Tài liệu Đề tài Từng bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động du lịch đến môi trường tự nhiên ở Vườn quốc gia Xuân Thuỷ - Nam Định: .010333333333333333333333333333333333333333333333333333333333
Bộ giáo dục và đào tạo
Viện đại học mở Hà nội
Khoa du lịch
Đề tài:
Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống ven
sông Nhuệ tỉnh Hà Tây phục vụ cho du lịch
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên :
:
Hà Nội:
Chương I. cơ sở lý luận chung về du lịch
I. Du lịch
1.1 Khái niệm về du lịch
Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hoá và hoạt động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới.
Cùng với nhu cầu du lịch, thuật ngữ “ du lịch” cũng trở nên thông dụng hơn. Thuật ngữ “ du lịch” này bắt đầu từ tiếng Pháp “ Tour ” nghĩa là đi vòng quanh dạo chơi và người du lịch gọi là “ touriste ” là người đi dạo chơi. Du lịch gắn liền với việc nghỉ ngơi, giải trí nhằm phục hồi sức khoẻ, tái tạo lại sức lao động cho con người. Vậy du lịch là gì?
Trong vòng sáu thập kỷ qua, từ khi thành lập h...
77 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Từng bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động du lịch đến môi trường tự nhiên ở Vườn quốc gia Xuân Thuỷ - Nam Định, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.010333333333333333333333333333333333333333333333333333333333
Bộ giáo dục và đào tạo
Viện đại học mở Hà nội
Khoa du lịch
Đề tài:
Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống ven
sông Nhuệ tỉnh Hà Tây phục vụ cho du lịch
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên :
:
Hà Nội:
Chương I. cơ sở lý luận chung về du lịch
I. Du lịch
1.1 Khái niệm về du lịch
Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hoá và hoạt động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới.
Cùng với nhu cầu du lịch, thuật ngữ “ du lịch” cũng trở nên thông dụng hơn. Thuật ngữ “ du lịch” này bắt đầu từ tiếng Pháp “ Tour ” nghĩa là đi vòng quanh dạo chơi và người du lịch gọi là “ touriste ” là người đi dạo chơi. Du lịch gắn liền với việc nghỉ ngơi, giải trí nhằm phục hồi sức khoẻ, tái tạo lại sức lao động cho con người. Vậy du lịch là gì?
Trong vòng sáu thập kỷ qua, từ khi thành lập hội quốc tế các tổ chức du lịch hàng năm 1925 tại Hà Lan, khái niệm về du lịch luôn được đưa ra tranh luận. Khái niệm ban đầu về du lịch là: Du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi nơi cư trú của mình trong thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi giải trí hoặc chữa bệnh.
Trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch là một hoạt động không thể thiếu trong cuộc sống bình thường của mỗi người dân. Trong các chuyến du lich, khách du lịch không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi giải trí mà còn nhằm thoả mãn nhu cầu to lớn về mặt tinh thần. Đó là nhu cầu về sự hiểu biết, mở rộng tầm mắt của mình về thế giới bên ngoài, về nền văn hoá truyền thống của các dân tộc khác.
Chính vì vậy, du lịch không còn là hiện tượng lẻ loi, đặc quyền của cá nhân hay nhóm người nào đó. Ngày nay, nó mang tính phổ biến và tính nhận thức với mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người củng cố hoà bình giữa các dân tộc.
Du lịch phát triển cũng đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các nước có ngành du lịch phát triển. Đời sống nhân dân tại các nước đó cũng được cải thiện. Trải qua một thời gian dài hình thành và phát triển khái niệm về du lịch đã được xác như sau:
Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan đến sự di và lưu trú lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi chữa bệnh phát triển thể chất và tinh thần nâng cao trình độ nhận thức, văn hoá, thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá “ Trích sách Địa lý du lịch ”.
1.2 Chức năng của du lịch
Du lịch có 4 chức năng cơ bản.
1.2.1 Chức năng xã hội.
Chức năng xã hội thể hiện ở vai trò của nó trong việc giữ gìn, hồi phục sức khoẻ và tăng cường sức sống cho nhân dân. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Các công trình nghiên cứu về sinh học khẳng định rằng nhờ chế độ nghỉ ngơi và du lịch tối ưu, bệnh tật của dân cư trung bình giảm 30%, bệnh đường hô hấp giảm 40%, bệnh thần kinh giảm 30%, bệnh đường tiêu hoá giảm 20%. Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu văn hoá phong phú và lâu đời của các dân tộc.
1.2.2 Chức năng kinh tế.
Chức năng kinh tế của du lịch liên quan mật thiết với vai trò của con người như là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Việc nghỉ ngơi, du lịch một cách tích cực và được tổ chức hợp lý sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp. Một mặt, nó góp phần vào việc hồi phục lại sức khoẻ cũng như khả năng lao động và mặt khác đảm bảo tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động với hiệu qủa kinh tế rõ rệt. Thông qua hoạt động nghỉ ngơi, du lịch, tỷ lệ ốm đau trong khi làm việc giảm đi, tỷ lệ tử vong ở độ tuổi lao động hạ thấp và rút ngắn thời gian chữa bệnh, giảm số lần khám bệnh tại các bệnh viện. Chức năng kinh tế của du lịch còn thể hiện ở một khía cạnh khác đó là dịch vụ du lịch.
1.2.3 Chức năng sinh thái.
Chức năng sinh thái của du lịch được thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hoá môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và các hoạt động của con người. Việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng nhất định lại đòi hỏi tối ưu hoá quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch của đông đảo quần chúng đòi hỏi phải có các kiểu lãnh thổ được bảo vệ.
1.2.4 Chức năng chính trị.
Chức năng chính trị của du lịch được thể hiện ở vai trò to lớn của nó như một nhân tố củng cố hoà bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Chủ đề về du lịch kêu gọi hàng triệu người quí trọng lịch sử, văn hoá và truyền thống của các quốc gia, giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc, trích sách “ Địa lý du lịch “ trang 17,18.
1.3 Tài nguyên du lịch.
1.3.1 Quan niệm về tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hoá lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ những tài nguyên này được sử dụng do nhu cầu trực tiếp và gián tiếp.
1.3.2 Các tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn:
ả Tài nguyên du lịch nhân văn:
Do con người tạo ra là đối tượng hiện tượng nhân tạo. Tài nguyên du lịch nhân văn mang tính chất nhân thức nhiều hơn giải trí. Những người đi du lịch văn hoá thường là những người muốn tìm hiểu khám phá những nét độc đáo, những cái mới lạ của nền văn hoá địa phương nơi mà họ đã đi qua. Ngày nay trên thế giới, các di sản văn hoá, các kỳ quan, các phong tục tập quán lễ hội độc đáo của các nước là nguồn tài nguyên quan trọng để phát triển du lịch văn hoá đồng thời nó cũng là kho kiến thức vô giá cho những ai muốn tìm hiểu muốn khám phá nó.
Vậy du lịch văn hoá là một dạng hoạt động của dân cư nhằm khám phá, hiểu biết thêm về những nền văn hoá ở các địa phương nơi họ sinh sống nhằm khám phá những phong tục tập quán của địa phương khác hay của dân tộc khác.
Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hoá và hoạt động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới.
ả Tài nguyên du lịch tự nhiên:
Tài nguyên tự nhiên là các đối tượng và hiện tượng trong môi trường tự nhiên bao quanh ta. ở một địa phương nào đó tự nhiên tác động đến người quan sát qua hình dạng bên ngoài của bản thân nó. Sự tiếp nhận hình dạng bên ngoài của tự nhiên gọi là phong cảnh. Trong đó tự nhiên chỉ tham gia với những đặc điểm của mình mà có thể quan sát bằng mắt thường. Đó là hình dạng bề mặt đất, thực vật và nguồn nước. Ngoài ra, đóng vai trò quan trọng đối với nhiều loại hình du lịch là khí hậu, đặc biệt là các chỉ tiêu có liên quan tới trạng thái tâm lý - thể lực của con người đó là khí hậu sinh học, phong cảnh của khu vực càng đa dạng bao nhiêu, khí hậu càng thuận lợi bao nhiêu thì chất lượng của khu vực dành cho du lịch và nghỉ ngơi ngày càng tốt lên bấy nhiêu.
Các thành phần của tự nhiên có tác động mạnh nhất đến du lịch là địa hình, khí hậu, nguồn nước và tài nguyên thực động vật.
1.4 Đặc điểm của du lịch
Du lịch là sản phảm vô hình, là ngành kinh tế xuất khẩu tại chỗ mang lại hiệu quả kinh tế cao và ngoại tệ lớn cho đất nước có ngành du lịch phát triển.
Việc sản xuất và tiêu thụ diễn ra trong cùng một thời điểm không tách rời nhau. Chất lượng của sản phẩm du lịch phụ thuộc vào các thành phần tham gia sản xuất ra nó và sản phẩm du lịch không có khả năng lưu kho. Trích” Sách địa lý du lịch “
1.5 ý nghĩa của du lịch.
Du lịch phát triển có ý nghĩa to lớn.
- Đem lại lợi nhuận kinh tế cao cho đất nước từ việc phát triển du lịch, tạo thêm việc làm cho người dân địa phương.
- Du lịch là chiếc cầu nối để giao lưu văn hoá giữa các nước trên thế giới, thúc đẩy nền hoà bình toàn thế giới.
- Phát triển du lịch đồng nghĩa với việc kêu gọi sự đầu tư để phát triển, bảo tồn, bảo tàng các nền văn hoá, các tài nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên du lịch nhân tạo trên toàn thế giới.
à Nói tóm lại, du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước và của một quốc gia. Thông qua lĩnh vực lưu thông mà du lịch có ảnh hưởng lên sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và nông nghiệp. Ngoài ra, du lịch phát triển còn đánh thức một số ngành sản xuất thủ công truyền thống.
II. Làng nghề truyền thống.
1 Khái niệm.
Làng nghề truyền thồng là thực thể vật chất và tinh thần tồn tại cố định của một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống. Vì thế, mỗi nghề truyền thống đều được bảo tồn, hoạt động, phát triển ở một làng nghề, một cụm làng nghề. Nay ở nhiều làng nghề, do tính lan toả và sức sống mãnh liệt của nghề thủ công lâu đời của ta, cũng như ở bất cứ dân tộc nào khác ở phương Đông ( Trung Quốc, Nhật Bản, ấn Độ, Thái Lan, Malayxia, Hàn Quốc ...)
Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công. ở đây, không nhất thiết dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là nông dân. Nhưng yêu cầu chuyên môn hoá cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình, hay ở làng nghề, phố nghề nơi khác. Khi nói đến một làng nghề thủ công truyền thống, ta không chỉ chú ý các mặt đơn lẻ, mà phải chú trọng đến nhiều mặt trong cả không gian và thời gian nghĩa là quan tâm đến tính hệ thống, toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật .
Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi qui tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng Tổ nghề, và các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Sự liên kết, hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo thợ trẻ giữa các gia đình cùng dòng tộc, cùng phường nghề trong quá trình lịch sử hình thành phát triển nghề nghiệp đã hình thành làng nghề ngay trên đơn vị cư trú, làng xóm truyền thống của họ “ Trích sách Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam”.
Làng nghề thủ công truyền thống thường có tuyệt đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền( sản xuất và dịch vụ phi nông nghiệp ), hoặc một vài dòng họ chuyên làm nghề lâu đời, kiểu cha truyền con nối. Sản phẩm của họ làm chẳng những thiết dụng, mà hơn nữa còn là hàng cao cấp, tinh xảo độc đáo, nổi tiếng và dường như không đâu sánh bằng.
Do tính chất kinh tế hàng hóa thị trường của quá trinh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làng nghề thực sự là đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp. Vai trò, tác dụng của làng nghề đối với đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội là lớn và tích cực.
2 Đặc điểm chung của làng nghề truyền thống Việt Nam .
2.1.Đặc Điểm.
Sở dĩ các làng nghề có sức sống mạnh mẽ và trường tồn cùng lịch sử dân tộc tới hàng chục thế kỷ như thế, bởi chúng được đảm bảo bằng những nhân tố sau đây:
F Thứ nhất: Đó là nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường đối với hàng thủ công truyền thống. Nhu cầu ấy rất lớn và hết sức đa dạng, thời nào cũng có, không bao giờ chấm dứt. Nhìn chung, đó là nhu cầu ăn, mặc ở, đi lại, học hành, vận tải, đó còn là nhu cầu chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc.
Đó cũng còn là nhu cầu thờ cúng, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian... từng tồn tại, phát triển suốt tiến trình lịch sử văn hóa dân tộc mấy nghìn năm.
Xưa kia, chưa có máy móc, cơ khí đương nhiên mọi loại hàng tiêu dùng từ đồ gia dụng, trang trí công cụ sản xuất khá thô sơ. Nhưng kỹ thuật và kinh nghiệm truyền thống thì vô cùng phong phú. Sản phẩm thủ công lúc đó là mọi vật phẩm được sử dụng trong xã hội.
Đến những năm đầu thế kỷ XX, nền công nghiệp cơ khí bắt đầu phát triển ở Việt Nam. Máy móc, thiết bị của nền sản xuất công nghiệp buổi đầu ấy do người Pháp đem đến nước ta, cũng như bán đảo Đông Dương nói chung. Một số nghề thủ công đã sử dụng máy móc trong một vài công đoạn sản xuất, chuyển thành các ngành nghề bán thủ công ( tức hình thức sản xuất nửa cơ khí, nửa thủ công ). Đó là trường hợp của nghề may mặc, nghề khai thác và chế biến gỗ. Nhưng nghề thủ công truyền thống thuần tuý công nghệ cổ truyền vẫn phát triển. Nhu cầu về các loại mặt hàng thủ công truyền thống của nhân dân ta nhất là nhu cầu xuất khẩu lúc đó lại tăng lên hơn trươc, kể từ những năm 30 thế kỷ này. Các nước phương Tây rất ưa chuộng đồ thủ công của người Việt Nam. Nhu cầu ấy ngày càng lớn đã tạo điều kiện cho chính sách chấn hưng nghề và làng nghề truyền thống ở Bắc Bộ của nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ. Các làng nghề đã tham gia một số hội chơ, cuộc đấu ở Hà Nội và tân Mác Xây ( Pháp ). Một số thợ thủ công giỏi được cử sang Pháp dự hội chợ và trình diễn chế tác sản phẩm tinh xảo.
Như vậy, có nhu cầu về hàng thủ công tất phải có sản xuất hàng thủ công truyền thống. Sản phẩm chất lượng cao hoàn mỹ sẽ được người tiêu dùng mến mộ, tín nhiệm.. Nhu cầu càng lớn, càng bền vững thì việc sản xuất ở các làng nghề càng ổn định, phát triển lâu dài.
F Thứ hai : Là trình độ của nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề.
Cần phải khẳng định rằng vai trò của nghệ nhân đối với nghề và làng nghề thủ công truyền thồng là rất lớn. Không có nghệ nhân thì không có làng nghề, hay ít nhất cũng không thể có làng nghề lừng danh. Chính tài năng của các nghệ nhân, với “ đôi bàn tay vàng” của họ đã tạo nên những sản phẩm quý giá tinh xảo và độc đáo, những sản phẩm văn hoá sống mãi với thời gian, góp phần làm vẻ vang cho dân tộc và cho mỗi làng nghề. Chính nghệ nhân, thợ cả đã giữ cho làng nghề tồn tại, đã đào tạo ra những nhóm thợ, mà trước hết là con cháu của họ, những người trong gia đinh, dòng tộc, rồi đến con em trong làng thuộc các dòng họ khác. Kiên trì truyền dạy nghề, hết ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác, theo phương pháp” cầm tay chỉ việc” “vừa làm vừa học” các nghệ nhân đã tạo ra một đội ngũ thợ lành nghề ngay tại làng xóm của mình. Cứ như thế, những thế hệ thợ thủ công kế tiếp, đan xen nhau, lớp này đến lớp khác đời sau nối tiếp đời trước. Do đặc trưng sản xuất thủ công cả gia đình từ ông bà, anh em, con cháu đều cùng làm nghề, mỗi người mỗi việc cho nên cùng một lúc ở làng nghề thường có vài ba thế hệ thợ thủ công cùng sản xuất , kinh doanh. Xưa kia, ở đồng bằng sông Hồng, trong nền kinh tế tự cung tự cấp, việc sản xuất hàng thủ công thường diễn ra liên tục, quanh năm, hay theo mùa vụ, theo một qui trình công nghệ khép kín. Từng gia đình, từng dòng họ hay phường nghề, việc sản xuất và bán sản phẩm đều có thể tự lo nghĩa là người ta có thể tiến hành từ A đến Z tự đi mua nguyên vật liệu, chế biến nguyên liệu, thao tác hay đan dệt sản phẩm, và cuối cùng là sản phẩm được tổ chức tiêu thụ ( bán buôn, bán lẻ). Tất nhiên, có công đoạn sản phẩm nặng nhọc, hay quá phức tạp, người ta có thể thuê thợ hoặc phường thợ nơi khác như đã từng diễn ra ở một số làng gốm. Khi một làng nghề bị suy thoái, những tinh hoa văn hoá nghề ở đó có nguy cơ mất đi, thì chính nghệ nhân có vai trò tích cực nhất trong nhiệm vụ bảo tồn làng nghề. Nếu chưa đẩy lên được thì cũng giữ lại được cái làng nghề ấy.
