Tài liệu Đề tài Vấn đề đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại công ty cổ phần Thăng Long: Lời mở đầu
Công ty Cổ phần Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá từ tháng 6 năm 2000. Tiền thân là Công ty rượu - nước giải khát Thăng Long. Từ khi thành lập đến nay, sản phẩm chủ yếu của Công ty là Vang hoa quả các loại. Sản phẩm Vang hoa quả của Công ty không ngừng được hoàn thiện và dần chứng tỏ được vị thế của mình trong ngành sản xuất Vang. Tuy nhiên, đặc trưng cơ bản của loại sản phẩm trên là tính mùa vụ cao. Dẫn đến tình trạng năng lực sản xuất dư thừa trong những thời điểm trái vụ. Do vậy để nâng cao hiệu quả sản xuất- kinh doanh hơn nữa, Công ty cần hoàn thiện cơ cấu sản phẩm trên cơ sở tìm kiếm những sản phẩm bổ sung mới. Những sản phẩm mới này phải thoả mãn các điều kiện như: sản xuất vào những thời điểm trái vụ với sản xuất Vang và có những đặc điểm kinh tế- kỹ thuật tương đồng với dây chuyền công nghệ sản xuất Vang.
Dựa vào những nghiên cứu nhất định về nhu cầu của sản phẩm nước ép trái cây thấy rằng: đây là một loại sản phẩm có nhu cầu khá lớn tại thị trư...
86 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vấn đề đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại công ty cổ phần Thăng Long, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Công ty Cổ phần Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá từ tháng 6 năm 2000. Tiền thân là Công ty rượu - nước giải khát Thăng Long. Từ khi thành lập đến nay, sản phẩm chủ yếu của Công ty là Vang hoa quả các loại. Sản phẩm Vang hoa quả của Công ty không ngừng được hoàn thiện và dần chứng tỏ được vị thế của mình trong ngành sản xuất Vang. Tuy nhiên, đặc trưng cơ bản của loại sản phẩm trên là tính mùa vụ cao. Dẫn đến tình trạng năng lực sản xuất dư thừa trong những thời điểm trái vụ. Do vậy để nâng cao hiệu quả sản xuất- kinh doanh hơn nữa, Công ty cần hoàn thiện cơ cấu sản phẩm trên cơ sở tìm kiếm những sản phẩm bổ sung mới. Những sản phẩm mới này phải thoả mãn các điều kiện như: sản xuất vào những thời điểm trái vụ với sản xuất Vang và có những đặc điểm kinh tế- kỹ thuật tương đồng với dây chuyền công nghệ sản xuất Vang.
Dựa vào những nghiên cứu nhất định về nhu cầu của sản phẩm nước ép trái cây thấy rằng: đây là một loại sản phẩm có nhu cầu khá lớn tại thị trường tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên, lượng cung của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm này vẫn còn thấp so với nhu cầu hiện tại cũng như tiềm năng của nó. Bên cạnh đó, sản phẩm này cũng thoả mãn các điều kiện lựa chọn sản phẩm bổ sung của Công ty Cổ Phần Thăng Long. Do đó, đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái sẽ là hướng kinh doanh mới hiệu quả của Công ty.
Qua thời gian thực tập tại phòng Thị trường của Công ty Cổ phần Thăng Long, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn là: “Đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long” với mong muốn tìm hướng đi mới của công ty, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh của Công ty.
Kết cấu luận văn gồm ba phần:
Phần i: Tổng quan về Công ty Cổ phần Thăng Long
Phần II: Thực trạng và khả năng đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long
Phần III: Giải pháp cơ bản nhằm đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS. TS Đinh Thị Ngọc Quyên, Phòng Thị trường và Công ty Cổ phần Thăng Long đã giúp tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Phần thứ nhất
Tổng quan về Công ty Cổ phần Thăng Long
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Thăng Long
Công ty Cổ phần Thăng Long, tiền thân là Xí nghiệp Rượu - nước giải khát Hà Nội đã được thành lập từ năm 1989 theo Quyết định của UBND thành phố Hà Nội. Từ đó cho đến nay, Công ty đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Quá trình đó có thể tạm chia thành ba giai đoạn phát triển chính như sau:
Giai đoạn 1989 - 1993
Đây là giai đoạn bắt đầu thành lập, Công ty có tên là Xí nghiệp rượu - nước giải khát Thăng Long. Xí nghiệp được thành lập theo quyết định số 6415/QĐUB ngày 24/3/1989 của UBND thành phố Hà Nội.
Khi thành lập, xí nghiệp chỉ là một đơn vị sản xuất nhỏ với 50 công nhân, cơ sở vật chất nghèo nàn, sản xuất hoàn toàn thủ công. Vượt qua khó khăn bước đầu thành lập, sản lượng sản xuất của xí nghiệp không ngừng tăng lên, diện tích kho bãi ngày càng mở rộng. Đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện. Mức nộp ngân sách tăng từ 337 triệu đồng (năm 1991) lên 1.976 triệu đồng (năm 1993). Sản phẩm vang Thăng Long đã dần tìm được chỗ đứng trên thị trường.
Giai đoạn 1994 - 2001
Đây là giai đoạn phát triển vượt bậc về năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ của công ty. Lúc này, Xí nghiệp rượu - nước giải khát Thăng long được đổi tên thành Công ty rượu - nước giải khát Thăng Long theo quyết định số 3021 - QĐUB ngày 16/8/1993 của TP Hà Nội. Trong giai đoạn này, công ty đã tích cực đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ; triển khai thành công mã số, mã vạch cùng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002 và hệ thống phân tích xác định và kiểm soát các điểm nguy hại trọng yếu trong quá trình sản xuất. Cùng với những đổi mới về Công nghệ, quy mô của Công ty cũng không ngừng tăng lên. Số lượng lao động từ 50 người trong giai đoạn trước thì đến giai đoạn này đã tăng lên 292 người tức là gấp gần 6 lần. Quy mô vốn cũng tăng lên rất nhiều. Tổng nguồn vốn năm 2001 của Công ty là hơn 39 tỷ đồng. Có thể nói đây là giai đoạn phát triển rất mạnh của Công ty, mở đầu cho những bước phát triển rất quan trọng trong giai đoạn sau của Công ty.
Giai đoạn 2002 đến nay
Công ty cổ phần Thăng Long chính thức đi vào hoạt động từ ngày 03/5/2002. Với tên chính thức là Công ty Cổ phần Thăng Long, Tên giao dịch là Thang Long joint stock company. Trụ sở giao dịch chính của Công ty là Số 191 - Lạc Long Quân - Cầu Giấy - Hà Nội. Ngành nghề kinh doanh chủ yếu của Công ty là :
- Sản xuất nước uống có cồn và không cồn
- Sản xuất hàng nhựa
- Kinh doanh nhà hàng, khách sạn.
Trong đó, mặt hàng chủ lực và có hiệu quả là Vang hoa quả.
Từ đây, công ty đã bước sang một trang sử mới với 300 lao động, 400 cổ đông, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2000, HACCP, TQM và ISO 14000.
Không những làm tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, công ty còn tích cực tham gia công tác xã hội. Công ty đã tổ chức và phối hợp tổ chức nhiều hoạt động văn nghệ, thể thao lôi cuốn đông đảo người lao động tham gia. Hiện nay công ty đang nhận phụng dưỡng 15 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 3 bà mẹ liệt sĩ. Với những thành tựu đó, Công ty đã nhận được danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới và nhiều huân, huy chương các loại. Sản phẩm vang của Công ty đã nhiều năm liền giành được danh hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng cao” cùng nhiều cúp vàng, giải thưởng vàng Hội chợ quốc tế tại Việt Nam.
Qua các giai đoạn, công ty ngày càng lớn mạnh và không ngừng phát triển, có mức tăng trưởng sản xuất nộp Ngân sách cao, luôn xứng đáng là một trong những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đi đầu trong ngành sản xuất Vang.
2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty Cổ phần Thăng Long
Với những đặc điểm ngành nghề kinh doanh trên, Công ty đã quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong điều lệ của Công ty như sau:
Tổ chức sản xuất kinh doanh các loại đồ uống có cồn, không có cồn và các mặt hàng theo đăng ký kinh doanh, mục đích thành lập của Công ty Cổ phần Thăng Long.
Bảo toàn và phát triển nguồn vốn kinh doanh.
Thực hiện các nhiệm vụ do HĐQT và Giám đốc điều hành đề ra.
Thực hiện các nghĩa vụ do HĐQT và Giám đốc điều hành đề ra.
Thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước theo luật định.
Thực hiện phân phối theo lao động, không ngừng chăm lo và cải thiện đời sống vật chất tinh thần; bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên.
Bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường và an ninh trật tự.
Công ty Cổ phần Thăng Long hoạt động theo nguyên tắc hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ, có tài khoản riêng, có con dấu riêng để giao dịch theo điều lệ Công ty và trong khuôn khổ pháp luật.
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hoạt động của Doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận có quan hệ chặt chẽ với nhau và được phân thành các cấp quản lý với chức năng và quyền hạn nhất định nhằm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của Công ty. Để đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh, bộ máy tổ chức của Công ty không ngừng được hoàn thiện. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần Thăng Long được thể hiện cụ thể ở sơ đồ sau:
Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng phòng, ban :
- Đại hội cổ đông: Là cơ quan quyền lực cao nhất trong công ty; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty như: điều lệ công ty, bầu các thành viên Hội đồng quản trị, quyết định phương hướng phát triển của công ty.
- Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản lý công ty, toàn quyền nhân danh công ty quyết định đến mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty như chiến lược kinh doanh, phương án đầu tư; bổ, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng.
- Chủ tịch hội đồng quản trị: Là người lập chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng quản trị, theo dõi quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị.
- Giám đốc điều hành: Là người trực tiếp điều hành toàn bộ mọi hoạt động của công ty.
- Phó giám đốc điều hành: Là người giúp Giám đốc quản lý các nhiệm vụ của sản xuất, chịu trách nhiệm trước Giám đốc những nhiệm vụ được giao.
- Phòng Tổ chức: Chức năng chính là thực hiện quản lý nhân sự, đảm bảo nguồn lao động của công ty hợp lý; tuyển lao động mới; lập kế hoạch tiền lương công nhân.
- Phòng Hành chính: Thực hiện quản lý hành chính; quản lý hồ sơ văn thư lưu trữ và các thiết bị văn phòng, nhà khách; tổ chức công tác thi đua tuyên truyền.
- Phòng Kế toán: Chịu trách nhiệm về sổ sách hành chính của công ty; thực hiện nhiệm vụ lập kế hoạch tài chính, tính toán chi phí, thu hồi công nợ, hạch toán lãi, thanh toán lương cho công nhân, thanh toán tiền hàng cho khách hàng, đảm bảo cho hoạt động tài chính của công ty được hoạt động thông suốt.
- Phòng Cung tiêu: Làm nhiệm vụ nghiên cứu, tiếp cận và phân tích nguồn nguyên vật liệu đầu vào; đảm bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ cả về số lượng và chất lượng cho quá trình sản xuất; đồng thời tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm.
- Phòng Nghiên cứu - Đầu tư và Phát triển: Hoàn thiện quy trình sản xuất đồng thời nghiên cứu sản phẩm mới.
- Phòng Thị trường: Nghiên cứu và phát triển, mở rộng thị trường; phát hiện sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng và thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm.
- Phòng Quản lý chất lượng: Giám sát chất lượng sản phẩm sản xuất đảm bảo sản phẩm bán ra đạt tiêu chuẩn chất lượng, nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Phòng Công nghệ và Quản lý sản xuất : Thực hiện công tác quản lý kỹ thuật các loại máy móc thiết bị, nhà xưởng, kho tàng và quỹ đất của công ty.
- Ban bảo vệ: Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tài sản của công ty; phòng chống bão lụt, cháy nổ, trộm cắp và thực hiện kiểm tra hành chính.
- Các tổ sản xuất: Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm cho công ty.
- Các cửa hàng: Thực hiện nhiệm vụ bán hàng, giới thiệu sản phẩm và thu thập thông tin phản hồi từ khách hàng.
Cơ cấu bộ máy quản lý được tổ chức theo cấu trúc trực tuyến. Tính tập trung của cấu trúc rất cao, thể hiện ở mọi quyền lực quản lý được tập trung vào người cao nhất. Công ty có rất ít cấp quản trị trung gian với rất ít đầu mối quản lý, và với một lượng nhân viên không nhiều hay tính phức tạp của cấu trúc tổ chức rất thấp. Mọi thông tin đều được tập trung cho người quản lý cao nhất và mọi quyết định được đưa ra từ đó. Các phòng, ban trong công ty đều có nhiệm vụ, chức năng riêng nhưng tất cả đều làm việc giúp Giám đốc, chịu sự quản lý của Giám đốc theo lĩnh vực chuyên môn được phân công và phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc, trước pháp luật, Nhà nước về chức năng hoạt động và về hiệu quả của công việc được giao. Mặc dù vậy, trong cơ cấu tổ chức của công ty có những bộ phận thực hiện chức năng chồng chéo nhau. Ví dụ như chức năng tiêu thụ sản phẩm được giao cho cả hai phòng là phòng Thị trường và phòng Cung - tiêu. Sự chồng chéo này dẫn đến khó định rõ trách nhiệm, quyền hạn cũng như trách nhiệm của các phòng, làm ảnh hưởng tới việc thực hiện các nhiệm vụ chung của công ty.
4. Kết quả sản xuất kinh doanh
Kể từ khi thành lập đến nay, Công ty Cổ phần Thăng Long đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Trong giai đoạn đầu tiên từ 1991 - 1995, tốc độ tăng trưởng của Công ty đạt mức cao nhất, trung bình khoảng 70% một năm. Đến giai đoạn thứ hai 1996 - 2000, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 2,0 - 2,5%/năm. Riêng năm 2001, tốc độ tăng trưởng đạt 5,7%. Còn giai đoạn 2002 - 2004, kết quả kinh doanh cụ thể được thể hiện trong bảng Các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu dưới đây:
Qua bảng trên ta có thể thấy tình hình sản xuất - kinh doanh của Công ty đang có xu hướng phát triển tốt. Điều đó được thể hiện rất rõ qua các chỉ tiêu doanh thu tăng đều từ năm 2002 - 2004. Doanh thu năm 2003 là 65.000 triệu đồng, tăng 9,73% so với năm 2002 ( doanh thu là 59.235 triệu đồng). Doanh thu năm 2004 là 66.290 triệu đồng, tăng 1,98% so với năm 2003. Doanh thu liên tục tăng chứng tỏ tình hình sản xuất - kinh doanh của Công ty đang phát triển, khả năng tiêu thụ hàng hoá cao. Bên cạnh việc tăng doanh thu thì chi phí sản xuất - kinh doanh của Công ty cũng tăng trong giai đoạn này. Tổng chi phí năm 2003 tăng 5.715 triệu đồng so với năm 2002 (ằ 10,94%). Tổng chi phí năm 2004 tăng 959 triệu đồng so với năm 2003 (ằ 1,59%). Việc tăng chi phí sản xuất - kinh doanh của Công ty trong giai đoạn này là một điều dễ hiểu do mức sản lượng sản xuất của Công ty tăng. Mặc dù chi phí sản xuất - kinh doanh tăng nhưng mức lợi nhuận đạt được hàng năm của Công ty vẫn tăng. Năm 2003, lợi nhuận của Công ty tăng 50 triệu đồng so với năm 2002 (ằ 1,05%). Lợi nhuận năm 2004 tăng 331 triệu đồng so với năm 2003 (ằ 6,89%). Qua việc phân tích ba chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận ta có thể thấy tình hình sản xuất - kinh doanh của Công ty năm 2004 đạt hiệu quả cao hơn so với năm 2003.
