Tài liệu Đề tài Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003): Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam: LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Kết quả nêu trong luận án là trung thực.
Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn rõ ràng.
Tác giả luận án
Trần Khánh Hưng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ v
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
6
1.1. Những vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong hội nhập kinh tế
quốc tế
6
1.2. Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập
kinh tế quốc tế
23
Chương 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ĐÀI LOAN
(THỜI KỲ 1961 – 2003) VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
60
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội Đài Loan giai đoạn 1949 - 1960 60
2.2. Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập
kinh tế quốc tế ở Đ...
223 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003): Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Kết quả nêu trong luận án là trung thực.
Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn rõ ràng.
Tác giả luận án
Trần Khánh Hưng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ v
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
6
1.1. Những vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong hội nhập kinh tế
quốc tế
6
1.2. Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập
kinh tế quốc tế
23
Chương 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ĐÀI LOAN
(THỜI KỲ 1961 – 2003) VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
60
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội Đài Loan giai đoạn 1949 - 1960 60
2.2. Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập
kinh tế quốc tế ở Đài Loan (thời kỳ 1961 - 2003)
68
2.3. Một số bài học kinh nghiệm của Đài Loan về vai trò của nhà nước đối với
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
114
Chương 3: KHẢ NĂNG VẬN DỤNG MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ĐÀI LOAN VÀO NƯỚC TA
HIỆN NAY
128
3.1. Khái quát về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta từ 1986 đến nay
128
3.2. Một số điểm tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đài Loan khi thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
162
3.3. Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế của Đài Loan vào
nước ta hiện nay
170
KẾT LUẬN 198
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 201
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 202
PHỤ LỤC 211
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh
ADB Ngân hàng phát triển châu Á Asian Development Bank
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Asean Free Trade Area
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tê châu Á -
Thái Bình Dương
Asia-Pacific Economic
Cooperation
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á Association of South East Asian
Nations
ASEM Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu Asean European Meeting
CEPT Chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung
Common Effective Preferential
Tariff
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DNVVN
EU
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Liên minh châu Âu
Europe Union
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài Foreign Direct Investment
FTA Hiệp định thương mại tự do Free Trade Agreement
GATT Hiệp định chung về thương mại
và thuế quan
General Agreement on Trade
and Tariff
GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product
ICOR Tỷ lệ gia tăng vốn trên sản lượng Incremental Capital-Output
Ratio
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế International Moneytary Fund
NAFTA Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ North American Free Trade
Area
NIEs Các nền kinh tế công nghiệp mới New Industrialization
Economies
NT$ Đài tệ (tiền Đài Loan) New Taiwan Dollar
ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức
Official Development
Assisstance
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế
Organization for Economic Co-
operation and Development
R&D Nghiên cứu và phát triển Research and Development
TBCN Tư bản chủ nghĩa
TFP Năng suất nhân tố tổng hợp Total Factor Productivities
TNCs Các công ty xuyên quốc gia Transnational Corporations
TW Trung ương
UNIDO Tổ chức phát triển công nghiệp
của Liên hợp quốc
United Nation for Industrial
Development Organization
USD Đồng Đô la Mỹ United States Dollar
WB Ngân hàng thế giới World Bank
WEF Diễn đàn kinh tế thế giới World Economic Forum
WTO Tổ chức thương mại thế giới World Trade Organisation
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Tr
Bảng 1.1: Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại hình chiến lược công nghiệp hoá 46
Bảng 2.1: Chi tiêu cho R&D của Đài Loan 99
Bảng 2.2: Chỉ số phát triển khoa học công nghệ Đài Loan (1997 - 2002) 101
Bảng 2.3: Nguồn tăng trưởng của Đài Loan giai đoạn (1995 - 2003) 108
Bảng 3.1: Cơ cấu tổng vốn đầu tư thực hiện giai đoạn (1991 - 2006) 140
Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn 141
Bảng 3.3: Cơ cấu ngành trong GDP (%) 142
Bảng 3.4: Xuất khẩu và GDP 142
Bảng 3.5: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến 143
Bảng 3.6: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và Đài Loan 163
Bảng 3.7: Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam và Đài Loan 164
Bảng 3.8: Chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam và Đài Loan 164
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Đài Loan giai đoạn 1960-1982 85
Hình 2.2: Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan năm 1983 86
Hình 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan giai đoạn 1960 -1982 87
Hình 2.4: Đầu tư ra nước ngoài của Đài Loan (1995 - 2006) 97
Hình 2.5: Tăng trưởng kinh tế của Đài Loan giai đoạn (1995 - 2006) 107
Hình 2.6: Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan năm 2003 109
Hình 2.7: Kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan giai đoạn (1995 - 2003) 109
Hình 2.8: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Đài Loan 110
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đã
và đang diễn ra ở nhiều nước đang phát triển. Ngày nay, khi toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới diễn ra sâu rộng do tác động của cách mạng khoa học - công
nghệ thời đại thì CNH, HĐH chỉ có thể thành công và được rút ngắn khi có chiến
lược đúng đắn, gắn với các chính sách, giải pháp điều hành phù hợp với những
biến động của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Thực tế, một số quốc gia
và lãnh thổ đã sớm thành công trong công nghiệp hoá và gia nhập hàng ngũ
NIEs, trong đó có Đài Loan. Sự thành công của Đài Loan có nguyên nhân rất
quan trọng là sự định hướng và điều tiết của nhà nước. Điều đó đã để lại những
bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
Ở nước ta, sự nghiệp CNH, HĐH theo đường lối đổi mới của Đảng ta đạt
được những thành tựu quan trọng. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế -
xã hội và bước sang giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm mục tiêu đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Tuy
nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra ngày một mạnh mẽ thì yêu
cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở nước ta đang đứng trước những
thời cơ và thách thức to lớn đối với CNH, HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó càng khẳng định vai trò cần thiết
của nhà nước trong định hướng, điều hành CNH, HĐH ở nước ta.
Đó là lý do nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhà
nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đài Loan trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận
dụng vào Việt Nam”.
2
2. Tổng quan các công trình đã nghiên cứu có liên quan đến luận án
Về vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH trong hội nhập kinh
tế quốc tế đã được nhiều nhà nghiên cứu đi sâu phân tích. Nghiên cứu về Đài
Loan ở nước ngoài, có thể nêu ra các công trình như: Chính sách và thể chế
trong quá trình tăng trưởng nhanh của Dahlman & Ousa (1997) [91]; Vai trò
của nhà nước trong phát triển kinh tế Đài Loan của Jocl (1994) [89]; Sự can
thiệp của nhà nước trong phát triển hướng ngoại: Lý thuyết tân cổ điển và thực
tiễn Đài Loan của Wade (1988) [96]; Điều tiết thị trường: Lý thuyết kinh tế và
vai trò của chính phủ ở các nền kinh tế công nghiệp hoá mới Đông Á của Wade
(1990) [97]; Một số nghiên cứu được tập hợp trong công trình Suy ngẫm lại sự
thần kỳ Đông Á của Ngân hàng thế giới (2002) [57] có đề cập đến vấn đề kinh
nghiệm về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số
nước Đông Á. Gần đây, công trình Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp – Tư duy
lại mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước của Li Tan (2008) [71] đã tập
trung nghiên cứu mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước để luận giải về vai
trò quan trọng của nhà nước đối với công nghiệp hoá ở một số nước như Liên Xô
và các nền kinh tế mới nổi ở khu vực Đông Á, trong đó có Đài Loan…
Ở trong nước, một số nghiên cứu có đề cập đến vai trò của nhà nước với
tư cách là một nhân tố tác động đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
một số nước và vùng lãnh thổ ở Đông Á như: Kinh tế Đài Loan - Tình hình và
chính sách của Phạm Thái Quốc (1997) [66]; Công nghiệp hoá ở NIEs Đông Á
và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam của Lê Bàn Thạch & Trần Thị Tri
(2000) [72]. Đặc biệt, nhiều công trình nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội
Việt Nam như: Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển châu
Á của Đỗ Đức Định (1991) [31]; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Những bài học
thành công của Đông Á do Nguyễn Thị Luyến chủ biên (1998) [50]; Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá: Phát huy lợi thế so sánh - Kinh nghiệm của các nền kinh
3
tế đang phát triển ở châu Á của Đỗ Đức Định (1999) [32]; Lựa chọn sản phẩm và
thị trường trong ngoại thương thời kỳ công nghiệp hoá của các nền kinh tế Đông
Á do Nguyễn Trần Quế chủ biên (2000) [65]; Một số vấn đề về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam của Đỗ Hoài Nam (2004) [56]; Kinh tế học phát triển
về công nghiệp hoá và cải cách nền kinh tế của Đỗ Đức Định (2004) [34]… đã
đề cập và nghiên cứu về các chính sách của nhà nước nhằm thúc đẩy CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở một số nước Đông Á, trong có có Đài Loan và
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, có tính
hệ thống về vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH trong hội nhập
kinh tế quốc tế theo giác độ lịch sử kinh tế.
3. Mục tiêu của đề tài luận án
- Làm rõ vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH ở Đài Loan trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH,
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan có ý nghĩa thực tiễn với nước ta
hiện nay.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Làm rõ hơn cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt với những nước có nền kinh tế ở điểm
xuất phát thấp đang thực hiện CNH, HĐH nhằm đẩy nhanh tiến trình phát triển.
- Tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng về vai trò nhà nước đối với
CNH, HĐH ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 -
2003) để rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong CNH,
HĐH.
- Luận giải khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước đối với CNH, HĐH trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đài Loan
4
với nước ta hiện nay. Đồng thời, đề xuất một số kiến nghị để tăng thêm tính khả
thi trong vận dụng các kinh nghiệm đó.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của nhà nước đối với CNH,
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan.
- Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của nhà nước với CNH, HĐH trong hội
nhập kinh tế quốc tế bao hàm nhiều vấn đề nhưng luận án chỉ tập trung nghiên
cứu về việc lựa chọn chiến lược CNH, HĐH và các chính sách, giải pháp của
nhà nước tác động vào tiến trình CNH, HĐH.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1961 đến năm 2003. Luận án lựa chọn thời
gian nghiên cứu như vậy vì từ đầu những năm 1960, Đài Loan đã chuyển sang
thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và từng bước hội nhập
vào đời sống kinh tế quốc tế. Đến năm 2003, Đài Loan chính thức là thành viên
của WTO được khoảng 2 năm (Đài Loan trở thành thành viên chính thức của
WTO từ 01/01/2002). Mục đích của luận án là làm rõ những điều chỉnh trong
chính sách, giải pháp của nhà nước Đài Loan cho phù hợp với những quy định
của WTO và tác động của nó đến tình hình kinh tế - xã hội. Điều này tương đồng
với Việt Nam khi Việt Nam mới trở thành thành viên của WTO từ 01/01/2007.
Tuy nhiên, về vai trò của nhà nước Đài Loan từ sau năm 2003 đến nay cũng
được luận án nghiên cứu để làm rõ vai trò tích cực của nhà nước đối với sự phát
triển của nền kinh tế tri thức trong hội nhập.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận án đã kết hợp sử dụng các phương pháp
lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp đối chứng so sánh và phương pháp
phân tích kinh tế để làm rõ nội dung nghiên cứu. Đồng thời trong nghiên cứu, tác
5
giả đã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số học giả trong
nước và quốc tế, chủ yếu là kết quả phân tích kinh tế lượng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan (thời kỳ 1961 - 2003) và bài học kinh
nghiệm.
Chương 3: Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài
Loan vào nước ta hiện nay.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá
Trong lịch sử xã hội loài người, công nghiệp hoá là con đường tất yếu để
phần lớn các quốc gia trên thế giới phát triển và tiến tới hiện đại, văn minh. Thực
tiễn ở nhiều nước cho thấy, công nghiệp hoá diễn ra rất phong phú, đa dạng về
mô hình bởi nó là quá trình phức tạp và bao hàm phạm vi rộng lớn. Do thời điểm
xuất phát và phương thức tiến hành khác nhau nên bản thân khái niệm công
nghiệp hoá cũng được quan niệm theo những cách tiếp cận khác nhau. Theo tổng
kết của UNIDO thì có đến 128 cách định nghĩa khác nhau về công nghiệp hoá.
Thực tế, công nghiệp hoá là một khái niệm mang tính chất lịch sử. Tuỳ
theo góc độ nhìn nhận mà người ta nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của công
nghiệp hoá để đưa ra những quan niệm khác nhau. Những quan niệm đó có thể
quy về một số dạng cơ bản sau:
- Cuối thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở nước Anh và
sau đó lan sang các nước tư bản khác thì công nghiệp hoá được hiểu là đưa đặc
tính công nghiệp cho một hoạt động; trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà
máy, các loại công nghiệp... [40, tr. 48]. Do vậy, các nước này chủ yếu tập trung
vào phát triển các ngành công nghiệp và sự chuyển biến về kinh tế - xã hội khác
chỉ là hệ quả của phát triển công nghiệp. Quan niệm này có nhiều mặt không hợp
lý: nó không cho thấy mục tiêu cần đạt của quá trình công nghiệp hoá; nó gần
7
như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với phát triển công nghiệp; và nó
không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá.
