Đề tài Vai trò động lực của phân phối trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Vai trò động lực của phân phối trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Lời nói đầu Trong một xã hội với nền sản xuất hiện đại thì phân phối là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng. Chính nhờ phân phối mà quá trình sản xuất và tái sản xuất được diễn ra không ngừng. Mặt khác, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất quan trọng của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Do vậy, việc nghiên cứu về phân phối là hết sức cần thiết, đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Bởi vì, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối (chẳng hạn như phân phối thu nhập) sao cho phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường cũng như sự tác động của chúng tới sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi phải có tư duy mới, khoa học hơn trong việc nhìn nhận, đánh giá và đưa ra các quyết định thuộc về lĩnh vực phân phối. Giải quyết tốt vấn đề phân phối sẽ tạo ra động lực to lớn l...

doc28 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vai trò động lực của phân phối trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong một xã hội với nền sản xuất hiện đại thì phân phối là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng. Chính nhờ phân phối mà quá trình sản xuất và tái sản xuất được diễn ra không ngừng. Mặt khác, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất quan trọng của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Do vậy, việc nghiên cứu về phân phối là hết sức cần thiết, đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Bởi vì, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối (chẳng hạn như phân phối thu nhập) sao cho phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường cũng như sự tác động của chúng tới sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi phải có tư duy mới, khoa học hơn trong việc nhìn nhận, đánh giá và đưa ra các quyết định thuộc về lĩnh vực phân phối. Giải quyết tốt vấn đề phân phối sẽ tạo ra động lực to lớn làm thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển ổn định của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, đây là một vấn đề xã hội lớn lao mà trong phạm vi của vài viết này không thể giải quyết một cách trọn vẹn được. ở đây chúng ta sẽ chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về phân phối nhằm mục đích sử dụng có hiệu quả những quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. Về cơ bản, bài viết này sẽ gồm những phần sau: Phần I: Lý luận chung về phân phối. Trong phần này sẽ trình bày những nét cơ bản nhất về bản chất, vai trò của phân phối và sự so sánh sự khác nhau giữa phân phối trong chủ nghĩa tư bản với phân phối trong chủ nghĩa xã hội. Phần II: Vai trò động lực của phân phối trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. ở phần này, thông qua việc nghiên cứu các hình thức phân phối và các hình thức thu nhập, chúng ta sẽ thấy được vai trò tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế của quan hệ phân phối thể hiện như thế nào. Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn của thầy đã giúp em có thể hoàn thành bài đề án này. Hà nội tháng 5 năm 2001. Sinh viên Phạm Ngọc Dậu Phần I: lý luận chung về phân phối. I/Bản chất, vai trò và cở sở kinh tế của quan hệ phân phối: 1. Bản chất của phân phối: Trước hết, chúng ta hãy cùng làm rõ bản chất của phân phối. Khi xem xét hoạt động kinh tế của xã hội, chúng ta thấy rằng trong xã hội luôn tồn tại mối quan hệ giữa người sản xuất vầ sản phẩm. Với nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất không trở thành chủ sở hữu của sản phẩm đó ngay lập tức. "Phân phối xen vào gữa người sản xuất và sản phẩm, thông qua những quy luật xã hội, phân phối quy định phần dành cho người sẩn xuất trong khối sản phẩm, do đó, phân phối xen vào giữa sản xuất và tiêu dùng", Cácmác. Tuy nhiên, phân phối không phải là một lĩnh vực độc lập đứng bên cạnh sản xuất. Tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Bản thân phân phối là sản phẩm của sản xuất không phải chỉ về mặt nội dung, vì nếu không có sản xuất thì người ta sẽ phân phối cái gì, phân phối như thế nào, mà còn về cả mặt hình thức, vì phương thức tham gia vào sản xuất của con người sẽ quyết định hình thái đặc thù của phân phối. Trong lịch sử đã có những nhà kinh tế chính trị học xem phân phối như là một nhân tố có trước sản xuất bởi vì khi xem xét sự phân phối trong xã hội: với mỗi cá nhân, địa vị của họ do sự phân phối từ trước để lại; còn khi xét chung về mặt xã hội, phân phối biểu hiện ra là phân phối sản phẩm nên dường như không liên quan đến sản xuất, độc lập với sản xuất. Nhưng trước khi là phân phối sản phẩm thì phân phối là: phân phối công cụ sản xuất, phân phối các thành viên lao động; rõ ràng phân phối sản phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối này, mà sự phân phối này thì đã bao hàm trong sản xuất. Qua đây, chúng ta khẳng định phân phối là sản phẩm của sản xuất. Do vậy, nó bị chi phối bởi phương thức sản xuất. Mỗi hình thái phân phối tồn tại và biến đi cùng lúc với phương thức sản xuất đã sinh ra nó. điều này chứng tỏ, về mặt bản chất, quan hệ phân phối là nhất trí với quan hệ sản xuất ấy, chúng cấu thành mặt sau của các quan hệ sản xuất. Và vì thế, cả hai đều có chung một tính chất lịch sử nhất thời ấy. Tuy vậy, phân phối không phải chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực của sản xuất và trao đổi. Nó cũng tác động lại mạnh mẽ như thế đến cả sản xuất lẫn trao đổi. Bởi vì bất cứ phương thức sản xuất mới nào và bất cứ hình thức trao đổi mới nào, lúc đầu không những bị những hình thức cũ và những thiết chế chính trị ấy ngăn trở, mà còn bị phương thức phân phối cũ ngăn trở nữa. Phải trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài, phương thức sản xuất mới mới giành được sự phân phối thích ứng với nó. Mặt khác, một phương thức sản xuất nhất định càng linh hoạt bao nhiêu, càng dễ phát triển bao nhiêu thì sự phân phối càng chóng đạt tới trình độ thoát khỏi ngay chính những điều kiện đã đẻ ra nó và càng trở nên mâu thuẫn với phương thức sản xuất, trao đổi cũ bấy nhiêu. Ví dụ như trong chủ nghĩa tư bản, sự tồn tại của nó chưa bao lâu, nhất là từ khi có đại công nghiệp, tức là mới chưa đầy một trăm năm, mà trong thời gian ngắn ngủi đó, nó đã đẻ ra những mâu thuẫn trong sự phân phối- một đằng là sự tập trung tư bản với khối lượng của cải khổng lồ vào tay một số ít người trong xã hội, còn phía bên kia là phần lớn quần chúng lao động không có tài sản. Với mâu thuẫn này tất yếu sẽ đưa nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đến chỗ diệt vong. 2. Vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội: Như ở trên chúng ta thấy rằng phân phối là một phạm trù kinh tế trừu tượng. Do đó, để nghiên cứu về