Tổng vốn kinh doanh của Công ty cũng liên tục tăng trong giai đoạn 2002 - 2004. Năm 2003, tổng vốn kinh doanh của Công ty tăng gần 1.587 triệu đồng so với năm 2002 (ằ3,54%). Năm 2004, tổng vốn kinh doanh tăng gần 1.936 triệu đồng (ằ 4,18%) so với năm 2003. Trong đó, cơ cấu vốn cố định và vốn lưu động đều tăng qua các năm. Đặc biệt, Vốn cố định năm 2003 tăng gần 1.074 triệu đồng so với năm 2002 (ằ 4,47%). Vốn cố định năm 2004 tăng gần 1.133 triệu đồng so với năm 2003 (ằ 4,5%). Điều đó chứng tỏ Công ty liên tục tăng cường đầu tư mua sắm tài sản cố định trong giai đoạn này.
Tổng quỹ lương của Công ty qua các năm từ 2002 - 2004 cũng tăng rõ rệt. Năm 2003, tổng quỹ lương tăng 318 triệu đồng so với năm 2002 (ằ10,88%). Tổng quỹ lương năm 2004 tăng 275 triệu đồng (ằ 8.48%) so với năm 2003. Thu nhập bình quân một tháng của người lao động cũng tăng đáng kể trong giai đoạn này. Điều đó cho thấy đời sống của người lao động trong Công ty không ngừng được nâng cao. Hiệu quả sử dụng chi phí của Công ty trung bình ở mức 1,085>1. Nếu Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thì có thể thu lại được 1,085 đồng lợi nhuận. Như vậy, sau khi xem xét các chỉ tiêu kinh doanh tuyệt đối ta có thể thấy các chỉ tiêu này đều tăng qua các năm. Tuy vậy, nếu chỉ dừng lại ở việc xem xét các chỉ tiêu tuyệt đối thì chưa thể đáng giá được toàn diện hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty.
Để đánh giá chính xác hơn cần xem xét thêm một số chỉ tiêu tương đối như tỷ suất lợi nhuận/tổng vốn kinh doanh, lợi nhuận /tổng chi phí, lợi nhuận /tổng doanh thu, số vòng quay của vốn lưu động. Qua bảng các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu có thể thấy các chỉ tiêu tương đối trên đây của Công ty có xu hướng giảm dần qua các năm. Cụ thể, tỷ suất Lợi nhuận /Tổng vốn kinh doanh năm 2002 là 10,61%, năm 2003 giảm xuống còn 10,35% và đến năm 2004 chỉ là 9,38%. Tỷ suất Lợi nhuận/Tổng chi phí năm 2002 là 8,72%, năm 2003 chỉ còn 7,97%; năm 2004 đạt 8,38%, tuy có tăng hơn so với năm 2003 nhưng vẫn thấp hơn năm 2002. Chỉ tiêu tỷ suất Lợi nhuận/Tổng doanh thu của năm 2003 và 2004 cũng thấp hơn năm 2002. Mối quan hệ giữa tốc độ tăng năng suất và tốc độ tăng thu nhập của người lao động cũng giảm dần, cả 2 năm đều giảm 0,01. Điều đó cho thấy Công ty chưa sử dụng hiệu quả về mặt lao động. Sau khi xem xét các chỉ tiêu trên ta có thể thấy các chỉ tiêu hiệu quả tương đối của Công ty là chưa cao so với mức tăng trưởng chung của toàn ngành. Cụ thể, chỉ tiêu Lợi nhuận/Tổng doanh thu của ngành này trung bình ở mức 30 - 40% nhưng Công ty chỉ đạt trung bình ở mức 7,71% trong giai đoạn này.
Phần thứ hai
Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại
Công ty Cổ phần Thăng Long
Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty ảnh hưởng đến hoạt động đa dạng hoá sản phẩm
Đặc điểm về nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu chủ yếu cho quá trình sản xuất sản phẩm Vang bao gồm: các loại quả, cồn thực phẩm, men giống, đường, chai, nhãn, nút, nắp chai, vỏ hộp.
Các loại quả
Hiện nay, với 14 sản phẩm Vang và rượu khác nhau, Công ty sử dụng 7 loại nguyên liệu quả chính là: nho, vải, dứa, mơ, mận, dâu, sơn tra. Với đặc điểm Việt Nam là một nước nông nghiệp, có khí hậu là nhiệt đới gió mùa nên hoa quả của Việt Nam rất phong phú, đa dạng và số lượng lớn. Vang là sản phẩm lên men từ trái cây thiên nhiên nên từ các loại quả khác nhau có thể sản xuất một sản phẩm Vang khác nhau. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hoá sản phẩm Vang. Công ty đã khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có của các địa phương trong nước cụ thể là:
Bảng 2. Danh mục nguyên liệu quả chủ yếu
STT
Các loại quả
Vùng nguyên liệu quả
1
Nho
Ninh thuận, Phan Rang
2
Sơn tra
Yên Bái
3
Vải
Hải Dương, Bắc Giang
4
Mơ
Lào Cai, Bắc Cạn, Sơn La
5
Mận
Lào Cai, Bắc Cạn, Sơn La
6
Dứa
Ninh Bình, Thanh Hoá, Vĩnh Phúc
7
Dâu
Quảng Ninh, Hà Tây
(Nguồn: Phòng thị trường - Công ty cổ phần Thăng Long, năm 2005)
Phần lớn các loại quả trên đây được công ty thu mua qua một số chủ hàng thu gom của nông dân và bán lại cho công ty. Công ty chưa có phương án quy hoạch vùng nguyên liệu để ổn định số lượng, chất lượng nguyên liệu đầu vào. Đây cũng là một trong những vấn đề Công ty cần có hướng giải quyết để nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm và khả năng chủ động của doanh nghiệp trước những biến động không ngừng của thị trường đầu vào cũng như đầu ra.
Các nguyên liệu quả có đặc điểm là dễ dập nát trong quá trình vận chuyển, không giữ được lâu nên nếu kéo dài thời gian thu hái, thu mua, vận chuyển đến chế biến sẽ ảnh hưởng xấu tới chất lượng siro quả. Bên cạnh đó, nguyên liệu quả cũng có tính mùa vụ nên ảnh hưởng rất lớn đến quá trình dự trữ cũng như công tác tìm nguồn hàng của Công ty.
Các loại nguyên liệu khác
Các loại nguyên liệu chủ yếu khác bao gồm: cồn thực phẩm, đuờng, men giống, vỏ chai, nút chai.
Cồn thực phẩm đạt tiêu chuẩn cồn loại I theo TCVN được mua của Công ty Rượu Đồng Xuân có các chỉ tiêu theo công bố chất lượng của Công ty. Nguyên liệu cồn được kiểm tra trước khi nhập kho, đưa vào sản xuất và có kết quả phân tích kèm theo mỗi lô hàng (theo tiêu chuẩn Việt Nam), do đó đảm bảo được chất lượng cồn đầu vào.
Đường nguyên liệu đang sử dụng là loại đường đỏ. Loại đường này có nhiều hạn chế về chất lượng như hàm lượng axit tổng hợp lớn, dễ chảy vữa do đó dễ bị tạp nhiễm các vi sinh vật, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sản phẩm.
Loại chai được sử dụng để chứa đựng sản phẩm vang là chai thuỷ tinh, nhập từ hai nguồn khác nhau. Nguồn thứ nhất là mua chai mới của một Công ty liên doanh. Nguồn thứ hai là thu mua chai cũ (đã qua sử dụng) của công ty. Việc thu mua chai qua con đường thứ hai có vai trò rất quan trọng đó là tiết kiệm chi phí, giảm lượng rác thải và quan trọng nhất là tránh nạn làm hàng giả, hàng nhái.
Các loại Vang khác nhau chỉ khác nhau ở loại nguyên liệu quả được sử dụng. Còn các loại phụ gia đi kèm (men, đường nguyên liệu, cồn thực phẩm...) và bao gói sử dụng đều giống nhau. Như vậy, các doanh nghiệp sản xuất Vang có thể tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có để sản xuất nhiều sản phẩm Vang khác nhau. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm Vang theo dòng sản phẩm. Ngoài ra, có nhiều sản phẩm khác cũng được chế biến từ hoa quả các loại như nước ép trái cây, nước hoa quả đã qua chế biến, nước hoá quả lên men, nước hoa quả có ga nhẹ. Công ty có thể tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có để đa dạng hoá những sản phẩm mới hoàn toàn để đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng.
Đặc điểm máy móc thiết bị và công nghệ
Trước năm 1994, công nghệ sản xuất Vang của Công ty là công nghệ truyền thống nên khá lạc hậu, khả năng cơ giới hoá chỉ chiếm 20% trong khi lao động thủ công chiếm tới 80% khiến cho năng suất lao động thấp và chất lượng sản phẩm không đồng đều. Nhận thức được tầm quan trọng đó, ban lãnh đạo Công ty đã quyết tâm khắc phục mọi khó khăn để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất. Đến nay, Công ty đã tập trung vào công tác nghiên cứu khoa học; mạnh dạn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị; xây dựng nhà xưởng và đã làm chủ được dây chuyền sản xuất hiện đại vào bậc nhất nước ta hiện nay. Thông qua Bảng cơ cấu máy móc thiết bị chủ yếu của Công ty cổ Phần Thăng Long (tiến hành vào tháng 1 năm 2004) dưới đây ta có thể thấy rõ được điều đó.
Qua đó ta có thể thấy được nhiều máy móc của Công ty được nhập từ nước ngoài như Italia, Mỹ, Nhật, Liên Xô, Anh, Pháp, Đức, Đài Loan, Trung Quốc... Đa số máy móc thiết bị có giá trị còn lại tương đối lớn.
Với sản phẩm Vang truyền thống và yêu cầu chất lượng như hiện nay, nhìn chung, công nghệ sản xuất hiện tại là hợp lý. Nhưng công nghệ hiện tại cũng còn nhược điểm là chưa xác định được giống quả, vùng đất trồng, tiêu chuẩn nguyên liệu đầu vào, công nghệ chế biến dịch quả (sơ chế quả, xử lý dịch quả, bảo quản). Điều kiện lên men chính và phụ chưa được kiểm soát. Công nghệ lọc cần được cải tiến theo hướng hiện đại hoá.
Như vậy, máy móc thiết bị và công nghệ cho sản xuất Vang của Công ty là tương đối hiện đại. Trên cơ sở máy móc thiết bị hiện đại, Công ty có thể tiến hành đa dạng hoá sản phẩm dễ dàng hơn.
Đặc điểm về lao động
Đội ngũ lao động của công ty cổ phần Thăng Long là một trong những nguồn lực quý giá của doanh nghiệp. Khởi đầu, công ty chỉ có 50 lao động (1989) với trình độ tay nghề hạn chế, chủ yếu là lao động phổ thông. Đến nay, lượng lao động trong công ty đã tăng gấp 6,3 lần (năm 2004 số lao động là 315 người). Từ năm 2001 đến năm 2004, số lượng lao động liên tục tăng. Điều đó thể hiện rất rõ qua Biểu đồ tổng số lao động qua các năm dưới đây:
Biểu đồ 1. Tổng số lao động qua các năm
(Nguồn: Phòng Tổ chức – Công ty Cổ phần Thăng Long, năm 2004)
Trong tổng số lao động như vậy, cơ cấu nam - nữ của công ty tương đối đồng đều. Năm 2003, trong tổng số 310 lao động bao gồm 155 nam và 155 nữ; như vậy tỷ lệ tương ứng là 50 % - 50%. Năm 2004, trong tổng số 315 lao động bao gồm 158 nam và 157 nữ; tỷ lệ tương ứng là: 50,01% - 49,99%. Bên cạnh việc không ngừng tăng lên về số lượng, chất lượng lao động trong doanh nghiệp cũng ngày càng được nâng cao. Điều đó được thể hiện rất rõ qua Bảng cơ cấu lao động theo trình độ của Công ty dưới đây
Bảng 4. Cơ cấu lao động theo trình độ của Công ty Cổ phần Thăng Long
Chỉ tiêu
Năm (ĐVT: người)
2002/2001
2003/2002
2004/2003
2001
2002
2003
2004
Chênh lệch
Tỷ lệ %
Chênh lệch
Tỷ lệ %
Chênh lệch
Tỷ lệ %
Đại học
42
43
77
80
1
2.38
34
79.07
3
3.89
CĐ - TC
33
34
45
43
1
3.03
11
32.35
-2
- 4.44
CNKT
175
177
158
163
2
1.14
- 19
-10.73
5
3.16
LĐPT
42
41
30
29
- 1
-2.38
- 11
-26.83
-1
-3.33
Tổng số
292
295
310
315
3
1.03
15
5.08
5
1.61
(Nguồn: Phòng Tổ chức- Công ty Cổ phần Thăng Long, năm 2004)
Như vậy, số lao động có trình độ đại học có xu hướng ngày càng tăng qua các năm từ 2001 đến 2004, số lao động phổ thông có xu hướng giảm. Công ty còn có nhiều kỹ sư giỏi chuyên môn, công nhân lành nghề cùng đội ngũ cán bộ quản lý dày dạn kinh nghiệm. Với trình độ lao động ngày càng tăng, đội ngũ lao động dễ dàng hơn trong việc nắm bắt quy trình sản xuất các sản phẩm mới. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hoá sản phẩm tại Công ty.
Đặc điểm về cơ cấu sản xuất
Cơ cấu sản xuất của Công ty được sơ đồ hoá như sau:
Sơ đồ 2.Cơ cấu sản xuất của Công ty cổ phần Thăng Long
Công ty
Xưởng sản xuất Vĩnh Tuy
Xưởng sản xuất Lạc Long Quân
Phân xưởng đóng Vang
và rửa chai
Phân xưởng lên men
Phân xưởng lọc Vang
Phân xưởng thành phẩm
Các tổ sản xuất
Phân xưởng đóng Vang
và rửa chai
Phân xưởng lên men
Phân xưởng lọc Vang
Phân xưởng thành phẩm
Các tổ sản xuất
Tổ kho vận
Tổ kho vận
( Nguồn: Phòng Tổ chức – Công ty cổ phần Thăng Long, năm 2005)
Công ty có hai xưởng sản xuất là xưởng Vĩnh Tuy và xưởng ngay tại trụ sở Công ty. Các xưởng sản xuất của Công ty bao gồm 4 phân xưởng chính là phân xưởng đóng vang và rửa chai, phân xưởng lên men, phân xưởng lọc vang, phân xưởng thành phẩm. Nhiệm vụ chủ yếu của phân xưởng thành phẩm là phụ trách khâu chiết chai, đóng nút, dán nhãn, đóng thùng. Dưới các phân xưởng là các tổ sản xuất. Như vậy có thể thấy cơ cấu sản xuất của Công ty được xây dựng theo kiểu trực tuyến. Việc xây dựng cơ cấu sản xuất như vậy là do đặc điểm sản xuất của công ty là theo dây truyền. Quản lý theo kiểu trực tuyến sẽ giúp cho quá trình sản xuất được thông suốt, tránh trồng chéo tuy vậy cũng hạn chế việc kiểm soát lần nhau giữa các bộ phận.
Cơ cấu tổ chức sản xuất theo quá trình tại các xưởng sản xuất, bố trí các hoạt động sản xuất có chức năng tương tự tại các phân xưởng, là cơ sở thuận lợi cho việc thực hiện các hoạt động đa dạng hoá tại Công ty Cổ phần Thăng Long. Nếu cơ cấu tổ chức theo sản phẩm, tức là lập dây chuyền khép kín để chuyên môn hoá sản xuất một loại Vang sẽ làm cho số lượng Vang bị hạn chế. Thêm vào đó, nếu muốn đa dạng hoá (đổi mới, hay tạo ra sản phẩm mới...) sẽ yêu cầu thay đổi toàn bộ dây chuyền sản xuất. Như vậy sẽ rất tốn kém về chi phí, thời gian và công sức. Thay vì tổ chức sản xuất như vậy, Công ty Cổ phần Thăng Long bố trí sản xuất theo quá trình, cơ cấu tổ chức sản xuất này cho phép thiết lập được rất nhiều quy trình sản xuất. Do đó, có thể sản xuất được rất nhiều sản phẩm khác nhau theo nhu cầu của thị trường. Hầu hết các loại Vang đều có quy trình công nghệ khác nhau, sự khác biệt chỉ thể hiện ở ba công đoạn cơ bản, gồm có: Sơ chế quả, lên men và ngâm dịch. Thông qua hình thức bố trí này Công ty có thể sử dụng các máy móc thiết bị, công cụ khác nhau trong 3 công đoạn trên để tạo ra các loại Vang khác nhau.
