Tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÙI HUY DU
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số: 6222.80.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS.TRỊNH DOÃN CHÍNH
Phản biện:
1. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT
2. PGS.TS.TRƯƠNG VĂN CHUNG
3. PGS.TS.NGUYỄN XUÂN TẾ
Phản biện độc lập:
1. GS.TS.NGUYỄN HÙNG HẬU
2. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2011
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ...........................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG .............................. 10
1.1. Đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội Việt Nam
thời kỳ nhà Trần – cơ sở xã hội hình thành tư tưởng triết học Tra...
232 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÙI HUY DU
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số: 6222.80.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS.TRỊNH DOÃN CHÍNH
Phản biện:
1. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT
2. PGS.TS.TRƯƠNG VĂN CHUNG
3. PGS.TS.NGUYỄN XUÂN TẾ
Phản biện độc lập:
1. GS.TS.NGUYỄN HÙNG HẬU
2. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2011
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ...........................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG .............................. 10
1.1. Đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội Việt Nam
thời kỳ nhà Trần – cơ sở xã hội hình thành tư tưởng triết học Trần
Nhân Tông .......................................................................................... 10
1.1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội thời
kỳ nhà Trần .......................................................................................10
1.1.2. Sự phát triển văn hóa, giáo dục thời kỳ nhà Trần.............................26
1.2. Những tiền đề lý luận và tôn giáo hình thành tư tưởng triết học
Trần Nhân Tông ............................................................................... 33
1.2.1. Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và tư tưởng của “Tam giáo”
với việc hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .................. 33
1.2.2. Tư tưởng triết học Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ – tiền đề
lý luận trực tiếp của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông...................56
Kết luận chương 1 .......................................................................................83
Chương 2:NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRẦN NHÂN TÔNG….86
2.1. Thế giới quan trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ................86
2.1.1. Quan niệm về bản thể trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .....89
2.1.2. Mối quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng trong tư tưởng triết
học Trần Nhân Tông ......................................................................105
2.2. Nhân sinh quan và triết lý đạo đức trong tư tưởng triết học Trần
Nhân Tông........................................................................................114
2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về cuộc đời con người và về vai trò
của con người trong cuộc sống .......................................................114
2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về vấn đề rèn luyện tinh thần đạo
đức, trí tuệ, giải thoát .....................................................................122
Kết luận chương 2 .....................................................................................129
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
TRẦN NHÂN TÔNG ........................................................................132
3.1. Những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ..132
3.1.1.Tính kế thừa, dung hợp trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ....... 132
3.1.2.Tinh thần thiền hành động, nhập thế tích cực trong tư tưởng triết học
Trần Nhân Tông .............................................................................147
3.1.3. Tính nhân văn trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ...............155
3.2. Giá trị lịch sử của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ............... 164
3.2.1. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông đã góp phần tạo nên hệ thống
triết lý thiền đặc sắc của Phật giáo Việt Nam ................................169
3.2.2. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là nền tảng tinh thần để xây dựng
một quốc gia độc lập, thống nhất và một nền chính trị thân dân ........ 174
Kết luận chương 3 ....................................................................................195
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................197
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 203
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 213
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ .............................................222
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu, dưới
sự hướng dẫn của PGS, TS. Doãn Chính. Kết quả nghiên cứu
được công bố trong luận án là trung thực. Các tài liệu sử
dụng trong luận án có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Người thực hiện
BÙI HUY DU
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng và nhân dân ta khởi
xướng và tiến hành, cùng với nhiệm vụ phát triển toàn diện các lĩnh vực
kinh tế, chính trị – xã hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và văn hóa,
đặc biệt là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm
“xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc” [21, tr. 18], chúng ta còn có
một nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là “xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, tương xứng với sự
phát triển của nền kinh tế – xã hội. Đó cũng chính là triết lý của sự phát
triển xã hội hài hòa và bền vững. Bởi vì, văn hóa nói chung và những
giá trị tinh thần, tư tưởng của dân tộc Việt Nam nói riêng không chỉ là
nền tảng tinh thần và là một trong những động lực phát triển xã hội mà
còn là một trong những nguồn lực nội sinh bền bỉ và mạnh mẽ nhất “hun
đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam” [23, tr. 54], giúp chúng ta
có thể tiếp nối và phát huy sức mạnh truyền thống dân tộc trong công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phong phú nhưng
không kém phần phức tạp hiện nay.
Trong tiến trình của công cuộc đổi mới, hơn 20 năm qua đất nước
ta đã đạt được những thành tựu thực sự to lớn và toàn diện trên các mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đạt được kết quả đó, văn hóa đóng
2
vai trò rất quan trọng bởi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là
yếu tố nội sinh, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã
hội. Do đó, có thể nói xây dựng, phát triển văn hóa chính là củng cố xây
dựng và phát triển nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh
thần tiến bộ, lành mạnh, không thể có sự phát triển kinh tế – xã hội bền
vững. Văn kiện Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn
hóa – nền tảng tinh thần của xã hội.” [24, tr. 213]
Cùng với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, việc mở cửa hội
nhập giao lưu văn hóa với tất cả các nước trên thế giới là một xu thế và
quy luật tất yếu. Chúng ta không thể bảo tồn những giá trị văn hóa của
dân tộc bằng cách khép kín, thu mình, đóng cửa; nhưng ngược lại, chúng
ta cũng không thể thực sự phát triển nếu như mở cửa không kiểm soát,
đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó, để bảo tồn và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một mặt chúng ta
phải giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc; mặt
khác, phải mở rộng giao lưu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại. Đúng như Văn kiện của Đảng đã khẳng định: “Trong điều
kiện kinh tế thị trường và mở cửa giao lưu quốc tế phải đặc biệt giữ gìn
và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và tiếp thu truyền thống
đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của
các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam.”
[21, tr. 111]
Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa tinh thần
của dân tộc ta trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam, trên cơ sở đó
phát huy sức mạnh của những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và lâu
3
đời của dân tộc trong cuộc sống hôm nay là việc làm vừa có ý nghĩa lý
luận lâu dài vừa có tính thời sự cấp bách.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm đời Trần,
trong đó tiêu biểu là tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông – “đệ nhất
tổ thiền Trúc Lâm Yên Tử” nổi lên như một dấu son, góp phần khắc họa
khá đậm nét bản sắc, cốt cách tâm hồn Việt Nam nói chung và đặc
trưng của triết học Phật giáo Việt Nam nĩi riêng trong quá trình phát
triển. Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị – một vị vua anh minh,
“nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở
trước” [85, tr. 44] mà còn là nhà quân sự tài năng; không chỉ là nhà văn,
nhà thơ mà còn là nhà tư tưởng lớn, một bậc thiền sư lỗi lạc – người
sáng lập ra một dòng thiền mang bản sắc Việt Nam. Ông đã biết dung
hợp các nguồn tư tưởng từ quá khứ của dân tộc với triết lý phong phú,
sâu sắc, thâm trầm của Nho, Lão, đặc biệt là triết lý Phật giáo, bằng sự
kế thừa, chọn lọc các dòng thiền trước đây như Tỳ Ni Đa Lưu Chi
(Vinitaruci), Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và tư tưởng triết lý thiền của
Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ để sáng tạo nên hệ thống tư
tưởng triết học của mình với những nét độc đáo và đặc sắc riêng, ghi
dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Chính vì thế, tôi đã chọn vấn đề “Tư tưởng triết học Trần Nhân
Tông” làm đề tài luận án Tiến sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Sự nghiệp, cuộc đời của Trần Nhân Tông nói chung, tư tưởng triết
học của Trần Nhân Tông nói riêng từ trước tới nay đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều mặt, qua các chủ đề phong phú
4
và sâu sắc khác nhau. Có thể khái quát kết quả các công trình nghiên
cứu đó trong ba chủ đề chính sau:
Thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông trên
phương diện lịch sử. Tiêu biểu cho chủ đề này phải kể đến các tác phẩm
lớn như: Tác phẩm Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1998; Đại cương lịch sử Việt Nam, do Trương Hữu Quýnh, Đinh
Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, xuất bản
năm 2005; tác phẩm Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, của Viện
Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1980 và tác phẩm
Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng
Tháng Tám (3 tập), của Trần Văn Giàu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996; Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ XIII của
Hà Văn Tấn – Phạm Thị Tâm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975...
