Tài liệu Đề tài Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Lời mở đầu
Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, sự di chuyển các nguồn lực (vốn, tài nguyên, kỹ thuật, lao động…) giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng và phát triển. Sự di chuyển đó được quyết định bởi đầu tư quốc tế (bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp ). Trong đó đầu tư trực tiếp đóng vai trò quan trọng. Dòng đầu tư này đang vận động theo nhiều chiều, dưới nhiều hình thức và ngày càng có xu hướng tự do hóa. Đây là một tất yếu khách quan. Các nước đều phải chấp nhận tính tất yếu này dù là nước phát triển hay nước đang phát triển. Nước nào nhận thức được nó và tạo điều kiện cho nó vận động thì nước đó sẽ phát triển lớn mạnh.
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nhân tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế. Muốn tăng trưởng nhanh các nước này cần phải lợi dụng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, lao động… của nhiều nước. Song nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới là có hạn, mà nhu cầu về nó ngày cà...
67 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 997 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, sự di chuyển các nguồn lực (vốn, tài nguyên, kỹ thuật, lao động…) giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng và phát triển. Sự di chuyển đó được quyết định bởi đầu tư quốc tế (bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp ). Trong đó đầu tư trực tiếp đóng vai trò quan trọng. Dòng đầu tư này đang vận động theo nhiều chiều, dưới nhiều hình thức và ngày càng có xu hướng tự do hóa. Đây là một tất yếu khách quan. Các nước đều phải chấp nhận tính tất yếu này dù là nước phát triển hay nước đang phát triển. Nước nào nhận thức được nó và tạo điều kiện cho nó vận động thì nước đó sẽ phát triển lớn mạnh.
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nhân tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế. Muốn tăng trưởng nhanh các nước này cần phải lợi dụng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, lao động… của nhiều nước. Song nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới là có hạn, mà nhu cầu về nó ngày càng lớn. Nó càng trở nên bức thiết trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và phân công lao động quốc tế sâu rộng ngày nay. Làm thế nào để thu hút được nguồn vốn này là vấn đề còn nan giải ở các nước đang phát triển bởi lẽ dòng vốn đầu tư trực tiếp khi chảy vào các nước này thường gặp nhiều trở ngại do trình độ kinh tế xã hội của họ còn thấp, nền kinh tế hàng hóa kém phát triển, trình độ kỹ thuật và quản lý lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém, môi trường đầu tư không hấp dẫn.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế của mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường; quá trình chuyển đổi này Việt Nam cần vốn đầu tư nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý…nhằm tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm trong nước. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực sự có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cải cách và đổi mới cũng như công cuộc CNH-HĐH của Việt Nam.
Trên cơ sở đó chúng tôi đã thực hiện đề tài:
“Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”
Đồng thời đưa ra một số kiến nghị mới về quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công cuộc CNH-HĐH trong thời gian tới.
Trong qua trình hoàn thành công trình này, chúng tôi đã nhận được và chân thành cảm ơn những nhận xét, đóng góp ý kiến, giúp đỡ của cô Trần Mai Hoa.
Do trình độ và thời gian có hạn nên chắc chắn rằng các vấn đề trình bày trong đề tài này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc.
Phần i
lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
i - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hửu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế.
Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư nước ngoài. Theo hiệp hội luật quốc tế (1966) “ đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ”. Cũng có quan điểm cho rằng “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng hóa tiêu dùng của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và được bổ xung hoàn thiện sau 4 lần sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000) “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
2. Các lý thuyết đầu tư nước ngoài
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, FDI tăng lên nhanh chóng và trở thành hiện tượng nổi bật trong các hoạt động kinh tế quốc tế. Vì thế, đã thu hút được nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu giải thích hiện tượng này. Với các phương pháp tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm lý thuyết về nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài và phân tích tác động của nó đến kinh tế thế giới, trong đó đặc biệt là đối với thúc đẩy quá trình CNH của các nước đang phát triển. Những lý thuyết về đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng quan trọng, làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng chính sách thu hút FDI của những nước đang phat triển.
Cho đến nay, có nhiều lý thuyết khác nhau về đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, có thể chia thành hai nhóm lý thuyết chủ yếu:
2.1. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô
Trong các tài liệu đầu tư nước ngoài, các lý thuyết kinh tế vĩ mô về lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế thường chiếm vị trí quan trọng. Các lý thuyết này giải thích và dự đoán hiện tượng đầu tư nước ngoài dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư (vốn, lao động, công nghệ) giữa các nước, trong đó đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô dựa trên mô hình cổ điển 2´2(hai nước, hai hàng hóa, hai yếu tố sản xuất) để so sánh hiệu quả vốn đầu tư hoặc tỷ suất lợi nhuận giữa các nước.
Theo Richard S. Eckaus
Trên cơ sở mô hình lý thuyết thương mại quốc tế của Heckcher-Ohlin-Samuelson (HOS), Richard S. Eckaus đã loại bỏ giả định không có sự di chuyển các yếu tố sản xuất giữa các nước để mở rộng phân tích nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài. Theo ông, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận ở phạm vi toàn cầu nhờ vào sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế. Richard cho rằng, nước đầu tư thường có hiệu quả sử dụng vốn thấp ( thừa vốn), trong khi nước nhận đầu tư lại có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn (thiếu vốn). Vì vậy, chênh lệch hiệu quả sử dụng vốn giữa các nước đã làm xuất hiện lưu chuyển dòng vốn đầu tư giữa các nước.
Mô hình Macdougall-Kemp
Cùng với quan điểm trên, mô hình lý thuyết của Macdougall-Kemp cũng chứng minh sự chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước là nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài.
Theo mô hình này, những nước phát triển (dư thừa vốn đầu tư ) có năng suất cận biên của vốn thấp hơn năng suất cận biên của vốn ở những nước đang phát triển ( thiếu vốn ). Vì thế, xuất hiện dòng lưu chuyển vốn giữa hai nhóm nước này.
Biểu đồ 1 : Mô hình Macdougall-Kemp.
M m
u
P
E e
n N
O1 S Q O2
Tổng vốn đầu tư của hai nước là O1O2, trong đó vốn ở nước đầu tư (I) là O1Q, tương tự ở nước nhận đầu tư là O2Q. Năng suất cận biên của vốn ở nước(I) là O1M, tương tự ở nước(II) là O2m. Các đường MN và mn là giới hạn năng suất cận biên của vốn ở hai nước ( nước I thấp hơn nước II ) và đều có xu hướng giảm dần. Trước khi có di chuyển vốn giữa hai nước, tổng sản lượng của nước I là O1MNQ và tổng sản lượng của nước II là O2muQ. Do có sự chênh lệch năng suất cận biên của vốn ở hai nước, vốn nước I chuyển sang nước II là SQ đến khi năng suất cận biên của vốn ở hai nước cân bằng tại điểm P (SP=O1E=O2e). Kết quả làm tăng sản lượng hai nước là PuN, phần dôi ra ngoài tổng sản lượng của hai nước trước khi có sự dịch chuyển vốn.
Theo Krugman; Dunning và Narula
Họ cho rằng, sở dĩ có đầu tư nước ngoài là do có sự thay đổi các chính sách kinh tế vĩ mô như tài chính, thuế, ngoại hối… ở các nước tham gia đầu tư.
Theo K.Kojima
Sở dĩ có đầu tư nước ngoài là do có sự khác nhau về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước.
Cũng dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của mô hình Heckcher-Ohlin-Samuelson, K.Kojima đã phát triển để chứng minh rằng những nước có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút được các nhà đầu tư. Theo tác giả, nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài là có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước và sự chênh lệch này được bắt nguồn từ sự khác biệt về lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế.
Theo lý thuyết của Sibert
Đánh thuế cao đối với đầu tư nước ngoài tuy tăng được nguồn thu cho ngân sách nhưng lại làm giảm lợi ích mang lại cho nền kinh tế về mặt lâu dài. Theo tác giả, thuế cao không khuyến khích được đầu tư nước ngoài và vì thế các yếu tố đầu tư trong nước không khai thác được lợi thế so sánh. Tuy nhiên mức thuế thấp đối với đầu tư nước ngoài sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách và không bảo hộ được các ngành công nghiệp nội địa trước sự cạnh tranh mạnh của các công ty nước ngoài. Bởi vậy, cần điều chỉnh mức thuế hợp lý đối với đầu tư nước ngoài sẽ đem lại lợi ích tối đa cho nước nhận đầu tư.
Như vậy, qua phân tích trên cho thấy các lý thuyết đã nêu giải thích sự xuất hiện của đầu tư nước ngoài về thực chất đều dựa vào nguyên tắc lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế. Đây là nguyên tắc chung cho cả lý thuyết thương mại và di chuyển các nguồn lực sản xuất quốc tế. Mặt khác, các quan điểm lý thuyết cũng cho rằng đầu tư nước ngoài có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và các nước tham gia đầu tư, trong đó nhất là thực hiện CNH của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các lý thuyết trên cũng chỉ mới giải thích được điều kiện “cần” để xuất hiện lưu chuyển dòng vốn giữa các nước.
2.2. Các lý thuyết kinh tế vi mô.
Hầu hết các lý thuyết kinh tế vi mô của FDI đều xoay quanh trả lời câu hỏi là tại sao các công ty lại đầu tư ra nước ngoài? Vì thế, thực chất của các lý thuyết này là những giải thích khác nhau về nguyên nhân hình thành của các công ty xuyên quốc gia và đánh giá tác động của chúng đối với nước nhận đầu tư, trong đó chủ yếu là các nước đang phát triển.
Theo Stephen Hymer: tác giả cho rằng, do kết cấu của thị trường độc quyền đã thúc đẩy các công ty mở rộng thị trường ra nước ngoài để khai thác lợi thế của mình về công nghệ, kỹ thuật quản… mà các công ty trong cùng ngành công nghiệp ở nước nhận đầu tư không có được.
Theo Robert Z. Aliber: Ông đã giải thích hiện tượng FDI trên cơ sở phân tích nguyên nhân đầu tư ra nước ngoài của các công ty độc quyền từ yếu tố thuế quan và qui mô thị trường. Theo lý thuyết này, vì thuế quan làm tăng giá nhập khẩu nên các công ty phải di chuyển sản xuất ra nước ngoài để giảm chi phí giá thành.
Theo Vernon: Ông đã lý giải hiện tượng FDI trên cơ sở phân tích các giai đoạn phát triển của sản phẩm từ đổi mới đến tăng trưởng (sản xuất hàng loạt) đạt mức bão hòa và bước vào giai đoạn suy thoái. Theo tác giả, giai đoạn đổi mới chỉ diễn ra ở những nước phát triển, vì ở đó mới có điều kiện để nghiên cứu và phát triển. Đồng thời, cũng chỉ ở những nước này thì kỹ thuật sản xuất tiên tiến với đặc trưng sử dụng nhiều vốn mới phát huy được hiểu quả sử dụng cao. Do vậy, sản phẩm được sản xuất ra hàng loạt với giá thành hạ và đã nhanh chóng đạt tới điểm bão hòa.
Để tránh lâm vào suy thoái và khai thác hiệu quả sản xuất theo quy mô, công ty phải mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài, nhưng các hoạt động xuất khẩu đã gặp trở ngại bởi hàng rào thuế quan và cước phí vận chuyển. Vì thế công ty di chuyển sản xuất ra nước ngoài để vượt qua những trở ngại này. Như vậy, theo cách giải thích của Vernon, thì FDI là kết quả tự nhiên từ quá trình phát triển của sản phẩm theo chu kỳ.
Theo Akamatsu: Phát triển lý thuyết chu kỳ sản phẩm, Akamatsu đã xây dựng lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp để giải thích nguyên nhân của FDI. Theo lý thuyết này, sản phẩm mới được phát minh và ra đời ở nước đầu tư, sau đó được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước xuất khẩu, do ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu thị trường nội địa tăng lên, nước nhập khẩu chuyển hướng sản xuất để thay thế nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật…của nước ngoài. Đến khi nhu cầu thị trường của sản phẩm sản xuất ở trong nước đạt tới mức bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện và cứ theo chu kỳ như vậy mà dẫn đến hình thành FDI (xem biểu đồ 2).