Đặc điểm về vốn
Nhìn chung tổng vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần Thăng Long có chiều hướng tăng lên trong những năm qua (2001-2004), từ 39.463.768 nghìn đồng năm 2001 tăng lên 49.152.315 nghìn đồng năm 2004 (tăng 124,5%). Trong đó, tỷ trọng vốn cố định có xu hướng tăng lên, từ 16.127.251 nghìn đồng lên đến 22.800.101 nghìn đồng (tăng 141,376%). Ngược lại, vốn lưu động có xu hướng giảm trong tổng số vốn của Công ty, từ 59.13% năm 2001 giảm còn 53.61% năm 2004.Có thể thấy rõ điều này thông qua bảng sau:
Bảng 5. Cơ cấu vốn của Công ty cổ phẩn Thăng Long (Đơn vị: 1000đ)
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng vốn theo cơ cấu
39.463.768
100
44.776.229
100
46.363.000
100
49.152.315
100
Vốn lưu động
23.336.517
59.13
24.046.294
53.7
25.120.000
54.18
26.352.214
53.61
Vốn cố định
16.127.251
40.87
20.729.935
46.3
21.243.000
45.82
22.800.101
46.39
( Nguồn: Phòng Kế toán – Công ty Cổ phần Thăng Long, năm 2004)
Như vậy có thể thấy trong những năm qua Công ty đã chú trọng đầu tư vào tài sản cố định. Nguyên nhân cơ bản là do Công ty đã đầu tư vốn vào việc cải tiến dây chuyền vừa nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm vừa mua thêm nhiều thiết bị để sản xuất ra các sản phẩm Vang mới, đẩy mạnh thực hiện chính sách đa dạng hóa sản phẩm của Công ty.
Khả năng hiện tại về vốn của Công ty Cổ phần Thăng Long là khá lớn. Không những thế trong những năm qua do kinh doanh có hiệu quả nên uy tín của công ty ngày càng tăng, góp phần thuận lợi trong việc huy động thêm vốn cho công ty. Kết quả Công ty đã có thể huy động được rất nhiều vốn từ nhiều nguồn khác nhau: từ các cổ đông thông qua phát hành thêm trái phiếu, từ các nhà đầu tư, quỹ tín dụng, ngân hàng..., thậm chí là các nhà đầu tư nước ngoài. Với nguồn vốn dồi dào như vậy, Công ty đã không gặp mấy khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách đa dạng hóa sản phẩm của mình dưới góc độ vốn.
Nhằm đảm bảo đủ vốn đầu tư cho các dây chuyền sản xuất mới để thực hiện các hoạt động đa dạng hóa sản phẩm, xu hướng của Công ty Cổ phần Thăng Long sẽ tập trung chủ yếu bằng hình thức phát hành thêm cổ phiếu, nói cách khác là tăng nguồn vốn chủ sở hữu của công ty, giúp công ty chủ động hơn về nguồn vốn, từ đó tạo điều kiện để công ty có thể thực hiện được những quyết sách và những chiến lược về đa dạng hóa của công ty. Tuy nhiên Công ty cũng cần cân nhắc tỷ lệ cơ cấu hợp lý giữa vốn sỡ hữu và vốn vay, cũng như việc bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Những nhân tố môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động đa dạng hoá sản phẩm của Công ty Cổ phần Thăng Long
Nhu cầu thị trường tiêu dùng Vang
2.1.1. Nhu cầu thị trường nước ngoài
Nhu cầu tiêu dùng Vang trên thế giới đã xuất hiện từ lâu và trở thành nước uống quen thuộc đối với dân cư của nhiều nước như: Pháp, ý, Tây Ban Nha, Mỹ, Achentina... Tại Pháp, mức tiêu thụ Vang bình quân đạt 60-85 lít/đầu người/năm. Ngoài ra, nhiều nước đã đẩy mạnh xuất khẩu Vang ra thị trường thế giới khiến cho thị trường Vang ngày càng trở nên phong phú hơn. Có thể nói thị trường tiêu thụ sản phẩm này hiện nay không còn chỉ bó hẹp tại một số nước phương Tây hay Châu Mỹ, mà đã phát triển rộng khắp ra nhiều nước khác, thậm chí ở Châu á và Châu Phi, với lượng tiêu thụ bình quân hàng chục tỷ lít trên một năm.
2.1.2 Nhu cầu thị trường trong nước
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu tiêu dùng Vang tại thị trường Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Điều này có thể thấy thông qua tổng số lượng Vang được tiêu thụ của các doanh nghiệp sản xuất Vang chính ở Việt Nam và lượng Vang được nhập từ nước ngoài như bảng sau:
Bảng 6. Tổng nhu cầu tiêu dùng Vang trong thời kỳ 2001-2004
Năm
2001
2002
2003
2004
Sản lượng tiêu thụ
(Đơn vị: Lít)
14.854.000
17.356.000
21.846.000
25.467.000
Tốc độ tăng trưởng(%)
-
116,84
125,87
116,57
(Nguồn: Tổng Công ty Rau Quả Việt Nam)
Ngoài ra, theo các kết quả nghiên cứu của các chuyên gia nước ngoài, nhu cầu tiêu dùng Vang chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố cơ bản như: dân số, thu nhập dân cư, truyền thống văn hoá dân tộc và tốc độ đô thị hoá. Những yếu tố này đang phát triển khá mạnh mẽ ở Việt Nam. Dân số Việt Nam dự báo năm 2005 sẽ khoảng 80 triệu dân và đến năm 2010 là 90 triệu dân, trong đó lứa tuổi thường xuyên dùng Vang (từ 20 tuổi đến 50 tuổi) chiếm tỷ trọng 37%. Cụ thể lứa tuổi này vào năm 2005 khoảng 30 triệu và năm 2010 là 34 triệu. Như vậy, có thể nói Việt Nam là một thị trường tiềm năng đối với các nhà sản xuất và kinh doanh Vang.
Nhu cầu tiêu dùng Vang sẽ còn tăng mạnh thông qua nghiên cứu tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập của dân cư. Trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển dài với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 7-7,5%. Nhờ đó đã không ngừng cải thiện thu nhập và mức sống của người dân. Dự báo năm 2005, GDP bình quân đầu người khoảng 500 USD và tăng lên khoảng 910 USD vào năm 2010. Kinh tế phát triển, đời sống dân cư được cải thiện khiến nhu cầu tiêu dùng Vang tại Việt Nam ngày càng tăng.
Từ năm 1999 đến nay, tốc độ đô thị hoá ở nước ta diễn ra nhanh chóng và trở thành những thị trường hấp dẫn đối với Vang. Đô thị là những nơi tập trung đông dân cư, thu nhập cao hơn so với nông thôn và trung tâm của các hoạt động thương mại, du lịch, quan hệ ngoại giao... nên nhu cầu sử dụng Vang sẽ lớn hơn rất nhiều so với vùng nông thôn. Theo quyết định số 10/98-98-QĐ-TTG ngày 7/2/1998 của Thủ Tướng Chính phủ, quy hoạch đô thị Việt Nam đến năm 2020 sẽ có 46 triệu dân. Đây sẽ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ tiêu dùng Vang.
Như vậy, nhu cầu tiêu dùng Vang rất lớn cả trên thị trường thế giới và thị trường nội địa, đặc biệt là thị trường nội địa dưới sự tác động lớn của sự phát triển kinh tế, mức sống của người dân ngày càng cải thiện, dân số tăng nhanh và tốc độ đô thị hóa cao như hiện nay. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với Công ty Cổ phần Thăng Long. Để nắm bắt cơ hội này, Công ty Cổ phần Thăng Long đã không ngừng nâng cao năng lực sản xuất mà còn thường xuyên cải tiến sản phẩm hiện tại và tạo ra nhiều sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng về chủng loại, hình thức và chất lượng.
Tình hình cạnh tranh
2.2.1. Tình hình cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Các quốc gia lớn về sản xuất Vang là các nước Tây Âu như Pháp, Italia, Tây Ban Nha và Đức với tổng sản lượng sản xuất Vang hàng năm bình quân là 165 triệu hectolít, chiếm khoảng 60% tổng sản lượng thế giới. Trong đó, sản xuất Vang tại khu vực Châu á Thái Bình Dương vần còn rất khiêm tốn. Sản xuất Vang ở Trung Quốc và Australia chỉ khoảng 5,75 và 7,42 triệu hectolít. Tuy nhiên, sản xuất Vang ở khu vực Châu Âu đã tương đối ổn định trong 10 năm qua, trong khi đó sản xuất Vang ở Mỹ, Trung Quốc và Australia đang có chiều hướng tăng rõ rệt.
2.2.2. Tình hình cạnh tranh trên thị trường nội địa
Ngành sản xuất Vang ở Việt Nam mới chỉ thực sự bắt đầu vào khoảng những năm 80. Vào năm 1984, chỉ mới có Vang Thăng Long với sản lượng khoảng 10.000 lít/năm. Năm 1985 Vang Thăng Long đạt sản lượng khoảng 30.000 lít/năm. Năm 1986, có thêm Vang Hồng Hà, Gia Lâm,... Tổng sản lượng đạt khoảng 100.000 lít/năm. Từ năm 1992 đến năm 1996 đã có thêm Vang Đông Đô, HaBa, Hà Nội, Tây Hồ, Hoàn Kiếm,... Tổng sản lượng năm 1996 đạt khoảng 7.000.000 lít/ năm. Từ năm 1997 đến năm 1999 có thêm một số Vang có tên tuổi trên thị trường như Ninh Thuận, Bắc Đô, Hùng Vương, Vang nho và Vang vải Thanh Hà (Viện nghiên cứu Rược Bia Nước giải khát), Vang Đà Lạt, với sản lượng 8.500.000 lít/năm. Ngoài ra, còn xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất địa phương, chuyên sản xuất những sản phẩm chất lượng thấp và giá rẻ, chuyên phục vụ cho những tầng lớp thu nhập thấp và ở các vùng nông thôn. Bên cạnh sản phẩm Vang được sản xuất bằng thiết bị, nguyên liệu và công nghệ trong nước, có nhiều doanh nghiệp đã nhập cốt Vang nước ngoài (Pháp, ý, úc) về đóng chai, dán nhãn Việt Nam. Chất lượng của các Vang này tương đối cao, nhưng giá thành vừa phải, đáp ứng nhu cầu đối với những người thu nhập cao. Từ năm 2000 đến năm 2004, trên thị trường Việt Nam có đến trên 30 doanh nghiệp có tên tuổi sản xuất và kinh doanh Vang với nhiều sản phẩm đa dạng về chủng loại và mẫu mã. Đã có nhiều doanh nghiệp đã thành công và phát triển nhanh như: Công ty Cổ phần Thăng Long, Công ty Thực Phẩm Lâm Đồng, Công ty Vang Pháp quốc, Công ty 319 Bộ Quốc Phòng... Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp từng có tên tuổi đang kinh doanh kém hiệu quả như: Công ty HaBa, Công ty NGK Vĩnh Hưng... Có thể thấy rõ hơn tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất Vang qua doanh thu và thị phần của chúng trên thị trường Việt Nam như bảng sau:
Bảng 7. Doanh thu và sản lượng của các đối thủ cạnh tranh năm 2003.
Tên công ty
Sản lượng bán ra (lít)
Doanh thu (tỷ đồng)
Thị phần theo sản lượng (%)
Thị phần theo doanh thu (%)
Rượu Vang Pháp
240.000
6
1,27
3,1
Vang Hữu Nghị
630.000
4,43
3,07
2,27
Vang Tây Đô
100.000
0,6
0,49
0,31
Cty thực phẩm Lâm Đồng
570.000
24,25
2,48
7,45
Rượu Hà Nội
3.900.000
35,1
19,3
18,35
Rượu Anh Đào
300.000
2,7
1,49
1,41
CS 319 Bộ Quốc Phòng
600.000
7,2
2,97
3,76
Cty phát triển CN C.Âu
200.000
4
0,99
2,09
Cty Cổ phần Thăng Long
7.300.000
63,75
36,2
29,65
(Nguồn: Phòng Thị trường – Công ty Cổ phần Thăng Long, năm 2004)
Theo báo cáo khảo sát thị trường năm 2003, Công ty dẫn đầu về sản lượng tiêu thụ với 7.300.000 chai/năm hay 36,2%; dẫn đầu về thị phần tiêu thụ theo doanh thu là 63,75 tỷ hay 29,65%. Đó là mức thị phần khá lớn cho thấy công ty chiếm lĩnh tới 1/3 thị trường rượu vang. Qua đây ta còn thấy sự chênh lệch thị phần tính theo doanh thu thấp hơn khá nhiều so với thị phần tính theo sản lượng là do công ty có sản lượng sản xuất khá cao nhưng chủ yếu phục vụ cho tầng lớp người có thu nhập trung bình nên giá khá rẻ. Thị phần của Công ty Cổ phần Thăng Long theo sản lượng có thể được biểu diễn theo biểu đồ sau:
(Nguồn: Báo cáo kết quả dự án – Viện nghiên cứu rượu bia nước giải khát,2004)
Công ty Cổ phần Thăng Long (với sản phẩm Vang Thăng Long) vẫn là doanh nghiệp đứng đầu về sản lượng sản xuất tại Việt Nam - chiếm 36% thị phần Vang trong nước.
Ngoài những sản phẩm Vang được sản xuất trong nước, thị trường Vang nội địa còn chịu sự ảnh hưởng của Vang ngoại. Những sản phẩm này thâm nhập vào thị trường Việt Nam bằng hai còn đường: nhập khẩu chính thức và nhập lậu. Theo số liệu của Bộ Thương Mại, hiện nay có khoảng 100 triệu USD rượu ngoại đang có mặt tại thị trường Việt Nam, trong đó chỉ có khoảng 10% được nhập qua đường chính thức. Tức là tại Việt Nam hiện nay, mỗi năm khoảng 15.000.000 triệu lít Vang nhập ngoại.
Như vậy, thị trường Vang thế giới và trong nước đều đang diễn ra sự cạnh tranh hết sức gay gắt. Công ty Cổ phần Thăng Long không chỉ cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại chính thức với chất lượng cao đáp ứng tầng lớp thu nhập cao mà còn với những sản phẩm sản xuất trong nước với chất lượng vừa phải nhưng giá hợp lý với đại đa số người tiêu dùng Việt Nam. Không những thế, cũng như các công ty sản xuất Vang nội địa, Công ty Cổ phần Thăng Long còn gặp phải bài toán khó khăn khi phải cạnh tranh với các sản phẩm Vang ngoại nhập lậu, chất lượng cao nhưng giá thành thấp do không phải đóng thuế và các chi phí khác. Trước tình hình cạnh tranh như vậy, Công ty đã không ngừng cải tiến, đổi mới chất lượng sản phẩm, cũng như đa dạng hóa sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Công ty.
Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại Công ty Cổ phần Thăng Long
Từ khi thành lập (năm 1989), Công ty mới chỉ sản xuất một sản phẩm duy nhất là Vang Nhãn vàng truyền thống. Cho đến nay, Công ty đã cung cấp ra thị trường 14 sản phẩm Vang và rượu khác nhau:
Bảng 8. Danh mục các sản phẩm hiện tại của
Công ty Cổ phần Thăng Long
STT
Sản phẩm
Năm sản xuất
1
Dòng Vang ngọt
1. Vang Nhãn vàng
1989
2. Vang Dứa
1991
3. Vang Sơn tra
4. Vang Nho (ngọt)
5. Vang 2 năm
1999
6. Vang 5 năm
2
7. Vang Nổ
2000
3
Dòng Vang chát
8. Vang Vải thường
2001
9. Vang Vải xuất khẩu
10. Vang Nho chát thường
11. Vang Nho chát xuất khẩu
12. Vang Bordeaux
4
Rượu
13. Rượu Vodka Lúa mới
2003
14. Rượu Vodka Thăng Long
(Nguồn: Phòng Thị trường – Công ty Cổ phần Thăng Long, 2004)
Mười bốn loại sản phẩm khác nhau là một con số khá lớn, chứng tỏ Công ty đã rất chú trọng đến đa dạng hoá sản phẩm. Trong 14 sản phẩm của Công ty tạm chia thành bốn nhóm sản phẩm (Vang ngọt, Vang chát, Vang Nổ, rượu). Trong bốn nhóm sản phẩm này, Vang ngọt là nhóm sản phẩm ra đời sớm nhất. Năm 1989, sản phẩm Vang Nhãn vàng là bước khởi đầu thuận lợi của Công ty. Cùng với sản phẩm này, tốc độ tăng trưởng của Công ty đạt mức rất cao, khoảng 40% trong giai đoạn 1989 – 1990. Xác định đa dạng hoá là nhiệm vụ trọng tâm ngay từ khi thành lập, Công ty đã không ngừng nghiên cứu cải tiến và hai năm sau (năm 1991), Công ty đã đưa ra thị trường ba sản phẩm Vang ngọt là Vang Dứa, Vang Sơn Tra, Vang Nho. Nếu như sản phẩm Vang Nhãn vàng được sản xuất từ trái cây tổng hợp (mơ, mận,...) thì ba sản phẩm mới này lại được chế biến từ từng loại trái cây riêng biệt là Dứa, Sơn tra, Nho. Cùng với quá trình cải tiến này, tốc độ phát triển của Công ty đã đạt mức cao, trung bình khoảng 70% trong giai đoạn 1991 - 1995, tăng hơn 30% so với giai đoạn 1989 - 1990. Điều đó cho thấy định hướng đa dạng hoá ba loại sản phẩm trên là đúng đắn và có hiệu quả. Trong giai đoạn này, nhóm sản phẩm Vang chát chưa xuất hiện nên các sản phẩm thuộc nhóm Vang ngọt vẫn đang chiếm ưu thế. Đến năm 1999, Công ty lại tiếp tục nghiên cứu, cải tiến và đi vào sản xuất hai sản phẩm cao cấp của nhóm Vang ngọt là Vang 2 năm và Vang 5 năm. Các sản phẩm Vang ngọt trước đây có thời gian lên men khoảng sáu tháng. Với sản phẩm Vang, thời gian lên men càng lâu thì chất lượng Vang càng cao. Hai sản phẩm Vang 2 năm và Vang 5 năm có thời gian lên men tương ứng là hai năm và năm năm đã cung cấp cho thị trường những sản phẩm Vang ngọt cao cấp. Bên cạnh việc tăng thời gian lên men, mẫu mã sản phẩm Vang cũng đã được cải tiến rất nhiều. Đó là những cải tiến về kiểu dáng chai, nắp chai, thiết kế nhãn mác, chất liệu nhãn mác... Những cải tiến đó đã đáp ứng được nhu cầu thị trường, phù hợp với xu thế phát triển mới của ngành sản xuất Vang. Về mặt giá cả, giá của hai sản phẩm này cao hơn so với các sản phẩm Vang ngọt thông thường. Vang 2 năm giá khoảng 18.000 đồng, Vang 5 năm có giá lên tới 28.000 đồng. Tuy giá sản phẩm tương đối cao nhưng vẫn thu hút được khách hàng do có chất lượng tốt. Như vậy, đến thời điểm năm 1999, Công ty đã sản xuất sáu sản phẩm Vang ngọt các loại. Năm 1997, sản phẩm Vang chát bắt đầu xuất hiện. Sự xuất hiện của nhóm sản phẩm này đã tác động rất lớn đến tình hình tiêu thụ của nhóm sản phẩm Vang ngọt. Người tiêu dùng ưa thích hơn với vị chát của Vang. Chính vì vậy, thời kỳ sau năm 1997, sản lượng tiêu thụ và doanh thu của nhóm Vang ngọt giảm mạnh. Nghiên cứu tốc độ tăng trưởng của nhóm sản phẩm có thể thấy rất rõ điều đó:
(Nguồn: Phòng Thị trường – Công ty Cổ phần Thăng Long, 2004)
Nhóm Vang ngọt Thăng Long phát triển cao nhất là giai đoạn 1991-1995, tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 70%/năm. Đến giai đoạn 1996-1999, tốc độ tăng trưởng giảm mạnh, trung bình đạt 3%/năm. Trong giai đoạn 2000-2003, tốc độ tăng trưởng có tăng nhưng vẫn ở mức thấp: 6,0%/năm. Cho tới 04 tháng đầu năm 2004, khả năng tiêu thụ nhóm Vang ngọt Thăng Long giảm đáng kể, so với cùng kỳ các năm trước, chỉ bằng 84% năm 2003; 97,3% năm 2002 và 104,3% năm 2001. Doanh thu tháng 4 năm 2004 so với cùng kỳ các năm chỉ bằng 40% năm 2003; 45% năm 2002 và 39% năm 2001.
Tình trạng đó không chỉ của riêng Công ty Cổ phần Thăng Long mà nhiều Công ty sản xuất Vang khác cũng gặp phải như Vang Gia Lâm, Vang Hữu Nghị, Vang Hà Nội, Vang Thanh Ba...
Vang Gia Lâm
Bảng 9. Kết quả tiêu thụ Vang Gia Lâm, giai đoạn 1996 - 2000
Các chỉ tiêu
Đơn vị tính
1996
1997
1998
1999
2000
Sản lượng tiêu thụ
Nghìn lít/năm
50,0
78,0
97,0
98,0
32,5
Doanh thu
Tỷ đồng/năm
0,5
0,78
0,97
0,98
0,33
(Nguồn: Chiến lược sản phẩm – Công ty Cổ phần Thăng Long, 2004)
Bảng 10. Kết quả tiêu thụ Vang Gia Lâm, giai đoạn 2000 - 2004
Các chỉ tiêu
Đơn vị tính
2000
2001
2002
2003
2004
Sản lượng tiêu thụ
Nghìn lít/năm
32,5
20,0
0
0
0
Doanh thu
Tỷ đồng/năm
0,33
0,2
0
0
0
(Nguồn: Chiến lược sản phẩm – Công ty Cổ phần Thăng Long, 2004)
Trong bốn năm (1996 - 1999) tốc độ tăng trưởng của Công ty Vang Gia Lâm giảm giảm hàng năm từ 50 á100%. Từ năm 2000, Doanh thu giảm nhanh về không năm 2002. Đến năm 2002, Công ty Vang Gia Lâm không sản xuất nữa.
Vang Hữu Nghị
Bảng 11. Kết quả tiêu thụ Vang Hữu Nghị, giai đoạn 1996 - 2000
Các chỉ tiêu
Đơn vị tính
1996
1997
1998
1999
2000
Sản lượng tiêu thụ
Nghìn lít/năm
320,0
420,0
510,0
520,0
678,0
Doanh thu
Tỷ đồng/năm
3,2
4,4
5,3
5,4
7,1
(Nguồn: Chiến lược sản phẩm – Công ty Cổ phần Thăng Long, 2004)
Bảng 12. Kết quả tiêu thụ Vang Hữu Nghị, giai đoạn 2000 - 2004
Các chỉ tiêu
Đơn vị tính
2000
2001
2002
2003
4 tháng 2004
Sản lượng tiêu thụ
Nghìn lít/năm
678,0
820,0
400,0
340,0
75,0
Doanh thu
Tỷ đồng/năm
7,1
8,6
4,2
3,57
0,8
(Nguồn: Chiến lược sản phẩm – Công ty Cổ phần Thăng Long, 2004)
Doanh thu năm đầu sản xuất (1996) khá cao, tăng trưởng bình quân trong bảy năm (1996 - 2001) là 21,0%/năm, nhưng từ năm thứ tám (2002), chỉ còn non một nửa và tiếp tục giảm.
Các số liệu trên đây cho thấy xu thế tiêu dùng Vang ngọt đang giảm đáng kể, đặc biệt năm 2004 báo hiệu bước ngoặt bất lợi cho nhóm Vang ngọt. Bên cạnh sự sút giảm của nhóm Vang ngọt thì xu hướng tiêu dùng Vang chát lại đang tăng nhanh. Vang chát từng bước chiếm lĩnh thị trường thành phố và đẩy các sản phẩm Vang ngọt về thị trường nông thôn. Dẫn đầu trong việc sản xuất nhóm sản phẩm này là Công ty Vang Đà Lạt, Công ty Vang Pháp quốc... Trước thực tế này, Công ty tiếp tục nghiên cứu hướng đa dạng hoá sản phẩm mới và đến năm 2001 đã đưa ra thị trường các sản phẩm Vang chát đầu tiên của Công ty và bước đầu có những phản hồi tốt. Nhóm sản phẩm Vang chát của Công ty gồm 5 sản phẩm: Vang Vải thường, Vang Vải xuất khẩu, Vang Nho thường, Vang Nho xuất khẩu, Vang Bordeaux. Năm 2003, Công ty đã sản xuất Vang Nho chát, Vang Vải mỗi loại 10.000 lít nhưng khả năng tiêu thụ còn hạn chế do có đối thủ cạnh tranh rất mạnh là Vang Đà Lạt Vang Pháp quốc và các sản phẩm Vang chát nhập ngoại khác.
Nhận định rằng rượu nặng sản xuất theo phương pháp công nghệ bao giờ cũng có nhu cầu tiêu dùng bền vững, năm 2004, Công ty đã tiếp tục nghiên cứu sản xuất thêm sản phẩm Vodka các loại. Hướng đa dạng hoá mới này tuy bước đầu còn gặp nhiều khó khăn do có đối thủ cạnh tranh lớn là rượu Vodka Hà Nội nhưng dự đoán sẽ là hướng đi hiệu quả của Công ty.
Như vậy, cho tới thời điểm hiện nay, Công ty Cổ phần Thăng Long đã cung cấp cho thị trường 14 sản phẩm Vang và rượu các loại. Con số này cho thấy Công ty rất chú trọng đến vấn đề đa dạng hoá sản phẩm. Tuy vậy, hướng đa dạng hoá này của Công ty vẫn chỉ là đa dạng hoá theo dòng sản phẩm, đó là dòng sản phẩm Vang và rượu. Bên cạnh hướng đa dạng hoá này, Công ty cũng đã thực hiện đa dạng hoá theo hoạt động (nhà hàng, khách sạn, sản xuất đồ nhựa) nhưng quy mô còn nhỏ hẹp, hiệu quả kinh doanh chưa thật cao. Doanh thu chủ yếu của Công ty vẫn là từ sản xuất - kinh doanh Vang và rượu.
Những phân tích trên đây cho thấy Công ty Cổ phần Thăng Long từ khi thành lập đến nay đã rất chú trọng tới vấn đề đa dạng hoá sản phẩm. Trong đó, quá trình đa dạng hoá của Công ty đã được thực hiện theo hai hướng: đa dạng hoá theo dòng sản phẩm và đa dạng hoá theo hoạt động. Cùng với quá trình đa dạng hoá này, Công ty đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Tuy nhiên, hướng đa dạng hoá này của Công ty cũng còn gặp phải một số tồn tại. Những thành tựu và những tồn tại trong hoạt động đa dạng hoá của Công ty sẽ được phân tích cụ thể ở phần dưới đây.
Đánh giá thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại Công ty Cổ phần Thăng Long
Thành tựu
Trong quá trình hình thành và phát triển Công ty Cổ phần Thăng Long đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và một phần không nhỏ từ kết quả hoạt động đa dạng hoá của Công ty trong những năm qua.
Thứ nhất, Từ một Công ty đơn điệu về sản phẩm, chỉ sản xuất một sản phẩm duy nhất là Vang nhãn vàng truyền thống, đến nay số sản phẩm của Công ty đã tăng đáng kể, 14 loại Vang khác nhau. Đây là một thành công đáng kể của Công ty Cổ phần Thăng Long.
Thứ hai, Chính nhờ sự linh hoạt và nhạy bén trong việc nắm bắt được sự thay đổi của nhu cầu thị trường, đưa ra được nhiều sản phẩm khác nhau, sản phẩm của Công ty Cổ phần Thăng Long đến nay đã được biết rộng rãi đối với người tiêu dùng trong thị trường nội địa. Nhãn hiệu về Vang Thăng Long cho đến nay đã chiếm được niềm tin trong lòng người tiêu dùng và đang trở thành một trong những nhãn hiệu có uy tín nhất ở thị trường Việt Nam với thị phần lớn nhất trong thị trường sản phẩm Vang nội địa, chiếm 40%.
Thứ ba, Nhờ lựa chọn đa dạng hoá đúng hướng nên trong những năm qua doanh thu của Công ty những năm 2000 đã tăng đáng kể so với những năm thập niên 1990. Doanh thu năm 1990 chỉ có 1,7 tỷ đồng nhưng đến năm 2000 đã tăng lên 62,42 tỷ đồng và năm 2004 doanh thu là 66.290.
Thứ tư, Cùng với sự phát triển sản xuất kinh doanh dưới tác động của các hoạt động đa dạng hoá hiệu quả, lượng nộp ngân sách hàng năm của Công ty cũng tăng đáng kể. Những năm thập niên 90, con số nộp ngân sách dừng lại ở các mức khiêm tốn trên dưới 200 triệu đồng, tuy nhiên cho đến những năm gần đây nộp ngân sách nhà nước của Công ty đã tăng đáng kể, khoảng trên 10 tỷ đồng, gấp 50 lần so với những năm thập niên 90.
Thứ năm, Thu nhập của người lao động cũng có sự cải thiện rõ rệt trong những năm qua. Trước những năm 2000, thu nhập của mỗi lao động bình quân chỉ khoảng 300 nghìn đồng / tháng, đến nay đã tăng lên bình quân mỗi người có thu nhập khoảng 1 triệu / tháng.
Tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hướng đa dạng hoá hiện tại của Công ty Cổ phần Thăng Long vẫn còn một số tồn tại, cụ thể:
Thứ nhất, Hoạt động đa dạng hoá của Công ty Cổ phần Thăng Long chỉ đơn giản là cải tiến những sản phẩm Vang truyền thống thành một số loại Vang mới. Do đó, mặc dùng đã có gắng tạo ra nhiều sản phẩm Vang khác nhau, nhưng nhìn chung sự đa dạng của chính sản phẩm Vang vẫn còn thấp, nói cách khác sản phẩm Vang Thăng Long vẫn còn đơn điệu.