Các công trình khoa học trên đã trình bày và phân tích khá khái quát và
sâu sắc điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cũng như tiền đề lý luận hình
thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông như: Hình thái kinh tế thời Lý
– Trần, thể chế chính trị và kết cấu đẳng cấp thời Lý – Trần, văn hóa và
tư tưởng thời Lý – Trần với các vấn đề nghiên cứu khá sâu sắc như: Tư
tưởng chính trị và xã hội thời Lý – Trần, Nho giáo ở Việt Nam, các yếu
tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong thời
đại Lý – Trần, ý nghĩa xã hội của phái Trúc Lâm thời Trần… Các công
trình trên cũng đã nghiên cứu khá kỹ về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp
của Trần Nhân Tông gắn liền với các biến cố lịch sử Việt Nam giai đoạn
thế kỷ XIII – XIV, giúp người đọc có cái nhìn tổng quát hơn về Trần Nhân
Tông.
5
Thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới
góc độ lịch sử tư tưởng văn hóa, tôn giáo. Liên quan đến chủ đề này
phải kể tới các công trình như: Thơ văn Lý – Trần, do Viện Văn học biên
soạn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1989; Việt Nam Phật
giáo sử luận của Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, Hà Nội, xuất bản năm
2000; Lịch sử Phật giáo Việt Nam, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1993; Phật giáo Việt Nam từ
khởi nguyên đến thế kỷ XIII của Trần Văn Giáp, Ban Tu thư, Đại học
Vạn Hạnh, Sài Gòn, xuất bản năm 1968; Lịch sử Phật giáo Việt Nam,
của Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản
năm 1993; Tam tổ thực lục, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, xuất
bản năm 1995 (Thích Phước Sơn dịch và chú giải); Thiền uyển tập anh,
Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993; Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (3
tập) của Lê Mạnh Thát, Nxb, Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2002;
Thiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn,
1966; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1999; Thiền luận (quyển thượng,
quyển trung, quyển hạ) của Daisetzteitaro Suzuki, Nxb. Tổng hợp, Tp.
Hồ Chí Minh, xuất bản 2005.
Trong các công trình trên phải kể đến tác phẩm lớn như Thơ văn
Lý – Trần, do Viện Văn học biên soạn. Đây là công trình khoa học công
phu, đồ sộ, cung cấp cho người đọc một cách khá đầy đủ và đáng tin cậy
các bản văn về thơ, văn của Trần Nhân Tông, cùng với sự giới thiệu
đánh giá khái quát về sự nghiệp thơ văn, tư tưởng của Trần Nhân Tông;
hay như các tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang,
Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật
6
giáo Việt Nam, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, đã trình bày và phân tích
khá sâu sắc tư tưởng cũng như vai trò, vị trí của Trần Nhân Tông trong
lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền tông Việt Nam
nói riêng… Tất cả các công trình thuộc chủ đề thứ hai này giúp ta thấy rõ
giá trị về văn hóa, tư tưởng, tôn giáo mà Phật hoàng Trần Nhân Tông đã
đóng góp cho lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới
góc độ tư tưởng triết học, như các tác phẩm: Lịch sử tư tưởng Việt Nam,
tập 1, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, xuất bản
năm 1993; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến
thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất
bản năm 2002; Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của
Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; Góp phần tìm
hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông của Nguyễn Hùng Hậu,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996; Tư tưởng triết học của Thiền Phái
Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, xuất bản năm 1998; Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam,
tập 1, do Nguyễn Hùng Hậu chủ biên, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội,
xuất bản năm 2002; Tư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần, do Doãn Chính –
Trương Văn Chung chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản
năm 2008; Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Trọng
Chuẩn chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; và các tác phẩm
khác như Tam tổ Trúc Lâm giảng giải của Thích Thanh Từ, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, 1997; Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, 1995; Thiền học đời Trần của Thích Thanh Từ
chủ biên, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995; Trần Nhân Tông
7
toàn tập của Lê Mạnh Thát, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000… Liên
quan đến đề tài luận án còn có các bài báo, công trình khoa học được
các nhà nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành và
các kỷ yếu hội thảo khoa học, như bài Triết học Phật giáo Trần Thái
Tông, của Nguyễn Hùng Hậu, Nội san nghiên cứu Phật học số 4/1994 và
số 1/1995, bài Tìm hiểu tư tưởng triết học Thiền của Trần Nhân Tông của
Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 3, năm 1995 hay bài Tư tưởng
triết học Trần Thái Tông, của Doãn Chính và Nguyễn Ngọc Phượng,
Tạp chí Triết học số 1 (212) tháng 1 năm 2009; Vài nhận xét về Thiền
tông và phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của Tạ Ngọc Liễn, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, 1976; và Kỷ yếu 700 năm ngày viên tịch Sư tổ Trúc
Lâm, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, xuất bản năm 2008, v.v… Các công trình
kể trên đã tập trung nghiên cứu tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông
qua các vấn đề lớn về bản thể luận, nhận thức luận và triết lý đạo đức
nhân sinh của ông gắn liền với quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng
Việt Nam, tuy vậy tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông mới được các
công trình kể trên nghiên cứu ở mức độ khái quát nhất.
Tuy nhiên các công trình khoa học trên vẫn thực sự là những tài
liệu bổ ích để chúng tôi học tập, kế thừa, phát triển trong đề tài luận án
của mình. Tiếp tục thành quả của các công trình nghiên cứu trên, chúng
tôi cố gắng đi sâu nghiên cứu và trình bày tư tưởng triết học Trần Nhân
Tông qua đề tài luận án Tiến sĩ triết học, có tính chất chuyên sâu và hệ
thống hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án
8
Từ sự trình bày, phân tích làm rõ những nội dung tư tưởng triết học
cơ bản của Trần Nhân Tông, luận án nhằm chỉ ra những đặc điểm và
những giá trị có ý nghĩa lịch sử to lớn trong tư tưởng triết học của ông.
Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Trình bày, phân tích cơ sở xã hội và những tiền đề tư tưởng hình
thành tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông.
- Trình bày và phân tích nội dung tư tưởng triết học cơ bản của
Trần Nhân Tông qua các vấn đề triết học về bản thể luận, đạo đức nhân
sinh; từ đó rút ra những đặc điểm và giá trị lịch sử trong tư tưởng triết
học của Trần Nhân Tông.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên, luận án dựa trên cơ sở
thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời tác giả luận án còn sử dụng tổng
hợp các phương pháp sử học, hệ thống cấu trúc, lôgic và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh và đối chiếu… để nghiên
cứu và trình bày luận án. Luận án được tiếp cận dưới góc độ triết học
lịch sử và triết học tôn giáo.
5. Cái mới của luận án
Một là, luận án đã trình bày một cách cơ bản và hệ thống tư tưởng
triết học của Trần Nhân Tông qua phân tích những phạm trù triết học,
thiền học của ông ở những vấn đề về thế giới quan, nhân sinh quan và
triết lý đạo đức.
Hai là, luận án đã trình bày, phân tích, đánh giá rút ra những đặc
điểm chủ yếu của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông, đó là tính chất kế
9
thừa, dung hợp, tinh thần thiền hành động nhập thế tích cực và tinh thần
nhân văn sâu sắc; đồng thời luận án cũng nêu lên những giá trị lịch sử
của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông; đó là triết học Trần Nhân Tông
góp phần tạo nên hệ thống triết lý thiền đặc sắc Việt Nam, là nền tảng
tinh thần để xây dựng một quốc gia Đại Việt độc lập, thống nhất, một
nền chính trị thân dân.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần làm rõ nội dung và đặc
điểm cơ bản trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông qua các vấn đề
bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức nhân sinh, từ đó giúp người đọc tìm
hiểu một cách sâu sắc và hệ thống tư tưởng triết học của Trần Nhân
Tông.
Về ý nghĩa thực tiễn, thông qua những đặc điểm của tư tưởng triết
học Trần Nhân Tông được trình bày trong luận án, có thể rút ra những
bài học lịch sử bổ ích góp phần vào việc gìn giữ và phát huy bản sắc và
truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam trong công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu và giảng dạy về lịch
sử tư tưởng Việt Nam cho sinh viên và học viên cao học các ngành Triết
học, Tôn giáo học, Văn hóa học, Sử học trong các trường Cao đẳng và
Đại học.
7. Kết cấu cơ bản của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận án được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết và 13 mục.