- Khi nền công nghiệp chuyển biến nhanh chóng từ kỹ thuật cơ khí giản
đơn với máy hơi nước làm động lực sang cơ khí phức tạp với động cơ đốt trong,
điện năng làm động lực thì quan niệm công nghiệp hoá đã được mở rộng, không
chỉ đơn thuần là phát triển nền công nghiệp thành lĩnh vực đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, mà còn là biến tất cả các hoạt động sản xuất khác thành loại
hình hoạt động công nghiệp.
- Từ 1926, Liên Xô bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá theo mô hình kinh
tế kế hoạch hoá tập trung. Mặc dù trước đó chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức
độ nhất định nhưng nếu so với phương Tây lúc đó thì Liên Xô vẫn thiếu một hệ
thống công nghiệp nặng hoàn chỉnh và kinh tế tiểu nông vẫn còn tồn tại khá phổ
biến. Bên cạnh đó, Liên Xô còn bị phương Tây bao vây phong toả về kinh tế.
Trong bối cảnh ấy, mục tiêu của công nghiệp hoá là tập trung cao độ cho phát
triển công nghiệp nặng. Điều này bao hàm cả ý nghĩa kinh tế và quốc phòng. Do
vậy, công nghiệp hoá được quan niệm là “Quá trình xây dựng nền đại công
nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công
nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy…” [40, tr. 49]. Quan niệm này
phù hợp với điều kiện của Liên Xô thời kỳ đó. Trong quá trình thực hiện, mặc dù
có sự chú trọng nhất định đến công nghiệp nhẹ và nông nghiệp nhưng bao giờ
công nghiệp nặng cũng được coi như một tiền đề có ý nghĩa quyết định đến sự
toàn thắng của công nghiệp hoá cũng như sự sống còn của đất nước.
- Năm 1963, UNIDO đưa ra khái niệm: "Công nghiệp hoá là một quá trình
phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của
cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong
nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận
chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng,
có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo
8
đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội". Quan niệm này chứa đựng sự dung hoà các
ý kiến cho rằng quá trình công nghiệp hoá bao trùm toàn bộ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự phát triển kinh tế mà còn cả sự tiến bộ
về mặt xã hội [40, tr. 51].
Nhìn chung, mỗi cách quan niệm về công nghiệp hoá trên đây đều có
nhân tố hợp lý, nó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và gắn với những yêu cầu đặt
ra trong phát triển. Tuy nhiên, những quan niệm này mới chỉ đề cập đến khía
cạnh vật chất - kỹ thuật mà chưa đề cập đến một vấn đề cũng rất quan trọng là
khía cạnh cơ chế, thể chế. Bởi ngoài mục tiêu, những nội dung chủ yếu thì
phương thức thực hiện hay cách thức, cơ chế phân bổ sử dụng các nguồn lực
cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại
trong công nghiệp hoá.
Từ thực tế ấy, tác giả của luận án cho rằng: Công nghiệp hoá là quá trình
chuyển biến một nền kinh tế nông nghiệp mang tính tự cấp, tự túc khép kín với
lao động thủ công là chủ yếu sang một nền kinh tế công nghiệp, vận hành theo
cơ chế thị trường dựa trên sự phân công lao động xã hội phát triển ở trình độ
cao, với lao động bằng máy móc, kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế nhằm tăng năng suất lao động xã hội và thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Với quan niệm như vậy, công nghiệp hoá là quá trình cải biến toàn diện
nền kinh tế. Ở khía cạnh vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hoá là quá trình chuyển
biến căn bản trình độ kỹ thuật của nền kinh tế, từ tình trạng lạc hậu, dựa vào
phương pháp thủ công là chủ yếu sang nền kinh tế sản xuất dựa vào tiến bộ khoa
học - công nghệ mới nhất đem lại năng suất, chất lượng và hiệu suất cao. Còn ở
khía cạnh cơ chế, thể chế thì công nghiệp hoá là quá trình cải biến thể chế và cấu
trúc của nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn, từ nền kinh tế hiện vật - tự cấp, tự
túc, khép kín sang nền kinh tế dựa trên nguyên tắc thị trường. Cả lý thuyết và
thực tiễn đều đã chứng minh, cơ chế thị trường thường là một phương thức tốt để
9
tổ chức hoạt động kinh tế, nó cho phép phân bổ các nguồn lực xã hội một cách
hiệu quả. Phát triển kinh tế thị trường không chỉ là điều kiện tiền đề mà là điều
kiện không thể thiếu cho cả quá trình công nghiệp hoá không chỉ ở các nước phát
triển đi trước mà cả ở các nước đang phát triển ngày nay.
Đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất với nhau trong việc xác
định hệ thống các tiêu chí đánh giá về công nghiệp hoá bởi các quan điểm được
đưa ra bao quát một diện rộng nhưng lại thiếu sự phân loại và xác định rõ chuẩn
mực với từng lĩnh vực, từng yếu tố. Mặc dù vậy, tác giả luận án cho rằng, có thể
dựa vào 3 nhóm tiêu chí chủ yếu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và phát triển bền vững để đánh giá về trình độ công nghiệp hoá. Đây là những
yếu tố cơ bản phản ánh tính chất và nội dung của quá trình công nghiệp hoá,
chúng vừa phản ánh ở tầm khái quát, vừa phản ánh ở giác độ cụ thể, đo lường
được cả những thay đổi về lượng và những biến đổi về chất.
Những tiêu chí của từng nhóm này bao gồm: i) Nhóm tiêu chí về tăng
trưởng: tăng trưởng GDP (%), tăng trưởng GDP theo đầu người (%), GDP bình
quân đầu người; ii) Nhóm tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu: cơ cấu ngành kinh tế,
cơ cấu công nghiệp (hàng chế tạo và hàng phi chế tạo), cơ cấu xuất khẩu (hàng
chế tạo và hàng phi chế tạo), cơ cấu lao động và dân cư, cơ cấu vùng (mức độ đô
thị hoá)…; iii) Nhóm tiêu chí về phát triển bền vững: công bằng xã hội, xoá đói
giảm nghèo, tỷ lệ việc làm hay thất nghiệp, giáo dục, chất lượng sống, môi
trường chính trị - xã hội - kinh tế, năng lực thể chế, môi trường tự nhiên (mức độ
huỷ hoại, phục hồi). Ngoài ra có thể có các tiêu chí tham khảo khác: Chỉ số TFP;
Chỉ số phát triển người (HDI); Vị trí trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh.
1.1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Hiện đại hoá được hiểu là toàn bộ các quá trình, các dạng cải biến, các
bước quá độ từ các trình độ kinh tế - kỹ thuật khác nhau đang tồn tại lên trình độ
mới cao hơn dựa trên những thành tựu của khoa học - công nghệ. Ngày nay, hiện
10
đại hoá được thừa nhận rộng rãi và được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ đơn
thuần là hiện đại hoá công nghiệp mà còn là hiện đại hoá nền kinh tế. Do vậy,
khi xét về bản chất, khái niệm hiện đại hoá thường được các nhà lý luận cho là
hình thức đặc biệt của sự phát triển xã hội.
Thực tế cho thấy, công nghiệp hoá luôn gắn chặt với hiện đại hoá và chính
hiện đại hoá là tiền đề quyết định sự thành công của công nghiệp hoá. Các nhà
kinh tế học hiện đại thường dùng phạm trù công nghiệp hoá như một tiêu chuẩn
phân định xã hội truyền thống và xã hội hiện đại cũng như để phân định các thời
kỳ, các dạng hiện đại hoá đã và đang diễn ra trong lịch sử xã hội loài người.
Thế kỷ XX đã chứng minh, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã đưa
đến những bước nhảy kỳ diệu trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và đưa
xã hội loài người lên trình độ phát triển mới. Khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, nó thấm sâu vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất và thường
xuyên tạo ra những biến đổi về chất trong phát triển. Chính sự phát triển của
khoa học và công nghệ đã đánh dấu và mở ra những bước ngoặt mới trong công
nghiệp hoá. Cách mạng khoa học – công nghệ là hình thức phổ biến trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất và đời sống xã hội. Do đó, khoa học – công
nghệ là một trong những phương tiện quan trọng nhất để giải quyết các vấn đề
xã hội, là con đường hiện đại hoá của các quốc gia trên thế giới.
Kinh nghiệm phát triển của các nền kinh tế cho thấy, bản thân công
nghiệp hoá đã bao hàm yêu cầu đạt tới trình độ phát triển kinh tế hiện đại nhất
hiện có vào thời điểm tiến hành. Quá trình ấy thúc đẩy việc giải quyết nhanh
chóng những nhiệm vụ mà thực tiễn đặt ra, đồng thời đẩy nhanh sự ứng dụng
những thành tựu của nó vào sản xuất. Trình độ của các hoạt động sản xuất không
cố định theo một chuẩn mực kỹ thuật – công nghệ cứng mà nó luôn được nâng
cao, được hiện đại hoá theo sự tiến triển của thời đại. Như vậy, công nghiệp hoá
luôn phải đi đôi với hiện đại hoá.
11
Người Đài Loan quan niệm CNH, HĐH là quá trình chuyển biến từ một
xã hội trong đó nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một xã hội hiện
đại, ở đó các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp và dịch vụ liên tục
được nâng cấp về trình độ kỹ thuật – công nghệ theo sự tiến triển của thời đại,
mang lại giá trị gia tăng cao, cơ cấu kinh tế hiện đại, nhằm mục đích cao nhất là
đạt tới trình độ của một nền kinh tế phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học và công nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao” [25, tr. 43].
1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Ở hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, làn sóng toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ
và tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế – chính trị – xã hội trên toàn thế
giới. Trong đó, toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và là động lực
thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung và cũng là xu thế
thể hiện rõ nhất. Điều này biểu hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô thương mại
thế giới; sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu; sự
gia tăng các quá trình liên kết, hội nhập theo hướng tự do hoá làm xuất hiện hàng
loạt các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực dưới nhiều cấp độ; sự kết nối các nền
kinh tế quốc gia và khu vực thành một mạng trên quy mô toàn cầu. Về mặt bản
chất, toàn cầu hóa kinh tế xuất hiện gắn liền với xu thế vận động, phát triển của
nền sản xuất xã hội, được thúc đẩy bởi lợi ích của phân công lao động quốc tế,
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ và tính xã hội hoá ngày càng
cao của lực lượng sản xuất.
12
Thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây.
Mặc dù cho đến nay quan niệm về hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn có những
điểm chưa thống nhất nhưng tựu chung lại, có thể cho rằng: Hội nhập kinh tế
quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham
gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự
do hoá thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác; là sự gắn
kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới,
trong đó mối quan hệ giữa các thành viên có sự ràng buộc theo những quy định
chung của các tổ chức đó.
Xét về bản chất thì hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và lệ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. Đó cũng là
quá trình xoá bỏ từng bước và toàn bộ các rào cản về thương mại và đầu tư giữa
các quốc gia, góp phần khơi thông các luồng di chuyển nguồn lực trong và ngoài
nước, tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ.
Thực tế cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ những cơ sở kinh
tế xã hội hiện thực của thế giới hiện đại, mang tính khách quan không phụ thuộc
vào ý chí của một quốc gia nào. Điều đó khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế
như một tất yếu mang tính thời đại.
Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm một số nội dung chủ yếu như: tham gia
vào hệ thống phân công lao động quốc tế; tham gia và mở rộng thương mại quốc
tế; tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế v.v... Tham gia các hình thức
liên kết kinh tế là một biểu hiện của hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là việc chính
phủ các quốc gia ký kết với nhau các hiệp định tạo nên khuôn khổ chung cho sự
phối hợp, điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa các nước với các hình thức chủ yếu là:
Hiệp định thương mại song phương, Khu vực mậu dịch tự do, Liên minh thuế
quan, Thị trường chung, Liên minh tiền tệ... Tuy nhiên, mỗi hình thức trên đây
cũng có những điểm khác cơ bản và điều đó thể hiện cấp độ và mức độ hội nhập.
13
Hiện nay, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế tế quốc tế đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ và có tác động nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế của các nước
trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu
cũng đều có xu hướng đẩy mạnh các quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế.
Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng
chính sự tụt hậu của mình, ngược lại những nước vội vã hội nhập thiếu sự chuẩn
bị những điều kiện cần thiết, không phát huy được nội lực hoặc không chủ động
hội nhập cũng đã bị trả giá.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến những cơ hội nhưng cũng đặt ra những
thách thức to lớn, ảnh hưởng đến tất cả các bộ phận trong nền kinh tế: cá nhân,
hộ gia đình, công ty, ngành, quốc gia và vùng lãnh thổ.
Những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại là rất lớn: Các nước,
nhất là các nước đang phát triển, có thể tiếp nhận những nguồn lực vật chất,
những tri thức và kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn ở cả tầm vĩ mô và tầm
vi mô; Có điều kiện nắm bắt thông tin và tiếp nhận chuyển giao những thành
tựu, những đột phá về khoa học – công nghệ, về tổ chức và quản lý sản xuất kinh
doanh; Tạo khả năng mở rộng thị trường mới, mở rộng quan hệ với những đối
tác mới cho các nước khi những hàng rào hạn chế đối với các hoạt động thương
mại và đầu tư quốc tế được dỡ bỏ.
Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang đến những thách thức to
lớn mà các nước phải đối mặt và tìm cách vượt qua nhất là sức ép buộc các quốc
gia, các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường ngày
càng khắc nghiệt và nguy cơ gia tăng sự bất công, bất bình đẳng thu nhập trong
nội bộ từng nước và giữa các nước.