Biểu đồ 2: Mô hình chu kỳ sản phẩm bắt kịp của Akamatsu.
Q Lượng cầu nội địa, sản xuất,
Xuất khẩu và nhập khẩu
D
P
X
M
O t1 t2 t3 T(thời gian)
OQ là sản lượng của nhu cầu nội địa (D), sản xuất (P), xuất khẩu (X), nhập khẩu (M) và OT là thời gian (t1,t2,t3…). Lúc đầu, nhập khẩu sản phẩm mới làm tăng nhu cầu nội địa và sản xuất trong nước, sau đó tất cả lại giảm xuống do nhu cầu thị trường nội địa bị bão hòa. Vì thế, nhu cầu xuất khẩu xuất hiện. Các bước tiếp theo lại lập lại trình tự như trước và phát triển theo hình chữ V úp xuống. Con đường phát triển này dẫn đến hình thành FDI.
Theo lý thuyết trên, chu kỳ của sản phẩm được bắt đầu từ nhập khẩu sản phẩm mới với chất lượng tốt hơn. Sau đó, những sản phẩm này làm cho nhu cầu nội địa tăng lên và dẫn đến quy mô thị trường được mở rộng. Vì thế, đã xuất hiện nhu cầu sản xuất trong nước để thay thế nhập khẩu với sự trợ giúp về kỹ thuật và tiền vốn của các nước phát triển. Bằng con đường này, nước nhập khẩu học được kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cải tiến kỹ thuật… và mở rộng sản xuất. Nhờ đó, đã đạt được hiệu quả kinh tế theo qui mô tăng năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm và hạ được giá thành. Do đó, làm xuất hiện nhu cầu xuất khẩu. Như vậy, lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp đã giải thích FDI qua quá trình phát triển liên tục của sản phẩm đi từ nhập khẩu đến sản xuất nội địa và di chuyển sang xuất khẩu.
3. Bản chất và đặc điểm của FDI.
3.1. Bản chất của FDI
Trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau. Nhìn chung, vốn nước ngoài đầu tư vào trong nước bằng hai con đường: đường công cộng (official) và đường tư nhân hoặc thương mại (commercial). Hình thức chủ yếu trong đường công cộng là viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ các nước tiên tiến. Viện trợ không hoàn lại không trở thành nợ nước ngoài, nhưng quy mô nhỏ và thường chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và cứu trợ.
Các hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế là đầu tư trực tiếp, đầu tư qua thị trường chứng khoán (Portfolio), cho vay của các định chế kinh tế và các ngân hàng nước ngoài (vay thương mại) và nguồn vốn Viện trợ phát triển chính thức ODA.
Do vay thương mại với lãi suất cao nên dễ trở thành gánh nặng về nợ nước ngoài trong tương lai. Đầu tư qua thị trường chứng khoán không trở thành nợ nhưng sự thay đổi đột ngột trong một hành động (bán chứng khoán, rút tiền về nước) của nhà đầu tư nước ngoài ảnh hưởng mạnh đến thị trường vốn, gây biến động tỷ giá và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô. FDI cũng là hình thức đầu tư không trở thành nợ. Đây là vốn có tính chất “bén rễ” ở bản xứ nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn. Ngoài ra, FDI không chỉ đầu tư vốn mà còn đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên dễ thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế.
3.2. Đặc điểm chủ yếu của FDI
Hiện nay xét về bản chất, FDI có những đặc điểm chủ yếu sau:
3.2.1. FDI trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư nước ngoài.
Xét về xu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất lượng trong nền kinh tế thế giới, gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp, tham gia vào sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu và tạo thành cơ sở của sự hoạt động cuả các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp quốc tế.
3.2.2. FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển.
Đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển tăng mạnh trong vài thập kỷ lại đây, đặc biệt là nửa cuối những năm 1980 là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của các quan hệ kinh tế quốc tế kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Có nhiều lý do giải thích mức độ đầu tư cao giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau, nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, môi trường đầu tư ở các nước phát triển có độ tương hợp cao. Môi trường này hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả môi trường công nghệ và môi trường pháp lý. Thứ hai, xu hướng khu vực hóa đã thúc đẩy các nước này xâm nhập thị trường của nhau. Dĩ nhiên đây không phải là lý do trực tiếp vì trong khi khu vực hóa với chủ nghĩa bảo hộ chặt chẽ chỉ là một xu hướng thì mức độ mở cửa hiện nay lại không ngăn trở điều đó.
Cũng với hai lý do chính đó, ta có thể giải thích được xu hướng tăng lên của FDI ở các nước công nghiệp mới (Nics), các nước ASEAN và Trung Quốc, ấn Độ. Qúa trình tự do hóa kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường ở các nước này cũng như khu vực Đông Âu và Liên Xô đã tạo nên những khoảng trống mới cho đầu tư. Mặt khác, các nhà đầu tư lớn nhất có xu hướng củng cố khu vực lân cận của mình. Lấy ví dụ đầu tư nước ngoài của Nhật Bản. Vào đầu những năm 1980, Nhật Bản đầu tư mỗi năm khoảng 1,2 tỷ USD cho toàn bộ khu vực châu á. Đến năm 1990 con số này tăng gấp 6 lần.
Như vậy, xu hướng tự do hóa và mở cửa nền kinh tế các nước đang phát triển trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi dòng chảy FDI. Năm 1990, các nước đang phát triển nhận được 19% tổng số vốn FDI, năm 1991 là 25% và năm 1992 khoảng 30%. Trong những năm gần đây tỷ lệ này vẫn có xu hướng tăng lên.
3.2.3. Cơ cấu và phương thức FDI trở nên đa dạng hơn.
Trong những năm gần đây, cơ cấu và phương thức đầu tư nước ngoài trở nên đa dạng hơn so với trước đây. Điều này liên quan đến sự hình thành hệ thống phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng và sự thay đổi môi trường kinh tế thương mại toàn cầu.
Về cơ cấu FDI, đặc biệt là FDI vào các nước công nghiệp phát triển có những thay đổi sau:
Vai trò và tỷ trọng của đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học cao tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hàng năm là tập trung vào các ngành then chốt như điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo, hóa chất và chế tạo máy. Trong khi đó, trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống dùng nhiều vốn và lao động, FDI giảm tuyệt đối hoặc không đầu tư. Các công ty xuyên quốc gia của Mỹ đã đóng cửa các chi nhánh của mình ở Tây Âu và Canada trong các ngành dệt, da, sản xuất các đồ dùng và thực phẩm. Các nguồn vốn thu hồi này được chuyển về Mỹ và sử dụng để cải tạo và hiện đại hóa các cơ sở sản xuất trong nước.
Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo giảm xuống trong khi FDI vào các ngành dịch vụ tăng lên. Điều này có liên quan đến tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP của các nước OECD tăng lên và hàm lượng dịch vụ trong công nghiệp chế tạo cao. Một số lĩnh vực được ưu tiên là các dịch vụ thương mại, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính và giải trí. Tỷ lệ các nguồn FDI vào dịch tăng rất mạnh từ thập kỷ 80: năm 1985, FDI vào dịch vụ tại Mỹ chiếm tỷ trọng 44% ( so với 32% năm 1950), vào Nhật Bản là 52% (so với 20% năm 1965) và vào Cộng hòa Liên bang Đức là 47% ( so với 10% năm 1966).
Một vấn đề đáng lưu ý trong phương thức tiến hành FDI trong thời gian gần đây là vai trò tăng lên của các công ty vừa và nhỏ. Chẳng hạn số dự án FDI của các công ty vừa và nhỏ của Nhật Bản tăng mạnh từ 318 dự án năm 1985 lên 994 dự án năm 1990, chiếm 58% số dự án (so với 13% năm 1985). Đa số các công ty này thuộc mạng lưới các công ty xuyên quốc gia, tiến hành đầu tư theo yêu cầu của công ty mẹ.
3.2.4. Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa FDI với ODA, thương mại, và chuyển giao công nghệ.
FDI và thương mại có liên quan rất chặt chẽ với nhau. Thông thường, một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được nhằm vào mục đích tăng tiềm năng xuất khẩu cuả một nước. Mặt khác, các công ty nước ngoài được lựa chọn ngành và địa điểm đầu tư cũng dựa trên cơ sở tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Sự thay đổi kết cấu ngành đầu tư, như sự phân tích ở trên, đã chứng minh điều này. Ngay cả đối với Nhật Bản, nước đã từng hướng đầu tư nước ngoài vào những ngành khai thác để cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp trong nước thì những năm gần đây cũng đã chuyển sang các ngành nhằm vào xuất khẩu là chủ yếu.
FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của việc chuyển giao công nghệ. Xu hướng hiện nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Đây chính là hình thức có hiệu quả nhất của sự lưu chuyển vốn và kỹ thuật trên phạm vi quốc tế. Nhiều nước đã đạt được thành công trong việc hấp thụ các yếu tố bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước là nhờ chú ý đến điều này. Hồng Kông, Xingapo và Đài Loan rất tích cực khuyến khích các công ty xuyên quốc gia chuyển giao công nghệ cùng với quá trình đầu tư. Hơn nữa, chuyển giao công nghệ giúp nâng cao năng lực công nghệ bản địa. Kinh nghiệm của các nước cho thấy rằng, sự tách rời công nghệ với thương mại quốc tế, trước hết là xuất khẩu đã làm cho năng lực công nghệ quốc gia không được cải thiện, ngược lại có nguy cơ tụt hậu do thiếu sức cạnh tranh. ấn Độ là thí dụ điển hình về mặt này dù chi phí cho nghiên cứu triển khai phát triển công nghệ ở nước này không phải thấp, song do tách rời với xuất khẩu nên vẫn là một nước lạc hậu về công nghệ.
Sự gắn bó giữa FDI và các nguồn viện trợ và vay nợ khác cũng là một đặc điểm nổi bật của sự lưu chuyển các nguồn vốn và công nghệ trên phạm vi quốc tế trong những năm gần đây. Hơn nữa, xu hướng này sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn. Lý do là trước đây, các nguồn viện trợ và cho vay thường nhằm vào mục đích quân sự và chính trị, do đó hiệu quả của nó đối với thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước nhận và nước cho vay vốn là rất thấp. ở các nước chậm phát triển nhất hiện nay viện trợ và cho vay chiếm đến 90% các nguồn vốn tù bên ngoài. Viện trợ và cho vay trong nhiêu trường hợp dẫn đến sự phụ thuộc một chiều hơn là giúp cho các nước nhận có được sự phát triển tự thân và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy, các nguồn vốn này đã được các chính phủ, các tổ chức quốc tế đặt trong mối quan hệ với các nguồn vốn tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng.
4. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Căn cứ vào tính pháp lý của đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể chia FDI thành các loại:
4.1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Là văn bản ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh ) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên ( nước ngoài và nước sở tại ) để tiến hành kinh doanh ở nước chủ nhà ( nước sở tại ) mà không thành lập pháp nhân mới.
Đặc trưng của hình thức này:
+ Cùng hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân chia quyền lợi và nghĩa vụ
+ Không thành lập pháp nhân mới
+ Mỗi bên thực hiện nghĩa vụ với nước chủ nhà theo quy định riêng
4.2. Doanh nghiệp liên doanh
Đây là loại hình doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký kết giữa bên hoặc các bên nước chủ nhà với bên hoặc các bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà.
Đặc trưng của hình thức này:
+ Là dạng công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Có tư cách pháp nhân theo luật của nước chủ nhà
+ Mỗi bên thường chịu trách nhiệm với bên kia hoặc với liên doanh theo tỷ lệ góp vốn.
4.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do người nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Đặc trưng của hình thức này:
+ Là dạng công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Có tư cách pháp nhân theo luật nước chủ nhà
+ Sở hữu hoàn toàn của nước ngoài
+ Chủ đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
4.4. Phương thức đầu tư BOT
Là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng, nâng cấp, khai thác công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định ( thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý) sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Đặc trưng của hình thức này:
+ Cơ sở pháp lý là hợp đồng
+ Vốn đầu tư của nước ngoài
+ Hoạt động theo dạng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc xí nghiệp liên doanh
+ Đối tượng hợp đồng thường là các công trình cơ sở hạ tầng.
