Đề tài Vai trò của nhà nước đối với hoạt động du lịch nước ta

Tài liệu Đề tài Vai trò của nhà nước đối với hoạt động du lịch nước ta: Lời mở đầu Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ cho đời sống hàng ngày thì nhu cầu về nghỉ ngơi giải trí cũng là một nhu cầu không thể thiếu. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người ngày càng được nâng cao. Lúc này nhu cầu về nghỉ ngơi giải trí của con người cũng được nâng lên ở tầm cao hơn đó là nhu cầu du lịch. Thông qua du lịch, con người có thể giữ gìn, hồi phục sức khoẻ và tăng cường sức sống. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu văn hoá phong phú và lâu đời của các dân tộc từ đó tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành những phẩm chất tốt đẹp như lòng yêu thiên nhiên, yêu lao động, tình bạn... Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại cho...

doc52 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1202 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vai trò của nhà nước đối với hoạt động du lịch nước ta, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ cho đời sống hàng ngày thì nhu cầu về nghỉ ngơi giải trí cũng là một nhu cầu không thể thiếu. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người ngày càng được nâng cao. Lúc này nhu cầu về nghỉ ngơi giải trí của con người cũng được nâng lên ở tầm cao hơn đó là nhu cầu du lịch. Thông qua du lịch, con người có thể giữ gìn, hồi phục sức khoẻ và tăng cường sức sống. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu văn hoá phong phú và lâu đời của các dân tộc từ đó tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành những phẩm chất tốt đẹp như lòng yêu thiên nhiên, yêu lao động, tình bạn... Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại cho mọi xã hội. Việc nghỉ ngơi du lịch một cách tích cực và được tổ chức hợp lý sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp. Một mặt, nó góp phần vào việc phục hồi sức khoẻ cũng như khả năng lao động, mặt khác đảm bảo tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động với hiệu quả kinh tế rõ rệt. Trong thời đại hiện nay, dịch vụ du lịch ảnh hưởng đến cả cơ cấu ngành và cơ cấu lao động của nhiều ngành kinh tế, là nguồn thu ngoại tệ lớn của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Du lịch có vị trí kinh tế,chính trị, xã hội rất to lớn trong tổng thể nền kinh tế- xã hội của mỗi nước, là mục tiêu phát triển của nhiều quốc gia. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã coi phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế- xã hội góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu ,nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Tuy nhiên, vị trí, vai trò của ngành Du lịch còn chưa được nhận thứcđầy đủ ở nhiều ngành, nhiều cấp, địa phương và không ít trong dư luận xã hội coi Du lịch chỉ là ngành phục vụ phi sản xuất vật chất, chưa thấy được du lịch là một ngành kinh tế đặc thù có yêu cầu phát triển bền vững mang tính tổng hợp liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Từ đó đặt ra vấn đề nghiên cứu là cần phải làm gì để có thể phát triển du lịch sao cho tương xứng với vị trí, vai trò to lớn của nó? Cần phải khẳng định rằng Nhà nước có vai trò quyết định tới hoạt động du lịch của nước ta. Qua đây, em xin mạn phép được đề cập tới đề tài nghiên cứu: “Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động Du lịch nước ta”. Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với riêng bản thân em mà còn có ý nghĩa đối với tất cả những sinh viên đang tham gia hoạt động nghiên cứu. Nó giúp chúng em hiểu được: Sự cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động Du lịch. Tác động của Nhà nước trong hoạt động du lịch trong thời gian qua. Một số giải pháp cần thiết của Nhà nước đối với hoạt động du lịch. Do hạn chế về mặt kiến thức nên khi viết đề tài này, em không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em mong các thầy cô giáo xem xét và bổ sung những điều còn hạn chế trong bài viết này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô. chương I: sự cần thiết phải có sự quản lí của nhà NƯớc đối với hoạt động du lịch I) Khái niệm về du lịch và các loại hình du lịch 1. Khái niệm du lịch: Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay không chỉ ở nước ta mà còn ở các nước trên thế giới nhận thức về khái niệm du lịch vẫn chưa thống nhất. Đã có nhiều học giả trên thế giới như: Guer Freuler, Azar, Kaspar, Hunziker, Kraff... đưa ra nhiều định nghĩa về du lịch. Mỗi định nghĩa đều có một ý nghĩa nhất định. Tổng hợp và chắt lọc các định nghĩa của những học giả trên du lịch được hiểu là: Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngòai nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hay không kèm theo sự tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng. Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của các cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Các loại hình du lịch: Hoạt động du lịch có thể phân thành các nhóm tuỳ thuộc tiêu chí đưa ra. Hiện nay đa số các chuyên gia về du lịchViệt Nam phân chia các loại hình du lịch theo các tiêu chí cơ bản dưới đây. 2.1.Phân loại theo môi trường tự nhiên: Tuỳ vào môi trường tài nguyên mà hoạt động du lịch được chia thành hai nhóm lớn là: du lịch văn hoá và du lịch thiên nhiên. * Du lịch văn hoá là hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn hay hoạt động du lịch đó tập trung khai thác tài nguyên du lịch nhân văn. Các đối tượng văn hoá- tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để tạo nên các loại hình du lịch văn hoá phong phú. Tài nguyên nhân văn bao gồm các di tích, công trình đương đại, lễ hội, phong tục, tập quán... * Du lịch thiên nhiên ( du lịch sinh thái hay du lịch xanh) là hoạt động du lịch diễn ra nhằm thoả mãn nhu cầu về với thiên nhiên của con người. Du lịch thiên nhiên bao gồm các loại hình: du lịch biển, du lịch núi, du lịch nông thôn... Và nếu như tài nguyên thiên nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang sơ, độc đáo và hiếm hoi của nó tài nguyên du lịch nhân văn thu hút khách bởi tính phong phú, đa dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng như tính địa phương của nó. 2.2 Phân loại theo mục đích chuyến đi: Bao gồm a) Du lịch tham quan Tham quan là hành vi quan trọng của con người để nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh. Đối tượng tham quan có thể là một tài nguyên du lịch tự nhiên như một phong cảnh kì thú hay tài nguyên du lịch nhân văn như một di tích hay một công trình đương đại... Về mặt ý nghĩa hoạt động tham quan là một trong những hoạt động để một chuyến đi được coi là một chuyến du lịch. b) Du lịch giải trí Mục đích của chuyến đi là thư giãn, xả hơi, bứt ra khỏi công việc thường nhật căng thẳng để phục hồi sức khoẻ. Du khách thường chọn một môi trường yên bình không đi lại nhiều. ở Việt Nam, tuy các khu vui chơi giả trí còn chưa hiện đại do hoàn cảnh chưa cho phép song cũng thu hút được khá đông du khách trong và ngoài nước. Ví dụ điển hình là khu du lịch Đầm Sen thành phố HCM. Muốn thúc đẩy sự phát triển du lịch Việt Nam ngay tử bây giờ cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc kinh doanh loại hình du lịch này( xây dựng dự án đầu tư, đào tạo cán bộ nhân viên...) c)Du lịch nghỉ dưỡng Một trong những chức năng xã hội quan trọng của du lịch là phục hồi sức khoẻ cộng đồng. Địa chỉ cho những chuyến nghỉ dưỡng là nơi có không khí trong lành, khí hậu dễ chịu, phong cảnh ngoạn mục như các bãi biển, các vùng ven bờ nước, vùng núi...Hiện nay nghành du lịch Việt Nam chủ yếu kinh doanh loại hình du lịch này. d) Du lịch khám phá Mục đích là nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh. Địa chỉ lí thú cho những người ưa mạo hiểm là những con suối chảy xiết, những ngọn núi cao chót vót, những hang động bí hiểm ... Để kinh doanh loại hình du lịch này cần có trang bị hỗ trợ cần thiết và đặc biệt cần có chương trình và đội ngũ ứng cứu hết sức cơ động. Nước ta có diện tích là đồi núi, nhiều núi cao, vực sâu lại nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa nên có nhiều điều kiện tạo ra các vùng phù hợp cho du lịch khám phá. Tuy nhiên muốn khai thác loại hình này cần một nguồn vốn không ít để đầu tư, đào tạo nhân viên nên so với các loại hình du lịch khác trong thời gian trước mắt du lịch mạo hiểm có ít cơ hội thuận lợi hơn. e) Du lịch thể thao Chơi thể thao nhằm mục đích nâng cao thể chất, phục hồi sức khoẻ... Đây là loại hình xuất hiện để đáp ứng lòng ham mê thể thao của con người. Để đáp ứng nhu cầu du lịch thể thao cơ quan cung ứng du lịch phải có cơ sở vật chất kĩ thuật tốt, đội ngũ nhân viên phục vụ phải có hiểu biết về loại hình thể thao cung ứng. Điểm du lịch phải có các điều kiện thuận lợi và phù hợp. f) Du lịch lễ hội Tham gia vào lễ hội du khách muốn hoà mình vào không khí tưng bừng, vào các cuộc biểu dương lực lượng, biểu dương tình đoàn kết của cộng đồng... Việc khôi phục các lễ hội truyền thống, việc tổ chức các lễ hôi mới không chỉ là mối quan tâm của các cơ quan đoàn thể, quần chúng xã hội mà còn là hướng quan trọng của nghành du lịch. 2.3 Phân loại theo lãnh thổ hoạt động a) Du lịch quốc tế Du lịch quốc tế đến là chuyến đi của người nước ngoài đến tham quan du lịch. Du lịch ra nước ngoài là chuyến đi của người trong nước ra tham quan du lịch ở nước ngoài. Du lịch quốc tế làm biến đổi cán cân thu chi của quốc gia có tham gia du lịch quốc tế. b)Du lịch nội địa Du lịch nội địa là các hoạt động tổ chức phục vụ người trong nước đi du lịch, nghỉ ngơi và tham quan các đối tượng du lịch trên lãnh thổ quốc gia. c) Du lịch quốc gia Du lịch quốc gia bao gồm tất cả các hoạt động du lịch của một quốc gia từ việc đưa khách ra nước ngoài đến việc phục vụ khách trong và ngoài nước tham quan du lịch trong phạm vi nước mình. 2.4 Phân loại theo đặc điểm địa lí của điểm du lịch a) Du lịch miền biển Mục tiêu chủ yếu của du khách là về với thiên nhiên, tham gia các hoạt động du lịch biển như: tắm biển, thể thao biển. b) Du lịch núi Đặc tính độc đáo và tính tương phản cao, miền núi rất thích hợp cho việc xây dựng các loại hình tham quan, cắm trại, mạo hiểm...Các điểm nghỉ mát Tam Đảo, Sa Pa, Ba Vì, Đà Lạt... là những điểm nghỉ núi đã xuất hiện khá lâu ở nước ta. c) Du lịch đô thị Các thành phố, trung tâm có sức hấp dẫn bởi các công trình kiến trúc lớn có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Mặt khác đô thị cũng là đầu mối thương mại lớn nhất của đất nước.Vì vậy không chỉ người dân ở vùng nông thôn bị hấp dẫn mà du khách từ các miền khác, các thành phố khác cũng có nhu cầu để chiêm ngưỡng phố xá và mua sắm. d) Du lịch thôn quê Làng quê là nơi có không khí trong lành, cảnh vật thanh bình và có không gian thoáng đãng, nên nông thôn có thể giúp người dân các đô thị phục hồi sức khoẻ sau những ngày làm việc căng thẳng. Về phương diện kinh tế, người dân đô thị nhận thấy giá cả nhiều mặt hàng nông sản, thực phẩm ở nông thôn rẻ hơn, tươi hơn. Dưới góc độ xã hội người thành thị thấy người dân ở làng quê tình cảm chân thành, mến khách và trung thực. Tất cả những lí do trên giải thích tại sao du lịch nông thôn ngày càng phát triển và cần được quan tâm thích đáng. Đây cũng là một trong những đóng góp thiết thực của du lịch vào việc nâng cao mức sống của nông dân Việt Nam. 2.5 Phân loại theo phương tiện giao thông Bao gồm: du lịch bằng xe đạp, du lịch bằng ô tô, du lịch bằng tàu hoả, du lịch bằng tàu thuỷ, du lịch bằng máy bay... 2.6 Phân loại theo loại hình lưu trú Lưu trú là một trong những nhu cầu chính của du khách trong chuyến đi du lịch. Dưới góc độ kinh doanh du lịch, trong giai đoạn hiện nay, lưu trú, vận chuyển và ăn uống vẫn còn chiếm tỉ trọng khá lớn trong giá thành của các sản phẩm du lịch Việt Nam. Mặt khác tuỳ theo khả năng chi trả, sở thích của du khách, hiện trạng và khả năng cung ứng của đối tác mà trong từng chuyến đi du lịch cụ thể với họ, du khách có thể được bố trí nghỉ lại cơ sở lưu trú phù hợp. Có thể là ở khách sạn, motel, nhà trọ thanh niên, camping, bungalow, làng du lịch. 2.7 Phân loại theo hình thức tổ chức Theo tiêu chí này người ta phân chia thành du lịch tập thể, du lịch cá thể và du lịch gia đình. 2.8Phân loại theo độ dài chuyến đi Có du lich ngắn ngày và du lịch dài ngày. Phân loại theo phương thức hợp đồng Có du lịch trọn gói và du lịch từng phần II sự cần thiết phải có sự quản lí của nhà nước đối với các Hoạt động du lịch 1. Vai trò của du lịch đối với tổng thể nền kinh tế- xã hội của quốc gia. Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước và của một vùng thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Do vậy, để nhận rõ vai trò của du lịch trong quá trình tái sản xuất xã hội, cần hiểu kỹ những đặc điểm tiêu dùng của du lịch. Những đặc điểm quan trọng nhất là : Nhu cầu trong tiêu dùng du lịch là nhu cầu đặc biệt: nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu văn cảnh thiên nhiên như: bơi và tắm ở biển, hồ, sông... của con người. Tiêu dùng du lịch thoả mãn các nhu cầu về hàng hoá ( thức ăn, hàng hhoá mua sẵn, hàng lưu niệm...) và đặc biệt chủ yếu là các nhu cầu về dịch vụ( lưu trú, vận chuyển hành khách, dịch vụ y tế, thông tin...) Việc tiêu dùng dịch vụ và một số hàng hoá xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm với việc sản xuất ra chúng. Trong du lịch không phải vận chuyển dịch vụ, hàng hoá đế cho khách hàng mà ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi có hàng hoá. Việc tiêu dùng du lịch chỉ thoả mãn những nhu cầu thứ yếu, những nhu cầu không thiết yếu đối với con người. Tiêu dùng du lịch xảy ra thông thường theo thời vụ. Với những đặc điểm trên, các mối quan hệ trong tiêu dùng du lịch được phân làm 2 loại : các mối quan hệ vật chất nảy sinh khi khách đến nơi du lịch và mua dịch vụ, hàng hoá ở đó bằng tiền tệ; và các mối quan hệ phi vật chất nảy sinh khi khách tiếp xúc với văn hoá, phong tục tập quán của dân địa phương. Thông qua tiêu dùng, du lịch tác động mạnh lên lĩnh vực lưu thông và do vậy ảnh hưởng lớn lên những lĩnh vực khác của quá trình tái sản xuất xã hội. Kinh tế du lịch gây biến đổi lớn trong cơ cấu của cán cân thu chi của đất nước, của vùng du lịch. Đối với đu lịch quốc tế, việc khách mang ngoại tệ đến đổi và tiêu ở khu du lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng và của đất nước. Còn đối với du lịch nội địa, việc tiêu tiền của dân ở vùng du lịch chỉ gây biến động trong cơ cấu cán cân thu chi của nhân dân theo vùng chứ không làm thay đổi tổng số như tác động du lịch quốc tế. Trong quá trình hoạt động, du lịch đòi hỏi số lượng lớn vật tư và hàng hoá đa dạng. Ngoài ra việc khách mang tiền đến tiêu ở vùng du lịch góp phần làm sống động kinh tế ở vùng du lịch và đất nước du lịch. Du lịch góp phần huy động nguồn vốn rỗi rãi trong nhân dân vào vòng chu chuyển, vì chi phí cho hành trình du lịch là từ tiền tiết kiệm của dân. Thông qua lĩnh vực lưu thông mà du lịch có ảnh hưởng tích cực lên sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và nông nghiệp (như công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp gỗ, công nghiệp dệt, nghành trồng trọt, nghành chăn nuôi...). Du lịch luôn đòi hỏi hàng hoá có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, mỹ thuật và hình thức. Do vậy, du lịch góp phần định hướng cho sự phát triển của các nghành ấy trên một số mặt: số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm và việc chuyên môn hoá các xí nghiệp trong sản xuất. ảnh hưởng của du lịch lên sự phát triển các ngành trong nền kinh tế quốc dân như: thông tin, xây dựng, y tế, thương nghiệp, văn hoá... cũng rất lớn. Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch cuả một vùng không chỉ thể hiện ở chỗ những nơi đó có tài nguyên du lịch mà bên cạnh chúng phải có cả cơ sở vật chất kĩ thuật, hệ thống đường sá, nhà ga, sân bay, bưu điện, ngân hành, mạnh lưới thương nghiệp... Việc tận dụng đưa những nơi có tài nguyên du lịch vào sử dụng, kinh doanh đòi hỏi phải xây dựng ở đó hệ thống đường sá, màng lưới thương nghiệp, bưu điện... qua đó cũng kích thích sự phát triển tương ứng của các nghành liên quan. Ngoài ra, du lịch phát triển còn đánh thức một số ngành thủ công cổ truyền. Kinh tế du lịch góp phần làm tăng thu nhập quốc dân trên 2 mặt sáng tạo và sử dụng. Hoạt động du lịch quốc tế là nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Ngoại tệ thu được từ du lịch quốc tế làm sống động cán cân thanh toán của đất nước và thường được sử dụng để mua sắm máy móc thiết bị cần thiết cho quá trình tái sản xuất hội. Do vậy du lịch quốc tế góp phần xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho đất nước. Cũng như ngoại thương, du lịch quốc tế tạo điều kiện cho đất nước tiết kiệm lao động xã hội khi xuất khẩu một số mặt hàng. Do đó, du lịch còn là một nghành xuất khẩu (xuất khẩu tại chỗ). Việc xuất khẩu tại chỗ có hiệu quả cao nhất vì nó tiết kiệm được chi phí đóng gói, bảo quản, vận chuyển và tránh được những rủi ro mất mát khi vận chuyển ra nước ngoài. Đồng thời, việc phát triển du lịch cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng các quan hệ kinh tế của các thương gia, các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước thông qua việc khách du lịch đã kết hợp giữa việc tham quan du lịch với việc tìm hiểu thị trường, môi trường đầu tư kinh doanh. Du lịch làm thay đổi sắc thái kinh tế của mỗi vùng, mỗi địa phương và mỗi quốc gia. Với vị trí kinh tế đó, nhiều nhà kinh tế đã gọi du lịch là một ngành “công nghiệp không khói” hoặc nghành “xuất khẩu vô hình’’. Cũng từ đây, du lịch cũng tạo nhiều việc làm cho xã hội. Với yêu cầu phát triển liên ngành, việc phát triển du lịch không chỉ tạo ra việc làm trực tiếp cho ngành du lịch mà còn tạo ra việc làm ở các ngành kinh tế khác. Qua đó, du lịch đã tham gia vào quá trình phân công lao động trong nước và hợp tác lao động quốc tế. Cùng với sự phát triển của xã hội, du lịch ngày càng trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến, là nhu cầu không thể thiếu của nhân dân nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển. Khi xã hội phát triển, đời sống vật chất tăng lên thì nhu cầu về du lịch cũng tăng lên. Có thể coi du lịch là một chỉ tiêu đánh giá mức sống của nhân dân mỗi nước. Du lịch là chiếc cầu nối của tình hữu nghị, tạo sự cảm thông giữa các dân tộc, đoàn kết nhân dân các nước, tạo nên một thế giới hoà bình, thịnh vượng, tôn trọng lẫn nhau. Ngoài ra, sự phát triển du lịch còn có ý nghĩa lớn đối với việc góp phần khai thác, bảo tồn các di sản văn hoá và dân tộc, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên xã hội. Với vị trí kinh tế, chính trị, xã hội, du lịch đã và đang khẳng định vị trí của mình trong tổng thể nền kinh tế xã hội của mỗi nước, là mục tiêu phát triển của nhiều quốc gia. Nhận thức được thế mạnh của du lịch, Đảng và Nhà nước đã dành cho du lịch một vị trí xứng đáng, coi phát triển du lịch là một định hướng phát triển quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiềm năng du lịch nước ta là to lớn, phong phú và đa dạng có sức thu hút khách, điều này được nghiên cứu và khẳng định trong qui hoạch tổng thể phát triển Du Lịch Việt Nam(1995-2010) đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt theo quyết định 307/TTg ngày24 tháng5 năm1995. Tuy nhiên, sự phát triển du lịch Việt Nam chỉ mới bắt đầu. Sau 10 năm đổi mới, du lịch Việt Nam đã đạt những kết quả đáng kể. Trong những năm gần đây, doanh thu và nộp ngân sách nhà nước của ngành du lịch tăng trưởng ở mức độ cao. Thời kì 1994-1997 có tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 30% năm. Tỉ trọng GDP từ ngành du lịch thời kì này khoảng12%, mức đóng góp cúa ngành du lịch vào ngân sách nhà nước bình quân gần 800 tỉ đồng/năm. Ngành du lịch đã thu hút lực lượng lao động trực tiếp trên 150 nghìn người ; đây là kết quả bước đầu của quá trình đổi mới ngành du lịch Việt Nam. 2. Tiềm năng du lịch nước ta 2.1 Vùng du lịch Bắc Bộ a)Tiềm năng du lịch Vùng du lịch Bắc Bộ có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng và có sức hấp dẫn thật lớn chẳng những đối với khách du lịch trong nước mà còn đối với khách du lịch nước ngoài và bà con Việt kiều ở xa tổ quốc, có khả năng đấp ứng yêu cầu của nhiều loại hình du lịch với các loại đối tượng khác nhau và khả năng tiếp nhận số lượng lớn khách du lịch. Về mặt tự nhiên, trước hết ở vùng này có rất nhiều cảnh đẹp. Cảnh thiên nhiên ở đây có những nét hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng như thị trấn Sa Pa ở độ cao 1500m trên mực nước biển , mờ ảo trong sương mù như treo trên sườn của dãy Hoàng Liên Sơn cao ngất, là một trong những nơi nghỉ mát nổi tiếng ở Việt Nam, cũng có khi ồn ào sôi động như ở các thác nước Bản Giốc, Đầu Đẳng( Cao Bằng) hoặc cảnh tĩnh mịch trong những cánh rừng già nguyên sinh như ở các Vườn Quốc Gia Cúc Phương ( Ninh Bình), Ba Vì( Hà Tây), đảo Cát Bà (Hải Phòng) với hệ sinh thái rừng rậm nhiệt đới rất điển hình, hoàn toàn làm thoả mãn trí tò mò của các du khách và lòng say mê nghiên cứu của các nhà khoa học; có những nét bí hiểm, lạ mắt của các hang động như ở Hương Sơn( Hà Tây) được mệnh danh là “ Nam thiên đệ nhất động” khiến khách du lịch ai mà chẳng muốn đến đó dù chỉ một lần; có những bãi biển cát trắng phẳng lì, chan hoà ánh nắng và quanh năm lộng gió như Trà Cổ( Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An)... có sức thu hút đặc biệt, mỗi năm đón hàng trăm nghìn người tới nghỉ mát, tắm biển. Đặc biệt cảnh đẹp thiên nhiên vùng này tiêu biểu nhất là Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), một danh lam nổi tiếng thế giới. Khách du lịch đến đây hẳn phải sững sờ trước vẻ đẹp tạo hoá sinh ra, tha hồ mà khám phá những điều kỳ thú của cả một thế giới đảo đá với muôn hình, muôn vẻ, nửa nổi, nửa chìm trong vịnh biển. Cùng với những cảnh đẹp, khí hậu vùng này ấm áp, trong lành rất thích hợp với mọi hoạt động du lịch và có thể khai thác được quanh năm. Những tháng hè nóng bức của vùng nhiệt đới, ở vùng này thường từ tháng 5 đến tháng 9 lại là điều kiện kích thích mạnh mẽ dòng người đi du lịch, nghỉ mát, tắm biển. Vùng núi cao và các bãi biển trong vùng đã sẵn sàng chờ đón họ. Khách du lịch nước ngoài thường khao khát và tận hưởng ánh nắng nhiệt đới chói chang ở đây, nhất là đang thời kỳ mùa đông ở xứ của họ. Thiên nhiên ở vùng này cũng thật hào phóng, ưu ái dành cho khách du lịch được thưởng thức nhiều của ngon, vật lạ, từ những đặc sản dưới biển như các loại cá ngon, tôm hùm, sò huyết, cua biển, bào ngư... đến các đặc sản của núi rừng như măng, nấm hương, thịt thú rừng được phép săn bắn, đến các loại dược liệu quý như sâm, nhung, tam thất... ở đây còn khai thác được nguồn nước khoáng theo các mạch suối tự nhiên hay nằm sâu trong lòng đất, được chế biến làm nước giải khát hoặc để chữa bệnh, đủ sức thoả mãn mọi nhu cầu của khách du lịch. Nguồn nước khoáng Kim Bôi (Hoà Bình), Quang Hanh ( Quảng Ninh), Tiền Hải (Thái Bình), Tiên Lãng (Hải Phòng) đạt tiêu chuẩn chất lượng cao và có khả năng khai thác tốt. Về mặt văn hoá- lịch sử, vùng này chứa đựng toàn bộ bề dày lịch sử Việt Nam. Những di tích khảo cổ học chứng minh cho nền văn hoá Đông Sơn, Hoà Bình nổi tiếng từ hồi tiền sử, những di tích lịch sử còn được bảo tồn nguyên hiện trạng hoặc sưu tầm được qua các triều đại lịch sử nước ta rất có giá trị về mặt khoa học và giáo dục truyền thống, truyền bá kiến thức. Những lẽ hội truyền thống như hội Đền Hùng (Vĩnh Phú), Hội Lim (Hà Bắc), Hội Dóng (Hà Nội), Hội pháo Đồng Kỵ (Hà Bắc), Hội Chùa Hương (Hà Tây), đậm đà màu sắc dân tộc. ở vùng này là quê hương của những làn điệu chèo, khúc ca quan họ, câu hát văn, câu hò ví dặm, của nghệ thuật tuồng, rối nước, âm nhạc chiêng cồng và các điệu múa cổ truyền của những dân tộc anh em. Vùng này còn có cả kho tàng kiến trúc, mỹ thuật độc đáo như chùaTây Phương (Hà Tây), chùa Keo (Thái Bình), tháp Cổ Lễ (Nam Hà), chùa Một Cột (Hà Nội). Đáng chú ý là ở vùng này tập trung hầu hết những viện bảo tàng lớn và có giá trị nhất Việt Nam như các viện bảo tàng Lịch Sử, Viện bảo tàng Cách Mạng, Viện bảo tàng Mỹ Thuật, Viện bảo tàng Quân Đội, Viện bảo tàng Hồ Chí Minh (ở Hà Nội), Viện bảo tàng các dân tộc miền núi (ở Bắc Thái), tạo điều kiện cho khách du lịch tham quan, tìm hiểu và nghiên cứu. Những di tích văn hoá, lịch sử ở vùng này thường gắn liền và rất hài hoà với cảnh đẹp thiên nhiên nên càng tăng thêm giá trị của nhiều điểm du lịch như Hạ Long, Hương Sơn, Hoa Lư, Lạng Sơn... Về kinh tế- xã hội, đây là vùng truyền thống về sản xuất nông nghiệp hiện đang tiếp cận với những thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, từng bước di lên xây dựng nền kinh tế mới có cơ cấu hợp lý và nhiều thành phần nhằm đạt được hiệu quả cao để không ngừng cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Những nông sản nhiệt đới quý giá được dày công chế biến, đạt tiêu chuẩn chất lượng cao rất cần thiết và giúp ích đắc lực cho hoạt động du lịch ở vùng này cũng rất sẵn như gạo tám thơm, nếp cái, các hoa quả thơm ngon nức tiếng gần xa: đào Sa Pa, mận Bắc Hà, bưởi Đoan Hùng, cam Bố Hạ, nhãn Hưng Yên, vải Thanh Hà, chè Thái Nguyên... cùng các loại thực phẩm tươi sống mùa nào thức ấy, vừa ngon vừa bổ, giá cả lại rẻ. Hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng hầu hết nguyên liệu trong nước gồm các mặt hành truyền thống như: mây tre đan, sơn mài, gốm sứ, thêu đan, chạm khắc, các sản phẩm từ cói của vùng này đạt trình độ thẩm mỹ cao, hoàn toàn có thể thoả mãn nhu cầu của các loại khách du lịch và xuất khẩu. Vùng này nổi tiếng bao đời là nơi đất lành chim đậu, nhân dân ham chuộng cuộc sống thanh bình, cần cù lao động, thông minh, sáng tạo và giàu kòng mến khách, tạo những điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động du lịch. Cơ Sở Hạ Tầng Du Lịch So vớ các vùng khác trên đất nước, vùng du lịch Bắc Bộ đã có cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch tương đối phát triển. Hệ thống đường giao thông tương đối tốt với các trục đường chính từ thủ đô Hà Nội toả đi khắp các nơi trong vùng. Từ Hà Nội lên các tỉnh miền núi phía Bắc có quốc lộ 6; ra biển có quốc lộ 5 và tới các tỉnh phía Nam có quốc lộ 1. Các trục đường sắt chính cũng hầu như chạy song song với các trục đường bộ, bảo đảm khả năng vận chuyển khách du lịch với số lượng lớn. Các điểm du lịch có ý nghĩa quốc gia và quốc tế đều có thể đi lại bàng các phương tiên giao thông khác nhau.Một số tuyến du lịch có thể sử dụng các phương tiện liên vận đường sắt, đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không khép kín, bảo đảm cho khách du lịch có thể đi về một lối và trở về một lối, cùng một chuyến đi mà biết được nhiều nơi. Vùng du lịch Bắc Bộ có thuận lợi lớn là có nhiều cửu khẩu quan trọng để đưa đón khách du lịch nưóc ngoài. Sân bay quốc tế Nội Bài ( Hà Nội) đang được nâng cấp để có thể chuyển 2-3 triệu hành khách/năm. Cảng Hải Phòng là cảng lớn thứ hai trong cả nước, sau cảng Sài Gòn dư khách tiếp nhận và tiếp đưa hàng chục ngàn khách du lịch sử dụng đường biển. Cửa khẩu Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Ninh nằm trên các tuyến đường liên vận quốc tế cả về đường sắt lẫn đường bộ nối liền giữa Việt Nam và lục địa Trung Hoa rộng lớn. Tuy vậy, việc đi lại lại tới các điểm du lịch xa như Trà Cổ, Ba Bể, Sa Pa, Điện Biên hiện nay còn khá vất vả vì đường xấu và ách tắc về cầu phà. Việc đầu tư xây dựng và cải tạo hê thống đường sá nhằm tạo điều kiện thuận lợi và rút ngắn thời gian đi lại trên đường cho khách du lịch đặc biệt quan trọng và rất thiết thực để phát triển du lịch ở vùng này. Về điện, đây là vùng tập trung nhiều nhà máy điện lớn nhất nước ta cả về nhiệt điện (Phả Lại) cũng như thuỷ điện (Hoà Bình). Những năm gần đây cản lượng điện được tăng lên không ngừng và chất lượng điện cung cấp cũng tốt hơn, cùng với việc phát triển mạng lưới điện rộng khắp đã đảm bảo vững chắc nguồn điện phục vụ cho các ngành và các địa phương trong vùng trong đó có hoạt động du lịch. Vùng này có khả năng và điều kiện để giải quyết tốt nhu cầu nước phục vụ du lịch trên cơ sở có nguồn cung cấp nước dồi dào. Nếu kết hợp đồng bộ việc sử dụng nguồn điện và các trang bị khoan, bơm, lọc, dẫn nước thì có thể bảo đảm nguồn nước một cách chủ động và không mấy tốn kém như ở nhiều kkhu vưc khác. Về thông tin liên lạc, đặc biệt trong những năm gần đây đã có sự tiến bộ đáng kể. ở vùng này đã xây dựng được các trạm viễn thông và lắp đặt những phương tiện thông tin hiện đại do Liên Xô, Ôxtrâylia, Pháp...giúp đỡ, nên về cơ bản đã bảo đảm được việc thông tin lien lạc trong nước và quốc tế được thuận tiện, nhanh chóng và kịp thời, đáp ứng ngày một tốt hơn mọi yêu cầu của hoạt động du lịch. Cơ Sở Vật Chất- Kỹ Thuật Du Lịch Trên cơ sở kế thừa cá cơ sỏ vật – vật chất kỹ thuật phục vụ du lịc đã được xây dựng từ những năm trước đây, ở vùng du lịch Bắc Bộ còn cần phải tiếp tục cải tạo, xây dựng và từng bước hoàn thiện các cơ sở này mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Gần đây ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và Thanh Hoá đã nâng cấp và xây dựng mới được nhiều khách sạn. Cũng cần phải cân nhắc, tính toán cụ thể để giải bài toán” vừa thừa vừa thiếu” chỗ ăn nghỉ cho khách du lịch một cách hợp lý, tránh xây dựng khách sạn tràn lan, không đúng chỗ, không đạt được hiệu quả kinh doanh vì hệ số sử dụng quá thấp, chưa kể đến việc làm ảnh hưởng xấu tới cảnh quan du lịch vốn rất đẹp của vùng. Về phục vụ ăn uống, ở đây cũng có những điều kiện rất thuạn lợi. Với nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào và đa dạng, đội ngũ nhân viên phục vụ lành nghề, đã sáng tạo ra nhiều món ăn, đồ uống ngon lành, đặc sắc như cơm tấm giò cchả, phỏ Bắc, bún ốc, bún mọc, nem chua, chả cá, rượu làng Vân, cốm Vòng, bánh đậu xanh Hải Dương... được khách du lịch rất tán thưởng. Về vui chơi giải trí, vùng này cũng có nhiều thứ, nhiều nơi mà khách du lịch hằng thích thú. Đó là các trò thả chim, chọi gà, chọi trâu, đi chợ hoa ngày Tết hoặc tham dự các ngày lễ hội, xem rối nước, bơi chải, đấu vật, đánh đu, ném còn. Câu cá, đi săn cũng là thú tiêu khiển được nhiều người ưu thích. ở một số điểm du lịchđã xây dựng được chỗ chơi thể thao, bể bơi, tổ chức vũ hội, biểu diễn nghệ thuật, trình bày trang phục dân tộc và mốt thời trang... th hút được đông đảo khách du lịch. Vùng Du Lịch Bắc Trung Bộ. Tài nguyên du lịch Nét đặc sắc, đa dạng của các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên một mảnh đất chịu nhiều thử thách qua các biến cố lịch sử của dân tộc, đã tạo ra cho vùng du lịch Bắc Trung Bộ một tiềm năng du lịch phong phú, có giá trị thu hút khách cao và điều kiện phát triển đủ các loại hình du lịch từ tham quan, nghỉ mát, điều dưỡng, tắm biển, thể thao đến nghiên cứu khoa học...Phần lớn các nguồn tài nguyên du lịch của vùng này đều tập trung với mật độ tương đối cao dọc theo quốc lộ 1A và phát triển thành cụm với bán kính không đầy 100km xung quanh trung tâm Huế, Đà Nẵng. Vùng du lịch Bắc Trung Bộ có những đối tượng du lịch nổi tiếng không chỉ mang ý nghĩa quốc gia mà còn là đối tượng tham quan, nghien cứu của khách du lịch quốc tế: Động Phong Nha, đô thị cổ Hội An, cố đo Huế, bảo tàng Chàm, Bạch Mã, LăngCô. Ngoài các di tích lịch sử, văn hoá- nghệ thuật, kiến trúc..., những tài nguyên kinh tế, xã hội khác cũng có giá trị thu hút khách cao nếu trong việc tổ chức du lịch biết kết hợp trong hành trình của khách để làm phong phú thêm nhận thức và hiểu biết cho khách về phong tục, tập quán, sinh hoạt của cư dân địa phương như thêu ren, dệt thảm len, tơ tằm (Quảng Nam- Đà Nẵng), nghề chạm khắc đá ở chân núi Ngũ Hành ( Quảng Nam - Đà Nẵng)... các bản dân tộc ở miền núi, nghề thủ công ở Hội An. Cơ sở hạ tầng Nằm án ngữ giữa tuyến đường sắt và đường bộ huyết mạch Bắc- Nam, trung tâm của vùng Huế- Đà Nẵng tương đối cách đều Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh xấp xỉ từ 700km đến 900km. Vùng du lịch Bắc Trung Bộ có đầy đr điều kiện để phát triển mạng lưới giao thông vận tải với tất cả các hệ thống giao thông từ đường bộ, đường biển, đường sắt, đường hàng không. Cangr quốc tế Đà Nẵng dễ dàng thônh thương với các cảng thuộc khu vực châu á-Thái Bình Dương và các cảng khác dọc theo bờ biển trong nước. Những hàng hoá vận chuyển cho nước Cộng hoà nhân dân Lào cũng đều thông qua cảng này, từ 1-4-1989 theo quyết định của hội đồng bộ trưởng, sân bay Đà Nẵng đã trở thành sân bay quốc tế. Với hệ thống đường băng sẵn có, những máy bay có trong tải lớn như Boing 747 (từ 300 đến 400 khách/ chuyến) có thể hạ cánh dễ dàng. Như vậy là ngoài Nội Bài, Tân Sơn Nhất, sân bay Đà Nẵng là cửa ngõ thứ 3 của cả nước được trực tiếp đưa đón khách quốc tế và là một điểm dừng thuận lợi trên dường bay của một số hãng hàng không quốc tế vẫn bay ngang qua bầu trời Đà Nẵng (gần 100 lượt chiếc/ ngày). Cùng với cảng biển quốc tế Đà Nẵng, giao thông đường bộ sang Lào và xa hơn là Thái Lan qua cửa khẩu Lao Bảo. Sự kiện mở sân bay quốc tế Đà Nẵng là một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp phát triển du lịch quốc tế của địa phương và giúp điạ phương trở thành một trung tâm giao lưu quốc tế của miền Trung, mở ra một triển vọng phát triển tốt đẹp cho nền kinh tế của khu vực. Ngoài sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay Phú Bài (Húê), một sân bay quân sự cũ ở Quảng Trị, Quảng Ngãi trong một mức độ nhất định có thể hỗ trợ tích cực cho hoạt động du lịch đi theo những đoàn nhỏ, không có thời gian để đi theo lộ trình bằng đường bộ. Hệ thống giao thông đường sắt và đường bộ phát triển chủ yếu theo hướng song song với đường biển. Quốc lộ 1A với chất lượng đường tương đối tốt từ Huế vào đến Quảng Ngãi. Còn đoạn từ Quảng Bình đến Huế do ảnh hưởng của vùng chiến sự ác liệt trong thời gian chiến tranh hiện xuống cấp nhiều, ngày nay đang được nhà nước và địa phương đầu tư bảo dưỡng. Đường quốc lộ số 9 dài 89km từ Quảng Trị đến cửa khẩu Lao Bảo để thông qua Xavăn Na khet của Lào. Cửa khẩu Lao Bảo đã được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế vào năm 1993 càng tạo thuận lợi cho việc đón du khách theo đường bộ từ Thái Lan sang. Đường giao thông đến các huyện lỵ trong vùng đang được chú ý nâng cấp. Đường sắt xuyên Việt chạy song song với quốc lộ 1A và đi qua phần lớn các điểm du lịch chủ yếu trong vùng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch kể cả đường sắt và đường ô tô. Hệ thống cung cấp điện và nước cho toàn vùng gặp rất nhiều khó khăn. Sản lượng tính theo đầu người thấp. toàn vùng không có một nhà máy điện cỡ trung bình. Ngay như trung tâm công nghiệp Đà Nẵng sản lượng điện hàng năm chỉ đạt 100 triệu kwh. Bình quân đầu người chỉ đạt 58 kwh thua mức bình quân cả nước. Hiện nay, mạng lưới điện quốc gia với đường dây 500 kv đã đến, trong tương lai nhà máy điện Yaly xây dựng xong, nguồn điện trong vùng này không còn là vấn đề gay gắt. Mạng lưới thông tin liên lạc điện thoại, điện báo trong tỉnh, trong nước và liên lạc quốc tế giao dịch được, nhưng chưa phải thuận tiện và thông suốt ở mọi nơi. So với yêu cầu hiện nay thì còn ở mức thấp. Trong tương lai vấn đề cấp và thoát nước ở các đo thị và các điểm du lịch quan trọng còn phải đầu tư nhiều để khắc phục tình trạng cấp và thoát nước hiện nay, kể cả về số lượng và chất lượng. Cơ sở vật chất- kỹ thuật So với hai vùng du lịch kể trên, vùng du lịch Bắc Trung Bộ có hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật thấp hơn cả. Các khách sạn đang sử dụng phần lớn được cải tạo lại từ các cao ốc dùng cho chức năng như khách sạn Hương GiangI, khách sạn Phương Đông, khách sạn Thái Bình Dương trước đây là cư sá của lính Mỹ. Khách sạn Trường Sơn Đông được cải tạo từ một trường học của Lào. Có một số buồng giường của các nhà khách, nhà nghỉ có thể cải tạo và phục vụ được cho khách du lịch trong nước, các nhà hàng phát triển mạnh ở các đô thị. Khu vực vui chơi gải trí chưa được chú ý đúng mức. Vùng Du Lịch Nam Trung Bộ Tiềm năng du lịch Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ có nhiều tiềm năng rất phong phú. Về phương diện tự nhiên, lãnh thổ của vùng trải trên phần cuối đồng bằng ven biển trung bộ, trên các cao nguyễnếp tầng, một phần gờ núi Trường Sơn Nam, toàn bộ Đông Nam Bộ và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.Điều đó tạo nên sự đa dạng về địa hình có sức thu hút khách du lịch. Đáng chú ý là khu vực duyên hải với các kiểu địa hình bờ, bãi biển, trong đó có nhiều bãi biển nổi tiếng. Bãi biển Nha Trang là một bãi biển tuyệt đẹp ôm lấy vòng ngoài của thành phố. Ngoài ra, còn có thể kể thêm nhiều bãi biển đẹp khác như Quy Nhơn, Long Hải, Phước Hải, Vũng Tàu... Bên cạnh các bãi tắm, các đảo cũng có thể là nơi tham quan du lịch, nhiều đảo có nhiều đặc sản nổi tiếng ví dụ từ mũi Nạy đến vùng vịnh Cam Ranh có hơn 20 đảo, trong đó 7 đảo có nhiều tổ chim yến nằm cheo leo trên vách đá hoặc trong những hành lang dài trên núi. Các tỉnh Tây Nguyên nằm chủ yếu trên các Cao nguyên xếp tầng cũng ccó giá trị về du lịch. Đà Lạt trong tương lai có thể trở thành thành phố du lịch được ưa chuộng nhất ở miền núi nước ta. Nhìn chung, khí hậu của vùng khí hậu Nam Trung Bộ và Nam Bộ ít nhiều thuận lợi cho du lịch. Đặc biệt trên các cao nguyên, khí hậu mát mẻ quanh năm. Nhiệt độ biến đổi nhanh chóng trong ngày nhưng nhiệt độ cực đại năm chưa bao giờ vượt qua 30 o C và nhiệt độ cực tiểu không xuống dưới 4o 9'. Trong vùng còn có vùng nước khoáng ở Tây Nguyên và đồng bằng Nam Bộ với ưu thế là các bicacbonat natri, bicacbonat natri-canxi hoặc clorua bicacbanat. Tài nguyên thực động vật của vùng khá phong phú. ở đây có một số khu vực mang màu sắc của hệ sinh thái nhiệt đới ẩm với sự có mặt của thảm thực vật, hệ động vật hoặc phong phú, hoặc điển hình của tài nguyên siinh vật nhiệt đới. Đó là khu dự trữ thiên nhiên suối Trai thuộc huyện Tây Sơn(tỉnh Bình Định), khu dự trữ thiên nhiên Kon Cha Răng thuộc huyện Kbang (tỉnh Gia Lai), trạm thuần dưỡng động vật Ea Keo thuộc thị xã Buôn Ma Thuột, khu rừng cấm Nam Cát Tiên, hệ sinh thái rừng ngập mặn đất mũi Cà Mau... Như một loại tài nguyên du lịch, các di tích văn hoá- lịch sử ở vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ tương đối phong phú tuy phân bố không đồng đều. Nhìn chung, đa số các tỉnh trong vùng đều có các di tích đã được nhà nước xếp hạng. Đó là chưa kể một khối lượng lớn các di tích văn hoá- lịch sử do địa phương tự xếp hạng và công nhận. Trong vùng có một số cơ sở kinh tế là nơi tham quan cho khách du lịch. Cùng với các đối tượng khác, các cơ sở này có thể được khai thác trong lộ trình ccủa một tuyến du lịch. Ví dụ, theo tuyến Nha Trang- Phan Rang - Đà Lạt, du khách có thể dừng chân tham quan cơ sở chế biến hải sản Nha Trang ( Đại Lãnh), trạm thuỷ điện Krôngpha- Đanhim, khu vực sản xuất muối Cà Ná, thành phố cảng cá Phân Thiết. Theo các tuyến du lịch khác, cần phải kể đến dải công