -146 -127 -145 -110 -201 -238
Malaysia 20.827 18.383 18.978 25.711 26.779 26.211 25.073 24.692
Myanmar -226 180 626 810 - - - -
Philippin 3.814 -743 407 -5.455 -6.381 -5.764 -5.273 -5.390
Singapore 12.732 15.722 17.530 28.125 31.128 34.281 36.133 38.056
Thái Lan 5.466 2.494 2.739 3.759 1.682 -1.453 -2.597 -2.805
Việt Nam 377 473 -1.295 -4.600 -4.940 -5.688 -6.582 -7.688
Trang : 39
Một khu vực tiền tệ đem lại lợi ích nhiều hơn xuất phát từ tầm quan trọng và
cơ cấu của thương mại nội vùng. Thương mại nội vùng càng cao thì chi phí giao
dịch các đồng tiền càng giảm.
• Cường độ thương mại : Cường độ thương mại của nước i với nước j được
xác định theo công thức :
T = (Ti,j/Ti) / (Tw,j/Tw)
Trong đó : Ti,j giá trị thương mại của quốc gia i với quốc gia j
Ti Tổng giá trị thương mại của quốc gia i
Tw,j giá trị thương mại của thế giới với quốc gia j
Tw Tổng giá trị thương mại của thế giới
-> T càng lớn thì mức độ phụ thuộc thương mại giữa hai quốc gia càng cao
Dựa vào tình hình thương mại và đầu tư của các quốc gia Đông Nam á. Các
quốc gia lục địa ASEAN (Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam) có sự phụ thuộc
lẫn nhau cao.
BẢNG 2.8 :CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI (triệu USD)
NƯỚC 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Campuchia -417 -344 -353 -417 -445 -550 -645 -755
Indonesia 7.992 6.901 7.822 7.709 6.777 5.684 4.435 3.151
Lào -126 -28 -26 -30 -12 -50 -304 -335
Malaysia 8.487 7.286 8.025 13.381 14.749 13.160 11.593 10.154
Myanmar -71 -158 12 71 - - - -
Philippin 6.258 1.323 4.383 1.396 2.080 2.581 1.987 1.897
Singapore 13.246 14.402 15.693 26.952 27.805 29.958 31.809 33.733
Thái Lan 9.328 6.205 7.008 7.965 7.289 4.243 2.701 3.084
Việt Nam 505 475 -950 -2.513 -2.441 -2.628 -2.997 -3.767
• Xuất khẩu và nhập khẩu
Xuất và nhập khẩu giữa các nước ASEAN chỉ chiếm 22,1% và 18% tổng giá
trị xuất nhập khẩu. Các nước Mỹ, Nhật và EU lần lượt chiếm 19,1%, 15,4%, 15,2%
tổng giá trị thương mại của ASEAN.
Trang : 40
BẢNG 2.9 : CHỈ SỐ CƯỜNG ĐỘ THƯƠNG MẠI NỘI VÙNG
Khu vực 1980 1985 1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000
ASEAN 5.1 6.1 4.6 3.8 3.8 3.8 4.3 4.1 3.7
EU 15 1,5 1,6 1,5 1,7 1,7 1,7 1,6 1,7 1,7
NAFTA 2,1 2,0 2,1 2,4 2,4 2,3 2,3 2,3 2,1
Theo kết quả nghiên cứu của Bayoumi và Mauro (1999), cho thấy tỷ lệ giữa
giá trị thương mại trong khu vực với GDP khu vực là cao và tương đương Châu Âu
(11,7% và 12,8% đối với xuất khẩu; 11,8% và 12% đối với nhập khẩu). So sánh với
MERCOUR (khối thị trường chung Nam Mỹ) và NAFTA (Khu vực mậu dịch tự do
Bắc Mỹ) các chỉ số này lần lượt là 2,1%, 5,3% đối với xuất khẩu và 2,3% , 5,4% đối
với nhập khẩu. Tỷ lệ giá trị sản xuất trong tổng xuất và nhập khẩu đều vào khoảng
80%, cao hơn MERCOSUR (50%). Điều này minh chứng cho việc tồn tại một cấu
trúc thương mại đa dạng hoá cao. ASEAN vốn đang phụ thuộc nhiều vào các đối
tác thương mại Mỹ, Nhật và EU, sẽ dễ bị tổn thương khi có sự dao động giữa các
đồng tiền chính này. Bên cạnh đó, hệ số tương quan rất cao về xuất khẩu giữa một
số nước Đông Nam Á cụ thể. Xuất khẩu giữa Malyasia và Singapore có hệ số tương
quan là 0,6. Ngược lại, Philippin và Indonesia không có tương quan cao với các
nước láng giềng.