10
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ –
XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ NHÀ TRẦN – CƠ SỞ XÃ HỘI HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
1.1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị
– xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần
Là hình thái ý thức xã hội, tư tưởng triết học của Trần Nhân
Tông một mặt phản ánh và bị chi phối bởi đặc điểm, nhu cầu của xã
hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần; mặt khác, là sự kế thừa những tiền đề
tư tưởng, tôn giáo trước đó. Đúng như C. Mác đã nói: “Các triết gia
không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình,
của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được
tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [41, tr. 156]. Do đó,
nghiên cứu tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông không thể không
tìm hiểu điều kiện lịch sử xã hội và những tiền đề lý luận hình thành
tưởng triết học của ông.
Sau thời kỳ hưng thịnh, từ khoảng giữa thế kỷ XII trở đi, triều
đình nhà Lý bước vào giai đoạn suy tàn. Đất nước rơi vào cuộc khủng
hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Thiên tai, mất mùa, đói kém, dịch
bệnh hoành hành khắp nơi làm cho nền kinh tế ngày càng sa sút. Bên
cạnh đó, do bộ máy chính quyền nhà Lý từ trung ương đến địa phương
tỏ ra quan liêu, lỏng lẻo trong việc quản lý xã hội dẫn đến tình trạng
11
ở nhiều địa phương, các thế lực địa chủ phong kiến đã tập hợp lực
lượng nổi dậy chống phá triều đình, gây nên tình trạng cát cứ phân
quyền. Nổi bật trong số các thế lực cát cứ thời bấy giờ là tập đoàn
quân sự của anh em họ Trần ở vùng Hải Ấp (Thái Bình). Do có công
giúp nhà Lý dẹp loạn, lập lại trật tự, gia tộc họ Trần được triều đình
trọng dụng đã thao túng quyền bính và dần thâu tóm mọi quyền lực
trong tay. Tập đoàn quý tộc họ Trần rất khôn khéo, dần dần từng
bước vững chắc và cuối cùng chuyển chính quyền từ dòng họ Lý sang
dòng họ Trần một cách êm thấm trong hoàng cung và triều đình mà
hầu như không có tác động gì làm xáo trộn xã hội.
Năm 1225 Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Chiêu
Thánh vừa mới bảy tuổi, rồi lên làm Thái Thượng hoàng và sau đó
xuất gia đi tu ở chùa Chân Giáo, lấy hiệu là Huệ Quang đại sư. Theo
sự dàn xếp của Trần Thủ Độ, Chiêu Hoàng đã kết hôn với Trần
Cảnh. “Mùa đông, tháng 12, ngày 12 năm Ất Dậu (1225) nhận thiền
vị của Chiêu Hoàng, lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung”
[85, tr.7] dưới sự giúp đỡ, ủng hộ của Trần Thủ Độ và họ hàng. Nhà
Trần trải qua các triều vua đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm phát
triển các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thúc đẩy xã hội tiến lên một
bước đáng kể. Dưới triều Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông, đất
nước ta trải qua ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông
xâm lược (cuộc kháng chiến lần thứ nhất năm 1258, cuộc kháng chiến
lần thứ hai năm 1285, cuộc kháng chiến lần thứ ba năm 1288) nâng
cao vị trí nhà Trần trong lịch sử.
Về tổ chức hành chính và bộ máy quan lại, năm 1240 nhà Trần
đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ. Dưới lộ, phủ có châu, huyện, xã. Đại
12
Việt sử ký toàn thư viết: “Nhâm Dần/ Thiên Ứng/ năm thứ 11/ 1242
(Tống Thuần Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12
lộ. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã,
sách thì đặt chức đại, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ
lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người làm kiêm cả 2, 3, 4 xã
cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan” [85, tr. 19]. Nhà vua
nắm quyền lực tối cao quyết định tất cả, nhưng để tránh tình trạng vua
còn nhỏ tuổi, nhà Trần đặt ra chế độ Thái Thượng hoàng. Các vua
thường truyền ngôi sớm cho con nhưng vẫn trông coi chính sự. Chế độ
quan lại nhà Trần nói chung cũng giống như của nhà Lý nhưng có quy
củ và đầy đủ hơn. Các chức quan trọng yếu trong triều đều giao cho
vương hầu quý tộc nắm giữ, nhằm tập trung mọi quyền lực về dòng
họ mình. Ở địa phương buổi đầu nhà Trần cũng phong cho một số
vương hầu đi trấn trị các vùng quan trọng (ví như Trần Quốc Khang
coi Diễn Châu, Trần Nhuật Duật coi Thanh Hóa, Trần Khánh Dư coi
Vân Đồn…).
Để tạo điều kiện cho vương hầu, tôn thất làm việc, nhà nước
cấp cho mỗi người một vùng đất lớn nhỏ tùy theo thứ bậc gọi là thái
ấp. Nhà nước cũng cho phép các quan lại tôn thất cao cấp được xây
dựng dinh thự, phủ đệ riêng, khi có việc mới phải vào chầu và làm
việc ở kinh sư. Năm 1266, do yêu cầu mới về kinh tế và chính trị, vua
Trần lại ra lệnh cho các vương hầu, công chúa, phò mã chiêu mộ dân
lưu vong đi khai hoang lập trang trại riêng, tạo thành một mạng lưới
tôn thất nhà Trần trấn trị khắp nơi trong nước. Trong buổi đầu, chủ
trương này có lợi cho việc củng cố chính quyền trung ương của nhà
Trần, nhưng về sau lại dẫn đến xu hướng cát cứ. Kinh nghiệm của nhà
13
Lý buộc nhà Trần đặt ra lệnh riêng: người trong họ không được lấy vợ
khác họ.
Tuy nhiên, nhà Trần vẫn không thể phá vỡ được quy luật phát
triển của nhà nước quân chủ tập quyền. Ngay khi tập trung những
quyền lực trong triều vào tay các vương hầu, quý tộc họ Trần, các vua
Trần phải sử dụng một số quan chức không phải họ Trần, giữ chức vụ
quan trọng trong triều Trần như trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, hoàng
giáp Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Lê Quát sau này…
Tiếp tục những chính sách của thời Lý, nhà Trần mở khoa thi để
chọn quan lại. Ngoài ra, những người không đỗ đạt nhưng có tài vẫn
sử dụng. Phan Huy Chú (sử gia thế kỷ XIX) có nhận xét: “Triều Trần
dùng người thật là công bằng, tuy đã đặt khoa mục mà trong việc kén
dùng chỉ cốt tài là được, cho nên những nho sĩ có chí hướng thường
được trổ tài của mình, không đến nỗi bó buộc hạn chế về tư cách…,
chỉ cần người dùng được chứ không câu nệ ở đường xuất thân. Nhân
tài văn học được thịnh cũng nhờ thế chăng?” [9, tr. 22].
Có lẽ trong buổi đầu, quan lại không được cấp ruộng đất, sau
kháng chiến chống giặc Nguyên mới phát triển chế độ này. Quan lại
được phép nuôi người hầu với mức nuôi nhiều nhất là 1.000 người.
Vương hầu được phép nuôi gia nô, gia đồng, khi cần được tổ chức
quân đội riêng. Thời chiến, vương hầu được lệnh thống suất quân lính
ở thái ấp của mình. Năm 1283, chuẩn bị chống ngoại xâm, nhà vua
giao cho Trần Quốc Tuấn đốc suất vương hầu chiêu mộ binh lính, sắm
sửa vũ khí tham gia kháng chiến. Nói chung bộ máy quan lại thời
Trần được tổ chức quy mô hơn thời Lý, bộ máy nhà nước đó đã góp
phần củng cố sức mạnh của nhà nước trung ương.
14
Về tổ chức quân đội, nhà Trần thay nhà Lý, cùng với việc hoàn
thiện bộ máy nhà nước để ổn định xã hội, củng cố chính quyền phong
kiến trung ương tập quyền, nhà Trần đã ra sức xây dựng một tổ chức
quân đội hùng mạnh đủ sức bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Quân
chủ lực nhà Trần cũng chia thành hai bộ phận như thời nhà Lý là cấm
quân và quân các lộ (ở đồng bằng gọi là chính binh, ở miền núi gọi là
thiên binh). Quân đội nhà Trần là một đội quân thiện chiến, được
trang bị, tổ chức và huấn luyện tốt, có nhiều kinh nghiệm bởi đã trải
qua các cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông. Lực lượng
quân sự thời Trần bao gồm các thành phần chủ yếu: 1). Quân chủ lực
của triều đình; 2). Quân của lộ phủ, châu; 3). Quân của quý tộc tôn
thất; 4). Lực lượng dân binh (hương binh) trong làng xã, động, bản.