Thứ hai, Thêm vào đó Công ty Cổ phần Thăng Long chưa chú ý đến đa dạng hoá các dòng nước giải khát khác như nước ép trái cây... Do vậy tính mùa vụ của Công ty Cổ phần Thăng Long còn khá cao. Công suất thực tế sử dụng rất thấp, chỉ khoảng 1/3 công suất thiết kế. Điều này khiến cho hoạt động của Công ty bị ngừng trệ. Do vậy, mặc dù được đánh giá là một doanh nghiệp có uy tín trên thị trường sản phẩm Vang, những trong thực tế Công ty Cổ phần Thăng Long vẫn hoạt động chưa hiệu quả. Điều này có thấy rõ qua bảng tiêu thụ sản phẩm như sau:
Bảng 13. Kết quả tiêu thụ sản phẩm theo mùa vụ
Quý
Năm (ĐVT:Nghìn lít)
So sánh 2002/2001
So sánh 2003/2002
So sánh 2004/2003
2001
2002
2003
2004
Chênh lệch
Tỷ lệ %
Chênh lệch
Tỷ lệ %
Chênh lệch
Tỷ lệ %
Quý I
1.762
1.800
2.160
2390
38
2,16
360
20
230
10,65
Quý II
778
790
812
850
12
1,54
22
2,78
38
4,68
Quý III
861
870
920
973
9
1,05
50
5,75
53
5,76
Quý IV
1.415
1.460
1.608
1782
45
3,18
148
10,14
174
10,82
Tổng
4.816
4.920
5.500
5.995
104
2,16
580
11,79
495
9
(Nguồn: Phòng Thị trường - Công ty cổ phần Thăng Long, năm 2004)
Bảng trên cho thấy sản lượng tiêu thụ cả năm và theo từng quý đều có xu hướng tăng trong 4 năm từ năm 2001 - 2004. Cụ thể, sản lượng tiêu thụ cả năm của năm 2002 tăng 104 nghìn lít so với năm 2001 tức là tăng 2,16%; năm 2003 so với năm 2002 tăng 580 nghìn lít tức là tăng 11,79%; năm 2004 tăng 495 nghìn lít (ằ 9%) so với năm 2003. Sản lượng tiêu thụ theo từng quý cũng vậy. Xét sản lượng tiêu thụ của quý I qua các năm ta có thể thấy: Sản lượng tiêu thụ của quý I năm 2002 tăng 38 nghìn lít (ằ 2,16%) so với năm 2001; năm 2003 tăng 360 nghìn lít (ằ 20 %) so với năm 2002; năm 2004 tăng 230 nghìn lít (ằ 10,65 %) so với năm 2003. Ba quý sau cũng tương tự như vậy, đều có xu hướng tăng qua các năm. Tuy nhiên, đây chưa phải là điều quan trọng nhất. Tiếp tục xem xét tình hình tiêu thụ của các quý từng năm có thể thấy trong một năm, sản lượng tiêu thụ lớn nhất chủ yếu là trong quý I và quý IV. Còn quý II và quý III thì tiêu thụ được rất ít sản phẩm. Cụ thể hơn nữa, trong 4 năm nghiên cứu từ năm 2001 đến năm 2004, sản lượng tiêu thụ trong quý I là cao nhất, trung bình chiếm tỷ trọng khoảng 38% tổng sản lượng tiêu thụ trong cả năm. Tiếp theo đó là quý IV với sản lượng tiêu thụ trung bình chiếm khoảng 29,2% cả năm. Cuối cùng là hai quý II và III có sản lượng tiêu thụ tương đương nhau và mỗi quý trung bình chiếm khoảng 16.4% cả năm. Như vậy, sản lượng tiêu thụ trung bình trong quý I và quý IV gấp đôi tổng sản lượng tiêu thụ trung bình trong hai quý II và III.
Nguyên nhân chính cho tình trạng mất cân đối này xuất phát từ đặc điểm sản phẩm của Công ty. Trong bảng danh mục các sản phẩm của Công ty thì sản phẩm chủ yếu và chiếm vai trò quan trọng là sản phẩm Vang và rượu các loại. Vang rượu đều là những sản phẩm có chứa cồn. Chính vì đặc điểm này nên sản phẩm Vang và rượu chủ yếu chỉ thích hợp với tiêu dùng vào mùa lạnh hay trong các dịp hội hè, lễ tết. Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết tương đối nóng và ẩm. Mùa hè nhiệt độ tương đối cao nên không thích hợp với việc tiêu dùng sản phẩm Vang và rượu. Như vậy, sản phẩm Vang và rượu chủ yếu chỉ tiêu thụ được trong quý I và quý IV là mùa rét và đặc biệt là dịp tết, hội hè do truyền thống biếu tặng, thờ cúng, hội họp của nhân dân ta trong mỗi dịp tết, hội. Sự mất cân đối giữa hai mùa vụ này nếu không có hướng giải quyết sẽ dẫn đến quá trình sản xuất - kinh doanh bị ngừng trệ trong thời điểm không phải là mùa vụ, năng lực sản xuất bị dư thừa, hiệu quả sản xuất - kinh doanh của Công ty không cao.
4.3. Nguyên nhân của những tồn tại
Những tồn tại trên là do những nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, Chính sách đa dạng hoá của công ty chưa được tính toán toàn diện, chỉ tập trung vào đa dạng hoá dòng sản phẩm Vang, không chú ý đến việc đa dạng hoá các sản phẩm có tính bổ sung để khắc phục tính mùa vụ hiện nay của Công ty.
Thứ hai, Công ty Cổ phần Thăng Long chưa hình thành đội ngũ chuyên môn về hoạt động Marketing. Do vậy, Công ty chậm nắm bắt được sự thay đổi của nhu cầu trên thị trường, thiếu thông tin cần thiết để có thể tiến hành đa dạng hoá đúng hướng, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
Thứ ba, Chính sách đa dạng hoá sản phẩm của Công ty Cổ phần Thăng Long thiếu tính đồng bộ, vì vậy thường xuyên thiếu nguyên liệu và vốn để thực hiện đa dạng hoá.
Thứ tư, Chưa đầu tư thoả đáng cho đội ngũ chuyên bộ phận R&D. Do đó số lượng sáng kiến về đa dạng hoá cũng như đổi mới công nghệ từ bộ phận này.
Thứ năm, Bộ phận quản lý của Công ty chưa nhạy cảm, năng động và chấp nhận mạo hiểm trong việc chuyển hướng kinh doanh thông qua đa dạng hoá hay tạo ra sản phẩm mới.
Phần Thứ ba
giải pháp đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây
tại Công ty Cổ phần Thăng Long
Định hướng đa dạng hoá sản phẩm của Công ty Cổ phần Thăng Long
Sau khi phân tích những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và thực trạng hoạt động đa dạng hoá tại Công ty Cổ phần Thăng Long, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển sản xuất kinh doanh Công ty Cổ phần Thăng Long nên thực hiện hoạt động đa dạng hoá theo những hướng cơ bản sau:
- Phát triển đa dạng hoá theo hướng thoát ly dòng sản phẩm hiện có, tạo ra các sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường về nước giải khát, đặc biệt ưu tiên cho những sản phẩm đang có nhu cầu phát triển cao.
- Những sản phẩm mới phải khắc phục được tính mùa vụ hiện có để có thể tối đa hoá công suất sản xuất của Công ty.
- Phát triển những sản phẩm có thể tận dụng được dây chuyền sản xuất và cơ sở vật chất hiện có của Công ty để tối thiểu hoá được chi phí đầu tư.
- ưu tiên phát triển những sản phẩm có thể sử dụng những nguồn nguyên liệu sẵn có của Công ty, hạn chế việc đầu tư phát triển các nguồn nguyên liệu mới.
Căn cứ lựa chọn sản phẩm nước ép trái cây
2.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật, thực trạng và định hướng đa dạng hoá của Công ty Cổ phần Thăng Long
Dựa vào kết quả nghiên cứu các đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, thực trạng hoạt động đa dạng hoá của Công ty Cổ phần Thăng Long và những định hướng được đề xuất trên, nước ép trái cây là sản phẩm thích hợp nhất bởi các lý do cơ bản sau:
- Nước ép trái cây có thể bù đắp tính mùa vụ của Vang. Vang thường chỉ được tiêu thụ vào những thời điểm mùa đông, mùa thu hoặc dịp tết. Trong khi đó, nước ép trái cây có thể tiêu thụ tốt vào mùa hè và mùa xuân.
- Theo một số nghiên cứu thấy rằng nhu cầu tiêu dùng nước ép trái cây đang phát triển khá mạnh mẽ ở Việt nam. Bình quân mỗi người chi tiêu khoảng 10-15% thu nhập của họ cho loại sản phẩm này, vào thời điểm mùa hè mức tiêu dùng này có thể tăng cao hơn.
- Công nghệ sản xuất nước ép trái cây tương tự với công nghệ sản xuất Vang. Như vậy, nếu sản xuất nước ép trái cây Công ty Cổ phần Thăng Long sẽ tận dụng được nhiều máy móc thiết bị hiện có, không phải đầu tư toàn bộ dây chuyền mới mà chỉ cần đầu tư bổ sung nhỏ, do đó có thể tiết kiệm được chi phí đầu tư. Kết quả của việc đầu tư này sẽ đem lại lợi nhuận cao cho Công ty.
- Ngoài mặt công nghệ, nguyên liệu dùng để sản xuất Vang và nước ép trái cây cũng khá giống nhau như: nho, vải, dứa, ổi... Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc phát triển vùng nguyên liệu và thu mua nguyên liệu.
- Chính phủ đã và đang ban hành nhiều chính sách ưu đãi để phát triển ngành nước giải khát nói chung và nước ép trái cây nói riêng. Chính vì thế Công ty càng nên tận dụng cơ hội thuận lợi này.
Những căn cứ này sẽ được làm rõ hơn trong các giải pháp cơ bản thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây được đề xuất đối với Công ty Cổ phần Thăng Long ở phần dưới đây.
2.2. Nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ép trái cây
2.2.1. Nhu cầu sản phẩm nước ép trái cây
Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nước ép trái cây ngày càng tăng ở thị trường Việt nam. Theo một cuộc điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên do chính tác giả thực hiện đối với gần 300 người dân sống ở Hà Nội thấy răng tỷ lệ có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nước ép trái cây khá cao, khoảng 80%. Nếu tỷ lệ này là mẫu lý tưởng thì tương ứng với khoảng 64 triệu dân cư cả nước Việt Nam đang sử dụng sản phẩm nước ép trái cây (Dân số Việt Nam hiện nay ước tính khoảng 80 triệu dân). Thêm vào đó, nếu sản xuất ra sản phẩm thích hợp sẽ tăng số lượng người sử dụng lên 50% trong số những người đang chưa sử dụng loại sản phẩm này. Không những thế, tỷ lệ chi tiêu cho đồ uống nói chung và nước ép trái cây có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng chi tiêu. Cụ thể như các bảng như sau:
Bảng 14. Tỷ trọng chi tiêu đồ uống và các khoản khác
TT
Loại chi tiêu
2001
2002
2003
2004
1
Chi cho khoản ăn
40,2%
39,4%
37,6%
35,9%
2
Chi cho đồ uống
18,4%
21,5%
24,4%
26,7%
3
Các khoản khác
41,4%
39,1%
38,0%
37,4%
4
Tổng chi tiêu
100%
100%
100%
100%
(Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004)
Bảng 15. Tỷ trọng chi tiêu cho sản phẩm nước ép trái cây
và các loại đồ uống khác
TT
Loại chi tiêu
2001
2002
2003
2004
1
Nước ép trái cây
18,5%
19,8%
21,2%
24,9%
2
Nước hoa quả đã chế biến
12,0%
15,5%
16,7%
18,3%
3
Đồ uống khác
69,5%
74,7%
62,1%
56,8%
4
Tổng chi tiêu
100%
1005
100%
100%
(Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004)
Qua đó, có thể thấy lượng cầu tiêu dùng đối với sản phẩm nước ép trái cây ở thị trường Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung là rất lớn và có tiềm năng, nhất là ở thị trường Miền Nam, nơi mà không khí nóng quanh năm. Mức chi tiêu bình quân cho nước ép trái cây cho mỗi người có tiêu dùng loại sản phẩm này chiếm khoảng 21% trong tổng chi tiêu đồ uống, trong khi đó tổng chi tiêu cho đồ uống chiếm 23% trong tổng chi tiêu nói chung và mức chi tiêu cho loại nước ép trái cây cũng như cho đồ uống tăng lên trong những năm qua. Năm 2001, nước ép trái cây chiếm 18,5% trong tổng chi tiêu đồ uống và đồ uống chiếm 18,4% trong tổng chi tiêu chung; nhưng con số này tăng lên tương ứng là 24,9% và 26,7% trong năm 2004.
Nguyên nhân cơ bản khiến cho cầu đối với sản phẩm nước ép trái cây tăng trong những năm qua là do: (1) Kinh tế của Việt Nam phát triển nhanh trong những năm qua, thu nhập dân cư tăng cao, mức sống được cải thiện đáng kể, do đó chi tiêu cho đồ uống cũng tăng nhanh; (2) Sản phẩm nước ép trái cây ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã và tiện lợi cho việc tiêu dung, đặc biệt là những sản phẩm nhập ngoại, mà xu hướng tiêu dung hiện nay là đang đi vào những sản phẩm có tính tiện lợi.
2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu sản phẩm nước ép trái cây
Kết quả điều tra cũng cho thấy rằng: giá cả, sự tiện lợi trong sử dụng và hương vị tự nhiên là những yếu tố quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng trước khi quyết định mua sản phẩm; tiếp theo là những yếu tố như mức độ phân phối rộng rãi và sự hợp khẩu vị; cuối cùng là những yếu tố như tính độc đáo, mới lạ, đa dạng và bao gói của sản phẩm.
Tuy nhiên, vị trí quan trọng của những yếu tố này ảnh hưởng đến quyết định mua không giống nhau giữa các nhóm tiêu dùng có mức thu nhập khác nhau. Cụ thể đối với nhóm có thu nhập từ năm triệu đồng trở lên có thứ tự quan trọng của các yếu tố như bảng sau:
Bảng 16. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua của người tiêu dùng (nhóm thu nhập trên 5 triệu đồng)
Thứ tự
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua
Điểm số
1
Hương vị tự nhiên
6.5
2
Tiện lợi trong sử dụng
6.3
3
Giá cả hợp lý
6.0
4
Sản phẩm được bán rộng rãi
5.3
5
Vị ngọt/mặn/chua hợp khẩu vị
5.2
6
Sản phẩm độc đáo, mới lạ
4.4
7
Chủng loại đa dạng
4.2
8
Kích cỡ bao gói đa dạng
4.1
(Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004)
Đối với nhóm tiêu dùng này, thứ tự của 3 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến quyêt định mua không có sự thay đổi, tuy nhiên vị trí của 3 yếu tố đầu thể hiện rằng: đặc điểm cơ bản của nhóm này là thu nhập tương đối cao nên giá không phải là yếu tố quan trọng hàng đầu, thay vào đó yếu tố hương vị tự nhiên và tính tiện trong sử dụng mới là những là yếu tố ảnh hưởng lớn đến quyết định mua sản phẩm của họ.
Ngược lại, đối với nhóm có thu nhập dưới 2 triệu đồng, vị trí quan trọng của các nhóm trên không thay đổi nhưng vị trí của từng yếu tố trong từng nhóm có sự thay đổi khác so với nhóm có thu nhập trên 5 triệu đồng, đặc biệt là vị trí của 3 yếu tố trong nhóm quan trọng đầu tiên, cụ thể giá là yếu tố quan trọng hàng đầu của họ, sau đó mới đến các yếu tố là hương vị tự nhiên và tính tiện lợi trong sử dụng. Nhóm này được xem là nhóm có thu nhập trung bình và thấp, nên giá luôn là yếu tố quan tâm hàng đầu đối với họ, sau đó mới tính đến các yếu tố quan trọng khác. Một số vị trí quan trọng của các yếu tố cũng có sự thay đổi trong các nhóm yếu tố khác. Điều này có thể thấy rõ trong bảng sau:
Bảng 17. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua của người tiêu dùng (nhóm thu nhập dưới 2 triệu đồng)
Thứ tự
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua
Điểm số
1
Giá cả hợp lý
6.6
2
Hương vị tự nhiên
6.2
3
Tiện lợi trong sử dụng
6.1
4
Vị ngọt/mặn/chua hợp khẩu vị
5.4
5
Sản phẩm được bán rộng rãi
5.0
6
Chủng loại đa dạng
4.3
7
Sản phẩm độc đáo, mới lạ
4.1
8
Kích cỡ bao gói đa dạng
4.0
(Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004)
2.2.3. Tình hình cạnh tranh sản phẩm nước ép trái cây.
Mặc dù dung lượng thị trướng đối với sản phẩm nước ép trái cây là khá lớn nhưng khả năng sản xuất và cung ứng loại sản phẩm này trên thị trường Việt Nam vẫn chưa đáp ứng thoả đáng nhu cầu của người tiêu dùng. Cũng theo kết quả nghiên cứu này, tổng cung của loại sản phẩm này chỉ mới đáp ứng khoảng 40% tổng cầu của ngưòi tiêu dùng. Trong đó, hầu hết là các sản phẩm là nhập khẩu từ nước ngoài, chiếm 65% thị phần, điển hình là các sản phẩm như: Casino (Pháp), Wesergold (Đức), Donsimon (Tây Ban Nha), Just Juice (Australia), Krings (Đức), Queens (Bungaria), Berri (Australia)… Đặc điểm chung của những loại sản phẩm này là chất lượng và giá thành sản phẩm cao, trung bình từ 25 - 50 nghìn đồng/lít. Bên cạnh những sản phẩm nhập ngoại, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang tham gia sản xuất sản phẩm nước ép trái cây, chiếm khoảng 35% thị phần, cụ thể là các doanh nghiệp như: Tổng công ty rau quả, nông sản, Nhà máy đồ hộp rau quả Mỹ Luông Chợ Mới tỉnh An Giang của Antesco, Nhà máy đông lạnh rau quả Duy Hải tại Đồng Nai của Vegetexco - HCM, Xưởng chế biến trái cây ở Vĩnh Long, Cần Thơ, Công ty Cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk), Công ty Mr Drink - khu công nghiệp Phú Diễn, Từ Liêm, Hà nội. Hầu hết các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực này đều theo chiến lược sản xuất ra sản phẩm có chất lượng và giá cả phù hợp với mức thu nhập trung bình của người Việt Nam, từ 10-20 nghìn đồng/ lít. Điều này càng khẳng định thêm rằng: thị trường sản phẩm nước ép trái cây ở Việt Nam là khá tiềm năng. Nếu Công ty có những chính sách sản phẩm phù hợp thì sẽ thâm nhập và phát triển được ở thị trường này, nhất là đối với phần thị trường của những người có thu nhập trung bình và cao.