quan hệ phân phối cũng như để thấy được vai trò của nó thì ta phải thông qua các hình thức biểu hiện của phân phối. Khi bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ănghen cho rằng: "sự phân phối chừng nào mà còn bị những lý do thuần tuý kinh tế chi phối, thì nó sẽ được điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ được thuận lợi trên hết trong mọi phương thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể phát triển , duy trì và thực hành những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất". Để hiểu được ý nghĩa lời nói của Ănghen, trước hết chúng ta phải tìm hiểu thế nào là lợi ích kinh tế, nó chi phối đến cá nhân cũng như xã hội như thế nào. Chúng ta biết rằng, trong mỗi hình thái kinh tế xã hội đều bao gồm một hệ thống phức tạp các lợi ích. Trong hệ thống lợi ích phức tạp đó, lợi ích kinh tế có ý nghĩa quyết định nhất. Bởi vì, "lợi ích kinh tế là những quan hệ kinh tế phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan về sự hoạt động của các giai cấp, những nhóm xã hội hay của từng người lao động riêng biệt, do quan hệ sản xuất quyết định", (định nghĩa lợi ích kinh tế, giáo trình kinh tế chính trị). Là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế và quy luật kinh tế trong một phương thức sản xuất nhất định, lợi ích kinh tế bao giờ cũng mang tính chất lịch sử và giai cấp. Tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ thoả mãn các nhu cầu về lợi ích của từng giai cấp trong xã hội là khác nhau, do tính chất của quan hệ sản xuất quyết định. Tính giai cấp ảnh hưởng rất sâu sắc và chi phối mạnh mẽ tới hệ thống lợi ích trong xã hội. Ví dụ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, các nhà tư bản sở hữu tư liệu sản xuất và bóc lột công nhân làm thuê để tối đa hoá lợi ích của mình. Do vậy, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp luôn tồn tại trong xã hội tư bản. Với tính cách là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế có vai trò là động lực mạnh mẽ đối với nền kinh tế. Sở dĩ chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại và phát triển được là do các nhà tư bản luôn có những cải tiến trong kỹ thuật, thay đổi hình thức bóc lột... và vẫn thu được lợi nhuận cao. Và, ở một mức độ sâu hơn, tức là khi phương thức sản xuất còn là bình thường đối với xã hội thì nói chung người ta vẫn bằng lòng với sự phân phối đó của xã hội. Và chỉ khi nào phương thức sản xuất đó đã đi vào giai đoạn thoái trào của nó, khi mà nó không còn những điều kiện để tồn tại; chỉ khi đó, sự phân phối trở nên ngày càng chênh lệch thêm, bất công ngày càng sâu sắc thêm. Khi đó người ta mới cần đến một cuộc cách mạng để xoá bỏ phương thức sản xuất đã lỗi thời này để xây dựng nên một phương thức sản xuất mới cao hơn. Chủ nghĩa tư bản cũng vậy, càng phát triển, mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp trong lòng nó càng sâu sắc mà bản thân nó không thể nào khắc phục nổi. Do đó, tất yếu sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản để nhường chỗ cho một hình thái xã hội mới cao hơn, xã hội xã hội chủ nghĩa. Đối với nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay, do sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau dựa trên nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tạo nên tính phức tạp trong cơ cấu xã hội, giai cấp cũng như trong quan hệ lợi ích kinh tế. Do vậy, quan hệ phân phối muốn phát huy được vai trò động lực của mình thì phải khuyến khích được các giai cấp, tầng lớp hoạt động tích cực, tức là phải đảm bảo lợi ích kinh tế cho họ. Tuy nhiên, các giai cấp, tầng lớp phải thống nhất ở lợi ích chung của toàn xã hội. Có như vậy, xã hội mới phát triển lành mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 3. Cơ sở kinh tế của sự phân phối: Khi tìm hiểu cơ sở kinh tế của sự phân phối, chúng ta nghĩ ngay đến việc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, phân phối bao hàm cả phân phối cho sản xuất được xem như là yếu tố của sản xuất còn phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của quá trình sản xuất. Để quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng được diễn ra không ngừng, tổng sản phẩm sản xuất ra không thể phân phối ngay cho mọi người. Do vậy, mọi ý kiến cho rằng sản phẩm sản xuất ra phải chia đều cho mọi người là phi thực tế và không thể thực hiện được, có chăng là trong xã hội nguyên thuỷ. Bởi vì, trong một xã hội phát triển với nền sản xuất lớn thì một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội phải dùng để bù đắp những khoản chi phí, dự phòng, tích luỹ... phần còn lại mới dành cho phân phối tiêu dùng. Theo C.Mác, phần trích ra đó bao gồm: Phần bù đắp những tư liệu sản xuất đã hao phí; Phần để mở rộng sản xuất; Lập quỹ tự trữ đề phòng khi tai nạn bất ngờ. Chúng ta thừa nhận phần trích này là một điều tất yếu về kinh tế, vì khôi phục và mở rộng sản xuất là để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội sẽ dành cho tiêu dùng. Nhưng trước khi phân phối trực tiếp cho cá nhân, còn phải trích một phần để: Chi phí về quản lý hành chính và tổ chức, bảo vệ Tổ quốc. Mở rộng các sự nghiệp phúc lợi công cộng và cứu tế xã hội. Sau đó, phần còn lại sẽ được trực tiếp phân phối cho tiêu dùng cá nhân của những người làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với số lượng và chất lượng của lao động cũng như số lượng vốn và tài sản mà họ đã đóng góp vào quá trình sản xuất. II/ Phân phối dưới chủ nghĩa tư bản: Để so sánh chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội và để hiểu rõ hơn về phân phối, chúng ta hãy xem xét sự phân phối trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Như chúng ta đã biết, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê nên tương ứng với nó là hình thức phân phối bất bình đẳng. Xét về sự phân phối cho sản xuất, dưới chủ nghĩa tư bản mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về nhà tư bản còn người lao động là những người vô sản. Sự phân phối như vậy về tư liệu sản xuất tất yếu dẫn đến những bất công trong sự phân phối về sản phẩm của lao động. Người công nhân tham gia vào quá trình sản xuất dưới hình thái lao động làm thuê nên sẽ tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm lao động dưới hình thái tiền lương (tiền công lao động). Tiền lương là tiền công mà tư bản trả cho công nhân khi anh ta làm việc cho nhà tư bản trong một khoảng thời gian nhất định để sản xuất ra một lượng hàng hoá nào đó. Thực chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả của sức lao động. Nhưng nó lại biểu hiện ra thành giá trị hay giá cả của lao động. Nhà tư bản có hai hình thức tính tiền lương cơ bản là tiền lương theo sản phẩm và tiền lương tính theo thời gian. Tuy nhiên, đó chỉ là những cách khác nhau của nhà tư bản để chiếm đoạt giá trị thặng dư của người công nhân lao động nhưng lại để họ tưởng rằng lao động của mình đã được trả công đầy đủ. Thực