Đối với các nước đang phát triển, khi nền kinh tế còn yếu kém, sức cạnh
tranh còn thấp, trình độ quản lý còn nhiều hạn chế thì hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu là một tất yếu mang tính khách quan. Nó đưa đến những kỳ vọng về sự
14
gia tăng quy mô, nhịp độ tăng trưởng, nâng cấp các ngành kinh tế đồng thời có
cơ hội để giải quyết vấn đề đói nghèo và bất bình đẳng xã hội từ việc khai thác,
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Do vậy, các nước đang phát triển
một mặt cần phải chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để khai thác, tận
dụng những cơ hội đó nhưng mặt khác cũng phải hết sức chú trọng tới hình thức
và bước đi trong quá trình hội nhập nhằm đảm bảo các lợi ích của quốc gia cả về
kinh tế – chính trị và xã hội của mình.
Thời gian qua, hầu hết các nước đang phát triển đều thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế nhưng kết quả đạt được lại không hoàn toàn giống nhau. Vấn đề
đặt ra với các nước này là cần phải có phương thức và cách thức quản lý quá
trình hội nhập để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đề ra đó là đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước
đi trước, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân và khẳng định vị thế của mình
trong nền kinh tế thế giới.
1.1.2.2. Mục tiêu của CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế
CNH, HĐH là một quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực của
đời sống kinh tế – xã hội của mỗi nước với mục tiêu chung là thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, phát triển xã hội, cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của dân cư. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, mục tiêu cụ
thể của CNH, HĐH là:
- Thứ nhất, trang bị và trang bị lại công nghệ cho tất cả các hoạt động
trong nền kinh tế nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản về lực lượng sản xuất
dựa trên việc tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, các tri
thức mới trong sản xuất và tổ chức quản lý sản xuất, nâng cao trình độ của người
lao động để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của các ngành sản xuất,
phát triển ngành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
15
- Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu nội tại mỗi ngành
kinh tế theo hướng hiện đại. Trong giai đoạn đầu CNH, HĐH, xu hướng là tỷ
trọng của ngành nông nghiệp sẽ giảm dần tuy giá trị tuyệt đối vẫn tăng. Công
nghiệp phát triển mạnh, dần vươn lên chiếm vị trí hàng đầu và đưa nền kinh tế
chuyển sang trạng thái của nền kinh tế công nghiệp. Cơ cấu công nghiệp cũng sẽ
dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp chế biến. Ở giai đoạn tiếp
nối, tỷ trọng của công nghiệp sẽ giảm dần nhưng trong cơ cấu nội tại của nó, tỷ
trọng các ngành dựa trên kỹ thuật, công nghệ cao sẽ tăng nhanh. Đồng thời, tỷ
trọng giá trị ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế sẽ ngày càng gia tăng, các loại
hình dịch vụ trình độ cao như dịch vụ ngân hàng – tài chính, bảo hiểm, tư vấn,
khoa học và công nghệ, y tế, giáo dục – đào tạo... sẽ phát triển mạnh và chiếm
ưu thế trong cơ cấu ngành dịch vụ.
- Thứ ba, tạo ra những chuyển biến cơ bản về thể chế và xã hội. Việc thực
hiện CNH, HĐH sẽ đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu kém
phát triển, đồng thời tạo nên những biến đổi hết sức sâu sắc về mặt thể chế kinh
tế và xã hội. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ mang nặng tính chất tự cung, tự
cấp sẽ dần chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển; cấu trúc lao động xã hội
và dân số cũng có sự biến đổi theo hướng tăng tỷ trọng của lao động phi nông
nghiệp, lao động kỹ thuật, dân cư đô thị; hình thành tư duy và nếp sống công
nghiệp... Nói cách khác, sự biến đổi về mặt thể chế và xã hội trong quá trình
CNH, HĐH là quá trình chuyển dần từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn
minh công nghiệp và hướng đến nền văn minh trí tuệ.
- Thứ tư, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Ngày nay, quá trình tự do hoá
thương mại và quốc tế hoá sản xuất đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của hầu
hết các nước. Sự mở rộng của hoạt động thương mại quốc tế, các mối liên kết
kinh tế quốc tế được thúc đẩy và tăng cường đã tạo ra những cơ hội to lớn cho
tăng trưởng nhờ định hướng xuất khẩu và mở ra cơ hội cho các nước tham gia
vào quá trình phân công lao động quốc tế. Nền kinh tế mỗi quốc gia trở thành
16
một bộ phận của nền kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của những biến động kinh
tế – chính trị – xã hội của thế giới và có tác động tương hỗ ở những mức độ khác
nhau với nền kinh tế của các quốc gia khác. Mỗi nền kinh tế, dù lớn hay nhỏ, đã
phát triển cao hay đang phát triển, nếu biết phát huy các lợi thế của mình sẽ trở
thành một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế thế giới. Như vậy, các
nước đang phát triển ngày nay cần phải biết gắn nền kinh tế trong nước với nền
kinh tế thế giới, phải hướng tới khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong mối
liên kết kinh tế với các quốc gia thuộc mọi trình độ để phát triển. Việc mở rộng
các quan hệ kinh tế quốc tế vừa là nội dung, vừa là phương thức thực hiện CNH,
HĐH. Mở rộng thị trường trong và ngoài nước là một trong những điều kiện trọng
yếu để phát triển các ngành kinh tế. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế sẽ tạo điều
kiện khai thác các nguồn lực từ bên ngoài, giải quyết khó khăn về vốn đầu tư, về
công nghệ và kinh nghiệm quản lý để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH,.
1.1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế
quốc tế
Trong lịch sử kinh tế thế giới, một số nước như Liên Xô giai đoạn 1926 –
1937, Trung Quốc trước năm 1978, một số nước ASEAN và một số nước ở châu
Mỹ Latinh trong những năm 1950, 1960... đã tiến hành công nghiệp hoá theo mô
hình khép kín, tự cấp tự túc, không hội nhập với nền kinh tế thế giới. Thực chất
đó là mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (công nghiệp hoá hướng nội).
Với mô hình này, sự thành công hay thất bại của quá trình công nghiệp hoá hoàn
toàn phụ thuộc vào các nguồn lực trong nước, phụ thuộc vào cơ chế, chính sách
huy động, phân bổ sử dụng các nguồn lực của nhà nước ở các nước này. Thực tế
chỉ có rất ít nước thành công với mô hình này và chỉ trong một thời gian nhất
định, còn lại đại đa số các nước đều không đạt được những mục tiêu đề ra, thậm
chí còn rơi vào tình trạng trì trệ, tụt hậu trong phát triển.
Tiến hành CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế về thực chất là tiến
hành cuộc đua tranh phát triển quốc tế. Quá trình này vừa chịu tác động của
17
những nhân tố nội tại của nền kinh tế vừa chịu tác động của những nhân tố bên
ngoài. Các nhân tố bên trong bao gồm các nguồn lực (vốn, công nghệ, nhân lực),
thể chế, cơ chế huy động và phân bổ sử dụng các nguồn lực, dung lượng thị
trường... Đặc biệt trong hội nhập kinh tế quốc tế, các nhân tố bên ngoài ngày
càng có ảnh hưởng to lớn đến quá trình CNH, HĐH. Đó là:
- Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động quốc tế
Từ những năm 1950, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thời đại diễn
ra mạnh mẽ tạo ra những bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Nó không chỉ
đem lại sự phát triển của lực lượng sản xuất, hướng nền kinh tế một số nước phát
triển trên thế giới sang chiều sâu mà nó còn tác động mạnh mẽ đến phân công
lao động ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế và dẫn đến hình thành trật tự mới
về phân công lao động quốc tế. Đồng thời, chính phân công lao động quốc tế lại
tạo ra sự lệ thuộc giữa các quốc gia trong toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm và
cung cấp dịch vụ.
Sự hình thành mạng lưới sản xuất xuyên quốc gia được hỗ trợ bởi công
nghệ thông tin đã làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan
niệm về phân công lao động quốc tế trong bối cảnh mới cũng được mở rộng:
không chỉ bổ sung cho nhau bằng cách mua bán các sản phẩm (dù đó là sản
phẩm hoàn chỉnh, nguyên liệu thô hay bán thành phẩm và các linh kiện rời) mà
là sự phân công lao động mang tính trực tiếp ở bất kỳ khâu nào của chu trình
hoạt động sản xuất kinh doanh: kể từ ý tưởng, nghiên cứu, chế thử, sản xuất
hàng loạt, maketing, tiêu thụ, dịch vụ sau bán hàng... Hoạt động kinh tế hiện nay
đã mang tính toàn cầu về mặt tổ chức. Đồng thời, xu hướng quốc tế hóa về sức
lao động cũng ngày càng thể hiện rõ. Quá trình tự do hóa trong di cư lao động và
xuất khẩu lao động dần hình thành thị trường lao động quốc tế. Nó trực tiếp ảnh
hưởng đến cơ cấu lao động của quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu lao động và ảnh
18
hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội trong phát triển
của từng quốc gia.
Thực tế cho thấy, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã làm
cho không gian mất dần ý nghĩa. Tri thức, công nghệ, lao động, quản lý, hàng
hóa, tiền tệ... không bị bó hẹp trong biên giới một quốc gia. Việc tổ chức sản
xuất và khai thác thị trường trong phạm vi một nước đã nhanh chóng chuyển
sang mục tiêu sản xuất và khai thác thị trường trên phạm vi toàn thế giới. Xu thế
đó vừa là cơ sở, vừa là động lực thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển
và ngày càng trở nên đa dạng hơn. Việc trở thành bộ phận của phân công lao
động quốc tế và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu sẽ đem lại những lợi ích to
lớn đối với các quốc gia. Điều đó cho thấy, các nước đi sau trong CNH, HĐH
cần phải xác định rõ mục tiêu, bước đi trong phát triển để tham gia có hiệu quả
vào hệ thống phân công lao động quốc tế, hội nhập và đứng vững trong nền kinh
tế toàn cầu hoá.
- Thứ hai, các công ty xuyên quốc gia ngày càng phát triển mạnh, đóng
vai trò then chốt và chi phối nền kinh tế thế giới
Từ nửa cuối thế kỷ XX, các công ty lớn của các nước tư bản đã mở đầu
làn sóng mở rộng hoạt động vượt ra ngoài biên giới quốc gia, thực hiện kinh
doanh xuyên quốc gia, lấy thị trường toàn cầu làm hướng hoạt động chính. Thời
gian gần đây xuất hiện xu hướng một số TNCs lớn sáp nhập với nhau hình thành
các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia khổng lồ. TNCs cỡ lớn đều có một hệ thống
kinh doanh lấy công ty mẹ làm trung tâm, mở rộng trên phạm vi rộng, hình thành
mạng lưới kinh tế toàn cầu, bao trùm hầu hết các khu vực, các quốc gia trên toàn
thế giới. Chính điều đó đã làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc lẫn nhau và hội nhập
chức năng của nền kinh tế thế giới. Từ thực trạng này mà các nhà kinh tế đã đưa
ra thuật ngữ “chuỗi giá trị toàn cầu”. Nó được quan niệm là quá trình biến một
sản phẩm hay một dịch vụ phát triển từ ý tưởng, qua nghiên cứu thử nghiệm đến
sản xuất rồi đưa đến tay người tiêu dùng và cuối cùng là các hoạt động dịch vụ
19
do hàng loạt các hãng, các công ty khác nhau đảm trách, tạo thành một mạng
lưới sản xuất, lắp ráp, phân phối.... nằm ở các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Điểm đáng chú ý là TNCs ngày nay đã có những biến đổi lớn về chất.
Việc tập trung nỗ lực nghiên cứu đổi mới hệ thống sản xuất nhằm làm giảm chi
phí đầu vào, tăng khối lượng sản xuất và khuyến khích tiêu dùng hàng loạt
không còn là hướng ưu tiên. Các công ty hiện đại ngày nay tập trung vào đổi mới
sản phẩm nhằm gia tăng tốc độ tiêu dùng. Để thu được lợi nhuận các công ty
nhất thiết phải có hệ thống sản xuất riêng của mình nhưng quy mô của các công
ty mẹ được giảm bớt và TNCs chỉ tập trung nắm giữ hệ thống tài chính và bản
quyền, những lĩnh vực đem lại khoảng 70% trên tổng số lợi nhuận cho công ty từ
toàn bộ chu trình hoạt động kinh doanh. Phần lớn hệ thống sản xuất, phân phối
của công ty được chuyển sang các nước kém phát triển hơn, nơi có chi phí sản
xuất thấp hơn và có thị trường tiêu thụ tại chỗ. Như vậy, sự hình thành và phát
triển mạng lưới sản xuất quốc tế đã đem lại cho hoạt động sản xuất và dịch vụ
trên phạm vi toàn cầu những phương thức liên kết mới với vai trò đầu tầu của
TNCs. Sự phát triển của phân công lao động quốc tế đã phát triển vượt qua giai
đoạn chuyên môn hoá giữa các ngành và chuyển dần sang quá trình chuyên môn
hoá sâu trong nội bộ ngành, chuyên môn hoá theo đối tượng, chi tiết.