2.3. Nghiên cứu chính sách nhà nước liên quan đến nước ép trái cây
Hiện nay, Nhà nước đang có các chính sách khuyến khích thúc đẩy phát triển rau, quả như: miễn giảm thuế nông nghiệp, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT và các chế độ hỗ trợ tín dụng theo lãi suất ưu đãi, ưu đãi đặc biệt; khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển giống và chế biến rau quả.
Để đảm bảo vị thế trên thị trường nội địa và chỗ đứng trên thị trường thế giới trên cơ sở khai thác tiềm năng sản xuất rau quả trong nước, ngày 03/9/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 182/199/QĐ-TTg phê duyệt đề án phát triển rau, quả và hoa, cây cảnh thời kỳ 1999 - 2010. Quyết định này hướng đến mục tiêu tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu trong nước về rau quả, trong đó đẩy mạnh sản xuất, chế biến nước quả với giá rẻ để từng bước thay thế đồ uống có cồn và đến 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu rau quả 1 tỷ USD. Theo chính sách này, các doanh nghiệp sản xuất, chế biến rau quả nói chung sẽ được tạo điều kiện về công nghệ trồng và chế biến, xúc tiến thương mại và thuế ưu đãi.
Trong 10 năm trở lại đây, đặc biệt là từ năm 2000 đến nay, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành Nông nghiệp nói chung và rau quả nói riêng, gồm các chính sách thuế, tài chính, tín dụng.
- Về chính sách thuế: đối với thuế thu nhập doanh nghiệp được thực hiện theo thông tư số 18/2002/thị trường-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP và Nghị định số 26/2001/NĐ-CP của Chính phủ về luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Nội dung quy định được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với các xí nghiệp được ưu đãi đầu tư thuộc ngành rau quả.
- Về chính sách tín dụng và tài chính khác được thực hiện theo các văn bản: Nghị định số 43/1999NĐ-CP ngày 26/6/1999; quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại thực hiện theo thông tư số 61 ngày 01/01/2001, thưởng kim ngạch xuất khẩu theo quyết định số 65 ngày 29/6/2001, quyết định số 63/QĐ-BTC ngày 21/5/2002, quyết định số 1116/2003/QĐ-BTM ngày 09/9/2003.
Bên cạnh đó, Bộ Thương mại có quyết định 0271/2003 về việc dành khoản hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cho 18 mặt hàng chủ yếu có sức cạnh tranh nhằm tăng cường hỗ trợ đầu vào và giảm chi phí sản xuất. Một trong những mặt hàng được hỗ trợ tín dụng có mặt hàng rau quả bao gồm cả đóng hộp, tươi, sơ chế và nước quả. Đây cũng là một cơ hội để phát triển ngành rau quả Việt Nam nói chung, ngành sản xuất nước ép trái cây nói riêng.
Trong đề án công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn giai đoạn 2000-2020 do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn khởi thảo, có 12 lĩnh vực được ưu tiên phát triển trong đó bao gồm cả lĩnh vực rau quả. Đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến công suất 10.000 - 50.000 tấn/năm đối với các vùng sản xuất lớn; phát triển các nhà máy công suất 1000 -2000 tấn / năm với thiết bị chủ yếu do trong nước chế tạo, đa dạng hoá các sản phẩm chế biến như: nước ép trái cây, nước quả cô đặc, quả ngâm đường, sấy khô... nhằm tăng tỷ lệ chế biến rau quả từ 10% hiện nay lên 20% vào năm 2020. Đó là những thuận lợi về mặt chính sách Nhà nước đối với ngành chế biến rau quả nói chung và ngành sản xuất nước ép trái cây nói riêng.
Các giải pháp cơ bản nhằm đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long
Giải pháp về sản phẩm
Chính sách sản phẩm là một trong những chính sách quan trọng đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Xác định đúng sản phẩm mà thị trường yêu cầu là quyết định sống còn, có thể đưa doanh nghiệp phát triển nhưng cũng có thể dẫn doanh nghiệp đến con đường phá sản. Không những thế, cần kịp thời xác định được những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật sao cho luôn có thể thoả mãn được nhu cầu của khách hàng nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Để có được chính sách sản phẩm thích hợp với sản phẩm nước ép trái cây, Công ty Cổ phần Thăng Long nên xác định rõ các vấn đề như sau:
3.1.1 Danh mục sản phẩm
Qua nghiên cứu thị trường sản phẩm nước ép trái cây cho thấy công ty nên phân đoạn thị trường dựa vào các chỉ tiêu cơ bản như: thu nhập của nhóm tiêu dùng và vùng địa lý dân cư sinh sống. Nếu dựa vào thu nhập, có thể phân người tiêu dùng thành hai nhóm, nhóm có thu nhập cao (khoảng từ 5 triệu trở lên) và nhóm có thu nhập thấp (có thu nhập từ 2 triệu trở xuống). Đối với nhóm có thu nhập từ 2-5 triệu, vì không có quan niệm tiêu dùng rõ rệt nên tự họ sẽ quyết định họ thuộc nhóm nào trong hai nhóm đặc trưng trên. Khách hàng mục tiêu của công ty là cả hai nhóm cơ bản trên. Ngoài ra, nếu dựa vào địa lý sinh sống, chính sách sản phẩm đối với các vùng địa lý cũng khác nhau, nhu cầu tiêu dùng ở các vùng nông thôn cũng sẽ thấp hơn so với các vùng đô thị, thành phố. Khách hàng mục tiêu của công ty tập trung vào khách hàng sinh sống tại các vùng đô thị, thành phố lớn.
Nếu dựa vào sự phân đoạn thị trường tiêu dùng mục tiêu như vậy, Công ty nên sản xuất hai dòng sản phẩm khác nhau. Trong đó, dòng sản phẩm thứ nhất (Dòng sản phẩm A) gồm các sản phẩm có chất lượng cao và giá thành cao; dòng sản phẩm thứ hai (dòng sản phẩm B) có chất lượng trung bình và giá thành trung bình. Chất lượng và giá của nước ép trái cây phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản: (1) loại nguyên liệu dùng để chế biến ra nước ép đó; (2) nồng độ dịch quả, nghĩa là tỷ lệ dịch quả và các loại nguyên liệu khác trong nước, nếu nồng độ dịch quả càng cao và tỷ lệ các loại hoá chất khác thấp thì chất lượng loại nước đó càng cao; ngược lại, nếu nồng độ dịch quả càng thấp, tỷ lệ hoá chất nhiều sẽ làm chất lượng nước ép đó giảm. Từ kết quả nghiên cứu thị trường cho thấy, đối với khách hàng có thu nhập cao, yếu tố hương vị tự nhiên có vị trí quan trọng hàng đầu, điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng nồng độ lượng dịch quả, giảm hoá chất và mức độ chế biến. Những loại sản phẩm này bao gồm: nước ép cam, dâu tây, nước hoa quả ép tổng hợp ... Đối với dòng sản phẩm A chủ yếu là phục vụ cho khách hàng ở các vùng thành phố lớn. Ngược lại, đối với nhóm tiêu dùng có thu nhập dưới 2 triệu thì nên sản xuất các sản phẩm (Dòng sản phẩm B) có nồng độ dịch quả thấp, hay nồng độ pha chế từ các loại hoá chất khác cao và chế biến từ những nguyên liệu có giá rẻ như: dưa hấu, ổi, bí đao, mẳng cầu, xoài,... Dòng sản phẩm B phục vụ cho những người tiêu dùng có thu nhập thấp ở thành phố lớn hoặc người tiêu dùng ở các tỉnh. Danh mục các sản phẩm này được cụ thể như bảng sau:
Bảng 18. Các sản phẩm nước ép trái cây được sản xuất để đa dạng hoá
STT
Tên sản phẩm
Nguyên liệu
Đối tượng khách hàng
1.
Dòng sản phẩm A (Nước cam ép chứa nhiều xơ, dâu tây ép, nước táo ép, nước mãng cầu ép, nước ép tổng hợp...)
Cam, dâu tây, táo.mãng cầu và các loại nguyên liệu khác
Khách hàng có thu nhập từ 5 triệu trở lên và một số khách hàng có thu nhập từ 2-5 triệu.
2.
Dòng sản phẩm B (Nước dưa hấu, bí đao, ổi, xoài, chanh, táo, nước cam thường, chanh leo, cà rốt, cà chua, rau má...)
Dưa hấu, bí đao, ổi, xoài, chanh, táo, chanh leo, cà rốt, cà chua, rau má...
Khách hàng có thu nhập từ 2 triệu trở xuống và một số khách hàng có thu nhập từ 2-5 triệu.
(Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004)
3.1.2. Mẫu mã sản phẩm nước ép trái cây
a, Về bao gói sản phẩm
Trên thị trường hiện tại xuất hiện các loại bao gói sản phẩm là chai thuỷ tinh, chai nhựa, bao bì giấy phức hợp... Trong đó, bao gói bằng giấy phức hợp được xem là tiết kiệm và được khách hàng ưa chuộng nhất bởi tính tiện lợi của nó. Công ty Cổ phần Thăng Long nên lựa chọn loại bao gói này làm loại bao gói chủ yếu cho sản phẩm nước ép trái cây của mình.
b, Về kích cỡ sản phẩm
Từ kết quả nghiên cứu thị trường về nước ép trái cây, yếu tố kích cỡ bao gói đa dạng chỉ được xếp ở vị trí gần cuối cùng trong số các yếu tố người tiêu dùng quan tâm khi quyết định mua sản phẩm nước ép trái cây. Do vậy, Công ty không cần thiết phải tạo ra nhiều kích thước bao bì sản phẩm khác nhau mà chỉ nên tập trung vào các loại cơ bản như sau:
- Bao bì giấy phức hợp với kích thước 12,5 x 4,5 x 3 (tương đương với kích thước của hộp sữa bao bì giấy phức hợp loại nhỏ), dung tích khoảng 200 ml. ưu điểm của loại kích thước này là gọn nhẹ, thuận tiện cho quá trình sử dụng trong quá trình đi lại, như đi giã ngoại, picnic hay đang đi trên đường…
- Bao bì giấy phức hợp, kích thước 23 x 11 x 5,5 (loại to, có nắp), dung tích thường là 1 lít. Với kích thước này, chủ yếu phục vụ cho tiêu dùng trực tiếp tại nhà hoặc tại các điểm cố định.
c. Về kiểu dáng sản phẩm
Ba loại bao gói sản phẩm trên sẽ có kiểu dáng sản phẩm khác nhau:
- Loại thứ nhất và loại thứ hai sử dụng giâý phức hợp với dung tích 200 ml và 1 lít, Công ty sẽ vẫn lựa chọn sản xuất kiểu dáng hình hộp chữ nhật truyền thống như các sản phẩm nước ép trái cây thông thường khác. Tuy nhiên, Công ty sẽ chú trọng về mẫu mã sao cho tạo ra được sự khác biệt từ tính độc đáo và bắt mắt.
3.1.3. Chất lượng sản phẩm nước ép trái cây
a, Về hương vị:
Theo khách hàng đánh giá, hương vị tự nhiên của sản phẩm là một trong những yếu tố quan trọng mà người tiêu dùng rất quan tâm khi quyết định mua sản phẩm nước ép trái cây. Các sản phẩm nước ép trên thị trường hiện tại chưa giữ được hương vị tự nhiên của sản phẩm. Vì vậy, Công ty nên chú trọng sản xuất sản phẩm với hương vị tự nhiên, làm khách hàng cảm nhận khi tiêu dùng sản phẩm như tiêu dùng chính loại trái cây đó. Ngoài ra, theo nghiên cứu thị trường, yếu tố: vị ngọt/mặn/chua hợp khẩu vị cũng được người tiêu dùng đánh giá tương đối quan trọng. Do đó, khi sản xuất sản phẩm nước ép trái cây Công ty cũng nên nghiên cứu để điều chế hương vị sản phẩm sao cho phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng.
b, Về màu sắc
Màu sắc sản phẩm là một yếu tố rất quan trọng, làm tăng độ hấp dẫn của sản phẩm. Tuy nhiên đối với những sản phẩm đồ uống, thực phẩm thì ta không nên quá lạm dụng yếu tố này mà làm ảnh hưởng đến cảm quan của người tiêu dùng. Sản phẩm nước ép trái cây do Công ty sản xuất với tiêu chí “giữ mãi vẻ tự nhiên” nên từ hương vị đến màu sắc cũng cần phải giữ được vẻ tự nhiên của các loại trái cây, ví dụ nước cam có màu vàng da cam, nước chanh màu trắng trong, nước dâu màu đỏ hồng... Tuy nhiên, cũng cần pha chế một chút để màu sắc sản phẩm vẫn giữ được màu tự nhiên nhưng phải hấp dẫn.
c, Về dinh dưỡng
Xã hội ngày càng phát triển, con người càng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề sức khoẻ. Nước ép trái cây là sản phẩm bổ dưỡng do được chiết xuất từ trái cây thiên nhiên. Trái cây rất bổ dưỡng, tốt cho sức khoẻ, đẹp da, chống lão hoá và chưa nhiều chất dinh dưỡng như Vitamin A, C, E... Do vậy, bên cạnh các yếu tố về hương vị tự nhiên sản phẩm của Công ty phải thể hiện được tính bổ dưỡng. Công ty có thể kết hợp dịch quả nguyên chất với các chất dinh dưỡng khác như: Canxi, chất khoáng... để tăng tính bổ dưỡng của sản phẩm.
Giải pháp về công nghệ.
Cơ sở lý luận Công nghệ và máy móc thiết bị là một yếu tố quyết định của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Công nghệ không chỉ ảnh hưởng đến giá thành, chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Cuối cùng ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy xem xét, phân tích và lựa chọn công nghệ phù hợp là công việc quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, đặc biệt khi quyết định sản xuất sản phẩm mới. Đối với những doanh nghiệp mới thành lập, lựa chọn công nghệ phù hợp là việc mua sắm đồng bộ dây chuyền công nghệ mới. Với những doanh nghiệp đã đi vào hoạt động thì lựa chọn công nghệ phù hợp là việc đầu tư bổ sung máy móc thiết bị sao cho phù hợp và tận dụng tối đa dây truyền công nghệ hiện tại. Như vậy, để đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây, Công ty cần tận dụng triệt để máy móc thiết bị hiện có, kết hợp đầu tư thiết bị, công nghệ mới.