chất, người công nhân càng lao động khẩn trương hơn, họ càng bị bóc lột nhiều hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế cũng là một nguyên nhân làm giảm mức sống thực tế của người lao động. Từ đó, sự khác biệt về mức sống giữa các giai cấp trong xã hội càng lớn và mâu thuẫn xã hội càng gay gắt. Đối lập với giai cấp công nhân là giai cấp tư sản. Sở hữu mọi tư liệu sản xuất, giai cấp tư sản được phân phối sản phẩm lao động dưới hình thái lợi nhuận, lợi tức hoặc địa tô. 1/ Lợi nhuận và lợi tức: Hình thái này của giá trị thặng dư là một quan hệ chi phối việc tái sản xuất. Tuy vậy, tư bản không được tiêu dùng tự do phần lợi nhuận của mình bởi nhu cầu dự trữ và tái sản xuất mở rộng. Không biểu hiện thành nhân tố chủ yếu của phân phối sản phẩm , lợi nhuận biểu hiện thành một nhân tố chủ yếu của bản thân việc sản xuất sản phẩm, thành một nhân tố phân phối tư bản và lao động trong các ngành sản xuất khác nhau. Việc phân chia lợi nhuận thành lợi nhuận doanh nghiệp và lợi tức biểu hiện ra là việc phân phối cùng một khoản thu nhập. Tuy nhiên, sự phân chia đó phát sinh từ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản với tư cách là giá trị sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Tức là nó phát sinh từ hình thái xã hội nhất định. Từ đó, nó sinh ra các hình thức tín dụng và ngân hàng, các hình thái của sản xuất. Trong lợi tức, cái gọi là hình thái của phân phối gia nhập vào giá cả và được xem như là nhân tố của sản xuất. 2/ Địa tô: Với địa tô, đó là phần nhận được của nhà tư bản sở hữu ruộng đất nông nghiệp khi cho thuê ruộng đất. Mặc dù không đảm nhiệm một chức năng nào trong quá trình sản xuất nhưng do dưới chủ nghĩa tư bản, ruộng đất được kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa nên địa tô được xem như là thu nhập của địa chủ trong phân phối tổng sản phẩm sản xuất ra. Đồng thời, nó cũng là đặc thù của phương thức sản xuất theo kiểu tư bản. *Nhận xét chung: Nghiên cứu quan hệ phân phối trong chủ nghĩa tư bản, chúng ta thấy đó thực sự là một hình thức phân phối bất bình đẳng do quan hệ giai cấp tạo nên. Sự bất bình đẳng này có nguyên nhân từ bản thân quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và do đó không thể khắc phục được. Những cải thiện trong phúc lợi xã hội của chủ nghĩa tư bản giai đoạn hiện nay chỉ là một thủ đoạn của giai cấp thống trị nhằm xoa dịu mâu thuẫn xã hội; làm cho công nhân và nhân dân lao động tưởng rằng họ được xã hội ưu đãi đầy đủ. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất càng phát triển, tự nó sẽ ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình trong việc đập tan quan hệ sản xuất đã lỗi thời và xây dựng nên một hình thái xã hội mới công bằng hơn. III/ Quan hệ phân phối trong chủ nghĩa cộng sản: Cái mà làm cho người ta phân biệt rõ nét nhất giữa các xã hội với nhau đó là hình thức phân phối của xã hội đó. Ví dụ, trong xã hội nguyên thuỷ, cuộc sống bầy đàn và sự phân chia sản phẩm lao động bình đẳng là nét đặc trưng tiêu biểu; còn trong xã hội tư bản, đó là chế độ tư hữu và sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc...chính vì vậy mà nhiều nhà kinh tế chính trị cổ điển như Ricacdo đã từng coi phân phối là đối tượng duy nhất của kinh tế chính trị học. Bởi vì, do trực quan họ thấy rằng những hình thái phân phối là biểu hiện rõ nhất ghi lại các nhân tố của sản xuất trong một xã hội nhất định. Chủ nghĩa xã hội đối lập mình với chủ nghĩa tư bản cũng lấy quan hệ phân phối làm điểm trọng yếu. Và sau đây, chúng ta hãy cùng nghiên cứu quan hệ phân phối trong xã hội xã hội chủ nghĩa để thấy được sự khác biệt của nó với chủ nghĩa tư bản. *Các hình thức phân phối trong chủ nghĩa cộng sản: Chủ nghĩa cộng sản, theo quan điểm của Mác, là hình thái xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, "đó không phải là một xã hội đã phát triển trên những cơ sở riêng của nó, mà trái lại, là một xã hội cộng sản vừa mới từ xã hội tư bản thoát ra; vì vậy, về mọi mặt kinh tế, đạo đức, trí tuệ, xã hội ấy còn mang những dấu vết của xã hội cũ, xã hội đã đẻ ra nó",Các Mác. Mác gọi đó là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản. Trong xã hội này, tư liệu sản xuất không còn là của riêng cá nhân nữa mà thuộc về toàn thể xã hội. Mỗi thành viên khi tham gia vào lao động sản xuất sẽ được trả công tương xứng với phần mình đã cống hiến cho xã hội, sau khi đã khấu trừ đi số lượng lao động góp vào quỹ chung của xã hội. Như vậy thì giữa các cá nhân sẽ không ngang nhau do sự khác biệt về trình độ, sức khoẻ... quyết định. Mác thừa nhận không thể thực hiện được công bằng và bình đẳng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Về mặt của cải, vẫn còn chênh lệch, mà những chênh lệch này là bất công. Tuy nhiên, sẽ không còn tình trạng người bóc lột người vì không còn ai được chiếm hữu tư liệu sản xuất, đất đai làm của riêng. Để đạt được điều này, vẫn cần có Nhà nước để vừa bảo vệ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất vừa bảo vệ quyền bình đẳng về lao động và bình đẳng trong việc phân chia các sản phẩm. Nhà nước sẽ tiêu vong chừng nào trong xã hội không còn có các giai cấp mâu thuẫn nhau về lợi ích, tức là không còn có giai cấp nào để trấn áp nữa. Để Nhà nước mất hẳn đi phải chờ đến chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn. Mác nói:" trong giai đoạn cao của xã hội cộng sản, khi mà con người không còn phụ thuộc một cách nô lệ vào sự phân công nữa, và sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay cũng theo đó mà không còn nữa; khi mà lao động sẽ không phải chỉ là một phương tiện để sinh sống nữa, mà tự nó sẽ biến thành một nhu cầu bậc nhất cho đời sống; khi mà lực lượng sản xuất cũng đã tăng lên cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân và tất cả những nguồn tài phú công cộng đều tuôn ra dồi dào, thì chỉ khi đó người ta mới có thể hoàn toàn vượt khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên là cờ của mình:"Làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu!". Theo quan điểm tư sản, người ta có thể xem chế độ xã hội như vậy là "thuần tuý ảo tưởng" và chế giễu việc xã hội chủ nghĩa đã hứa cho mỗi công nhân được quyền muốn lấy của xã hội bao nhiêu của cải cũng được mà không cần biết anh ta đã làm gì cho xã hội. Mà thực chất, đây là dự kiến lôgic của những nhà xã hội chủ nghĩa vĩ đại về một giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản sẽ đến, và việc đó lại giả định rằng năng suất lao động lúc đó sẽ khác năng suất lao động ngày nay, cũng như sự phát triển hoàn thiện hơn về năng lực cũng như phẩm chất của con người khi ấy. Trên đây chúng ta đã phân tích hai giai đoạn của hình thái xã hội cộng sản đó là xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Và chúng ta phải phân biệt được một cách khoa học sự khác nhau giữa hai giai đoạn này. Để từ đây chúng ta sẽ nghiên cứu về phân phối trong giai đoạn của nước