Các dạng thức của BOT:
BTO được hình thành cũng tương tự như BOT, nhưng sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước ngoài lại giao lại cho nước chủ nhà, chính phủ nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư nước ngoài quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
BT được hình thành cũng tương tự như BOT, nhưng sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài bàn giao lại công trình cho nước chủ nhà, chính phủ nước chủ nhà trả cho nhà đầu tư nước ngoài chi phí liên quan tới công trình và một tỷ lệ thu nhập hợp lý.
II - công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1. Khái niệm
Theo quan niệm của Liên hợp quốc: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm một nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn bộ nền kinh tế và bảo đảm sự tiến bộ kinh tế xã hội.
Kết hợp quan điểm truyền thống với quan điểm hiện đại và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, hội nghị lần thứ VII ban chấp hành T.W Đảng khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đây cũng chính là quan niệm được sử dụng phổ biến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo tư tưởng này, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự tiến bộ của công nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Coi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nuớc ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, tại đại hội toàn quốc lần thứ VIII, khi thông qua đường lối đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta chỉ rõ: “mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công băng, văn minh”.
2. Bối cảnh triển khai CNH, HĐH ở nước ta hiện nay
Việt Nam sau hơn 15 năm đổi mới, những thành tựu thu được trong lĩnh vực phát triển kinh tế-xã hội đều có sự góp mặt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy so với các nước trong khu vực thì Việt Nam còn ở trình độ thấp, song nhìn chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã dẫn đến chỗ đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí và mức hưởng thụ của nhân dân tăng. Sự nghiệp giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá thể thao, nghệ thuật, phương tiện thông tin đại chúng và nhiều hoạt động xã hội khác như bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, chủ trương đền ơn đáp nghĩa được mở rộng…
Nhận định về xu thế phát triển của tình hình thế giới trong thế kỷ XXI, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có những bước nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh…Những nét mới ấy trong tình hình thế giới và khu vực tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta. Trước mắt nhân dân ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn.
2.1. Thuận lợi và thời cơ.
Thời cơ lớn được tạo ra trước hết là do những thành tựu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đồng thời cũng do sự tác động của nhiều xu thế tích cực trên thế giới.
Thứ nhất, chúng ta tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Trong những năm gần đây, những thành tựu khoa học và công nghệ ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…Những thành thành tựu ấy ngày càng tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sản xuất và các quá trình xã hội, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời làm tăng nhanh tính chất xã hội hoá và quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Đó là điều kiện thuận lợi cho phép chúng ta có thể triển khai, kết hợp đồng thời công nghiệp hoá với hiện đại hoá nhằm tạo thành một quá trình thống nhất thúc đẩy xã hội phát triển. Đó cũng là thời cơ lớn để chúng ta có thể tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, hoà bình, ổn định và hợp tác để cùng phát triển đã và đang trở thành xu thế chung của hầu hết các nước trên thế giới. Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, và do vậy ngày càng tham gia vào nhiều các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương, khu vực và quốc tế…Đây chính là điều kiện thuận lợi để các dân tộc xích lại gần nhau hơn, trao đổi, học tập kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau …Chúng ta chủ trương tiếp tục “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế” với tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Với chủ trương đó, nhiệm vụ đối ngoại của chúng ta đã được Đảng xác định rõ là tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thứ ba, trong 15 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa dặc biệt quan trọng cho bước phát triển tiếp theo. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng bình quân mỗi năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13.5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành xuất khẩu, nhập khẩu và dịch vụ đều phát triển. Năm2000 chúng ta đã chặn được đà giảm sút tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra. Mỗi năm 1,2 triệu lao động có việc làm mới. Công tác xoá đói giảm nghèo trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật, được dư luận thế giới đánh giá cao,…Chế độ chính trị xã hội ổn định và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống của đại đa số tầng lớp nhân dân được cải thiện một bước đáng kể….Có thể khẳng định rằng, 15 năm đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố vững chắc, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Đó chính là những tiền đề đặc biệt quan trọng để nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Những thành tựu của 15 năm đổi mới không chỉ có ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội rộng lớn .
Nó chứng tỏ rằng, những người cộng sản và nhân dân lao động Việt Nam không chỉ biết đánh giặc và thắng giặc, mà hơn thế nữa, còn biết làm cho
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Thứ tư, chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá , phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó chúng ta thực hiện chính sách “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế , đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường”. Điều đó không chỉ phản ánh tính quy luật tất yếu trong sự phát triển của nước ta hiện nay, mà còn thể hiện một cách sâu sắc nhu cầu, lợi ích và khát vọng của nhân dân ta là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chính điều này đã và đang khơi dậy, thu hút những nguồn lực to lớn cho sự phát triển. Chúng ta không chỉ nhận được sự hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt của cộng đồng quốc tế, mà còn động viên được mọi tiềm lực của nhân dân cả nước và kiều bào ở nước ngoài cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
Thứ năm, nước ta có nguồn đất đai và tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt chúng ta có nguồn lao động dồi dào với cơ cấu khá trẻ. Trình độ của các chủ thể phát triển – con người thuộc mọi tầng lớp xã hội (tri thức, quản lý, doanh nhân, người lao động và nhà nước ) - được nâng cao. Đây là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao- yếu tố quyết định sự tăng trưởng nhanh và bền vững của đất nước. Cùng với cơ chế phân bổ nguồn lực mới, nguồn nhân lực đó sẽ có tác dụng thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn. Hơn nữa, chúng ta còn kế thừa được cả những kinh nghiệm CNH, HĐH của các nước đi trước, cùng với kinh nghiệm đổi mới ở nước ta. Đó là những yếu tố góp phần không nhỏ vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong 15 năm qua.
Như vậy, có thể nói, xu thế tích cực vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của các nước trong khu vực và thế giới, những thành tựu ngày càng to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước trong 15 năm qua đã và đang tạo ra thế và lực mới, cả ở bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được tạo ra, quan hệ của nước ta và nhiều nước trên thế giới mở rộng hơn bao giờ hết; khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Đó là thời cơ lớn để chúng ta đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
2.2. Khó khăn và thách thức
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay không chỉ có những điều kiện thuận lợi và thời cơ lớn như đã phân tích ở trên, mà còn cả những khó khăn, phức tạp và những thời cơ, thách thức gay gắt được thể hiện tập trung chủ yếu qua các vấn đề sau:
Một là, mặc dù nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt vẫn chưa vững chắc. Những thành tựu kinh tế mà Việt Nam đạt được trong những năm tiến hành đổi mới là kết quả của sự chuyển đổi cơ chế kinh tế chứ chưa phải do chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Nói cách khác, sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao thực chất là đi khai thác một cách tối đa những nguồn lực có sẵn nhưng trước đây bị cơ chế cũ kìm hãm. Nền kinh tế nước ta vẫn còn là nền kinh tế tiểu nông (sản xuất thủ công, năng suất lao động thấp…) Cho đến nay, nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu… Trong một bối cảnh mà điểm xuất phát khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta quá thấp, chúng ta lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, do vậy, nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới” đã và đang trở thành một thách thức to lớn và gay gắt.
Hai là, những hậu quả của cơ chế quản lý kinh tế theo lối mệnh lệnh, tập trung bao cấp còn rơi rớt lại (quan liêu, cửa quyền, thủ tục hành chính rườm rà…) cùng những tiêu cực mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường (tham nhũng, tội phạm, sùng bái đồng tiền…) đã và đang trở thành vật cản trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là những cái đang làm tăng nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân.
Ba là, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được thực hiện “trong tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường”. Trên thực tế, vẫn còn những thế lực sử dụng những chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” … để mưu toan thực hiện “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ những thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Ngay cả tình hình ở khu vực Đông Nam á, châu á -Thái Bình Dương “sau cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế có khả năng phát triển, năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định”, vẫn có những diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề nảy sinh một cách bất ngờ, chúng ta khó có thể lường hết và những ảnh hưởng của chúng đối với nước ta là không nhỏ.
Bốn là, trình độ văn hoá chung, trình độ tri thức về khoa học và công nghệ, về chính trị xã hội, luật pháp, về tổ chức quản lý … của đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân ta còn khá thấp so với các nước trong khu vực và còn xa mới đáp ứng đựoc yêu cầu phát triển của đất nước. Thực trạng yếu kém này cũng là một nguy cơ lớn. Đảng ta khẳng định: Hiện nay, ở nước ta, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm…Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của nhà nước… chưa nâng lên kịp thời so với đòi hỏi của tình hình…Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ, Đảng viên phai nhạt ý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức; sức chiến đấu của một số cơ sở Đảng suy yếu. Chính vì vậy mà trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới trong 15 năm qua, chúng ta đã phạm một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác. Nếu không khắc phục kịp thời và có hiệu quả những khuyết điểm, lệch lạc này, chúng ta sẽ làm suy yếu Đảng, làm mọt rỗng bộ máy nhà nước, làm biến chất chế độ và tất yếu sẽ làm cho đất nước đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, có thể nói, sự phát triển và diễn biến tình hình phức tạp trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là cuộc cạnh tranh trong kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ đang diễn ra một cách gay gắt giữa các nước, các khu vực; tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế nước ta, cùng với đó là sự yếu kém về trình độ văn hoá, khoa học công nghệ, về năng lực lãnh đạo và quản lý đất nước…đã làm nảy sinh bốn nguy cơ tụt hậu (tụt hậu xa hơn về kinh tế, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “ diễn biến hoà bình” và chệch hướng xã hội chủ nghĩa). Các nguy cơ này làm cho thách thức ngày càng trầm trọng và gay gắt đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Theo đó, về đại thể có thể khẳng định rằng, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay đang được triển khai trong bối cảnh khá phức tạp: thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Do vậy, cùng với việc khẳng định tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc nhận rõ những thuận lợi, thời cơ và những khó khăn phức tạp, đặc biệt là các nguy cơ và những thách thức có tính lý luận và phương pháp luận đặc biệt quan trọng không chỉ trong việc hoạch định chiến lược, mục tiêu và nội dung tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà còn có tác dụng thiết thực trong việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, củng cố quyết tâm nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới, đồng thời luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả những nguy cơ mới nảy sinh, bảo đảm phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng biến cơ hội thành kết quả hiện thực là một quá trình có điều kiện. Thế giới đã chứng nghiệm hiệu quả nhiều mô hình phát triển (mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá) khác nhau. Tính đa dạng của mô hình, mức độ phù hợp của từng mô hình với các điều kiện quốc gia và thời đại làm cho sự lựa chọn của nước đi sau rất thuận lợi. Mặt khác, thế giới hiện đại đang tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để thực thi mô hình phát triển cho phép rút ngắn khoảng cách tụt hậu. Nói khác đi, trên quan điểm mô hình và bước đi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần và có thể tính đến con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn của Việt Nam. Việc tận dụng lợi thế này là nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra cho nước ta trong chiến lược phát triển có giới hạn rõ ràng về thời gian, cụ thể trong vòng 10 và 20 năm tới.
Nhưng ẩn sau cơ hội phát triển “ngàn năm có một” như Đặng Tiểu Bình đã nói là những thách thức to lớn. Ngay cả sự phong phú và sẵn có của các mô hình, kinh nghiệm và tri thức phát triển cũng chứa đựng những thách thức cho việc lựa chọn ( phải quyết chọn những gì phù hợp nhất cho mình khi các điều kiện quốc tế đã thay đổi mạnh mẽ ). Bản chất của mâu thuẫn ở đây là: cơ hội lớn nhưng thời gian và cơ hội nắm bắt, tận dụng lại rất có hạn đối với các nước đi sau. Ngoài ra, trong môi trường quốc tế thường xuyên biến đổi, rủi ro phát triển đối với các nước đi sau cũng tăng lên. Trong nhiều trường hợp, khía cạnh này thậm chí còn nổi bật hơn và chi phối nhiều hơn mặt thuận lợi. Tất cả những luận đề nêu trên nhằm khắc hoạ rõ nét hơn tương quan giữa cơ hội và thách thức phát triển đặt ra trước chúng ta trong giai đoạn phát triển tới. Nắm bắt đúng cơ hội, vượt qua thách thức để có được sự phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá - đó thực sự là vấn đề có ý nghĩa sống còn với Đảng và nhân dân ta.