Trong chiến tranh, nhà Trần có thể tập hợp được lực lượng quân
đội lớn mạnh, đông đảo chủ yếu còn do thực hiện chế độ nghĩa vụ
quân sự theo chính sách “ngụ binh ư nông”. Quân số thời bình theo
Phan Huy Chú thì cả “cấm vệ và các lộ khoảng mười vạn người”. Có
thể xem đây là chủ trương kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và tổ
chức vũ trang khá sáng tạo và độc đáo của thời đại đó.
Nhìn chung, do đặc điểm và yêu cầu của điều kiện lịch sử nên
nhà Trần là triều đại rất coi trọng binh pháp và kỹ thuật quân sự.
Luôn chú ý nâng cao chất lượng binh lính bằng các biện pháp tuyển
quân, tuyển tướng, huấn luyện binh pháp, rèn luyện tư tưởng và việc
coi trọng võ thuật đã trở thành lối sống của trai tráng trong các tầng
lớp xã hội từ quý tộc đến nô tỳ thời kỳ nhà Trần. Thực tiễn cuộc
kháng chiến chống Nguyên – Mông đã thể hiện tổ chức quân đội và
chính sách xây dựng lực lượng vũ trang của nhà Trần trong thế kỷ
15
XIII là đúng đắn, sáng tạo. Đó là quân đội có số lượng đông khi cần
thiết, có chất lượng tinh thần vào loại mạnh trên thế giới đương thời.
Hàng loạt các chiến thắng Đông Bộ Đầu (1258), Hàm Tử, Tây Kết
(1285) và đặc biệt là Bạch Đằng (1288) là hình ảnh tiêu biểu của
quân đội Đại Việt thời Trần trong thời kỳ hưng thịnh.
Về luật pháp, năm 1230, Trần Thái Tông ban hành Quốc triều
thông chế (20 quyển) quy định về tổ chức chính quyền. Sau đó qua vài
lần sửa chữa và bổ sung nhà Trần lại ban hành bộ Quốc triều hình
luật. Cơ quan luật pháp thời Trần cũng được tăng cường và hoàn thiện
hơn. Pháp luật và tổ chức tư pháp thời Trần có mấy đặc điểm sau:
Trước hết pháp luật đời Trần khẳng định và củng cố sự phân
chia đẳng cấp. Đại quý tộc trước hết là hoàng gia và vua được pháp
luật bảo vệ các đặc quyền đặc lợi. Riêng với họ hàng nhà Trần nếu
phạm tội thì bị xử nhẹ hơn. Luật bắt buộc các nô tỳ phải thích chữ vào
trán, mang hàm hiệu của chủ, nếu không bị coi là giặc cướp, nhẹ thì
sung làm quan nô, nặng thì tù. Nô tỳ không có quyền kết hôn với quý
tộc. Đáng lưu ý là trong xã hội sự ảnh hưởng của Phật giáo rất sâu
đậm, còn lễ giáo Nho giáo sự ảnh hưởng trong nông thôn chưa sâu sắc
lắm, ý thức về tông tộc tông pháp trong dân gian hãy còn mờ nhạt,
phong tục tập quán vẫn giữ tính bản địa.
Pháp luật đời Trần xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản,
đặc biệt là ruộng đất. Quan hệ tiền tệ đã công khai thâm nhập pháp
luật, lệ chuộc tội bằng tiền được quy định cụ thể. Việc mua bán,
chuyển nhượng và gán vợ con làm nô tỳ là công khai và hợp pháp.
Tầng lớp nô, nô tỳ đông đảo là tầng lớp thấp hèn trong xã hội, bị coi
như một “vật” sở hữu của quý tộc.
16
Tiếp tục xu hướng pháp luật thời Lý, pháp luật thời Trần cũng
đã chú trọng đến việc bảo vệ sản xuất nông nghiệp trong đó đã có
những điều luật bảo vệ trâu bò và các công trình thủy lợi. Luật nhà
nước coi việc xây dựng và sửa chữa đê điều là công việc của toàn dân
kể cả triều đình [55, tr. 186].
Về ngoại giao, một vấn đề lớn đặt ra cho nhà Trần là việc đối
phó với mưu đồ bành trướng của đế quốc Nguyên – Mông ở phương
Bắc. Từ sớm nhà Trần đã giữ quan hệ hòa hảo với nhà Tống và theo
lệ cũ sang triều cống cho đến khi nhà Tống mất. Năm 1285, nhà Trần
bắt đầu cử sứ giả sang sứ Mông Cổ và đinh lệ ba năm cống một lần.
Nhưng do mưu đồ bành trướng của nhà nước Nguyên – Mông, mối
quan hệ giữa hai nước ngày càng căng thẳng cho đến khi bùng nổ
cuộc chiến tranh xâm lược vào nửa cuối thế kỷ XII. Sau kháng chiến
chống Nguyên – Mông thắng lợi quan hệ Trần – Nguyên trở lại hòa
hảo. Nhà Trần tìm mọi cách giữ vững địa vị độc lập tự chủ của mình,
khi nhà Trần suy thì nhà Nguyên cũng đang suy thoái, tiếp đó lại bị
nhân dân Trung Hoa lật đổ nên không còn điều kiện dòm ngó nước ta
nữa.
Cũng như thời Lý, các vua Trần chú ý thúc đẩy mạnh sự phát
triển kinh tế, đặc biệt là chế độ sở hữu ruộng đất. Các hình thức sở hữu
ruộng đất cơ bản thời kỳ nhà Trần là ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước
thông qua công xã nông thôn và ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Sự
thống trị của chính quyền nhà Trần trong phạm vi cả nước và uy
quyền chuyên chế của hoàng đế đã tạo thành một quan niệm “đất của
vua, chùa của bụt”, một quan niệm đã xác nhận sự tồn tại tự nhiên:
chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất rất phổ biến. Có hai bộ phận
17
cấu thành ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước: Một là, ruộng đất do nhà
nước trực tiếp quản lý, nó tồn tại như tài sản của bản thân nhà vua và
hoàng cung, một loại “tư hữu” đặc biệt mà những hoa lợi bóc lột là
của riêng hoàng đế. Bộ phận ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý
có sơn lăng, tịch điền và quốc khố. Hai là, ruộng đất công của thôn
làng: ruộng công các làng xã thời bấy giờ được gọi là quan điền hay
“quan điền bản xã”. Năm 1254, triều đình “bán ruộng công, mỗi một
diện là 5 quan” [85, tr. 25] đã xác nhận quyền sở hữu ruộng đất công
làng thời bấy giờ là thuộc về nhà nước theo quan niệm dân gian: “đất
của vua”. Tô thuế ruộng đất vào thời kỳ này chủ yếu là đánh vào
ruộng công, nhân đinh cày ruộng công làng xã phải nộp bằng thóc
theo diện tích và phải thêm một số tiền nhất định. Như vậy số tiền và
số thóc mà nông dân làng xã đóng cho nhà nước đã mang một ý nghĩa
tổng hợp: vừa là thuế vừa là địa tô. Năm Nhâm Dần, [Thiên Ứng
Chính Bình] năm thứ 11/1242 nhà Trần cũng đã ban bố luật tô thuế
cho loại ruộng công của làng xã rằng: “Nhân đinh có ruộng đất thì
nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả. Có 1, 2 mẫu thì
nộp 1 quan tiền; có 3, 4 mẫu thì nộp 2 quan tiền, từ 5 mẫu trở lên thì
nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.” [85, tr. 19]
Về hình thức sở hữu ruộng đất tư nhân, gồm có: thái ấp, điền
trang của quý tộc nhà Trần, ruộng tư hữu của địa chủ và ruộng đất sở
hữu của tiểu nông.
Thời Lý các quan trong, quan ngoài đều không được cấp bổng.
Đến thời Trần mới định lệ cấp bổng cho các quan văn võ trong ngoài,
đây là nét khác biệt rất cơ bản về tổ chức nhà nước của hai triều đại.
