Tài liệu Đề tài Vai trò của việc phát triển kinh tế nông thôn trong phát triển kinh tế quốc dân: I. LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Một đất nước bị chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được đó là phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng hợp lý máy móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phá...
28 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1032 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vai trò của việc phát triển kinh tế nông thôn trong phát triển kinh tế quốc dân, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Một đất nước bị chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được đó là phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng hợp lý máy móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô hình sản xuất phù hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa học cũng phải chú ý bảo vệ môi trường phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế của đất nước phát triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới. Từng bước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong khu vực trên thế giới.
II. NỘI DUNG
I. VAI TRÒ CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Quan niệm về nông nghiệp, nông thôn
- Nông thôn: Là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, nông thôn có thể được xem xét trên nhiều góc độ về kinh tế, chính trị, văn hoá…Nông thôn không đơn thuần là khu vực xã hội mà cũng là khu vực kinh tế - kinh tế nông thôn trong địa bàn nông thôn ngoài nông nghiệp cũng có công nghiệp dịch vụ thường gọi là các hoạt động phi nông nghiệp.Việc phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn đồng thời cũng là tăng tỷ lệ hoạt động phi nông nghiệp.
- Kinh tế nông thôn: là một khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn, kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung của nền kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế kinh tế… vừa có những đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp và nông thôn. Xét về mặt kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều ngành: nông nghiệp, lâm nghiệp, tiêu thụ công nghiệp,dịch vụ...nhưng nếu xét về mặt kinh tế xã hội kinh tế nông thôn cung bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tập thể …xét về không gian lãnh thổ bao gồm các vùng chuyên canh và vùng độc canh…
-Nông nghiệp: Theo nghĩa hẹp nó là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng vật nuôi đã rạo ra sản phẩm như lương thực, thực phẩm. Nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Như vậy: Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tư nhiên. Nông nghiệp cũng là ngành sản xuất có năng suất lao động thấp, là ngành sản xuất mà việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ còn gặp nhiều khó khăn vì thế nông nghiệp cần được nhà nước quan tâm hơn nữa để không còn hiện tượng đựơc mùa mà thu nhập của nông dân không tăng. Nêu trường hợp này vẫn bị xảy ra liên tục trong nhiều mùa sẽ làm mất đi động lực phat triển của nông nghiệp.
2. Vai trò của nông nghiệp, nông thôn
- Cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội.
Đây là một nhu cầu thiết yếu của con người không thể thiếu lương thực, thực phẩm.sự phỏt triển của nông nghiệp có ý nghĩa quam trọng là cơ sở phát triển các mặt khác của đời sống xã hội.
- Cung cấp nguyên liệu đi phát triển công nghiệp nhẹ
Nhưng ngành công nghiệp nhẹ: chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp dệt.Tăng trưởng của các nganh công nghiệp nhẹ phụ thuộc vào tăng trưởng của số lượng nguyên liệu.
- Cung cấp một phần vốn để công nghiệp hoá.
Vốn có vai trò cực kì quan trọng trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Là một nước nông nghiệp do vậy phat triển kinh tế nông thôn sẽ gúp phần tăng thêm đồng vốn cho đất nước.
-Nông nghiệp, nông thôn là thị trường quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu nông nghiệp, nông thôn phần lớn tập trung lao động, dân cư do đó đây là thị trường quan trọng của công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp nông thôn càng phát triển thì nhu cầu về hàng hoá, tư liệu sản xuất như: thiết bị nông nghiệp, điện năng, phân bón… càng tăng. Mặt khác sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn làm cho mức sống, mức thu nhập của dân cư nông thôn càng tăng lên. Nhu cầu về sản phẩm công nghiệp ti vi, tủ lạnh, xe máy… và nhu cầu dịch vụ, văn hoá, y tế, giáo dục… cũng tăng hơn.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.
Phát triển kinh tế nông thôn là cơ sở ổn định để phát triển nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn phát triển kinh tế từ tình trạng lạc hậu đến văn minh và tiến bộ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đã cho thấy: Kinh tế nông thôn với nội dung kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng và thuỷ sản ở giai đoạn đầu khi công nghiệp và đô thị còn chưa phát triển đã giữ vị trí bao trùm. Song cùng với sự gia tăng mức độ công nghiệp hoá và đô thị hoá nền kinh tế, kinh tế nông thôn dần thu hẹp cả về nội dung sản xuất nông nghiệp và không gian lãnh thổ. Hoạt động nông nghiệp dã có hàng nghìn năm kể từ khi con người từ bỏ săn bắn hái lượm tự nhiên để kiế sống.
Vì vậy lịch sử phát triển sản xuất nông nghiệp là lâu đời, chứa đựng nhiều yếu tố truyền thống, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ với các điều kiện tự nhiên như: đất dai, môi trường sinh thái và đặc điểm sinh học của cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, các điều kiên này lại rất khác nhau giữa các vùng, làm cho tính chất của sản xuất vừa có điểm giống nhau lại vừa có điểm rất khác nhau giữa các vùng lãnh thổ. Đặc điểm trên đây giải thích tại sao kinh tế nông thôn mang tính bảo tồn rất cao, khó thay đổi những phương pháp sản xuất truyền thống mặc dù trong những điều kiện nhất định đã tự thể hiện tính lỗi thời.
Lý luận và thực tế đã chứng minh rằng nông nghiệp đóng vai trò to lớn trong phát triển kinh tế. Trừ một vài ngoại lệ có tính đặc thù rất cao, hầu hết các nước đã phải dựa vào sản xuất nông nghiệp để tạo ra một sản lượng lương thực cần thiết, đủ nuôi sống dân tộc mình vào tạo nền tảng cho các ngành các hoạt động kinh tế khác phát triển.