F Thứ 3: Đó là kỹ thuật truyền thồng và kinh nghiệm lâu đời ở các làng nghề thủ công nước ta.
Về kỹ thuật, hầu hết các làng nghề đều sử dụng kỹ thuật truyền thống lâu đời của Việt Nam trong sản xuất. Mỗi nghề đều có kỹ thuật sản xuất riêng. Kỹ thuật ấy bao gồm nhiều công đoạn, từ khâu khai thác, chế biến nguyên liệu đến khâu cuối cùng là hoàn chỉnh sản phẩm để bán ra thị trường cho người tiêu dùng. Trong đó còn bao hàm cả các thủ pháp nghệ thuật. Tuy các làng nghề đều sử dụng kỹ thuật chung( nếu các làng nghề ấy đều làm một nghề ) nhưng từng công đoạn kỹ thuật thì mỗi nơi một khác. Làng nghề nào cũng biết cách ứng dụng kỹ thuật chung ấy theo cách riêng của mình. Riêng thủ pháp nghệ thật, người ta còn tiến hành đa dạng hơn nữa, bởi mỗi nghệ nhân đều có thủ pháp nghệ thuật theo trình độ sáng tạo và kinh nghiệm của riêng mình. Điều đó giải thích tại sao làng nghề cụ thể này không thay thế được làng nghề khác, nghệ nhân này không thay thế được vị trí của nghệ nhân khác, mặc dù các làng ấy các nghệ nhân ấy đều làm một nghề và sản xuất ra những sản phẩm cùng loại.
F Thứ tư: Là vị trí địa lý - môi trường của làng nghề.
Đây là yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và đảm bảo sự tồn tại phát triển lâu dài đối với bất cứ làng nghề thủ công truyền thống nào ở nước ta, nói riêng là ở đồng bằng sông Hồng. Các làng nghề thường ở vị trí thuận tiện về giao thông thuỷ, bộ, gần nguồn nguyên liệu. ở những lưu vực sông Hồng, sông Cầu, sông Thương, sông Nhuệ... đã quần tụ nhiều làng nghề, tạo thành các trung tâm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Khối lượng sản phẩm hàng năm rất lớn, mỗi làng nghề sản xuất hàng nghìn tấn hàng một năm. thị trường trong vùng tuy lớn nhưng chưa đủ. Hàng làm ra cần tiêu thụ ở nhiều tỉnh xa, thậm chí ở hầu hết các địa phương trong cả nước và xuất khẩu sang các nước khác. Yêu cầu vận tải lớn ấy không thể thiều đường bộ đường sông, đường biển. Các cụ tổ nghề nhất định là ngay từ đầu đã quan tâm đến yếu tố” bến sông bãi chợ “ vốn có ấy để quyết định mở nghề lập nghiệp ở một nơi. Các cụ còn quan tâm đến nguồn nguyên vật liệu thích hợp cho yêu cầu sản xuất lâu dài, nhất là nguyên vật liệu tại chỗ. Bởi cho dù các cụ có lựa chọn làng nào có đức để truyền nghề thì thực sự dân làng nào cũng có thể đào tạo thành thợ được, còn vị trí địa lý, giao thông vận tải và nguồn nguyên liệu tại chỗ có sẵn cho sản xuất và tiêu thụ hàng làm ra thì không thể tạo ra được, nhiều khi không thể muốn là được.
Tuy vậy, ở nước ta, giao thông vận tải đường bộ, đường sắt mới chỉ thực sự phát triển trong vòng chưa đầy một trăm năm nay. Xưa kia chỉ có các tuyến đường chính từ kinh thành Thăng Long tới các lò, các trấn giao thông bằng xe ngựa, xe bò kéo, và khi cần thông tin liên lạc nhanh phải dùng ngựa trạm.
Người Pháp tiến hành cho xây dựng đường sắt mở rộng đường ô tô vào những năm đầu thế kỷ này, do yêu cầu quân sự và chính sách khai thác thuộc địa. Nhưng yêu cầu đường thuỷ vẫn rất lớn. Hàng nghìn năm trước đó, đường thuỷ giữ vai trò chủ đạo, quyết định nhất của ngành giao thông vận tải nước ta. Yếu tố bến sông vì vậy giữ vai trò vận chuyển chính của làng nghề trong hoạt động mua bán sản phẩm, nguyên vật liệu cho sản xuất. Thêm vào đó là chợ làng, chợ sông có vai trò nơi bán sản phẩm.
Có thể khẳng định rằng nếu thiếu hai điều kiện( nguyên liệu, bến sông ) kể trên chắc chắn không thể tồn tại những làng nghề lâu đời và nổi tiếng như làng gốm bát Tràng, làng tranh Đông Hồ, trung tâm tơ lụa Hà Đông, làng điêu khắc Nhân Hiền ( Thương Tín ) khảm trai Chuyên Mỹ (Phú Xuyên)...
Song chúng ta cũng nên chú ý đến một đặc điểm khác nữa, do tinh chất sản xuất kinh tế của làng nghề thủ công. Sản xuất thủ công là nghề phụ, đảm bảo công ăn việc làm lúc nông nhàn( ly nông có thời vụ ) lấy nghề thủ công làm nghề sản xuất chính, mang tính chất chuyên nghiệp( ly nông ).
Phần lớn, làng nghể ở ta làm nghề truyền thông theo cấp độ thứ nhất ( nghề phụ ). Không ít làng nghề khác đã lấy nghề thủ công làm nghề nghiệp chính ( chuyên nghiệp ). Phát triển nghề thủ công đến mức thoát ly hẳn nông nghiệp ngay tại làng quê của mình thường diễn ra ở những làng nghề ít ruộng đất canh tác - ruộng của làng khác ngay sát luỹ tre làng mình. Đó là trường hợp thực tế ở làng quạt Vác( tức làng canh hoạch Hà Tây ), làng tranh dân gian Đông Hồ( Bắc Ninh ) làng gốm Bát tràng ( Hà nội )...
Như vậy, quyết định sự phát triển mạnh và lâu dài các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam phải có bốn yếu tố chính kể trên, hay ít nhất cũng phải “hội” đủ các yếu tố ấy. Bởi nghề thủ công, làng nghề thủ công là nơi sản xuất hàng hoá và sáng tạo nghệ thuật. Hàng thủ công không chỉ tiện dụng mà còn phải đẹp.
2.2. Thực tế môi trường thể chế và tác động của nó tới hoạt động của các làng nghề.
Các làng nghề thủ công truyền thống, trên thực tế bao giờ cũng hoạt động trong một môi trường thể chế. Nói cách khác môi trường thể chế luôn luôn tác động trực tiếp tới hoạt động sản xuất, kinh doanh ở các làng nghề.
Như đã nói trên, môi trường thế chể theo nghĩa rộng và ở đó đảm bảo cho làng nghề phát triển bền vững, phát huy được giá trị kinh tế, văn hoá, xã hội, các giá trị đạo đức, tín nhiệm và lương tâm người thợ thông qua chất lượng sản phẩm được làm ra. Môi trường tự nhiên của làng nghề( trình bày ở phần hai ). Dưới đây là môi trường pháp lý gồm hai cấp độ luật pháp: Quy chế của làng nghề, chính sách và luật pháp nhà nước.
2.2.1 Quy chế của làng nghề.
Trong hầu hết các làng nghề thủ công lâu đời, nổi tiếng( nếu không nói là tất cả các làng nghề ) ở nước ta đều có qui chế về nghề thủ công hoặc thành văn bản riêng hoặc trong một số điều của hương ước. Thậm chí mỗi phường nghề trong cùng một nghề ở cùng một làng có qui chế riêng, dưới dạng “ Lời thề “ “ Lời nguyền “.
Trước kia, ở các làng xã điển hình là làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ, hương ước và qui chế được coi là hệ thống luật pháp của nhà nước phong kiến trung ương. Trong chừng mực nào đó chúng trở thành một thứ “ pháp quy “ của từng làng, xã thậm chí như dân gian thường nói “ phép vua thua lệ làng “ “ lệ làng “ được quy định thành những điều rất cụ thể, chi tiết trong hương ước( do hội đồng kỳ hào và các kỳ mục - những người có trách nhiệm và quyền lực cao nhất trong làng. Hay trong xã soạn thảo ra ). Trong bối cảnh lịch sử đó các phường nghề, hội nghề, gia tộc làm nghề thủ công cũng soạn ra các văn bản nghề nghiệp gọi là“ lời thề “ “ lời nguyền “. Những qui chế này được truyền từ đời này sang đời khác, bắt buộc các thành viên trong gia tộc, trong phường hội nhất nhất tuân theo. Thực hiện một cách khá nghiêm ngặt. Các luật lệ qui chế như thế gọi chung là qui lệ, ta thường thấy ở các làng nghề thêu, khắc gỗ, khảm trai, đúc đồng... Có nơi còn truyền những qui định dưới hình thức khác ( lời thề, lời nguyền ) như ở làng Bát tràng ( Hà nội ).
Những qui định nghiêm ngặt trong làng nghề phường nghề, tộc nghề... nói trên là biện pháp giữ bí mật và bí quyết nghề nghiệp của những người ở các làng nghề thủ công cổ truyền. Điều đó đã có tác dụng tích cực đối với việc duy trì lâu dài hoạt động sản xuất của mỗi làng nghề ấy. Nhưng chính sự tuyệt đối bí mật mang tính độc quyền của các thế hệ thợ thủ công trong mỗi nghề, mỗi làng nghề như thế đã kìm hãm sự phát triển nghề nghiệp trong phạm vi cả nước. Bởi mỗi làng nghề dường như là một lãnh địa riêng, khép kín bất khả xâm phạm. Tuy có sự mềm dẻo cởi mở tự nhiên - qua một số thợ của làng nghề nào đó đi làm ăn và truyền dạy nghề ở nơi xa, nhưng“thầy “ không dậy bí quyết cho“trò “ nên không đâu có thể đạt trình độ sản xuất kỹ thuật và thủ pháp nghệ thuật bằng làng có gốc nghề.
Chỉ sau này, khi các trường dạy nghề mở ra, các khoá học thực hành ngắn hạn dài hạn đã tạo nên những thợ trẻ cho nhiều tỉnh, thành phố thì tình hình và hạn chế nói trên có thay đổi tích cực hơn.
2.2.2 Chính sách và pháp luật nhà nước đối với các làng nghề.
Tuy có ý nghĩa tích cực song các quy chế, luật lệ lời thề và lời nguyền trong các làng nghề tộc nghề chỉ có tác dụng giữ nghề của mỗi làng và sản xuất hàng thủ công. ở đó, dường như sự phát triển chỉ khép kín trong từng làng nghề. Mọi quy định rất khắt khe ấy nhằm đề phòng“ mất nghề“ rõ ràng là biểu hiện của tính độc quyền trong nghề nghiệp của người thợ thủ công cổ truyền để đảm bảo phát triển nghề, nảy sinh nhiều làng nghề mới và đào tạo nhiều thợ trẻ trong cả nước cũng như đảm bảo cho các làng nghề phát triển bền vững, nhất thiết phải có hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Dưới chế độ cũ nhà nước phong kiến và nhà nước “ bảo hộ ”, Pháp đã từng ban hành các chính sách phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Đối với nghề dệt thì đến thời Lý( thế kỷ XI ) nhà nước khuyến khích cả nước trồng dâu, nuôi tằm ươm tơ, dệt lụa, không thì ở kinh đô Thăng Long có nhiều làng dệt mà khắp các địa phương đều có các phường nghề tơ lụa, số lượng lúa lúc ấy nhiều đến mức không chỉ đủ dùng cho nhu cầu may mặc của toàn dân mà còn dùng để trang trí, buôn bán nộp thuế cho triều đình và làm cống phẩm cho phương Bắc. Cơ quan Quyến khố ti của Nhà nước chuyên nhiệm vụ thu mua vải lụa trong nhân dân. Triều đình tổ chức ra sở nuôi tằm để đẩy mạnh sản xuất tơ nguyên liệu Gấm vóc của ta lúc bấy giờ nhiều và tốt đủ để thay thế gấm vóc vẫn mua của nhà Tống( Trung Quốc ) - (theo” Đại Việt sử ký toàn thư, quyển II ). Các triều đại phong kiến Việt Nam quản lý sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công của các làng nghề bằng cách thu thuế, chủ yếu là thuế hiện vật( qui định số lượng sản phẩm nộp thuế tính theo đầu dân).
Nhà nước cũng trưng tâp thợ giỏi từ các làng nghề nổi tiếng về kinh đô sản xuất hàng cao cấp cho triều đình. Đó là ở thế kỷ XV, dưới triều Lê, thợ vàng bạc Châu Khê( Hải Dương ) được quan thượng thư Lưu Xuân Tín theo lệnh triều đình đã trưng tập về Thăng Long đúc bạc nén cho nhà nước. Về sau nơi xưởng đúc bạc của họ đã trở thành phố Hàng Bạc nổi tiếng tồn tại đến ngày nay. Không chỉ thợ kim hoàn mà rất nhiều thợ sơn, thợ chạm khắc đá, thợ chạm khắc gỗ, thợ khảm trai thợ dệt... cũng được trưng tập như thế về Thăng Long( Hà Nội ) và Huế theo lệnh của Nhà nước quân chủ phong kiến đương thời.
Những thợ giỏi có công sáng tạo ra những sản phẩm cực kỳ tinh sảo, những công trình nghệ thuật và kiến trúc kỳ vĩ, thường được vua ban thưởng hậu đãi và phong “kỳ tài hầu”, “ Hàn lam đại chiêú”, “ Cửu phẩm bá hổ”... Với chính sách kinh tế trong chiến lược khai thác thuộc địa, người Pháp ở Đông Dương tiến hành những cuộc chấn hưng nghề và làng nghề thủ công Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Họ liên tiếp mở một số trường Mỹ thuật thực hành ở một số tỉnh, thành phố đã đóng vai trò quan trọng trong việc kế thừa và các tân nghệ thuật thủ công của dân tộc.
Trong những thập niên gần đây, hàng loạt chính sách nghị quyết pháp lệnh và luật của Đảng và Nhà nước được ban hành. Đặc biệt là nghị quyết của Bộ chính trị về khoa học kỹ thuật về văn hoá nghệ thuật và nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương khoá VII( 1993 ) đã nêu lên phương hướng phát triển kinh tế văn hoá, xã hội và khoa học kỹ thuật của đất nước. Chủ trương” Hiện đại hoá công nghệ truyền thống và truyền thống hoá công nghệ hiện đại” của Đảng cũng như việc thể chế hoá hàng loạt pháp lệnh, luật, ( như luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật khai thác sử dụng tài nguyên, môi trường, luật Dân sự...) đã tạo môi trường pháp lý cho các nghề và làng nghề nói riêng, cho các hoạt động sản xuất , kinh tế, văn hoá, xã hội nói chung phát triển. Môi trường thể chế - chính sách và pháp luật Nhà nước có ý nghĩa quyết định và trực tiếp tác động đến sự phát triển bền vững đối với các làng nghề thủ công truyền thống nước ta. Chúng ta đang xây dựng một Nhà nước pháp quyền. Nhà nước đã rất quan tâm đến nghề và làng nghề truyền thống, coi đó là bộ phận cấu thành nền kinh tế, văn hoá và xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên phạm vi cả nước.