Có thể thấy thêm chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc của nhà
18
Trần dưới một hình thức tiêu biểu nhất là thái ấp. Ban cấp thái ấp là
chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ sở xã hội cho chính
quyền nhà Trần. Nguồn đất ban đầu của thái ấp thuộc quyền sở hữu
nhà nước, nhưng khi ban cấp thành thái ấp thì thái ấp thuộc chiếm hữu
tư nhân các quý tộc. Thái ấp thời Trần cũng là nơi ở bền vững của
quý tộc và mãi mãi được lưu truyền, như lời Trần Hưng Đạo đã nói
trong Hịch tướng sĩ rằng: “thái ấp của ta mãi mãi bền vững mà bổng
lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng.” [95, tr. 392]
Ngoài thái ấp thì năm 1266, do nhu cầu khẩn trương mở rộng
diện tích canh tác và thực hiện chủ trương xây dựng, củng cố thêm thế
lực của quý tộc Trần, nhà Trần đã cho các vương hầu công chúa, phò
mã, cung tần chiêu tập những người xiêu tán không có sản nghiệp
làm nô tỳ để khai khẩn đất hoang lập điền trang. Vương hầu có điền
trang thực sự từ đấy. Từ năm 1266 trở đi, bản thân tầng lớp quý tộc đã
dựa vào hai tổ chức kinh tế cơ bản: thái ấp và điền trang là hai bộ
phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tính chất loại hình sở hữu
ruộng đất của quý tộc. Ngoài ra còn có ruộng đất sở hữu tư nhân của
địa chủ và tiểu nông.
Về công cuộc trị thủy nhà Trần đã cho xây dựng hệ thống đê
đỉnh nhĩ và các dòng kênh tiêu úng. Ở thời Lý, công việc trị thủy vẫn
do các địa phương tự lo liệu, tự góp tiền của, nhà nước đóng vai trò
chỉ đạo và quản lý một số đê, chủ yếu là xung quanh Thăng Long.
Mấy chục năm đầu thế kỷ XIII thì hầu như việc trị thủy bị bỏ bê,
không được lưu tâm thích đáng.
Nhà Trần vừa nắm chính quyền đã có biện pháp nhanh chóng
phục hồi sản xuất nông nghiệp, mở rộng thêm diện tích canh tác.
19
Triều đình đã áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp,
trong đó có tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước. Năm 1248,
Trần Thái Tông đặt cơ quan hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách việc
đê điều ở các lộ phủ. Đây là công việc quan trọng, một bước ngoặt to
lớn trong lịch sử thủy lợi nước ta. Đắp đê ngăn mặn cũng là công cuộc
mới mẻ ở thời Trần, các nhà quý tộc thường cho nô tỳ đắp đê ở bãi
biển lập điền trang. Công cuộc xây dựng thủy nông cũng được nhà
Trần chú ý, ở những vùng Thanh Hóa và Nghệ An là nơi có nhiều
công trình thủy nông. Năm 1248, Trần Nhân Tông lại cho đào sông
Mã, sông Lễ và đục núi Chiếu Bạch ở Thanh Hóa, đây cũng là công
việc tốn sức, tốn của. Năm 1256, triều đình cho khơi lại sông Tô Lịch
nhằm bảo đảm giao thông đồng thời để tưới tiêu cho các vùng xung
quanh kinh thành. Sang thế kỷ XIV nhiều công trình thủy nông vẫn
tiếp tục được xây dựng.
Về nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp, triều đại nhà
Trần vẫn tiếp tục xây dựng quan xưởng thủ công nghiệp nhà nước.
Thủ công nghiệp nhà nước gồm có nhiều ngành nghề sau: nghề sản
xuất đồ gốm là bộ phận quan trọng trong xưởng; nghề dệt cũng được
nhà nước chú ý, đặt ngay trong cung đình; và đặc biệt trong thủ công
nghiệp nhà nước là xưởng chế tạo vũ khí. Thủ công nghiệp nhân dân
cũng là bộ phận quan trọng và phổ biến của tiểu thủ công, của tiểu
nông chợ, phố, lị, sở, phủ lộ và kinh thành Thăng Long là địa điểm
trao đổi sản phẩm. Các nghề thiết yếu của thủ công nghiệp nhân dân
thời Trần là nghề gốm, nghề rèn, nghề đúc đồng, nghề làm giấy và
khắc bản in, nghề mộc, nghề xây dựng và nghề khai khoáng.
20
Mạng lưới thương nghiệp và thành thị ngay từ đầu đã được nhà
Trần quan tâm, qua việc xây dựng nên một hệ thống giao thông thủy
bộ trong cả nước. Hệ thống giao thông, biển và trên bộ thời Trần phục
vụ cho yêu cầu quân sự nhưng cũng có nhiều tác dụng tốt cho thương
nghiệp. Đường bộ, đường thủy cho yêu cầu quân sự không còn do các
địa phương và nhân dân tự phát xây dựng mà là công tác của chính
quyền địa phương, của triều đình trực tiếp tổ chức, xây dựng; đây là
bước tiến lớn so với thời Lý.
Để phát triển lưu thông hàng hóa các vua Đại Việt thời Lý –
Trần đều có đúc tiền. Ngoài ra trên thị trường còn sử dụng nhiều tiền
Trung Quốc. Nhà Trần đã mở rộng việc mua bán đất bằng tiền, nộp
tiền để lấy quan chức, việc đúc tiền do quan xưởng đảm nhiệm. Quan
hệ tiền tệ đã thâm nhập vào đời sống chính trị và tín ngưỡng. Nhà
nước thu tô thuế bằng tiền, cũng đã thể hiện chức năng thanh toán của
tiền tệ thời Trần đã phát triển rộng lớn.
Tiêu biểu nhất cho mạng lưới nội thương là hệ thống chợ ở
đồng bằng sông Hồng, ngoài chợ ra còn có phố. Các trung tâm phủ lị
bên sông lớn, đầu mối giao thông thủy bộ đều có phố; phố Luy Lâu
(Thuận Thành, Bắc Ninh) bên bờ sông Dâu là nơi buôn bán cố định;
phố Lố bên bờ sông Nghĩa Trụ (Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên)
cũng được hình thành vào thời này. Chợ và phố kết hợp là thị trường
địa phương của hương, phú nhằm giải quyết nhu cầu của các tầng lớp
nhân dân trong vùng, của tiểu nông và các tầng lớp khác. Cảng Vân
Đồn, nay là các vùng đảo Vân Hải, Ngọc Vừng, Cống Đông thuộc
Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) là quân cảng và thương cảng có dáng vẻ
của quốc tế của nước Đại Việt thời Lý – Trần. Biển cả vốn là con
21
đường giao thông quốc tế quan trọng nhất của nước ta, là mạch nối
giữa Đại Việt và các nước xung quanh. Các cửa biển Hội Thống, Cần
Hải (đều thuộc Nghệ – Tĩnh), Hội Triều (Thanh Hóa) và đặc biệt là
Vân Đồn là những trung tâm buôn bán lớn với nước ngoài, là những
điểm quy tụ đường biển thời Lý – Trần.
Đô thành Thăng Long là trung tâm chính trị, văn hóa đồng thời
cũng là một trung tâm kinh tế lớn nhất của Đại Việt thời bấy giờ.
Thăng Long đến thời Trần căn bản vẫn giữ cấu trúc như đời Lý, cả La
thành, Hoàng thành, Cấm thành và nhiều cung điện vẫn giữ nguyên.
Sự chuyển triều đại từ Lý sang Trần một cách hòa bình không làm
cho Thăng Long thay đổi nhiều; nhà Trần tận dụng những cơ sở đã
được xây dựng từ trước có tu bổ và mở rộng thêm. Về kinh tế xã hội,
đô thành Thăng Long có nhiều bước phát triển cao, sự phát triển kinh
tế của Thăng Long cũng gây ảnh hưởng đến vùng ven. Người buôn
bán và sản xuất chủ yếu cùng là người trong các phường ở Thăng
Long, họ là thợ thủ công kiêm buôn bán, là thương nhân chuyên
nghiệp và không ít là nông dân mua và bán những sản phẩm; ngoài ra
còn có thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Tống. Số người tiêu
thụ hàng hóa đáng kể là thuộc tầng lớp thủ công, thương nhân, nông
dân, sĩ phu, tăng lữ và quan lại. Sản phẩm của các quan xưởng đã
cung cấp một số đồ dùng thiết yếu như: vải, lụa, giấy, gạo, vũ khí.