3. Tính đặc thù của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay không chỉ khác với các nước đã tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành mà cả mục tiêu chiến lược. Chính sự khác biệt này làm nên tính đặc thù của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang tiến hành.
Một trong những đặc điểm lớn của thời đại ngày nay là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và cùng với nó là quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế …Trong điều kiện này, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được Đảng xác định là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện, sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội trên cơ sở sử dụng một cách phổ biến sức lao động có hàm lượng trí tuệ cao cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại do sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ của cách mạng khoa học - công nghệ đem lại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Quan niệm như vậy về vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã thể hiện được vấn đề then chốt của quá trình này ở một nước tiểu nông là cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
ở đây, cần nhấn mạnh rằng, công nghiệp hoá, không chỉ là sự tăng thêm đơn giản tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng phát triển chiều rộng, tạo nhiều công ăn việc làm cho đội ngũ lao động đông đảo của nước ta hiện nay, với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt đón đầu, phát triển chiều sâu, tạo nên những ngành kinh tế mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học công nghệ trên thế giới. Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và phức tạp, nó được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hoá và luôn gắn bó với quá trình này.
Có thể thấy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay bao hàm những đặc diểm quan trọng sau đây:
Thứ nhất, công nghiệp hoá được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hoá để tạo ra một quá trình thống nhất thúc đẩy đất nước phát triển. Bởi vì, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ đã và đang làm thay đổi về chất cả công nghệ sản xuất lẫn quy trình quản lý và trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hoá ngày càng sâu rộng. Trong điều kiện nay, chúng ta không thể chờ thực hiện xong công nghiệp hoá, sau đó mới triển khai hiện đại hoá, mà nhất thiết và cần phải triển khai đồng thời và đồng bộ cả hai quá trình này. Chỉ có cách làm như vậy mới có cơ hội đẩy lùi nguy cơ tụt hậ xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực dần hội nhập vào sự phát triển chung của của khu vực và thế giới.
Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình trang bị và trang bị lại những công cụ, thiết bị, phương tiện hiện đại và áp dụng công nghệ tiên tiến cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đặc biệt cho các ngành then chốt, để trước hết, làm tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, trên cơ sở của quá trình nói trên, diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội, trước hết là từ cơ cấu “nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ” sang cơ cấu kinh tế “công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp”.
Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta vừa là quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội, văn hoá giáo dục…Nó tác động một cách tổng hợp, đa diện, đa cấp độ đến mọi người, mọi gia đình và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ năm, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng chính là quá trình mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về các mặt kinh tế – xã hội, khoa học và công nghệ, văn hoá…
Thứ sáu, ở nước ta hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là mục tiêu tự thân, mà là phương thức để đưa nền kinh tế từ tiểu nông lên nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Phương thức này đựơc thực hiện một cách linh hoạt bằng bước đi tuần tự từ thấp đến cao( thủ công - cơ giới - tự động hoá) kết hợp với việc tranh thủ những điều kiện, thời cơ thuận lợi, “đi tắt, đón đầu”, “rút ngắn thời gian” để nhanh chóng tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn.
Thứ bảy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, về thực chất, là quá trình sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại cùng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và nhưng kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế –xã hội, đưa nước ta lên trình độ “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nói một cách ngắn gọn, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là quá trình cải biến xã hội Việt Nam “ truyền thống” thành xã hội hiện đại, phát triển theo định hưóng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, những đặc điểm quan trọng đó là những nét đặc trưng của con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá “rút ngắn thời gian”, “vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt” mà chúng ta đang tiến hành.
4. Tình hình thực quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước hiện ta hiện nay.
Kinh tế Việt Nam kể từ khi bắt đầu thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã thu được những thành tựu bước đầu hết sức quan trọng: tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định trong thời gian dài, lạm phát được khống chế và luôn ở mức thấp, cơ cấu nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực…
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, một nước kém phát triển về kinh tế với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật lạc hậu, nợ nần nhiều, nguồn đầu tư cho phát triển chưa cao…Tình hình đó được thể hiện qua các mặt như sau:
4.1. Về cơ cấu kinh tế
4.1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Trong những năm đổi mới, các ngành kinh tế quốc dân đã có sự chuyển dịch theo hướng: nâng dần tỷ trọng và tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp nhưng giá trị sản lượng của nông nghiệp vẫn tăng lên . (Bảng 1)
Bảng1 : Chuyển dịch cơ cấu ngành
(Đơn vị: %)
Năm
1990
1995
2000
2001
2002
Nông-lâm-ngư nghiệp
38,7
27,2
24,54
23,61
23,6
Công nghiệp và xây dựng
22,7
28,7
36,73
37,83
38,3
Dịch vụ
38,6
44,1
38,74
38,55
38,1
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư)
Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tỷ trọng khu vực nông- lâm – ngư nghiệp giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 23,6% năm 2002. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên 38,3% và khu vực dịch vụ giữ ở mức trên dưới 38%. Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng bình quân của nền kinh tế, trong khi khu vực nông- lâm- ngư nghiệp tăng chậm nên cơ cấu ngành kinh tế tăng trưởng theo hướng giảm tỷ trọng khu vực khu vực nông- lâm- ngư nghiệp và tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng.
4.1.1.1. Trong lĩnh vực công nghiệp
Công nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng: Tiết kiệm và khai thác đúng mức tài nguyên thiên nhiên, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp năng lượng là hướng đi đúng của tiến trình CNH, HĐH. Công nghiệp chế biến đã được coi trọng, nhất là chế biến các sản phẩm từ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Tỷ trọng giá trị sản xuất chế biến nông, lâm, thuỷ sản chiếm khoảng 30% trong công nghiệp chế biến và 24% trong toàn ngành công nghiệp. Một số ngành công nghiệp quan trọng, có năng lực sản xuất lớn tăng trưởng rất cao, đó là sản xuất than cốc, dầu mỡ tinh chế, sản xuất sản phẩm cao su và plastic, sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác, sản xuất máy móc thiết bị, sản xuất thiết bị điện; sản xuất, sửa chữa xe có động cơ, sản xuất giường tủ bàn ghế (từ năm 2000 trở lại đây, hàng năm giá trị sản xuất đều tăng từ 20% trở lên). Một số sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh, đạt kim ngạch xuất khẩu cao cũng tăng dần tỷ trọng trong các năm qua, đó là: dầu thô, than đá, thuỷ sản chế biến, dệt may, giầy da…
Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp còn phát triển chậm, chưa ổn định, tốc độ tăng trưởng toàn ngành mới đạt bình quân 12,2% hàng năm( thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 14-15%), còn thiếu nhiều yếu tố cho phát triển lâu dài, hội nhập và cạnh tranh. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp còn chưa rõ nét, nhất là đối với những ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản, công nghiệp luyện kim, công nghiệp chế tạo. Từng ngành, từng sản phẩm còn bộc lộ mất cân đối giữa khâu sản xuất chế biến nguyên liệu trung gian
( công nghiệp trung gian ) với khâu sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh (như sản xuất phôi thép và cán thép, sản xuất bột giấy và giấy, sản xuất sợi với công nghiệp dệt, sản xuất da với chế biến các sản phẩm từ da…). Các ngành dệt may, da giầy, lắp ráp mô tô, ô tô, điện tử phát triển nhanh kim ngạch xuất khẩu song lại phải chịu ảnh hưởng rất nhiều vào diễn biến bất lợi của giá cả và thị trường thế giới, do phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu đầu vào từ nhập khẩu. Công tác dự báo và quản lý quy hoạch công nghiệp chưa tốt, dẫn tới sự phát triển quá mức trong một số ngành như xi măng quy mô nhỏ, mía đường, rượu bia…Việc hình thành và phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng mà ta có điều kiện vẫn chưa thực hiện được. Một số ngành then chốt như đóng tàu, công nghiệp luyện kim phát triển chậm; hai mặt hàng dầu thô và gạo góp gần một nửa kim ngạch xuất nhập khẩu. Ngành công nghiệp may mặc, sản xuất giày xuất khẩu thực chất mới chỉ dừng lại ở khả năng gia công trên cơ sở nguyên liệu, thiết bị, dây chuyền công nghệ của nước ngoài hơn là khả năng tự sản xuất xuất khẩu. Sản phẩm công nghiệp làm ra tính theo đầu người còn thấp nhưng đã có hiện tượng tồn đọng, dư thừa làm cho sản xuất cầm chừng.
4.1.1.2. Trong lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp.
Chuyển dich cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực này tuy tăng chậm song bước đầu đã đúng hướng, đó là giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp, tăng tỷ trọng ngành thuỷ sản. Sản xuất thuỷ sản phát triển toàn diện cả về nuôi trồng và đánh bắt, khẳng định chủ trương, chính sách đúng đắn của nhà nước về lĩnh vực này. Xuất khẩu thuỷ sản tăng nhanh và hàng năm đều đạt mức cao, thu nhập từ thuỷ sản đạt mức cao hơn nhiều thu nhập từ nông nghiệp đã thúc đẩy việc chuyển đổi diện tích sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản. Song quá trình chuyển dịch trong nội bộ khu vực này, trong từng ngành nông nghiệp, thuỷ sản ở từng địa phương còn chứa đựng yếu tố tự phát, chưa có quy hoạch hoặc chưa theo quy hoạch chung. (Bảng 2)
Bảng 2: Cơ cấu giá trị tăng thêm của các ngành trong khu vực nông- lâm- ngư nghiệp.
( Đơn vị: %)
Năm
2000
2001
2002
6 tháng đầu năm 2003
Tổng số
100
100
100
100
Nông nghiệp
80,79
78,55
78,23
78,73
Lâm nghiệp
5,45
5,44
5,27
4,19
Thuỷ sản
13,76
16,01
16,5
17,08
4.1.1.2.1. Nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp diễn ra chủ yếu từ trồng trọt sang chăn nuôi. Cơ cấu dịch vụ nông nghiệp còn nhỏ bé chưa được coi là một ngành kinh doanh thực sự. Lương thực dồi dào, đảm bảo vững chắc tiêu dùng trong nước và xuất khẩu tạo điều kiện để nhiều vùng, nhiều tỉnh giảm diện tích lúa, chuyển đổi cơ cấu các vụ lúa sang phát triển các loại cây trồng khác phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, có giá trị kinh tế cao hơn. Một kết quả đáng ghi nhận trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn là bước đầu hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, chuyên canh với quy mô lớn như: lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, cây ăn quả ở Nam bộ và miền núi phía Bắc, mía ở duyên hải miền trung và đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó có một số loại đã đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế như cà phê, cao su, hạt điều. Tuy nhiên, do thiếu quy hoạch cụ thể, thiếu thông tin về thị trường trong nước và thế giới nên một số cây trồng như cà phê đã phát triển gấp 1,5 lần diện tích quy hoạch tổng thể, khi cà phê rớt giá, sản xuất thua lỗ lại đồng loạt chuyển sang trồng cây khác và bắt dầu rơi vào vòng luẩn quẩn. Nhiều nhà máy đường, nhà máy chế biến rau quả xây dựng chưa gắn được với vùng trồng cây nguyên liệu cho nhà máy hoạt động. Sản phẩm nông nghiệp còn đơn điệu, chất lượng kém, giá thành lại cao, hạn chế khả năng tiêu thụ trong và ngoài nước, ứng dụng khoa học kỹ thuật còn ít. Sản xuất nông nghiệp còn theo kiểu truyền thống, lạc hậu, phương thức canh tác đơn giản, khó khăn trong khâu tiêu thụ.