Đối với Hà Tây - “ mảnh đất trăm nghề “. Tôn vinh, bảo tồn, phát huy cả làng nghề truyền thống đi đôi khuyến khích nhân cấy phát triển nghề mới, gắn bó với khơi nguồn mở đường du lịch là chủ trương lớn của Đảng bộ tỉnh Hà Tây. Nghề thủ công phát triển đã hình thành những làng nghề và số làng nghề ngày càng đông thêm. Nhất là từ khi tỉnh có chủ trương khôi phục phát triển nghề thủ công, nhân cấy nghề thì làng nghề trong tỉnh phát triển khá mạnh.
Năm 1996, toàn tỉnh có 839 làng có nghề CN -TTCN trong đó có 88 làng đạt tiêu chuẩn làng nghế CN - TTCN Hà Tây. Đến năm 2000 toàn tỉnh hà Tây có 972 làng nghề chiếm 66,6% tổng số làng trong tỉnh. Trong đó có 120 làng nghề đạt tiêu chuẩn qui định của tỉnh. Phần lớn số huyện, thị xã phát triển được làng có nghề và làng nghể đạt tiêu chuẩn.
Trong quá trình đổi mới các loại hình doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã công nghiệp, xây dựng tổ hợp sản xuất cùng với kinh tế hộ gia đình phát triển khá nhanh ngay tại trong làng nghề. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong các làng nghề là hạt nhân trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đưa công nghệ sản phẩm theo mẫu mã mới, góp phần xây dựng phát triển nghành nghề, làng nghề.
Tỉnh Hà Tây đang tiến hành xây dựng qui hoạch ngành nghề, qui hoạch đất đai để giải quyết mặt bằng phù hợp cho các công ty, doanh nghiệp, tổ hợp hợp tác xã sản xuất, CN - TTCN trong làng nghề, góp phần khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống của tỉnh. Ngoài ra, tỉnh còn mở rộng các hình thức dạy nghề, truyền nghề bằng cách củng cố các trung tâm dạy nghề, các trường dạy nghề nhằm nhanh chóng đào tạo đội ngũ thợ lành nghề lớn mạnh đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng chất lượng cao để xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.
Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống là một chủ trương lớn của tỉnh Hà Tây nhằm phát triển kinh tế và thu hút khách du lịch đến các làng nghề.
3 Yếu tố phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam.
3.1 Trong sản phẩm thủ công truyền thống, văn hoá tinh thần kết tinh trong văn hoá vật thể.
Những con Rồng, Phượng, Lân được chạm khắc ở các đình chùa, hoa văn trang trí trên các trống đồng, cửa đình men màu trên đồ gốm, sứ, đồ án hoa văn hoạ tiết trên sản phẩm theu dệt vải, lụa, thổ cẩm... trước hết đó là văn hoá vật thể nhưng chúng hàm chứa những quan niệm tư tưởng triết học phương Đông, triết lý về trời - đất - con người, quan niệm về tôn giáo và thần quyền, đặc biệt là triết lý đạo Phật, đạo giáo, đạo Nho( Khổng, Mạnh) và triết lý Kinh Dịch.
Sản phẩm của các làng nghề truyền thống bao giờ cũng phản ánh sâu sắc tư tưởng, tình cảm và quan niệm thẩm mỹ của dân tộc, bản sắc văn hoá của làng nghề. Giá trị mỗi sản phẩm thủ công được khách hàng trong và ngoài nước nhìn nhận chủ yếu từ góc độ văn hoá nghệ thuật dân tộc và sau đó mới đến vấn đề kỹ thuật và kinh tế.
3.2. Một đặc thù khác hết sức quan trọng của hàng thủ công truyền thống, đó là tính cá biệt, tính riêng, mang phong cách của mỗi nghệ nhân và nét đặc trưng địa phương, tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng.
Hàng chạm trổ trên từng chất liệu khác nhau( gỗ, đá, đồng, sừng, xương...), hàng sơn( sơn quang, sơn the, sơn thếp vàng, bạc, sơn màu), hàng thêu, dệt( tơ lụa, chiểu thảm... ) hàng mây tre đan, kim hoàn, đồ chơi...ở mỗi làng nghề đều có máu sắc riêng, từng nghệ nhân cũng có những nét riêng. Những nét riêng đó được thử thách qua thời gian, qua giao lưu, được chon lọc, được thừa nhận để tồn tại và phát triển cùng với sự bổ sung lẫn nhâu, trở thành những kiểu mẫu hoàn thiện, hoàn mỹ cho những sản phẩm cùng loại được sản xuất, chế tác tiếp sau.
3.3 Hàng thủ công truyền thống là loại sản phẩm nghệ thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật, công nghệ truyền thống, phương pháp thủ công tinh xảo, với đầu óc sáng tạo nghệ thuật.
Mô hình biểu diễn.
Phương pháp thủ công tinh xảo.
+
Sự sáng tạo nghệ thuật
Hàng thủ công mỹ nghệ
Giao kết giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo của nghệ nhân và thợ thủ công để tạo ra hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng, và nói chung là sản phẩm thủ công truyền thống.
Sự giao kết này kéo theo những đặc thù khác trong sự phát triển hàng thủ công:
F Tính riêng, tính đơn chiếc mạnh hơn tính đồng loạt.
F Chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính trường phái gia tộc, giữ bí quyết trong sáng tạo hơn là sự phổ cập, phổ biến rộng rãi.
F Đầy chất trí tuệ, tri thức tích tụ lâu đời.
F Sử dụng hàng thủ công phải đồng thời thưởng thức nó nữa( thưởng thức nghệ thuật và tư tưởng, trí tuệ )
Nghiên cứu và hoạch định chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống không thể bỏ qua những nét đặc thù đó. Điều này cũng cần thiết trong việc củng cố và hình thánh óc thẩm mỹ của người tiêu dùng.
3.4 Yếu tố văn hoá đậm nét của hàng thủ công truyền thống đã tạo nên vị trí quan trọng của các sản phẩm này trên thị trường và giao lưu quốc tế.
Xưa nay, người nước ngoài hiểu và yêu mến Việt Nam, làm bạn với nhân dân Việt Nam là qua yếu tố gì? Dĩ nhiên là thông qua, hay chủ yếu, là yếu tố văn hoá. Không coi nhẹ các yếu tố khác, nhưng không thấm nhuần một nền văn hoá nào cả thì mọi hoạt động đều sẽ bị quên đi, ít ra là sẽ tự nó phai nhạt đi.
Thật may mắn hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cũng như bất cứ của một dân tộc nào khác, chất văn hoá lại rất đậm đà. Trên các sản phẩm thủ công truyền thống thường biểu đạt phong cảnh sinh hoạt, con người, cảnh quan, thiên nhiên, lễ hội truyền thống, quan niệm về tự nhiên biểu tượng thần, Phật .. Những nét chấm phá nghệ thuật trên tranh sơn mài, tranh lụa, những bức chạm khắc gỗ, khảm sà cừ... với cánh cò bay, cảnh trúc uốn cong, mái đình, cây đa, con đò bến nước v .v ... đã thể hiện đất nước con người và tâm hồn tình cảm Việt Nam, làm cho người nước ngoài yêu mến nhân dân và đất nước Việt Nam.
Một vấn đề lớn, cũng là một câu hỏi buộc những nước đang phát triển như nước ta phải giải đáp, đó là trong thời đại của nền công nghiệp, công nghệ phát triển cao, chúng ta có thể và điểm mạnh gì để canh tranh với thế giới, để có thể tự cường mà đem“ nói chuyện “ với các nước công nghiệp phát triển nhất, nếu không phải trước hết là những sản phẩm truyền thống, những sản phẩm được làm ra ở trình độ nghệ thuật, kỹ thuật và chất lượng rất cao, mang đậm màu sắc văn hoá“ Việt Nam “, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng nhân dân các nước.
3.5 Yếu tố kinh tế của hàng thủ công truyền thống.
Sản phẩm thủ công được làm ra nhằm đáp ứng yêu cầu sử dụng của người tiêu dùng, đáp ứng cả yêu cầu thực dụng và yêu cầu tinh thần( tâm linh ). Người thợ thủ công sản xuất hàng thủ công, trước hết là do yêu cầu kinh tế và nguồn sống của mình. Do đó sản phẩm thủ công truyền thống tự thân đã là sản phẩm hàng hoá. Chúng được mua bán trao đổi với số lượng rất lớn trên thị trường trong nước và quốc tế xưa và nay, đương nhiên đã, đang và sẽ còn đem lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho đất nước, cũng như cho người thợ ở các làng nghề.
Chương II. Thực trạng của việc phát triển làng nghề truyền thống ven sông Nhuệ
I Sơ lược về sự hình thành và phát triển làng nghề truyến thống.
1 Sự ra đời của làng nghề truyền thống Việt Nam.
Nghề thủ công truyền thống ở nước ta có từ lâu đời. Qua khảo sát dấu vết người vượn ở núi Đọ ( Thanh Hoá ) đã cho thấy hàng vạn công cụ đồ đá ghè đẽo thô sơ như những mảnh tước, rìu tay... Những dấu vết đó, khẳng định một giai đoạn đồ đá cũ của ba bốn ngàn năm về trước. Qua những công cụ đó, ta thấy có dấu ấn lao động thủ công nghiệp thô sơ của cong người. Tới thời kỳ văn hoá Bắc Sơn( buổi đầu của thời đại đồ đá mới ) thấy có rìu mài xuất hiện trên thế giới và những đồ gốm đầu tiên được nặn bằng tay. Bên cạnh đó là những công cụ bằng tre như: gậy, lao, Cung tên, thừng bện.... Tới nền văn hoá Hạ Long thấy có rìu có nhiều vai rìu có nấc bằng đá mài cùng những đồ gốm có hoa văn trang trí nhiều vẻ. . . Như vậy ở nước ta nghề thủ công đã sớm hình thành và có phần đóng góp đáng kể ngay từ thời văn hoá nguyên thuỷ.
Đi dọc quá trình phát triển lịch sử của đất nước, ta càng thấy rõ hơn quá trình hình thành và phát triển nghề thủ công nghiệp. Giai đoạn Phùng nguyên( buổi đầu thời đại đồng thau ) ta thấy có mũi rìu đá mài nhỏ, vòm đá, hạt chồi đa, chuốt gọt tinh vi, dọi xe chỉ đồ đựng bằng đất nung....
Sang giai đoạn đồng Đậu( giữa thời đại đồng thau ) đã có khuôn đúc rìu, mũi tên bằng đồng có ngạnh. Tới giai đoạn Gò Mun( thời đại đồng thau phát đạt thì vô số công cụ sinh hoạt được đúc thau phát triển là dấu vết của thời kỳ văn lang, thời kỳ Hùng Vương lịch sử. Khi con người biết cấy lúa nước, thuần giống và chăn nuôi gia súc, cũng là lúc con người biết trồng gai, đay, trồng dâu chăm tằm ươm tơ dệt vải. Cả vùng đất bãi ven sông Đuống (Bắc Ninh ) trồng dâu và được mang tên “bộ lạc Dâu”, phải chăng minh chứng tơ tằm có từ thời đó sao? Ngoài công cụ sản xuất, đồ trang sức: vòng nhẫn, hoa tai bằng đồng, chuông khèn... Những hoa văn trên gốm, trên vải dệt đã đạt đến mức khéo léo. Những ngôi nhà mái cong hình đuôi én dựng ven sông Mã, những thuyền bánh lái, đó là dấu vết bàn tay tài hoa của người thợ mộc. Dấu tích từ thời văn hoá Đông Sơn đã khẳng định rõ điều này, trống đồng Ngọc Lũ và tháp đồng Đào Thịnh( khai quật ở Yên Bái ) đẫ chứng minh trình độ thủ công của thời kỳ dựng nước thật là tinh xảo. Qua các dấu tích đó cũng nhận thấy xã hội thời đó đã biết phân công nhân lực trao đổi kinh nghiệm lao động hay nói cách khác là đã biết tổ chức lao động.
Khi nước Âu Lạc ra đời thì kỹ thuật rèn sắt càng phát triển. Ngay thế kỷ III sau Công Nguyên, người dân trong vịnh Bắc Bộ đã dùng lưới sắt để khai thác san hô. Và ông tổ nghề rèn Lư Cao Sơn chính là bằng chứng của vận động, tạo hình nghề nghiệp. Các nghề nung gạch làm ngói cũng hình thành. Nghề làm giấy cũng phát triển, các loại giấy dó, giấy trầm hương là sản phẩm thủ công rất quí. Năm 248, lái buôn La Mã mua ở nước ta ba vạn tờ giấy trầm hương để dâng vua Tấn. Các nghề nấu thuỷ tinh, khảm Xà cừ, sơn thêu, thuộc da, làm công cụ, nấu rượu cũng phát triển mạnh.
Tới thời Lý - Trần - Lê nghề thủ công càng phát triển rực rỡ. Kỹ nghệ men gốm dệt, điêu khắc, kiến trúc... đã lên đến đỉnh cao của một giai đoạn lịch sử. Nhiều sứ thần từ nước ngoài về, du nhập nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp mới, các phường, các chợ phát triển nơi nơi. Các làng nghề thủ công mọc dày thêm dọc triền sông Đuống, sông Hồng, sông Đáy... Các thể chế của nhà vua khuyến khích người thợ thủ công sản xuất. Các cửa khẩu bắt đầu mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài. Trong sách sử Tông nghi” năm 1040, Lý Thái Tông quyết định dùng gấm vóc trong nước để may lễ phục cho vua quan, không mua gấm vóc nước ngoài nữa...” ở thời Lê, Nhà nước đã ban hành thống nhất cách tính và kích thước một số hàng hoá như vải lụa giấy... và cùng thời kỳ này số lượng đường bán ra nước ngoài lên tới hàng vạ tạ một năm.
Thời kỳ thịnh vượng của ngành thủ công truyền thống đó đã để lại những vùng quê thủ công như gốm Bát Tràng, gốm Thổ Hà, gốm Hương Canh... Những công trình kiến trúc đẹp như chùa Phật Tích, chùa Dam đình đình Bảng, Tháp Phổ Minh, Tháp Bình Sơn, khu Văn Miếu,
Thời chúa Trịnh, nhà Mạc Chúa Nguyễn, chiến tranh liên miên, nền kinh tế nước ta bị suy sụp. Các công nghệ đều trì trệ. Thuế khoá nặng nề, các khoá phường tợ tan dã. Đời sống của người thợ thủ công lâm vào thời kỳ gian nan nhất. Suốt thời Nguyễn, thủ công nghiệp của nước ta không còn tiến triển. Tiếp theo đó là chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm nhập vào nước ta, nghề thủ công của ta lại càng tàn lụi. Hàng hoá của tư bản Pháp như đường, vải, giầy... tràn ngập thị trường trong nước chất lượng hàng tốt, giá hạ nên phần lớn hàng thủ công của ta không cạnh tranh nổi. ở các thành phố lần lượt các nhà máy sản xuất đồ tiêu dùng mọc lên. Các cửa hàng thủ công buộc phải nhường chỗ hoặc phải phát triển theo hướng mới. Nhiều nghề bị phá sản như kéo sợi, nghề tơ lụa, nghề dệt vải. Những năm 1885, 1886, 1891... một số xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng của thực dân Pháp xây dựng ở Sài Gòn và Hà Nội hàng bóp nghẹt các lò, các xưởng thủ công. Tuy vậy một số nghề thủ công vẫn tiếp tục phát triển vì máy móc tư bản không thể thay thế được bàn tay khéo léo của người thợ. Các nghề đan lát, mộc, gốm, khảm trai vẫn phát triển ngoài ý muốn của thực dân Pháp bởi sản phẩm của nó được dân ưa thích vì vừa tiện, vừa túi tiền người tiêu dùng.
Nhìn chung, trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ khả năng phát triển của ngành thủ công rất chậm.. Điều kiện nguyên liệu và tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, thêm phần thuế khoá nặng nề và đời sống của người thợ gặp nhiều bấp bênh. Đến năm 1954 thủ công nghiệp miền Bắc nước ta bước sang một giai đoạn mới được nhà nước khuyến khích phát triển. Nhiều ngành nghề mới được phát triển, nhiều ngành nghề truyền thống xưa bị bỏ quên nay lại được khôi phục lại.