Kết cấu cư dân và nghề nghiệp của Thăng Long là công, nông,
thương, sĩ và quan chức. Các phường Thăng Long không hoàn toàn
đơn thuần là của thợ thủ công và thương nhân mà có nhiều nông dân.
Kết cấu này là sự phát triển của Thăng Long từ một trung tâm chính
trị mở rộng thành một trung tâm kinh tế – văn hóa.
22
Khu Tức Mặc – Thiên Trường, được khởi đầu xây dựng từ năm
1239, đã nâng vị trí quê hương họ Trần thành một trung tâm chính trị
– kinh tế lớn của cả nước. Tức Mặc căn bản là một khu tiêu thụ,
không phải là một khu vực sản xuất hàng hóa. Đây là nơi tập trung tô
thuế, cống phẩm của các địa phương, là khu vực kinh tế, xã hội đặc
biệt. Tầng lớp thống trị ở đây phải sống dựa vào nông dân cả nước.
Các thành phần với nhiều nghề nghiệp khác nhau: sư tăng, học trò,
thợ thủ công, thương nhân đều sống dựa vào sản xuất nông nghiệp và
nông dân. Thể chế chính trị phường, hương ở đây là những đơn vị
hành chính của chính quyền phong kiến. Những hoạt động quân sự,
chính trị, văn hóa giáo dục, kinh tế của Thăng Long và cả Tức Mặc
đã góp phần thúc đẩy xã hội Đại Việt phát triển là tiêu biểu cho cả
nền văn hóa chung ở thời kỳ này.
Thương nghiệp ở đời Trần tuy có bước phát triển mới, nhưng
chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự cung tự cấp. Tổ chức các phường thủ
công ở Thăng Long còn rất đơn giản, còn gắn chặt với sản xuất nông
nghiệp. Ngoại thương do nhà nước độc quyền, hàng hĩa trao đổi chủ
yếu vẫn là sản phẩm của nền kinh tế tự nhiên, ít có sản phẩm thủ
công. Đến cuối thế kỷ XIV, khi nông nghiệp sa sút và nhà nước kiểm
soát khắt khe việc buôn bán và sản xuất thủ công thì nền kinh tế hàng
hóa rơi vào chỗ bế tắc.
Về sự phân chia đẳng cấp xã hội, đất nước ta bước vào thời đại
nhà Trần trên nền tảng xã hội được xây dựng ổn định và vững chắc từ
thời Lý. Trong quá trình xây dựng chính quyền quý tộc quân chủ vững
mạnh, đồng thời củng cố, phát triển kinh tế, văn hóa mang đậm bản
sắc dân tộc, xã hội thời nhà Trần đã diễn ra sự phân hóa mạnh mẽ.
23
Một xã hội mới với những đẳng cấp mới dần được hình thành. Nhìn
chung trong gần hai thế kỷ, xã hội Trần đã hình thành và tồn tại ba
đẳng cấp chính:
- Đẳng cấp quý tộc, tôn thất – quan lại trong chính quyền quân chủ.
- Đẳng cấp những người bình dân, chủ yếu là nông dân các làng
xã, thợ thủ công và thương nhân, địa chủ.
- Đẳng cấp nô tỳ.
Đẳng cấp thứ nhất chính là giai cấp quý tộc vương hầu, tơn thất
nhà Trần. Các vua Trần giữ một vai trò đặc biệt, vua là người có
quyền tối thượng trong mọi lĩnh vực của nhà nước và xã hội, là người
chủ tể trong các nghi lễ tôn giáo, có quyền sở hữu tối cao về danh
nghĩa đối với toàn bộ ruộng đất tài sản của đất nước. Về quân sự, nhà
vua đồng thời là tổng tư lệnh quân đội, trực tiếp chỉ đạo trong việc
chọn tướng tài, luyện tập quân sĩ, đóng thuyền chiến, chế tạo khí giới.
Về chính trị, các vua Trần tập trung trong tay các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp với một sự chỉ đạo thống nhất, trong đó quyền
lực hành pháp lớn nhất là quyền bổ nhiệm phong cấp, bãi miễn quý
tộc và quan lại trong hệ thống quan chức triều đình. Ngoài ra nhà vua
còn có quyền tối hậu trên các phương diện giáo dục – văn hĩa. Nhà
vua là người đề xướng ra đầu bài thi, cũng như tuyển duyệt người
trúng đỗ trong các kỳ thi Đình.
Những chính sách của nhà nước như mở rộng khoa cử, tuyển
chọn quan lại, người tài bổ sung cho bộ máy nhà nước, khuyến khích
khai hoang lập điền trang đó đã tạo cho nhiều người thuộc tầng lớp
bình dân có điều kiện tham gia quan trường, tham gia đội ngũ cầm
quyền. Họ được ưu đãi những đặc quyền, đặc lợi, được pháp luật nhà
24
nước thừa nhận và bảo vệ. Chính tầng lớp này đã góp phần pha loãng
tính chất quý tộc của nhà nước Trần, tạo nên những biến động trong
đẳng cấp cầm quyền vào buổi cuối Trần.
Đẳng cấp thứ hai gồm chủ yếu là nông dân làng xã, thợ thủ
công, thương nhân và địa chủ bình dân (địa chủ không tham gia quan
chức). Đây là đẳng cấp đông đảo nhất trong xã hội, là lực lượng chủ
yếu để sản xuất và cũng là đẳng cấp gánh vác nhiều nghĩa vụ nhất
trong xã hội. Trong luật pháp của nhà nước và trong các chiếu chỉ của
nhà vua, đẳng cấp này được gọi chung một chữ "dân" hoặc "bách
tính". Giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số cư dân trong xã hội và
là lực lượng sản xuất lớn nhất, đồng thời cũng là giai cấp gánh chịu
mọi trọng trách trong xã hội: sản xuất ra của cải xã hội, đóng thuế, đi
lính, lao dịch, chiến đấu, bảo vệ đất nước… Về cơ bản, người nông dân
làng xã thời Trần sống một cuộc đời tự trị, bình yên, ít bị can thiệp.
Từ thế kỷ XIV trở đi, do sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, nền tài
chính nhà nước kiệt quệ nên các thuế má và phí dịch ngày một tăng.
Năm 1378, đầu tiên nhà nước đánh thuế thân mỗi suất đinh 3 quan
tiền, trong khi dân làng trước kia chỉ đóng thuế ruộng, đã dẫn tới đời
sống của người nông dân ngày một cực khổ. Trong làng xã, việc kiện
tụng tranh chấp ruộng đất và nạn kiêm tính ruộng đất ngày một nhiều.
Sử cũ chép rằng trong những năm đói kém, nhiều dân nghèo gia nô
nổi dậy, nạn trộm cướp hoành hành, bắt đầu xuất hiện tình trạng nông
dân lưu tán. Cái cộng đồng làng xã tạo dựng nên nền móng cho bộ
máy nhà nước trung ương không còn thật vững vàng nữa.
Tóm lại, xét về cơ chế đẳng cấp xã hội thời Trần, người nông
dân làng xã là một đẳng cấp bên dưới bị đẳng cấp quý tộc quan liêu
25
thống trị, và xét về mặt quan hệ giai cấp họ là một giai cấp bị bóc lột
bởi một nhà nước phong kiến tập quyền với chế độ tô thuế khá chặt chẽ.
Bên cạnh những người lao động nông dân làng xã chiếm đa số
cư dân trong xã hội, ở thời Trần số thợ thủ công và thương nhân cũng
là một thành phần đáng kể. Những người thợ thủ công sống chủ yếu
tập trung ở các phường chợ của Thăng Long và rải rác ở các làng xã.
Họ làm nghề thủ công là chính nhưng vẫn gắn bó với đồng ruộng
nông thôn. Tầng lớp thương nhân mới hình thành nhưng đã nhanh
chóng phát triển, tuy nhiên rất ít người sống chuyên buôn bán, họ vẫn
gắn bó với nghề nông và các nghề thủ công khác. Một số trong họ
nhờ buôn bán với thương nhân nước ngoài đã trở nên giàu có, nhưng
thân phận địa vị của họ không có gì thay đổi.
Đẳng cấp cuối cùng bị coi là thấp hèn nhất trong xã hội là nô tỳ.
Nô tỳ xuất thân từ nhiều nguồn gốc: dân nghèo bán mình làm nô lệ.