Cơ sở thực tiễn Đa dạng hoá nước ép trái cây được thực hiện dựa trên cơ sở tận dụng năng lực dư thừa của dây chuyền sản xuất Vang. Do vậy, Công ty Vang Thăng Long cần phải đánh giá lại dây chuyền sản xuất hiện tại làm căn cứ xác định công nghệ đầu tư bổ sung mới sao cho kết hợp hiệu quả với công nghệ hiện tại. Quy trình công nghệ sản xuất nước ép trái cây tuy có một số điểm khác nhưng cũng có nhiều điểm tương đồng so với quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm Vang.
Sơ đồ 3. Quy trình công nghệ sản xuất Vang và nước ép trái cây
Lọcbã
Lọc bã
Sản phẩm Vang
Đóng chai
Lọc trong và hoàn thiện sản phẩm
Lên men phụ
Lên men chính
Điều chỉnh chất lượng dịch lên men
Dịch
ép ngâm đường
Nước ép trái cây
Hoàn thiện sản phẩm
Đóng gói
Thanh trùng
ép
Xay quả
Sơ chế
Nguyên liệu quả các loại
Xử lý bằng Enizime
Dịch
Điều chỉnh để cân đối vị cho từng loại sản phẩm
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Như vậy, nếu tiến hành đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây thì Công ty có thể tận dụng được về mặt công nghệ ở những giai đoạn công nghệ như sơ chế quả, xay quả, ép, lọc và có thể là đóng chai nếu loại bao gói sử dụng cho sản phẩm nước ép trái cây là các chai thuỷ tinh.
Bên cạnh những giai đoạn công nghệ tương đồng thì hai quá trình sản xuất hai sản phẩm cũng có những giai đoạn công nghệ khác nhau. Sau khi xay quả, để sản xuất Vang thì tiến hành ép thành dịch ngay ở giai đoạn này. Quá trình sản xuất nước ép trái cây đòi hỏi cao hơn nên trước khi ép lấy dịch cần phải xử lý bằng enzime để loại bỏ và phân huỷ một số tác nhân gây độ nhớt trong sản phẩm (pectin). Dịch để sản xuất nước ép trái cây và Vang được lọc bã. Sau khi có dịch quả, quá trình sản xuất Vang thực hiện lên men còn sản xuất nước ép trái cây thì dịch được điều chỉnh để cân đối cho từng loại sản phẩm. Sau khi lên men thì hoàn thiện sản phẩm Vang. Quá trình sản xuất nước ép trái cây đòi hỏi cao hơn ở khâu tiếp theo là phải thanh trùng để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Khâu này có thể tiến hành trước hay sau khi bao gói tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ. Giai đoạn công nghệ cuối cùng của quy trình sản xuất hai sản phẩm là đóng gói và hoàn thiện sản phẩm. Như vậy, nếu đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long thì Công ty có thể tận dụng được quy trình công nghệ hiện có ở một số giai đoạn công nghệ. Qua đó, Công ty có thể tiết kiệm được chi phí đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và rút ngắn thời gian chuẩn bị cho đa dạng hoá. Tuy nhiên, do quy trình công nghệ sản xuất hai sản phẩm cũng có một số giai đoạn công nghệ khác nên Công ty cũng cần có một số cải tiến để phù hợp với yêu cầu sản xuất sản phẩm.
Phương thức tiến hành
Bước 1: Các tiêu chí lựa chọn máy móc thiết bị và công nghệ đầu tư bổ sung
Để đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây, máy móc thiết bị và công nghệ đầu tư bổ sung cần thoả mãn các tiêu chí sau đây:
- Tận dụng được máy móc thiết bị và công nghệ hiện có
- Chi phí cho máy móc thiết bị và công nghệ đầu tư bổ sung phải phù hợp với khả năng tài chính của Công ty.
- Phù hợp với quy trình sản xuất Vang và nước ép trái cây của Công ty.
Bước 2: Các phương án lựa chọn công nghệ
Các máy móc thiết bị và công nghệ chủ yếu Công ty cần đầu tư bổ sung cho hoạt động đa dạng hoá nước ép trái cây của Công ty bao gồm: máy đồng hoá, thiết bị thanh trùng, thiết bị bao gói và một số thiết bị khác. Cụ thể, các phương án lựa chọn công nghệ được thể hiện qua bảng dưới đây:
Bảng 19. Danh mục các thiết bị đầu tư bổ sung cho quá trình
sản xuất nước ép trái cây
STT
Danh mục thiết bị đầu tư bổ sung
Chủng loại
Nước sản xuắt chính
Giá bán
(Triệu đồng)
1
Máy đồng hoá
Đài Loan
80 á90
Nhật Bản
200á250
Đức
350á380
2
Thiết bị thanh trùng
Thiết bị thanh trùng trước khi bao gói sản phẩm
Đài Loan
90á100
Nhật Bản
250á270
Đức
450á455
Thiết bị thanh trùng sau khi bao gói sản phẩm
Đài Loan
100á110
Nhật Bản
270á280
Đức
450á455
3
Thiết bị bao gói
Công nghệ aseptic với bao bì giấy phức hợp
Đài Loan
150á155
Nhật Bản
280á300
Đức
420á450
Công nghệ bao gói với bao bì là chai nhựa các loại
Đài Loan
170á180
Nhật Bản
300á315
Đức
450á480
4
Một số thiết bị chứa đựng và dẫn truyền khác
Đài Loan
70á90
Nhật Bản
180á190
Đức
300á320
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Bước 3: Đánh giá các phương án lựa chọn công nghệ
Việc đánh giá các phương án lựa chọn công nghệ dựa trên hai phương diện: nước sản xuất và chủng loại thiết bị.
Xét trên phương diện nước sản xuất
Theo Bảng 19, có ba nước sản xuất chính các thiết bị cần đầu tư bổ sung là Đài Loan, Nhật Bản, Đức. Các thiết bị do mỗi nước sản xuất lại có những ưu, nhược điểm riêng:
Bảng 20. Đánh giá các thiết bị đầu tư theo nước sản xuất
STT
Nước sản xuất
Đánh giá
ưu điểm
Nhược điểm
1
Đài Loan
Giá rẻ nhất
Chất lượng thấp nhất
2
Nhật Bản
- Chất lượng tốt hơn so với Đài Loan
- Công nghệ hiện đại
- Tương đối phù hợp với dây truyền công nghệ hiện tại của Công ty
Giá cao hơn so với Đài Loan
3
Đức
- Chất lượng tốt nhất
- Độ bền cao
Giá cao nhất
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Xét trên phương diện Chủng loại thiết bị:
a, Thiết bị thanh trùng
Thiết bị thanh trùng sử dụng trong dây truyền sản xuất nước ép trái cây gồm hai loại chính là thiết bị thanh trùng sau khi bao gói sản phẩm và thiết bị thanh trùng trước khi bao gói sản phẩm. Mỗi loại đều có ưu, nhược điểm riêng:
Bảng 21. Đánh giá thiết bị thanh trùng theo chủng loại
STT
Chủng loại
Đánh giá
Ưu điểm
Nhược điểm
1
Thiết bị thanh trùng trước khi bao gói sản phẩm
- Giá rẻ hơn
- Độ an toàn thấp hơn do
2
Thiết bị thanh trùng sau khi bao gói sản phẩm
Giá cao hơn (khoảng 20á50 triệu đồng Việt Nam)
- Độ an toàn cao hơn hẳn do thanh trùng cả bao gói của sản phẩm
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
b, Thiết bị bao gói
Việc phân loại thiết bị bao gói thường dựa trên cơ sở loại bao gói được sử dụng. Các loại bao gói thường sử dụng cho sản phẩm nước ép trái cây là bao bì giấy phức hợp, chai nhựa các loại, chai thuỷ tinh... Mỗi loại thiết bị bao gói cũng có những ưu, nhược điểm riêng:
Bảng 21. Đánh giá thiết bị bao gói theo chủng loại
STT
Chủng loại
Đánh giá
ưu điểm
Nhược điểm
1
Công nghệ aseptic với bao bì giấy phức hợp
- Giá rẻ
- Tiết kiệm chi phí sản xuất
Không tái sử dụng được
2
Công nghệ bao gói với bao bì là chai nhựa các loại
Có thể tái sử dụng các vật liệu bao gói
- Giá cao hơn
- Chi phí sản xuất cao hơn so với công nghệ aseptic
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Bước 4: Lựa chọn công nghệ
Thông qua việc xem xét các tiêu chí lựa chọn công nghệ kết hợp với việc đánh giá các phương án công nghệ, phương án công nghệ phù hợp nhất cho việc đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long là:
Bảng 22. Phương án công nghệ được lựa chọn
TT
Danh mục thiết bị đầu tư bổ sung
Chủng loại
Nước sản xuất
Giá bán
(Triệu đồng)
1
Máy đồng hoá
Đài Loan
80á90
2
Thiết bị thanh trùng
Thiết bị thanh trùng sau khi bao gói sản phẩm
Đài Loan
90á100
3
Thiết bị bao gói
Công nghệ aseptic với bao bì giấy phức hợp
Nhật Bản
280á300
4
Các thiết chứa đựng, dẫn truyền khác
Đài Loan
70á90
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Giải pháp lựa chọn và ổn định nguồn ngyên liệu
3.3.1. Cơ sở lý luận
Nguyên liệu cũng là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại đối với nhiều công ty. Không ít doanh nghiệp do không xác định rõ nguồn nguyên liệu nên sau khi xây dựng doanh nghiệp hoặc đầu tư dây chuyền sản xuất đã gặp phải các tình trạng như không đủ nguyên liệu để sản xuất hoặc phải mua nguyên liệu từ những nơi khác với chi phí cao (Cụ thể như nhiều nhà máy sản xuất đường hiện nay của Việt Nam), làm cho quá trình sản xuất kinh doanh kém hiệu quả vì không đủ nguyên liệu, công suất máy móc thiết bị không được khai thác hiệu quả; hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh thấp do chất lượng sản phẩm thấp và giá thành cao.
3.3.2.Cơ sở thực tiễn
Nguyên liệu của Vang Thăng Long chủ yếu được mua thông qua các đại lý thu mua. Do đó, Công ty luôn phải mua nguyên liệu với giá khá cao so với giá gốc. Điều này ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm. Ngoài ra, Công ty không chủ động trong việc đảm bảo ổn định nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, Công ty cần chú trọng đến nguồn nguyên liệu. Đặc biệt, sản xuất nước ép trái cây đòi hỏi phải sử dụng nhiều loại nguyên liệu nông nghiệp. Những sản phẩm này phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên, không dự trữ được trong thời gian dài, do vậy xây dựng vùng nguyên liệu là một trong những giải pháp quan trọng đảm bảo tính chủ động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty, nhất là khi thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây.
3.3.3.Biện pháp thực hiện
a, Giai đoạn 1: Lựa chọn vùng nguyên liệu
Theo định hướng về chủng loại sản phẩm trên đây, các nguyên liệu quả chính cho quá trình sản xuất nước ép trái cây là cam, chanh, chanh leo, táo, dâu tây, vải, ổi, nho, dứa, mãng cầu, cà chua... Hiện tại, quá trình sản xuất Vang của Công ty đang sử dụng những loại nguyên liệu như dứa, táo mèo, nho, vải, mơ, mận, dâu. Như vậy, trước mắt, Công ty có thể tận các kênh nguyên liệu dứa, nho, vải, dâu để sản xuất nước ép trái cây. Lựa chọn được vùng nguyên liệu thích hợp là một vấn đề hết sức quan trọng với hoạt động đa dạng hoá của Công ty.
Bước 1: Các tiêu chí lựa chọn vùng nguyên
Chất lượng nguyên liệu tốt
Giá mua nguyên liệu thấp
Chi phí thu mua thấp
Tiết kiệm chi phí vận chuyển
Vùng nguyên liệu được lựa chọn cần thoả mẫn tốt nhất các tiêu chí lựa chọn nêu trên.
Bước 2: Các phương án lựa chọn vùng nguyên liệu
Bảng 23. Các vùng nguyên liệu chính
STT
Loại quả
Vùng nguyên liệu
1
Dứa
Thanh Hoá, Ninh Bình
2
Vải
Hải Dương, Nam Hà
3
Nho
Phan Rang, Ninh Thuận
4
Cam
Vinh, Hà Giang
5
Chanh
Nhiều vùng
6
Táo
Lạng Sơn, Trung Quốc
7
Dâu tây
Đà Lạt, nhập khẩu
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Bước 3: Đánh giá các phương án lựa chọn vùng nguyên liệu
Bảng 24. Đánh giá các phương án lựa chọn vùng nguyên liệu
STT
Loại quả
Vùng nguyên liệu
Đánh giá
Chất lượng nguyên liệu
Sản lượng cung cấp bình quân/năm
Giá mua
Chi phí thu mua
Chi phí vận chuyển
1
Dứa
Thanh Hoá
Tốt ngang nhau
Thấp hơn
Ngang nhau
Cao hơn
Cao hơn
Ninh Bình
Lớn hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
2
Vải
Hải Dương
Tốt hơn
Lớn hơn
Cao hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Nam Hà
Kém hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Cao hơn
Cao hơn
3
Nho
Phan Rang
Tốt ngang nhau
Lớn hơn
Thâp hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Ninh Thuận
Thấp hơn
Cao hơn
Cao hơn
Cao hơn
4
Cam
Vinh
Tốt hơn
Lớn hơn
Cao hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Hà Giang
Thấp hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Cao hơn
Cao hơn
6
Táo
Lạng Sơn
Tốt hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Trung Quốc
Thấp hơn
Lớn hơn
Cao hơn
Cao hơn
Cao hơn
7
Dâu tây
Đà Lạt
Thấp hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Thấp hơn
Nhập khẩu
Cao hơn
Lớn hơn
Cao hơn
Cao hơn
Cao hơn
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Bước 4: Lựa chọn vùng nguyên liệu
Thông qua việc đáng giá các phương án lựa chọn vùng nguyên liệu, phương án được lựa chọn cần thỏa mãn tốt nhất các tiêu chí lựa chọn đã đưa ra. Phương án vùng nguyên liệu tối ưu nhất cho hoạt động đa dạng hoá của Công ty là:
Bảng 25. Phương án vùng nguyên liệu được lựa chọn
TT
Loại quả
Vùng nguyên liệu
Sản lượng cung cấp bình quân năm (ĐV: Tấn)
Giá mua bình quân
(ĐV: Tr đồng/tấn)
1
Dứa
Ninh Bình
10.000
1,5
2
Vải
Hải Dương
8.000
2
3
Nho
Phan Rang
5.000
6
4
Cam
Vinh
9.000
4,5
5
Táo
Lạng Sơn
8.500
1,5
6
Dâu tây
Đà Lạt
2.000
9
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Giai đoạn 2: ổn định vùng nguyên liệu
Sau khi đã lựa chọn được vùng nguyên liệu thích hợp cho quá trình đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây, Công ty cũng cần chú ý đến việc bảo đảm ổn định vùng nguyên liệu. Để ổn định vùng nguyên liệu, Công ty cần xây dựng mối liên kết chặt chẽ với vùng nguyên liệu hoặc có thể xây dựng vùng nguyên liệu riêng cho Công ty. Đó là việc xây dựng mối liên kết ngành theo chiều dọc. Liên kết ngành theo chiều dọc giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian của quá trình sản xuất và đặc biệt là tăng cường tính chủ động của doanh nghiệp. Trên thực tế, công ty chưa xây dựng được vùng nguyên liệu riêng cho mình, mối liên kết của Công ty với các vùng nguyên liệu cũng chưa chặt chẽ. Hình thức thu mua nguyên liệu chủ yếu của Công ty là qua các nhà buôn. Hình thức này sẽ gây ra nhiều bất lợi cho Công ty như nguy cơ bị ép giá, tính chủ động trong sản xuất kinh doanh kém do bị phụ thuộc vào các nhà buôn. Như vậy biện pháp quan trọng nhất về mặt nguyên vật liệu để Công ty có thể đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây là phải xây dựng được vùng nguyên liệu riêng cho Công ty. Để xây dựng được vùng nguyên liệu riêng, trước hết Công ty cần thiết lập một bộ phận riêng chuyên đảm trách công tác phát triển vùng nguyên liệu. Tiếp đó, Công ty cần đảm bảo đủ nguồn lực về tài chính, thiết bị... cho công tác phát triển vùng nguyên liệu. Và cuối cùng, biện pháp quan trọng nhất là Công ty cần xây dựng các chính sách ưu đãi hợp lý cho vùng nguyên liệu để đảm bảo ổn định vùng nguyên liệu. Các vùng nguyên liệu của Công ty chủ yếu sẽ tập trung trong nước do Việt Nam có nguồn trái cây rất phong phú, đa dạng với khối lượng lớn.