Những xu thế trên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình CNH, HĐH ở các
nước đang phát triển. Một mặt, nó cho phép các nước đi sau ngay từ đầu có thể
tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, đảm nhiệm những khâu riêng
biệt của một nhà máy toàn cầu cho dù chưa thể có một hệ thống công nghệ hoàn
chỉnh và hiện đại. Nói cách khác, các nước đang phát triển có thể tiếp nhận hệ
thống sản xuất và phân phối từ TNCs khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt
khác, xu hướng sáp nhập và bành trướng vai trò của TNCs cũng đặt ra những
thách thức mới cho các nước đang phát triển. Những biến đổi cơ cấu kinh tế của
các nước này dường như khó tránh khỏi sự lệ thuộc vào chiến lược toàn cầu của
TNCs hay của các hãng đầu tầu. Sự liên kết với TNCs sẽ tạo điều kiện phát triển
20
một số ngành công nghiệp mới và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của
các ngành đó. Tuy nhiên, các hoạt động đầu tư và việc chiếm lĩnh thị trường của
TNCs có thể làm xuất hiện những nguy cơ với những nước đang phát triển, đó là
có thể mất khả năng kiểm soát và điều tiết đối với một số ngành trong quá trình
hội nhập khi sức mạnh độc quyền và độc quyền nhóm được khai thác nhằm tăng
cường và củng cố sự kiểm soát của TNCs đối với các nguồn lực và lợi nhuận.
- Thứ ba, sự gia tăng ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế
đối với các quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế
Thực tế, các định chế quốc tế ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế vận
động của nền kinh tế thế giới và chính sự tồn tại và hoạt động của chúng lại thúc
đẩy hơn nữa quá trình toàn cầu hóa. Thông qua các quy định của mình, các tổ
chức kinh tế, tài chính thế giới tham gia vào điều chỉnh quan hệ kinh tế, tài
chính, thương mại thế giới, điều chỉnh chính sách của các quốc gia theo chuẩn
mực quốc tế.
Ngày nay, quá trình tự do hoá thương mại ngày càng gia tăng trong khuôn
khổ của các hiệp định thương mại trên phạm vi toàn cầu (WTO), khu vực
(NAFTA, AFTA, v.v...) cũng như các hiệp định thương mại tự do song phương
và đa phương (FTAs). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia có
chủ quyền không còn là chủ thể duy nhất có vai trò quyết định chính sách kinh tế
mà là sự tồn tại đồng thời của nhiều định chế khác như EU, APEC, WB, IMF,
WTO... Các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế có uy tín đang chi phối hoạt động
thực tiễn và có thể làm thay đổi các chính sách kinh tế của quốc gia thành viên
hoặc các quốc gia có nguyện vọng gia nhập. Thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia, các nền kinh tế sẽ phải tuân thủ những thỏa thuận chung. Một nước
hoặc một nền kinh tế sẽ không thể đơn phương tự áp đặt chính sách thuế quan
hay các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước mà phải tuân thủ
những thỏa thuận chung. Điển hình như những quy định mới của WTO về xuất
nhập khẩu (thuế quan, trợ cấp xuất khẩu, thương quyền, hạn chế xuất khẩu,
21
v.v...), về đầu tư nước ngoài (tỷ lệ nội địa hoá, tỷ trọng hàng xuất khẩu, v.v...),
về sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh và một số quy định khác có ảnh hưởng
rất lớn đến các nước trong việc lựa chọn chính sách phát triển cũng như ảnh
hưởng đến những hoạt động của các doanh nghiệp ở các quốc gia đó. Nói cách
khác, các quốc gia, các nền kinh tế thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế sẽ phải tự
điều chỉnh hệ thống luật pháp, chính sách cho phù hợp với chuẩn mực chung. Đó
là những thách thức to lớn với những nước tiến hành CNH, HĐH từ điểm xuất
phát thấp, chưa đủ sức cạnh tranh bình đẳng trong nền kinh tế toàn cầu, thậm chí
ngay ở thị trường nội địa mà không thể áp dụng những biện pháp hỗ trợ, bảo hộ
như nhiều nước đã thực hiện trước đó. Điều đó cũng đặt ra những yêu cầu về lựa
chọn lộ trình, bước đi của hội nhập kinh tế quốc tế và chính sách CNH, HĐH.
- Thứ tư, xu hướng đối thoại, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia ngày càng
mở rộng và phát triển
Sau khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, xu hướng đối thoại, hợp tác đã mở
ra một giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế thế giới. Hầu hết các quốc gia
đều tập trung điều chỉnh chiến lược phát triển, trong đó ưu tiên mọi nguồn lực
cho hợp tác và phát triển kinh tế. “Đa dạng hoá và đa phương hóa” trong quan hệ
kinh tế quốc tế đã trở thành phương châm chủ đạo của hầu hết các quốc gia trên
thế giới, cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Liên kết và hợp tác
kinh tế đã không ngừng mở rộng và phát triển trên quy mô toàn cầu. Như vậy,
với các nền kinh tế đi sau trong CNH, HĐH, việc hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế toàn cầu sẽ có cơ hội tiếp cận những nguồn lực quan trọng từ bên ngoài
và tham gia được vào hệ thống phân công lao động quốc tế để thực hiện những
mục tiêu kinh tế – xã hội đề ra.
Nói tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế cùng với sự phát triển của khoa học –
công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin đã làm cho không gian kinh
tế mở rộng, các định chế kinh tế quốc tế được áp dụng một cách phổ biến hơn
vừa tạo ra yêu cầu, vừa tạo khả năng tổ chức lại thị trường trên phạm vi toàn thế
22
giới. Các nước công nghiệp phát triển đang chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế sang
một trạng thái mới được đặc trưng bằng sự gia tăng vượt trội của khu vực dịch
vụ so với hai khu vực sản xuất vật chất. Bước chuyển đổi này đang có xu hướng
gia tăng, kéo theo sự chuyển đổi ở những nước chậm phát triển hơn và tạo ra làn
sóng chuyển đổi cơ cấu lan truyền trên phạm vi toàn thế giới, xác định tính chất
chuyển đổi sang xã hội “hậu công nghiệp” trên quy mô toàn cầu.
Trong bối cảnh mới, những dự định về phân bổ nguồn lực đầu tư không
còn hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của từng nước. Sự phát triển và
dịch chuyển cơ cấu kinh tế của một quốc gia sẽ chủ yếu phụ thuộc vào sức cạnh
tranh để có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường và khả năng điều chỉnh linh
hoạt để có thể ứng phó, kịp thời thích nghi với những biến động trên thị trường
thế giới. Điều đó cho thấy, sự nghiệp CNH, HĐH ở các nước đang phát triển
ngày nay cần được xem xét theo cách tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu. Nghĩa là
muốn thực hiện được các mục tiêu đặt ra trong CNH, HĐH thì điều quan trọng
trước tiên là các nước này phải biết xác định vị trí của mình và làm thế nào để
trở thành một mắt xích của chuỗi giá trị toàn cầu. Nó vừa là yêu cầu bắt buộc
nhưng cũng là cơ hội cho các nền kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên, vấn đề đặt
ra là làm thế nào để gia nhập, chen chân vào được mạng lưới thị trường vốn đã
và đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển và
các doanh nghiệp của nó cũng cần phải liên tục nâng cấp, cải thiện vị thế cạnh
tranh của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách chuyển đổi từ mắt khâu có
giá trị gia tăng thấp sang mắt khâu có giá trị gia tăng cao hơn hoặc bằng cách
nâng cao năng lực cạnh tranh ở chính ngay mắt khâu đang chịu trách nhiệm.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, với các nước đang phát triển ngày nay
tiến hành CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế thì việc xác định mục tiêu,
bước đi của CNH, HĐH cũng như lựa chọn những giải pháp thực hiện một mặt
phải căn cứ vào điều kiện cụ thể bên trong nhưng mặt khác cần hết sức chú ý đến
những yếu tố tác động từ bên ngoài. Vấn đề quan trọng là các nước này cần phải
23
tạo được cơ chế thích hợp nhằm tận dụng có hiệu quả những tác động tích cực
mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, nhất là việc huy động những
nguồn lực về vốn, công nghệ... tiếp thu và học hỏi những kinh nghiệm quản lý;
thâm nhập và mở rộng thị trường thế giới để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.
Đồng thời, các nước này cũng cần có chính sách hội nhập với lộ trình, bước đi
thích hợp và các chính sách điều chỉnh kinh tế nhằm hạn chế được những tác
động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình CNH, HĐH.
1.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI
HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện ngay
trong lôgic khách quan về sự ra đời của nhà nước. Phạm trù vai trò của nhà nước
thể hiện khái quát các chức năng của nhà nước trong mối liên hệ giữa nhà nước
và xã hội, thể hiện đặc trưng cho bản chất của nhà nước. Trong bất cứ chế độ xã
hội nào thì lĩnh vực kinh tế cũng là lĩnh vực đóng vai trò quan trọng nhất vì nó là
nền tảng cho mọi lĩnh vực hoạt động xã hội khác. Do vậy, trong mọi chức năng
của nhà nước đều bao hàm các nội dung kinh tế, mang cái cốt vật chất là các
quan hệ kinh tế.
Để thực hiện chức năng của mình đối với sự phát triển kinh tế, nhà nước
có thể sử dụng các công cụ như pháp luật, chính sách, kế hoạch, các công cụ tài
chính, tiền tệ, kinh tế nhà nước, bộ máy nhà nước v.v... Nhưng xét cho cùng,
hoạt động ban hành và thực thi chính sách thể hiện nội dung và phương thức
thực hiện chức năng của nhà nước, cũng chính là sự thể hiện vai trò của nhà
nước. Bởi chính sách của nhà nước là tổng thể các chủ trương, quan điểm chính
thức của nhà nước cũng như hoạt động tổ chức thực thi các chủ trương, quan
điểm đó. Kế hoạch, các công cụ tài chính, tiền tệ hay pháp luật cũng chính là các
dạng đặc biệt của chính sách. Thông qua các chính sách nhà nước tác động vào
nền kinh tế, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình phát triển kinh tế.
24
1.2.1. Một số lý thuyết về vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế
Trong lịch sử, đã có nhiều lý thuyết kinh tế bàn về vai trò của nhà nước
đối với sự phát triển kinh tế với những quan điểm chưa đồng nhất, thậm chí có
những khía cạnh là trái ngược nhau. Theo những cách tiếp cận khác nhau có thể
khái quát các trường phái lý thuyết đề cập đến vai trò của nhà nước như sau:
Thứ nhất, về các lý thuyết kinh tế học
Theo lý thuyết kinh tế chính thống, thị trường là phương thức hữu hiệu
nhất của xã hội loài người trong điều tiết các hoạt động kinh tế và do vậy, nó là
công cụ hữu hiệu nhất đối với các quốc gia kém phát triển để tiến lên hiện đại.
Tuy nhiên, trong thế kỷ XX, nhiều quốc gia phát triển đi sau lại sử dụng nhà
nước như một công cụ phát triển lại đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn và hiện
đại hoá nhanh hơn những nền kinh tế dựa chủ yếu vào thị trường. Việc xuất hiện
những trường phái lý thuyết mới ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt
động kinh tế một mặt đã góp phần lý giải cho sự thành công trong phát triển kinh
tế của những nước đi sau nhưng mặt khác cũng đưa ra những gợi ý về mặt chính
sách cho những nước đi sau trong quá trình phát triển kinh tế và tiến lên hiện đại.
- Trường phái Keynes là một trong những trường phái lý thuyết tiêu biểu
đề cao vai trò can thiệp của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Các nhà kinh
tế thuộc trường phái Keynes cho rằng, mặc dù thị trường thường là một phương
thức tốt để tổ chức các hoạt động kinh tế nhưng trong một số trường hợp thị
trường không thể phân bổ các nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả và thị
trường có những hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội bên cạnh mục
tiêu hiệu quả kinh tế. Từ đó, họ đề cao vai trò can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế thị trường và đưa ra khuyến nghị nhà nước nên thực hiện các chức năng
chủ yếu sau: i) Xác lập những điều kiện cần thiết về thể chế và pháp lý cho việc
sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ; ii) Hoạch định và tổ chức thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách
25
thu nhập và chính sách tỷ giá hối đoái; iii) Cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất và
cung ứng các dịch vụ công cộng như giáo dục và y tế; iv) Kiểm tra và giám sát
các hoạt động kinh tế; v) Nhà nước tham gia trực tiếp vào sản xuất hàng hoá và
dịch vụ [67, tr. 22-23].
Trong thực tế, lý thuyết của trường phái Keynes đã thống trị trong các lý
thuyết kinh tế và trở thành cơ sở khoa học chủ đạo cho việc thiết kế và điều hành
chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước công nghiệp phát triển trong suốt thời gian
từ sau chiến tranh thế giới II đến những năm 1970. Mặc dù các quan điểm của
trường phái này bị phê phán kịch liệt do hậu quả từ những thất bại của các chính
sách của chính phủ nhưng trong thực tế ở nhiều nước, một số đề nghị của
Keynes như tăng chi tiêu ngân sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vẫn là một
trong những biện pháp được áp dụng cùng với các chính sách tiền tệ khác ở Nhật
Bản, Trung Quốc trong thời gian gần đây.