Từ những chứng minh trên ta đã có thể thấy rõ sự quan trọng của việc phát triển kinh tế nông thôn mỗi quốc gia, đặc biệt là với một nước nông nghiệp như Việt Nam thì việc thúc đẩy kinh tế nông thôn càng quan trọng hơn nó quyết định sự phát triển kinh tế, sự giàu mạnh của đất nước.
II. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NÔNG THÔN
Trong quản lí nhà nước, quản lí nhà nước giữ về kinh tế quan trọng, bởi vì lịch sử phát triển kinh tế thế giới đó khẳng định rằng không khi nào và không ở đâu có nhà nước phi kinh tế, đứng bên trên hay bên ngoài kinh tế. Các hoạt động của nhà nước đều hoặc tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động của nền kinh tế: mặt khác bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò quản lí nền kinh tế quốc dân thông qua các công cụ quản lí và can thiệp bằng hệ thống thể chế, chính sách để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế tự thân vận động nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn và theo quỹ đạo đó lựa chọn. Điều khác nhau cơ bản giữa các quốc gia là nhà nước quản lý nền kinh tế như thế nào về hình thức, mức độ can thiệp, điều tiết ra sao, và đến đều là hợp lý và thoả mãn được các yêu cầu để đạt tới mục tiêu đã đặt ra. Thực tiễn cũng đã chứng minh rằng không có một mô hình quản lí nào đúng cho mọi quốc gia, vì vây mỗi nước phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị xã hội, điều kiện cụ thể về các nguồn lực để lựa chọn các giải pháp phát triển hữu hiệu nhất cho nước mình va đua ra nhung chinh sỏch phu hop.
1. Những chính sách ruộng đất.
Đối với nông nghiệp, nông thôn thì ruộng đất là quan trọng nhất đối với người dân. Vì vậy để phát triển được nông nghiệp, nông thôn thì Nhà nước cần phải có những chính sách khuyến khích nông dân thực hiện "dồn điền, dồn thửa" và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
2. Chính sách đầu tư
Sản xuất trong nông nghiệp đạt hiệu quả cao thì cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình sản xuất phải đầy đủ, mà đối với nông nghiệp nông thôn việc xây dựng công trình thuỷ lợi, hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp điện… vượt ra ngoài khả năng do vậy Nhà nước nên có chính sách đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn nhằm phát triển một cách tổng thể.
3..Chính sách đào tạo cho lao động ở nông thôn
Ngày nay là thời đại của khoa học công nghệ vì vậy để áp dụng được những biện pháp khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất buộc người lao động phải nâng cao trình độ khoa học kĩ thuât do vay nhà nước cần có nhưng chinh sách đào tạo lao động nhằm mục tiêu tăng năng suất lao động,
4.Chính sách phát triển thị trường nông thôn
Bằng cách mở rông thị trường buôn bán ở nông thôn, tăng khả năng xuât khẩu lương thực thực phẩm, mở rông các thị trường buôn bán.
5. Chính sách cơ sở hạ tầng
Xây dưng thêm các trung tâm buôn bán giao dịch phục vụ cho quá trình trao đổi hàng hóa của người dân trong và ngoài nước. Đông thời nâng cấp nhưng công trình đã lâu năm.
6. Chính sách khoa học - công nghệ
Vì nước ta còn nghèo nên việc tiếp cận với khoa học công nghệ thông tin ứng dụng vào sản xuất phát triển nông nghiệp còn thấp. Do vậy phát triển nong nghiệp, nông thôn cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đưa ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Những chính sách đó sao cho phù hợp với yêu cầu sản xuất từng vùng, địa phương ngoài ra còn phải xuất phát từ những nhu cầu thị trường thế giới
7. Chính sách xã hội
Kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển tạo điều kiện phát triển văn hoá - xã hội đồng thời sự phát triển của cơ chế thị trường làm nảy sinh các vấn đề xã hội: dư thừa lao động, phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội…
Do vậy Nhà nước cần phải có những chính sách hạn chế vấn đề xã hội,… Đẩy mạnh phát triển hoạt động văn hóa nông thôn, phát triển y tế, giáo dục.
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP, HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
1. Thế nào là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn
Công nghiệp hoá hiện đại hoá và nông thôn được thế giới định nghĩa theo nhiều cách khác nhau đó chính là một quá trình lâu dài cần được tiến hành theo cách tuần tự không thể nóng vội, không thể tuỳ tiện. Quá trình này được thực hiện không nhằm mục đích tự thân mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của nông thông cũng như của cả nước. Nhưng đối với một nước khoa học công nghệ, kinh tế Nhà nước giữ vait rò chủ đạo thì Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định: công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Khái niệm công nghiệp hoá này được Đảng ta xác định rộng hơn những quan niệm trước đó bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như vậy công nghiệp hoá mới teo tư tưởng mới không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Theo tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Hội nghị Trung ương lần thứ VII công nghiệp hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn, tạo nền tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là quá trình phức tạp không đơn giản, vì vậy Đảng và Nhà nước phải đưa ra những chiến lược bước đi cụ thể và hiệu quả. Bước đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế lao động thủ công. Nông thôn Việt Nam luôn mang nặng tính thủ công trong sản xuất nông nghiệp vì vậy để thay đổi tập quán, cách làm của nông dân là bước đi vô cùng khó, phải thực hiện theo từng bước đi từ từ chậm chạp. Đưa dần phương pháp sản xuất bằng máy móc để con người dần tiếp nhận phương pháp sản xuất này.Không thể đột ngột thay thế phương pháp sản xuất thủ công bằng phương pháp máy móc ngay được như thế sẽ gây ra sự lúng túng của người sử dụng cũng như người hướng dẫn sử dụng. Người cần sử dụng máy móc lại không biết cách sử dụng hoặc lúng túng trong cách sử dụng vì vậy gây nên sự lãng phí máy móc thiết bị. Sau khi đưa máy móc thiết bị vào sử dụng cũng cần phải có phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với các loại công nghệ và thiết bị. Máy móc khoa học là những thành tựu sáng tạo của con người, chúng không tự bảo quản, không chống lại sự hao mòn vì vậy phải có bàn tay con người bảo quản cho nó. Ngoài ra quản lý, sử dụng máy móc sao cho hợp lý tiết kiệm tiền của, tránh lãng phí cũng cần phải học, phải có phương pháp khoa học hiện đại. Đó là cả một quá trình đào tạo chính quy và có quy mô. Nhưng khi có máy móc hiện đại, trang thiết bị được quản lý tốt mà cơ sở vật chất nghèo không phù hợp thì cũng không có hiệu quả. Vì vậy phải tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị mới vào nông thôn.