Phong trào hợp tác hoá đã đưa những thợ thủ công từ sản xuất cá thể chuyển sang sản xuất tập thể. Các tổ hợp và các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp được thành lập và đến ngày 6/6/1962 đại hội đầu tiên của những người thợ thủ công trên toàn miền Bắc được tổ chức, đã thông qua điều lệ và bầu ra ban chủ nhiệm trung ương lãnh đạo toàn ngành. Từ đó ngành tiểu thủ công nghiệp có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay, trong hoàn cảnh đất nước nghề thủ công nghiệp trong cả nước có điều kiện để tiến lên trong giai đoạn mới của cách mạng. Tại các làng nghề truyền thống đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp làm ăn có quy mô lớn, nhiều ngành nghề đã hội nhập được với tiến độ sản xuất của các nước lân cận và các nước trong khu vực. Không ít người thợ đã trở thành những ông chủ lớn. Nhiều làng nghề cổ truyền đã biến thành những trung tâm sản xuất mạnh. Bộ mặt và lối sống của làng xóm đã có nhiều đổi thay.
2. Tình hình hoạt động và quá trình phát triển làng nghề Hà Tây.
Hà Tây có gần 100 làng nghề truyền thống với hơn 120 nghề có giá trị: Sơn mài, khảm trai, điêu khắc, thêu ren, tơ lụa, đẽo tượng, hàng song mây giang tre, nón lá, rèn. Sản phẩm làng nghề khiến cho ai biết đến đều đam mê, ao ước có được trong cuộc sống.
Hà Tây là vùng đất cổ, nằm sát thủ đô Thăng Long - trung tâm kinh tế chính trị văn hoá của cả nước, đã diễn ra các mối quan hệ mật thiết với kinh đô. Hàng trăm năm nay quê hương Hà Tây đã cung cấp nhiều nhân tài, vật dụng quý báu, bồi đắp tinh hoa cho đất nước. Làng nghề của Hà Tây có khắp các huyện như: Phú Xuyên, ứng Hoà, miền đồi gò Chương Mỹ, Thạch Thất. Đồng bằng Hà Đông, Thanh Oai, Thường Tín hay vùng núi Bần, không huyện nào trong tỉnh là không có làng nghề.
Nghề thủ công truyền thống phát triển đã hình thành những làng nghề và số làng nghề ngày càng thêm đông. Nhất là từ khi tỉnh Hà Tây có chủ trương khôi phục và phát triển làng nghề thủ công, nhân cấy nghề mới thì làng nghề trong tỉnh đã phát triển khá mạnh. Năm 1996, toàn tỉnh có 839 làng nghề CN - TTCN. Trong đó có 88 làng đạt tiêu chuẩn làng nghề CN - TTCN Hà Tây. Đến năm 2000 tỉnh đã có 972 làng có nghề, chiếm 66,6% tổng số làng trong toàn tỉnh, trong đó có 120 làng nghề đạt tiêu chuẩn quy định của tỉnh. Hiện nay số làng nghề tiếp tục phát triển trong toàn tỉnh. Phần lớn số huyện, thị xã, phát triển được làng nghề và làng nghề đạt tiêu chuẩn. Những huyện đã phát triển được nhiều làng nghề là Phú Xuyên có 23 làng, Thường Tín có 24 làng, Thanh Oai 20 làng, Hoài Đức 10 làng nghề...
Trong quá trình đổi mới, các loại hình doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã công nghiệp, xây dựng, tổ hợp sản xuất cùng với kinh tế hộ gia đình phát triển khá nhanh ngay trong làng nghề. Đến nay toàn tỉnh có khoảng hơn 80 công ty trách nhiệm hữu hạn, 35 doanh nghiệp tư nhân, 6 hợp tác xã công nghiệp, xây dựng, 100 tổ sản xuất và hơn 130 nghìn hộ gia đình tham gia làm nghề CN - TTCN. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong các làng nghề là hạt nhân trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, đưa công nghệ sản xuất theo mẫu mã mới, góp phần xây dựng phát triển ngành nghề làng nghề..
Ngành nghề Hà Tây rất đa dạng và phong phú. Làng nghề phần lớn là những làng nghề có nghề cổ truyền được khôi phục, duy trì. Làng nghề mới hình thành phát triển là do tìm được nghề phù hợp với địa phương, sản phẩm sản xuất ra phù hợp với thị trường, có kỹ thuật kỹ năng tinh xảo. Hoạt động trong làng nghề chủ yếu là các hộ gia đình, là các thành viên của các loại hình doanh nghiệp sản xuất trên diện rộng khắp cả làng, có nơi cả xã và phát triển ra cả một vùng, như La Phù ( Hoài Đức ), Phú Túc ( Phú Xuyên ).
2.1 Giá trị sản xuất chung của làng nghề Hà Tây.
Năm 1996 trong số làng nghề tiêu chuẩn số hộ làm nghề CN - TTCN, giá trị sản xuất của 88 làng nghề là 716,3 tỷ đồng, trong đó sản xuất CN - TCN: 448,2 tỷ đồng chiếm 62,6%, kinh doanh dịch vụ 90,1 tỷ đồng chiếm 24,8%.
Năm 2000, giá trị sản xuất của 120 làng nghề đạt tới 1045 tỷ đồng ( tăng 329 tỷ đồng so với 1996), trong đó sản xuất CN -TTCN: 653,6 tỷ đồng (tăng 329 tỷ đồng so với năm 1996), về kinh doanh dịch vụ chỉ đạt 141,4 tỷ đồng (chiếm 13,4%) sản xuất nông nghiệp đạt 250,8 tỷ đồng ( chiến 24%). Những ngành hàng được phục hồi phát triển nhanh, mạnh như thủ công mỹ nghệ, mây tre đan phát triển ở 48 làng đạt 108,8 tỷ đồng. Ngành dệt may có 14 làng đạt giá trị 201 tỷ đồng, ngành chế biến lương thực, thực phẩm có hầu hết ở các huyện, thị xã với số lượng lao động tham gia khá đông.
2.2. Lao động trong các làng nghề.
Tổng số lao động tham gia trong các làng nghề năm 1996 là 110,9 ngàn người, trong đó lao động CN - TTCN: 76,4 ngàn người chiếm 61,2%. Năm 2000, số lao động của 120 làng nghề lên tới 161,2 ngàn người, trong đó, lao động CN - TTCN đạt được 107 ngàn người chiếm 66,4%( tăng 330,7 ngàn người), lao động làm dịch vụ 12,6 ngàn người, chiếm 7,9%, lao động nông nghiệp thuần nông chỉ có 41,3 ngàn người chiếm 25,7%.
2.3. Thu nhập của các hộ dân trong các làng nghề.
Thu nhập bình quân của một hộ dân trong làng nghề cả năm( 1996 ) theo ngành nghề CN - TTCN đạt 3,2 triệu đồng/ năm, kinh doanh dịch vụ 2,9 triệu đồng/ năm, nông nghiệp 1,9 triệu/ năm.
2000 - thu nhập bình quân của một hộ dân lao động trong ngành CN - TTCN là 4 triệu đồng/ năm, kinh doanh dịch vụ 3,4 triệu đồng/ năm, nông nghiệp chỉ 1,6 triệu đồng.
2.4. Công nghệ và vốn phục vụ cho phát triển làng nghề.
Công nghệ sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là thủ công, ở một số làng và một số ngành nghề từng công đoạn đã được cơ khí hoá, có làng đã mua sắm nhiều máy móc chuyên dùng, đi vào chuyên môn hoá như sản xuất nguyên liệu từ phế liệu ở Phùng Xá, sản xuất nha ở Ninh Dương, Mộc Trang Sơn, công nghệ ở một số làng buổi đầu đã được đổi mới.
Vốn là yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất của làng nghề trong cơ chế thị trường. 1996, các làng nghề đã tự đầu tư 346 tỷ đồng để khôi phục phát triển sản xuất, trong đó vốn cố định 207,6 tỷ đồng chiếm 60%. Vốn lưu động là 138 tỷ đồng chiếm 40%.
Đến năm 2000, đã đầu tư là 458 tỷ đồng( tăng 112 tỷ đồng ), trong đó vốn cố định là 297 tỷ đồng chiếm 65%( tăng 90 tỷ đồng ) vốn lưu động 160,3 tỷ đồng chiếm 35%( tăng 22,8 tỷ đồng ).
Nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh trong các làng nghề đòi hỏi ngày càng lớn để đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị mới sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, hoặc dùng để mua nguyên vật liệu... Nhưng trên thực tế cho thấy nhiều làng nghề, nhất là các hộ gia đình vẫn gặp rất nhiều khó khăn và còn nhiều hạn chế về vốn để thúc đẩy hoạt động sản xuất.
2.5. Thị trường và việc tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề truyền thống Hà Tây.
Sản phẩm của các làng nghề truyền thống được hình thành theo các ngành, chủ yếu là ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống, các sản phẩm dệt may, hàng giả da, sơn mài, mây tre đan đã được suất khẩu đến các vùng Đông Âu - Liên Xô cũ, Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Băc Mỹ... tính đến 2000, giá trị xuất khẩu khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó có sản phẩm làng nghề đã đạt 189 tỷ đồng, những huyện có sản phẩm xuất khẩu đạt giá trị cao như Thường Tín, Phú Xuyên, Chương Mỹ. Sản phẩm ở làng có nghề còn đa dạng về chủng loại được phát triển trong các làng nghề như chế biến nông sản thực phẩm, cơ kim khí, các sản phẩm thủ công phục vụ tiêu dùng là nguyên liệu, bán thành phẩm cung ứng cho thị trường sản xuất công nghiệp ngoài tỉnh và trong tỉnh.
Vấn đề thị trường và tiêu thụ sản phẩm đang là vấn đề phải quan tâm hàng đầu có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của làng nghề. Một thực tế hiện nay là các làng nghề tiêu thụ còn chậm. Như hàng khảm trai, sơn mài, nha, tinh bột sắn các loại và các hàng thủ công mỹ nghệ do thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp.
Nhìn chung sản xuất kinh doanh của các làng nghề hiện nay vấn là hình thức tự tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm là chính hoặc muốn tiêu thụ sản phẩm còn phải qua nhiều khâu trung gian dẫn tới làm giảm thu nhập của người lao động trong các ngành nghề thủ công và các làng nghề thủ công. Trước tình hình đó, cần phải có sự hỗ trợ của các ngành các cấp từ tỉnh đến trung ương, các tổ chức xúc tiến thương mại trong cả nước.
2.6. Đào tạo nghề trong các làng nghề Hà Tây.
Sự hoạt động của làng nghề có sức thu hút lao động rất lớn, song lại mang tính đặc thù còn có của mỗi nghề. Dạy nghề - truyền nghề - kèm nghề, du nhập nghề mới về làng để có được trình độ tay nghề nhất định làm ra sản phẩm được thị trường chấp nhận, và sau khi học trở thành thợ thủ công độc lập là một nhân tố quan trọng phát triển làng nghề. Với sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền sự tham gia tích cực của các ngành đoàn thể như Hội phụ nữ, Hội nông dân, Thanh niên, Cựu chiến binh, các nhà doanh nghiệp, các nghệ nhân theo phương châm kết hợp nhà nước hỗ trợ - nhà doanh nghiệp giúp đỡ, nông dân đóng góp. Trong năm năm qua( 1996 – 2000 ) toàn tỉnh đã mở được 449 lớp học nghề với 19,4 ngàn học viên theo học. Số người sau khi học xong nghề đã có 17,3 ngàn người chiếm 80% số học viên theo học được bố trí việc làm ngay trong sở sản xuất đã là hạt nhân trong các làng nghể mới hình thành, vấn đề đào tạo để sử dụng được sức lao động tại chỗ ngay trong các vùng nông thôn làm nghề tiểu thủ công nghiệp vừa là mục đích vừa là động lực cho sự phát triển làng nghề Hà Tây trong những năm qua.
Tóm lại, trong những năm gần đây, hoạt động sản xuất và phát triển làng nghề đã và đang ngày một khởi sắc. Mặc dù kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực kéo dài, đầu tư nước ngoài và sức mua của thị trường giảm... nhưng sản xuất CN - TTCN của làng nghề vẫn tăng cả về số lượng và chất lượng.
Các sản phẩm của các làng nghề như : Mây tre đan, thủ công mỹ nghệ, dệt lụa tơ tằm, điêu khắc sơn mài... ngày một tăng. Góp phần phục vụ nội địa, xuất khẩu và phục vụ du lịch.
Việc phát triển và mở rộng làng nghề thu hút được lực lượng lao động ở các vùng nông thôn, góp phần thực hiện chương trình việc làm xoá đói giảm nghèo của tỉnh, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và góp phần thay đổi định hướng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, việc khôi phục và phát triển làng nghề trong những năm qua của tỉnh Hà Tây còn gặp phải những khó khăn và tồn tại. Bên cạnh những thành công còn có những mặt hạn chế sau. Hầu hết các làng trong tỉnh chưa được quy hoạch. Sự phát triển ở một số làng còn mang tính tự phát quy mô sản xuất nhỏ bé, phân tán thiếu sự quản lý của lãnh đạo của các cấp chính quyền địa phương. Đặc biệt là hoạt động du lịch ở các làng nghề hầu như chưa có hoặc nếu có thì chưa được quan tâm thoả đáng để phát huy thế mạnh của nó.
Cơ sở hạ tầng ở một số làng nghề hiện tại đang có những mâu thuẫn với sự phát triển nhất là mặt bằng sản xuất chật hẹp, đường giao thông xuống cấp, điện thiếu công suất. Khi doanh nghiệp cần mặt bằng để xây dựng để mở rộng sản xuất còn gặp không ít những khó khăn, về luật đất đai và lệ làng cản trở.
Ngoài ra, nguyên vật liệu cho một số ngành sản xuất còn khan hiếm. Trang thiết bị chủ yếu của làng nghề vẫn là thủ công nửa cơ khí, chưa được đổi mới ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của sản phẩm.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa được mở rộng, nhất là thị trường suất khẩu mẫu mã của sản phẩm chậm được cải tiến, sức cạnh tranh còn kém. Việc vay vốn của các tổ chức tín dụng, ngân hàng còn gặp nhiều vướng mắc, và việc tranh thủ và huy động sự hỗ trợ của các nguồn vốn khác bên ngoài còn hạn chế.
Hoạt động sản xuất ở một số các làng nghề, phát triển, nhất là ở một số các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm, cơ khí, dệt nhuộm, đã phát sinh gây ô nhiễm môi rường, có nơi đẫ lên đến mức báo động, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ đời sống cộng đồng. Đó đang là vấn đề bức súc và việc giải quyết nó vẫn còn rất nan giải, vệ sinh - an toàn công nghiệp trong sản xuất ở một số làng chưa đảm bảo.
Đó là một số khó khăn mà các làng nghề Hà Tây đang gặp phải, yêu cầu đặt ra là phải có những biện pháp khắc phục những tình trạng khó khăn, tìm ra nguyên nhân để khắc phục nó, nhằm đưa làng nghề ngày một phát triển mạnh hơn, đời sống nhân dân ngày một cải thiện đem lại lợi nhuận cao cho tỉnh Hà Tây.
II Hoạt động phát triển của bốn làng nghề truyền thống dọc Sông Nhuệ.
1 Đặc điểm chung của làng nghề truyền thống Hà Tây.
Hà Tây từ lâu được coi là “mảnh đất trăm nghề”. Trong luỹ tre làng, những người thợ thủ công chăm chỉ miệt mài làm ra những sản phẩm thủ công tử đơn giản đến phức tạp phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng hàng ngày. Những mặt hàng thủ công cao cấp như lụa tơ tằm, gỗ chạm khắc, khảm trai, hàng thêu ren cũng nổi tiếng từ nhiều năm nay. Lụa Hà Đông, điêu khắc Nhân Hiền, sơn mài Chuyên Mỹ, giầy da Phú Yên.. được người ta biết đến từ lâu đời nay.