4.1.1.2.2. Lâm nghiệp
Tỷ trọng giá trị tăng thêm của lâm nghiệp trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm dần trong hai năm 2000-2002( từ 5,45% năm 2000 xuống còn 5,27% năm 2002, một phần do hạn chế khai thác gỗ, nhưng mặt khác, công tác trồng rừng tập trung, trồng cây phân tán, chăm sóc tu bổ, bảo vệ rừng tuy có khá hơn nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế.
4.1.1.2.3. Thuỷ sản
Lĩnh vực thuỷ sản đã có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, đó là tăng dần tỷ trọng nuôi trồng thâm canh, giảm dần tỷ trọng đánh bắt. Nét nổi bật của ngành thuỷ sản là nuôi trồng thuỷ sản đã trở thành phong trào và phát triển thành những mô hình kinh tế hàng hoá với sự tham gia của các loại hình, nhiều thành phần kinh tế.
4.1.1.3. Trong lĩnh vực dịch vụ
Khu vực dịch vụ phát triển chậm hơn so với tiềm năng và khả năng, chưa thực sự phát huy được chức năng điều tiết vĩ mô và làm dịch vụ cho nền kinh tế thị trường. Do vậy, trong những năm qua tuy số tuyệt đối và tốc độ t ăng trưởng vẫn thường xuyên tăng lên nhưng thấp hơn tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp và xây dựng nên tỷ trọng của khu vực này có xu hướng giảm sút.
Một số ngành dịch vụ quan trọng đang chiếm tỷ trọng thấp và lại giảm dần, đặc biệt là tài chính- tín dụng ( năm 2002 chỉ chiếm1,82%, thấp hơn cả tỷ trọng 2,1% trong năm 1995), khoa học và công nghệ (năm 2002 chỉ chiếm 0,56% thấp hơn tỷ trọng 0,61% năm 1995). Dịch vụ ngân hàng còn rất ít so với thế giới, xuất khẩu dịch vụ còn chiếm tỷ trọng thấp, nhiều hoạt động dịch vụ do các cơ quan, doanh nghiệp kiêm nhiệm chưa được tách ra để vừa mang tính chuyên nghiệp, vừa làm cho năng suất, chất lượng, hiệu quả của hoạt động này thấp, vừa cản trở các cơ quan, doanh nghiệp tập trung vào thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chính. Các loại hình dịch vụ mới như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; vận tải viễn dương, dịch vụ tư vấn xúc tiến sản xuất, đầu tư, pháp lý, nhân sự, công nghệ thông tin, xuất khẩu lao động, kinh doanh bất động sản…phát triển chậm; đặc biệt hoạt động kinh doanh bất động sản đang bị bỏ ngỏ và không được quản lý.
4.1.2. Cơ cấu thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò chủ động trong các hoạt động kinh tế xã hội. Kinh tế tập thể được tổ chức lại theo luật hợp tác xã, nhiều hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Một số mô hình liên kết giữa hợp tác xã nông nghiệp và các cơ sở chế biến đã ra đời, thu hút đáng kể lực lượng lao động ở cả thành thị và nông thôn. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, trong các lĩnh vực nông -lâm - ngư nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ phát triển nhanh. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời trong nền kinh tế Việt Nam, những năm qua đã có những bước phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, đã góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, cơ cấu thành phần kinh tế còn bất hợp lý: khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng, giành được vị trí có lợi nhất trong kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước( về khoanh xoá nợ, trợ giá, bù lãi suất…), nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, đó là điều đáng lo ngại. Trong khi đó, khu vực kinh tế hợp tác, kinh tế dân doanh chậm được củng cố và phát triển, các cơ chế chính sách còn phân biệt đối xử giữa khu vực nhà nước và phi nhà nước, làm cho các thành phần kinh tế dân doanh dè dặt trong đầu tư, chưa phát huy mạnh nội lực, chưa thực sự khuyến khích mọi thành phần kinh tế mạnh dạn bỏ vốn vào phát triển sản xuất kinh doanh. (Bảng 3)
Bảng3: Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
(đơnvị:%)
Năm
2000
2001
2002
1995
2000
Kinh tế nhà nước
38,5
38,4
38,1
Kinh tế tập thể
8,58
8,06
7,98
Kinh tế tư nhân
3,38
3,73
3,93
Kinh tế cá thể
32,31
31,84
31,42
Kinh tế hỗn hợp
3,92
4,22
4,45
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
13,28
13,75
13,91
(Nguồn:Bộ kế hoạch và đầu tư )
4.1.3. Cơ cấu vùng kinh tế
Mặc dù chính phủ đã chủ trương tạo điều kiện cho các vùng phát huy thế mạnh và tiềm năng của mình, giảm bớt sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng, song trên thực tế, chủ trương đó vẫn chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ. Các vùng trọng điểm kinh tế và các vùng chuyên canh lớn từng bước được hình thành, nhưng cho đến nay vẫn chưa thể hiện được vai trò đầu tàu để hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các vùng xung quanh. Sự cách biệt giữa các vùng chủ yếu do chính sách đầu tư chưa hợp lý. (Bảng 4)
Bảng 4: chuyển dịch cơ cấu vùng
(đơn vị: %)
Năm
1990
1995
1999
2000
Vùng Tây Bắc
2,0
1,5
1,2
1,3
Vùng ĐB Sông Cửu Long
23,8
19,2
20,2
19,3
Vùng ĐB sông Hồng
18,6
20,5
20,3
22,2
Khu bốn
9,1
9,1
7,8
6,9
Duyên Hải Miền Trung
9,4
8,0
8,2
7,2
Vùng Tây Nguyên
3,2
2,8
3,6
3,6
Vùng Đông Nam Bộ
24,6
31,5
32,3
33,2
Vùng Đông Bắc
10,2
7,4
6,3
6,3
(Nguồn: Bộ kế hoạch Đầu tư)
4.2. Về cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân
4.2.1. Về cơ sở hạ tầng
Kể từ ngày đất nước thống nhất đến nay, ở Việt Nam đã hình thành một hệ thống giao thông với các loại hình khác nhau: đường không, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế giữa các vùng trong cả nước cũng như giữa Việt Nam với nước ngoài. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng yếu kém và một bộ phận đang bị xuống cấp. Cho đến hết năm 1999, trong tổng số 200 ngàn km đường bộ, chỉ có 29,3% loại một; loại hai chiếm 18,6%; còn lại là loại xấu. Trên các trục giao thông chính, 90% tổng số cầu chỉ có trọng tải dưới 10 tấn, trong đó 70% dưới 5 tấn. Báo cáo tổng kết của bộ giao thông vận tải cho biết: cả nước còn 515 xã chưa có đường ô tô, riêng ở đồng bằng sông Cửu Long con số này là 32%. Quốc lộ IA- con đường huyết mạch chạy qua phần lớn các tỉnh thành phố của đất nước với chiều dài 2100 km, trong những năm qua được nhà nước đầu tư rất lớn- có tới 47% đường xấu và hư hỏng nặng. Về hệ thống đường sắt, năm 1999 tổng chiều dài là 3259,5 km nhưng có tới 80% là đường khổ hẹp, chất lượng thấp. Sự lạc hậu của đường sắt đang hạn chế vai trò vận chuyển của nó ở trong nước và sẽ cản trở việc thống đường sắt Việt Nam hoà vào hệ thống đường sắt với các nước trong khu vực. Hiện nay vẫn còn 500 km đường xấu, 1300 km cầu cần phải làm mới, 10 trong số 15 hầm cần sửa chữa và gia cố lớn. Sự yếu kếm này làm cho tốc độ chạy tàu của đường sắt Việt Nam bình quân là 30-40 km/h và thuộc loại thấp nhất trong khu vực. Giao thông đường sông mới chỉ khai thác 17000 km, chiếm tỷ lệ 41,5% chiều dài đường sông có thể khai thác. Còn các cảng biển, sân bay hiện có của Việt Nam vẫn còn ở trình độ thấp so với tiêu chuẩn quốc tế. Đó là còn chưa kể tới sự yếu kém của hệ thống kho trách nhiệm ở các bến bãi và sự thiếu vắng một hệ thống giao thông liên hoàn giữa các loại phương tiện vận chuyển. Hai năm 2001-2002 ngành giao thông vận tải đã cải tạo, nâng cấp và làm mới 4567 km đường quốc lộ và các đường nhánh, 454 km đường sắt, 35937 m cầu đường bộ và 4690 m cầu đường sắt; ngành điện cũng đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 2548 MW công suất điện, 1026 km đường dây 220 kv, 1370 km đường dây 110 kv và 5421 MVA công suất các trạm biến áp.
Hệ thống sản xuất và cung cấp năng lượng cũng được chú trọng. Về cơ bản, hệ thống này cung cấp đủ năng lượng cho sản xuất và tiêu dùng. Đặc biệt với hệ thống đường dây 500 KV Bắc- Nam, mạng lưới điện thống nhất trong cả nước có khả năng hạn chế tình trạng đói điện ở một số vùng, một số khu vực. Tuy Việt nam có tiềm năng lớn về thuỷ điện, than đá, dầu mỏ, khí đốt nhưng trình độ khai thác còn thấp xa so với nhiều nước trong khu vực. Hơn nữa, lượng điện chủ yếu của Việt Nam hiện nay do hệ thống thuỷ điện cung cấp ( chiếm 60% ) cho nên sự bấp bênh trong cung cấp điện vào mùa khô, đặc biệt trong những năm hạn hán là khó tránh khỏi. Nguồn điện cung cấp còn thiếu nhưng thất thoát điện trong truyền tải lại rất lớn.
Ngành bưu điện tiếp tục tăng đầu tư và đổi mới công nghệ nên đã lắp đặt được 6,2 triệu máy điện thoại cố định cho các hộ thuê bao, bình quân 7,6 triệu máy/100 người dân. Hiện nay, cả nước có 8356 xã có điện thoại lắp đặt tại văn phòng uỷ ban, trong đó 42/61 tỉnh, thành phố có 100% số uỷ ban xã lắp điện thoại. Tổng công ty bưu chính viễn thông đã đầu tư xây dựng thêm 7 nghìn điểm bưu điện trên địa bàn nông thôn, rút ngắn bán kính phục vụ của mỗi điểm xuống chỉ còn 2,9 km, tương đương mức của các nước trong khu vực. Nhờ vậy, 7881 xã trong cả nước đã có báo nhân dân, báo quân đội nhân dân và báo Đảng địa phương đến tay người đọc trong ngày.
Cơ sở hạ tầng, dịch vụ của ngành y tế và giáo dục trong những năm vừa qua đã tăng lên đáng kể, nhất là ở các xã, phường. Năm 2002, cả nước có 98,5% số xã, phường có trạm y tế. Năm học 2002-2002 các địa phương đã đầu tư xây dựng thêm 2239 phòng học cho các lớp mầm non và 85466 phòng học cho các lớp phổ thông. Tỷ lệ phòng học tranh tre nứa lá của bậc tiểu học giảm từ 20,3% năm học 2000-2001 xuống còn 18,1%trong năm học 2002-2003, của trung học cơ sở giảm từ 10,2% xuống còn 8,8% và của trung học phổ thông cũng giảm từ 5,8% xuống còn 4,2%.
4.2.2. Về trình độ kỹ thuật - công nghệ
Cùng với việc cải tạo nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng, trong những năm qua, chính phủ đã dành một khoản ngân sách không nhỏ để đổi mới và từng bước nâng cao trình độ kỹ thuật- công nghệ cho các cơ sở sản xuất công nghiệp. Đến nay không ít cơ sở công nghiệp đã được trang bị bằng kỹ thuật – công nghệ tương đối hiện đại như công nghiệp điện tử, cơ khí, hoá chất …
Tuy nhiên, theo đánh giá của bộ khoa học công nghệ và môi trường, trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị hiện tại lạc hậu từ 2-4 thế hệ so với thế giới và được hình thành chắp vá từ nhiều nguồn khác nhau, dẫn đến tình trạng tiêu hao năng lượng, nguyên liệu còn khá cao; gây ô nhiễm môi trường; mẫu mã hàng hoá đơn điệu, chất lượng sản phẩm thấp; còn trong nông nghiệp, năng suất chỉ đạt khoảng 30% mức trung bình của thế giới. Tóm lại, năng lực công nghệ quốc gia chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu cho sự phát triển công nghiệp. Điều đó cũng giải thích một thực tế là cơ giới hoá trong lĩnh vực công nghệ của Việt Nam mới đạt được mức 50% so với thế giới, tức là đang ở giai đoạn đầu của cơ khí hoá.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả to lớn đáng ghi nhận, cho đến nay, cơ sở vật chất- kỹ thuật của nền kinh tế cơ bản vẫn còn yếu kém, và trên thực tế chúng còn chênh lệch quá xa so với yêu cầu phát triển. Sự yếu kém đó thể hiện cả trong cơ sở hạ tầng lẫn trình độ kỹ thuật- công nghệ.