Như vậy, công nghiệp hoá nông thôn không có nghĩa là chỉ phát triển công nghiệp ở nông thôn mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lực lượng sản xuất dịch vụ và đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn và cả nước nói chung.
Công nghiệp hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp và các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp hoá nông thôn còn bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chúng.
Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cải thiện tổ chức sản xuất và hoàn thiện đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ. Hiện đại hoá nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn mà con bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội hệ thống giáo dục đào tạo y tế, các dịch vụ phục vụ đời sống khác ở nông thôn.Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hoá hoàn toàn không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ cũng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp lên ngang tầm với trình độ thế giới.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có liên quan mật thiết với nhau, chúng tương tác với nhau, sự khácnhau giữa chúng chỉ mang tính tương đối, vì chúng có nội dung đan xen vào nhau, bổ sung cho nhau để mục đích cuối cùng là đưa kinh tế nông thôn phát triển đi lên ngang tầm với thế giới.
2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn
Nước ta đi từ xã hội phong keíen phát triển đi thẳng lên chế độ xã hội chủ nghĩa mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa vì vậy cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu, phương thức quản lý lỏng lẻo yếu kém. Nhiệm vụ quan trọng nhất bức thiết được đặt ra là phải xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời gian quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư có mức thu nhập thấp, nghèo đói, sức mua hạn chế nếu không muốn nói là không thể mua nối hàng hoá cho tiêu dùng.Một đất nước sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp lạchậu, canh tác trên ruộng đất nghèo nàn, cơ sở vật chất thô sơ, tự chế tạo là chính. Đời sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, lại bị chiến tranh và xã hội phong kiến tàn phá, Đảng và Nhà nước như bước lên từ con số không. Vì vậy nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá để tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
Để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chính là người lao động. Con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá con người sáng tạo ra máy móc, bảo quản máy móc, con người luôn muốn nâng cao trình độ của mình hay là nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất. Nhưng để biến đổi về chất lực lượng sản xuất là một điều vô cùng khó khăn mà không dễ gì thực hiẹn được, nhưng quá trình công nghiệp hoá lại tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi căn bản lực lượng sản xuất, nâng cao vai trò của lực lượng sản xuất nhờ đó cũng làm nâng cao vai trò của người lao động.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công chính là khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức. Nhưng khối liên minh này cần phải được củng cố và phát triển đi lên chứ không thể chỉ là khối ô hợp. Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển là nhờ thành tựu công nghiệp hoá mang lại, là cơ sở kinh tế để càng gia cố vững chắc thêm khối liên minh. Ngoài ra quá trình công nghiệp hoá đã góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước.
Quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự công nghiệp hoá đất nước thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng các miền trở lên thống nhất cao hơn. Công nghiệp hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội. Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nước ta
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực tiễn cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trước hết là nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệuq ủa, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp cũng chính là phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công lạchậu thành lao động sử dụng máy móc tức là phải cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân. Nền nông nghiệp với kỹ thuật thủ công, lao động chân tay thì không thể gọi là nền nông nghiệp phát triển được, nhất là nền nông nghiệp đó lại phải gánh trên vai cả một nền kinh tế. Nông nghiệp lạc hậu làm cho đời sống của nhân dân nghèo đói bởi kinh tế Việt Nam sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp, 80% dân cư làm nông nghiệp đã khiến cho đất nước càng ngày càng thụt lùi không phát triển. Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu là phải chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp hoá. Nhưng cách mạng công nghiệp không chỉ là chuyển đổi cơ cấu thủ công sang cơ khí mà phải gắn liền với điện khí hoá và tự động hoá sản xuất từng nước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra thị trường cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong lĩnh vực tiêu thụ hàng hoá nông sản phẩm. Vì vậy phải thúc đẩy hình thành và mở rộng các loại thị trường bao gồm thị trường sản phẩm, ngoài ra còn phải có các loại thị trường như thị trường vốn, lao động, công nghệ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây dựng nền dân chủ công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. Đất nước ta phần lớn là lao động trong nông nghiệp cơ cấu khu vực I quá lớn trong khi đó khu vực II lại quá nhỏ bé. Lao động trong nông nghiệp dư thừa thường không biết làm gì dẫn đến lãng phí tài nguyên con người. Vì vậy mục tiêu chính quan trọng nhất là phải thu hẹp lực lượng sản xuất trong nông nghiệp bằng cách đưa máy móc thiết bị vào thay thế một số vị trí lao động của con người. Máy móc hiện đại làm tốn ít nhân lực hơn, con người lao động cũng được giám bắt khối lượng công việc từ đó tăng nhanh lực lượng lao động của các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Các số liệu thực tiễn phản ánh tình hình thực tiễn CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn hiện nay. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng, đặc biệt là lương thực, nhưng chất lượng nông sản còn thấp, khả năng cạnh tranh yếu, hiệu quả thấp.