- Trường phái Tân cổ điển đã kế thừa lý thuyết “bàn tay vô hình” của
A.Smith và đưa ra cơ sở lý thuyết cho nền kinh tế thị trường tự do với tư cách là
hình thức hiệu quả nhất trong hoạt động của con người. Các tác giả thuộc trường
phái này đã dựa vào những bằng chứng thực tế để kịch liệt phê phán những đề
nghị của Keynes về sự can thiệp quá mức của nhà nước. Từ đó, họ đề nghị nhà
nước cần can thiệp càng ít càng tốt và chuyển giao hầu hết các chức năng cho thị
trường. Thực tế, lý thuyết của trường phái Tân cổ điển và các đề nghị của họ
nhìn chung được chấp nhận rộng rãi trong các nhà hoạch định chính sách ở các
nước OECD, WB, IMF và nhiều tổ chức viện trợ song phương.
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra giới hạn nghiêm trọng của lý
thuyết Tân cổ điển là lý thuyết này giả định rằng chi phí giao dịch bằng không,
có nghĩa là không tồn tại chi phí giao dịch trên thị trường. Một giới hạn nữa của
lý thuyết này là bản chất tĩnh và tương đối tĩnh trong lập luận chính và tính “phi
thể chế” trong mô hình phát triển của lý thuyết này [71, tr. 23-24].
26
Trong thực tế, Lý thuyết về chi phí giao dịch (của Ronald Coase và
Douglass North) và Lý thuyết tiến hoá về phát triển kinh tế (hay còn gọi là lý
thuyết tân Schumpeter về phát triển kinh tế) – hai trường phái có tính chất nhất
quán với lý thuyết kinh tế học Tân cổ điển – đã giúp khắc phục phần lớn những
giới hạn của lý thuyết Tân cổ điển. Lý thuyết chi phí giao dịch khẳng định rằng
luôn tồn tại chi phí thực hiện các trao đổi hay trao đổi tự nguyện trên thị trường,
do đó tồn tại chi phí của việc sử dụng thị trường. Chi phí giao dịch bao gồm tất
cả các chi phí cho những hoạt động phát sinh trong quá trình mua bán, trao đổi
như xác định và bảo vệ quyền lợi của người bán và người mua, thu thập thông
tin về giá cả, về chất lượng của sản phẩm, dịch vụ được trao đổi, dự thảo và đàm
phán hợp đồng, đăng ký bảo hiểm, giám sát việc thực hiện hợp đồng, tiến hành
thanh tra để đánh giá chất lượng của sản phẩm, giải quyết các tranh chấp, quy
định hình phạt đối với các hành vi vi phạm hợp đồng v.v… Trên thực tế, các chi
phí giao dịch liên quan đến tất cả các lĩnh vực như kế toán, thương mại, tín dụng,
ngân hàng, thị trường vốn, bảo hiểm, lập pháp, toà án, công tác thực thi luật và
các hoạt động có liên quan khác trong chính phủ [71, tr. 58]. Lý thuyết chi phí
giao dịch đã cung cấp cách nhìn mới trong việc tìm hiểu mô hình phát triển kinh
tế dựa vào nhà nước: xu hướng một số nền kinh tế phát triển sau dựa vào nhà
nước trong phát triển kinh tế có thể được lý giải bằng cách kết hợp hai nhân tố:
chi phí sử dụng thị trường và lợi thế thông tin của các nền kinh tế phát triển sau.
Mô hình phát triển dựa vào nhà nước nổi lên trước hết là do việc sử dụng chính
phủ như là công cụ điều phối với giá rẻ hơn sử dụng thị trường. Ở các nước đang
phát triển đi sau, nhà nước trở thành công cụ mạnh trong điều tiết quá trình sản
xuất trong nước. Các nền kinh tế phát triển sau có thể nghiên cứu các mô hình
phát triển công nghiệp của các nền kinh tế đi trước để áp dụng vào quá trình sản
xuất ở nước mình – đó chính là lợi thế thông tin. Chính phủ của một nền kinh tế
đang phát triển đi sau có lợi thế hơn trong việc chuyển đổi thông tin kinh tế
thành những mục tiêu phát triển rõ ràng, trong điều tiết phân bổ nguồn vốn giữa
27
các thành phần kinh tế trong nước và tập trung những nguồn lực xã hội có hạn để
đầu tư vào những ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao [71, tr. 290]. Lý
thuyết tiến hoá về phát triển kinh tế đã khắc phục được bản chất tĩnh của kinh tế
học Tân cổ điển. Giống như trường phái Tân cổ điển, trường phái này công nhận
sự thay đổi về công nghệ như là động lực chính tạo ra tăng trưởng kinh tế nhưng
đã nghiên cứu sâu hơn cơ chế của sự thay đổi về công nghệ bằng cách đặt những
đổi mới công nghệ và cơ chế phổ biến công nghệ ở vị trí trung tâm. Lý thuyết
này khái quát sự phát triển kinh tế của thế giới như một quá trình năng động, tiến
triển liên tục từ mô hình kinh tế – công nghệ cũ sang mô hình mới, được thúc
đẩy bởi cả quá trình đổi mới cơ bản – tạo ra động lực chính và đổi mới tiệm tiến
– giúp phát tán đổi mới cơ bản đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Trường
phái này còn phân tích sự tương tác giữa các thể chế và sự thay đổi công nghệ.
Thực tế, lý thuyết này có thể được sử dụng để luận giải việc các nước đang phát
triển đi sau có thể thu được lợi hay nâng cao được năng suất nhờ quá trình truyền
bá công nghệ bằng cách dựa vào nhà nước như một công cụ điều tiết [71, tr. 31].
Vai trò lãnh đạo của nhà nước còn cho phép các nền kinh tế đang phát triển đi
sau tận dụng tốt hơn quá trình truyền bá mô hình kinh tế – công nghệ từ những
nền kinh tế đi trước. Do việc ứng dụng trực tiếp công nghệ tiên tiến và áp dụng
các mô hình chuyên môn hoá có thể tạo ra “gia tăng năng động” về sản lượng
nên các nền kinh tế phát triển sau có thể tiến những bước dài hơn trong quá trình
hiện đại hoá so với các nền kinh tế khác không thực hiện được điều này vì thiếu
các thể chế nhà nước có thể thực hiện được chiến lược phát triển “từ trên xuống”
hoặc thiếu sự nhất trí tập thể trong việc sử dụng nhà nước như một công cụ phát
triển thực sự [71, tr. 290].
- Đại diện tiêu biểu của Trường phái chính hiện đại là nhà kinh tế học
Samuelson đã đưa ra mô hình kinh tế hỗn hợp và cho rằng cần có sự kết hợp giữa
nhà nước và thị trường trong điều tiết kinh tế. Theo ông, nhà nước có những
chức năng quan trọng sau: nâng cao hiệu quả của nền kinh tế; hoàn thiện quá
28
trình phân phối tổng hợp thu nhập quốc dân; sử dụng các công cụ chính sách
kinh tế vĩ mô để ổn định nền kinh tế; đề xuất và thực hiện các chính sách kinh tế
đối ngoại hay chính sách kinh tế quốc tế của một quốc gia. Để thực hiện các
chức năng đó, nhà nước có thể áp dụng các chính sách và biện pháp nhằm sửa
chữa các khuyết tật của thị trường như bảo đảm những cân đối chung trong nền
kinh tế; điều chỉnh hoặc tái phân bổ các nguồn lực khan hiếm; cân đối các khoản
thu, chi tài chính và ngân sách; tái phân phối các nguồn thu nhập trong xã hội để
thực hiện sự công bằng xã hội...
Nói một cách khái quát, trong kinh tế học, lập luận quan trọng nhất ủng hộ
việc nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là “sự thất bại của thị trường”. Chính
phủ phải can thiệp vào một số lĩnh vực khi thị trường hoạt động không tốt. Lập
luận trên thường được sử dụng để lý giải việc nhà nước can thiệp vào các hoạt
động kinh tế ở các nước có nền kinh tế phát triển, ở đó nhà nước chỉ đóng vai trò
bổ sung cho thị trường. Đáng chú ý là lập luận về “sự thất bại của thị trường”
trong việc giải thích sự can thiệp của nhà nước buộc phải thừa nhận một sự thất
bại và bất lực hoàn toàn của thị trường, điều này lại đi ngược lại với nguyên tắc
coi thị trường là tối thượng. Thực tế cho thấy, không một nền kinh tế nào là nền
kinh tế “hoàn toàn” thị trường, tất cả các nền kinh tế trên thế giới đều có thể gọi
là “nền kinh tế hỗn hợp” giữa thị trường và nhà nước duy chỉ khác biệt ở mức độ
và cách thức nhà nước được sử dụng trong các hoạt động kinh tế. Với các nền
kinh tế thị trường phát triển, chính phủ chủ yếu đóng vai trò điều tiết hay trọng
tài của cuộc chơi, hoặc là người thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập,
cung cấp phúc lợi công cộng, đảm bảo sự ổn định vĩ mô. Nhưng với một số nền
kinh tế được coi là nền kinh tế dựa vào nhà nước thì chính phủ có chức năng
khác là điều phối quá trình chuyển đổi công nghiệp của đất nước, bao gồm cả
việc đóng vai trò là nhà sản xuất trực tiếp. Hơn nữa, nhằm thực hiện vai trò điều
phối, chính phủ ở các nước này tự làm giảm chức năng trọng tài công bằng và do
đó không phát triển những chức năng như vậy [71, tr. 16]. Thực tế đã chứng
29
minh, hầu hết các nước đi sau lựa chọn mô hình nền kinh tế “dựa vào nhà nước”
nhưng vẫn không từ bỏ lý thuyết về thị trường tự do.
Nhìn chung, các lý thuyết kinh tế học nêu trên có nhiều mặt hợp lý, có thể
chỉ dẫn con đường phát triển kinh tế cho các quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề đáng
chú ý là nhiều lý thuyết lại được xây dựng dựa trên những giả thuyết gắn liền với
với các nước phát triển mà ở đó nền kinh tế thị trường đã phát triển ở trình độ
cao. Trong khi đó ở nhiều nước đang phát triển, cả nhà nước và thị trường đều
không hoạt động đúng như các giả định và giả thuyết của các lý thuyết trên. Do
vậy, việc áp dụng các lý thuyết này ở các nước đang phát triển về cơ bản thường
không mang lại những kết quả như kỳ vọng đặt ra.
Từ thực tế đó, nhiều nhà kinh tế đã phê phán lý thuyết kinh tế chính thống
lúc đó và tiến hành đi tìm giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề nan giải nhất
của các nước đang phát triển. Trong đó tiêu biểu là hai nhóm chính: Cấu trúc
luận và Thuyết tự do mới. Quan niệm về vai trò của nhà nước là điểm khác nhau
chính và là trung tâm của cuộc tranh cãi giữa hai quan điểm lý thuyết này.
- Trường phái Cấu trúc luận ra đời khi lý thuyết về hệ thống thị trường tự
do không còn được coi là lý thuyết kinh tế chính thống. Mục đích của trường
phái này là đi tìm giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề của thế giới thứ ba và
nó đã trở thành lý thuyết chính thống của các nước thế giới thứ ba. Trường phái
này có phần chịu ảnh hưởng bởi học thuyết của J.M. Keynes và cũng được mở
rộng, bổ sung thêm nhiều cách tiếp cận, trong đó có cả cách tiếp cận có định
hướng cấp tiến như phương pháp luận mácxít. Việc đề cao vai trò nhà nước và
họ cho rằng nhà nước ở các nước đang phát triển nên thực hiện vai trò can thiệp
tích cực, đứng ra trực tiếp điều hành và thực hiện chiến lược phát triển là một
trong những quan điểm nổi bật của họ.
Các nhà Cấu trúc luận tập trung bàn về mối quan hệ của các loại cơ cấu
kinh tế - xã hội và sự phát triển kinh tế được coi như sự biến đổi có liên quan tới
30
các cơ cấu đó. Cơ cấu kinh tế được xem xét bao gồm nhiều mặt: cơ cấu ngành;
cơ cấu kinh tế đối ngoại; cơ cấu năng suất; cơ cấu doanh nghiệp; cơ cấu xã hội.
Theo quan điểm của trường phái này, thị trường không đủ khả năng đảm bảo sự
phát triển kinh tế ổn định cũng như không thể giúp các nước đang phát triển cải
tạo được cơ cấu kinh tế lạc hậu của mình. Do vậy, nhà nước cần đóng vai trò tích
cực thúc đẩy tăng tích luỹ, tăng đầu tư, chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Họ nhấn mạnh
đầu tư là yếu tố đóng vai trò then chốt trong tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi
cơ cấu phục vụ quá trình công nghiệp hoá. Chính phủ các nước thế giới thứ ba
phải đóng vai trò trung tâm trong việc khắc phục tình trạng lạc hậu kinh tế, có
vai trò tích cực trong quá trình công nghiệp hoá, đặc biệt là trong quá trình tích
luỹ tư bản, yếu tố cần thiết hàng đầu cho đầu tư phát triển [34, tr. 23].