b. Sự dịch chuyển các nguồn lực
Theo báo cáo của Goto và Hamada (1994) về quy mô của lực lượng lao động
trong phát triển kinh tế Đông Nam Á, vào thập niên 1980 tại Singapore 10% lao
động là đến từ các nước Indonesia, Malaysia, Philippin, Thái Lan. Tuy nhiên, sự
hiện diện của lao động nước ngoài bị ràng buộc bởi hợp đồng lao động với các điều
khoản quy định cụ thể về thời hạn nhập cư và nước nên khó có thể có sự chuyển
dịch lao động tự do.
2.5. Những lợi ích hay hạn chế khi thiết lập đồng tiền chung :
Câu hỏi đặt ra là khi đồng tiền chung trong khu vực ra đời sẽ ảnh hưởng như
thế nào đối với tình hình kinh tế xã trong khu vực ASEAN, tác động ra sao đến tình
hình kinh tế của khu vực và có đủ sức vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính có thể
xảy ra trong tương lai như đối với khủng hoảng tài chính 1997. Một minh hoạ cụ
Trang : 41
thể nhất đó chính là đồng tiền chung châu Âu, đồng EURO. Vậy việc ra đời đồng
tiền chung sẽ đưa đến những thuận lợi và khó khăn gì cho các nước thành viên.
a. Những Lợi ích :
• Giảm bớt các chi phí phát sinh trong giao dịch và trao đổi bằng ngoại tệ, do
không phải tốn chi phí chuyển đổi từ một đồng tiền nàysang đồng tiền khác.
• Đồng tiền chung từng bước trở thành đồng tiền dự trữ của các quốc gia, đem
lại một sức mạnh mới về tiềm lực kinh tế trên trường quốc tế. Chẳng hạn khi EMU
ra đời mang lại sức mạnh và vị thế mới cho Châu âu, đồng thời khẳng định xu
hướng vận động của một thế giới kinh tế đa cực : Âu – Mỹ – Nhật.
• Hình thành một dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương có sức mạnh lớn.
Đồng tiền chung mạnh và ổn định sẽ cùng chia sẽ quyền lực với USD và
JPY…….giúp đồng tiền chung nhanh chóng trở thành phương tiện thanh toán, đầu
tư và dự trữ quốc tế. Thế giới sẽ có thêm một đồng tiền quốc tế mới,
• Thúc đẩy mạnh mẽ thương mại nội khối : Sử dụng đồng tiền chung sẽ tiết
kiệm chi phí đồng thời tạo được tính an toàn trong quan hệ thương mại nội bộ khối.
Chẳng hạn, đồng EURO theo Châu âu ước tính sử dụng đồng EURO sẽ loại bỏ rủi
ro ngoại hối ước tính khoảng 0,33% GDP/năm tương đương 30 tỷ USD. Tiết kiệm
chi phí giao dịch ngoại tệ, hàng hoá nước thành viên sẽ có sức cạnh tranh cao hơn
• Sử dụng đồng tiền chung sẽ thúc đẩy mở rộng quan hệ thương mại giữa các
thành viên trong khối, góp phần nâng cao vị thế của khối trong các hoạt động
thương mại toàn cầu bên cạnh đó cạnh tranh trong nội bộ khối cũng cao hơn, buộc
các doanh nghiệp cải cách cơ cấu hoặc sáp nhập, thị trường hàng hoá sẽ có điều
kiện tiếp tục được mở rộng
• Thúc đẩy mở rộng quan hệ thương mại ngoại khối: Đồng tiền chung sẽ được
sử dụng rộng rãi ở các nước trong khu vực và Châu á Thái bình dương do các nước
trong khu vực có hoạt động hướng ra xuất khẩu nên thương mại sẽ ngày càng mở
rộng từ đó việc lưu thông đồng tiền trong khu vực sẽ trở thành phương tiện thanh
toán.