Ngành nghề và làng nghề ở Hà Tây rất đa dạng, phong phúc. Làng nghề phần lớn là những làng nghề cổ truyền được khôi phục duy trì. Trung tâm tơ lụa Hà Đông, với làng dệt Vạn Phúc lừng danh của ta mà sản phẩm tới hàng trăm loại lụa là, gấm vóc, the, đũi được làm ra ở một trình độ cao, tinh tế và hoàn mỹ bậc nhất, khôn thua kém hàng cùng loại của Trung Quốc và Nhật Bản. Làng Chuyên Mỹ có nghề khảm trai lâu đời, sản phẩm cua Chuyên Mỹ ngày càng đa dạng, phong phú về mẫu mã với nhiều mặt hàng mới như sập gụ, tủ chè, cuốn thư, bàn ghế nhiều sản phẩm từ cốt lứa để tạo ra các loại chim, lọ bát, hộp tráp,... Làng nghề điêu khắc Nhân Hiền có nghề điêu khắc từ rất lâu đời. Trước đây, nghề điêu khắc chỉ dừng lại ở việc làm hoành phi, chạm trổ các hình rồng phượng nơi chốn cung đình. Sau hoà bình lập lại hàng điêu khắc được giới thiệu và xuất khẩu đi nhiều nước. Ngoài làm tượng gỗ, người Nhân Hiền còn khắc trên đá đặc biệt là khắc hình người trên đá phục vụ nhu cầu trong nước. Làng giầy da Phú Yên cũng phát triển mạnh, hầu hết các hộ trong thôn đều tham gia đóng giầy. Từ những vật liệu trong nước, các nghệ nhân có thể cho ra đời những đôi giầy vừa rẻ, bền, đẹp.
2. Thực trạng phát triển của bốn làng nghề truyền thống ven sông Nhuệ. Gồm 4 làng : Vạn Phúc, Nhân Hiền, Ngọ Hạ, Phú Yên .
2.1 Làng Vạn Phúc.
Thôn Vạn Phúc - Xã Vạn Phúc - Thị xã Hà Đông.
Tổng số hộ:
1112.
Số hộ sản xuất CN - TTCN
657 hộ chiếm tỷ lệ 59%.
Tổng lao động
2558 người.
Trong đó lao động SX CN -TTCN
1321 người chiếm 59%.
Tổng giá trị sản xuất
11.01 tỷ đồng.
Thu nhập bình quân( TNBQ )
2,3 triệu đồng/ người/ năm.
TNBQ từ sản xuất CN -TTCN
2,2 triệu đồng/ người/ năm.
2.1.1 Lịch sử Vạn Phúc.
Làng Vạn Phúc nằm ở ngoại thị Hà Đông tỉnh Hà Tây từ xa xưa đã nổi tiếng là một vùng que có nghề dệt lụa và từ đó lụa Vạn Phúc gắn liền với địa danh Hà Đông.
“ Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”. Giai điệu trầm bổng ngọt ngào ấy đã đi vào tâm trí con người vào lời ca của một bài hát “ áo lụa Hà Đông”, để gợi cho ta một điều tinh tế trong văn hoá trang phục và ăn mặc của người con gái với chất lụa tơ tằm Vạn Phúc. Và cứ như vậy trải qua mấy trăm năm nay, nghề dệt lụa đã trở thành nghề truyền thống của làng Vạn Phúc.
Tương truyền rằng tổ nghề của làng Vạn Phúc là bà Lã Thị Nga được phong thành hoàng làn. Bà sống giữa thế kỷ 7,8 khi nước nhà bị đô hộ. Thời ấy dân ta phải luôn đem những sản vật quý của đất nước đi cống nộp cho bọn đô hộ các sản phẩm cống nộp là: lụa, sa, the...Các cụ trong làng kể lại Bà Lã Thị Nga, con một hào phú ỏ làng Cao Bằng, một lần theo chồng đi kinh lý tới ấp Vạn Bảo, thấy đất đai thơ mộng, bà xin ở lại lập ấp dạy dân trồng dâu, nuôi tằm dệt cửi, mang lại nghề dệt lụa cho dân Vạn Phúc. Trong hậu cung của đình làng nơi thờ bà họ Lã, vẫn bày các thúng Sơn, thước Son, kéo bắng sứt, vạch bằng ngà là những đồ dùng của thợ may. Bà là thành hoàng làng của Vạn Phúc và dân làng vẫn lấy ngày sinh của bà mồng 10 tháng 8 âm và ngày mất 25 tháng 12 là ngày tế lễ và giỗ tổ.
Nhờ có bà mà nhân dân Vạn Phúc ngày này càng giàu đẹp phát triển đi lên cùng nghề dệt lụa. Ngày nay, nhân dân Vạn Phúc vẫn không quên công lao của bà và đang từng bước đi lên xây làng mình trở thành làng mạnh về kinh tế, văn hoá, xã hội văn minh, môi trường sách đẹp.
2.1.2 Những tác động về kinh tế của làng nghề.
Lụa Vạn Phúc có tiếng từ xưa là thứ vải có chất liệu sang trọng dành cho các tầng lớp quan lại, nhà giàu, và dùng để cúng tiến vua chúa, triều đình. Ngày nay, cơ chế mở cửa, thị trường lụa Vạn Phúc có điều kiện vươn xa, không chỉ dành cho các du khách ngoại quốc mà cũng được nhân dân trong nước ưa chuộng. Lụa Vạn Phúc vẫn có tiếng van may áo, may váy vừa đẹp, vừa mát lại hợp vệ sinh trông thật sang trọng và thanh lịch. Những mét lụa Vạn Phúc sản phẩm của một làng nghề ven đô luôn luôn được đánh giá là thứ hàng sang trọng, đẹp nức tiếng bao đời nay.
Vừa đặt chân đến đầu ngõ, nơi đầu làng vào Vạn Phúc, một ngôi làng vừa cổ, vừa hiện đại, du khách sẽ thấy ngay những cửa hàng, cửa hiệu giới thiệu và trưng bày sản phẩm với đủ màu sắc sặc sỡ. Từ đầu thế kỷ 20, lụa Vạn Phúc không chỉ dừng lại ở mặt hàng lụa đơn thuần mà đã phát triển rât đa dạng phong phú như vân, the, đũi tuýt so, lụa hoa văn hoa các loại. Những sản phẩm này đã vươn xa ra các thị trường nước ngoài như Thái Lan, Lào, sang Pháp, Nhật Bản tham gia các hội chợ Mácxây, Nam Vang( Campuchí ), Viên Chăn( Lào ), có sáu nghệ nhân được tặng bằng khen và các phần thưởng ở hội chợ này. Qua đó, khách du lịch đánh giá: hàng dệt lụa Vạn Phúc trở thành thứ sản phẩm tinh xảo, thể hiện trình độ cao của tay nghề người thợ Vạn Phúc. Nghề dệt lụa phải trải qua nhiều thời kỳ phát triển thăng trầm.
Thời kỳ hợp tác xã làm ăn tập thể, lúc này chủ yếu làm gia công cho nhà nước theo kế hoạch, có xã có khoảng 359 máy dệt thủ công và một số máy chạy điện, sản lượng trung bình khoảng 450.000 m/ năm. Sau ngày giải phóng Miền nam, hợp tác xã mua thêm 120 máy dệt từ Sài Gòn chuyển ra, cơ sở vật chất được nâng dần lên. Thời kỳ biến động chính trị Đông Âu, làng nghề có lúc thăng trầm, sản phẩm khó tiêu thụ, đã có lúc tưởng như nghề dệt đã mai một.
Sau những năm 1991, thời kỳ cơ chế quản lý thay đổi, nghề dệt cũng chuyển về hộ gia đình hơn 100 máy dệt chuyển cho xã viên. Từ đây, làng nghề dệt Vạn Phúc hoạt động theo quy mô hộ, hợp tác xã chỉ còn là đơn vị kinh doanh dịch vụ, cung ứng kỹ thuật.
Cơ chế đổi mới của nhà nước tạo điều kiện cho nghề dệt mở rộng và phát huy khả năng kỹ thuật, thu hút các lớp thợ có tay nghề cao và đào tạo thêm những lớp trẻ vào làm nghề. Thêm vào đó thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng được mở rộng, thúc đẩy các nghệ nhân làng nghề thay đổi mẫu mã, tìm tòi nhiều kiểu mới, phong phú và đa dạng Các hộ gia đình cũng đầu tư mua sắm thêm cơ sở, vật chất, máy móc, trang thiết bị. Năm 1992 là 150 máy dệt, đến năm 2000 là 750 máy, 2001 trên 1000 máy. Trung bình mỗi hộ gia đình có từ 2 - 4 máy, sản lượng dệt hàng năm tăng gấp 7-8 lần những năm mới chuyển đổi cơ chế. Sản phẩm lụa Vạn Phúc hiện nay rất đa dạng phong phúc, nhiều là lụa hoa, the, vân, sa, đũi. Cũng có nhiều loại lụa chất lượng trung bình dành cho những người lao động bỉnh thường. Nhưng cũng có loại lụa có chất lượng cao, đòi hỏi tay nghề và kỹ thuật cao.
Công nghệ dệt lụa cũng khá phức tạp và qua nhiều khâu. Với sợi dọc thì từ tơ nguyên liệu đánh ống, mắc theo trục dọc( một mắt cửi có từ 6000 đến 8000 sợi phải 4000 răng ), đưa vào dệt sơi ngang thì từ sợi tơ ta đánh suốt đưa vào con thoi đưa lên dệt. Khi dệt xong, khâu nhuộm rất quan trọng. Nhuộm tẩy chuột là kỹ thuật độc đáo, cả xã Vạn Phúc chỉ có 20 hộ nhuộm, trong đó có một hộ kỹ thuật nhuộm cao cấp theo kinh nghiệm gia truyền. Sau nhuộm là đưa sang phơi( sấy cán ) qua đánh thước rồi trở thành lụa Vạn Phúc.
Nghề dệt lụa đã trở thành nghề sản xuất chính của nhân dân Vạn Phúc, thu hút phần lớn số lao động trong làng từ người già đến trẻ em đều say sưa với nghề. Cũng từ nghề dệt lụa đã hình thành nên một nhóm hệ thống dịch vụ xung quanh làng nghề, xưởng kỹ thuật, công cụ kỹ thuật cải tiến hoa văn cung ứng vật tư nguyên liệu, tẩy nhuộm, đội ngũ dịch vụ tiêu thụ sản phẩm... để có làng khép kín từ khâu công nghệ, nguyên liệu đến hoàn thành sản phẩm hàng hoá.
Tóm lại: Nền kinh tế Vạn Phúc đã có những bước phát triển thăng trầm, có những lúc tưởng chừng như mai một, nhưng chính lúc đó nhân dân trong làng lại càng quyết tâm giữ cho được nghể truyền thống của mình. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây kinh tế Vạn Phúc đang ngày một phát triển đi lên. Tính đến năm 2001 sản xuất thủ công nghiệp ở Vạn Phúc chiếm 63,5% hộ dân trong làng. Thu nhập của người dân hiện nay là 520000 - 570000 đ/tháng. Đời sống của nhân dân trong làng được cải thiện - dẫn đến sức mua đồ dùng sinh hoạt, vật chất ngày càng gia tăng. Kinh tế phát triển tạo điều kiện cho văn hoá - xã hội - giáo dục được cải thiện và nâng cấp.
2.1.3 Những tác động về văn hoá xã hội của làng nghề .
Nghề dệt lụa Vạn Phúc không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế, mà còn thể hiện nét đẹp văn hoá của người Việt nam. Và tấm lụa Vạn Phúc cũng thể hiện nét đẹp về văn hoá Vạn Phúc. Con người Vạn Phúc cũng hết sức nhạy cảm và tinh tế phát huy những truyền thống tốt đẹp của cha ông để lại, người dân trong làng Vạn Phúc cùng nhau giữ nghề truyền nghề và bảo vệ nghề cho con cháu muôn đời sau trong làng. Nhân dân trong làng cùng nhau xây dựng làng trở thành một trong những làng văn hoá đầu tiên của tỉnh Hà Tây.
Trong cơ chế thị trường, khi mà toàn thể đất nước đang từng ngày từng giờ thay đổi, Vạn Phúc cũng theo đó mà đi lên phát triển kinh tế. Nhưng không vì thế mà văn hoá truyền thống của làng bị mai một. Họ đã tiếp thu những tinh hoa, những văn minh tiên tiến của đô thị, của nước ngoài kết hợp với phong tục tập quán truyền thống quê hương để làm giàu thêm và phong phú hơn cho văn hoá của làng xã mình. Đó chính là nếp sống xưa - hoà quyện với nếp sống hiện đại, văn hoá truyền thống xưa hoà quyện với văn hoá ngày nay để cùng tồn tại và hội nhập. Toàn nhân dân Vạn Phúc kêu gọi” toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn hoá “ đạt kết quả cao: 95% số hộ trong làng được đánh giá là gia đình văn hoá.
Nhờ có những chính sách mới về văn hoá của đảng và nhà nước, nhân dân trong làng cũng đoàn kết hơn. Việc tổ chức lễ hội, mừng thọ, tiệc cưới, việc tang và các hoạt động tình nghĩa khác chu đáo, tiêt kiệm.. tình làng nghĩa xóm càng thêm mật thiết gắn bó. Các phương tiện thông tin truyền thông được khai thác dười nhiều hình thức, truyền tin sáng tạo phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của địa phương.
2.1.4 Những tác động về môi trường của làng nghề.
Cảnh quan môi trường - đường xá sạch đẹp, 100% ngõ xóm trong làng được bê tông hoá, ý thức về việc bảo vệ môi trường của người dân ngày càng được cải thiện, do giáo dục về môi trường và bảo vệ môi trường của cán bộ xã.
Tuy nhiên, trong làng vẫn có ô nhiễm đặc biệt là ô nhiễm tiéng ồn, ảnh hưởng đến tâm lý đến việc nghe của nhân dân trong làng. Ngoài ra còn ô nhiễm nguồn nước. Hầu hết các dung dịch nhuộm vải của các hộ gia đình đều đổ xuống cống, xuống đất sông hồ, ảnh hưởng đến đời sống của người dân trong làng. Hầu hết các chất thải này đều rất độc và chưa qua xử lý.
Làng Vạn Phúc hiện nay đang trên đà đổi mới mà phát triển ngày một khởi sắc. Số hộ giàu lên ở vùng quê cách mạng này ngày một nhiều hơn, số hộ đói nghèo giảm đến mức thấp nhất. Làng nghề phát triển thu hút 100% số lao động đều có việc làm ổn định kể cả người già và em nhỏ., thu nhập bình quân 500 - 600 ngàn đồng một lao động. Đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của làng ngày được cải thiện và nâng cao. Lụa của làng Vạn Phúc ngày càng phong phú đa dạng về mẫu mã, chất lượng, ngày càng được cải thiện, nó sẽ chiếm lĩnh thị trường, sánh ngang với sản phẩm lụa cao cấp của Hàng Châu (Trung Quốc ), hay Miến Điện ( Myama ). Ngành dệt lụa Hà Đông đã vực dậy một sức sống mới trong cơ chế mới, không hề phai nhạt bản sắc vốn có của một làng nghề truyền thống Việt Nam. Mãi mãi lụa Vạn Phúc vẫn làm đẹp cho cuộc đời bằng những sản phẩm mịn màng mổi tiếng của một sản phẩm văn hoá đặc sắc Việt Nam.
Một Số Hình ảnh Về Làng Lụa Vạn Phúc.
Chủ Tịch Nước Lê Đức Anh Về Thăm Làng Vạn Phúc Hà Đông 1994.
Nhuộm Tơ Tằm Bằng Phương Pháp Thủ Công.
2.2 Làng Điêu Khắc Nhân Hiền .
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển.
Làng nhân Hiền thuộc xã Hiền Giang Huyện Thường Tín. Trước đây Nhân Hiền vốn có tên là Cổ Hiền. Thời Lê ở Cổ Hiền có Nguyễn Trung Quán thi đỗ tiến sĩ năm 1700 làm quan trong triều. Người dân Nhân HIền rất tháo vát đảm đang. Ngôi chợ làng đông vui tấp nập là chỗ để chị em phụ nữ làng Nhân HIền trổ tài khôn khéo đảm đang. Còn đàn ông ở Nhân Hiền lại biết rất nhiều nghề, nổi tiếng nhất là nghề chạm trổ. Các cụ trong ban chấp hành người cao tuổi cho biết, thợ mộc làng Nhân Hiền nổi tiếng cả nước.