Ưu điểm, đồng thời cũng là nhược điểm của tư duy cấu trúc luận là nó
phân tích một cách riêng rẽ bản chất của từng nền kinh tế hoặc từng vùng lãnh
thổ đang phát triển, tách khỏi các nước hoặc các nền kinh tế phát triển, điều mà
trong thực tế khó có thể tách bạch được. Họ phân tích những vấn đề liên quan
đến cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của một quốc gia đang phát triển nhưng không
thấy rõ được mối quan hệ tác động qua lại giữa sự phát triển của các yếu tố bên
trong với bên ngoài, không nhận thức được những tác động tích cực của các
quan hệ kinh tế quốc tế đối với những điều kiện ngoại thương tới các nước đang
phát triển. Đây chính là lý do mà trường phái tự do mới được ủng hộ khi họ phê
phán tính “biệt lập” và “tự cô lập” của cấu trúc luận và nêu ra sự cần thiết phát
triển mạnh thương mại quốc tế và nêu ra yếu cầu đòi hạn chế bớt sự can thiệp
trực tiếp của nhà nước trong nền kinh tế thị trường [34, tr. 29-31].
- Trong khi đó, trường phái Tự do mới lại cho rằng, các nước đang phát
triển thất bại trong phát triển kinh tế có nguyên nhân từ việc không tận dụng
được những cơ hội mà sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế đem lại.
Các tác giả của trường phái Tự do mới tin tưởng vào sự điều tiết của thị
trường, đặc biệt là giá cả và cho rằng, giá cả thị trường là yếu tố quyết định sự
31
phân phối nguồn lực. Luận cứ chính của thuyết tự do mới là sai lệch giá cả sẽ
sinh ra phi hiệu quả và tự do hoá mậu dịch sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả
hơn. Giá cả được đề cập đến trong cách tiếp cận của chủ nghĩa tự do mới bao
gồm: giá cả của các hoạt động thương mại trong một quốc gia; giả cả trong hoạt
động ngoại thương; giá cả liên quan đến tỷ lệ lãi suất và tiền lương; giá cả cơ sở
hạ tầng và đầu vào cho sản xuất. Theo họ, khi giá cả bị chệch khỏi mức giá cả thị
trường tự do thì nền kinh tế sẽ không đạt hiệu quả. Giá cả thị trường tự do được
xác định trên thị trường thế giới. Sự sai lệch giá cả có thể do độc quyền tư nhân,
song trong phần lớn các trường hợp có nguyên nhân từ sự can thiệp trực tiếp
hoặc gián tiếp của chính phủ khi theo đuổi một số mục tiêu kinh tế hoặc xã hội
nào đó. Do vậy, những sự sai lệch về giá cả cần được điều chỉnh lại cho phù hợp
với giá cả thị trường và để loại bỏ sự sai lệch về giá cả và thực hiện “giá cả hiệu
quả” cần để các lực lượng thị trường hoạt động trong phạm vi quốc gia cũng như
trong các quan hệ kinh tế quốc tế [34, tr. 37].
Điểm nổi bật trong nội dung lý thuyết Tự do mới là sự phê phán gay gắt
sự can thiệp sâu của nhà nước. Các tác giả thuộc trường phái này lập luận rằng
sự can thiệp trực tiếp và sâu rộng của nhà nước, điển hình là việc thực hiện chính
sách thay thế nhập khẩu là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch giá
cả. Theo họ, việc thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch ở nhiều nước giúp cho
các doanh nghiệp ở các nước này tránh khỏi sự cạnh tranh quốc tế, không phải
chịu sức ép nâng cao năng lực cạnh tranh như ở các nước thực hiện thị trường
mở. Tình trạng chi phí sản xuất cao, chất lượng hàng hoá thấp là những đặc
trưng nổi bật của nhiều ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu ở các nước đang
phát triển. Ngoài ra, ở nhiều nước đang phát triển, nhà nước còn bộc lộ nhiều
mặt hạn chế như những nhà lập kế hoạch thiếu thông tin, đề ra kế hoạch không
sát thực tế, không có công cụ làm đòn bẩy cho việc thực thi kế hoạch, nhà nước
còn can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các cơ sở kinh tế, chi tiêu ngân
sách quá mức, vay nợ nhiều... Từ đó, họ cho rằng, cần phải giảm bớt sự can thiệp
32
trực tiếp của nhà nước, thực hiện tự do hoá mậu dịch thông qua việc giảm bớt
các chính sách và biện pháp bảo hộ thuế quan và phi thuế quan [34, tr. 37].
Về cơ bản, thuyết Tự do mới là một xu hướng phát triển mới của thuyết
Tân cổ điển về sự phát triển của kinh tế thị trường tự do, đề cao vai trò của các
lực lượng thị trường trong việc khắc phục những hạn chế do nhà nước can thiệp
quá sâu vào nền kinh tế gây ra, khuyến khích việc áp dụng các chính sách kích
thích sự phát triển của kinh tế thị trường tự do và mở cửa. Đó là một loại quan
điểm phát triển mang tính chính sách. Tuy không phủ nhận vai trò quan trọng
của nhà nước nhưng muốn hạn chế bớt sự can thiệp trực tiếp và quá sâu của nhà
nước làm cho nền kinh tế mất đi tính năng động và hiệu quả.
Thực tế, cả hai trường phái lý thuyết Cấu trúc luận và Tự do mới đều có
ảnh hưởng chi phối đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở các nước đang
phát triển trong những khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, vào những năm
1980, khi quá trình toàn cầu hoá cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của
khoa học – công nghệ hiện đại, của công nghệ thông tin, của kinh tế tri thức thì
thực tiễn cũng đặt ra nhiều vấn đề mới với các nước đang phát triển và do đó
những quan điểm mới có liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được bổ
sung cho những trường phái lý thuyết này. Mặc dù vậy, cả hai trường phái này
đều bộc lộ những hạn chế trước xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng mạnh mẽ và
sự phát triển của công nghệ mới đó là đều chưa tìm ra lời giải đáp thoả đáng cho
nhiều vấn đề mới nảy sinh như kinh tế tri thức, thương mại điện tử… [34, tr. 48].
Ngày nay, trong xu thế phát triển của thế giới đương đại, ngày càng nhiều
vấn đề đặt ra đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở các nước đang phát triển,
trong đó nổi bật là các vấn đề về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường; việc
xác định sự phân công hợp lý giữa nhà nước và thị trường nhằm khai thác triệt
để những lợi thế, đồng thời tránh được hoặc giảm thiểu những mặt hạn chế của
nhà nước cũng như thị trường. Nhiều nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng, các nước
đang phát triển có thể cải thiện tình hình kinh tế thông qua việc cải cách theo
33
định hướng thị trường nhưng không có nghĩa là hạ thấp vai trò của nhà nước;
quy mô của khu vực nhà nước và mức độ can thiệp của nhà nước không quan
trọng bằng cách thức hoạt động của nhà nước và quan hệ giữa nhà nước và khu
vực tư nhân. Họ nhấn mạnh rằng sự can thiệp của nhà nước cần phải điều chỉnh
liên tục phù hợp để khai thác tối đa những cơ hội và giảm thiểu những rủi ro từ
hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm chính thống hiện đại được đề xuất bởi các
nhà kinh tế của WB đã nêu rõ, nhà nước nên ít tham gia vào những lĩnh vực mà
thị trường vận hành tốt và nên tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực không thể
dựa vào thị trường. Đồng thời, khi các hành động can thiệp là cần thiết, chúng
nên đi cùng hoặc thông qua các lực lượng thị trường chứ không phải chống lại
thị trường [67, tr. 30]. Trên cơ sở tổng hợp các kinh nghiệm thực tế ở NIEs châu
Á thời gian qua, Robert Wade đã đúc kết lại sáu chức năng của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường. Đó là: Nhà nước duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô; Nhà
nước cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất; Nhà nước cung cấp các hàng hoá công
cộng; Nhà nước góp phần phát triển các thể chế để cải thiện các thị trường lao
động, tài chính, công nghệ... ; Nhà nước loại bỏ những méo mó, lệch lạc về giá
cả khi thị trường có những sự phát triển thái quá dẫn đến những “thất bại thị
trường”, làm tổn hại cho nền kinh tế; Nhà nước phân phối lại thu nhập, đảm bảo
đủ những nhu cầu cơ bản cho người nghèo nhất [34, tr. 425].
Thứ hai, các lý thuyết về phương pháp và công cụ giải quyết những vấn
đề kinh tế của các nước đang phát triển
Ngoài cách tiếp cận trên giác độ lý thuyết kinh tế học nêu trên, một số lý
thuyết tiếp cận nghiên cứu trên giác độ phương pháp và công cụ nhằm định hình
cách thức tiến hành để thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội ở các nước đang
phát triển.
- WB sử dụng phương pháp tiếp cận khung, tức là coi nền kinh tế như một
hệ thống thống nhất, là tập hợp các nguyên tắc của quy chế theo đó các chủ thể
kinh tế ra quyết định và thực hiện các quyết định trong phạm vi một nền kinh tế
34
nhất định. Họ cho rằng sự can thiệp trực tiếp của chính phủ sẽ làm méo mó thị
trường, các điều kiện kinh doanh và điều đó sẽ dẫn tới tình trạng kém hiệu quả
trong phân bổ nguồn lực. Họ coi tự do hoá với tốc độ nhanh là yếu tố cơ bản để
loại bỏ những méo mó và bất hợp lý trong phân bố nguồn lực, đồng thời chính
phủ không cần xác định ngành công nghiệp tiềm năng và ưu tiên phát triển mà
chính thị trường sẽ thực hiện điều đó [19, tr. 62]. Về mục tiêu chính sách,
phương pháp tiếp cận này coi việc giải quyết các vấn đề thâm hụt ngân sách,
thâm hụt cán cân thanh toán, cung ứng tiền tệ, lạm phát và nợ nần là những ưu
tiên cao nhất. Những người ủng hộ phương pháp này đặt trọng tâm vào tự do hoá
với sự can thiệp của chính phủ ở mức thấp nhất. Về tốc độ chuyển đổi và điều
chỉnh, phương pháp này coi quá trình điều chỉnh có thể thực hiện được ngay
trong ngắn hạn và càng nhanh càng tốt.
- Các chuyên gia kinh tế của chính phủ Nhật Bản bàn về việc giải quyết
các vấn đề kinh tế của các nước đang phát triển lại sử dụng phương pháp tiếp cận
thiết lập bộ phận. Họ coi nền kinh tế bao gồm nhiều thành phần riêng lẻ khác
nhau: doanh nghiệp, bộ máy hành chính nhà nước, dự án đầu tư, các ngành kinh
tế và chúng có liên quan đến các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, vốn, công
nghệ. Họ coi phát triển kinh tế là quá trình mở rộng về lượng và cải thiện về chất
của các thành phần nêu trên của nền kinh tế. Định hướng theo kết quả hay mục
tiêu là đặc điểm cơ bản của cách tiếp cận này. Mục tiêu chính sách của phương
pháp tiếp cận thiết lập bộ phận là lấy phát triển và mở rộng khu vực kinh tế thực
(khu vực sản xuất) như tổng sản lượng, công ăn việc làm, cơ cấu kinh tế là mục
tiêu hàng đầu trong hệ thống chính sách. Họ coi trọng và nhấn mạnh vào các
biện pháp chính sách dài hạn được cụ thể hoá bằng các kế hoạch hàng năm nhằm
hướng tới mục tiêu đã định. Theo họ, chính phủ cần đóng vai trò tích cực và hỗ
trợ. Các chính sách kinh tế cần định hướng vào phát triển các ngành kinh tế cụ
thể của nền kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu đã định, bao gồm chính sách phát
triển nông nghiệp, chính sách phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ đã lựa
35
chọn, chính sách thị trường hoá các khu vực kinh tế tự cung, tự cấp. Hơn nữa, họ
cũng cho rằng, để thị trường hoá nền kinh tế thì tự do hoá là điều kiện cần nhưng
chưa đủ bởi ở các nước đang phát triển, kinh tế thị trường sẽ không tự nó phát
triển mà nhà nước phải chủ động thiết kế và đưa cơ chế thị trường vào áp dụng
[19, tr. 67]. Nhà nước phải thực hiện các chính sách và biện pháp phù hợp nhằm
thiết lập các thể chế, cơ chế cần thiết với kinh tế thị trường.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, việc giải quyết các vấn đề kinh
tế ở các nước đang phát triển có thể có nhiều cách khác nhau tuỳ theo cách tiếp
cận. Nhưng rõ ràng, một giải pháp hợp lý phải được xây dựng dựa trên sự phối
hợp của các cách tiếp cận với nhau và trên hết vẫn phải đạt được các yêu cầu về
ổn định kinh tế vĩ mô, tạo dựng và thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường, thực
hiện tự do hoá để cho kinh tế thị trường phát triển.
Thứ ba, lý thuyết về lợi thế so sánh – cơ sở của chính sách thương mại
quốc tế
Thực tế cho thấy, lý thuyết về lợi thế so sánh (“Thuyết thương mại cũ”)
đến nay vẫn được coi là cơ sở nền tảng để xây dựng chính sách thương mại quốc
tế của các quốc gia. Dựa trên quan điểm cho rằng các quốc gia khác nhau về
năng suất của các ngành, về các nguồn lực (vốn, lao động, v.v…), các nhà kinh
tế học đã đề xuất mô hình chuyên môn hoá sản phẩm dựa vào ưu thế của tự
nhiên và lao động (mô hình David Ricardo) và chuyên môn hoá và trao đổi dựa
trên sự dồi dào của các yếu tố sản xuất (mô hình Heckscher - Ohlin). D. Ricardo
dựa trên quan điểm sự khác biệt về năng suất lao động do sự khác biệt về công
nghệ đã chứng minh rằng thương mại giữa hai quốc gia có thể đem lại lợi ích
cho cả hai nếu như mỗi quốc gia tập trung sản xuất và xuất khẩu mặt hàng mà nó
có lợi thế so sánh. Xuất phát từ việc nhấn mạnh về sự khác biệt nguồn lực (lao
động, vốn, đất đai) giữa các quốc gia, Heckscher và Ohlin đã đưa ra định lý: Một
quốc gia sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá thâm dụng yếu tố
sản xuất mà quốc gia đó dồi dào một cách tương đối [98].