Trang : 42
• Ảnh hưởng đối với người tiêu thụ, khi chỉ còn một loại tiền, người tiêu thụ
có thể so sánh giá cả một món hàng trên khắp khu vực và có thể mua món hàng đó
tại những nơi có giá thấp nhất.
b. Những hạn chế :
• Một quốc gia độc lập, đầy đủ chủ quyền phải tự nguyện từ bỏ quyền lực tối
thượng của mình về tiền tệ. Từ thời điểm có hiệu lực các nhà nước, các chính phủ
thành viên không thể sử dụng các thủ thuật của chính sách tiền tệ, công cụ lãi suất
….để bù đắp các khiếm khuyết trong điều hành chính sách vĩ mô của mình nữa. Các
quốc gia cần phải tuân thủ theo những quy định nghiêm ngặt đã đề ra của Ngân
hàng Trung ương. Chẳng hạn các nước thành viên EURO bị ràng buộc 2 điều
khoản: Thâm hụt ngân sách phải dưới 3% và nợ nước ngoài phải dưới 60% tổng sản
lượng quốc gia.
• Sự khác biệt về mức độ phát triển ở các nước sẽ cản trở đối với việc tham gia
đồng tiền chung và những nước có nền kinh tế thường xuyên thâm hụt ngân sách
hay cán cân thương mại ở trong tình trạng nhập siêu sẽ luôn là những quốc gia bị
ảnh hưởng nhiều nhất. Mặt khác, giữa các nước này cũng có sự khác biệt về mức độ
phát triển. Đặc biệt là đối với những nước mới gia nhập như Việt Nam, Lao,
Campuchia .
• Sự yếu kém trong lĩnh vực tài chính của nhiều quốc gia cũng là một trở lực
to lớn. Điều này tạo một tâm lý muốn có một tổ chức có thể hỗ trợ , tư vấn đồng
thời cũng thận trọng trong việc xem xét hợp tác về tài chính. Bên cạnh đó, sự không
đầy đủ về cơ chế và tổ chức có thể đảm bảo tập trung nguồn lực ở mức độ khu vực
để đảm bảo yếu tố hình thành một liên minh tiền tệ .
• Các nước trong khu vực còn phải đối mặt với trở ngại chính trị bởi nếu ranh
giới chính trị bị vi phạm thì sẽ có nhiều thành viên không sẵn lòng tham gia liên
minh tiền tệ. Vì vậy khối cần có sự chuẩn bị cho một liên minh tiền tệ nhưng không
có sự kết hợp về chính trị.
Trang : 43
Kết luận chương II.
Có thể nói rằng các nước ASEAN chỉ mới ở vị trí “ xuất phát “ trong lộ trình
thành lập liên minh kinh tế cũng như tài chính. Lộ trình này chịu nhiều tác động từ
sự chuyển biến của kinh tế khu vực và quốc tế.
a./ Lĩnh vực kinh tế :
Nhằm mở rộng thương mại nội khối, hàng lọat các hiệp định thượng mại ra
đời từng bước mở rộng thị trường buôn bán nội khối, có thể kể đến các hiệp định
như AFTA, AICO, ECA, AIA.
Bên cạnh đó, để mở rộng liên kết với ngòai khối nhất là các cường quốc như:
Mỹ, Nhật, Trung quốc. khối ASEAN đã chủ động liên kết thông qua các hiệp định
như ARF, FTA.
b./ Lĩnh vực tài chính tiền tệ :
Bài học từ cuộc khủng hỏang tài chính tiền tệ đã giúp các nước trong khu
vực “xích lại” gần nhau, mở rộng hợp tác thêm trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh
vực tài chính tiền tệ, từng bước hình thành hệ thống tài chính tiền tệ khu vực theo
hướng hội nhập cụ thể như :
• Cơ chế giám sát ASEAN, hệ thống tiền tệ và tỷ giá khu vực
• Các thể chế tín dụng : Sáng kiến Chiangmai nhằm cung cấp vốn tức thời khi
xảy ra vấn đề thanh tóan ; Phòng theo dõi, giám sát : Theo dõi biến động của thị
trường; Phương thức thanh tóan: Sử dụng nội tệ để thanh tóan giữa các quốc gia
khu vực hạn chế sử dụng ngọai tệ mạnh.
c./ Đánh giá khu vực tiền tệ tối ưu : Những điều kiện đảm bảo hình thành khu vực
tiền tệ tối ưu của khu vực ASEAN trên thực tế còn chưa đầy đủ.