3 - Đặc điểm nguồn vốn
Trong những năm vừa qua, những hoạt động nhằm tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển của Việt Nam đang có những bước tiến đáng kể thể hiện ở những điểm sau: Nền kinh tế đã có tích luỹ từ sản xuất trong nước. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ xung đáng kể vào nguồn vốn đầu tư của Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển nói chung của đất nước. Hoạt động thu hút nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng được chính phủ Việt Nam hết sức coi trọng. Tổng số vốn ký kết theo các hiệp định/ thoả thuận tài trợ tính đến cuối năm 2002 là 19,5 tỷ USD, tổng số vốn ODA giải ngân trong thời kỳ này xấp xỉ 11 tỷ USD. Vốn ODA đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH và phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế trong những năm qua còn thấp so với các nước trong khu vực cũng như nhu cầu đầu tư cho công nghiệp hoá.
4 - Đời sống các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện và xoá đói giảm nghèo đạt được kết quả quan trọng.
Do kinh tế tăng trưởng với độ tương đối khávà việc điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 180 nghìn đồng cuối năm 2000 lên 210 nghìn đồng đầu năm 2001và 290 nghìn đồng đầu năm 2003 cùng với việc triển khai nhiều chương trình xoá đói giảm nghèo nên đời sống nhân dân ở cả thành thị và nông thôn nhìn chung tiếp tục được cải thiện. Thành tựu về mức sống kết hợp với thành tựu về giáo dục và y tế được thể hiện rõ trong chỉ tiêu chất lượng tổng hợp HDI. Theo tính toán của UNDP thì chỉ số này của nước ta tăng từ 0,583 năm 1985 lên 0,605 năm 1990; 0,649 năm1995 và 0,688 năm 2003. Nếu xếp thứ tự theo chỉ số này thì nước ta từ vị trí 122/174 nước năm 1995 lên vị trí 113/174 nước năm 1998; 110/174 nước năm 1999 và109/175 nước năm 2003.
Phần II
đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa (CNH-HĐH)
ở Việt Nam
1. Quá trình hình thành và hoàn thiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Từ năm 1977 Việt Nam đã ban hành “ Điều lệ về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” : Đây là văn bản đầu tiên của Nhà nước ta về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Văn bản này đánh dấu bước chuyển mới trong quan điểm chính của Việt Nam đối với tư bản nước ngoài: nền kinh tế Việt Nam chấp nhận thêm một loại hình mới- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với mục đích phục vụ tốt hơn công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, công việc triển khai thực hiện điều lệ này tiến hành chưa được bao lâu thì đất nước lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh biên giới nên chủ trương này đã không có điều kiện để thực hiện.
Sau 10 năm phải dừng lại, trong điều kiện đất nước đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, tháng 12-1987 Quốc hội nước ta thông qua “ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”. Đây là thời kỳ mà đầu tư nước ngoài được coi là biện pháp quan trọng để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân. Đồng thời cũng là biện pháp được sử dụng nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên lao động và các tài nguyên khác để đẩy mạnh xuất khẩu.
Có thể nói rằng, Luật Đầu tư nước ngoài (1987) đã tiến một bước dài về mọi phương diện so với Điều lệ (1977). Nhận thức của chúng ta về vai trò, vị trí, tác dụng của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế quốc dân rõ ràng, thực tế hơn. Tính mục đích của đầu tư nước ngoài trong bộ luật thể hiện rõ hơn, cụ thể hơn. Lợi ích kinh tế của đất nước đặt ra hài hòa hơn trong mối quan hệ với chủ quyền kinh tế. Luật đầu tư này lần đầu tiên mang sắc thái của một luật khuyến khích đầu tư. Mức độ hấp dẫn của nó đã thực sự gây ngạc nhiên đối với nhiều quốc gia trên thế giới.
Mặc dù vậy luật này cũng không tránh khỏi một số khiếm khuyết, thiếu đồng bộ. Đối với các đối tác trong nước, Luật đầu tư (1987) dường như mới chỉ áp dụng cho các đối tác là tổ chức kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể còn tư nhân chỉ có những ai chung vốn với tổ chức kinh tế Việt Nam thành bên Việt Nam mới có tư cách pháp nhân để hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Các văn bản dưới luật không được ban hành kịp thời. Mặt khác, Luật đầu tư ban hành trong khi chúng ta chưa có các đạo luật cơ bản về kinh tế, do đó môi trường pháp lý cho đầu tư nước ngoài nói chung còn tiềm ẩn nhiều bất ổn định.
Để khắc phục hạn chế trên, năm 1990 Việt Nam đã kịp thời sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài theo hướng khuyến khích và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư nước ngoài.
Luật 1990 đã sửa đổi 15 trong số 42 điều của luật 1987. Điểm nổi bật của luật này là nó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam mà còn cho các đối tác trong nước những điều kiện tương tự để mở rộng hợp tác với nước ngoài.
Sau hơn một năm thực hiện, trước những đòi hỏi mới của yêu cầu phát triển, Việt Nam lại kịp thời sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài(1992). Khác với Luật sửa đổi 1990, Luật sửa đổi 1992 đã nới rộng cho mọi thành phần kinh tế nước ta đều có thể tham gia hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư.
Luật 1992 mở ra các hình thức đầu tư nước ngoài mới, đó là hình thức Khu chế xuất và Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao. Đây là một bước tiến đáng kể về quan điểm: từ không chấp nhận (trước 1977) đến chấp nhận đầu tư nước ngoài ở từng xí nghiệp, công ty và đến giai đoạn này là cho phép hình thành khu kinh tế nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam-khu chế xuất.
Sau hai lần sửa đổi, bổ sung (1990,1992) theo chiều hướng tích cực, cùng với sự vận động sôi nổi của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và rất thuận lợi cho các dự án đầu tư và kinh doanh. Đây là một trong số ít yếu tố quyết định, thúc đẩy sự tăng nhanh (cho đến 1995) của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Bắt đầu từ năm 1994, để hoàn chỉnh hệ thống luật pháp đồng bộ, một số luật mới lần lượt được ban hành, trong đó môi trường đầu tư kinh doanh được quy định chặt chẽ hơn. Và đi cùng với hệ thống này, năm 1996 Luật Đầu tư nước ngoài cũng được sửa đổi, bổ sung. Với đường lối nhất quán, nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, luật sửa đổi lần này (1996 ) về cơ bản theo hướng giảm bớt một số ưu đãi. Những biến đổi này, cùng với những quy định chặt chẽ hơn của một số luật kinh tế khác, đã làm giảm sút động lực kích thích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như gây nên một số phản ứng tiêu cực đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 1996, được xem như một “điểm nhấn” trong sự tác động của chính sách đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Đây là một trong những căn nguyên của sự giảm sút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong các năm sau đó.
Để khôi phục lại tốc độ tăng trưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài như thời kỳ 1991-1995, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc CNH,HĐH cũng như của sự phát triển một nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập với tốc độ nhanh và bền vững, đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới hơn nưa cơ chế, chính sách cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Trước sự cần thiết, bức xúc đó ngày 9/6/2000, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”. Các nội dung sửa đổi, bổ sung của luật này đã thực sự đưa lại cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam một sự ổn định và thông thoáng hơn so với nhiều quy định trước đây.
Như vậy, đến nay chúng ta đã có một hệ thống luật và các văn bản dưới luật về đầu tư nước ngoài tuy chưa phải hoàn chỉnh nhưng đã đầy đủ hơn trước, có tác dụng khuyến khích hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các đối tác trong nước trong việc tham gia đầu tư. Những kết quả đạt được trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua đã thực sự trở thành một trong những điểm nổi bật nhất trong bức tranh tổng thể các thành tựu thời kỳ đổi mới và mở cửa nền kinh tế. Nó cũng chính là cơ sở để chứng minh chọ đúng đắn của quá trình đổi mới các chính sách kinh tế trong đó có chính sách đối với đầu tư nước ngoài.
2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
2.1. Hoạt động thu hút FDI từ 1988 đến nay: những nét khái quát
Từ năm 1988-1990: Đây là thời kỳ đầu, FDI chưa có tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế xã hội. Cả 3 năm cộng lại có 1,5 tỷ USD vốn đăng ký, số vốn thực hiện không đáng kể.
Từ năm 1991-1997: Đây là thời kỳ tăng trưởng nhanh và góp phần ngày càng quan trọng vào thực hiện mục tiêu kinh tế-xã hội. Trong giai đoạn 1991-1995, với 16 tỷ USD vốn đăng ký, mức tăng trưởng hàng năm tăng nhanh. Hai năm tiếp theo 1996 và 1997, FDI tiếp tục tăng thêm 15 tỷ USD vốn đăng ký và 6,06 tỷ vốn thực hiện.
Từ cuối 1997-2000: Đây là thời kỳ trầm lắng của FDI. Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ năm 1998 và giảm mạnh 2 năm tiếp theo: năm 1998 vốn đăng ký là 3,897 tỷ USD, 1999 chỉ bằng 40,2% (tức 1,568 tỷ USD), 2000 là 1,973 tỷ USD. Nếu như các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm khoảng 20 vạn lao động trong giai đoạn 1991-1995, thì ở giai đoạn này số lao động được thu hút ở các doanh nghiệp FDI chỉ còn khoảng 14 vạn người.
Từ cuối 2000 đến nay: Thời kỳ phục hồi, nhưng còn chậm. Vốn đăng ký 2001 là 2,036 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2000. Năm 2002 vốn đăng ký 1,4 tỷ USD. 9 tháng đầu năm 2003, có 476 dự án được cấp giấy phép đầu tư, vốn đăng ký cấp mới đạt 1,1943 tỷ USD, bằng 81% về số dự án và tăng 5% về số vốn đầu tư so với cùng ký 2002.
2.2. Tình hình cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Từ khi “ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam “ có hiệu lực cho đến hết tháng 12 năm 2002, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 4447 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 43194 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp giấy phép cho 296 dự án với mức 2879,6 triệu USD vốn đăng ký. Cụ thể được thể hiện ở bảng 5. Bảng 5 cho ta thấy nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số lượng dự án cũng như vốn đăng ký. Riêng năm 1996 sở dĩ có lượng vốn đăng ký tăng vọt là do có hai dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh được phê duyệt với quy mô dự án lớn ( hơn 3 tỷ USD / 2 dự án ). Như vậy, nếu xét trong cả thời kỳ 1988 đến 2002 thì năm 1995 có thể được xem là năm đỉnh cao về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam ( cả về số dự án, vốn đăng ký, cũng như quy mô dự án ).
Từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, nhất là đến các năm 1998, 1999. Sự suy giảm này theo chúng tôi, chủ yếu do một số nguyên nhân đã cản trở các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Khủng hoảng kinh tế trong khu vực và sự cạnh tranh quyết liệt trong thu hút vốn FDI trên thế giơí và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt đã làm suy giảm FDI vào Việt Nam.
Hiện nay, FDI từ các nước châu á vào Việt Nam chiếm 67% vốn đầu tư, trong đó các nước ASEAN chiếm khoảng 23%; Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông chiếm khoảng 40,5%. Do khủng hoảng kinh tế nên FDI của các nền kinh tế trong khu vực suy giảm rõ rệt vì các công ty mẹ bị phá sản hoặc gặp khó khăn, do chính sách của các Chính phủ hạn chế đầu tư nước ngoài và cũng do khó khăn trong huy động vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế và vay từ ngân hàng.
Nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang hoạt động cũng gặp khó khăn, phải sản xuất cầm chừng, thậm chí phải dãn tiến độ hoặc hoãn triển khai do khó khăn của công ty mẹ và do thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước cũng như thị trường xuất khẩu trong khu vực bị thu hẹp lại. Trong khi đó khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam ở các thị trường nước ngoài bị giảm do sự giảm giá của các đồng tiền trong khu vực.
Cạnh tranh trong thu hút FDI trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt. Hiện nay, 3/4 vốn FDI trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển do sự tăng cường liên kết giữa các công ty đa quốc gia của Mỹ – Nhật, Tây âu; 1/4 số vốn FDI còn lại bị thu hút vào các thị trường đầu tư lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Brazin, Mexico…
Bảng 5 : Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép qua các năm (1)
Năm
Số dự án
Vốn đăng ký
(triệuUSD)
Quymô
triệu USD/dự án
So với năm trước(%)
Số dự án
Vốn đăng ký
Quy mô
1988
37
371,8
10,05
1989
68
582,5
8,57
183,78
156,67
85,27
1990
108
839,0
7,77
158,82
144,03
90,67
1991
151
1322,3
8,76
139,81
157,60
112,74
1992
197
2165,0
11,00
130,46
163,73
125,57
1993
269
2900,0
10,78
136,55
133,95
98,00
1994
343
3765,6
10,98
127,51
129,85
101,85
1995
370
6530,8
17,65
107,87
173,43
160,75
1996
325
8497,3
26,15
87,84
130,11
148,16
1997
345
4649,1
13,48
105,15
54,71
58,23
1998
275
3897,0
14,17
79,71
83,83
105,12
1999
311
1568,0
5,04
113,09
40,24
35,57
2000
371
2012,4
5,42
119,30
128,30
107,50
2001
523
2535,5
4,85
141,00
126,00
89,48
2002
754
1557,7
2,06
144,17
61,43
42,74
Tổng
4447
43194,0
9,71
Nguồn : Niên giám thống kê 2002.
(1) Chưa kể các dự án của VIETSOPETRO
Trong bối cảnh đó các nước đang phát triển, nhất là các nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước ASEAN đã và đang ra sức cải thiện môi trường thu hút mạnh vốn FDI nhằm vượt lên trên các nước khác củng cố vị trí trong danh sách các nước các nước thu hút mạnh vốn FDI trên thế giới và trong khu vực, coi đó là giải pháp chiến lược phục hồi và phát triển kinh tế. Chính điều đó đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt và là thách thức to lớn đối với Việt Nam. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa đây là nguyên nhân duy nhất của sự giảm đầu tư nước ngoài vào nước ta. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng đó là sự giảm sút về khả năng hấp dẫn do điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam. (Sẽ đề cập ở phần sau).
Đến năm 2000, năm 2001, tình hình đã có chuyển biến tốt hơn, số dự án tăng nhanh nhưng số vốn đăng ký cũng đạt mức cao hơn năm 1992 không nhiều. Điều đó chứng tỏ, những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian này có quy mô nhỏ ( năm 2001 đạt 4,85 triệu USD/1dự án, tương ứng năm 2002 là 2,06). Tuy vậy, sự phục hồi bước đầu của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là giấu hiệu đáng mừng. Kết quả này có được một phần là nhờ những tác động tích cực của các giải pháp cải thiện môi trường ĐTNN của Nhà nước Việt Nam trong thời gian gần đây, đặc biệt là những cải thiện về môi trường pháp lý kinh doanh cho các nhà ĐTNN.
2.3. Về đối tác được cấp giấy phép đầu tư
Theo số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư, cho biết đến hết năm 2002 đã có các nhà đầu tư thuộc 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam; trong đó ngày càng có nhiều các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia có năng lực về tài chính và công nghệ cao đến đầu tư tại Việt Nam. Đặc biệt những chính sách thích hợp để chuyển hướng thu hút đầu tư của Việt Nam trong năm 1998 đã có tác động tích cực, nên cơ cấu đối tác nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp đã có sự biến đổi quan trọng. Nếu như giai đoạn đầu các chủ đầu tư lớn đều thuộc các nước châu á (chiếm 68% vốn đầu tư nước ngoài), thì gần đây đầu tư nước ngoài từ các nước châu Âu, Mỹ tiếp tục chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư vì thế đã bù được sự giảm sút về vốn đầu tư trực tiếp của các nước châu á do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Sau đây xin liệt kê 14 nước có số vốn đăng ký lớn nhất trong số 70 nước có dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. (Bảng 6)
Bảng 6: Số dự án và vốn phân theo quốc gia
TT
Nước
Số
Dự án
Vốn đăng
ký
triệuUSD
TT
Nước
Số dự án
Vốn đăng ký
(triệuUSD)
1
Singapo
271
6156,9
8
Anh
48
1782,6
2
Đài Loan
732
5082,4
9
Nga
70
1589,3
3
Hồng Kông
335
3693,1
10
Mỹ
143
1451,5
4
Nhật Bản
333
3601,7
11
ôxtrâylia
107
1189,5
5
Hàn Quốc
383
3329,0
12
Hà Lan
46
1159,9
6
Pháp
168
2582,7
13
Malaixia
107
1156,6
7
Quầnđảo Vigin
133
1940,0
14
Thái Lan
145
1127,7
Nguồn: Niên giám thống kê 2001, NXB Thồng kê Hà nội-2001
Qua bảng trên cho thấy chúng ta đang có điều kiện để tiếp cận được với các trung tâm lớn về kinh tế, có kỹ thuật và công nghệ cao. Có thể nói rằng, trong thời gian qua môi trường đầu tư của Việt Nam đã có những thay đổi thuận lợi hơn cho việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
2.4. Đầu tư nước ngoài phân theo vùng lãnh thổ
Với mong muốn thu hút hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng nên chính phủ ta đã có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tuy vậy, cho đến nay mặc dù các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt trên 61 tỉnh, thành phố trong cả nước song mức độ phân bố các dự án rất không đồng đều, tập trung chủ yếu ở những tỉnh thành phố lớn như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà rịa-Vũng Tầu, Bình Dương và Hải Phòng. Tổng số vốn đăng ký của 6 tỉnh và thành phố này chiếm 75% số dự án và 76% số vốn đầu tư trong cả nước. Nếu thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là hai thành phố đi đầu trong cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đã chiếm tới 50,3% tổng số vốn đầu tư nước ngoài của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%: TP. Hồ Chí Minh với số vốn đăng ký 9991,3 triệu USD (chiếm 28,3% tổng số vốn đăng ký của cả nước) số liệu tương ứng của các địa phương tiếp theo như sau:
Hà Nội:7763,5 (22%); Đồng Nai: 3439 (9,7%); Bà rịa-Vũng Tầu: 2515,9 (7,1%); Bình Dương:1677,9 (4,8%); Hải Phòng:1507,7 (4,3%); Quảng Ngãi 1333 (3,8%); Quảng Nam- Đà Nẵng: 1013,7(2,9%); Quảng Ninh:872,8 (2,5%); Lâm Đồng: 866 (2,4%).
Qua số liệu trên có thể thấy rằng xu hướng tập trung đầu tư nước ngoài ở các tỉnh, thành phố lớn ít có thay đổi qua hơn một thập kỷ qua. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ và thu nhập ở các tỉnh thành phố lớn thuận lợi hơn và phát triển hơn so với các tỉnh thành phố khác. Như vậy, đây cũng là một trong những vấn đề rất cần được chú ý quan tâm điều chỉnh trong thời gian tới để đảm bảo một sự đồng bộ trong đầu tư nước ngoài vào tất cả các tỉnh thành phố.
2.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam phân theo ngành kinh tế
Phân tích cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế cho thấy: Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt ở hầu khắp mọi ngành của nền kinh tế quốc dân và có sự chuyển dịch phù hợp với yêu cầu của công cuộc CNH,HĐH đất nước. Nếu giai đầu các dự án đầu tư tập trung chủ yếu vào xây dựng khách sạn, nhà hàng, văn phòng cho thuê thì tới nay chủ yếu tập trung vào các ngành sản xuất vật chất. Cụ thể tính chung cho giai đoạn 1998-2002 nước ta đã thực hiện 4447 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 43194 triệu USD; trong đó, ngành Công nghiệp với 2698 dự án có tổng vốn đăng ký đạt 19422,4 triệu USD là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số dự án lẫn vốn đầu tư (45%), tiếp đến là lĩnh vực khách sạn-du lịch, xây dựng, và các dịch vụ khác. (Số liệu về một số ngành khác xem bảng 7)
Bảng7: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép 1988-2002 phân theo ngành kinh tế.
Ngành kinh tế
Số dự án
Tổng vốn đăng ký
(Triệu USD)
Tỷ lệ% theo vốn đăng ký
Nông, lâm nghiệp
354
1433,3
3,32
Thuỷ sản
114
380,4
0,88
Công nghiệp
2698
19422,4
45,00
Xây dựng (**)
330
4709,8
10,90
Khách sạn, du lịch
228
5013,5
11,60
GTVT, bưu điện
158
3676,8
8,51
Tài chính, Ngân hàng
35
248,1
0,57
Văn hóa, y tế, giáo dục
140
607,6
1,41
Các ngành dịch vụ khác*
390
7702,1
17,81
Tổng
4447
43194,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2002
* Bao gồm cả xây dựng văn phòng và căn hộ
** Bao gồm cả xây dựng khu chế xuất
Qua bảng trên ta nhân thấy rằng, dòng vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm qua chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trường tiêu thụ trong nước lớn…Đối với ngành nông nghiệp mặc dù có số dự án khá lớn 354 dự án chiếm gần 8% trong tổng số dự án nhưng tổng số vốn đầu tư lại thấp điều đó chứng tỏ những dự án đầu tư vào lĩnh vực này có quy mô nhỏ (4 triệu USD/1dự án); tình hình này đặt ra những vấn đề cấn suy nghĩ và điều chỉnh trong thời gian tới. Sở dĩ như vậy vì nước ta vẫn được coi là một nền nông nghiệp lúa nước với đa số dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì thê nông nghiệp là một trong những lĩnh vực có nhiều tiềm năng mà chúng ta chưa có điều kiện khai thác. Và từ đặc điểm phân bố dân cư, lao động, việc làm như hiện nay thì sự thành công trong phát triển nông nghiệp nông thôn là một trong nhưng chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ thành công của sự nghiệp CNH-HĐH. Trên cơ sở đó, trong thời gian tới chúng ta cần có nhưng biện pháp thích hợp hơn nữa nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoai vào lĩnh vực nông nghiệp, từ đó phát huy những lợi thế vốn có của ngành nông nghiệp.