nghiệp Tam Hiệp- Biên Hoà, Xưởng đóng tàu Ba Son, nhà máy dệt thành công, xí nghiệp điện tử Tp Hồ Chí Minh, nhà máy in Trần Phú, liên doanh đầu khí, xưởng sơn mài Sài Gòn, thuỷ điện Trị An, Liên hiệp chè- cà phê Bảo Lộc... Cơ sở hạ tầng du lịch Muốn phát triển du lịch, trước hết cần phải có mạng lưới giao thông. Trong vùng du lịch này hệ thống giao thông có sự kết hợp chặt chẽ giữa các loại đường giao thông với nhau. Hệ thống đường bộ trong vùng có tầm quan trọng hàng đầu. ở đây các tuyến đường chính chạy theo hướng bắc nam như: quốc lộ 1A chạy theo rìa phía đông của vùng đến gò Dầu Hạ (Tây Ninh, biên giới Việt Nam- Campuchi); quốc lộ 14 dài 600km chạy dài từ Huế đến Plâycu, Buôn Ma Thuột, Tây Ninh, Biên Hoà. Đây là con đường xuyên Tây Nguyên có giá trị đặc biệt về kinh tế... Trong hệ thống đường sắt, quan trọng nhất là hệ thống đường sắt Thống Nhất chạy song song với quốc lộ1. Ngoài ra còn có các tuyến đường sắt khác song không có ý nghĩa đáng kể( tháp Chàm - Đà Lạt, 84km; Sài Gòn – Lộc Ninh, !00km). Mạng lưới đường sông trong vùng tương đối phát triển. ở Nam Bộ, nó bao gồm phần cuối của hạ lưu sông Cửu Long chảy trên lãnh thổ nước ta (250km), hạ lưu sông Đồng Nai, các phụ lưu và hệ thống kênh rạch chằng chịt tạo nên mạng lưới giao thông rất thuận lợi. Hệ thống sông tự nhiên, kênh rạch ở đây không chỉ nối liền các thành phố, thị xã, thị trấn tong vùng, mà còn là một bộ phận quan trọng của 2 nước anh em trong mạng lưới giao thông phần nam bán đảo Đông Dương Trong hệ thống đường biển, cảng Sài Gòn có giá trị rất quan trọng. Ngoài các tuyến đường biển trong nước, từ đây còn có các tuyến đường đi Hồng Kông (930 hải lý), Singapo (1117 hải lý), Băng côc (1180 hải lý)... Đáng lưu ý nhất là cảng Sài Gòn nằm ngay trong Tp Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có các cảng(hải cảng, giang cảng) khác nữa như NHa Trang, Rạch Giá, Hà Tiên. Hệ thống đường hàng không khá phát triển với các tuyến đường bay trong nước và quốc tế tới trung tâm quan trọng là Tp Hồ Chí Minh. Trong nước, vùng du lịchnày có thể liên hệ với các vùng khác thông qua các tuyến đường bay: Tp HCM- Hà Nội, TPHCM- Quy Nhơn_ Đà Nẵng, Tp HCM- Buôn Ma Thuột- Đà Nẵng, Tp HCM – Huế, ... Từ tp HCM có các tuyến bay quốc tế đến Băng Cốc, Pari, Phnômpênh, Matxitcơva... Cơ sở vật chất- kỹ thuật phục vụ du lịch Tại Tp HCM, mật độ các khách sạn, nhà hàng... rất dày đặc. Ngoài số lượng, chất lượng những cơ sở phục vụ cho việc ăn, ở, giải trí của khách khá tốt. Vũng Tàu cũng là nơi nghỉ ngơi, du lịch nhộn nhịp với cơ sở vật chất – kỹ thuật tương đối phong phú về số lượng, khá về chất lượng. Ngoài ra, hệ thống cơ sở vật chất- kỹ thuật phục vụ du lịch còn tập trung ở các thành phố , thị xã duyên hải, tuy qui mô và chất lượng kém hơn ở tp HCM. Đó là các thành phố Nha Trang, Quy Nhơn, các thị xã Phan Rang, Phan Thiết... ở các nơi khác, hệ thống phục vụ này còn kém hơn, trừ một vài thành phố , thị xã lớn như Cần Thơ, Đà Lạt. ở Tây Nguyên, nơi tiềm năng du lịch tương đối phong phú nhưng nói chung cơ sở vật chất- phục vụ du lịch nghèo nàn. Tóm lại, vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ có những sắc thái riêng khác với vùng du lịc khác của đất nước. Bên cạnh những thế mạnh to lớn, trong vùng cũng bộc lộ những điểm yếu cả về phương diện tự nhiên ( nhiều nơi thiếu nước trong mùa khô) lẫn cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất- kỹ thuật phục vụ du lịch ( sự phân bố không đều về hệ thống giao thông, hệ thống khách sạn, nhà hàng). Chính điểm này đã góp phần tạo nên sự phân hoá lãnh thổ trong hoạt động du lịch của vùng. 3. Sự cần thiết phải có sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động du lịch. Với sự đóng góp to lớn của ngành du lịch cho sự phát triển kinh tế của đất nước như đã nói ở phần trên cùng với tiềm năng to lớn của du lịch nước ta, chúng ta khẳng định rằng du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Vì vậy, phát triển du lịch là nhiệm vụ và trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội và sự quản lý của nhà nước mang tính quyết định. Cơ sở vật chất – kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật- du lịch đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác các tiềm năng du lịch nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách du lịch. Chính vì có vai trò quan trọng như vậy nên sự phát triển của ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất – kỹ thuật. Du lịch là ngành sản xuất nhiều và đa dạng về thể loại dịch vụ, hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Do vậy, cơ sở vật chất – kỹ thuật bao gồm nhiều thành phần khác nhau. Việc tiêu dùng dịch vụ, hàng hoá du lịch đòi hỏi phải có một hệ thống các cơ sở, công trình đặc biệt. Tài nguyên du lịch chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong tiêu dùng của khách du lịch. Việc sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đó đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống các công trình. Căn cứ vào các đặc điểm trên, có thể hiểu cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch bao gồm toàn bộ các phương tiện vật chất tham gia vào việc tạo ra và thực hiện dịch vụ hàng hoá du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch bao gồm cơ sở vật chất – kỹ thuật của ngành du lịch và cơ sở vật chất – kỹ thuật của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia phục vụ du lịch như thương nghiệp, dịch vụ,... ơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch và tài nguyên du lịch (tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng tới công suất, thể loại, thứ hạng của hầu hết các thành phần cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch. Khả năng tiếp nhận của tài nguyên du lịch là cơ sở xác định công suất các công trình dịch vụ du lịch. Sức hấp dẫn của chúng ảnh hưởng tới thứ hạng của các cơ sở này. Nhà nước kết hợp hài hoà giữa tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất – kỹ thuật giúp cho sự hoạt động có hiệu quả của cơ sở phục vụ du lịch, kéo dài thời gian sử dụng chúng trong năm. Vị trí của tài nguyên du lịch là căn cứ để bố trí hợp lý cơ sở vật chất – kỹ thuật trên các vùng lãnh thổ của đất nước và là tiền đề căn bản để hình thành các trung tâm du lịch. Sự phụ thuộc của các cơ sở vật chất – kỹ thuật vào tài nguyên du lịch không chỉ diễn ra theo một chiều, mà về phía mình các công trình, cơ sở phục vụ du lịch cũng có tác động nhất định tới mức đọ sử dụng tài nguyên du lịch và việc gĩ gìn bảo vệ chúng. Cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch bao gồm nhiều thành phần, chúng mang những chức năng khác nhau và có ý nghĩa nhất định điis với việc tạo ra, thực hiện sản phẩm du lịch. Để đảm bảo cho việc tham quan du lịch trên qui mô lớn cần phải xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng như các khách sạn, nhà hàng, camping, cửa hiệu, trạm cung ứng xăng dầu, trạm y tế, nơi vui chơi thể thao,... Khâu trung tâm của cơ sở vật chất – kỹ thuật là phương tiện cho việc ăn ngủ của khách, tức là nguồn vốn cố định của du lịch. Việc đánh giá cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch được căn cứ vào ba loại tiêu chuẩn chủ yếu: + Đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho nghỉ ngơi du lịch. + Đạt hiệu quả kinh tế tối ưu trong quá trình xây dựng và khai thác cơ sở vật chất – kỹ thuật. + Thuận tiện cho việc đi lại của khách từ các nơi đến. Để đi sâu tìm hiểu nhằm sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, cần chú ý các thành phần chủ yếu sau: Cơ sở phục vụ ăn uống, lưu trú. - Cơ sở phục vụ lưu trú, ăn uống của ngành du lịch bao gồm các công trình đặc biệt nhằm đảm bảo nơi ăn, ngủ và giải trí cho khách du lịch. Đây là thành phần đặc trưng nhất trong toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Chúng đáp ứng nhu cầu căn bản nhất của con người (ăn và ngủ) khi họ sống ngoài nơi thường trú cuả họ. Các cơ sở này có thể chịu sự quản lý của tổ chức, xí nghiệp du lịch, hoặc có thể hoạt động độc lập. Chúng được phân hạng tuỳ theo tiêu chuẩn và mức độ đồng bộ của dịch vụ trong đó. Các cơ sở lưu trú là các cơ sở thương mại kinh doanh buồng giường hay các căn hộ nhằm phục vụ khách vãng lai hay khách đến nghỉ ngơi. Họ có thể cho thuê ngày, tuần hay tháng chứ không hẳn lâu dài như nhà của họ. Các cơ sở lưu trú có thể bao gồm các cơ sở ăn uống, kinh doanh quanh năm hay chỉ một số tháng trong năm. Các cơ sở lưu trú được phân chia thành nhiếu loại. + Các cơ sở lưu trú du lịch xã hội, chủ yếu đón nhận khchs du lịch trong nước vì mức độ tiện nghi và chất lượng phục vụ ở mức trung bình, không cho phép tiếp đón khách du lịch quốc tế, nhất là từ các nước du lịch phát triển đến. Các cơ sở này thường nằm ở các đô thị và điểm du lịch. + Nhà khách là các cơ sở kinh doanh nhỏ có thể phục vụ cả vấn đề ăn uống cho khách. Có khoảng từ 1 đến 6 phòng, có kiến trúc và thiết kế nội thất theo truyền thống địa phương. Các nhà khách này thường nằm ở nông thôn hoặc ngoại vi thành phố. + Khách sạn trung chuyển du lịch là các cơ sở kinh doanh nhỏ, đáp ứng các tiêu chuẩn phân loại khách sạn, là một mắt xích trong các sản phẩm du lịch trọn gói chào bán cho khách du lịch trong nước và quốc tế. Thường nằm tại các vùng nông thôn và được xây dựng theo sắc thái kiến trúc địa phương. Thông thường có từ 6 đến 16 phòng. + Khách sạn thông thường là các cơ sở kinh doanh qui mô trung bình. Đối tượng phục vụ là khách du lịch, thương nhân hay khách công vụ. Có khoảng từ 6 đến 60 phòng. Vị trí thường nằm ở các đô thị hoặc tại các danh lam thắng cảnh nổi tiếng. + Khách du lịch lớn và các cơ sở kinh doanh qui mô lớn. Đối tượng phục vụ là khách du lịch nhiều tiền hay thương nhân. Có trên 60 phòng thường nằm ở các trung tâm đô thị hoặc tại các khu du lịch nổi tiếng. Các khách sạn du lịch lớn gồm nhiều loại, như khách sạn phục vụ các thương gia hay khách du lịch quá cảnh, các khách sạn nghỉ ngơi (3 dến 5 sao) nhằm đón các khách du lịch đến nghỉ trong thời gian ngắn, các làng du lịch (từ 3 đến 5 sao) nhằm phục vụ khách du lịch đến nghỉ trong từng thời gian ngắn. Ngoài các cơ sở ăn uống, lưu trú trên, trong thành phần của chúng còn bao gồm cả hệ thống nhà kho, nhà bảo quản, nhà bếp. Trang thiết bị và trang trí nội thất phải được bố trí hợp lý, tạo được bầu không khí thoải mái, dễ chịu cho khách du lịch. Ngoài ra, các cơ sở này còn là nơi vui chơi giải trí cho họ, vì vậy chúng còn có thể có hệ thống công trình trang thiết bị phục vụ chơi giải trí như dàn nhạc, sàn khiêu vũ, phòng xem video, trò chơi điện tử ... Màng lưới cửa hàng thương nghiệp: Là một thành phần trong cơ cấu cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Mục đích của chúng là đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của khách du lịch (trong nước cũng như quốc tế) bằng việc bán các mặt hàng đặc trưng cho du lịch, hàng thực phẩm và các hàng hoá khác. Cơ sở vật chất kỹ thuật này bao gồm 2 phần: một phần thuộc các trung tâm dịch vụ du lịch là chủ yếu. Phần khác thuộc mạng lưới thương nghiệp địa phương với nhiệm vụ phục vụ nhân dân địa phương, đồng thời cũng đóng vai trò quan trọng đối với việc phục vụ khách du lịch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch ở nơi đó. Do khách du lịch đông, lại từ nhiều nơi đến nên nhu cầu về hàng hoá của họ rất phong phú, đa dạng, tuỳ theo đặc điểm tiêu dùng như tính truyền thống, tính dân tộc ... Từ đó cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng nhu cầu trên cũng phong phú, đa dạng, từ cửa hàng bán thực phẩm, rau quả, cửa hàng bán đồ lưu niệm đến các cửa hàng bán đồ chuyên dùng cho du lịch, bán hàng tiêu dùng (bằng ngoại tệ hay nội tệ ...) Các cửa hàng có thể được bố trí trong khách sạn, tại khu du lịch, đầu mối giao thông. Cơ sở thể thao: Là một bộ phận của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Chúng có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho kỳ nghỉ của khách du lịch, làm cho nó trở nên tích cực hơn. Các cơ sở thể thao gồm có các công trình thể thao, các phòng thể thao hay trung tâm thể thao với nhiều loại khác nhau, các thiết bị chuyên dùng cho mỗi loại (bể bơi, xe đạp nước, cầu trượt nước, cho thuê ô tô...). Ngày nay, công trình thể thao là một bộ phận không thể tách rời khỏi cơ cấu vật chất kỹ thuật của các trung tâm du lịch. Chúng làm tăng hiệu quả sử dụng của khách sạn, camping... và làm phong phú thêm các laọi hình hoạt động du lịch. Cơ sở y tế: Nhằm mụcđích phục vụ du lịch chữa bệnh và cung cấp dịch vụ bổ sung tại các điểm du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở đây bao gồm các trung tâm chữa bệnh (bằng nước khoáng, ánh nắng mặt trời, bùn, các món ăn riêng ...), các phòng y tế với các trang thiết bị trong đó (phòng tắm hơi, massage ...). Các cơ sở y tế luôn gắn liền với các công trình thể thao và có thể được bố trí ngay trong khách sạn. Các công trình phục vụ hoạt động thông tin văn hoá: phục vụ du lịch nhằm mục đích nâng cao, mở rộng kiến thức văn hoá xã hội cho