Tuy nhiên Những kết quả này chỉ là những bước khởi đầu một cách thận
trọng và khá đơn giản mang tính đối phó hơn là giải quyết những vấn đề cốt lõi.
Thực tế đã chứng minh chỉ khi những vấn đề cốt lõi được giải quyết thì các nước
mới có thể hình thành một liên minh vững chắc trên các mặt kinh tế, tài chính.
Trang : 44
CHƯƠNG III : ĐỒNG TIỀN CHUNG ASEAN SỰ CẦN
THIẾT PHÁT TRIỂN KHU VỰC
Mặc dù các mối quan hệ về kinh tế thương mại khu vực Đông Nam Á ngày
càng được cải thiện. Tuy nhiên, có thể hướng đến một thị trường chung về hàng hoá
và dịch vụ mà mục tiêu cuối cùng la ̀một đồng tiền chung khu vực đòi hỏi các nước
ngay từ bây giờ phải đặt những nền tảng đầu tiên cho thị trường khu vực. Thật vậy,
liên minh kinh tế và tiền tệ là đỉnh điểm của tiến trình toàn cầu hoá, khu vực hoá
kinh tế theo 5 cấp độ :
1./ Khu vực mậu dịch tự do
2./ Liên minh hải quan
3./ Khối thị trường chung
4./ Liên minh kinh tế
5./ Liên minh kinh tế và tiền tệ.
Thực tế đến nay cho thấy, mối liên kết kinh tế giữa các nước, các khu vực
ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Nhưng nhìn chung , sự liên kết
này luôn diễn ra theo một trình tự nhất định, từ liên kết thương mại đến liên kết thị
trường rồi liên kết kinh tế và sau cùng là liên kết kinh tế tiền tệ. Trong đó liên kết
kinh tế - tiền tệ là hình thức liên kết cao nhất. Đối với các nước Châu âu việc liên
kết thị trừơng bắt đầu từ nhăm 1968 khi các thành viên EEC thoả thuận và thống
nhất thiết lập một biểu thuế quan chung. Đến 1/1/1993 thị trường thống nhất đi vào
hoạt động chính thức, việc tự do hoá lưu thông hàng hoá dịch vụ , vốn, lao động
một cách tự do và do đó xuất hiện yêu cầu một chính sách tiền tệ thống nhất.
Đông Nam á, bước chuyển biến bao trùm nhất trong quan hệ thương mại
giữa các thành viên ASEAN đánh dấu bằng hiệp định thành lập khu vực tự do
thương mại ASEAN (AFTA) được ký kết chính thức ngày 28/1/1992. Đây là nấc
thang thứ hai trong tiến trình hình thành khu vực mậu dịch tự do.
Bên cạnh đó thúc đẩy thương mại trong khối bằng các thoả thuận như :
Chương trình bổ sung công nghiệp (AIC), chương trình hợp tác công nghiệp
ASEAN (AICO), BBC, AIJV ...... Các chương trình hợp tác kinh tế đó đã giúp tạo
Trang : 45
thói quen hợp tác kinh tế trên quy mô khu vực, nhân tố quan trọng giúp Đông Nam
Á tiến dần tới việc xây dựng một cộng đồng kinh tế Đông Nam Á trong tương lai.
ASEAN là tổ chức hợp tác của các nước đang phát triển có tầm cỡ lãnh thổ và dân
số vừa và nhỏ, tồn tại trong một khu vực vốn là nơi đang diễn ra các cuộc đấu tranh
nhằm tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi của các cường quốc lớn, ASEAN đặc biệt
quan tâm tới việc thiết lập các quan hệ chặt chẽ với các cường quốc bên ngoài. Bởi
vì một mạng lưới quan hệ với các cường quốc đó sẽ giúp ASEAN không lệ thuộc
vào một cường quốc riêng biệt nào và có điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế
3. Hình thành những điều kiện ban đầu cho sự ra đời
3.1 Giải pháp cải thiện kinh tế các nước thành viên
Trong ngắn hạn trước mắt, tính bổ sung lẫn nhau trong luồn thương mại của
nội vùng sẽ đóng vai trò như một nhân tố ổn định. Xu hướng này sẽ tiếp tục tăng lên
trong thời gian tới, nếu triển vọng phục hồi của các nền kinh tế khu vực vẫn tiếp tục
sáng sủa. Vì vậy một trong những vấn đề đặt ra là việc bổ sung và thúc đẩy thương
mại trong khối qua các thoả thuận như : Chương trình bổ sung công nghiệp (AIC),
chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), chương trình xây dựng khu vực
đầu tư ASEAN (AEC)….. Trong đó nền tảng là chương trình xây dựng khu vực đầu
tư ASEAN (AEC). Chương trình này được xem là nền tảng trong việc hợp tác đầu
tư chung trong ASEAN. Do đó yêu cầu đặt ra để hình thành một thị trừơng thống
nhất đòi hỏi :
• AFTA với những cam kết cao hơn
• Nguyên tắc ASEAN – X hay người tìm đường khai phá : cho phép các nước
chậm hơn có thể đuổi kịp . Khái niệm “ không bó hẹp” một hiệp định để các nứơc
thành viên ký kết các phần mà họ có thể điều tiết được với thời gian đủ để tiếp cận
thêm các phần khác của hiệp định.