ta hiện nay. Phần II: vai trò động lực của phân phối trong nền kinh tế thị trường ở việt nam. I/ Quan hệ phân phối trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay: Nước ta chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Mác. Tuy nhiên, để đạt tới chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lâu dài và gian khó. Nó đòi hỏi chúng ta không chỉ phải nỗ lực rất lớn mà còn cần phải có đường lối, chính sách đúng đắn, hiệu quả trong từng giai đoạn đi lên, đặc biệt là trong thời kỳ quá độ hiện nay. Sự phức tạp của thời kỳ quá độ thể hiện ở chỗ tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, mâu thuẫn nhau về lợi ích. Chính vì vậy mà việc quản lý nền kinh tế càng trở nên khó khăn hơn. Để phát triển nền sản xuất xã hội, việc sử dụng các quan hệ phân phối có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống các quan hệ kinh tế. Bởi vì như phần lý luận đã trình bày, chúng ta biết rằng phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực của sản xuất và trao đổi. Nó cũng có tính độc lập tương đối của nó và cũng tác động lại mạnh như thế đến cả sản xuất lẫn trao đổi. Vì vậy, nếu biết sử dụng đúng quan hệ phân phối sẽ tạo ra động lực to lớn không những làm phát triển nền kinh tế mà còn tạo ra được sự công bằng hơn trong xã hội. Tuy nhiên, ta cũng phải rất thận trọng vì nếu sử dụng không đúng đắn sẽ có thể gây ra những hậu quả nguy hại cho xã hội, làm ảnh hưởng tới con đường cách mạng của đất nước. 1/ Phân phối phải đảm bảo nguyên tắc công bằng: Trong điều kiện của đất nước ta hiện nay, khi mà nhân dân lao động đã được giải phóng; nó đòi hỏi một sự phân phối công bằng trong xã hội. Tuy vậy, chúng ta phải hiểu cho thấu đáo thế nào là "phân phối công bằng". Chủ nghĩa tư bản cũng cho rằng sự phân phối hiện nay của họ là "công bằng". Và trong thực tế, nếu xét trên cơ sở phương thức sản xuất hiện nay thì đó chẳng phải là sự phân phối duy nhất "công bằng" hay sao? Do vậy, khi đả kích chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản đă chế giễu cái sự công bằng trong xã hội chủ nghĩa, coi đó là một điều không tưởng sáo rỗng. Để chứng minh sự đúng đắn của mình, chúng ta phải quán triệt nội dung tư tưởng phân phối công bằng trong xã hội chủ nghĩa. Có phải phân phối công bằng là mọi người đều hưởng như nhau thành quả của lao động không? Như vậy thì những người không lao động cũng được hưởng như những người lao động ư? Hay chỉ thuộc về những người lao động, thế thì cái "quyền bình đẳng" của mọi thành viên trong xã hội sẽ ra sao? Chúng ta phải hiểu rằng cái xã hội mà ta đang xét là xã hội chủ nghĩa nhưng không phải ở giai đoạn cao trên những cơ sở của chính nó, mà là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản; do đó, nó còn mang dấu vết của cái xã hội đã đẻ ra nó. Với điều kiện xã hội như vậy thì sự công bằng chỉ nên thực hiện ở mức trả đúng, trả đủ cho người lao động căn cứ vào sự cống hiến của anh ta cho xã hội ( sau khi đã trừ đi những khoản chi phí, đóng góp nhất định). Như vậy, tính chất công bằng trong phân phối hàm nghĩa tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không phải là chủ nghĩa bình quân trong phân phối lượng sản phẩm xã hội tạo ra. Vì thế điều cần ghi nhận ở đây là sự chênh lệch về phân phối thu nhập không những không phải là bất bình đẳng mà trái lại, đó là sự bình đẳng, hiểu theo nghĩa là sự hợp lý nhất có thể. Tuy nhiên, chúng ta cũng đă từng không hiểu đúng về công bằng nên đã mắc sai lầm trong phân phối, làm trì trệ nền sản xuất đất nước. Đó là thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp. 2/Kinh nghiệm trong thời kỳ kinh tế tập trung: Đây là thời kỳ sau cách mạng thành công, do nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã mắc sai lầm trong vận dụng quan hệ phân phối của chủ nghĩa Mác. Trong điều kiện lực lượng sản xuất yếu kém do nền kinh tế đi lên từ nông nghiệp, tương ứng với nó là quan hệ sản xuất chưa phát triển, nước ta thực hiện chế độ công hữu toàn bộ tư liệu sản xuất và tiến hành phân phối theo kiểu "bao cấp"; điều này dẫn tới tình trạng "bình quân chủ nghĩa" và sản sinh ra hiện tượng trây lười, vô trách nhiệm của người lao động. Bởi vì trong giai đoạn quá độ, lao động chưa phải là "nhu cầu bậc nhất của con người". Những nguyên nhân này đẩy xã hội ta vào tình trạng trì trệ, nghèo nàn, chậm phát triển và khủng hoảng trong thời kỳ này. Qua đây ta cũng thấy được sức mạnh của quan hệ phân phối ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào. Sự vận dụng sai lệch quan hệ này gây ra những hậu quả thật nghiêm trọng. Tuy nhiên chúng ta xem đây là một sai lầm khó tránh khỏi khi thực hiện những cải cách lớn như vậy; đồng thời nó cũng là bài học kinh nghiệm đắt giá để cho chúng ta thấy được vai trò của mỗi quan hệ kinh tế trong xã hội. Chính từ đây mà chúng ta đã thận trọng hơn trong việc nghiên cứu những giải pháp cho quan hệ phân phối để từ đó phát huy được sức mạnh to lớn, vai trò động lực của quan hệ phân phối và đã mang lại sự phát triển ổn định cho sự phát triển của đất nước ta được như ngày nay. II/ Phương hướng cơ bản về phân phối trong thời kỳ quá độ: Trong tình hình khả năng và trình độ sản xuất còn quá thấp, nền kinh tế xã hội đang vấp phải vô vàn khó khăn, Đảng và nhà nước ta vẫn khẳng định: "phân phối phải nhằm ổn định và tiến lên từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, phải thể hiện ngay tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, cố gắng phấn đấu bảo đảm công bằng và hợp lý". 1/ Phân phối bảo đảm hình thành cơ cấu kinh tế mới: Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền nông nghiệp lạc hậu, tiểu thủ công nghiệp yếu kém, quan hệ phân phối phải có nhiệm vụ để hình thành một cơ cấu kinh tế mới, hiện đại sao cho phát huy được mọi tiềm lực kinh tế trong nước. Muốn vậy, phân phối phải tập trung đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Về chiều rộng, quan hệ phân phối mà nước ta xây dựng cho phép các hình thức phân phối (phân phối theo lao động; phân phối theo tài sản, vốn; phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội) phát triển bình đẳng với nhau. Tuy nhiên, về mặt chiều sâu, chúng ta đầu tư nhiều hơn cho hình thức phân phối theo lao động để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các hình thức khác vẫn được duy trì do nó phù hợp đặc điểm của thời kỳ quá độ và thực hiện nó cũng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 2/ Kết hợp khuyến khích lợi ích vật chất với giáo dục chính trị trong phân phối: Lênin đã chỉ: "phải xây dựng mọi ngành kinh tế quốc dân quan trọng trên cơ sở sự quan tâm thiết thân của cá nhân". Trước hết phải biết sử dụng nguyên tắc lợi ích vật chất để tác động thật tốt. Nguyên tắc đó không chỉ thể hiện ở chỗ có thu nhập thích đáng với kết quả lao động và hoạt động kinh doanh mà còn phải thể hiện rõ ở việc tự chịu trách nhiệm vật chất, có thưởng phạt công minh. Song