Từ năm 1981 đến nay, nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình quân 4,5% năm là tốc độ khá cao.
Ngoài ra đã hình thành nên các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung như: lúa, cao su, cà phê, điều, mía, rau quả, lợn, bò, tôm, cá nhưng nhìn chung sản xuất còn phân tán, quy mô sản xuất hộ gia đình còn nhỏ. Hiện nay cả nước có gần 10 triệu hộ gia đình nông sân với đất nông nghiệp bình quân 0,8 ha/hộ.
Đến nay tốc độ tăng trưởng nông nghiệp vào khoảng 4,5% - 5% tốc độ phát triển kinh tế nông thôn từ10-12%, GDP bình quân đầu người 400 USD, lương thực 35-36 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 10 tỷ USD, tạo việc làm hàng năm 800ng/người, số xã có đường ô tô đến xã 100, số xã có điện chiếm khoảng 90%, số xã có trạm xá 100%, số xã có trường học 100%, số hộ có nước sạch để tiêu dùng vào khoảng 90%,
Để hoàn thành các công trình thuỷ lợi để đảm bảo tưới cho gần 6 triệu ha lúa, 1 triệu ha rau màu và cây công nghiệp, giải quyết cơ bản yêu cầu về nước tưới và thoát lũ cho vùng ngập lũ, ngọt hoá các vùng đất mặn ở đồng bằng sông Cửu Long. Đã duy tu và nâng cấp 6000 km đường cấp huyện, hỗ trợ nâng cấp gần 6000 km đường xã hiện có, xây dựng mới khoảng 6500 đường tới các trung tâm xã hiện có đường ô tô, xây dựng cải tạo 4000 cầu cống.
Tỷ lệ cơ giới hoá các khâu nặng nhọc như làm đất là 60%, tuốt lúa là 70%, cơ giới hoá khâu tưới tiêu nước 70%. Công nghệ sinh học đã được coi trọng và đưa vào nghiên cứu với quy mô lớn. Áp dụng nhanh các thành tựu của cách mạng sinh học để tạo và nhân nhanh giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là áp dụng thành tựu về giống có ưu thế lai, kỹ thuật cây truyền hợp tử, kỹ thuật gen, hoóc môn sinh trưởng, áp dụng công nghệ sản xuất các loại phân vi sinh cố định nitơ để thay thế dần phân đạm hoá học nhằm nâng cao chất lượng nông sản phẩm.
4. Một số kinh nghiệm quốc tế về công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn.
Trong hơn ba thập niên qua, một số nước đã đạt được những thành tựu nổi bật về công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Đây là những kinh nghiệm giúp chúng ta tham khảo nhằm nâng cao chất lượng các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn, cũng như tránh khỏi những sai lầm mà nhiều nước đã gặp phải. Vì vậy để đạt tới một nền sản xuất nông nghiệp hiện đại cần tới một số yếu tố sau:
Vấn đề ruộng đất: cải cách ruộng đất theo hướng người cầy có ruộng là biện pháp cần thiết nhằm gắn chặt với lợi ích của người lao động với việc sử dụng ruộng đất. Do vậy đây là động lực lâu dài để phát triển sản xuất nông nghiệp. Các nước và vùng lãnh thổ đạt thành công trong cải cách ruộng đất như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… đã duy trì được mức phát triển cao và ổn định trong nhiều năm. Trong quá trình phát triển rất yếu sẽ dẫn tới quá trình tích tụ ruộng đất, hình thành những nông trại có qui mô thích hợp để kinh doanh có hiệu quả. Chính phủ nhiều nước đã hỗ trợ quá trình này bằng cách thu hút lao động dư thừa vào công nghiệp và dịch vụ, thay đổi chính sách hạn điền bằng cách nâng mức từ 3ha/hộ lên 30ha/hộ (Hàn quốc), cho các nông dân được vay tín dụng để lại ruộng đất của các hộ khác nhằm tăng quy mô ruộng đất (Đài Loan).
Vấn đề đầu tư cho nông nghiệp: việc tăng vốn đầu tư cho nông nghiệp là yếu tố rất cần thiết để phát triển một nền nông nghiệp hiện dại. Trong các nguồn vốn đầu tư này thì vốn đầu tư Nhà nước thường có vai trò quan trọng nhất. Để nâng cao năng suất lao động cần tăng cường đầu tư gián tiếp cho sản xuất nông nghiệp tức là đầu tư vào các hoạt động phục vụ lợi ích chung của nền nông nghiệp như: đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi, đầu tư nghiên cứu lai tạo giống mới có năng suất và đặc tính tốt.