• Củng cố việc lập thể chế với các thời hạn, kế họach và các cơ chế thực thi có
hiệu lực : trên quốc gia, các khối khu vực
• Ý chí chính trị, việc hòan thành triển khai : Theo cấu trúc hiện thời, các nước
đã được yêu cầu hoàn thành việc chuẩn bị của các thành phần khác nhau.
Trang : 46
3.1.1 Cải cách các chính phủ thành viên ASEAN:
a. Ổn định kinh tế vĩ mô vấn đề hàng đầu của các quốc gia ASEAN :
Chính sách ổn định kinh tế vĩ mô của các quốc gia Đông Nam Á trong thời
gian dài theo hướng giảm thâm hụt ngân sách, giảm lạm phát cao, giữ cân bằng cán
cân thanh tóan. Tuy nhiên các thông tin về lãi suất, giá chứng khóan, tiền lương về
cơ bản do thị trường qui định. Do đó, những thể chế về thị trường hàng hóa, dịch
vụ, tiền tệ, tài chính, thể chế về hải quan,….. cần phải được thiết kế tổng thể trên cơ
sở đó định ra những lộ trình cụ thể bước đi cụ thể cho từng nhóm nước cho từng
lĩnh vực. Dựa vào những thể chế khu vực các quốc gia sẽ điều chỉnh thể thế nước
mình cho phù hợp. Công việc này có thể đụng chạm đến lợi ích của các nhóm
quyền lợi ở các quốc gia. Chẳng hạn thể chế bãi bỏ hàng rào bảo hộ dụng đến lợi
ích công ty kinh doanh hướng nội….những vấn đề này thừơng rất khó nhất trí với
nhau về lộ trình cụ thể, đặc biệt là nước kém phát triển do lo ngại kinh tế lạc hậu
yếu kém nếu sớm mở cửa thì sẽ bị tác động dễ gây mất ổn định.
Cải cách bộ máy chính phủ theo hướng hội nhập kinh tế khu vực. Bộ máy
trong các chính phủ cần xây dựng các bộ phận phụ trách hội nhập kinh tế khu vực
trong từng ngành, từng lĩnh vực, địa phương…...Mặc dù không phải bộ máy nhà
nước nhưng nó phải đủ quyền hạn cần thiết mà các quốc gia nhất trí cao.
b. Hòan thiện hệ thống thị trường :
Hệ thống các loại thị trường ASEAN nói chung là khá phát triển. Tuy nhiên,
thị trường trong thập kỷ qua gây ra khủng hỏang là thị trường bất động sản và thị
trường tiền tệ - tài chính. Tình trạng đóng cửa các thị trường là một vấn đề khá nổi
bật ở ASEAN. Kéo theo tình trạng khép kín các thị trường quốc gia. Cần phải làm
rõ lợi ích của việc mở cửa thị trường quốc gia và hội nhập khu vực nhằm đảm bảo
tăng trưởng cao ổn định kinh tế –xã hội. Bên cạnh đó, hỗ trợ những quốc gia khó
khăn, kém phát triển hơn như Việt Nam, Campuchia, Lào, Mianma….Các thị
trường bất động sản, dịch vụ, lao động… mới được hình thành cần phải có nhiều nỗ
lực để phát triển các thị trường này.