song với khuyến khích lợi ích vật chất phải thường xuyên coi trọng việc giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa; nhận thức đúng đắn mối quan hệ hữu cơ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích chung toàn xã hội. Nguyên tắc này ngày càng trở nên quan trọng ở nước ta trong tình hình tư tưởng tàn dư. ý thức tư tưởng xã hội cũ để lại trong văn hoá mới, hệ tư tưởng mới đòi hỏi phải có quan tâm và thời gian. Do đó, giáo dục chính trị tư tưởng cần tiến hành thường xuyên và lâu dài mà trước tiên là phải làm cho mọi người nhận rõ nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm lao động. III/ Các hình thức phân phối cơ bản của nước ta hiện nay: Với mục đích về xây dựng một chế độ xã hội thực sự công bằng do nhân dân lao động làm chủ, đồng thời, do những đặc điểm của thời kỳ quá độ, nước ta có các hình thức phân phối sau: Thứ nhất, phân phối theo lao động. Thứ hai, phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác. Thứ ba, phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Trong các hình thức phân phối cơ bản này, phân phối theo lao động là cách chủ yếu, vì nó là thành quả của lao động, tác động trực tiếp vào tính cực của lao động xã hội. Bên cạnh đó, phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội. Hai cách phân phối này luôn đứng bên cạnh nhau và bổ sung cho nhau để góp phần giải quyết những yêu cầu chung của xã hội. Ngoài ra, các hình thức phân phối theo tài sản, vốn và các đóng góp khác trong giai đoạn hiện nay cũng trở thành một tất yếu, hợp quy luật. Để hiểu rõ hơn, sau đây, chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu từng hình thức phân phối. 1/ Phân phối theo lao động: *Tính tất yếu khách quan của quy luật phân phối theo lao động: Chủ nghĩa xã hội là một hình thức xã hội cao hơn, công bằng hơn chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu tưởng tượng rằng trong xã hội này, công nhân sẽ nhận được toàn bộ "giá trị" lao động của mình, tức là có thể đổi một giờ lao động này để lấy một giờ lao động khác, thì đó quả là một sự mơ hồ thiếu thực tế. Bởi vì, thực hiện sự trao đổi đó, tức là người ta đem phân phối toàn bộ sản phẩm. Người ta rút bỏ của xã hội cái chức năng tiến bộ quan trọng nhất của xã hội là tích luỹ. Người ta đem cái chức năng đó giao vào tay những cá nhân và để cho họ được tha hồ tuỳ ý. Cá nhân khi đó muốn sử dụng "thu nhập" của mình như thế nào cũng được. Xã hội như vậy thì việc tái sản xuất cũng rất khó thực hiện chứ chưa nói đến tái sản xuất mở rộng. Vì vậy, đối với thời kỳ quá độ của nước ta hiện nay, việc thực hiện phân phối theo lao động là thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này, mọi người đều có quyền bình đẳng ngang nhau về tư liệu sản xuất, khi đó, chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những người lao động với nhau thông qua việc lấy lao động làm thước đo. Đối với thành phần này, phân phối theo lao động là một tất yếu, bởi nhiều nguyên nhân: - Do dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nên chế độ người bóc lột người không còn nữa. Quyền làm chủ của người lao động được xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người. Vì thế mà phân phối theo lao động là phù hợp với quan hệ sản xuất của thành phần kinh tế này. - Tuy nhiên, trong thời kỳ này vẫn còn có sự khác biệt giữa các loại lao động như lao động trí óc, lao động chân tay, lao động phức tạp, lao động giản đơn... Do vậy, cần phải dựa vào số lượng và chất lượng của lao động để phân phối. - Trong điều kiện còn khó khăn của nước ta hiện nay, nền kinh tế chưa thể đạt mức phân phối theo nhu cầu. Trong điều kiện đó, để phân phối công bằng phải dựa vào lao động của mỗi người. Mặt khác, lao động chưa trở thành "nhu cầu bậc nhất của con người" mà còn là "phương kế sinh nhai" của mỗi người. Trong tình hình đó thì phân phối theo lao động là phù hợp với điều kiện đất nước. Qua đây chúng ta thấy rằng phân phối theo lao động là phù hợp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với trạng thái sản xuất và trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy việc thực hiện phân phối theo lao động có tác dụng thúc đẩy sản xuất ngày càng phát triển. Bởi vì thực hiện tốt phân phối theo lao động có nhiều tác dụng to lớn đối với xã hội và bản thân người lao động. Một là, nó đáp ứng được đòi hỏi cấp bách về "công bằng xã hội" đang đặt ra ở nước ta, nó kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích của sản xuất xã hội và lợi ích của từng cá nhân người lao động. Hai là, nó khuyến khích người lao động đi phát huy mọi năng lực của bản thân vào trong sản xuất. Điều này góp phần nâng cao trình độ người lao động và đồng thời xoá bỏ dần sự khác nhau giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Từ đó tăng dần sự thống nhất khối liên minh công-nông-trí thức, tăng cường sức mạnh thống trị của giai cấp công nhân trong xã hội chủ nghĩa. Ba là, tạo điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng nguồn sức lao động được ổn định trong cả nước, đảm bảo cho sản xuất xã hội phát triển cân đối và có kế hoạch. Bốn là, góp phần giáo dục quan điểm, thái độ, kỷ luật lao động với mỗi thành viên xã hội. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích vật chất của bản thân người lao động nên người lao động sẽ có ý thức hơn trong công việc của mình, từ đó mà ra sức đẩy mạnh sản xuất. 2/ Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác: Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một hình thức phân phối nhất định. Nếu thành phần kinh tế quốc doanh tập thể phân phối theo lao động, thì các thành phần kinh tế khác lại có những hình thức phân phối khác, rất đa dạng, rất khác nhau. Tuy nhiên, điều đó không làm mất tính định hướng xã hội chủ nghĩa bởi chúng ta đảm bảo nguyên tắc lấy phân phối theo lao động làm chính nhưng đồng thời sử dụng các hình thức phân phối khác, miễn là nó phù hợp với tình trạng nền kinh tế của đất nước và thực hiện nó có tác dụng tốt cho sự phát triển kinh tế xã hội cũng như phù hợp với lợi ích người lao động; người lao động bằng lòng chấp nhận nó. Điều này thể hiện ở hình thức phân phối theo tài sản, vốn, những đóng góp khác... Đây là hình thức phân phối thích hợp với điều kiện của đất nước ta trong giai đoạn quá độ. Vì do đặc điểm nước ta trong thời kỳ này là đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ. Tình trạng thiếu vốn, phân tán vốn là phổ biến. Quá trình sản xuất, tích tụ, tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn lại nằm trong tay người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ... Để sử dụng nguồn vốn này, chúng ta không thể sử dụng cách chính sách áp đặt như trưng thu, đóng góp cổ phần một cách bình quân. Những biện pháp đó chỉ làm suy yếu lực lượng sản xuất xã hội. Do đó, từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI), ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn dưới