Chính sách định hướng xuất khẩu nông sản là bài học quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất nông sản hàng hoá theo cơ chế thị trường. Phải tập trung phát triển các mặt hàng nông sản mũi nhọn, lựa chọn các biện pháp bảo họ sản xuất có mục tiêu đối với lĩnh vực nông nghiệp cũng là một biện pháp để kích thích phát triển nông nghiệp. Các chính sách của Nhà nước đã góp một phần tích cực trong sự phát triển công nghiệp hoá - hiện dại hoá nông nghiệp nông thôn. Ví dụ như chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển bằng biện pháp tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh ổn định và thuận lợi như: đảm bảo quyền sở hữu (tài sản và trí tuệ) xây dựng các luật, chính sách và bảo đảm hiệu lực bộ máy thi hành luật đơn giản thủ tục thành lập các doanh nghiệp…
Khuyến khích cạnh tranh trong nước nhằm nâng cao năng lực quảnlý kinh doanh trước khi cạnh tranh với nước ngoài trên một số mặt bằng chung, nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng: đường giao thông, cầu cống, xây dựng các trung tâm buôn bán hàng hoá nông sản. Mỗi nước đầu có chính sách cụ thể đối với từng mặt hàng nhằm phát triển năng lực sản xuất trong nước và tạo ra những mặt hàng có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Trên đây là một số kinh nghiệm vô cùng quan trọng và cần thiết, là tấm gương để Việt Nam noi theo nhằm cải tiến nền nông nghiệp lạc hậu, hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nhằm đưa nền nông nghiệp nước ta phát triển một cách toàn diện nhất.
B. THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP
1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nước ta hiện nay
Đối mặt với thực trạng nông nghiệp nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra một số mặt yếu kém, một số thực trạng vẫn tồn tại song hành cùng với sự phát triển của nông thôn. Hiện nay sản xuất nông nghiệp ở nước ta phổ biến còn trong tình trạng phân tán, đơn lẻ, thiếu sự phối hợp nên chất lượng sản phẩm không đồng nhất, thu gom và vận chuyển khó khăn giá thành cao. Trong cùng một sản phẩm luôn có sự cạnh tranh, sự tranh chấp về lợi ích giữa người sản xuất, thu gom với người chế biến, tiêu thụ và người chịu thiệt cuối cùng lại chính là người nông dân. Đó cũng chính là sự bất cập trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Cho đến nay trình độ công nghiệp nông thôn còn ở trạng thái manh nha, yếu ớt, kinh tế nông thôn còn ở trạng thái manh nha, yếu ớt, kinh tế nông thôn còn nặng tính thuần nông. Những khảo sát của những thập kỷ gần đây, ở nhiều vùng của đất nước cho thấy cơ cấu lao động trong nông nghiệp hầu như không thay đổi. Ngoài ra do cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp kéo dài làm cho không ít người lao động đã quen với tâm lý ỷ lại, trông chờ thiếu nhạy bén khi phải đối mặt với việc làm và thu nhập khi chuyển sang kinh tế thị trường.
Về phương diện quản lý tổng thể nền kinh tế, các chính sách công nghiệp hoá hầu như chưa quan tâm xử lý tổng thể và hợp lý mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị. Trong nhiều thập kỷ, chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên thực tế chưa có tác động tích cực cho việc tăng cường mối liên kết giữa thành thị và nông thôn. Trong những giải pháp tiến hành, chưa đặt đúng vai trò ngành nghề và công nghiệp nông thôn như một khâu trung gian để qua đó thực hiện chuyển giao công nghệ, một mặt công nghiệp tác động vào nông nghiệp, mặt khác các hoạt động nông nghiệp hoặc mang tính nông nghiệp có thể chuyển dần sang công nghiệp. Có thể nói đây chính là khuyết tật cơ cấu cả về phương diện ngành lẫn lãnh thổ, là khâu ách tắc của quá trình công nghiệp hoá. Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân hạn chế khiến sau nhiều thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá đến nay về cơ bản Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp. Nếu thời gian tới thiếu những thể chế và giải pháp thiết thực thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn phát triển, thì tăng trưởng kinh tế nông thôn và kinh tế Việt Nam nói chung sẽ khó có sự phát triển bền vững.
Nghiên cứu nhiều vùng cụ thể ở nhiều vùng cũng cho thấy, công nghiệp nông thôn ở Việt Nam có trình độ công nghệ và dịch vụ thấp hơn rất nhiều so với thành phố.Trên thực tế công nghiệp được xây dựng ở nông thôn hiện nay chủ yếu dùng công nghệ cũ được thải loại từ các vùng đô thị mang vào.
Là một bộ phận của kinh tế nông thôn, hoạt động của công nghiệp nông thôn chịu tác động của sản xuất nông nghiệp mang tính chu kỳ, việc cung cấp nguyên liệu và sử dụng lao động trong năm có sự biến động khá lớn. Số lượng làm việc trong các cơ sở công nghiệp nông thôn phụ thuộc vào thời vụ, nếu vào vụ mùa hoặc đi cấy, đi gặt lực lượng lao động giảm mạnh rõ rệt. Người nông dân luôn coi công việc chính của mình là làm ruộng vì vậy khó có thể bảo họ đi làm khi công việc làm ruộng chưa làm xong. Cũng tương tự như vậy nguyên liệu cung ứng cho các cơ sở chế biến liên quan chặt chẽ với thời kỳ thu hoạch cây trồng lương thực thực phẩm chỉ tồn tại theo từng mùa của nó, vì vậy các cơ sở chế biến nông sản phẩm cũng phải hoạt động tương tự như vậy. Nhà máy, công nhân phải làm việc hết công suất khi vụ thu hoạch tới gần, còn lại phải làm việc cầm chừng khi qua mùa thu hoạch. Do vậy không ít hộ gia đình côn nghiệp nông thôn phải dành toàn bộ thời gian của lao động gia đình cho hoạt động nông nghiệp trong lúc thời vụ khẩn trương.