Trang : 47
Công khai hóa và minh bạch hóa quan hệ giữa các chính phủ và doanh
nghiệp, giữa doanh nhân và các nhà chính trị.….. vì chỉ có trong điều kiện đó các
nhà kinh doanh ngòai nước mới có điều kiện nắm bắt thị trường cụ thể để tiến hành
đầu tư kinh doanh hiệu quả và nhà nước quản lý đầu tư chặt chẽ.
Vấn đề đào tạo tuyển chọn sử dụng cán bộ trong bộ máy điều hành ở mọi
quốc gia đều có tầm quan trọng hàng đầu. Cần phối hợp xây dựng những chương
trình đào tạo hiện đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường khu vực và tòan
cầu.
c. Xây dựng, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng theo hướng hội nhập khu vực.
Các cơ sở hạ tầng này bao gồm : cơ sở hạ tầng cứng – hệ thống giao thông ,
vận tải đường biển, đường không, hệ thống liên lạc viễn thông….. và cơ sở hạ tầng
mềm – hệ thống đo lường, các thể chế như thuế quan thủ tục hải quan, xuất
cảnh….. cần có sự thống nhất các văn bằng chứng chỉ, các chương trình đào tạo và
các hệ thống đo lường tiêu chuẩn của các quốc gia. Bên cạnh đó, thống nhất dần
những trở ngại ảnh hưởng cho sự hợp tác khu vực, trước hết là hệ thống thể chế
kinh tế , luật về thuế, ngân hàng, về đầu tư, việc làm đến các quy định về thủ tục hải
quan, xuất nhập khẩu…..
Bài học của Châu Âu trong việc hình thành một thị trường thống nhất là điều
chúng ta phải học tập. Cuộc khủng hỏang dầu lửa những năm 1973 – 1979 và sự đỗ
vỡ của hệ thống tiền tệ Bretoon Woods đã làm các nước thành viên Châu âu lúc bấy
giờ chỉ quan tâm đến quốc gia mình và kết quả là thị trường Châu âu lúc bấy giờ bị
thu hẹp và phân mảnh chia nhỏ đường biên giới giữa các nước. Năm 1985, thông
qua việc công bố “sách trắng” về những điều bất hợp lý và vướng mắc giữa các
quốc gia thành viên từ đó có cơ sở tập hợp và ban hành những quyết định thống
nhất nhờ đó xóa bỏ dần các hàng rào kiểm sóat tại các quốc gia.
Hệ thống luật pháp tiêu chuẩn chung trong tòan cộng đồng với nguyên tắc
hàng hóa và con người tự do lưu thông trong khối (chỉ cần đáp ứng yêu cầu một
quốc gia riêng lẻ). Định ước Châu Âu hiệu lực từ tháng 7/1987 với nguyên tắc bỏ
Trang : 48
phiếu đã thay cho phương pháp nhất trí trong hội đồng bộ trưởng và điều đó đã phát
huy tác dụng :
• Nguyên tắc tự do lưu thông căn bản không liên quan chính sách thương mại.
• Nhấn mạnh xóa bỏ đường biên giới nội bộ.
• Hỗ trợ chính sách xã hội hay chính sách môi trường.
Lộ trình tự do hóa 11 ngành hàng của ASEAN là một bước tiến cần được
thúc đẩy. Lâu dài việc bổ sung cơ cấu ngọai thương giữa các thành viên ASEAN có
ý nghĩa tích cực nhằm tạo ra sự phát triển đồng đều của cộng đồng. Thực tế cho
thấy cơ cấu thương mại giữa các nước ASEAN tương tự giống nhau. Tuy nhiên, do
trình độ công nghiệp hóa từng nước không giống nhau nên khác biệt về cơ cấu .
Tính bổ sung lẫn nhau trong cơ cấu sản xuất – thương mại ngày càng tập
trung vào sản xuất và xuất khẩu hàng hoá thâm dụng vốn công nghệ (hầu hết là điện
tử) điều này làm cơ cấu hàng xuất khẩu chứa đựng nhiều rủi ro như sức ép cạnh
tranh giữa các nước trong khu vực trên địa bàn xuất khẩu ngày càng tăng. Để tránh
rơi vào cái “bẩy cơ cấu” và áp lực cạnh tranh từ các nước trong và ngoài khu vực.