3.4 Giải pháp về lao động
3.4.1. Cơ sở lý luận
Lao động là một trong những yếu tố quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh bởi vì lao động sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất và các khía cạnh khác... Do đó, sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận và cuối cùng là hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.4.2. Cơ sở thực tiễn
Đa dạng hoá sản phẩm có yêu cầu đổi mới công nghệ luôn đòi hỏi phải có giải pháp lao động để vận hành hiệu quả dây chuyền mới. Mặc dù công nghệ sản xuất nước ép trái cây và sản xuất Vang có những sự tương đồng rất lớn, tuy nhiên cũng có nhiều công đoạn khác nhau thể hiện ở những máy móc thiết bị cần được đầu tư bổ sung. Do vậy, để thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây, bổ sung tính mùa vụ cho sản phẩm Vang, Công ty Cổ phần Thăng Long nên có kế hoạch về lao động hợp lý.
3.4.3. Phương thức tiến hành
Để có được giải pháp lao động hiệu quả, Công ty Cổ phần Thăng Long nên thực hiện theo những bước cụ thể như sau:
Bước 1: Xác định yêu cầu về lao động cả về mặt chất lượng lẫn số lượng. ước tính yêu cầu này đối với dây chuyền sản xuất mới là khoảng 200 lao động trực tiếp và khoảng 15 lao động quản lý. Những người quản lý yêu cầu phải có trình độ đại học trở lên và những người lao động phải có bằng trung học phổ thông trở lên.
Bước 2: Đánh giá khả năng về lực lượng lao động hiện có của Công ty. Hiện tại Công ty có một lực lượng lao động trực tiếp và quản lý khá lớn, số lượng lao động trực tiếp chính thức của công ty khoảng 210 người, còn số lao động trực tiếp tuyển dụng theo mùa vụ khoảng gần 100 người và số lao động quản lý tại các phân xưởng khoảng 20 người.
Bước 3: Tuyển chọn lao động cho dây chuyền mới. Có hai nguồn lựa chọn lao động cơ bản: nguồn bên trong và bên ngoài Công ty. Tuy nhiên, so sánh giữa hai công nghệ sản xuất Vang và nước ép trái cây có rât nhiều điểm tương đồng, do vậy công nhân sản xuất Vang có thể nhanh chóng tiếp cận với công nghệ sản xuất nước ép trái cây qua một số lớp đào tạo ngắn hạn. Ngoài ra, số lượng và chất lượng lao động hiện có của Công ty Cổ phần Thăng Long đều đáp ứng những yêu cầu dây chuyền mới về sản xuất nước ép trái cây. Do vậy, trước mắt Công ty không cần tuyển dụng thêm lực lượng lao động từ bên ngoài mà có thể chọn ngay lao động hiện có của Công ty.
Bước 4: Đào tạo lao động để vận hành dây chuyền sản xuất nước ép trái cây. Theo nghiên cứu của các chuyên gia về sản xuất Vang và nước ép trái cây, để công nhân có kinh nghiệm vận hành dây chuyền sản xuất Vang sang sản xuất nước ép trái cây cần phải đào tạo thêm như sau: (1) đối với lực lượng lao động quản lý cần tổ chức năm khoá đào tạo, mỗi khoá kéo dài năm ngày; (2) đối với lực lượng lao động trực tiếp cần đào tạo thêm 3 khoá, mỗi khoá cũng kéo dài 5 ngày. Giảng viên đào tạo có thể mời các giáo sư tại các trường lớn như Đại học Bách khoa Hà nội và Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội.
Bước 5: Tính toán chi phí đào tạo. Cụ thể như bảng sau:
Bảng 26. Chi phí đào tạo lao động cho dây chuyền sản xuất nước ép trái cây
STT
Đối tượng đào tạo
Số lượng khoá học
Độ dài mỗi khoá (ngày)
Đơn giá
(triệu/ngày)
Giá thành
(Tr.Đ)
1
Lao động quản lý
5
5
5
25
2
Lao động trực tiếp
3
5
10
15
Tổng chi phí
40
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
3.5. Một số giải pháp Marketing
3.5.1. Chính sách giá
Cơ sở lý luận
Giá là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Dưới gốc độ Marketing có chín phương án chiến lược xác định giá dựa trên mối tương quan cơ bản giữa giá và chất lượng sản phẩm.
Cơ sở thực tiễn
Từ kết quả nghiên cứu thị trường về nước ép trái cây cho thấy giá là một trong những yếu tố quan trọng hàng đấu đối với người tiêu dùng trước khi quyết định mua, cả nhóm thu nhập thấp và nhóm thu nhập cao. Do vậy, Công ty Cổ phần Thăng Long nên cẩn thận khi xác định giá sản phẩm nước ép trái cây. Phương pháp xác định giá được đề xuất là nên dựa vào giá thành sản xuất ra từng loại sản phẩm và tình hình giá trên thị trường của các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, về cơ bản giá của sản phẩm của Công ty nên theo chiến lược giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh để tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của Công ty, vì đây là lần đầu tiên Công ty thâm nhập vào thị trường này, nói cách khác sản phẩm của công ty đang ở giai đoạn giới thiệu của chu kỳ sống sản phẩm. Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý hệ thống giá, Công ty nên xác định giá bằng nhau cho các sản phẩm trong cùng nhóm. Nghĩa là tính giá trung bình cho từng nhóm và lấy giá đó làm chuẩn cho tất cả các sản phẩm trong cùng một nhóm
Như vậy, để xác định giá cụ thể của từng nhóm loại sản phẩm, trước hết phải tính chi phí sản xuất hay giá thành trung bình của từng loại sản phẩm đó. Cụ thể tính toán cho từng nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất (nhóm A), nhóm sản phẩm có chất lượng và giá cao, bao gồm các sản phẩm như: Cam, dâu tây và hoa quả tổng hợp. Đối với loại có dung tích là 1 lít, giá thành sản xuất của nó bao gồm các yếu tố cấu thành như sau:
Bảng 27. Giá thành trung bình các sản phẩm nhóm A (loại 1 lít) (Đơn vị: Nghìn đồng)
STT
Loại chi phí
Giá thành
1.
Nguyên liệu
- Dịch quả
- Nguyên phụ liệu
9
7
2
2.
Lao động
2
3.
Khấu hao
0,75
4
Chi phí quản lý
2,5
5.
Chi phí khác
0,75
Tổng giá thành
15
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Thông qua nghiên cứu thị trường và một số công ty sản xuất nước ép trái cây cả trong và ngoài nước thấy rằng: tỷ suất lợi nhuận trên giá thành là 30-40%. Do đó chính sách giá của công ty nên là dựa vào tính toán giá thành và cộng thêm phần loại nhuận khoảng 30% so với giá thành, như vậy giá bán bình quân đối với các sản phẩm trong nhóm 1 là 19,5 nghìn đồng/ lít (một sản phẩm).
Với sản phẩm cũng trong nhóm 1, nhưng với dung tích 200 ml sẽ có bảng tính chi phí sản xuất như sau:
Bảng 28. Giá thành trung bình các sản phẩm nhóm A (loại 200 ml)
(Đơn vị: Nghìn đồng)
STT
Loại chi phí
Giá thành
1.
Nguyên liệu
- Dịch quả
- Nguyên phụ liệu
2
1,5
0,5
2.
Lao động
1
3.
Khấu hao
0,5
4
Chi phí quản lý
1
5.
Chi phí khác
0,5
Tổng giá thành
5
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Cách định giá sản phẩm này cũng căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận trên giá thành như với sản phẩm trên (30%), nghĩa là giá bán sẽ khoảng 6,5 nghìn/ 200ml (một sản phẩm).
Nếu dựa vào hai yếu tố cơ bản là chất lượng và giá sản phẩm, thị trường nhóm sản phẩm A có thể được biểu diễn như hình vẽ dưới đây:
Hình 1. Phương án chiến lược giá của sản phẩm nhóm A
Giá
Chất lượng hàng hoá
Cao
Trung bình
Thấp
Cao
Chiến lược giá trung bình
Trung bình
Thấp
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Nói cách khác, chiến lược giá về sản phẩm nước ép trái cây thuộc nhóm A của Công ty Cổ phần Thăng Long sẽ là giá trung bình nhưng chất lượng cao, nhóm sản phẩm này nhằm cạnh tranh với những sản phẩm nhập ngoại chất lượng cao và giá cao.
Nhóm thứ hai (nhóm B), cách tính toán cho các sản phẩm nhóm B đối với hai loại sản phẩm có dung tích khác nhau cũng tương tự như các sản phẩm nhóm A, cụ thể: đối với loại sản phẩm một lít, các chi phí được tính toán như sau:
Bảng 29. Giá thành trung bình các sản phẩm nhóm B (loại 1 lít) (Đơn vị: Nghìn đồng)
STT
Loại chi phí
Giá thành
1.
Nguyên liệu
- Dịch quả
- Nnguyên phụ liệu
4
3
1
2.
Lao động
2
3.
Khấu hao
0,75
4
Chi phí quản lý
2,5
5.
Chi phí khác
0,75
Tổng giá thành
10
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Với các sản phẩm nhóm B chỉ có chi phí cho nguyên vật liệu là thay đổi đáng kể vì có sự thay đổi về dung tích dịch quả trong từng đơn vị sản phẩm, cụ thể là giảm nồng độ dịch quả, do vậy chi phí nguyên liệu sẽ giảm đi trong loại sản phẩm này. Ngoài ra, các loại chi phí khác hầu như không có sự thay đổi nhiều. Do đó, giá thành cụ thể đối với loại sản phẩm này là 10 nghìn đồng, và giá bán sẽ là 12 nghìn đồng / lít (một sản phẩm), dựa vào chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên giá thành là 20% đối với nhóm B.
Với sản phẩm cũng trong nhóm B, nhưng với dung tích 200 ml sẽ có bảng tính chi phí sản xuất như sau:
Bảng 30. Giá thành trung bình các sản phẩm nhóm B (loại 200 ml) (Đơn vị: Nghìn đồng)
STT
Loại chi phí
Giá thành
1.
Nguyên liệu
- Dịch quả
- Nnguyên phụ liệu
1
0,6
0,4
2.
Lao động
1
3.
Khấu hao
0,5
4
Chi phí quản lý
1
5.
Chi phí khác
0,5
Tổng giá thành
4
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Cách định giá sản phẩm này cũng căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận trên giá thành như với sản phẩm trên (20%), nghĩa là giá bán sẽ khoảng 4,8 nghìn/ 200ml (một sản phẩm).
Hình 2. Phương án chiến lược giá của sản phẩm nhóm B
Giá
Chất lượng hàng hoá
Cao
Trung bình
Thấp
Cao
Trung bình
Chiến lược giá thấp
Thấp
(Nguồn: Tự tổng hợp, 2005)
Phương án chiến lược giá của nhóm B là giá thấp và chất lượng cũng thấp. Nhóm B được sản xuất để cạnh tranh với các sản phẩm tại các doanh nghiệp trong nước, những sản phẩm giá thấp và chất lượng cũng thấp.
3.5.2 Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm
Cơ sở lý luận
Thị trường tiêu thụ và kênh phân phối sản phẩm là những yếu tố rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Sản phẩm của doanh nghiệp dù có tốt đến mấy nhưng không lựa chọn được kênh phân phối và thị trường tiêu thụ phù hợp thì cũng không thể tiêu thụ được với hiệu quả cao. Thị trường tiêu thụ và kênh phân phối không phải được xác định theo doanh nghiệp mà là xác định theo từng sản phẩm của doanh nghiệp đó. Chính vì vậy, khi doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mới thì việc xác định, xây dựng và hoàn thiện hệ thống kênh phân phối và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm là rất cần thiết.
Cơ sở thực tiễn
Thị trường tiêu thụ sản phẩm Vang hiện tại của Công ty là từ các tỉnh phía Bắc cho đến Quảng Ngãi. Các kênh tiêu thụ chủ yếu của Công ty là các đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, hệ thống siêu thị. Thị trường nước ép trái cây hiện tại chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Vinh, Đà Nẵng... Còn riêng TP HCM, do đặc điểm trái cây nhiều nên chủ yếu là tiêu dùng trái cây tươi hay chuyển sang các các thành phố khác nơi có ít trái cây tươi. Thị trường xuất khẩu nước ép trái cây khá rộng lớn. Một số nước có xu hướng nhập khẩu nhiều các sản phẩm rau quả chế biến là Nhật, Châu á Thái Bình Dương, Tây Bắc Âu, Mỹ La Tinh, Trung Quốc... Như vậy, thị trường nước ép trái cây là khá rộng lớn và có thể mở rộng xuất khẩu dễ dàng hơn so với sản phẩm Vang. Khi đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây, Công ty có thể tận dụng thị trường Vang hiện tại để tiêu thụ thêm sản phẩm nước ép trái cây và mở rộng xuất khẩu. Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ nước ép trái cây hiện tại cũng đang diễn ra sự cạnh tranh rất lớn giữa nhiều doanh nghiệp trong ngành. Để đa dạng hoá thành công sản phẩm nước ép trái cây, Công ty cần có hướng khắc phục những tồn tại đang diễn ra của các doanh nghiệp trong ngành để đạt được hiệu quả cao hơn.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm Vang của Công ty chủ yếu được thực hiện qua các kênh phân phối như các đại lý, nhà đầu tư, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, hệ thống siêu thị...
Sơ đồ 4. Hệ thống kênh phân phối của Công ty Cổ phần Thăng Long
Công ty
Nhà đầu tư
Cửa hàng GTSP
Cửa hàng KDTH
Nhà nhập khẩu
Đại lý
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
(Nguồn: Phòng Thị trường - Công ty Cổ phần Thăng Long, 2004)
Cụ thể quá trình phân phối sản phẩm Vang của Công ty được thể hiện qua sơ đồ trên. Do hai loại sản phẩm Vang và nước ép trái cây cùng thuộc ngành chế biến thực phẩm và cách tiêu dùng hai sản phẩm này gần giống nhau nên cách thức tiêu thụ của hai sản phẩm này tương đối giống nhau. Sản phẩm nước ép trái cây hiện tại cũng đang được tiêu thụ chủ yếu qua các siêu thị, ngoài ra còn mở rộng tiêu thụ tại các nhà hàng, khách sạn, quán ăn, quán nước... Tuy nhiên, kênh tiêu thụ chủ yếu của sản phẩm Vang là các đại lý lại chưa được sử dụng để tiêu thụ sản phẩm nước ép trái cây mặc dù đây sẽ là kênh tiêu thụ rất hữu hiệu cho sản phẩm này. Như vậy, nếu đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây, Công ty có thể tận dụng được mối quan hệ và kinh nghiệm về các kênh phân phối hiện có để tiêu thụ đồng thời 2 sản phẩm Vang và nước ép trái cây. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần có những biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa thị trường tiêu thụ và mạng lưới phân phối sản phẩm để có thể đa dạng hoá thành công.
Phương thức tiến hành
Về mặt thị trường tiêu thụ, theo nghiên cứu cho thấy thị trường trong nước trước mắt cho việc tiêu thụ sản phẩm nước ép trái cây là các tỉnh phía Bắc và miền Trung. Trong đó chủ yếu tập trung phân phối ở các thành phố lớn như Hải Phòng, Hà Nội, Vinh, Quảng Ninh, Thanh Hoá... Khu vực này cũng là thị trường cho sản phẩm Vang hiện tại của Công ty. Thị trường xuất khẩu dự kiến cho sản phẩm nước ép trái cây là Nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT130.doc