Thời nhà Nguyễn, các hoàng đế cho xây dựng lâu đài cung điện, các quan ở bộ công đã về tận Nhân Hiền để tìm thợ chạm khắc và nhiều cụ ở địa phương đã được triệu vào kinh đo Huế làm việc. Các cụ còn cho biết thêm, thời Pháp có cụ làng Nhân Hiền được mời về Hà Nội đóng tủ sách cho thư viện Quốc Gia, mặt hàng tinh xảo đó đã được đưa đi đấu xảo rất được khen ngợi. Nghe nói tủ sách này hiện vẫn để ở thư viện Quốc Gia Hà Nội, nhiều hiệp thợ mộc có tay nghề nổi tiếng trong nước tìm đến tham quan, song cho đến nay vẫn chưa có tay thợ nào đóng nổi chiếc tủ tiện lợi như thế.
Từ xưa nhiều nghệ nhân, thợ giỏi làng Nhân Hiền từng góp sức làm các công trình kiến trúc nổi tiếng của nhà nước như Văn Miếu( Hà Nội ), đình làng Đỉnh Bảng( Bắc Ninh ), đình làng Hoàng Xã( Hà Tây )… Sau khi hoà bình lập lại, hàng điêu khắc được giời thiệu và xuất khẩu đi nhiều nước. Sản phẩm chủ yếu mà những người thợ Nhân Hiền làm ra là tượng phật, tượng Di Lặc. Ngoài làm tượng gỗ, người Nhân HIền còn khắc trên đá. Đặc biệt là khắc hình người trên bia phục vụ nội địa rất nhiều. Những nghệ nhân giỏi ở Nhân HIền thời nào cũng có, cụ ứng Trọng Nhân có nhiều kinh nghiệm trong việc chạm phù điêu chân dung và phong cảnh. Bất kể bằng chất liệu gỗ hay sừng, ngà cụ đều tạo được những kỳ công tuyệt đẹp ví như tác phẩm giỏ cua. Cái giỏ với chất liệu ngà chỉ to bằng ngón chân cái mà cụ diễn tả đầy đủ chi tiết như miệng hom, từng chiếc nan, nhìn kỹ lại thấy cả một đàn cua bò trong giỏ, bên ngoài giỏ là những con cua rất sống động. Một tác phẩm nữa là đàn ba ba cũng rất hấp dẫn người xem.. Ngoài công việc sáng tạo, cụ còn truyền dạy nghề cho thợ ở hợp tác xã. Nghệ nhân Hoàng Văn Thiều vừa sáng tác vừa dạy nghề, đẫ một thời làm giáo viện dạy nghề có uy tín ở trong trường Mỹ Nghệ của tỉnh Hà Tây. Nay tuổi cao, cụ đã nghỉ hưu, song công việc sáng tạo luôn thôi thúc cụ truyền lại những kinh nghiệm cho lớp thợ trẻ của xóm làng( Tạp chí dân tộc học số 1- 1991).
2.2.2 Thực trạng của làng nghề.
2.2.2.1 Văn hoá.
Các di tích lịch sử văn hóa.
Làng Nhân Hiền không chỉ được công nhận là làng nghề mà còn là làng văn hoá. Làng có Đình, có Chùa với khuôn viên rộng, nhiều cây cổ thụ bao quanh, kiến trúc cổ kính. Thời Tự Đức dân làng được ban tặng biển ngạch Mỹ tục khả phong đưa về treo ở quán chợ. Bấy giờ chợ Cầu Chiếc của Hiền Giang nổi tiếng đông vui. Quán chợ năm gian rộng lớn, dân tứ xứ đế họp chơm thường đến chiêm ngưỡng, thời kháng chiến chống Pháp chợ bị thiêu huỷ, bức biển ngạch cũng bị mất luôn. Gần đây dân làng trùng tu lại đinh, đang có dự kiến khôi phục lại biển ngạch, hiện nay ban di tích đã cho viết bốn chữ Mỹ tục khả phong ở cửa đình làng Nhân Hiền.
Cũng như nhiều làng quê khác của Hà Tây, làng Nhân Hiền đã đăng ký xây dựng làng văn hoá mới theo tiêu chuẩn của UBND tỉnh ban hành. Chi bộ và nhân dân Nhân Hiền đã biết gạn đục khơi trong những truyền thống tốt đẹp của dân làng được hun đúc qua bao thế hệ đang được phát huy mạnh mẽ. Cuộc sống ở đây đang nhộn nhịp, hối hả, ngôi chợ làng vẫn đông vui tấp nập. Hàng hoá ở các nguồn Thường Tín, Thanh Oai, lân cận vẫn ùn ùn đưa về đây đã góp phần làm cho cuộc sống của dân làng thêm phong phú. Chợ họp vẫn đông vui, nhưng quán chợ không còn, biển ngạch không còn. Tuy thế, tinh thần của tấm biển khen vẫn luôn in đậm trong lòng người dân Nhân Hiền, hơn thế nữa nó vẫn hàng ngày, hàng giờ nhắc nhở mọi người trong làng phải biết làm gì để gìn giữ những mỹ tục tốt đẹp ấy.
Các lễ hội truyền thống gắn với làng nghề.
Hàng năm, hội làng Nhân Hiền được tổ chức từ 10 – 13 tháng giêng âm lịch thu hút đông đảo khách thập phường tới dự hội. Từ ngày 10 dân làng tổ chức rước thành Hoàng làng là Lỗ Văn Tiên Sinh ra Văn trai sau đó đén 13 lại rước về đình. Ngoài ra, trong hội còn có rất nhiều họat động và trò chơi bổ ích cho mọi người tham gia.
2.2.2.2 Những tác động của làng nghề đối với kinh tế.
Tình hình kinh tế của Nhân Hiền ngày càng phát triển mạnh. Ngày xưa, chủ yếu sống bằng nông nghiệp bây giờ điêu khắc trở thành nghề chính, có 67% dân số trong làng làm nghề này.
Theo thống kê của sở công nghiệp Hà Tây thì:
Tổng số hộ
Trong đó:Hộ sản xuất CN - TTCN
494( Hộ )
360( Hộ ), chiếm tỷ lệ 73%
Tổng số lao động
Trong đó: Lao động SX CN - TTCN
1235( Người )
617( Người ), chiếm tỷ lệ 50%
Tổng giá trị sản xuất
Trong đó: Giá trị SX CN - TTCN
4,41( Tỷ đồng )
1,89(Tỷ đồng ), chiếm tỷ lệ 43%
Thu nhập bình quân( TNBQ )
TNBQ từ sản xuất CN-TTCN
1,35( Triệu đồng )/ người/ năm
2,15 (Triệu đồng )/ người/ năm
Sản phẩm của Nhân Hiền không chỉ được tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu đi nhiều nước Đài Loan, Hồng Kông, Campuchia, Lào, ấn độ, Thái Lan... ở Nhân Hiền hình thành nhiều xưởng sản xuất với quy mô vừa và nhỏ thu hút được lực lượng lao động lớn trong làng và những làng lân cận đến làng làm thuê. Nhiều ông chủ lớn ở các nơi về tận làng để đặt hàng như xưởng gỗ Bác Trúc, xưởng gỗ bác Tân, xưởng đá Phú Ninh... đều là những xưởng có uy tín trong làng.
ả Đánh giá.
Làng nghề điêu khắc Nhân Hiền ngày càng phát triển với quy mô lớn. Thủ công nghiệp đã chiếm phần lớn thu nhập của người dân. Sự phát triển của làng nghề đã làm tăng thu nhập của người dân và giúp Nhân Hiền trở thành thôn giàu mạnh nhất xã Hiền Giang. Tuy nhiên, ở đây không có hợp tác xã phát triển làng nghề, đầu ra cho sản phẩm không ổn định nên các xưởng sản xuất thì chủ yếu sản xuất theo đơn đặt hàng. Điều quan trọng là Nhân Hiền chưa biết kết hợp khai thác du lịch ở làng nghề của mình. Nếu du lịch được kết hợp khai thác cùng với phát triển làng nghề thì nên kinh tế của Nhân Hiền ngày càng phát triển bởi lúc này không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là làm nghề để bán sản phẩm mà phát triển du lịch sẽ kèm theo nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân Nhân Hiền.
Một Số Hình ảnh Về Làng Điêu Khắc Nhân Hiền
Chùa Làng Nhân Hiền –Hiền Giang –Thường Tín –Hà Tây.
Sản Phẩm Điêu Khắc Làng Nhân Hiền .
2.3 Làng Nghề Trai Thôn Ngọ. (thôn Ngọ Hạ xã Chuyên Mỹ huyện Phú Xuyên)
Lịch sử hình thành và phát triển.
Làng Ngọ Hạ có nghề khảm lâu đời, người có công truyền dạy nghề cho dân làng tương truyền là cụ Nguyễn Kim và Trương Công Thành ( dân làng kể về tổ nghề đều nhắc đến cả hai cụ ). Ngày đó, do sự tình cờ mà cụ tổ phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của các vỏ trai dưới ánh sáng mặt trời. Cụ mang về mài dũa, gắn lên một số đồ dùng, thấy đẹp, từ đó cụ luôn nghĩ ra các hình mới để trang trí lên trên các đồ dùng, dần dần cụ đem những kinh nghiệm đó truyền lại cho con cháu, dân làng. Hiện nay, người kế tục được truyền thống nghề là nghệ nhân Nguyễn Văn Tố. Với kỹ thuật tinh xảo, cụ đã sáng tác và đưa nhiều đề tài mới có tính dân tộc và nghệ thuật khảm như đề tài các anh hùng dân tộc trong lịch sử, các tích Kiều... Nhiều bậc thợ ở làng nhờ cụ truyền dạy kinh nghiệm đã trở thành các thợ giỏi có tên tuổi như Nguyễn Thuyết Trình, Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Văn Dinh, Nguyễn Văn Liêm... và hàng ngũ thợ trẻ tài năng này nay đã đi khắp mọi miền trong nước, làm ra những sản phẩm đẹp phục vụ nhân dân và xuất khẩu, đồng thời họ cũng tham gia truyền lại nghề cho nhiều địa phương.
Sản phẩm sập gụ, tủ chè, tủ chùa, quả trầu, bình phong, hộp đồ trang sức... sơn khảm trai với nhiều mẫu mã đáp ứng thị hiếu tiêu dùng, đảm bảo chữ tín và chất lượng cao. Nếu người hoạ sĩ dùng sơn màu, thuốc vẽ, người thợ thêu dùng chỉ màu và chất liệ thể hiện sinh động thực tiễn cuộc sống thì người thợ khảm chỉ dùng vỏ trai, xã cừ. Vỏ trai có nhiều loại, trai cánh mỏng vỏ, sẫm màu, trai thịt trắng vỏ dầy mình... Các loại vỏ trai, ốc hến có ở vùng Quy Nhơn, Đà Nẵng, Nha Trang... Ngày càng nhiều người đã ra tận nước ngoài mua nguyên liệu về sản xuất. Mỗi vật phẩm khảm trai đã phản ánh thời đại và tính hữu dụng thẩm mỹ thật cầu kỳ huyền bí, những chân dung, hình hài người lao động” hoa lá, cây cỏ, núi non, cảnh vật” soắn quện với nhau trong cuộc sống thật sinh động. Người thợ bỏ nhiều công phu sáng tác, vẽ, bào, cưa, đục mạn, hạ mặt tranh khảm, mài, đánh bóng hoàn thiện một sản phẩm như một tác phẩm nghệ thuật hấp dãn khiến lòng người ngơ ngẩn.
2 3.2 Thực trạng của làng nghề.
2.3.2.1 Văn hoá.
2.1.1 Các di tích lịch sử văn hoá.
Làng khảm chuôn Ngọ, xã chuyên Mỹ là một ngôi làng có truyền thống văn hoá lâu đời, tồn tại hàng nghìn năm cùng với tuổi của làng nghề. Hiện nay, trong làng vẫn còn giữ được nét truyền thống của làng quê Việt Nam. Làng có cả đình và chùa với kiến trúc cổ kính và khuôn viên rộng rãi. Đặc biệt, ở làng Chuôn Ngọ trân trọng thờ Tổ nghề khảm tại ngôi đền giữa làng, trên khuôn viên vừa phả có công trình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, xung quanh là những cây cổ thụ ước tính vài trăm tuổi.. Cỗ ngai, bài vị thờ ở chính cung và nhiều đồ thờ tôn vinh Tổ nghề. Bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá của Nhà nước ta treo trang trọng tôn vinh danh nhân tổ nghề khảm.
2.1.2 Các lễ hội truyền thống gắn với làng nghề .
Ngoài những ngày kỷ niệm chung của cả nước, tiền lệ của làng hàng năm có nhiều ngày lễ được tổ chức vào mũa xuân. Hội làng được tổ chức vào ngày 15- 3 âm lịch là ngày giỗ cụ Tổ nghề Bản Cảnh thành Hoàng Đại Vương Tôn Trương Công Thành. Trong những ngày này đình, chùa, đền, miếu trong làng đều mở cửa để dân làng và khách thập phương đến làng dâng hương hành lễ, và dân làng tổ chức tế lễ mở hội rước kiệu quanh làng và tổ chức các trò chơi để tỏ lòng biết ơn các bậc hiền nhân có công với nước với làng.
2.3.2.2 Những tác động của làng nghề đối với kinh tế.
Theo thống kê và xếp hạng tiêu chuẩn làng nghề Hà Tây năm 2000 thì làng nghề khảm trai thôn Chuôi Ngọ xã Chuyên Mỹ huyện Phú Xuyên có:
Tổng số hộ:
Trong đó: Hộ SX CN - TTCN
420 ( hộ )
238( hộ ) chiếm tỷ lệ 56,5%
Tổng số lao động
Trong đó lao động SX CN - TTCN
1237 người.
705( người ) chiếm tỷ lệ 57,8%.
Tổng giá trị sản xuất.
Trong đó giá trị sản xuất CN – TTCN
5,4( Tỷ đồng )
3,25( Tỷ đồng ) chiếm tỷ lệ 60%
Thu nhập bình quân(TNBQ )
TNBQ từ sản xuất CN - TTCN
1,41( Triệu đồng/ người/ năm )
2( Triệu đồng/ người/ năm )
Nghề khảm Ngọ Hạ qua năm tháng đã trải qua bao bước thăng trầm. ở làng Ngọ, xã chuyên Nỹ có tới 70% số hộ có lao động theo nghề khảm và tham gia các hoạt động dịch vụ phục vụ cho phát triển ngành nghề. Từ cái nôi, điểm xuất phát của nghề khảm trai tại làng Ngọ, đến nay nghề này đã lan ra cả bốn thôn khác là thôn Trung, thôn Thượng, thôn Đồng Vinh và thốn Bối Khê, vừa làm khảm trai, vừa chế biến trai phục vụ cho nghề. Có thể nhắc đến Chuyên Nỹ là một xã nghề. Nừu tính giá trị thu nhập từ ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Chuyên Mỹ chiến tới 72% tổng giá trị và đây chính là nguồn thu nhập khá giúp cho Chuyên Mỹ trở nên giàu có. Mặc dù biến động của thời gian, nhiều lúc gian truân, chìm nổi nhưng Chuyên Mỹ vẫn giữ được một hợp tác xã thủ công ngày càng có tiếng đó là hợp tác xã sơn khảm Ngọ Hà. Ra đời từ năm 1960, với phương thức tổ chức tập trung, những năm 1970 hàng thủ công Ngọ Hạ đã có mặt ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ. Đã có thời điểm bốn hợp tác xã thủ công của xã Chuyên Mỹ được hợp nhất lại thành một hợp tác xã, giải quyết việc làm cho hơn ngàn lao động. Vào lúc khó khăn, hợp tác xã lại được tách ra và từ năm 1990 hợp tác xã Ngọ Hạ vẫn duy trì sản xuất tiếp tục làm hàng khảm lựa theo cơ chế thị trường. Từ năm 1990 đến 1994 các mặt hàng như tủ chè, sập gụ, tượng, khay chè... tiêu thụ rất chạy ở nước bạn Lào và được khách hàng ưa chuộng. Quá trình trưởng thành và đi lên của hợp tác xã là một chặng đường thăng trầm, ảnh hưởng của cơ chế nên ngày càng tìm ra những quy luật, giải pháp, làm ăn có hiệu quả. Hàng khảm không chỉ tiêu dùng nội địa theo thị hiếu Việt Nam, mà sản phẩm Chuyên Mỹ đã có mặt ở thị trường nước ngoài cùng với các nước khó tính chưa quen hàng Việt Nam như Anh, Hà Lan, Nhật, Mỹ và hơn 10 nước trên thế giới.