Do thiếu vốn đầu tư sản xuất mà khả năng của người nông dân cũng có hạn do không được đào tạo một cách chính quy và cơ bản nên ở hầu hết các địa bàn nông thôn các quá trình sản xuất và chế biến đều trải qua nhiều công đoạn nhỏ và phân tán. Sản xuất theo quy mô nhỏ, đơn sơ, thủ công là chính thì các hộ gia đình khó có điều kiện có được công nghệ tinh chế tốt nhất bởi vậy chất lượng sản phẩm mới trở nên thấp kém, không đủ tiêu chuẩn phân phối trong nước hoặc xuất khẩu ra nước ngoài. Ngoài ra nếu sản phẩm được mang ra xuất khẩu cũng chỉ được bán với giá rẻ mạt, chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam mới thường xuyên bị kiện bán phá giá.
Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả chất lượng nhưng nó cũng chỉ là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của các doanh nghiệp, ngoài ra còn một yếu tố vô cùng quan trọng nữa đó là giá thành sản phẩm. Giá thành của một sản phẩm còn được coi là yếu tố cơ bản nhất trong cạnh tranh giữa các công ty với nhau. Các doanh nghiệp khi muốn tăng lợi nhuận kinh doanh, tăng khối lượng sản phẩm bán ra nhưng khách hàng lại cực kỳ khó tính. Họ luôn muốn mua được những hàng hoá rẻ nhất, chất lượng thì tốt nhất, vì vậy phá giá thành là đánh đúng tâm lý của người tiêu dùng. Nhưng không phải cứ giảm thật mạnh giá mà không quan tâm tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Giảm giá quá thấp thì chỉ bán được sản phẩm nhiều thì doanh nghiệp cũng không thể có lãi. Đối với các doanh nghiệp ở nông tôn thì cách giảm giá duy nhất chỉ có thể là cải tiến trong lĩnh vực sản xuất. Phân định rõ và kết hợp hài hoà các tầng lớp công nghệ trong tổ chức sản xuất sẽ tạo thuận lợi để xác định quy mô vùng nguyên liệu gắn liền với việc sơ chế và kinh tế tập trung. Như vậy doanh nghiệp sẽ tiết kiệm một lượng chi phí dùng cho vận chuyển hao mòn máy móc ngoài ra còn tạo được việc làm cho số lao động nông thôn, đồng thời với nâng cao chất lượng và hạ giá thành nông sản.
Một trong những tình trạng chung của công nghiệp nước ta hay nói cách khác là những nước đang phát triển đó là mới bước đầu đi vào quá trình phát triển đất nước phát triển nền kinh tế nên quá trình phát triển đó còn mang nặng tính tự phát, phân tán tuỳ tiện với quy mô thì nhỏ bé. Vì vậy càng làm cho quá trình công nghiệp hoá nông thôn trở nên khó khăn hơn. Do dân trí của con người nông thôn thấp, không được đào tạo cụ thể để có những hiểu biết nhất định nên hậu quả tất yếu là càng phát triển mạnh công nghiệp nông thôn thì mức độ ô nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng. Chất thải công nghiệp không được xử lý được thải bừa bãi ra môi trường, sông ngòi gây nên ô nhiễm ngày một trở nên trầm trọng hơn. Hoá chất không được xử lý đổ thẳng ra ngoài lỗi chủ yếu là do ý thức của con người quá kém. Tự họ tự chọn cho mình một cuộc sống đầy bệnh tật nghèo đói. Lúc nào cũng đối mặt với nguy cơ nhiễm các bệnh hiểm nghèo, càng ngày sự ô nhiễm càng trở nên trầm trọng vượt quá tầm kiểm soát của con người. Nhưng đứng trước thảm hoạ sinh học như vậy con người lại thản nhiên cho qua, tiếp tục những hành động phá huỷ môi trường mà không chút do dự hay phàn nàn. Tín hiệu SOS báo động đang rung lên cảnh báo những con người đang hàng ngày phá huỷ môi trường tự nhiên.
Mặt khác Nhà nước cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nhưng do chưa được sự quan tâm giúp đỡ có hiệu quả vì vậy mà nông thôn vẫn chưa tiếp cận được với trình độ phát triển của thành thị. Chính phủ luôn kêu gọi các vùng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất cho quá trình công nghiệp hoá. Những chính sách khuyến khích mà các vùng đưa ra cũng không thu hút được tiềm năng đầu tư ở bên ngoài. Ngoài ra một số vùng còn mất trật tự an ninh an toàn cho người lao động cho công nhân vì vậy sẽ gây tâm lý lo ngại cho những nhà đầu tư muốn đầu tư vào phát triển công nghiệp. Có rất nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, vì vậy làm sao để huy động được nguồn vốn đó là cả quá trình lâu dài tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
Khi các nhà đầu tư trở nên tin tưởng thì họ sẵn sàng đầu tư nguồn vốn của mình khi đó vừa phát triển được công nghiệp của vùng đó lại vừa tạo điều kiện việc làm cho lao động dư thừa rỗi trong vùng.
Trong những thập kỷ gần đây Việt Nam đã có những bước đi quan trọng đưa nền kinh tế phát triển đi lên.Nhưng song hành cùng với đó là những khó khăn, những sai lầm cần phải khắc phục. Vấn đề trọng tâm là phải có một chính sách phù hợp để đưa đất nước phát triển đi lên sánh tầm cùng với các nước trên thế giới.