36
Mặc dù còn một số điểm hạn chế nhưng lý thuyết về lợi thế so sánh vẫn
được coi là cơ sở nền tảng để xây dựng chính sách thương mại quốc tế của các
quốc gia hiện nay. Bất kỳ quốc gia nào cũng có ít nhất một lợi thế so sánh, bỏ
qua một lợi thế so sánh cũng đồng nghĩa với việc lãng phí nguồn lực quốc gia.
Đối với các nước đang phát triển, vấn đề là phải xác định được những ngành,
lĩnh vực lợi thế so sánh để khai thác và phát huy. Nhà nước cần phát huy vai trò
quan trọng của mình đối với vấn đề này. Những ngành có lợi thế so sánh cũng
cần được hỗ trợ từ phía nhà nước. Trong thực tế, các nước thường chọn biện
pháp đánh thuế nhập khẩu, hoặc trợ cấp xuất khẩu, hoặc tham gia các hiệp định,
các khối thương mại tự do. Điều đó sẽ cho phép bảo vệ và tối đa hóa lợi ích quốc
gia hơn là việc để thị trường tự do hoàn toàn. Ngoài ra, chính sách của nhà nước
cũng cần hướng tới việc giảm bớt các loại chi phí giao dịch, mở rộng thị trường
khu vực nhằm khai thác lợi thế về khoảng cách địa lý, giảm chi phí vận chuyển.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ ngày càng phát triển, xu thế toàn cầu hóa,
khu vực hóa ngày càng được đẩy mạnh thì những lợi thế so sánh tĩnh của các
nước sẽ bị giảm thiểu và mất dần ý nghĩa. Do vậy, các nước cần tranh thủ khai
thác có hiệu quả những lợi thế so sánh tĩnh cho phát triển trước khi chúng bị mất
đi. Đồng thời, cần có chính sách nhằm thúc đẩy sự hình thành lợi thế so sánh
mới, lợi thế còn ở dạng tiềm năng.
Ngoài ra, xuất phát từ nhận định rằng, mặc dù “thuyết thương mại cũ” đã
góp phần giải thích rất nhiều cơ cấu thương mại toàn cầu nhưng vẫn còn một số
hiện tượng quan trọng mà nó không giải thích được, ví dụ như khối lượng
thương mại giữa Pháp và Đức, giữa Mỹ và Canađa rất cao, dù hai nước khá
giống nhau về tài nguyên, về khí hậu hay hiện tượng hàng hóa mà các nước phát
triển buôn bán với nhau thường là cùng một sản phẩm (như Thuỵ Điển xuất khẩu
xe Volvo sang Đức trong khi Đức xuất khẩu xe BMW sang Thuỵ Điển) chứ
không phải luôn luôn xuất khẩu sản phẩm này, nhập khẩu sản phẩm khác, sự ra
đời của “Thuyết thương mại mới” đã có vai trò rất quan trọng trong việc giải
37
thích về hoạt động thương mại quốc tế và cũng đưa ra những gợi ý về mặt chính
sách cho các nước. Krugman đã chứng minh “thương mại nội ngành” hoàn toàn
có thể là hậu quả của sự đa dạng về chủng loại sản phẩm và đặc tính sản xuất.
Ông cho rằng, một số ngành công nghiệp có đặc tính mà kinh tế học gọi là “tính
tiết kiệm do quy mô” (economies of scale): số lượng sản xuất càng cao thì giá
phí bình quân càng thấp. Rất nhiều loại sản phẩm có đặc tính này, quốc gia nào
cũng có một số sản phẩm như vậy. Đặc tính “tiết kiệm do quy mô” sẽ dẫn đến
khuynh hướng tập trung hóa các hoạt động kinh tế [98]. Khi mới xuất hiện,
“thuyết thương mại mới” thường được coi là một lý do để nhà nước can thiệp
bảo hộ những ngành công nghiệp có tính tiết kiệm do quy mô. Krugman tin rằng,
về lý thuyết, bảo hộ có thể có ích. Lý thuyết về các yếu tố chuyên biệt cũng gợi ý
rằng, nhà nước cần bù đắp thiệt hại cho những ngành sản xuất trong nước trước
sự cạnh tranh do nhập khẩu sẽ tốt hơn là cản trở thương mại.
Như vậy, theo các lý thuyết về thương mại quốc tế thì bức tranh thương
mại thế giới được định đoạt bởi những yếu tố như tài nguyên và khí hậu (như
trong thuyết thương mại cũ), nhưng thêm vào đó là rất nhiều những chuyên biệt
hóa căn cứ trên tính tiết kiệm do quy mô, như thuyết thương mại mới. Đó là lý
do tại sao khối lượng thương mại toàn cầu trên thực tế rất lớn, nhất là giữa
những nước khá giống nhau, hơn là khối lượng mà thuyết thương mại “cũ” (chỉ
căn cứ trên sự khác biệt tài nguyên và khí hậu) tiên đoán.
Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay,
một trong những vấn đề nổi bật là vai trò của nhà nước có chủ quyền trong việc
điều hành nền kinh tế và vị trí của họ trong mối quan hệ với các nước khác cũng
như các thể chế quốc tế. Mặc dù còn những quan điểm chưa đồng nhất nhưng về
cơ bản các trường phái lý thuyết đều thống nhất rằng, nhà nước ở các quốc gia
có chủ quyền vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng, không chỉ định hướng mà còn
can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp tạo những điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát
triển. Nhà nước xác định mục tiêu phát triển rõ ràng, nhà nước thực hiện hức
38
năng điều tiết phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế và tập trung những nguồn
lực xã hội có hạn để đầu tư vào những ngành trọng yếu. Đồng thời, nhà nước
cũng là người quyết định mức độ tham gia vào toàn cầu hoá và tự do hoá. Nhà
nước không thể không mở cửa, không hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Nhà
nước cần giành một mức độ tự do hoá cao hơn cho các lực lượng thị trường và
tăng cường tính dân chủ, minh bạch để đáp ứng những nhu cầu đa dạng của các
nhóm lợi ích trong xã hội. Đi ngược lại những xu thế đó, nền kinh tế có thể sẽ rơi
vào tình trạng trì trệ, không phát triển được, mức độ phụ thuộc có nguy cơ gia
tăng và nền độc lập có thể bị đe doạ.
Thực tiễn đã chứng minh, hầu hết những nước tiến hành cải cách, mở cửa,
tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và nhà nước có chính sách đẩy mạnh phát
triển giáo dục, nâng cao năng lực khoa học – công nghệ, đều là những nước
giành được nhiều cơ hội và đã đạt được những thành tựu kinh tế – xã hội quan
trọng, vượt qua được những thách thức và hạn chế được tác động tiêu cực của xu
thế tự do hoá và toàn cầu hoá. Trên nền tảng phát triển kinh tế – xã hội, các nước
này cũng giữ vững được nền độc lập, đồng thời vai trò của nhà nước cũng được
củng cố và nâng cao. Ngược lại, những nước do dự hoặc không tiến hành cải
cách và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế đã không có điều kiện thu hút nguồn
vốn, tiếp thu công nghệ mới, tri thức quản lý tiên tiến... đều có nguy cơ rơi vào
trạng thái trì trệ, khủng hoảng về kinh tế – xã hội.
1.2.2. Vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc
tế ở các nước đang phát triển
Trong lịch sử phát triển của nhiều nước, CNH, HĐH đóng vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Với tư cách là một phương thức phát
triển, công nghiệp hoá được khởi đầu từ châu Âu, sau đó lan tới Bắc Mỹ, Nhật
Bản với nhịp độ nhanh chóng. Sang thế kỷ XX, công nghiệp hoá ngày càng trở
nên phổ biến và là con đường để đưa các nước đang phát triển thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu. Với công nghiệp hoá, những tiến bộ khoa học - công
39
nghệ đã giúp cải biến toàn bộ lực lượng sản xuất, tạo ra một nền công nghiệp
mới có thể sản xuất các máy công cụ, những loại sản phẩm tiêu dùng đại trà,
những dây chuyền sản xuất liên tục và những nhà máy khổng lồ. Chính công
nghệ mới trong sản xuất đã tạo tiền đề cho việc chuyển giao nhiều chức năng lao
động của con người cho máy móc, góp phần nâng cao năng suất lao động, giảm
bớt chi phí, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Điều đó khẳng định, cách
mạng khoa học – công nghệ là một phương tiện hiện thực có thể giúp các nước
kém phát triển gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá để tăng tốc, khắc phục tình
trạng tụt hậu và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển đi trước.
Vai trò to lớn của CNH, HĐH biểu hiện ở chính kết quả của nó, đó là sự
chuyển đổi một cách căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,
quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng những công
nghệ và phương pháp hiện đại. Thực hiện thành công CNH, HĐH sẽ giúp các
nước đang phát triển tạo ra một sức mạnh kinh tế, mở ra sự biến đổi kinh tế – xã
hội đất nước trên nhiều phương diện: i) Thúc đẩy tăng năng suất lao động, nâng
cao chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường; ii) Thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, mở rộng liên kết kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng năng động, hiệu quả; iii) Tạo thêm nhiều việc làm mới, gia tăng thu
nhập cho người lao động và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội; iv) Tạo thế
và lực để tham gia có hiệu quả vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Trong nửa cuối thế kỷ XX, một số quốc gia và vùng lãnh thổ do biết phát
huy các tiềm năng và lợi thế của mình tham gia tích cực vào quá trình phân công
lao động quốc tế để tiến hành CNH, HĐH nên đã thành công, rút ngắn khoảng
cách tụt hậu với các nước phát triển và gia nhập hàng ngũ NIEs như Hàn Quốc,
Đài Loan, Xingapo... Bên cạnh đó, còn có một số nước đang cố gắng vươn lên
tiến tới gia nhập hàng ngũ các nước công nghiệp hoá mới. Tuy nhiên, số đông
các nước đang phát triển vẫn gặp khó khăn trong tiến trình thực hiện công
nghiệp hoá và do vậy nền kinh tế vẫn trong tình trạng thấp kém, lạc hậu.
40
Thực tế đó cho thấy, CNH, HĐH ở các nước đang phát triển là một quá
trình phức tạp, với sự đa dạng về mô hình và cách thức tiến hành bắt ngưồn từ
những khác biệt về điều kiện và môi trường. Trong lịch sử phát triển của một số
nước, CNH, HĐH là một quá trình tự phát bắt nguồn từ động cơ lợi nhuận của
các chủ thể kinh tế. Mặc dù cơ chế thị trường được coi là cơ chế phân bổ sử
dụng có hiệu quả nguồn lực nhưng trong thực tế, xuất phát từ động cơ lợi nhuận
nên có hiện tượng các nhà đầu tư đổ xô vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận
cao, đến một mức độ nào đó sẽ xảy ra hiện tượng bão hoà, thậm chí là khủng
hoảng và hậu quả tiếp theo sẽ là làm lãng phí các nguồn lực xã hội. Đối với
nhiều nước khác, CNH, HĐH không phải là một quá trình tự phát, mà là một quá
trình có định hướng trong một tầm nhìn bao quát, lâu dài và có sự can thiệp, điều
tiết của nhà nước để hướng tới mục tiêu đã lựa chọn.
Hiện nay, hầu hết các nước đều xây dựng và phát triển nền kinh tế theo
mô hình kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu của quá trình
CNH, HĐH. Vấn đề quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp là khả năng tồn
tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, không chỉ ở thị
trường nước ngoài mà ngay ở thị trường nội địa. Do vậy, một câu hỏi lớn đặt ra
với các nước đang phát triển là bằng cách nào để các nhà sản xuất, cho dù là
doanh nghiệp hay quốc gia, tham gia được vào nền kinh tế toàn cầu, tận dụng có
hiệu quả những cơ hội mà toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế mang lại
cũng như vượt qua được những áp lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế. Tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện thiếu hụt các nguồn lực cần thiết,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn yếu thì đòi hỏi các
nước này phải có định hướng mục tiêu và cơ chế huy động, phối hợp sử dụng
các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực một cách tốt nhất để tạo ra hiệu quả cao,
đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Tất cả những vấn đề khó khăn phức tạp đó
thuộc về vai trò của nhà nước.