Khảm trai, ốc là công đoạn cuối cùng để hoàn thành sản phẩm, nhưng các mặt hàng khảm có thể chia ra làm 2 mảng lớn như:
Khảm trai, ốc trực tiếp trên các sản phẩm mộc như gỗ, đồng, đồi mồi...
Khảm( trai, ốc ) sơn mài.
Người thợ làng Ngọ có thể thực hiện bất kỳ hình vẽ nào dù tinh tế và phức tạp đến mức nào. Công việc rất nghệ sĩ này đã tự khẳng định và thể hiện tính độc đáo, trí tuệ nhờ vào đôi tay khéo léo, uyển chuyển của những người thợ Chuyên Mỹ.
Sản phẩm của Chuyên Mỹ ngày càng đa dạng phong phú về mẫu mã, với nhiều mặt hàng mới. Mới đây, hợp tác xã thủ công sơn khảm Ngọ Hạ còn làm nhiều sản phẩm từ cót nứa( đã ngâm nứa rất kỹ ) để tạo ra các loại chum, lọ, bát, hộp tráp, đĩa... xuất sang các nước Nam Mỹ và Anh Quốc. Điều đáng quý là ở đây luôn giữ chữ tín cho nghề, thợ Chuyên Mỹ không làm hàng kém phẩm chất để ảnh hưởng đến uy tín của nghề. Hàn sơn khảm Ngọ Hạ đã nhận được nhiều phần thưởng cao như Huy chương vàng triển lãm hội chợ Giảng Võ năm 1998, Bộ văn hoá thể thao công nhận di tích văn hoá vào năm 1996, uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây công nhận đạt tiêu chuẩn làng nghề năm 2000.
Người thợ Chuyên Mỹ ngoài sản xuất tại địa phương từ rất sớm còn bôn ba khắp nơi để truyền nghề, làm nghề. ở hà nội có phố Hàng Khay, phố của những người thợ khảm Chuyên Mỹ với nhiều cửa hàng sang trọng và nhiều thành phố khác cũng bày bán mặt hàng Ngọ Hạ. Trong sự phát triển đi lên của khoa học kỹ thuât, cải tiến và hiện đại một số công đoạn để giảm sức lao động, tăng năng suất và hiệu suất để tăng khối lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội. Trải qua bao đời nay, người thợ khảm vẫn bảo vệ được truyền thống lao động và sáng tạo được truyền thống lao động và sáng tạo của cha ông để giữ mãi tiếng thơm cho một làng nghề của Việt Nam. Hàng sơn khảm Ngọ Hạ ngày càng phong phú đáp ứng thị hiếu trong nước và thị trường nước ngoài, trở thành một ngành mỹ nghệ dân gian, một nghệ thuật để tôn vinh vẻ đẹp cho cuộc sống con người. Từ nơi phồn hoa đô hội, các khách sạn sang trọng hay những ngôi nhà cổ kính, đến các biệt thự có hạng, hàng sơn khảm Ngọ Hạ như một thứ không thể thiếu được làm tăng thêm vẻ đẹp hiện đại, lộng lẫy thể hiện sự giàu sang mà bàn tay, và khối óc người thợ Chuyên Mỹ đã tạo ra. Xưa kia, hôm nay và mãi mãi mai sau chắc rằng mặt hàng sơn khảm Ngọ Hạ, làng nghề Chuyên Mỹ, Phú Xuyên vẫn phát huy nét đẹp và tiềm năng, xứng đáng là nơi lưu giữ và sản xuất ra thứ sản phẩm đẹp và quý cho muôn người, muôn đời sau.
Đánh giá.
Nhìn chung làng nghề khảm trai thôn Ngọ Hạ - Phú Xuyên là một làng nghề truyền thống lâu đời và ngày nay đang được khôi phục và phát triển mạnh. Phát triển và mở rộng nghề khảm đã giúp người dân Chuyên Mỹ được cải thiện đáng kể về mặt đời sống kinh tế và văn hoá tinh thần. Đặc biệt, do sự phát triển của làng nghề đòi hỏi sự ra đời và phát triển hợp tác xã làng nghề Ngọ Hạ, nơi đây chính là nơi tập trung sản xuất và tìm đầu ra cho sản phẩm của người dân.
Hơn nữa, nơi đây đã trở thành một trong những điểm du lịch làng nghề của tỉnh Hà Tây và hàng năm đã thu hút được số lượng lớn khách du lịch cả nội địa và quốc tế.
Tuy nhiên, do người dân vẫn chưa ý thức được việc thu hút khách du lịch để phát triển làng nghề và làm tăng thu nhập là rất cần thiết. Và chưa có được đầu tư nhiều để phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ khách du lịch.
Một Số Hình ảnh Về Khảm Trai Ngọ Hạ.
Đền Thờ Cụ Tổ Nghề Khảm Ngọ Hạ -Chuyên Mỹ.
Sản Phẩm Khảm Trai Ngọ Hạ .
2.4 Giầy Da Phú Yên. (Gồm 2 thôn Giẽ Thượng và Giẽ Hạ thuộc huyện Phú Xuyên)
2.4.1 Lịch sử hình thành thành làng nghề Phú Yên.
Khác với nhiều làng nghề Việt Nam, làng nghề giầy da Giẽ Thượng, Giẽ Hạ, xã Phú Yên( Phú Xuyên ) đã có cách đẩy trên 100 năm. Các cụ ở đây kẻ lại rằng, làng giầy của quê hương bên cạnh chiếc cầu Giẽ anh hùng này vốn thăng trầm chìm nổi. Người đầu tiên của xã đi học nghề giầy da là cụ Nguyễn Lương Nghé người thôn Giẽ Hạ. Cụ học ở hiệu giầy người Tàu Lý Dịp ở Tràng Tiền - Hà Nội. Vào những năm kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, nghề giầy mai một đã có lúc tưởng rồi nghề sẽ mất theo… những lúc ấy, nhiều cụ giỏi nghề bậc nhất, nhì làng đã rời quê lên các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, để hành nghề nơi đô hội. Hiệu giầy Nguyễn Mạc có tiếng ở Hải Phòng là người làng Giẽ Hạ chính gốc. Cụ Nguyễn Mạc đã từng đi dự triển lãm giầy da tại Pari - Pháp. Ngày nay có cụ Trần Hữu Tiểu, cụ Đỗ Quang Gia và một số cụ khác… là những nghệ nhân giỏi của làng Giầy, chính các cụ là những người trực tiếp truyền nghề cho hậu thế hệ chúng ta hôm nay.
Từ khi đổi mới, nghề giầy da phát triển đến mức nổi tiếng như ngày nay. Khác với trước đây, các cụ giỏi nghề mà vẫn phải bôn ba thiếu thốn, giờ đây Phú Yên đã giàu có và thay đổi bộ mặt quê hương từ chính nghề giày da này.
2.4.2 Kinh tế ( sản xuất và sản phẩm ) của Phú Yên.
Ngày nay, do có đường lối đổi mới của Đảng đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng lên, nhu cầu ăn ngon mặc đẹp đó là sự phát triển của xã hội, nhờ đó nghề truyền thống của xã Phú Yên được khôi phục và phát triển mạnh tập trung vào hai thôn, thôn Giẽ Hạ và thôn Giẽ Thượng. Nghề giầy da thật sự phát triển và khởi sắc từ những năm 1990. Đặc biệt từ năm 1995 nghề giày da càng trở nên hấp dẫn, thu hút nhiều lao động, khối lượng sản phẩm làm ra tăng nhanh và có thị trường tiêu thụ khắp cả nước.
Theo thống kê hiện nay cả xã Phú Yên có 1100 hộ thì có tới 650 hộ, chiếm hơn 60% số hộ của xã tham gia vào sản xuất nghề giầy da.
Từ bảng báo cáo“ Kết quả thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội - năm 2002 “ cho biết:
Tổng thu nhập giá trị 18.337.500.000 đ tăng so với năm 2001 là 11,3%, trong đó thu từ tiểu thủ công nghiệp là: 10.537.500.000 tăng so với năm 2001 là 10,8%.
Bình quân thu nhập đầu người 4.270.000 đ tăng so với 2001 là 10,8%. ( UBND xã Phú Yên, số 12. BC/ UB ngày 25 - 12 - 2002 cung cấp )
Giầy da Giẽ Thượng là sản phẩm quên thuộc của đa phần người dân vùng nông thôn bởi hình thức đẹp, đa dạng chủng loại và giá trị kinh tế lại phù hợp với thu nhập của từng người. Nghề làm giầy da xuất hiện chưa phải là lâu ở Giẽ Thượng, nhưng nó lại nhanh chóng phát triển và ngày càng mở rộng.
Thống kê của thôn Giẽ Thượng - xã Phú Yên - huyện Phú Xuyên cho biết:
Tổng số hộ:
Trong đó hộ sản xuất CN-TTCN
273( Hộ)
160( Hộ ), chiếm tỷ lệ 59%
Tổng số lao động
Trong đó lao động SX CN-TTCN
550( Người )
338( Người ), chiếm tỷ lệ 61%
Tổng giá trị sản xuất
Trong đó giá trị SX CN-TTCN
5,61( Tỷ đồng )
3,87( Tỷ đồng ), chiếm tỷ lệ 68%
Thu nhập bình quân( TNBQ )
TNBQ từ sản xuất CN-TTCN
3,99( Triệu đồng/ người/ năm )
5,5( Triệu đồng/ người/ năm )
(Sách Làng nghề Hà Tây 2001 )
Từ những vật liệu trong nước vừa rẻ, đẹp, lại cộng với sự khéo léo, chính xác của người thợ đóng giầy đã cho ra đời những đôi giầy da có kiểu dáng hợp thời trang, giá thành hợp lý. Vì thoả mãn được hai yêu cầu đó nên sản phẩm giầy da Giẽ Thượng được dùng phổ biến ở nông thôn nó không chỉ đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng bình dân mà còn nâng mức sống của người thợ đóng giầy.
Cùng với Giẽ Thượng, nghề đóng giầy da cũng phát triển ở Giẽ Hạ. Hầu hết các hộ gia đình trong thôn đều tham gia nghề đóng giầy. Làng nghề thu hút được nhiều lao động sản xuất ở qui mô vừa và nhỏ chủ yếu là qui mô gia đình. Đây cũng chính là nguồn thu chủ yếu của người dân trong thôn ngoài việc sản xuất nông nghiệp.
Theo thống kê của thông Giẽ Hạ - xã Phú Yên - huyện Phú Xuyên cho biết:
Tổng số hộ
Trong đó hộ sản xuất CN-TTCN
210( Hộ )
120( Hộ ), chiếm tỷ lệ 57%
Tổng số lao động
Trong đó lao động SX CN-TTCN
365( Người )
277( Người ), chiếm tỷ lệ 76%
Tổng giá trị sản xuất
Trong đó giá trị SX CN-TTCN
3,36( Tỷ đồng )
2,12( Tỷ đồng ), chiếm tỷ lệ 63%
Thu nhập bình quân( TNBQ )
TNBQ từ sản xuất CN-TTCN
3,58( Triệu đồng/ người/ năm )
5,57( Triệu đồng/ người/ năm )
(Sách Làng nghề Hà Tây 2001)
Nhiều năm qua, nghề truyền thống giầy da được lưu giữ và truyền lại cho thế hệ trẻ, vì vậy làng nghề ngày càng phát triển, lớp trẻ cũng gắn bó với nghề. Nghề phụ đã trở thành nghề chính của làng, tỷ trọng của nghề thủ công chiếm tới 65% trong tổng số thu nhập toàn thôn. “ Chất lượng tốt, giá cả phù hợp, mẫu mã đẹp ” - đó là tiêu chí mà làng nghề hướng tới để cho sản phẩm của mình có thể cạnh tranh trên thị trường.
Cài hay của nghề giầy là tổ chức sản xuất ở trong nhà không mất qúa nhiều diện tích nhà xưởng và không gây độc hại, ảnh hưởng nhiều đến đời sống con người và môi trường thiên nhiên. Bên cạnh đó ưu thế của nghề này thu hút rất đông lao động, giải quyết hết số lao động của xã và nhiều xã xung quanh, lúc nào cũng đủ việc làm nhất là những khi vào các tháng giáp Tết. Nghề giầy sử dụng được cả lao động chính và phụ, cả người gìa và trẻ em đều có thể làm được trong những công đoạn của nghề giầy. Đây cũng là ưu điểm mạnh tích cực để hạn chế mâu thuẫn dư thừa lao động một vấn đề xã hội tồn tại ở nông thôn. Nhà nhà, người người ở Phú Yên mải miết tập trung chăm lo lao động tham gia vào nghề giầy da để tăng thêm thu nhập, làm giàu chính đáng từ đôi bàn tay yêu nghề của quê hương họ.
Với phương thức sản xuất đưa về các hộ gia đình, tổ chức bố trí lao động hợp lý và tranh thủ thời gian lao động nhàn rỗi, các hộ luôn phát huy tốt năng suất lao động và đảm bảo chất lượng sản phẩm. ở Phú Yên có đủ các loại mốt, đủ mẫu mã giầy, dép theo thị hiếu khách hàng và yêu cầu của thị trường. Các mẫu mã luôn được thay đổi thường xuyên theo đơn đặt hàng của những hợp đồng và phù hợp với con mắt sành sỏi của khách hàng. Bên cạnh những lớp thợ có tay nghề cao vừa tự sáng tạo, thay đổi kiẻu dáng, cải tién mẫu mã, các hộ ở Phú Yên còn sẵn sàng sản xuất theo mẫu mã của khách, có đủ những loại giầy dép kiểu mới nhất các loại giầy ngoại, dép ngoại luôn đa dạng và phong phú. Theo yêu cầu của thị trường, người quê hương Phú Yên đưa giầy, dép đi chào hàng, tiêu thụ khắp các tỉnh, thành trong cả nước và mở nhiều cửa hàng, đại lý xuất hàng bán buôn cho nội địa. Chỉ cần đưa mẫu, ký hợp đồng là các hộ ở Phú Yên thực hiện giao hàng đúng hạn, đủ tiêu chuẩn đến tận tay khách hàng. Đã có rất nhiều hợp đồng lớn hàng ngàn, hàng vạn đôi giầy, dép đủ loại được sản xuất ra ở Phú Yên bảo đảm chất lượng và thoả mãn yêu cầu của khách.
Theo ông chủ tịch UBND xã Phú Yên, sản phẩm giầy da củ Phú Yên ngày càng được hoàn thiện cả về mẫu mã kiểu dáng và thẩm mỹ, kỹ thuật nên được người tiêu dùng rất ưa chuộng. Sản phẩm của Phú Yên đã có mặt trên thị trường cả nước, nhiều lần đưa giầy da, dép đi triển lãm, hội chợ được đánh giá cao và dành nhiều phần thưởng quí, trong đó có cả sản phẩm được chọn giới thiệu đưa đi chào hàng ở Trung Quốc.
Kỹ thuật, công nghệ sản xuất giầy da của Phú Yên có hai công doạn chính trước khi đánh bóng hoàn chỉnh một đôi giầy đẹp đó là: Khâu làm mũ và khâu làm đế. Trước đây hầu như các công doạn này đều làm thủ công bằng đôi tay là chính. Với sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến và hiện đại nó dần được chuyển sang thao tác bằngmáy vừa nhanh vừa nâng cao năng suất lao động. Nguyên liệu chính là da được chuyển ra từ Sài Gòn, Hà Nội còn nếu da ngoại thì nhập từ ý và Đài Loan. Da được đưa vào máy dẩy da cho mỏng đi sau đó làm mũ theo các loại mẫu đã đặt sẵn. Cả làng có 3-4 hộ mua máy dẩy da đầu tư khoảng 10 triệu một máy có thể dẩy cho cả xóm đủ nguyên liệu. Còn máy may thì bình quân một hộ ở Phú Yên có khoảng 2 máy, nhiều hộ thuê thêm lao động, họ có điều kiện sản xuất giầy thường phải sử dụng 3-5 lao động, nhiều hộ nhận thợ về làm thê luôn cho chủ hộ. Khâu làm đế vào phom, đóng và ép có thể dùng tay khâu hoặc ép bằng máy. Cũng là những công đoạn ấy nhưng mỗi hộ đều có nghệ thuật riêng, tay nghề của từng loại thợ cũng khác nhau nên có chất lượng sản phẩm đẹp, xấu khác nhau. Chỉ cần nhìn vào đôi giầy, người thợ Phú Yên có thể nhận ra chủ sản xuất của nó mà không sợ nhầm lẫn .