Một số thành tựu to lớn của các nước trong khu vực đã cho Việt Nam rất nhiều kinh nghiệm quý báu phục vụ đắc lực cho nền kinh tế Việt Nam. Như Trung Quốc là một ví dụ điển hình bởi Trung Quốc là quốc gia đất rộng, người đông nhưng họ lại có những thành tựu to lớn về nông nghiệp trong thời kỳ cải cách. Đó là sự phát triển của công nghiệp thành thị và công nghiệp nông thôn (còn gọi là các xí nghiệp hương trốm). Trong thời kỳ cải cách, công nghiệp nông thôn mang đặc thù Trung Quốc phát triển mạnh đã thu hút 100 triệu lao động nông thôn, tạo ra giá trị sản phẩm công nghiệp nông thôn vượt giá trị sản lượng nông nghiệp, làm cho nhiều làng quê trở nên giàu có trù phú nhờ các xí nghiệp hương trốm. Từ đó ta có thể thấy rằng, trong điều kiện đặc thù của các nước châu Á, nông nghiệp thực sự là điểm tựa của công nghiệp hoá nông thôn. Để phát triển công nghiệp hoá nông thôn, các nước như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và ngay cả Trung Quốc đã đẩy mạnh cơ giới hoá hiện đại hoá nông nghiệp và đã thành công trong lĩnh vực này họ đã sáng tạo ra thiết bị công nghệ thích hợp với phương thức sản xuất lúa Châu Á và với quy mô trang trại gia đình nhỏ bé. Các nước này đã đưa công nghiệp vào nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân tạo ra nguồn vốn đầu tư cho cơ giới hoá, các nước này còn tìm cách tạo việc làm tại chỗ để thu hút lao động thừa, nhất là do cơ giới hoá tạo ra. Các thành tựu mà các nước đi trước để lại là những kinh nghiệm quý báu cho một nước nhỏ như Việt Nam học tập. Cố gắng ứng dụng vào đất nước để đạt được những thành tựu như vậy là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
2. Định hướng và các giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn
a. Định hướng tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn
Để phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những định hướng cụ thể nhằm đưa đất nước đi đúng con đường của nó. Mục tiêu tổng quát và lâu dài là giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại, gắn liền nền kinh tế hiện đại trong một thể thống nhất. Muốn vậy phải xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để lực lượng sản xuất phát triển mạnh tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý, năng suất, sản xuất và lao động cao, khả năng cạnh tranh hàng hoá mạnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 là cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra những mục tiêu phù hợp với tình hình đất nước. Đầu tiên phải phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp, hình thành nên các vùng tập trung chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội đáp ứng được yêu cầu của công nghệ chế biến của thị trường trong và ngoài nước. Ngoài ra phải phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, với công nghệ ngày càng cao gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Bên cạnh đó phải phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ, phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cũng phải được xây dựng, củng cố và đổi mới, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh và hiện đại.
Định hướng cuối cùng đó là hoàn thành cơ bản việc giao đất giao rừng cho hộ nông dân. Có chính sách hợp lý trợ giúp, khuyến khích nông dân giải quyết khó khăn về vốn, giá cả vật tư nông nghiệp, thị trường tiêu thụ sản phẩm việc Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra định hướng lớn có tính chất chiến lược và những nội dung cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nước ta trong thời gian phát triển kinh tế xã hội đất nước, là một trong những tiền đề có ý nghĩa quyết định đối với nước ta khi tiến vào thế kỷ XXI.
b. Giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay
Để hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, khắc phục những khó khăn trước mắt, Đảng và Nhà nước đã đưa ra những giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn.
Đầu tiên phải phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Đối với cây lương thực phải xây dựng các vùng sản xuất lúa tập trung ở các khu vực đồng bằng rộng lớn, sử dụng các giống mới có năng suất chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường, áp dụng các biện pháp đồng bộ để hạ giá thành và đảm bảo chất lượng. Đối với cây công nghiệp, thực phẩm phải thường xuyên nghiên cứu các loại công nghệ sinh học tiên tiến để lai tạo và nhân giống để sản xuất ra giống cây trồng có năng suất chất lượng cao cung ứng đủ cho nhu cầu sản xuất, thực hiện cơ giới hoá các khâu sản xuất trứơc hết là khâu nặng nhọc, độc hại, thời vụ khẩn trương, cơ giới hoá các khâu sau thu hoạch để nâng cao năng suất lao động, phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu. Hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở ngành nghề thôn thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến, thực hiện cơ khí hoá các khâu sản xuất nâng cao năng suất và chất lượng, hạ giá thành để có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhà nước cũng đóng một phần vô cùng quan trọng khi đưa ra những chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển mạnh các ngành công nghiệp về nông thôn để thu hút và thực hiện việc phân công lao động ngay trên địa bàn, trước hết là các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ, cần nhiều lao động như: chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng…. Hình thành ngay từ đầu các khu công nghiệp ở nông thôn gắn kết ngay từ đầu lợi ích kinh tế giữa người sản xuất nguyên liệu với các cơ sở thu mua chế biến kinh doanh nông lâm thuỷ sản.
Phải xây dựng được mối quan hệ sản xuất phù hợp kinh tế hộ nông dân và nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Mọi thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng và đều được phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ gia đình phát triển, quy mô sản xuất hàng hoá ngày càng lớn và phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở liên kết hợp tác tự nguyện giữa các hộ gia đình và các trang trại bằng nhiều hình thức, nhiều quy mô nhiều cấp độ đa dạng để nâng cao hiệu quả kinh tế hộ gia đình và kinh tế xã hội nông thôn. Hợp tác xã phải tập trung tìm đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tổ chức thực hiện tốt việc quy hoạch và hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học công nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Nhà nước hỗ trợ hợp tác xã đào tạo cán bộ và có chính sách thúê phù hợp đối với các hoạt động dịch vụ. Phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở xã để phát triển nông nghiệp nông thôn.
Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh các ngành nghề truyền thống đa dạng và phong phú. Đây là lực lượng quan trọng có khả năng thu hút được nhiều lao động, tăng năng lực chế biến tiêu thụ nông sản, dịch vụ kỹ thuật và đời sống nông thôn. Cần có chính sách phù hợp và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác nhau, nhất là các chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng…
Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá nông thôn. Nhà nước ưu tiên phát triển hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tài nguyên nước, khai thác lưu vực sông để cấp nước cho sản xuất nông nghiệp nuôi trồng thuỷ sản, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Trong xây dựng và quản lý các công trình thuỷ lợi, áp dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ tưới kết kiệm nước thựchiện xã hội hoá đầu tư và quản lý công trình thuỷ lợi, phát triển các tổ chức hợp tác sử dụng nước và quản lý thuỷ nông của nông dân.
Nhà nước cũng phải có các chính sách thoả đáng cùng với các địa phương và đóng góp của dân phát triển nhanh hệ thống giao thông nông thôn đảm bảo hàng hoá và đi lại cho dân. Nâng cấp tuyến đường đã có nơi giao thông là cầu nối thôn với thành thị, phải có giao thông thuận lợi thì việc vận chuyển hàng hoá từ vùng này tới vùng kia mới được cải thiện rõ rệt, từ đó hình thành nên các vùng công nghiệp lớn ở nông thôn. Ngoài ra điện cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng để vận hành máy móc, thiết bị vì vậy phải phát triển hệ thống điện nông thôn các dịch vụ bưu chính viễn thông và các điểm văn hoá đến hầu hết các xã, cung cấp có hiệu quả chất lượng cao cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn.
Công tác quy hoạch phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu bởi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn phải được tiến hành theo từng vùng để phát triển theo một hướng cụ thể; chứ không thể phát triển một cách nhỏ lẻ theo từng quy mô gia đình nhỏ. Đặc biệt phải chú trọng làm tốt các quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá tập trung theo hướng sản xuất lớn. Ngoài ra phải có một chính sách thoả đáng để quy hoạch cơ sở hạ tầng và đô thị, quy hoạch bố trí lại dân cư, xây dựng làng xã nhưng phải gắn với bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Nhiệm vụ của các cấp chính phủ được đặt ra hết sức nặng nề khi phải làm tốt quy hoạch, định hướng phát triển, chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, phát triển các dịch vụ công cộng đảm bảo ổn định chính trị, an ninh trật tự xã hội, chỉ có như thế mới thu hút được đầu tư vào các vùng ở nông thôn.
Nước ta là một nước có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, kinh phí không đủ để theo đuổi các dự án nghiên cứu khoa học vì vậy phải đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ và coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, nhất là cơ chế quản lý tài chính và nhân sự để nâng cao hiệu quả kinh tế. Nhà nước phải có chính sách đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp để sớm hiện đại hoá hệ thống sản xuất đáp ứng tốt yêu cầu sản xuất hàng hoá lớn chất lượng cao, tạo điều kiện hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học ứng dụng mạnh có đủ năng lực để đưa ra những đột phá về khoa học công nghệ. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển khoa học công nghệ. Nhà nước dành phần kinh phí thoả đáng để nhập khẩu công nghệ tiến bộ của nước ngoài,, nhất là các loại giống mới , máy móc thiết bị… phục vụ kịp thời sản xuất.
Thực hiện một số chính sách liên quan trực tiếp đến phát triển nông nghiệp nông thôn các chính sách về đất đai như Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ các quyền về đất đai, sử dụng đất đai, chuyển nhượng quyền sử dụng đất… các chính sách về đầu tư như Nhà nước phải biết cân đối các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư thích đáng để phát triển nông lâm, ngư nghiệp và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn. Ngoài ra Nhà nước phải thực hiện các chính sách về tín dụng, các chính sách về thuế, về lao động và việc làm, về thương mại và hội nhập kinh tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn không chỉ là sự nghiệp riêng cá nhân ai khác mà là sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân, của các thành phần kinh tế. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện sâu sát cụ thể quyết liệt của Chính phủ và các cấp, các ngành. Phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
III. KẾT LUẬN
Ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã xác định được mục tiêu chính của đất nước là hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong đó công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn là một mắt xích vô cùng quan trọng. Nó đã xoá đi ranh giới khoảng cách giữa thành thị, nông thôn, nối liền kinh tế các vùng với nhau. Trong nhiều năm nền kinh tế đã đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng đưa nền kinh tế đất nước tiến lên thoát khỏi đói nghèo từng bước xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những khó khăn vất vả, những vướng mắc yếu kém nhất định. Xác định đúng những tồn tại để khắc phục tồn tại đó dần dần hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Các chính sách được Chính phủ đưa ra càng củng cố hơn quyết tâm xây dựng một nông thôn vững mạnh. Một nền nông nghiệp cơ khí hoá, điện khí hoá, là điểm tựa vững chắc cho nền công nghiệp hoá toàn đất nước phát triển đi lên. Dần dần đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển xứng tầm với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Đó là mong muốn không chỉ của Đảng, Nhà nước mà là của toàn dân tộc.
MỤC LỤC
I. Lời mở đầu 1
II. Nội dung 2
A. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn 2
1. Thế nào là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn 2
2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn 4
3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nứơc ta 6
4. Một số kinh nghiệm quốc tế về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn 8
B. Thực trạng và định hướng giải pháp 10
1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nước ta hiện nay 10
2. Định hướng và các giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn 14
a. Định hướng tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn 14
b. Giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay 15
Kết luận 19
Đề tài:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và các giải pháp
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT30.docx