Các nước Đông Nam á cần tiến hành điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu sản xuất thương
mại theo hướng đa dạng hoá cơ cấu hàng xuất khẩu, đồng thời chuyên môn hoá vào
nhóm sản phẩm có giá trị gia tăng và hàm lượng tri thức cao như :
Singapore, ngành công nghiệp hiện nay tập trung chủ yếu lĩnh vực công
nghiệp có hàm lượng tư bản, kỹ thuật cao trong khi ngành sử dụng nhiều lao động
giảm.
Thái lan, ưu thế các ngành công nghiệp tập trung chủ yếu ở công nghiệp chế
biến, công nghiệp hàng tiêu dùng
Indonexia và Philippin tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến có kỹ
thuật cao và bước đầu tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp điện tử , kim khí
…….
Trang : 49
3.1.2 Giải pháp phát triển các liên kết khu vực và thế giới
Phạm vi địa lý của liên kết kinh tế ASEAN không chỉ dừng tại 10 quốc gia
mà cần mở rộng thêm 3 nước Đông Bắc Á và tương lai lâu dài sẽ mở rộng ra tòan
khu vực Đông Á về các mặt kinh tế, chính trị và văn hóa.
Kinh nghiệm cho thấy cần một lực lượng nòng cốt và dẫn đầu. Lực lượng
nòng cốt này đương nhiên phải có vị thế kinh tế và chính trị quan trọng trong khu
vực, nhưng không nên hiểu là một lực lượng có khả năng áp đặt. ASEAN có một
thế mạnh là một tổ chức khu vực bao gồm nhiều quốc gia và có một khuôn khổ thể
chế đầy đủ nhất trong khu vực, có thể trở thành tâm điểm cho các quan hệ hợp tác
trong khu vực.
a. Liên kết các nước Đông Bắc Á :
Việc các nước Đông Bắc Á hối thúc và cạnh tranh ký kết các hiệp định
thương mại song phương với ASEAN sẽ tạo ra một mạng lưới các hiệp định thương
mại tự do. Tuy nhiên không có nghĩa là hình thành hiệp định thương mại tự do
Đông Bắc Á. Nhật bản và Trung quốc đều ý thức thúc đẩy hiệp định thương mại tự
do song phương của họ với ASEAN để trở thành tâm trục lãnh đạo quá trình hội
nhập kinh tế ở Đông Á.
Giải pháp liên kết khu vực tiến hành ngay một hiệp định thương mại tự do
bao trùm tòan bộ khu vực Đông Bắc Á hiện nay là khó thực hiện bởi nhiều lý do mà
lớn nhất là sự khác biệt về mặt kinh tế khu vực. Phương án là hoàn tất những hiệp
định thương mại tự do hiện đang trong quá trình đàm phán. Mỗi một quốc gia Đông
Bắc Á có thể xây dựng một hiệp định thương mại tự do song phương với ASEAN
tiến đến một hiệp định thương mại tự do tòan khu vực Đông Á.
Một giải pháp tương tự là thiết lập một hiệp định thương mại tự do Đông Bắc
Á dựa trên các hiệp định thương mại tư do song phương hiện đang được đàm phán
tích cực. Hiện nay, Nhật bản đã ký hiệp định thương mại tự do với Singapore(EPA);
Hàn quốc cũng sẽ theo đuổi các hiệp định thương mại tự do ASEAN – Hàn quốc.
Tiếp đó các hiệp định thương mại bao trùm mạng lưới các hiệp định thương mại tự
do song phương khu vực. Những hiệp định này góp phần vào quá trình tự do hóa
Trang : 50
thương mại ASEAN với Đông bắc Á và tạo nền tảng cho Hiệp định thương mại tự
do tòan Đông Á.
Tuy nhiên thời gian hình thành một hiệp định thương mại tự do với Trung
Quốc, Nhật bản hay Hàn quốc cần phải thận trọng. Chẳng hạn việc hợp tác với
Trung quốc, không nên thành lập một khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung
quốc sớm vì hiện tại mức bổ trợ giữa hàng hóa ASEAN và Trung quốc còn thấp.
Trong khi mức cạnh tranh thì rất cao. Ví dụ Indonexia chỉ số cạnh tranh với Trung
quốc tới 80%. Như vậy thành lập khu mậu dịch tự do chỉ có lợi cho Trung quốc và
bất lợi cho ASEAN.
b. Liên kết các nước cường quốc :
Nhiều thập kỷ qua các nước ASEAN phụ thuộc nhiều vào thị trường Mỹ và
Châu âu. Sẽ nguy hiểm nếu biến Đông Nam Á thành một khu vực biệt lập, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích các đối tác. Nhưng phụ thuộc quá nhiều vào thái độ
của đối tác đặc biệt là khả năng phân ly sẽ giảm lòng tin lẫn nhau trong khu vực.