Nghề giầy Phú Yên ngày càng có thị trường rộng lớn và được khách hàng ưa chuộng. Nguồn thu nhập từ sản xuất buôn bán, kinh. Hiện nay, giá giầy phổ thông ở Phú Yên trung bình khoảng 100-120 ngàn một đôi.
à Cuộc sống ấm no và hạnh phúc thể hiện rõ trên nét mặt hân hoan của mỗi người dân Phú Yên trong thời kỳ đổi mới hôm nay. Làng nghề Phú Yên trở thành một làng nghề giầy da truyền thống giầy tốt hơn giá khoảng 300 ngàn đồng một đôi. ở phố Khâm Thiên( Hà Nội ) có tới 10 hộ là người Phú Yên làm chủ mở cửa hiệu giầy có tiếng rất ăn khách, kinh doanh giầy ngày càng cao và thêm nhiều hộ làm ăn phát đạt. Những gia đình có thu nhập cao một năm lợi nhuận 30-40 triệu đồng, số hộ có 10-20 triệu đồng một năm ngày càng nhiều. Đời sống kinh tế và cuộc sống của người dân vùng trũng Phú Yên đã trở thành xã khá của Phú Xuyên trong đó có 25% số hộ dã trở nên giàu có, 35% số hộ xếp vào diện khá, cả xã chỉ còn 3% số hộ nghèo.được UBND tỉnh Hà Tây quyết định cộng nhận. Phát huy truyền thống ấy, nhân dân Phú Yên luôn phấn đấu giữ vẻ đẹp những tinh hoa của truyền thống để con cháu noi theo.
2.4.3 Văn hoá.
ả Các di tích lịch sử văn hoá.
Phú Yên với truyền thống văn hoá lâu đời còn lưu giữ được nhiều đình chùa cổ kính. ở đình làng Giẽ Thượng và Giẽ hạ đều thợ thành Hoàng làng. Đình làn được công nhận di tích lịch sử văn hoá từ thời vua Quang Trung, đình và chùa ở Phú Yên hiện giờ vẫn giữ được những nét kiến trúc cổ kính, trầm mặc. Khuôn viên chùa đình có một không gian rộng rãi, thoáng đạt. Tuy nhiên, vì trong quá trình chiến tranh do biến động của súng đạn phá hoại nên đền thờ tổ nghề giày da của xã Phú Xuyên chưa được xác định rõ ràng vào ngày nay.
ả Các lễ hội truyền thống gắn với làng nghề.
Hoà chung vào các lễ hội cổ truyền của đất trăm nghề Hà Tây. hàng năm, vào ngày 11-1 Âm lịch thôn Giẽ Thượng tổ chức hội làng và ngày 12-6 Âm lịch thôn Giẽ Hạ cũng no nức với ngày hội làng. Đến với lễ hội của xã Phú Yên, du khách sẽ gặp được những lễ nghi tôn thờ các thần linh trong tín ngưỡng của dân cư nông nghiệp với lễ tế thần… cùng những màn biểu diễn nghệ thuật dân tộc và các trò chơi dân gian như múa rối nước, đấu vật, kéo co, đánh cờ người, thổi cơm thi.
Với mùa lễ hội vào những ngày xuân thời tiết ấm áp, đất trời tinh tế sẽ thu hút khách du lịch trong và ngoài nước du thuyền thong thả trên dòng sông Nhuệ ghé vào Phú Yên cầu phật, tham gia những lễ nghi tôn giáo tín ngưỡng linh thiêng.
Chùa Làng Giẽ Hạ- Phú Yên- Phú Xuyên.
2.5 Đánh giá chung.
2.5.1 Những mặt tích cực và hạn chế đối với việc phát triển của bốn làng nghề nói trên.
u Về kinh tế:
ả Nghề thủ công truyền thống đã trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của người dân và tăng đần qua các năm. Thu nhập bình quân một lao động trong làng nghề 1996 theo ngành nghề công nghiệp thủ công nghiệp( CN - TCN ) đạt đựoc 3,2 triệu đồng/ năm, kinh doanh dịch vụ 2,9 triệu đồng/ năm. Trong khi đó làm nông nghiệp thuần nông 1,2 triệu đồng/năm. Đến năm 2000 thu nhập bình quân trong làng nghề một lao động sản xuất CN -TCN đã tăng lên 4 triệu đồng/ năm, kinh doanh dịch vụ 3,4 triệu đồng/ năm làm lâm nông nghiệp chỉ có 1,6 triệu đồng/ năm.
ả Nghề thủ công truyền thống phát triển dã tạo ra công ăn việc làm không những cho những người dân trong làng mà còn thu hút cả lực lượng lao động ở những vùng lân cận. Tổng số lao động tham gia trong 4 làng nghề là 4952 trong đó số lao động sản xuất CN-TCN 59%. Phát triển làng nghề đã tạo ra công ăn việc làm cho người dân địa phương có tác dụng tích cực trong việc giảm tỷ lệ thất nghiệp và tệ nạn xã hội.
ả Hoạt động làng nghê phát triển làm cho thu nhập của người dân tăng lên đã có đóng góp rất lớn trong việc nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người dân. Khi thu nhập cao thì đời sống của người dân cũng được nâng cao giáo dục được trang bị các dụng cụ y tế hiện đại, trong mỗi làng chợ đều được họp rất đông vui nhộn nhịp thu hút một số lượng lớn những người dân ở nơi khác đến trao đổi buôn bán.
Làng nghề phát triển đã tạo nguồn kinh phí lớn đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng trong mỗi làng nghề. Trong cả 4 làng nghề đường làng đều được trải bê tông và đều đầu tư phát triển nông nghiệp địa phương. ở các làng đều được bê tông hoá kênh mương.
ả ở các làng nghề Vạn Phúc, Ngọ Hạ đều có hợp tác xã làng nghề để phát triển nghề của làng và hiện nay do hoạt động làng nghề phát triển nên quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng. Trong các làng nghề hình thành nhiều xưởng sản xuất của tư nhân và hình thành một số loại hình doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã công nghiệp, xây dựng, tổ hợp sản xuất cùng với kinh tế hộ gia đình phát triển ngay trong làng nghề tăng cả vế số lượng lẫn chất lượng.
ả Sản phẩm của các làng nghề đã đựoc tiêu thụ nhiều ở trong và ngoài nước và đã có những kỹ kết đặt hàng lâu dài giữa các chủ đầu tư và các chủ sản xuất tại các làng. Tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định là nhân tố giúp làng nghề phát triển.
Tuy nhiên, phát triển làng nghề cũng còn một số hạn chế sau:
ả Do đời sống của người dân trong các làng nghề ngày càng được nân cao. Vì vậy mà nhu cầu về nhà ở và mở rộng các khu sản xuất đã làm phá vỡ kiến trúc, không gian cổ trong các làng nghề. Cùng với nó, đường làng ngõ xóm cũng đang có xu hướng” bê tông hoá “
ả Một hạn chế nữa là do hoạt động phát triển sản xuất ở các làng nghề nên có nhiều phương tiện giao thông đi trên đường đã gây xáo trộn đời sống của người dân trong làng nghề và làm hư hại và xuống cấp nghiêm trọng đường làng.
ả Do hoạt động làng nghề ngày càng phát triển và nhu cầu của thị trường ngày càng cần nhiều dẫn đến một số sản phẩm trong các làng nghề bị kém chất lượng do họ đã chạy theo lợi nhuận đã bỏ một số công đoạn đòi hỏi tỉ mỉ kỳ công trong sản xuất.
ả Sản xuất trong các làng nghề con mang tính tự phát, quy mô còn nhỏ chưa theo quy hoạch. Chính vì thế chưa có quy hoạt phát triển sản xuất CN-TTCN trong các làng nghề nên dẫn đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng chưa được quan tâm như: giao thông, điện, môi trường, mặt bằng các doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất, thiết bị, máy móc chưa được đổi mới, trang bị không đủ, đồng bộ nên năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao.
Đội ngũ lao động vừa thiếu, vừa yếu, chưa tương xứng với sự phát triển của ngành nghề. Bởi đội ngũ lao động ở hầu hết các làng đều theo kiểu cha truyền con nối không qua trường lớp đào tạo nên còn hạn chế về kỹ thuât, năng suất lao động.
Tuy có sự quan tâm của UBND tỉnh và chính quyền địa phương trong việc khôi phục và phát triển làng nghề nhưng vẫn chưa có quy hoạch cụ thể, đường lối cụ thể cho từng làng nghề. Đặc biệt là vấn đề vốn đầu tư để phát triển làng nghề và tìm đầu ra cho sản phẩm.
Ví dụ: Làng điêu khắc Nhân Hiền được UBND tỉnh Hà Tây công nhận là làng nghề năm 2000. Nhưng trong làng không có hợp tác xã làng nghề để mở rộng sản xuất và tìm đầu ra cho sản phẩm. Nên vấn đề đầu ra bị hạn chế do không có cơ quan để ký kết xuất khẩu mà sản phẩm làm ra trong làng chủ yếu là đặt tới đâu làm tới đó không sản xuất để đem đi các nơi bán.
uVăn hoá.
Những tác động của làng nghề đến văn hoá ở bốn huyện Vạn Phúc - Nhân Hiền - Chuyên Mỹ - Phú Yên.
ả Tích cực.
Văn hoá: Từ xưa đến nay luôn là cầu nối giữa con người ở nơi này với nơi khác. giữa dân tộc này với dân tộc khác, giữa các quốc gia với nhau. Văn hóa luôn gắn liền với cảnh quan môi trường và tâm linh của con người. Văn hoá ở các làng nghề truyền thống cũng vậy, được thể hiện rất riêng, độc đáo, ở mỗi làng nghề khác nhau, nhưng nó lại mang những điểm chung của văn hoá làng nghề. Đó là truyền thống cần cù, sáng tạo, siêng năng cần mẫn, tỷ mỷ,kiên nhẫn của con người nơi đây để tạo ra những sản phẩm có hồn nhất mang đầy tình cảm cũng như ý tưởng mà người thợ nghề thổi vào từng sản phẩm của họ. Đó có lẽ là nét văn hoá đặc trưng mà chỉ có ở các làng nghề truyền thống mà đặc biệt là ở bốn làng nghề Vạn Phúc - Nhân Hiền - Chuyên Mỹ - Phú Yên.
Ngoài những yếu tố trên, người dân trong các làng nghề truyền thống còn giữ được phong tục truyền thống tốt đẹp là thờ cúng tổ tiên những người đã truyền nghề cho con cháu, và gây dựng làng nghề. Đó là truyền thống tôn sư - trọng đạo kính trọng bề trên - những người đã dạy nghề và truyền nghề cho mình. Đặc biệt người dân trong làng rất tôn trọng những người thợ cả của làng nghề, những người đã góp phần tạo lên tên tuổi cho làng nghề của họ.
Ngày nay, trong nền kinh tế mở giao lưu kinh tế văn hoá giữa các nước trong khu vực. Yếu tố này cũng làm cho làng nghề phát triển mạnh mẽ về kinh tế văn hoá. Sự phát triển kinh tế của làng nghề kéo theo sự thay đổi về văn hoá.
Những người thợ nghề tại bốn làng ven sông Nhuệ Hà Tây đã tiếp thu những mặt tích cực cùa các nền văn hoá bên ngoài kết hợp với văn hoá truyển thống để làm giàu thêm cho văn hoá của mình. Đó là những nét hoa văn trên các sản phẩm của làng nghề ngày càng phong phú đa dạng và có nhiều nét mới lạ, đáp ứng nhu cầu về mặt thẩm mỹ của khách hàng trong và ngoài nước.
Đó là những mặt tích cực, những nét đặc trưng của làng nghề đã tạo nên văn hoá độc đáo của làng nghề. Và những nét độc đáo đó cũng là một trong những yếu tố để thu hút khách du lịch đối với làng nghề Hà Tây
ả Tiêu cực.
Ngoài những yếu tố tích cực mà phát triển làng nghề tác động vào văn hoá, còn có những mặt tiêu cực của nó. Yếu tố tiêu cực của phát triển làng nghề đối với văn hoá đó là do nền kinh tế thị trường làm thay đổi cách sống của con người. Nếu như xưa kia mọi người chỉ làm việc để đủ ăn và có thời gian chăm chút tu sửa cho tác phẩm của mình thì ngày nay do yêu cầu của thị trường ngày một cao những người thợ nghề chỉ cố gằng làm sao để làm ra sản phẩm đủ để tiêu thụ, chính vì vậy mà sản phẩm họ làm ra cũng kém sắc sảo và tinh tế và làm mất đi cái hồn của sản phẩm làng nghề. Hơn thế nữa do yêu cầu về mức sống của người dân ngày càng cao, nhận thức của người dân trong làng nghề đã thay đổi. Nhân dân ở bốn làng nghề( Vạn Phúc – Nhân Hiền – Chuyên Mỹ – Phú Yên ) không còn nghĩ làm thế nào để tạo nên một sản phẩm tốt nhất, đẹp nhất, độc đáo nhất nữa mà họ chỉ nghĩ làm thế nào để sản xuất ra nhiều sản phẩm nhất mà thôi. Và ngày nay họ đã dần quên đi vai trò của người thợ cả trong làng nghề, quên dần đi cái nét truyền thống, đặc trưng của làng nghề mà chạy theo cái lợi ích trước mắt về kinh tế, làm mai một đi nét văn hoá truyền thống của làng nghề.
Yếu tố ảnh hưởng này cũng tác động trực tiếp đến việc phát triển du lịch, thu hút khách du lịch tại các làng nghề truyền thống.
u Môi trường
ả Tích cực:
Môi trường sinh thái cũng như môi trường cảnh quan có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất của các làng nghề. Bởi các làng nghề nằm ngay ven sông Nhuệ nên khí hậu ở đây cũng mát mẻ, gió từ sông Nhuệ thổi vào làm ôn hoà phần nào. Ngoài ra, do có từ lâu đời nên ngày nay các làng nghề truyền thống vẫn còn giữ được hệ thống cây xanh. Không những thế người dân còn trồng thêm nhiều loại cây, lá xanh quanh năm. Điều này rát có ích cho sức khoẻ cũng như sinh hoạt của người dân. Nó góp phần tạo ra khí O2 và không khí trong lành tránh được các bệnh tật mà các yếu tố khác đem lại. Người dân còn có những cánh đồng trồng nhiều loại cây lương thực và những chậu cây cảnh đặt ở sân nhà.
Hệ thống các ao hồ cũng có khá nhiều giữa các làng này. Ao hồ vừa góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên thoáng đãng lại vừa điều hoà không khí tạo ra sự dễ chịu trong nếp sống sinh hoạt hằng ngày của mỗi người dân.
Hầu hết các làng nghề thủ công truyền thống ven sông Nhuệ đều có các con đường làng trải bê tông giúp cho việc đi lại thuận tiện. Mặt khác, nó cũng tạo cho môi trưòng cảnh quan xung quanh các ngõ xóm của làng được bề thế, sạch sẽ. Đây là một đều kiện thuận lợi để khi khách du lịch có đến tham quan giao dịch. Họ sẽ không e ngại bởi đường xa lầy lội, bẩn thỉu, môi trường ô nhiễm gây mất thiện cảm dẫn đến sự thu hút khách du lịch sẽ kém đi.
ả Hạn chế:
Hoạt động sản xuất của các làng nghề cũng gây nên một số tác động xấu đến môi trường ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân cũng như phát triển hoạt động du lịch. Trong các công đoạn của việc sản xuất vải lụa ở Vạn Phúc thì khâu nhuôm tẩy vải là khâu gây ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng. Trong nước để tẩy nhuộm vải bắt buộc phải có một số hoá chất, phẩm màu, mà đa số các loại hoá chất này lại là độ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DL 153.doc