khách du lịch, tạo điều kiện giao tiếp xã hội, tuyên truyền về truyền thống, thành tựu văn hoá của các dân tộc. Các công trình này bao gồm trung tâm văn , thông tin, phòng chiếu phim, nhà hát, câu lạc bộ, phồng triển lãm ... Chúng có thể được bố trí trong khách sạn hoặc hoạt động một cách độc lập tại các trung tâm du lịch. Hoạt động văn hoá thông tin có thể được tổ chức thông qua các buổi dạ hội hữu nghị, hội hoá trang, đêm ca nhạc, tuần lễ biển, buổi gặp gỡ trao đổi giữa khách giữa những khách du lịch có cùng một nghề, buổi chiếu phim, xem kịch, tham quan viện bảo tàng ... Tuy các công trình này có ý nghĩa thứ yếu đối với quá trình phục vụ du lịch, nhưng chúng giúp cho khách du lịch sử dụng thời gian rỗi một cách hợp lý, làm cho họ cảm thấy thoải mái trong kỳ nghỉ của mình tại khu du lịch. Cơ sở dịch vụ và các dịch vụ bổ sung khác: Các công trình này là điều kiện bổ sung, giúp cho khách du lịch sử dụng triệt để hơn tài nguyên du lịch, tạo ra những tiện nghi cho họ đi lại và lưu trú tại điểm du lịch. Bộ phận này bao gồ trạm xăng dầu, thiết bị cấp cứu (ở biển hoặc núi), xưởng sửa chữa dụng cụ thể thao, phòng rửa, tráng phim ảnh, hiệu cắt tóc, hiệu sửa đồng hồ, bưu điện.... Các công trình này được xây dựng thường là để phục vụ nhân dân địa phương là chủ yếu, còn đối với du lịch chúng có vai trò thứ yếu. Nhưng tại các điểm du lịch chúng góp phần làm tăng tính đồng bộ của hệ thống dịch vụ du lịch. Các bộ phận trong cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra và thực hiện toàn bộ sản phẩm du lịch. Chúng tồn tại một cách độc lập song đồng thời lại có mối quan hệ khăng khít với nhau, góp phần năng cao tính đồng bộ của sản phẩm du lịch, tính hấp dẫn của điểm du lịch. Trong những năm qua nhờ chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, Sự cố gắng của những người làm du lịch và sự phối kết hợp có hiệu quả của các ngành nội vụ, hải quan, hàng không, văn hoá ... du lịch Việt Nam có sự tiến bộ rất nhanh cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam đã tạo ra những cơ sở cực kỳ quan trọng để hoà nhập du lịch nước ta với du lịch vùng và du lịch thế giới. Chương II Tác động của nhà nước trong hoạt động du lịch trong thời gian qua I Tác động của nhà nước thông qua hệ thống văn bản hiện hành về quản lý du lịch. Nghị quyết 45-CP của Chính phủ về đổi mới quản lý và phát triển ngành du lịch. Tại phiên họp ngày 21 tháng 4 năm 1993 Chính phủ đã quyết nghị về những chủ trương biện pháp đổi mới quản lý và phát triển ngành du lịch trong thời gian tới, theo phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đề ra. Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp, có tác dụng góp phần tích cực thực hiện chính sách mở của; thúc đẩy sự đổi mới và phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, tạo công ăn việc làm, mở rộng giao lưu văn hoá và xã hội giữa các vùng trong nước và giữa nước ta với nước ngoài, tạo điều kiện tăng cường tình hữu nghị, hoà bình và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Nước ta có tiềm năng lớn về nhiều mặt để phát triển du lịch, có điều kiện thiên nhiên phong phú, có nhiề danh lam, thắng cảnh nổi tiếng, có truyền thống văn hoá lâu đời với nhiều lễ hội, phong tục, taqạp quán tốt đẹp và độc đáo, nhiều di tích lịch sử, ttôn giáo, kiến trúc nghệ thuật đạc sắc, giàu bản sắc nhân văn, nguồn lao động dồi dào, thông minh, cần cù và giàu lòng nhân ái. Trong những năm gần đây, ngành du lịch đã có những đổi mới từng bước phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện bước đầu thu hút khách nước ngoài và kiều bào về thăm Tổ quốc; giới thiệu đất nước, con người, và tinh hoa của dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế; đáp ứng một phần nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi, giải trí của nhân dân trong nước, bước đầu đã thu được kết quả nhất định về kinh tế. Song do nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, tính chất và tác dụng nhie4èu mặt về kinh tế, chính trị, xã hội của hoạt động du lịch, nên công tác quản lý nhà nước còn bị buông lỏng. Điều đáng lưu ý là chúng ta chưa có chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước và từng vùng, từng điạn phương; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành trong sự nghiệp phát triển du lịch; chưa có quy điịnh cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm của từng ngành; cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn yếu kém, cơ sở vật chất, tràng thiết bị trong ngành du lịch còn thiếu thốn, lạc hậu; nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử có giá trị chưa được tu bổ, tôn tạo, khai thác; nội dung hoạt động du lịch còn nghèo nàn, chất lượng phục vụ kém, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu, nhiệm vụ. Vì vậy hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động du lịch những năm qua còn thấp, chưa tương ứng với tiềm năng du lịch và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước trong tình hình mới. Từng lúc, từng nơi đã có những tác động xấu về trật tự và an ninh xã hội. Phương hướng, mục tiêu phát triển du lịch. Trong sự nghiệp đổi mới quản lý và phát triển ngành du lịch theo định hướng mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội do Đảng và Nhà nước đề ra, cần nhất quán những quan điểm sau: Là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp, việc phát triển ngành du lịch phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu chính. Đồng thpời, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữu gìn và páht huy truyền thống văn hoá, bản sắc dân tộc và nhân phẩm của con người Việt Nam. Tính đa ngành của hoạt động du lịch đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các ngành, các cấp dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Nhà nước. Thực hiện cơ cấu kinh tế có nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch nhưng Nhà nước làm là chính nhằm khai thác triệt để mọi khả năng về tiền vốn, kỹ thuật, tri thức và lao động ở trong và ngoài nước để phát triển du lịch. Đẩy mạnh phát triển du lịch quốc tế, coi đó là một hướng chiến lược, đồng thời chú trọng phát triển du lịch nội địa, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân về tham quan, du lịch trong nước và ngoài nước, góp phần nâng cao dân trí, phục hồi sức khoẻ, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta. + Phương hướng phát triển du lịch. Không ngừng nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các sản phẩm du lịch, tạo sự hấp dẫn, thu hút khách du lịch quốc tế để làm cho ngành du lịch Việt Nam phát triển nhanh, sớm đuổi kịp ngành du lịch của các nước phát triển ở trong vùng và trên thế giới, đưa du lịch nước ta trở thành một ngành kinh tế quan trọng, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác trong nước, tạo công ăn việc làm cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân về tham quan, du lịch. Những chủ trương và biện pháp thực hiện. Tăng cường quản lý Nhà nước về du lịch trên phạm vi cả nước và từng vùng lãnh thổ. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách về du lịch để bảo đảm quản lý nhà nước chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ trên phạm vi cả nước. Nhanh chóng kiển toàn Tổng cục du lịch; xúc tiến thành lập các sở du lịch ở các tỉnh, thành phố là trung tâm du lịch; quy địng rõ chức năng, nhiệm vụ và tiêu chuẩn cán bộ của ngành du lịch. Sắp xếp lại hệ thống kinh doanh du lịch theo hướng chuyên môn hoá nghề nghiệp du lịch và khách sạn để nang cao chất lượng các dịch vụ du lịch; Thực hiện đấu thầu hoặc cổ phần hoá một số khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ... nhằm khuyến khích và huy động vốn của các thành phần kinh tế trong nước tham gia hoạt động du lịch Triển khai quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước và quy hoạch ba vùng du lịch trọng điểm. Tổng cục du lịch cùng Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Bộ xây dựng và các Bộ, Ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố tiến hành ngay việc lập quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước và từng vùng, trước tiên là vùng thành phố Hồ Chí Minh – Biên hoà - Vũng tàu, vùng Thừa thiên Huế – Quảng nam - Đà nẵng và vùng Hà nội – Hải phòng – Quảng ninh; lập kế hoạch đầu tư, cải tạo, nâng cấp, xây mới các cơ sở hạ tầng và khách sạn trong cả nước và từng địa phương, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trước mắt và lâu dài. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học phát triển du lịch. Tổng cục du lịch chủ trì Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ khoa học – công nghệ và môi trường phối hợp xây dựng đề án về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học cho ngành du lịch theo hướng sau đây: Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ và chức danh tiêu chuẩn, công chức, viên chức để tiến hành soát xét, xác định số cán bộ, nhân viên cần đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản lý và nghiệp vụ kinh doanh về nghiệp vụ, kỹ thuật, ngaọi ngữ bằng nhiều hình thức phù hợp nhằm sớm ứng dụng được kiến thức khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ và quản lý hiện đại vào ngành du lịch. Nhanh chóng củng cố, sắp xếp kiện toàn lại các trường du lịch, đào tạo đội ngũ giáo viên giỏi lý thuyết, thực hành, nghiên cứu hoàn chỉnh nội dung chương trình, từng bước xây dựng mô hình đào tạo “trường – khách sạn” để gắn quá trình đào tạo với thực hành, đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch của đất nước trước mắt và lâu dài. Tranh thủ sự giúp đỡ, tài trợ của các tổ chức quốc tế và trong nước để xây dựng các dự án, đề tài nghiên cứu khao học cấp nhà nước, cấp ngành và chọn chử cán bộ, nhân viên, học sinh đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài. Phát triển nhanh cơ sở vật chất, kỹ thuất và cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển du lịch. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trong cả nước và từng vùng du lịch, Tổng cục du lịch phối hợp cùng với Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Uỷ ban nhà nước về hợp tác đầu tư, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước, và một số Bộ, Ngành liên quan lập đề án huy động nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất cho ngành du lịch theo hướng sau đây: Tổng cục du lịch cùng các Bộ, Ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố sớm lập đề án trình chính phủ phê duyệt kế hoạch đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng, khách sạn lớn ở những vùng trọng điểm du lịch. Tổng cục du lịch phối hợp với Bộ tài chính, Bộ xây dựng kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ tài sản cố định hiện có của ngành du lịch (bao gồm cả các cơ sở thuộc các ngành, các đoàn thể và địa phương) để có điều kiện tính đúng, tính đủ trong hạch toán, tính đúng khấu hao theo thực tế và có kế hoạch sửa chữa, cải tạo, nâng cấp đáp ứng yêu cầu kinh doanh. Tổng cục du lịch phối hợp với Bộ tài chính, Bộ xây dựng, các Bộ, Ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phồa soát các nhà khách, nhà nghỉ, công sở của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể có thể sử dụng ngay hoặc có thể sửa chữa nâng cấp thành khách sạn đón khách du lịch – chuyển các cơ sở này sang kinh doanh theo pháp luật hiện hành của nhà nước. Bộ giao thông vận tải phối hợp với Tổng cục du lịch xây dựng đề án từng bước việc mở rộng, nâng cấp một số sân bay, nâng cấp đường quốc lộ 1A và một số trục đường quan trọng trên cac tuyến du lịch trọng điểm, cải tạo nâng cấp tuyến đường sắt Bắc – Nam, mở rộng các tuyến đường sắt liên vận quốc tế, mở rộng, nâng cấp một số cảng biển, cảng sông và mở một số tuyến tàu biển chở khách du lịch; từng bước hình thành những cửa khẩu quốc tế hiện đại của đất nước để đón khách du lịch quốc tế. Tổng cục Bưu điện xây dựng đề án hiện đại hoá hệ thống thông tin liên lạc trong nước và hệ thống viễn thông quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, trong đó có nhu cầu phát triển du lịch. Bộ văn hoá - thông tin, Bộ xây dựng và Bộ tài chính cùng Tổng cục du lịch và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố phối hợp xây dựng trình chính phủ đề án tôn tạo, bảo dưỡng các di tích lịch sử, công trình văn hoá, danh lam thắng cảnh, tạo ra các điểm hấp dẫn khách du lịch. Bộ văn hoá - thông tin, Bộ quốc phòng, Tổng cục thể dục thể thao cùng Tổng cục xây dựng đề án đưa các loại hình văn hoá, nghệ thuật dân tộc, thể thao truyền thống phục vụ các hoạt động vui chơi giải trí trong du lịch để loại bỏ những tiêu cực tác động vào đời sống kinh tế xã hội. Cải tiến các thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Bộ ngoại giao, Bộ nội vụ, Tổng cục hải quan phối hợp cùng Tổng cục du lịch sửa đổi, bổ sung các thủ tục xuất, nhập cảnh, quá cảnh của khách du lịch cho phù hợp với tình hình thực tế của ta và thông lệ quốc tế, vừa tạo điều kiện thuận lợi để thu hút khách du lịch vào nước ta, đồng thời đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Bộ văn hoá - thông tin, Tổng cục hải quan cùng Tổng cục du lịch trình chính phủ những qui định về quản lý kinh doanh trong nội địa và xuất, nhập văn hóa phẩm, đồ giả cổ... tạo điều kiện cho khách du lịch mua, bán và mang ra, mang vào những phẩm vật này một cách thuận tiện, đúng pháp luật. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tuyên truyền quảng cáo du lịch. Xúc tiến việc ký các hiệp định hợp tác du lịch với các nước, nhất là các nước trong khu vực châu á - Thái bình dương, có kế hoạch hợp tác chặt chẽ với các nước có chung biên giới với nước ta để xây dựng và phát triển tuyến du lịch liên hoàn giữa nước ta với những nước đó. Tổ chức việc mở đại diện du lịch của nước ta ở nước ngoài, trước hết chú trọng những nước hiện đang là đầu mối giao luau quốc tế; đồng thời chủ động xây cất nhà cho các hãng du lịch nước ngoài thuê để mở văn phòng đại diện Việt Nam nhằm mở rộng tuyên truyền quốc tế, thu hút khách du lịch và vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ nhiều nguồn và bằng nhiều hình thức. Bộ thương mại, Bộ văn hoá - thông tin phối hợp với tổng cục du lịch và các ngành có liên quan đẩy mạnh việc tuyên truyền quảng cáo cho du lịch Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều hình thức khác. 2)Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2010. 2.1Bối cảnh phát triển. Nằm ở khu vức Đông nam á - một khu vực đang diễn ra những hoạt động du lịch sôi động, Việt Nam có một vị trí địa lý kinh tế và giao lưu quốc tế thuận lợi để sớm hoà nhập với trào lưu phát triển du lịch của khu vực và thế giới. a)Đầu tư phát triển du lịch Việt Nam là phù hợp với xu thế chung, phù hợp với chính sách của Đảng và nhà nước. Trên phạm vi thế giới, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống xã hội và phát triển với tốc độ ngày càng nhanh. Trong vòng 30 năm (1960 – 1991) số khách du lịch trên thế giới tăng khoảng 64 lần, thu nhập từ du lịch đã tăng khoảng 38 lần. Với nguồn thu nhập gia tăng như vậy, nhiều nước như Singapore, Thái lan, Malaysia... đã coi du lịch như một ngành kinh tế mũi nhọn, hướng chủ yếu trong chiến lược khai thác tiềm năng, tạo việc làm, mở rộng giao lưu để phát triển kinh tế – xã hội của mình. Hiện nay, nhịp độ tăng trưởng về số khách quốc tế và thu nhập từ du lịch của khu vực Đông á - Thái bình dương thuộc loại hàng đầu thế giới. Dự kiến đến năm 2010 số khách du lịch đên Đông Nam á sẽ đạt khoảng 72 triệu người; thu nhập tù du lịch tăng khoảng 15,6%. Vai trò, vị trí của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân cũng ngày càng tăng và được khẳng định. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có và sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta hoàn toàn có đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển, sớm đưa du lịch của nước ta hoà nhập vào trào lưu phát triển du lịch của khu vực và thế giới. b)Tiềm năng du lịch của nước ta phong phú và đa dạng. Nằm ở vị trí cửa ngõ giao lưu quốc tế, Việt Nam có điều kiện để phát triển giao thông cả về đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không nối với các quốc gia trên thế giới. Tài nguyên du lịch Việt Nam đa dạng, giàu bản sắc cả về thiên nhiên (bãi biển, hang động, nước nóng, nước khoáng, đảo, lớp phủ thực vật và thề giới động vật quí hiếm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc đáo, điển hình... ) lẫn nhân văn (các di tích lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, những phong tục tập quán, các làng nghề và truyền thống văn hoá đặc sắc của các dân tộc...) Tạo điều kiện cho chúng ta phát triển nhiều loại hình du lịch phong phú, hấp dẫn như: nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên cứu khoa học, hội chợ, hội nghị, festival... dài ngày và ngắn ngày. Tài nguyên du lịch nước ta được phân bố thành từng cụm, hình thành các môi trương du lịch điển hình trong toàn quốc. Mỗi vùng, mỗi khu vực du lịch có một sắc thái riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, không lặp lại giữa các vùng làm nhàm chán khách du lịch. Những tài nguyên du lịch này nằm gần các đô thị lớn, các cửa khẩu quốc tế quan trọng, thuận lợi cho việc đi lại, tham quan và ăn nghỉ của du khách. Nhiều vùng như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận Hà Tây, Ninh Bình, Vĩnh Phú, Hoà Bình..., vùng biển Hạ Long – Cát Bà - Đồ Sơn (Quảng Ninh – Hải Phòng) vùng Đại Lãnh – Văn Phong, Nha Trang (Khánh Hoà), Đảo Phú Quốc (Kiên Giang), Huế - Đà Nẵng, thành phố HCM, Lâm Đồng - Đà Lạt và vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long..., nếu được qui hoạch và đầu tư thích đáng sẽ trở thành những trung tâm du lịch lớn có khả năng cạnh tranh với các nước khác trong khu vực và thế giới. Trong tương lai không xa, việc nối tour đường bộ tới Malaysia – Singapore và Mianma với tuyến du lịch đông dương (Việt Nam – Lào – Campuchia) thực hiện sẽ khép kín lộ trình của khách du lịch quốc tể Đông Nam á và sẽ tạo ra tuyến du lịch hấp dẫn trong khu vực, mở ra cho nước ta nhiều cơ hội để khai thác và phát triển du lịch với nhiều hình thức hấp dẫn theo phong cách và truyền thống văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, du lịch Việt Nam còn kém phát triển. Nếu so sánh với 5 nước Đông Nam á trong cùng thời điểm năm 1988, Việt Nam chỉ đón được lượng khách du lịch quốc tế bằng 1/10 Philipin, 1/15 Inđonesia và xấp xỷ 1/40 Malaysia, Thái Lan hoặc Singapore. Mấy năm gần đây nhờ sự đổi mới đất nước thu được kết quả quan trọng: kinh tế, tư tưởng, chính trị ổn định, đường lối ngoại giao đa dạng hoá, đa phương hoá, ngành du lịch Việt Nam có những bước tiến bộ. Nhịp độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam hàng năm đạt trên dưới 40%. Năm 1990 Việt Nam mới đón 250 nghìn khách quốc tế, thì năm 1994 đã đạt trên 1 triệu, thu hẹp dần khoảng cách đón khách quốc tế so với 5 nước Đông Nam á. Số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam năm 1994 đã bằng 2/3 số khách du lịch quốc tế đến Philipin, bằng 1/4 Indonesia và xấp xỷ bằng 1/6 số khách du lịch quốc tế đến Thái lan, Singapore hoặc Malaysia. Lực lượng lao động trực tiếp trong ngành dulịch tăng nhanh (1992 có 21.510 người lao động trong khu vực nhà nước, đến năm 1993 đã có 36 851 lao động, tăng 72% so với 1992). Nhìn chung lao động trong ngành du lịch chưa được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ một cách hẹ thống. Một số liên doanh đã tự đào tạo dươcí hình thức tại chỗ hoặc ở nước ngoài. Hiện nay đã có những mạng lưới đào tạo du lịch từ công nhân kỹ thuật đến đại học, tuy nhiên còn thiếu những có sở đào tạo có quy mô hiện đại để đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành. Kết cấu hạ tầng tuy đã có những bước phát triển nhất định, song nhìn chung còn ở tình trạng thấp kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch. Hiện nay việc phát triển du lịch nước ta còn phân tán và đơn điệu, mới chỉ tập trung vào việc xây dựng khách sạn. Việc xây dựng các khu du lịch, các khách sạn chưa được tính toán kỹ lưỡng cả về qui hoach và thiết kế nên dẫn đến tình trạng xây dựng tràn lan, nhiều nơi, đặc biệt là ở các vùng ven biển, vùng có khả năng xây dựng phát triển các loại hình du lịch, đã gây lên những tác động tiêu cực đối với cảnh quan, môi trường. Mặt khác, sự chuẩn bị để hoà nhập với du lịch thế giới về nhận thức, tổ chức bộ máy, con người, có sở vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm và hiểu biết về qủan lý điều hành du lịch chưa đáp ứng yêu cầu, có mặt chưa tốt; sự phối, kết hợp giữa các cấp, các ngành trong quản lý, thúc đẩy phát triển du lịch chưa chặt chẽ, trong khi sự cạnh tranh du lịch trong vùng lại ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng khách du lịch với năng lực phục vụ như: khách sạn, cơ sở lưu trú, dịch vụ kỹ thuật, giữa phát triển du lịch với phát triển kết cấu hạ tầng, giữa mở cửa thu hút khách với việc đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội đang là những trở ngại và thách thức đối với ngành du lịch. c)Vị trí, vai trò của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, du lịch được xác định là “ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước” (nghị quyết số 45-CP ngày 22 tháng 6 năm 1993 của chính phủ) và “là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước” (chỉ thị số 46-CP/TW ngày 14/10/94). Vì vậy đòi hỏi mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương và tổ chức xã hội, với trách nhiệm của mình, trong đó ngành du lịch là nòng cốt, phải có nhận thức và tư duy mới nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực của đất nước để “phát triển mạnh du lịch, hình thành ngành công nghiệp du lịch có quy mô ngày càng tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của nước ta” mà nghị quyết lần thứ VII của BCHTW Đảng khoá VII đề ra. Trước tình hình đó, việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch đã trở nên cấp thiết để đề xuất một sự tiếp cận quốc gia đối với tương lai của ngành du lịch Việt Nam. 2.2 Những mục tiêu và chiến lược phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 – 2010. a)Những mục tiêu. + Mục tiêu về kinh tế: Tối ưu hoá sự đóng góp của ngành du lịch vào thu nhập quốc dân, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm để bước vào thập kỷ đầu của thế kỷ 21 du lịch trở thành một ngành công nghiệp tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước. + Mục tiêu an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Quy hoạch phát triển du lịch nhằm thu hút ngày càng nhiều khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, nhưng không làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. + Mục tiêu về môi trường. Quy hoạch du lịch gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái bền vững, với chế quản lý phù hợp vừa tôn tạo, vừa bảo vệ được các di sản thiên nhiên, cảnh quan, môi trường. + Mục tiêu văn hoá - xã hội Quy hoạch du lịch phải gắn liền với việc giữ gìn phát huy truyền thống văn hoá, nhân phẩm của con người Việt Nam, đồng thời khai thác các di sản văn hoá nghệ thuật có giá trị, giàu bản sắc dân tộc, các di tích lịch sử, các công trình văn hoá nổi tiếng , tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển du lịch và văn hoá có chất lượng cao của các nước, naang cao các tiêu chuẩn của ngành để đa dạnh hoá các sản phẩm du lịch Việt Nam. Song song với phát triển du lịch quốc tế, đẩy mạnh phát triển du lịch trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại, tham quan du lịch của nhân dân, góp phần từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đặc biệt ở các vùng xa xôi hẻo lánh, vùng đồng bào các dân tộc ít người. + Mục tiêu hỗ trợ phát triển Cung cấp thông tin tư liệu, những định hướng chiến lược cơ bản để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch, xúc tiến, phát triển, sự phối kết hợp, nghiên cứu, thống kê... giúp cho sự phát triển của ngành ở trung ương cũng như địa phương. Những mục tiêu cụ thể: Quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam xác định các mục tiêu cho các kế hoạch chỉ đạo phát riển ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đến năm 2010 khoảng 9 triệu khách quốc tế và 25 triệu khách trong nước, doanh thu đạt khoảng 11,80 tỉ USD. Năm 1994 tỷ lệ GDP du lịch mới chiếm 3,5% GDP của cả nước. Dự kiến đến năm 2010 là 12%. Nếu tính cả tỷ lệ GDP của ngành du lịch và các ngành dịch vụ liên quan đến hoạt động du lịch thì năm 1994 đạt 10,02%. Dự kiến đến năm 2010 đạt đến 27,0% GDP của cả nước. b) Các chiến lược phát triển du lịch: + Chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch Tổ chức đào tạo lại và đào tạo mới ngày càng tốt hơn cán bộ công nhân viên của ngành du lịch dưới hình thức tại chỗ, chính quy ở trong nước và nước ngoài, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài của ngành du lịch. Chú trọng giáo dục du lịch toàn dân. + Chiến lược sản phẩm Đa dạng hoá và nâng cao chất sản phẩm du lịch phù hợp với thị trường du lịch. Đối với từng vùng du lịch phải tạo ra được sản phẩm du lịch đặc thù và phải kết hợp với nước ngoài, nhất là các nước trong khu vực và các nước có chung biên giới để nối tour du lịch tạo thêm khả năng tiêu thụ các sản phẩm du lịch Việt Nam. Tạo sản phẩm du lịch độc đáo, dặc trưng giàu bản sắc dân tộc, đặc biệt là các sản phẩm du lịch mang truyền thống văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, phong tục, tập quán của Việt Nam... để tạo ưu thế cạnh tranh, thu hút khách, chiếm lĩnh, mở rộng thị trường. Tạo sản phẩm du lịch chuyên đề như: du lịch bồi dưỡng sức khoẻ, nghỉ biển, du lịch hang động, du lịch chơi golf, thể thao, câu cá, sông nước, du lịch cho người ham thích thủ công mỹ nghệ, làng nghề truyền thống, sinh vật cảnh, lễ hội, sinh hoạt văn hoá truyền thống dân tộc, du lịch hội nghị, festival... + Chiến lược nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch Tăng cường chất lượng dịch vụ trên cả 3 góc độ: thái độ phục vụ, tính đa dạng, tiện nghi hàng hoá, dịch vụ và khả năng sẵn sàng phục vụ tiếp đón khách. + Chiến lược về giữ gìn, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, môi trường (cả tải nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn). Tiến hành phân vùng chức năng trên địa bàn du lịch lớn, xác định các khu vực cần bảo vệ nguyên vẹn, khu vực quy hoạch dự trữ đất đai, các khu cần phục hồi. Xây dựng quy chế xếp hạng và khai thác bảo vệ thắng cảnh, tài nguyên du lịch. + Chiến lược về đầu tư du lịch Khuyến khích cả đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước ( cả khu vực nhà nước lẫn tư nhân) tham gia đầu tư xây dựng phát triển du lịch theo quy hoạch và có dự án đầu tư cụ thể. Nước ngoài liên doanh đầu tư các khách sạn lớn, cao cấp, các khu du lịch. Bằng nhiều hình thức huy động vốn để góp vào các liên doanh nâng tỷ lệ góp vốn phía Việt Nam trong các liên doanh. + Chiến lược về thị trường Nghiên cứu, phân tích, đánh giá các thị trường hiện tại và thị trường tiềm năng. Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển, mở rộng thị trường du lịch của Việt Nam để sớm hoà nhập vào thị trường du lịch của khu vực và thế giới. Trong giai đoạn đầu nên tập trung vào các nước Đông Nam á, châu á- Thái Bình Dương, tiếp đó là các thị trường Tây Âu và Bắc Mỹ. 2.3) Các định hướng phát triển chủ yếu a)Định hướng về tổ chức không gian lãnh thổ du lịch. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch nước ta được chia thành 3 vùng du lịch với những chỉ tiêu và sản phẩm du lịch đặc trưng. *Vùng du lịch Bắc Bộ. Bao gồm 23 vùng từ Hà Giang đến Hà Tĩnh với thủ đô Hà Nội là trung tâm của vùng và tam giác động lực tăng trưởng du lịch Hà Nội- Hải Phòng- Hạ Long. Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng là du lịch văn hoá kết hợp với du lịch tham quan, nghiên cứu. Các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu: Địa bàn các di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, lễ hội truyền thống, làng nghề, chủ yếu ở Hà Nội, Hà Tây, Ninh Bình, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Nam Hà, Hải Hưng... Địa bàn của nền văn hoá các dân tộc Tày- Nùng (Cao Bằng- Lạng Sơn), H’Mông ( Hà Giang- Lào Cai), Thái ( Lai Châu- Sơn La), Mường( hoà Bình). Địa bàn cảnh quan, nghỉ dưỡng: vùng biển và ven biển Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Bà, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò...Các cảnh quan vùng hồ Hoà Bình, hồ Tây, hồ Ba Bể, Yên Lập... các cảnh quan vùng núi: Tam Đảo, Ba Vì, Sa Pa, Yên Tử, Mẫu Sơn, Phansipan. Vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Bao gồm 5 tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi với Huế và Đà Nẵng là trung tâm đồng vị của vùng và trục phát triển du lịch Huế- Đà Nẵng- Lao Bảo. Sản phẩm du lịch đặc trưng là du lịch tham quan cãa di tích lịch sử cách mạng, kết hợp với du lịch biển, hang động và du lịch quá cảnh. Các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu: Địa bàn có các di sản văn hoá thời Nguyễn (Huế), văn hoá Chàm( Quảng Nam- Đà Nẵng). Địa bàn các di tích chống Mỹ, cứu nước chủ yếu ở Quảng Trị ( địa đạo Vĩnh Mốc, giải đường 9 đến Nam Lào, thành cổ Quảng Trị...) Địa bàn các cảnh quan nghỉ dưỡng, giải trí, dải ven bờ Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), vịnh Nam Ô, non nước Hội An (Quảng Nam - Đà Nẵng), Mỹ Khê( Quảng Ngãi). Các cảnh quan nghỉ dưỡng vùng núi Bạch Mã, Bà Ná, cảnh quan hang động ở Phong Nha ( Quảng Bình). Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Bao gồm 25 tỉnh từ Kon Tum đến Minh Hải với hai á vùng du lịch: Nam Trung Bộ ( 9 tỉnh) và Nam Bộ ( 16 tỉnh), trung tâm của vùng là Tp HCM. ở vùng này có các tam giác tăng trưởng du lịch: Tp HCM- Nha Trang, Tp HCM- Cần Thơ- Kiên Giang ( Phú Quốc) và tam giác tăng trưởng kinh tế và du lịch: Tp HCM- Biên Hoà- Vũng Tàu. Các sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng này là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi,du lịch sông nước, du lịch sinh thái đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu: Địa bàn đô thị: Tp HCM: với các khu vực Thanh Đa- Bình Quới, Lái Thiêu, hồ Kỳ Hoà, Lâm Viên, Văn Thánh, Đầm Sen... sẽ phát triển mở rộng dọc sông Sài Gòn, dọc sông Đồng Nai, khu Thủ Thiêm, rừng Sác, Cần Giờ. Vũng Tàu: phát triển khu vực du lịch biển để phục vụ cho dân cư tại chỗ, nghỉ cuối tuần của khách du lịch quốc tế cũng như khách du lịch tham quan trong nước, ở khu vực Tp HCM và phụ cận. Thành phố Cần Thơ sẽ trở thành trung tâm giao tiếp và du lịch của đồng bằng sông Cửu Long khi xây dựng cảng nước sâu cho táu trọng tải trên 1 vạn tấn và nâng cấp sân bay. Địa bàn nghỉ dưỡng giải trí: Cảnh quan nghỉ dưỡng ven biển thuộc Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà như: Vũng Rô, Đại Lãnh, Văn Phong, Dốc Lết, Bãi Tiêu, Đồng Đế, Nha Trang, Hòn Trũ. Ngoài ra các bãi biển như: Ninh Chữ, Cà Ná(Ninh Thuận), Bình Châu- Long Hải- Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hòn Chông (Hà Tiên) sẽ bổ sung cho sự hoàn chỉnh của dải du lịch ven biển của vùng này. Cảnh quan nghỉ dưỡng núi ở Lâm Đồng- Đà Lạt và một số tỉnh Tây Nguyên đặc biẹt thành phố Đà Lạt với nhiều cảnh quan, núi, hồ, thác và một hệ thống biệt thự có kiến trúc đa dạng, độc đáo. Các hồ: hồ Yali (Kon Tum), biển Hồ (Pleiku), hồ Lắc (Đắc Lắc), Dàu Tiếng (Tây Ninh), thác Mơ (sông Bé), Trị An ( Đồng Nai), Thị Nại (Quy Nhơn), hệ thống hồ của Đà Lạt như hồ Đan Kia, Suối Vàng... Các công viên quốc gia: Nam Các Tiên, Bù Đăng (Sông Bé), Côn Đảo, các sân chim cần bảo vệ (Minh Hải), rừng thông (Lâm Đồng). Địa bàn các di tích kháng chiến chống Mỹ: Bán đảo Phượng Hoàng (Quy Nhơn), Cam Ranh ( Khánh Hoà), sân bay Thành Sơbn (Ninh Thuận), Xuân Lộc(Đồng Nai), chiến khu Đ (Lâm Đồng- Tây Ninh- Sông Bé), núi Bà (Tây Ninh), dinh Độc Lập, địa đạo Củ Chi, .... -Địa bàn các di tích khác: Các tháp Chàm (Ninh Thuận, Bình Thuận), Tây Sơn (Bình Định), toà thánh Cao Đài, đền Bà (Tây Ninh), các Chùa Bà núi Sam, núi Sập, khu di tích ốc Eo Tri Tôn, Thoại Sơn (An Giang), quê Bác Tôn (Long Xuyên), kênh Xà No (Tiền Giang). Các trung tâm lưu trú: trung tâm chính: Tp HCM- Nha Trang- Đà Lạt- Vũng Tàu; trung tâm phụ: Quy Nhơn- Cần Thơ. b)Định hướng đầu tư xây dựng khách sạn. Trước mắt tập trung đầu tư hai loại nhóm khách sạn là: khách sạn chuyển tiếp (1* đến 3*) và khách sạn cao cấp (4* đến 5*) Tập trung xây dựng ở các trung tâm du lịch Hà Nội và Tp HCM khách sạn cao cấp ( loại 4* đến 5*) qui mô lớn từ 200 buồng trở lên. Ngoài ra có thể xem xét để xây dựng thêm một số khách sạn loại này ở các địa bàn ven biển như Hạ Long, Huế, Đà Nẵng, Văn Phong và Bà Rịa- Vũng Tàu.Đến năm 2010 cần có thêm 28240 buồng (vùng I: 1430, vùng II: 350, vùng III: 10740 buồng), cần khoảng 3163 triệu USD. Các khách sạn thương gia và khách sạn nghỉ dưỡng cao cấp 4* đến5* ở các đô thị và khu du lịch quan trọng khuyến khích liên doanh với nước ngoài để xây dựng. Các khách sạn nhỏ, cấp thấp huy động vốn trong nước (trong dân, vay vốn...) để phát triển. c)Định hướng đầu tư khu du lịch và cơ sở vui chơi giải trí. Đồng thời với việc xây dựng các khách sạn, đầu tư nâng các cơ sở vui chơi giải trí hiện có, cần nghiên cứu để hình thành các khu du lịch, các cơ sở vui chơi giải trí mới, thích hợp với điều kiện khả năng của mỗi vùng, góp phần vào việc đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam, tăng khả năng thu hút và lưu giữ khách. Phải chú ý đầu tư, tôn tạo danh lam thắng cảnh và di tích để giữ gìn bảo vệ môi trường, cảnh quan du lịch. Ưu tiên những dự án đầu tư lớn cho các khu du lịch tổng hợp như dự án ở khu non nước (Đà Nẵng), Thuận An (Huế), Hạ Long (Quảng Ninh), vịnh Văn Phong (Khánh Hoà), Đan Kia, hồ Suối Vàng (Lâm Đồng- Đà Lạt... d) Các khu vực ưu tiên đầu tư phát triển du lịch Thủ đô Hà Nội và phụ cận gồm Bắc Ninh( Hà Bắc), Hà Tây, Ninh Bình, Vĩnh Phú... tạo ra các khu nghỉ dưỡng và du lịch cuối tuần của thủ đô Hà Nội. Các dự án bao gồm: các khu phố cổ, khu vực Hồ Tây, Cổ Loa- Sóc Sơn, Tam Cốc- Bích Động, Hoa Lư, Chùa Hương, Ba vì- Đồng Mô, Suối Hai, Tiên Sơn, Tam Đảo, nền văn hoá các dân tộc thuộc tỉnh Hoà Bình, Điện Biên Phủ, hồ Ba Bể, khu hang động Nhất Nhị Tam Thanh- Mẫu Sơn, xây dựng các làng văn hoá các dân tộc Việt Nam ở Hà Tây. Hạ Long- Bái Tử Long, Cát bà, Đồ Sơn. Các dự án du lịch cần tậpp trung vào hải đảo Cát Bà và không gian trên biển của vịnh Hạ Long và Bái Tử Long...tạo nên quần thể có những sản phẩm du lịch có sức cạnh tranh trong vùng Huế- Đà Nẵng- Lao Bảo: các dự án du lịch cần tập trung bảo tồn và khai thác các di sản văn hoá kiến trúc, cách mạng cùng các di sản thiên nhiên ở trục đường Huế- Lăng Cô- Hải Vân- Sơn Trà- Đà Nẵng, dải ven biển từ vịnh Nam Ô đến đô thị cổ Hội An, động Phong Nha. Các dự án về kết cấu hạ tầng trong việc phát triển du lịch đồng bộ với Lào- Thái Lan qua đường xuyên á đến Myanma, Malaysia và Singapore trong tương lai Nha Trang- Ninh Chữ- Đà Lạt: các dự án kết hợp giữa khu nghỉ biển và núi. Đầu tư vào việc xây dựng một khu du lịch biển lớn ở Việt Nam cho những năm sau năm 2000 ở vùng biển Đại Lãnh, vịnh Văn Phong, Nha Trang. Xây dựng tuyến du lịch Tp HCM - Đà Lạt – Nha Trang. Xây dựng sân bay Đông Tác (Tuy Hoà) đáp ứng nhu cầu vận chuyển khách du lịch đến á vùng Nam Trung Bộ Vũng Tàu-Long Hải- Côn Đảo: đầu tư phảt triển du lịch nghỉ cuối tuần cho dân cư của Tp HCM và phụ cận trên khu vực bãi biển Long Hải- Phước Hải. Có dự án riêng cho Côn Đảo, Quy hoạch lại các khu du lịch ở bãi trước và bãi sau và thành phố Vũng Tàu. Thành phố HCM và phụ cận: tận dụng được thế mạnh của Tp HCM để khai thác tuyến du lịch trên sông Sài Gòn đến các vùng sông nước của đồng bắng châu thổ sông Cửu Long cùng các dự án phát triển du lịch trên sông Mê Kông đến Pnômpênh với Lào và Thái Lan. Dự án các làng văn hoá các dân tộc ở tp HCM. Một khu vực vui chơi giải trí ở tp HCM và phụ cận (Thủ Đức, Biên Hoà...) Hà Tiên- Phú Quốc( Kiên Giang): Cần có một định chế riêng cho việc đầu tư đảo Phú Quốc. Dự án đầu tư Phú Quốc phải là một dự án đầu tư toàn diên và đồng bộ trong một chiến lược phát triển lâu dài cho cả vùng, trong đó phát triển du lịch sinh thái là một hướng ưu tiên. 2.4) Tổ Chức và Thực hiện Quy hoạch xây dựng các cơ sở du lịch, khu du lịch phải xuất phát từ định hướng phát triển kinh tế – xã hội của mỗi vùng, mỗi địa phương, tiềm năng, tài nguyên du lịch tại chỗ và định hướng phát triển du lịch nhằm khai thác một cách có hiệu quả tài nguyên du lịch thúc đẩy phát truển và mở rộng khả năng du lịch của mỗi vùng, đồng thời duy tu tôn tạo nâng cấp di sản văn hoá, lịch sử, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, môi trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách du lịch. Phát triển các hình thức du lịch phù hợp, gắn địa bàn du lịch trọng điểm với du lịch vùng và du lịch cả nước. Khuyến khích và có những chính sách phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể để huy động mọi nguồn lực nhằm đầu tư phát triển du lịch một cách có hiệu quả, thiết thực. Từng bước tạo việc làm tăng nguồn thu, mở rộng giao lưu , góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Trong giai đoạn đầu, một mặt cải tạo, nâng cấp các cơ sở du lịch hiện có để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về chất lượng dịch vụ và sanr phẩm du lịch. Mặt khác phải có kế hoạch cụ thể và phương án xây dựng, phát triển du lịch với hình thức và qui mô thích hợp cho từng giai đoạn, đón trước thời cơ chủ động trong phát triển. Trên cơ sở đó tập trung đầu tư xây dựng và mở rông các tuyến điểm khu du lịch, làng văn hoá du lịch, kết hợp được nhiều loại hình du lịch khác nhau. Huy động nhiều nguồn vốn để đầu tư: liên doanh liên kết trong nước, các thành phần kinh tế; đầu tư nước ngoài để tranh nguồn vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm tổ chức quản lý hiện đại nhằm xây dựng các cơ sở du lịch, khu du lịch có chất lượng cao. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng phát triển du lịch với xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế xã hội tai chỗ. Chú trọng công tác nghiên cứu khoa học và phát triển nguồn nhân lực du lịch. Củng cố hệ thống các cơ sở đào tạo du lịch ở tất cả các cấp; tiêu chuẩn hoá công tác đào tạo để đáp ứng đòi hỏi của quá trình phát triển du lịch nước ta. Kết hợp giữa đào tao lại và đào tạo mới với bồi dưỡng dưới các hình thức thích hợp ở trong và ngoài nước để nhanh chóng có đội ngũ cán bộ đủ năng lực có phẩm chất phục vụ cho ngành du lịch. Kiện toàn tổ chức hệ thống quản lý du lịch từ trung ương đến địa phương, cả hệ thống quản lý nhà nước và các hoạt động kinh doanh du lich, dịch vụ; xây dựng các cơ sở chính trị, các đoàn thể quần chúng vững mạnh, trong sạch; đồng thời nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện dần hệ thống cơ chế chính sách và quy định về du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển để đảm bảo hiệu lực quản lý về du lịch, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho kinh doanh phát triển. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các ngành và các địa phương chỉ đạo quản lý và phát triển du lịch phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triẻn du lịch cả nước và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội mỗi vùng, mỗi địa phương, sớm đưa du lịch nước ta trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp xứng đáng vào công cuộc đổi mới đất nước và theo kịp du lịch các nước phát triển trong vùng và thế giới. 3)Quyết Định Của Thủ Tướng Chính Phủ (số 307-TTg) Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995-2000. Điều 1: Phêduyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịchViệt Nam thưòi kỳ 1995-2000” số 377-TCDL ngày 24 tháng 4 năm 1995 của Tổng cục Du lịch. Điều 2: Căn cứ mục tiêu chién lược phát triển kinh tế – xã hội, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, điều kiện, đặc điểm và tiềm năng du lịch của mỗi vùng, mỗi địa phương, Bộ trưởng, Thủ tướng, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, với phạm vi, trách nhiệm được giao, tổ chức và chỉ đạo việc triển khai “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995-2010” trong cácn kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm, cũng như các đề án quy hoạch phát triển du lịch cụ thể. Điều 3: Giao Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch chủ trì, phối hợp với Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà Nước và Bộ trưởng các Bộ: Xây dựng, Giao thông vận tải, Văn hoá- thông tin và các ngành, cơ quan chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quy hoạch và phát triển du lịch phù hợp với chiến lược phát triền kinh tế – xã hội của mỗi tỉnh, mỗi vùng trong một thể thống nhất của cả nước, nhất là ở những địa phương có trung tâm có khu du lịch lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Quảng Ninh. Điều 4: Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này. Ngoài ra chính phủ còn đưa ra một số Nghị định về việc thực hiện đổi mới và quản lý phát triển ngành du lịch như: Nghị định số 09/CP của chính phủ về tổ chức và quản lý các doanh nghiệp du lịch; Nghị định số 24/CP của Chính phủ về thủ tục xuất cảnh nhập cảnh; Nghị định 87/CP của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng, Nghị định 39/2000 NĐCP của Chính phủ về cơ sở lưu trú Du lịch.... Đồng thời với việc ra các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ các Bộ, liên Bộ cũng kịp thời đưa ra các thông tư hướng dẫn thi hành các Nghị định của Chính phủ về các lĩnh vực thuộc bộ mình quản lý. II) Những kết quả đạt được từ ngành du lịch và những hạn chế Những kết quả đạt được Tiềm năng du lịch nước ta là to lớn, phong phú và đa dạng, có sức thu hút khách. Điều này được nghiên cứu và khẳng định trong Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam 1995-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duỵêt theo quyết định 307/TTg ngày 24-5-1995. Và bản Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch 1995-2010 đã đạt nền móng cho sự phát triển du lịch không chỉ hiên nay mà còn cả cho mai sau. Kết quả đạt được cụ thể là Thời kỳ trước năm 1988, mỗi năm ngành du lịch chỉ đón được mấy chục ngàn lượt khách quốc tế. Từ năm 1990 đến 1995 đã có những đột biến lớn về số lượng cũng như cơ cấu khách. Năm 1990 du lịch Việt Nam mới đón được 250 ngàn lượt khách quốc tế Năm 1993 lượt khách quốc tế đến Việt Nam đã xấp xỉ đạt 670 ngàn người, tăng gấp 2,7 lần so với năm 1990 (mỗi năm tăng 39%). Năm 1994 cả nước đón được trên 1 triệu lượt khách quốc tế, tăng 52% so với năm1993, khách nội địa cũng tăng từ 1 triệu năm1990 lên 3,5 triệu năm 1994. Năm 1995 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 1,358 triệu lượt người tăng 33,4% so với năm 1994, số lượng khách nội địa đạt 5,5 triệu lượt người so với năm 1994 tăng 57,1%. Nguồn thu nhập xã hội từ du lịch của năm 1994 đã đạt trên 5200 tỉ đồng và năm 1995 con số này đã tăng lên tới 8000 tỉ đồng. Thời kì 1995-1997 khách quốc tế và khách nội địa đạt tốc độ tăng trưởng bìmh quân 30%/năm. Năm 1997 đã đón được 1,7 triệu lượt khách quốc tế và khoảng 8,5 triệu lượt khách trong nước. Tỉ trọng GDP từ ngành du lịch thời kỳ1994-1997 bình quân khoang12% mức đóng góp của ngành du lịch vào ngân sách nhà nước, bình quân gần 800 tỉ đồng/năm. Ngành du lịch đã thu hút lực lượng lao động trưc tiếp trên 150 ngàn người. Một điều quan trọng hơn nữa là các hoạt động hợp tác quốc tế về du lịch được tăng cường và mở rộng. Đến nay, du lịch Việt Nam đã kí kết 13 hiệp định hợp tác du lịch với các nước. Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ bạn hàng với 800 hãng du lịch của 50 nước trên thế giới. Việt Nam đã tham gia tổ chức du lịch thế giới (WTO), hiệp hội du lịch châu á Thái Bình Dương (PATA), hiệp hội du lịch các nước Đông NAm á (ASEANTA), hợp tác phát triển du lịch 6 nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng... Việc mở rộng hợp tác quốc tế về du lịch đã góp phần tích cực trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, hình thành và củng cố môi trường cho nền kinh tế mở của đất nước. Đồng thời, vai trò và vị trí của du lịch trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước đã dần được khẳng định. Vị thế của du lịch Việt Nam trên thị trường du lịch của khu vực và thế giới ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, giai đoạn sau (1996-1997), do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch coa phần chậm đi so với những năm trước. Lượng khách quốc tế vào Việt Nam vẫn tăng nhưng không cao, năm 1996 chỉ tăng 18,9% so với năm1995 và năm1997, du lịch Việt Nam đón trên 1,7 triệu lượt khách tăng 6,7% so với năm1996. Năm 1997 khách du lịch trong nước tiếp tục tăng mạnh, đạt 8,5 triệu lượt người, tăng 30,8%; tổng thu xã hội từ du lịch ước đạt gần 9000 tỉ đồng, tăng 10,6% và nộp ngân sách đạt 840 tỉ đồng, tăng 13,5% so với năm 1996. Đến năm 1999 thu nhập xã hội từ du lịch đạt 18 nghìn tỉ đồng. Cùng với sự gia tăng về số lượng khách du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch cũng không ngừng phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 14,8%. Năm 1997 đã có 3050 khách sạn với trên 55600 phòng, trong đó có 28000 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đánh giá về tình hình hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn- du lịch có thể khẳng định là đã thu được một số kết quả bước đầu.Tính đến nay Bộ kế hoạch và đầu tư đã cấp 181 giấy phép đầu tư trong lĩnh vực khách sạn- du lịch, chiếm tỉ trọng đáng kể trong hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài thời gian qua, cả về số dự án (chiếm 7%) và vốn đầu tư (chiếm 11%). Các dự án đầu tư chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn theo hình thức liên doanh và càng về sau càng có qui mô lớn như dự án khu du lịch Đà Lạt- Đankia với tổng vốn đầu tư 706 triệu USD; dự án công viên 23-9 vớin tổng vốn đầu tư 524 triệu USD. Về các hoạt động khác của ngành du lịch vẫn đang được chú trọng và triển khai tích cực ở nhiều nơi trên diện rộng, đi vào chiều sâu như công tác quản lý nhà nước về du lịch. Xây dựng pháp lệnh du lịch; triển khai xây dựng quy hoạch du lịch theo các vùng và các địa bàn trọng điểm, quản lí nghiệp vụ và đào tạo bồi dưỡng cán bộ; đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến du lịch; tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế, triển khai các hiệp định đã kí và chuẩn bị kí tiếp hiệp định với các nước khác; tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài cho các dự án phát triển du lịch... Ngày 8 tháng 12 năm 2000 du lịch Việt Nam đã đón vị khách du lịch quốc tế thứ 2 triệu đánh dấu một mốc mới trong quá trình phát triển của ngành. Du lịch Việt Nam đã vươn lên ngành trung bình giữa các nước ASEAN.Với nhịp độ tăng trưởng khách quốc tế như hiện nay thì hy vọng đến năm 2010, du lịch Việt Nam sẽ đón vị khách quốc tế thứ 7 triệu. Nói tóm lại trong những năm gần đây, ngành du lịch nước ta đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong việc tổ chức đón ngày càng nhiều khách nước ngoài đến Việt Nam, Việt kiều về thăm Tổ Quốc và nhân dân đi du lịch trong và ngoài nước; góp phần phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy giao lưu văn hoá, làm cho nhân dân thế giới hiểu biết thêm về con người, đất nước Việt Nam, tranh thủ được thiện cảm và sự đồng tình, ủng hộ quốc tế đối với nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đóng góp một phần khá lớn cho thu nhập trong nước. 2) Hạn chế Cùng với những thành tựuto lớn mà ngành du lịch đã góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội như trên. Vị trí và vai trò của ngành du lịch còn chưa được nhận thức đầy đủ ở nhiều ngành, nhiều cấp, địa phương, và không ít trong dư luận xã hội coi du lịch chỉ là ngành phục vụ, phi sản xuất vật chất, chưa thấy được du lịch là một ngành kinh tế đặc thù có yêu cầu phát triển bền vững mang tính tổng hợp liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao dẫn đến trong chỉ đạo cụ thể, biện pháp thi hành ở nhiều ngành, nhiều cấp làm sai lệch hay hạn chế đến sự phát triển du lịch. Biểu hiện cụ thể Đầu tư vào du lịch trong những năm qua còn một số tồn tại và mâu thuẫn Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Trong thời gian qua, theo ước tính của một số chuyên gia đầu tư du lịch thì có tới 90% lượng vốn đầu tư du lịch là để xây dựng các khachs sạn, nhà hàng (cơ sở lưu trú), khaỏng gần 10% đầu tư vào vận tải du lịch. Các lĩnh vực lữ hành, vui chơi giả trí ... rất ít hoặc gần như chưa được đầu tư. Tình hình trên, xét về mặt khách quan thì thấy rằng đầu tư vằo kinh doanh khách sạn, nhà hàng ít rỉu ro hơn và dễ quản lý hơn. Song xét về mặt chủ trương chính sách lại cho thấy: + Tình trạng đầu tư trong lĩnh vực lữ hành còn bị hạn chế. Các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài chưa được làm lữ hành quốc tế. Các doanh nghiệp lữ hành của các ngành, các tổ chức xã hội được cấp giấy phép hành nghề còn rất ít ỏi. + Nhà nước lại chưa có chính sách cụ thể để khuyến khích đầu tư vào các khu vui chơi giải trí. ở khâu này kinh doanh có lãi ít hơn, thu hồi vốn chậm hơn nhưng lại không được ưu tiên nên không thu hút được vốn đầu tư. Với cơ cấu đầu tư như trên đã hạn chế rất nhiều đến hiệu quả đầu tư vào du lịch. - Đầu tư đang còn bị động, phân tán và manh mún. Do chậm chạp trong công việc quy hoạch (tổng thể và cụ thể ở từng vùng, từng địa phương), do chưa dự báo hết xu thế phát triển du lịch của thế giới và của Việt Nam sau cấm vận... nên việc cấp giấy phép đầu tư đang còn bị chậm vàbị động. Trong những năm vừa qua nhiều ngành không chuyên doanh du lịch lại đầu tư vào du lịch tương đối lớn. Song ở các thành phố lớn lại có quá nhiều các khách sạn mini không đủ điều kiện để xếp hạng và đón khách quốc tế. Để tồn tại các khách sạn này phải hạ giá và chính họ là một lực lượng không nhỏ để phá giá thị trường ở Việt Nam. Tuy đầu tư nhiều nhưng chưa hình thành được những khu du lịch lớn, tập trung với trình độ ngang các nước trong khu vực. Các khách sạn có qui mô hàng chục phòng ở các tỉnh có ít khách đang bị bỏ trống hoặc công suất sử dụng thấp. Tình hình trên cho thấy rằng, vốn đầu tư vào du lịch đang bị lãng phí Quản lý đầu tư chưa chặt chẽ, chưa khoa học. Do thiếu hướng dẫn cụ thể nên nhiều khách sạn, nhà hàng mới xây dựng đã phải thay đổi và nâng cấp trang trí nội thất, nhiều khách sạn xây dựng không phù hợp với kinh doanh du lịch. Một số thành phố lớn, nhiều khách sạn mini, nhiều nhà hàng mọc lên bất chấp quy hoạch, cảnh quan thành phố và môi trường... Do vậy, đầu tư kinh doanh trong du lịch đã góp phần tạo ra sự lộn xộn trong kinh tế. Trong chính sách thuế, du lịch cũng chỉ coi là một ngành dịch vụ cần thiết điều tiết mạnh với thuế suất cao nhất làm hạn chế đến hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành. Mối quan hệ phát triển liên ngành chưa được sự phối hợp tích cực và giải quyết hợp lý , đồng bộ những vấn đề vướng mắc. Chưa có sự phối hợp quản lý theo ngành và theo địa phương. Công tác quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế xã hội còn hạn chế dẫn đến nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch phát triển tự phát, không có quy hoạch, khai thác bừa bãi tài nguyên du lịch, thiên về lợi ích cục bộ trước mắt mà quên đi lợi ích tổng thể lâu dài đã ảnh hưởng xấu đến việc bảo vệ, tôn tạo , giữ gìn tài nguyên môi trường. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chuyên ngành du lịch thiếu thốn, lạc hậu, phân tán. Đội ngũ cán bộ, nhân viên chưa được đào tạo tốt , kinh nghiệm ít, số lượng thiếu, trình độ nghiệp vụ và kiến thức chưa cao, hình thức dịch vụ phục vụ còn nghèo, chất lượng kém. Tài nguyên và môi trường du lịch chưa được tu bổ, tôn tạo giữ gìn và khai thác hợp lí. việc bảo vệ, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong hoạt động du lịch ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc17482.DOC
Tài liệu liên quan