Tội nhân bị sung làm nô và tù binh. Nô tỳ có nhiều loại: nô tỳ làm
việc trong nhà quý tộc quan lại gọi là "gia nô", hoặc còn gọi là "tư
nô" và nô tỳ của nhà nước làm đồn điền, làm ruộng và các công việc
khác có tính chất công cộng của nhà nước.
Xét về kinh tế, chính trị, xã hội, địa vị của nô tỳ rất thấp hèn.
Nô tỳ không được phép có tư liệu sản xuất trong tay, không có quyền
sử dụng chính bản thân sức lao động của họ mà hoàn toàn phụ thuộc
vào chủ. Nô tỳ bị thích chữ vào mặt mang hàm hiệu của chủ, không
được kết hôn với con cái nhà bách tính. Nô tỳ không thuộc dạng tuyển
quân của triều đình, nhưng họ là gia binh của chủ vương hầu, họ tham
gia chiến đấu dũng cảm và lập nhiều thành tích, tiêu biểu là Yết
Kiêu, Dã Tượng là gia nô của Trần Hưng Đạo. Khi lập công họ không
26
được dự ban thưởng chức tước nhưng được ban thưởng ruộng đất như
trường hợp Phạm Ngãi gia đồng của Hưng Hiếu Vương.
1.1.2. Sự phát triển văn hóa, giáo dục thời kỳ nhà Trần
Trên cơ sở sự phát triển về kinh tế, chính trị – xã hội, nền văn
hóa giáo dục của nước Đại Việt thời kỳ nhà Trần cũng phát triển
mạnh và đạt được những thành tựu rực rỡ, góp phần hình thành phát
triển tư tưởng triết học Trần Nhân Tông.
Trước hết, về giáo dục tiếp tục kế thừa phát triển khoa cử thời
kỳ nhà Lý sang thời kỳ nhà Trần, được sự quan tâm của nhà nước,
việc học và thi cử đã đi vào nền nếp, quy củ. Năm 1253 nhà nước cho
lập Quốc học viện để đào tạo nhân tài. Tiếp sau đó, ở Thăng Long và
các địa phương trong nước trường lớp được dựng lên khá nhiều. Tuy
nhiên, số trường do nhà nước quản lý lại rất ít. Năm 1281, Trần Nhân
Tông lập thêm nhà học ở phủ Thiên Trường. Những trường lớp do nhà
nước trực tiếp đứng ra tổ chức là những trường lớp thuộc cấp nhà
nước. Ngoài ra ngay tại Thăng Long và các vùng lưu vực sông Hồng,
sông Thái Bình cho tới tận Thanh Hóa, Nghệ An đều có thêm nhiều
trường lớp, nhiều học trò và tham gia thi cử ở các trường này. Năm
1256, nhà nước mới phân chia làm "kinh trạng nguyên" và "trại trạng
nguyên", nhưng học ở Thanh Hóa trở vào gọi là "trại"; học trò ở
Trường Yên (Ninh Bình) trở ra gọi là "kinh". Nhưng sự phân chia này
chỉ tồn tại trong vòng 20 năm, đến năm 1275 lại hợp nhất.
Ngoài các trường, lớp do nhà nước tổ chức còn có một số trường
tư, đó là các trường lớp của Chiêu Quốc vương Ích Tắc và của Chu
Văn An, những trường này đều ở Thăng Long. Các loại trường này
đều song song tồn tại và đều có vị trí trong đời sống xã hội của đất
27
nước. Tuy vậy, trừ những trường hợp do nhà nước quản lý là có quy
chế rõ ràng, còn các loại trường lớp khác việc học hết sức tùy tiện, ai
đến học nghe thầy giảng là tự do không bắt buộc. Mãi đến cuối thời
Trần vào năm 1397, nhà nước mới ban ra một quy chế về việc giáo
dục, thi cử như sau: "Nay quy chế ở kinh đã đủ mà ở châu huyện thì
thiếu, làm thế nào để mở rộng đường giáo hóa cho dân ? Nên lệnh
cho các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông, đều đặt một học quan,
ban cho quan điền theo thứ bậc khác nhau phủ châu lớn thì 15 mẫu,
phủ châu vừa 12 mẫu, phủ châu nhỏ 10 mẫu để chỉ dùng cho việc học
trong phủ châu mình. Lộ quan và quan đốc hãy dạy bảo học trò cho
thành tài nghề, cứ đến cuối năm chọn người ưu tú tiến cử lên triều
đình, trẫm sẽ thân hành thi chọn và cất nhắc." [85, tr. 192]
Về khoa cử, năm 1232 nhà Trần đã đặt ra học vị đầu tiên cho
việc thi cử ở nước ta gọi là Thái học sinh, được tổ chức thường xuyên
7 năm một kỳ. Bên cạnh khoa thi trên nhà Trần còn mở các kỳ thi
tuyển chọn các nho sinh hay chữ vào các quán, các sảnh, viện [85, tr.
36] và mở các khoa thi tam giáo (Nho, Phật, Đạo). Năm 1247 nhà
Trần đặt lệ lấy tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa). Về
phép thi, nhà Trần quy định nội dung thi tứ kỳ: “Trước hết thi ám tả
thiên Y quốc và truyện Mục thiên tử để loại bớt. Thứ đến thi Kinh
nghi, Kinh nghĩa, đề thơ (tức thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên) hỏi về
“vương độ khoan mãnh”, theo luật “tài nan xạ trĩ”, về phú thì dùng
thể tám vần “đế đức hiếu sinh, hiệp vụ dân tâm”. Kỳ thứ ba thi chế,
chiếu biểu. Kỳ thứ tư thi đối sách [85, tr. 88]. Đến năm 1396 nhà Trần
xuống chiếu quy định lại cách thi cử. Dùng thể văn tứ kỳ bãi bỏ cách
viết ám tả. Kỳ thứ nhất thi kinh nghĩa. Kỳ thứ hai thi thơ phú. Kỳ thứ
28
ba thi chiếu, chế, biểu. Kỳ thứ tư làm một bài văn sách. Cứ năm trước
thi hương thì năm sau thi hội, người đỗ thì vua thi một bài văn sách để
xếp bậc [85, tr. 189].
Nội dung học và thi cử thời kỳ nhà Trần bao gồm một số nội
dung chính trị, đạo đức của Nho giáo và Phật giáo. Tuy nhiên, do thời
kỳ nhà Trần, nhất là thời Trần Nhân Tông, Phật giáo phát triển cực
thịnh nên trong nội dung giáo dục thời kỳ này triết lý đạo đức nhân
sinh của Phật giáo không chỉ trở thành nền tảng đạo đức xã hội, mà
còn có mặt trong nội dung giáo dục khoa cử.
Trong thời gian tồn tại, trước sau nhà Trần đã tổ chức được 14
khoa thi gồm các kỳ thi tuyển Thái học sinh, chế khóa, thi lại viện để
tuyển lựa trong đám nho sĩ người tài bổ vào làm trong các quán, các,
sảnh, viện và một số khác thi tam giáo, với 273 người đỗ Thái học sinh.
Hàng loạt các nho sĩ đỗ đạt từ các khóa thi trên đã được tuyển
dụng bổ sung vào các chức vụ khác nhau trong bộ máy chính quyền
nhà nước, từ trung ương đến địa phương, đã đóng góp đáng kể vào
công cuộc xây dựng và củng cố chính quyền quân chủ quý tộc Trần.
Ở thời nhà Trần cũng có nhiều trường hợp các nho sinh không qua thi
cử mà vẫn được tuyển dụng vào làm quan. Sử cũ chép, vào năm 1267,
“chọn những nho sinh hay chữ bổ vào Quán, các, sảnh, viện”. “Theo
chế độ cũ không phải là nội nhân (hoạn quan), thì không được làm
hành khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ
văn học mới được giữ quyền bính” [85, tr. 36]. Qua đó chúng ta thấy
việc tuyển dụng, đề bạt nhân tài đã thể hiện chính sách dùng người,
tuyển dụng quan lại của nhà Trần là rất năng động, sáng tạo.
29
Sự phát triển của Nho học và nền giáo dục khoa cử thời Trần đã
góp phần phổ cập Nho giáo trong nhân dân với các quan niệm phổ
biến về tam cương, ngũ thường, trung quân. Về sau nhiều nhà nho,
nhiều tiến sĩ không ra làm quan, ở nhà dạy học đã sản sinh ra nhiều
thầy giáo xuất sắc mà tiêu biểu nhất thời bấy giờ là Chu Văn An. Một
truyền thống tôn sư trọng đạo đã hình thành và bắt đầu tỏa sáng.