những hình thức như vay vốn, góp cổ phần không hạn chế, trả mức lãi hợp lý... Cách làm như vậy đã không những góp phần tăng lượng vốn vào quá trình chu chuyển mà khu vực kinh tế quốc doanh lại được sử dụng nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Đồng thời, mặc dù vốn của tư nhân nhưng sử dụng đã mang tính xã hội. Với quan điểm đổi mới này, chúng ta chấp nhận việc phân phối kết quả của sản xuất kinh doanh dưới hình thức "lợi tức" và "lợi nhuận", và pháp luật bảo vệ những thu nhập hợp pháp đó. 3/ phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội: Bên cạnh phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản, vốn được xem như những tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ của đất nước, để đảm bảo công bằng xã hội, nhất là đối với những người thiệt thòi trong xã hội, thì phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội là hết sức cần thiết. Mặt khác, ngay đối với mức sống của cán bộ, công nhân viên chức nhà nước... cũng không chỉ dựa vào lương cá nhân mà còn dựa một phần vào các quỹ phúc lợi công cộng của nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội khác. Mặc dù đây chưa phải là phân phối theo nhu cầu như trong giai đoạn cao trong chủ nghĩa cộng sản nhưng nó là một hình thức phân phối quá độ, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Vì vậy, thực hiện hình thức phân phối này có tác dụng đảm bảo công bằng hơn trong xã hội, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa những nhóm người có thu nhập khác biệt nhau, đồng thời kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. III/Các hình thức thu nhập cơ bản: Quan hệ phân phối thể hiện trên 2 mặt: phân phối tư liệu sản xuất và phân phối sản phẩm lao động. Là sản phẩm của phân phối tư liệu sản xuất, phân phối sản phẩm của lao động cũng có tính độc lập tương đối của nó và nó có vai trò to lớn trong việc tạo ra tính năng động, hiệu quả của hoạt động sản xuất xã hội. 1/Vị trí của phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường : Phân phối thu nhập đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, có thể xem xét vai trò của nó dưới các phương diện khác nhau. Thứ nhất, phân phối thu nhập có ảnh hưởng to lớn đối với sản xuất. Các-Mác đã từng nói tới vai trò phân phối đối với sản xuất trên phương diện sản xuất với sản xuất. Điều này có nghĩa là nó đảm bảo các yếu tố đầu vào cho các doanh nghiệp, đảm bảo các nguồn lực phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh để cung cấp hàng hoá trên trị trường sản phẩm. Sự phân phối các nguồn lực diễn ra thông suốt sẽ đảm bảo quá trình tái sản xuất được tiến hành một cách liên tục. Thứ hai, phân phối thu nhập quyết định sự tiêu dùng của các chủ thể yếu tố sản xuất thông qua phân phối thu nhập các chủ thể yêú tố sản xuất có được thu nhập để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường sản phẩm dịch vụ. Về cơ bản, qui mô phân phối quyết định quy mô tiêu dùng. Các chủ thể nhận được thu nhập nhiều nên mức tăng tiêu dùng sẽ càng cao hơn về tuyệt đối. 2/Các hình thức thu nhập thể hiện vai trò động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội: a.Hình thức tiền lương: Tiền lương là một phạm trù kinh tế, đó là sự biểu hiện bằng tiền của sản phẩm cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp Nhà nước được phân phối cho những người lao động dựa vào số lượng và chất lượng lao động mà họ đã hao phí trong quá trình sản xuất. Trong điều kiện nước ta hiện nay, tiền lương là một trong những chính sách phân phối thu nhập chủ yếu nhất bởi nó là thu nhập của phần lớn các thành viên trong xã hội. Việc thực hiện chế độ tiền lương sao cho công bằng, hợp lý, thể hiện được bản chất xã hội là hết sức quan trọng đối với đất nước. Tiền lương là thu nhập trực tiếp của người lao động, do đó, nó tác động ngay đến tính tích cực trong sản xuất của họ. Điều này đã được minh chứng rõ ràng trong thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp. Mọi người đều được trả lương như nhau trong khi có những người rất chăm chỉ còn số khác lại trây lười, ỉ lại. Vì thế những người chăm chỉ sẽ không muốn làm nữa gây nên tình trạng năng suất lao động rất thấp, quy mô sản xuất nhỏ hẹp, không mở rộng được. Nền kinh tế trên toàn xã hội thì ì trệ, lạm phát cao. Hiện nay, tiền lương được tính theo thành quả lao động của mỗi người. Do đó, người lao động vì lợi ích cá nhân mà quan tâm đến sản lượng, chất lượng lao động của mình hơn. Chính điều này đã làm năng suất lao động tăng lên trông thấy, sản phẩm dồi dào, tổng thu nhập quốc dân tăng lên đáng kể, mức sống chung của toàn xã hội cũng tăng lên. Như vậy, rõ ràng là hình thức tiền lương có vai trò động lực rất to lớn trong việc phát triển nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay không phải không tồn tại những bất cập, thiếu sót. Nói chung, xu hướng là gia tăng mức tiền lương nhờ tăng năng suất lao động, nhưng đồng thời lại gia tăng sự khác biệt về mức lương giữa những người lao động khác nhau. Cho nên việc thường xuyên xem xét, sửa đổi các chính sách tiền lương cho phù hợp là rất cần thiết. b. Tiền công lao động: Tiền công lao động là hình thức trả công lao động trong các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tập thể. Trong thành phần kinh tế tập thể, để đảm bảo bình đẳng giữa mọi người, phải căn cứ vào lao động để trả công. Do vậy, tiền công lao động là thu nhập hợp lý của những người làm việc trong các tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế tập thể. c. Lợi tức và lợi tức cổ phần: Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, đã và đang xuất hiện các doanh nghiệp và công ty cổ phần trong nhiều ngành và nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau. Do vậy, việc tồn tại của hình thức phân phối thu nhập dưới dạng lợi tức và lợi nhuận là phù hợp với cơ chế kinh tế mới theo tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước. *Lợi tức: Nếu xét về nội dung kinh tế thì lợi tức là một trong những hình thức chuyển hoá của sản phẩm thặng dư. Nguồn gốc của lợi tức là một phần lợi nhuận được sản xuất ra từ doanh nghiệp. Giá cả của tiền vay thể hiện ở mức lợi tức. Đó là tỷ lệ phần trăm giữa số lợi tức và số tiền tệ cho vay. Mức thực tế của tỷ suất lợi tức do quan hệ cung cầu về lượng tiền tệ cho vay ở từng giai đoạn khác nhau trên thị trường tiền tệ quyết định *Lợi tức cổ phần: Lợi tức cổ phần là thu nhập trả cho các chủ cổ phiếu. Lượng lợi tức cổ phần trả cho các cổ phiếu phụ thuộc vào lượng lợi nhuận thu được và vào số lượng cổ phiếu đã phát hành. Lượng lợi tức cổ phần trả cho các cổ phiếu phụ thuộc vào lượng lợi nhuận mà công ty cổ phần thu được trong năm. Trong tình hình hiện nay, việc sản xuất kinh doanh còn nhỏ hẹp và kém hiệu quả do thiếu vốn đầu tư. Mặt khác, dân cư luôn luôn có một khối lượng tiền tệ nhàn rỗi không được sử dụng. Để phát huy được nguồn vốn này phải có hình thức khuyến khích và