Trong bối cảnh đó cần lợi dụng khuôn khổ hiện có như ARF, TREATI và APEC
hoặc có thể phát triển một khuôn khổ mới tương tự như ASEAM.
Triển vọng hợp tác EU – ASEAN. Hiện nay, các chuyên gia ASEAN ủng hộ
hiệp định hai bên tham gia vào chương trình hợp tác khu vực về tiêu chuẩn chất
lượng nhằm thúc đẩy trao đổi thương mại thông qua việc tiêu chuẩn hoá các quy
chế thủ tục đánh giá chất lượng. Liên minh Châu Âu tiếp tục ủng hộ phát triển và
thực hiện các dự án của ASEAN cho những nỗ lực liên kết khu vực.
3.2 Liên kết tài chính tiền tệ :
Phạm vi địa lý của liên kết kinh tế ASEAN không chỉ dừng tại 10 quốc gia
mà cần mở rộng thêm 3 nước Đông Bắc Á và tương lai lâu dài sẽ mở rộng ra tòan
khu vực Đông Á về các mặt kinh tế, chính trị và văn hóa. Do đó, một chính sách
liên kết tài chính tiền tệ trong khu vực với lực lượng nòng cốt tổ chức ASEAN là
điều không tránh khỏi.
Trang : 51
3.2.1 Quy trình giám sát ASEAN (ASEAN Surveillance Process – ASP)
Giám sát giữ vai trò quan trọng đối với hợp tác tài chính. Nó giúp các nhà
lãnh đạo có được sự đồng thuận chung về những vấn đề :
Một là, giám sát sẽ góp phần ngăn chặn những cuộc khủng hoảng bằng việc
hợp tác giữa các nước nhằm thực hiện việc trao đổi thẳng thắn quan điểm trên cơ sở
ngang hàng, phát hiện sớm các dấu hiệu dễ bị tổn thương của nền kinh tế và điều
chỉnh chính sách để hạn chế khả năng xảy ra khủng hoảng.
Hai là, giám sát sẽ giúp các quốc gia đưa ra các biện pháp đối phó khủng
hoảng khi chúng xảy ra. Giám sát không thể ngăn chặn mọi cuộc khủng hoảng trong
một nền kinh tế toàn cầu phức tạp hiện nay, khi được thực hiện một cách thoả đáng
và thường xuyên thì việc xử lý các cuộc khủng hoảng sẽ hiệu quả
Ba là, tăng cường năng lực nghiên cứu của các cơ quan chính phủ. Giám sát
sẽ thúc đẩy hoạt động của các tổ chức nhằm thu thập thông tin của khu vực phục vụ
cho quá trình phân tích, đánh giá.
Quy trình giám sát ASEAN (ASP) hiện đã được thiết lập và hoạt động từ
năm 1999. Tuy nhiên trong giai đọan tới cần phải được xúc tiến những chương trình
cụ thể, có thể được thiết lập theo 2 giai đoạn sau :
• Giai đoạn 1 : Thiết lập đối thoại chính sách thường xuyên
Các quốc gia thường xuyên thiết lập hệ thống chia sẽ thông tin tăng cường
tính minh bạch trong chính sách kinh tế thông qua một quy trình kiểm điểm ngang
hàng. Các nước phải thường xuyên trao đổi, giám sát thông tin ở cấp bộ trưởng. Cơ
chế đối thoại này cũng cần tham mưu các báo cáo của ban cố vấn IMF. Bên cạnh
đó, tận dụng những cơ quan nghiên cứu độc lập hiện có như ban thư ký ASEAN và
ADB. Để đảm bảo sự liên kết giữa các nước thành viên, một mạng lưới các viện
nghiên cứu, cả nhà nước lẫn tư nhân, sẽ được thiết lập và viện nghiên cứu ADB sẽ
là đại diện chính thức. ASP là nơi lưu trữ, tập hợp thông tin và cung cấp các cảnh
báo sớm cho từng nước và toàn khu vực bằng việc xác định các vấn đề các vấn đề
nổ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 44044.pdf