41
Nội dung vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế
quốc tế ở các nước đang phát triển rất rộng, được thể hiện trên nhiều khía cạnh:
Nhà nước xây dựng và đề ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong đó có
chiến lược CNH, HĐH; Nhà nước điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế thông
qua các công cụ như luật pháp, các biện pháp hành chính, kinh tế để chỉ đạo việc
thực hiện chiến lược, duy trì và đảm bảo các quan hệ cân đối lớn trong nền kinh
tế; Nhà nước đóng vai trò là người trọng tài đảm bảo cho thị trường hoạt động có
hiệu quả thông qua việc xây dựng các quy tắc hoạt động của thị trường, xác định
cơ chế buộc các chủ thể kinh doanh cũng như các đơn vị hành chính nhà nước
phải chấp hành, tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp
hành các quy tắc đề ra, xây dựng cơ chế xử phạt và tiến hành xử phạt những vi
phạm của các chủ thể kinh doanh…; Nhà nước xây dựng cơ chế để các doanh
nghiệp, cá nhân, các tổ chức xã hội tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội…
Đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của nhà nước
thể hiện rõ nhất trên các nội dung cơ bản sau:
1.2.2.1. Nhà nước xác định và điều chỉnh chiến lược CNH, HĐH
Khái niệm “chiến lược” thường được hiểu là hướng và cách giải quyết
nhiệm vụ đặt ra mang tính toàn cục, tổng thể và trong thời gian dài. Chiến lược
được xem như là một công cụ nhằm tác động đến bản chất và quá trình phát triển
của đối tượng, nghĩa là nó phải có tác dụng làm thay đổi, từ những thay đổi về
lượng đưa đến thay đổi về chất của hệ thống. Đó là sự thay đổi về mục tiêu, cơ
cấu, cơ chế hoạt động của hệ thống. UNIDO cho rằng: “Thông thường, một
chiến lược phát triển có thể như bản phác thảo quá trình phát triển nhằm đạt
những mục tiêu đã định cho một thời kỳ từ 20 - 30 năm; nó hướng dẫn các nhà
hoạch định chính sách trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực; nó cung
cấp một “tầm nhìn” của một quá trình phát triển mong muốn và sự nhất quán
trong các biện pháp tiến hành” [85, tr. 12]. Chiến lược CNH, HĐH là một bản
luận cứ có cơ sở khoa học xác định tầm nhìn, định hướng và các giải pháp cơ
42
bản để thực hiện CNH, HĐH. Xác định chiến lược CNH, HĐH là việc xác định
các mục tiêu và biện pháp hành động để từ đó lựa chọn phương án tối ưu trong
quá trình thực hiện.
Để đưa ra một chiến lược CNH, HĐH phù hợp, phải xác định được điểm
xuất phát và mục tiêu cuối cùng của một giai đoạn phát triển; phải xây dựng các
thể chế phù hợp để đạt được các mục tiêu phát triển, trong đó nhấn mạnh phải
tính đến các khía cạnh vĩ mô và vi mô cũng như các khía cạnh chính trị – xã hội
của các mục tiêu phát triển và chỉ ra cần phải làm gì để đạt được các mục tiêu đề
ra. Những vấn đề đó thuộc về vai trò của nhà nước.
- Trong nội dung chiến lược CNH, HĐH, vấn đề quan trọng hàng đầu là
phải xác định rõ mục tiêu và bước đi của CNH, HĐH. Với mỗi quốc gia, CNH,
HĐH có mục tiêu tổng quát nhưng cũng có mục tiêu cho từng giai đoạn cụ thể.
Ngoài mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nội dung
chiến lược CNH, HĐH. Vì cơ cấu kinh tế phản ánh cả mặt lượng và mặt chất
mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế nên sự thay đổi
của cơ cấu kinh tế cũng phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội.
Đồng thời, bước đi trong CNH, HĐH thường gắn với những mục tiêu cụ thể về
cơ cấu kinh tế, nhất là về cơ cấu ngành vì đó là một trong những chỉ tiêu quan
trọng nhất phản ánh xu hướng vận động và mức độ thành công của CNH, HĐH.
Mục tiêu xác lập cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển cần phải căn
cứ vào mục tiêu của CNH, HĐH và phải dựa trên điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Một số học giả kinh tế cho rằng, các nước đang phát triển muốn đạt được sự tăng
trưởng cao và bền vững cần phải hướng tới một cơ cấu kinh tế phát triển cân đối
gồm tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời cần huy động tối đa
những nguồn lực sẵn có trong nước để thực hiện mục tiêu đề ra. Tuy nhiên trong
thực tế, các nước đang phát triển luôn gặp phải những hạn chế về nguồn lực,
43
nhất là vốn, lao động kỹ thuật, công nghệ, nên quan điểm tăng trưởng cân đối tỏ
ra không phù hợp với nhiều quốc gia. Một số nhà kinh tế học khác như
Hirschman, Feldman lại đưa ra quan điểm về “cực tăng trưởng”, tức là các nước
nên tập trung cho những ngành, lĩnh vực đầu tư có khả năng lôi kéo toàn bộ nền
kinh tế phát triển. Nghĩa là, các nước đang phát triển cần phải tập trung xây dựng
và phát triển những ngành kinh tế đầu tàu có ảnh hưởng lan toả đến các ngành và
khu vực còn lại của nền kinh tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các mục tiêu về cơ cấu và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia trong CNH, HĐH không chỉ thuần
túy được nhìn nhận từ góc độ chuyển dịch ngành kinh tế trong phạm vi từng
quốc gia như cách tiếp cận truyền thống mà cần phải tiếp cận quan điểm hiện đại
– theo nguyên lý chuỗi giá trị toàn cầu. Nghĩa là phải thông qua việc gia nhập
các chuỗi giá trị toàn cầu để thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó chính là
vấn đề mới, khác biệt đáng kể với các quá trình công nghiệp hóa trước đây, khi
mà sự phân công lao động quốc tế chủ yếu diễn ra qua việc cung cấp sản phẩm
chứ chưa hoàn toàn là sự phân công lao động thông qua các chuyên môn hóa
chức năng sản xuất theo hệ thống liên kết mạng. Với cách tiếp cận này, định
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển là phải khai thác
lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm cách chen chân và tìm
được chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và thế giới. Thực tế cho
thấy, bên cạnh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ khu vực nông nghiệp
truyền thống sang khu vực công nghiệp hiện đại như quan niệm trước đây, các
nước đi sau cần chú ý là trong điều kiện mới, dưới tác động của khoa học công
nghệ hiện đại, khu vực năng suất cao không chỉ là công nghiệp mà cả khu vực
dịch vụ dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại. Thậm chí với khu vực
nông nghiệp, do áp dụng khoa học – công nghệ hiện đại nên không ít lĩnh vực có
thể đem lại giá trị gia tăng cao và khi gắn kết vào trong chuỗi giá trị, nông
nghiệp không chỉ là ngành sản xuất ra các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp.
44
Nói một cách khái quát, vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nội dung
chiến lược CNH, HĐH là phải chỉ rõ mục tiêu và định hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế để từ đó xác định cách thức phân bổ và sử dụng các nguồn lực một cách
hiệu quả. Sự thay đổi cơ cấu ngành cần phải gắn với từng bước đi trong CNH,
HĐH. Cơ cấu ngành phải là một cơ cấu động dựa trên nguyên tắc phát huy có
hiệu quả nhất lợi thế so sánh của đất nước. Lợi thế so sánh thay đổi thì cơ cấu
ngành cũng thay đổi, chỉ có như vậy mới phù hợp với sự vận động của kinh tế thị
trường, mới có khả năng tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ thời đại để tạo điều kiện đẩy nhanh CNH, HĐH.
- Một nội dung quan trọng khác trong nội dung chiến lược CNH, HĐH là
phải xác định rõ phương thức hành động để thực hiện các mục tiêu đề ra. Nghĩa
là phải xác định rõ định hướng chính sách nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy quá
trình CNH, HĐH. Trong đó, chính sách huy động các nguồn lực cho CNH, HĐH
là một trong những trọng tâm hàng đầu thể hiện vai trò của nhà nước. Hiện nay,
đa số các nước đang phát triển hiện nay đều trong tình trạng thiếu hụt những
nguồn lực cơ bản về vốn, công nghệ, nhân lực cho CNH, HĐH nên để thực hiện
các mục tiêu đề ra các nước này cần tạo lập cơ chế và có các chính sách nhằm
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực này. Trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế thì ngoài những nguồn lực sẵn có trong nước, các nước còn có
thể huy động các nguồn lực này từ bên ngoài. Việc bổ sung những nhân tố thiếu
để kết hợp với những nhân tố sẵn có bên trong nhằm đạt tới hiệu quả cao nhất
trong phát triển là một yêu cầu cấp thiết và cũng là vấn đề có thể thực hiện được.
Đồng thời, bên cạnh việc huy động các nguồn lực hiện có thì việc phát triển các
nguồn lực còn ở dạng tiềm năng cũng là một yêu cầu cần thiết với các nước đang
phát triển. Đó chính là quan điểm cho chính sách huy động tổng lực, cả nội lực
và ngoại lực cho CNH, HĐH.
Như vậy, vai trò quan trọng trước tiên của nhà nước đối với CNH, HĐH
là phải xác định rõ chiến lược CNH, HĐH để định hướng dài hạn cho quá trình
45
thực hiện cũng như lựa chọn hệ thống các chính sách và giải pháp để đạt được
những mục tiêu đề ra.
Trong thực tế đã có hai loại hình chiến lược công nghiệp hoá được thực
hiện ở nhiều nước đang phát triển và đem lại những thành tựu nhất định. Các nhà
kinh tế đã khái quát chúng thành lý thuyết về chiến lược công nghiệp hoá ở các
nước đang phát triển. Đó là chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và
chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu được đưa ra dựa trên tư
tưởng chủ đạo là thay thế những mặt hàng trước đây phải nhập khẩu bằng sản
xuất trong nước nhằm mục tiêu xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Thực
tế, ý tưởng thay thế các sản phẩm nhập khẩu bằng sản xuất trong nước cuối cùng
đã đưa đến chính sách xây dựng nền công nghiệp hoàn chỉnh với đủ mọi phân
ngành công nghiệp, mang tính chất khép kín và đóng cửa với thế giới bên ngoài.
Hệ thống chính sách trong quá trình thực hiện chiến lược này đều nhằm bảo hộ
sản xuất trong nước, với nghĩa đảm bảo cho các nhà sản xuất và cung ứng dịch
vụ đối với những hàng hoá trước đây phải nhập khẩu có lợi nhuận. Nhìn chung,
chiến lược này đã được thực hiện ở hầu hết các nước đang phát triển trong giai
đoạn sau chiến tranh thế giới II. Một số nước đã đạt được những thành tựu quan
trọng về tốc độ tăng trưởng công nghiệp, về sự thay đổi cơ cấu kinh tế... Tuy
nhiên, những kết quả này không duy trì được lâu và nhiều mặt hạn chế đã bộc lộ
rõ. Một số mục tiêu như xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, có nền công
nghiệp phát triển, cơ cấu kinh tế hiện đại và ngay cả một số mục tiêu khác như
giải quyết tình trạng thâm hụt ngân sách, giải quyết vấn đề việc làm, thu nhập đã
không thực hiện được.
Do những hạn chế của chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, từ
đầu những năm 1970, một số quốc gia và vùng lãnh thổ đã chuyển sang thực
hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với tư tưởng chủ đạo là
khai thác lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương và đặt trọng tâm phát triển
46
vào những ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế, sản xuất
những cái mà thị trường cần và cái mà mình có lợi thế. Toàn bộ chính sách chủ
yếu đều chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu với quan điểm đảm bảo cho
những nhà sản xuất có lợi hơn nếu xuất khẩu sản phẩm.
Bảng 1.1: Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại hình chiến lược công nghiệp hóa
Chiến lược công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu
Chiến lược công nghiệp hoá
hướng về xuất khẩu
Phương châm
Phát triển các ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu
Phát triển các ngành công
nghiệp phục vụ xuất khẩu
Nguyên tắc ban
hành chính sách
Đảm bảo cho nhà sản xuất các
sản phẩm trước đây phải nhập
khẩu có được lợi nhuận
Đảm bảo cho các nhà sản
xuất có lợi hơn nếu xuất
khẩu sản phẩm
Nguồn động lực
- Thị trường nội địa
- Lẩn tránh cạnh tranh quốc tế
- Thị trường nước ngoài;
- Khuyến khích và đặt các
doanh nghiệp trong nước
phải cạnh tranh quốc tế
Định hướng xác
lập cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh
mang tính tự cấp, tự túc
Cơ cấu kinh tế không cân
đối dựa vào khai thác lợi
thế so sánh trong quan hệ
ngoại thương
Các chính sách
chủ yếu
- Bảo hộ hàng hoá sản xuất
trong nước thông qua hàng rào
thuế quan và các biện pháp
phi quan thuế
- Định giá đồng nội tệ cao
- Ưu đãi về thuế đối với
hàng xuất khẩu và nguyên
liệu nhập khẩu cho sản xuất
xuất khẩu
- Trợ cấp và hỗ trợ cho sản
xuất để xuất khẩu
- Đánh tụt giá đồng nội tệ
47
Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã được thực hiện ở một
số nước ở Đông Á và đem lại những thành tựu quan trọng như đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian tương đối dài; cơ cấu kinh tế chuyển dịch
nhanh chóng theo hướng gia tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng của nông nghiệp; đồng thời, các nước này còn giải quyết được một số vấn
đề xã hội. Vì lẽ đó mà chiến lược này được coi là có triển vọng hơn cả và trở
thành khuynh hướng phát triển chủ yếu của nhiều quốc gia đang phát triển.
Mặc dù vậy, từ giữa thập kỷ 1980, chiến lược công nghiệp hoá hư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo đề tài- Vai trò của nhà nước đối với CNH-HDH Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam.pdf