trả công thích đáng cho người đầu tư. Lợi tức và lợi tức cổ phần tỏ ra thoả mãn yêu cầu này. Vì vậy, chúng ta chấp nhận đây là hình thức thu nhập hợp pháp trong thời kỳ quá độ ở nước ta, nó thực sự ích nước, lợi nhà đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. d. Thu nhập từ các quỹ tiêu dùng công cộng: Ngoài những thu nhập của người lao động bằng tiền lương, tiền công lao động dựa trên cơ sở số lượng và chất lượng lao động đóng góp cho xã hội, cũng như các khoản thu nhập bằng tiền thông qua các hình thức "lợi tức", "lợi nhuận cổ phần" dựa trên cơ sở số lượng vốn tiền tệ và tài sản họ đóng góp vào sản xuất, thì lao động còn được nhận từ các quỹ tiêu dùng chung của xã hội những khoản nhất định như: tiền trợ cấp, tiền bảo hiểm và các khoản chi trả ưu đãi khác( học hành, thưởng thức văn hoá, nghệ thuật...). Là hình thức thu nhập bổ sung vào tổng thu nhập của mỗi thành viên trong xã hội, thu nhập từ các quỹ tiêu dùng công cộng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo công bằng xã hội, góp phần làm giảm chênh lệch giàu nghèo giữa các nhóm người có thu nhập khác nhau; thể hiện bản chất ưu việt của xã hội mới mặc dù điều kiện thu nhập thực tế còn nhiều khó khăn. IV/ Giải pháp cho vấn đề phân phối thu nhập ở nước ta nhằm phát huy vai trò động lực của quan hệ phân phối : Quá trình đổi mới trong chính sách phân phối (từ sau thời kỳ bãi bỏ chế độ kinh tế tập trung) đã đem lại những thành quả đáng kể cho nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, sự tồn tại của những bất cập là không thể tránh khỏi. Bởi vì cơ chế thị trường không chỉ tạo ra thị trường lao động, tạo bước phát triển về phân công, đa dạng hoá lao động xã hội, tạo môi trường khách quan thông qua trả công lao động, Nhà nước có cơ sở để điều tiết vĩ mô trên nguyên tắc phân phối theo lao động. Cơ chế thị trường cũng phát sinh những quan hệ, những mâu thuẫn mới gay gắt giữa thành phần kinh tế quốc doanh-tập thể, với đối thủ cạnh tranh của nó là các thành phần kinh tế- cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nước ngoài. Có thể nói đây là mâu thuẫn cơ bản đang vận động, đang chuyển hoá làm phát sinh những nghịch lý trong xã hội ta. Một là, trong khi cần phải có thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể mạnh, làm cơ sở cho định hướng xã hội chủ nghĩa, thì kinh tế quốc doanh lại lâm vào tình trạng trì trệ, yếu kém, thua lỗ. Kinh tế tập thể hầu như bị giải thể hoặc chuyển hoá thành kinh tế hộ gia đình tư nhân. Hiện nay vẫn chưa có giải pháp tối ưu nào cho thành phần kinh tế này. Chắc chắn các thành phần kinh tế này phải tự vươn lên trong cạnh tranh để khẳng định vai trò của mình. Hai là, ta cần thành phần kinh tế quốc doanh mạnh làm cơ sở kinh tế để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Nhưng thực tế là trước sự tự do hoá thị trường, đã diễn ra những thay đổi lớn trong cơ cấu sản xuất và thu nhập giữa hai khu vực kinh tế quốc doanh giảm tương đối, và xu hướng tăng rõ rệt của khu vực tư nhân. Điều này dẫn đến sự thu hẹp phạm vi tương đối số lượng lao động, nhân viên trong khu vực Nhà nước, mà lao động trong khu vực tư nhân lại tăng nhanh. Vì thế vai trò can thiệp của Nhà nước bằng luật lao động vào tiền lương tạo ra được sự phân phối công bằng theo lao động cũng vẫn là một bài toán khó. Ba là, ta cần thành phần kinh tế quốc doanh-tập thể mạnh làm cơ sở tạo lập một cơ sở hạ tầng định hướng xã hội chủ nghĩa. Không có được cơ sở hạ tầng như thế thì sẽ không có một Nhà nước vô sản, của dân, do dân, vì dân được. Trong nền kinh tế tập trung, mối quan hệ này tỏ rõ tính đồng nhất, tương quan phù hợp, sự tương tác ăn khớp nhịp nhàng. Trong cơ chế thị trường, sự biến động trong cơ cấu thành phần, đa dạng, phức tạp và xu thế tăng của khu vực tư nhân, cá thể, tư bản tác động trực tiếp ngay vào sự ra đời một Nhà nước cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Mặc dù mâu thuẫn còn nhiều nhưng mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa thì nhân dân ta không bao giờ từ bỏ. Phân phối theo lao động rõ ràng là động lực to lớn thu hút quần chúng nhân dân vào công cuộc xây dựng xã hội mới từ sau chiến tranh. Những vấp váp thất bại trên con đường đi gian khó là những bài học quý giá để chúng ta vững vàng hơn trong những bước tiến mới. Trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta sáng tạo vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động của Mác vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu cách mạng, với bài học đã có, tạo ra động lực to lớn cho sự nghiệp giải phóng của quần chúng lao động, nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng một xã hội mới công bằng, không có người bóc lột người, không có chỗ cho tội ác, thói xấu, tham lam, ích kỷ... trả lại giá trị nhân bản cho con người. Giải pháp toàn bộ cho vấn đề này là phải thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa ba nhân tố: Nhân tố thứ nhất, kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa chứa hai xung lực: khu vực kinh tế quốc doanh- tập thể và khu vực tư nhân, cá thể, tư bản. Nhân tố thứ hai là cơ chế thị trường chứa hai xung lực: sức mạnh thị trường và những tiêu cực của nó tác động vào cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội. Nhân tố thứ ba là Nhà nước được tạo dựng trên cơ sở hạ tầng và tác động trở lại cơ sở hạ tầng xã hội. Trong cơ chế thị trường, vai trò của Nhà nước thông qua sự lãnh đạo của Đảng được xem là nhân tố hàng đầu, nhân tố chủ quan. Nhà nước quản lý xã hội, hành pháp và tư pháp, có nghĩa vụ tập hợp toàn bộ nguồn lực trong và ngoài nước nhằm phát triển toàn diện kinh tế xã hội. Hai nhân tố cơ sở kinh tế- thị trường hợp thành nhân tố khách quan của xã hội. Mối quan hệ biện chứng chủ quan - khách quan, đứng về mặt nhận thức khách quan là tính thứ nhất, cái quyết định. Nhưng trong thực tiễn cải tạo đất nước, vai trò chủ quan lại nổi lên hàng đầu. Khẳng định điều này, Mác đã nói: "lực lượng vật chất chỉ có thể đánh bại bởi lực lượng vật chất thôi, nhựng lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng". Lênin cũng từng nêu: " Người cách mạng, người cộng sản ý thức được xu thế của thời đại, phải tự giác bắt tay vào xây dựng xã hội mới, không trông chờ hoàn cảnh chín muồi đến, mà phải biết cải tạo hoàn cảnh". Vận dụng vào điều kiện nước ta, việc xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa xã hội bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá; kết hợp những bước tiến tuần tự với đi tắt đón đầu để có sự phát triển nhanh và bền vững. Nhiệm vụ của lĩnh vực phân phối là phải đảm bảo cho thành phần kinh tế quốc doanh phát triển, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế tập thể, đủ sức chi phối dắt dẫn các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo ra cơ sở kinh tế xã hội để thực hiện phân phối và mở rộng phân phối theo lao động trong xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội. Phải đặc biệt chú ý tới vai trò của Nhà nước trong việc không ngừng đổi mới hệ thống chính sách sao cho phù hợp với điều kiện mới. Ví dụ trong chính sách tiền lương, chúng ta cũng biết rằng việc xếp lương là công việc khó khăn có quan hệ tổng hợp tới nhiều mặt của đời sống, trực tiếp đến nhiều người, không thể thực hiện một lần là xong. Nhưng vấn đề ở đây là phải làm sao có những cải cách nhanh chóng trong từng thời kỳ. Lương là phương thức chủ yếu trả công lao động không chỉ phải công bằng, còn phải khuyến khích tạo ra động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Bên cạnh chính sách về tiền lương, các chính sách về tiền công lao động cũng phải ngày càng hoàn thiện để đảm bảo công bằng cho người lao động. Điều đó không chỉ có ý nghĩa đối với người lao động mà còn có ý nghĩa xã hội vì sự công bằng là tiền đề cho phát huy năng lực cá nhân và là điều kiện để phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra, các chính sách về phúc lợi xã hội phải đảm bảo tăng thu nhập cho những nhóm người có mức sống thấp trong xã hội. Góp phần thu hẹp hố ngăn cách giàu nghèo trong xã hội, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của con người cũng như sự phồn vinh của xã hội. Tổng kết Phân phối chiếm một vị trí quan trọng, không thể thiếu được trong nền sản xuất xã hội. Hình thức phân phối thể hiện bản chất của chế độ xã hội. Phân phối tác động trực tiếp đến mọi ngành, mọi đơn vị kinh doanh, mọi mặt đời sống và mọi người trong xã hội. Do đó trong thời kỳ quá độ, nhà nước phải biết sử dụng quan hệ phân phối như một công cụ đắc lực để tác động đến sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bằng chính sách huy động, phân phối vốn đúng đắn, chính sách về tiền lương, tiền thưởng năng suất chất lượng... Nhà nước có thể hướng dẫn, kích thích các đơn vị kinh doanh tích cực áp dụng thành tựu cách mạng khoa học kỹ thuật, từ đó tác động có hiệu quả vào cơ cấu kinh tế mới. Mặc dù trình độ sản xuất còn thấp, mức sống chưa cao, nhưng nếu nhà nước biết khéo léo sử dụng công cụ phân phối vẫn có thể thể hiện tính ưu việt của chế độ mới. Một mặt, nhà nước có thể tận dụng được khả năng của xã hội để phân phối hợp lý, không để lãng phí, không để rơi vào tay kẻ bất lương. Nhà nước còn có thể thông qua các biện pháp phân phối và phân phối lại thu nhập để đảm bảo công bằng hơn trong xã hội, đảm bảo cho sự phát huy, phát triển bình đẳng năng lực của mọi thành viên trong xã hội. Tiến lên chủ nghĩa cộng sản, trong đó quyền bình đẳng thực sự trong xã hội, tức là nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", được thực hiện. Trong giai đoạn đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay, do sự tồn tại của nhiều giai cấp, tầng lớp với lợi ích còn chưa thống nhất nên lao động chưa thể là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ, là "phương kế sinh nhai" của mọi người. Do đó, trong xã hội còn có sự khác biệt về mức sống, vị trí giữa các thành viên dựa trên cơ sở mức đóng góp của mỗi người vào xã hội. Mặc dù vậy, ta chấp nhận hình thức phân phối này vì nó phù hợp với quan hệ sản xuất của nước ta. Thực hiện nó có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhanh của xã hội đến một giai đoạn cao hơn, văn minh hơn. Đồng thời, vai trò của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế thị trường nhằm định hướng đúng cho sự đi lên của xã hội. Tài liệu tham khảo. 1/Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Tập II - Đại học Kinh tế quốc dân) 2/ Đề cương bài giảng Kinh tế chính trị. 3/ Giáo trình dùng cho các lớp đào tạo cán bộ lãnh đạo cơ sở của Đảng và Nhà nước. ( Phần IV- Những vấn đề cơ bản về kinh tế ở nước ta hiện nay) 4/ Bàn về phân phối. ( Cácmác - Ph.Anghen - J.Stalin) 5/ Tư bản - quyển 3 - tập 3. ( Toàn bộ quá trình của sản xuất tư bản chủ nghĩa ) 6/ Tuyển tập - Cácmác-Anghen ( Tập 4) 7/ Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường. 8/ Phê phán các cương lĩnh Gôta và Ecphuya ( Cácmác - Anghen) 9/ Tạp chí lao động và xã hội Số 2/2000. 10/ Tạp chí nghiên cứu kinh tế ( Số 253/262) Mục lục: Lời nói đầu ...............................................................................................1 Phần I: lý luận chung về phân phối...........................................................3 I-Bản chất, vai trò và cơ sở kinh tế của quan hệ phân phối ......................3 1-Bản chất của phân phối .........................................................................3 2-Vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội ...................................4 3-Cơ sở kinh tế của sự phân phối ..............................................................6 II-Phân phối dưới chủ nghĩa tư bản...........................................................7 1-Lợi nhuận và lợi tức...............................................................................8 2-Địa tô.....................................................................................................8 III- Quan hệ phân phối trong chủ nghĩa cộng sản.....................................9 Phần II- Vai trò động lực của phân phối trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam ........................................................12 I-Quan hệ phân phối trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay................12 1-Phân phối phải đảm bảo nguyên tắc công bằng...................................12 2-Kinh nghiệm trong thời kỳ kinh tế tập trung.......................................13 II-Phương hướng cơ bản về phân phối trong thời kỳ quá độ...................14 1-Phân phối bảo đảm hình thành cơ cấu kinh tế mới..............................14 2-Kết hợp khuyến khích lợi ích vật chất với giáo dục chính trị trong phân phối .....................................................................................15 III-Các hình thức phân phối cơ bản của nước ta hiện nay.......................15 1-Phân phối theo lao động......................................................................16 2-Phân phối theo tài sản và những đóng góp khác..................................18 3-Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội..19 III-Các hình thức thu nhập cơ bản...........................................................19 1-Vị trí của của phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường............19 2-Các hình thức thu nhập thể hiện vai trò động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội .................................................................... ..20 IV-Giải pháp cho vấn đề phân phối thu nhập ở nước ta nhằm phát huy vai trò động lực của quan hệ phân phối..............................................20 Kết luận...................................................................................................26

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50771.DOC
Tài liệu liên quan