2.6. Về các hình thức đầu tư
Nếu phân tích theo hình thức đầu tư có thể thấy được sự biến đổi của bức tranh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trước đây, hình thức liên doanh là hình thức phổ biến nhất và đóng vai trò chủ đạo, chiếm 61% số dự án và 70% vốn đăng ký thì giờ đây hình thức này có xu hướng ngày càng giảm; cùng với nó là sự tăng lên của hình thức 100% vốn nước ngoài. Sở dĩ như vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu rất phức tạp, trong khi đó người nước ngoài còn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế- xã hội và pháp luật Việt Nam, họ thường gặp khó khăn trong giao dịch, quan hệ cùng một lúc với khá nhiều cơ quan chức năng của Việt Nam để có được đầy đủ các điều kiện triển khai xây dựng cơ bản cũng như tổ chức thực hiện dự án đầu tư. Trong hoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư nước ngoài thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên đối tác Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Sự am hiểu của các nhà đầu tư được nâng lên trong điều kiện các thủ tục cấp giấy phép của Việt Nam đang từng bước được cải thiện theo hướng ngày càng đơn giản hơn trước, và cùng với sự xuất hiện những tổ chức tư vấn giúp các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các thủ tục triển khai, tổ chức sản xuất kinh doanh của dự án tương đối có hiệu quả. Vì vậy, nhu cầu có đối tác Việt Nam đê tiến hành các thủ tục, đối với nhà đầu tư nước ngoài đã giảm đi một cách đáng kể. ( Bảng 8)
Bảng 8: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo hình thức đầu tư
1988-2002
Đơn vị : tỷ USD
Hình thức đầu tư
Số dự án còn hiệu lực
Vốn đầu tư đăng ký
Vốn đầu tư thực hiện
100% vốn nước ngoài
2615
15,45
7,11
Liên doanh
1694
27,13
10,91
Hợp đồng hợp tác KD
265
5,72
5,6
BOT, BTO, BT
7
1,94
0,22
Từ bảng số liệu thấy rằng hình thức liên doanh hiện nay chỉ còn chiếm gần 37% tổng số dự án giảm 24% so với trước đây, trong khi đó hình thức 100% vốn nước ngoài lại có số dự án tăng lên chiếm 57% tổng số. Còn hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm gần 6% số dự án và 11,4% số vốn đầu tư, chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí và dịch vụ viễn thông, in ấn và phát hành báo chí. Đối với phương thức “ Xây dựng-kinh doanh-chuyển giao”(BOT) thì mới được bắt đầu từ khi có Nghị định 87/CP ngày 23/11/1993 của Chính phủ nhằm khuyến khích FDI xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tuy vậy chưa có nhiều dự án. Đến nay hình thức này mới có 7 dự án với số vốn đăng ký 1,94 tỷ USD bởi lẽ đây là hình thức mới, phía Việt Nam còn ít kinh nghiệm, hơn nữa điều kiện thực hiện lại phức tạp…
Qua nghiên cứu các hình thức đầu tư cho thấy: Các hình thức ĐTNN hiện nay vẫn chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, cần tiếp tục nghiên cứu mở rộng, bổ sung thêm các hình thức mới như cho phép thành lập các công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài…
3. Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với CNH, HĐH ở Việt Nam.
Nếu xuất phát từ một số khía cạnh cụ thể để xem xét, phân tích, đánh giá thì hiện nay vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau khi nhận định về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Dẫu biết rằng bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có mặt tích cực, mặt tiêu cực, nhưng trên bình diện tổng thể ta có thể khẳng định rằng: trong điều kiện nước ta hiện nay thì đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò như lực khởi động và như một yếu tố đảm bảo cho cả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá củaViệt Nam. Nếu xem xét tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với một số vấn đề hiện đang được xem là những yếu tố, điều kiện cơ bản nhất của sự nghiệp CNH, HĐH ta có thể khái quát dưới bốn tác động chính như sau:
3.1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và một trọng những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Việt Nam tiến hành CNH, HĐH trong hoàn cảnh khó khăn về mọi mặt, trong đó, một vấn đề nổi lên tương đối gay gắt là thiếu vốn cho đầu tư. Huy động vốn thực sự trở thành vấn đề cốt yếu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, dựa vào tính chất, đặc điểm của từng thời kỳ cụ thể để lựa chọn, huy động, sử dụng nguồn vốn nào là việc làm đòi hỏi phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ, kết quả, tính bền vững của sự nghiệp CNH, HĐH cũng như sự phát triển của đất nước.
Thời kỳ đầu tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH khi khả năng tích luỹ và huy động vốn trong nước còn khó khăn, khi mà trình độ tổ chức cũng như các điều kiện để sử dụng vốn vay, còn kém hiệu quả thì vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò như lực khởi động cho quá trình tiến hành CNH, HĐH. Từ khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài cho đến nay, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam bình quân 1737,7 triệu USD/năm. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân tại Việt Nam thời kỳ 1991-2000 là 17423,2 tỷ đồng/năm. Đối với một nền kinh tế nhỏ như nước ta thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như chất xúc tác, điều kiện để việc đầu tư của nước ta đạt được hiệu quả nhất định. Nếu so với tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991-2000 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án nước ngoài chiếm 24,8% và lượng vốn đầu tư này có xu hướng tăng lên qua các năm. Vốn đầu tư xây dựng từ các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1991-2000 là 174232 tỷ đồng gần bằng 50% tổng số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 354203 tỷ đồng.
Tìm kiếm lĩnh vực kinh tế và địa bàn đầu tư có khả năng thu lợi nhuận cao là đặc điểm bẩn chất nhất đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn những ngành sản xuất, những địa bàn kinh doanh thuận lợi để đầu tư thì chính phủ ta có thể dành số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước để tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào những ngành trọng điểm và những lĩnh vực thấy không nên có yếu tố nước ngoài, cũng như đầu tư vào những địa bàn khó khăn nhằm tạo ra sự phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng của đất nước. Nói cách khác, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn bổ xung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối, bền vững theo yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH.
Không những thế, hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài còn tạo ra một trong những nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài( không kể dầu khí) đã nộp ngân sách nhà nước thời kỳ 1994-2000 với số tiền là 1749 triệu USD. Cụ thể là, năm 1994:128 triệu USD, 1995: 195triệu USD, 1996: 263 triệu USD, 1997:315 triệu USD, 1998:317 triệu USD, 1999: 271 triệu USD, 2000:260 triệu USD. Có thể nói, đây cũng là một nguồn thu ngoại tệ quan trọng góp phần quan trọng trong việc làm cân đối cán cân thanh toán quốc tế, trong đó có cả việc mua sắm các thiết bị phục vụ cho công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP tăng dần qua các năm. Về định tính, sự hoạt động của nguồn vốn có nguồn gốc từ đầu tư trực tiếp nước ngoài như là một trong những động lực ghây phản ứng dây chuyền thúc đẩy sự hoạt động của đồng vốn trong nước. Một số chuyên gia kinh tế tính toán rằng, cứ một đồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động sẽ làm cho bốn đồng vốn trong nước hoạt động theo. Như vậy, có thể nói, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những tác nhân có khả năng làm cho việc hình thành tại Việt Nam một thị trường vốn thực sự có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Bảng 9: Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư xây dựng thực hiện toàn xã hội thời kỳ 1991-2000.
Năm
Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng)
Vốn trong nước
(tỷ đồng)
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
Số lượng (tỷ đồng)
So với tổng số %
1991
13471
11545
1926
14.3
1992
24737
19552
5185
21
1993
42177
31556
10621
25.2
1994
54296
37796
16500
30.4
1995
68048
46048
22000
32.3
1996
79367
56667
22700
28.6
1997
96870
66570
30300
31.3
1998
97336
73036
24300
25
1999
105200
86300
18900
18
2000
120600
98200
21800
18.2
Nguồn : Niêm giám thống kê 2001; thời báo kinh tế
3.2. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, công nghệ mới, phương thức sản xuất- kinh doanh mới,làm cho cơ cấu của nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá, thị trường, hiện đại.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nhân tố quan trọng và đang ngày càng khẳng định rõ vai trò của mình trong việc đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác, và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước. Năm 1995 chỉ số phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 114.98% thì chỉ số phát triển chung của cả nước là 109.54%.Số liệu tương ứng của năm 1996 là 119.42% và 109.34%, 1997 là 120.75% và 108.15%, 1998 là 119.1% và 105.8%, 1999 là 117.6% và 104.8%, 2000 là 109.9% và 106.7%.
Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tíêp nước ngoài trong tổng sản phẩm trong nước cũng có xu hướng tăng lên qua các năm tương đối ổn định tỷ trọng này đạt 6.3% năm 1995; 7.39%-1996; 9.07%-1997; 10.03%- 1998; 12.2%-1999; 13.3%-2000; 13.76%-2001; 13.9%-2002.
Đối với ngành công nghiệp
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu trong những năm đầu, FDI chủ yếu tập trung vào dịch vụ phi sản xuất như khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê thì trong những năm gần đây, FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất vật chất. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không những có tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn tạo ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này đạt 25.1%(1995); 26.73%(1996); 28.9%(1997); 31.98%(1998); 34.73%(1999); 35.5%(2000). Tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp đạt mức khá trong những năm qua, năm 1996 đạt 21.7%; 1997 đạt 23.2%; 1998 là 23.3%; 2000là 20%; 2001đạt 14.6%; 2002 đạt 14.8%. Cùng với đầu tư trong nước, dầu tư nước ngoài đã góp phần trong việc hình thành nên hệ thống 67 khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước góp phần phân bố lại công nghiệp một cách hợp lý, xử lý môi trường tốt hơn, nâng cao hiệu quả đầu tư và hiệu lực quản lý. Hơn nữa, nó góp phần vào quá trình đô thị hoá, hình thành khu dân cư mới, tạo việc làm cho hơn 200 nghìn lao động địa phương và hàng chục ngàn lao động dịch vụ khác. ở các thành phố lớn, việc hình thành các khu công nghiệp , khu chế xuất đã tạo điều kiện cho các địa phương này tách sản xuất ra khỏi dân cư, giảm thiểu ô nhiễm môi trường đô thị.
Sự đóng góp của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chi phối đáng kể quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta- tỷ trọng công nghiệp tăng lên và đang ngày càng chiếm ưu thế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với vị của công nghiệp thể hiện tương đối rõ nét trong thực tế vừa qua. Sự chuyển biến về tỷ trọng công nghiệp trong GDP gần như đồng biến với tỷ trọng GDP của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP của ngành công nghiệp. Điều này chứng tỏ, trong số các nhân tố ảnh hưởng, đầu tư trực tiếp nước ngoài không những có vai trò rất quan trọng trong phát triển công nghiệp, mà còn có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu nước ta theo hướng hình thành một cơ cấu kinh tế CNH, HĐH. Đầu tư nước ngoài góp phần hình thành một số ngành công nghiêpợ mới, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế như khai thác- chế biến dầu khí, sản xuất, lắp ráp ô tô, sản phẩm điện tử…
Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có vị trí chủ đạo, với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Tiêu biểu mức tỷ trọng ở một số năm như sau: năm 1995: 77.8%; 1996: 78%; 1997: 77.7%; 1998: 81.4%. Đặc biệt, giá trị sản xuất của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra với cá số liệu cụ thể như sau: năm 1995:99.7%; 1996: 99.7%; 1997: 99.8%; 1998: 99.8%.
Trong ngành công nghiệp chế biến, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng, từ 18.1% (1995); 20.1%(1996); 22.9%(1997); đến 25.3%( 1998). Trong đó, ở một số ngành quan trọng, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như sau: 71% trong gnành sản xuất và sửa chữa xe có động cơ( trong đó 100% trong sản xuất và lắp ráp xe máy,ô tô); 44.3% trong ngành sản xuất sản phẩm bằng da và giả da; 100% trong ngành sản xuất tụ điện, máy in, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà không khí, đầu video, sản xuất sợi PE, PES; 67.6% trong ngành sản xuất radio, tivi, thiết bị truyền thông; 31% trong ngành sản xuất kim loại; 22.2% trong ngành sản xuất điện, điện tử; 20.1% trong ngành sản xuất hoá chất; 19.1% trong ngành may mặc; 18.6% trong ngành dệt.
Các công nghệ hiện đang sử dụng ở các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp được đánh giá là hiện đại hơn các công nghệ vốn có của nước ta. Cụ thể, các công nghệ đang sử dụng trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông, …đều thuộc loại công nghệ hiện đại và các công nghệ này thực sự đã góp phần tạo nên bước ngoặt tích cực trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Đa số công nghệ sử dụng trong các nghàmh công nghiệp điện tử, hoá chất, ô tô, xe máy, vật liệu xây dựng đều là những dây chuyền tự động tương đối hiện đại.Một số sản phẩm vi mạch, điện tử,..được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến. Các khách sạn, văn phòng cho thuê đều được trang bị thiết bị hiện đại tiêu chuẩn quốc tế.
Đối với ngành nông nghiệp
Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực nâng cao năng lực sản xuất trong ngành nông nghiệp, chuyển giao cho ngành nhiều giống cây, giống con, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và tăng khả năng cạnh tranh của nông, lâm sản. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông -lâm- ngư nghiệp theo yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Nếu trước đây, đầu tư nướ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 69036.DOC