Thời Trần, Phật giáo thịnh hành trên cơ sở phát triển từ thời
Lý. Trong buổi đầu, vua Trần không chỉ sùng Phật mà còn có ý thức
sử dụng Phật giáo như một công cụ tư tưởng vì mục đích tu dưỡng đạo
đức, củng cố khối đại đoàn kết nội bộ vương hầu quý tộc, cố kết xã
hội xung quanh nhà nước quân chủ quý tộc Trần. Với ý thức tự lập, tự
cường của một dân tộc đã từng hiên ngang lật đổ ách đô hộ hơn một
ngàn năm, xây dựng cơ đồ vững mạnh từ Đại Cồ Việt đến Đại Việt,
từng nhiều lần đánh bại quân xâm lược, các vua Trần từ đầu đã xây
dựng nên thiền phái Trúc Lâm mang đậm màu sắc dân tộc.
Phật giáo thời Trần không chủ trương xuất thế mà chấp nhận và
gắn bó với cuộc sống đời thường không tìm nơi ẩn tránh ở thiên nhiên
mà hòa vào thiên nhiên, thuận theo thiên nhiên để tu dưỡng diệt dục,
loại trừ những ham muốn trần tục. Khác với nhà Lý, nhà Trần cũng
sùng Phật, theo Phật nhưng không đầu tư quá nhiều vào dựng chùa,
đúc chuông, đúc tượng, mặc dù chùa chiền mọc lên khắp nơi, hẳn là
do tín đồ Phật có mặt đông đảo trong làng xã tự nguyện đầu tư xây
dựng. Duy nhất có một lần vào năm 1256, Trần Thái Tông có đúc 330
quả chuông bằng đồng. Có lẽ nổi bật nhất trong chùa chiền thời Trần
là khu vực Yên Tử gồm các chùa Giải Oan, Vân Yên, Vân Tiêu rải
trên triền núi cao, trở thành trung tâm Phật giáo đương thời đồng thời
30
là di tích thắng cảnh của đất nước. Ngoài ra còn có chùa Phổ Minh
được nhà nước xây dựng vào năm 1262, cùng với hành cung Thiên
Trường, còn lại các chùa lớn nhỏ khác phần nhiều đều do đệ tử, tín đồ
xây dựng. Phật giáo phát triển mạnh trong xã hội thời Trần, tuy nhiên
niềm tin Phật, sùng Phật của các vua Trần sau khi Trần Nhân Tông
qua đời có giảm dần.
Có thể thấy rõ rằng chủ trương phát triển Nho giáo, mở mang
giáo dục khoa cử cùng với sự có mặt của đội ngũ nho sĩ trong bộ máy
nhà nước Trần, đặc biệt là từ 1267, chủ trương kén chọn học trò lấy
người nào có tài năng văn học bổ sung vào giữ việc ở quán, các, sảnh,
viện đã dần trở thành mối quan tâm lớn của vua Trần vì lợi ích thiết
thực trong bộ máy nhà nước quân chủ quý tộc, hơn là niệm Phật
thuyết pháp. Nhà Trần có tổ chức thi tam giáo (Nho – Phật – Đạo)
vào các năm 1227, 1247, nhưng khác với thời Lý về trước, Phật giáo
không còn vị trí trên chính trường mà hòa trộn vào xã hội, ăn sâu bám
rễ vào làng xã. Vào cuối đời nhà Trần, khi tình hình chính trị – xã hội
mất ổn định, loạn lạc nổi lên nhiều, cửa Phật đã không còn giữ được
vẻ trang nghiêm thanh tịch của nó nữa. Nhiều kẻ xấu, du thủ, du thực
lợi dụng núp bóng Phật để làm bậy, trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước.
Năm 1231, nhà nước phải tổ chức thi các thầy chùa. Năm 1396, tiến
hành kiểm soát, sa thải tăng đạo. Người nào thông hiểu đạo Phật sẽ
được trao chức tăng đường, đầu mục và tri cung, tri quán, tri tự, ngoài
ra gọi là tu nhân hoặc thị giả.
Về văn học, vào thời Trần văn học đã có sự phát triển hơn thời
Lý. Lúc này lực lượng sáng tác ngoài các nhà sư còn có quý tộc và
nho sĩ. Do đó, chủ đề của thơ văn thời Trần không những xoay quanh
31
những vấn đề của đạo Phật, mà còn đề cập đến những vấn đề của đạo
Nho, đạo Lão. Đó là những sáng tác văn học phong phú về thể loại,
sâu sắc về nội dung cùng với những công trình nghiên cứu về tự nhiên
và xã hội. Nhưng nổi bật hơn cả là những áng thơ văn thể hiện chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Nguyên – Mông. Điều đáng chú ý là, đến thời
Trần, chữ Nôm được sử dụng rộng rãi trong văn học, chứng tỏ nền
văn hóa, tư tưởng có tính độc lập của dân tộc ta đã phát triển một
cách mạnh mẽ. Chúng ta có thể kể đến bài thơ của Lý Thường Kiệt,
Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn; Thơ Thuật hoài
của Phạm Ngũ Lão; Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu… Đặc
biệt sáng tác bằng quốc âm thời Trần có các bài nổi tiếng như bài phú
Cư trần lạc đạo, bài ca Đắc thú lâm truyền thành đạo của Trần Nhân
Tông; bài phú Vịnh Hoa yên tự của Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền
Quang.
Về sử học, đến thời Trần việc biên soạn những bộ sử của đất
nước đã được đẩy mạnh. Nhiều bộ sử đã xuất hiện vào thời Trần như
Việt sử lược, An nam chí lược, Việt sử cương mục… Đáng chú ý nhất
trong đó là bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. Đặc biệt, lúc bấy giờ ở
nước ta còn xuất hiện những bộ sử chuyên ngành, dã sử và truyền
thuyết của dân tộc, như tác phẩm Thiền uyển tập anh, Việt điện u linh
và Lĩnh Nam chích quái…
Trong thời Trần các ngành nghệ thuật sân khấu, ca vũ nhạc
cũng có những tiến bộ đáng kể. Nhạc cụ ở nước ta thời đó đã khá
phong phú, tuồng, chèo trở thành một hình thức nghệ thuật được cả
cung đình và dân gian ưa thích. Đặc biệt, ngành kiến trúc và điêu
32
khắc đã đạt được những thành tựu quan trọng. Những công trình kiến
trúc nổi bật trong thời Trần có tháp Bình Sơn, chùa Phổ Minh… Chứng
tỏ khả năng kỹ thuật thiết kế và xây dựng của người Việt thời đó khá
cao.
Một số ngành khoa học tự nhiên như thiên văn, lịch pháp, y học
của dân tộc ta thời nhà Trần đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Cuối thời Trần có Đặng Lộ và Trần Nguyên Đán là những nhà thiên
văn và lịch pháp nổi tiếng. Riêng về y học, thời Trần cũng đạt được
kết quả đáng chú ý. Đó là việc Thái y viện nhà Trần đã quan tâm đến
việc dùng thuốc Nam để chữa bệnh cho dân. Trong thời Trần đã xuất
hiện nhà y học và dược học lỗi lạc là Tuệ Tĩnh tức Nguyễn Bá Tĩnh
[10, tr. 175 – 176].
Tóm lại, toàn bộ điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội
Việt Nam thế kỷ XIII – XIV đã đặt ra cho vua tôi nhà Trần nói chung
và Trần Nhân Tông nói riêng nhiệm vụ lịch sử lớn lao; đó là phải “cố
kết lòng dân”, nêu cao tinh thần độc lập dân tộc, bảo vệ lợi ích của
quý tộc nhà Trần với tinh thần điều hòa mâu thuẫn trong lòng xã hội
thời bấy giờ – mâu thuẫn giữa giai cấp quý tộc thống trị với tầng lớp
nông nô, nô tỳ; mâu thuẫn giữa quý tộc tôn thất nhà Trần với tầng lớp
địa chủ quan liêu; xây dựng một thể chế chính trị và nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền vững mạnh, một nước Đại Việt quy mô, bề
thế, có nền văn hóa độc lập nhằm trị nước, an dân và chống lại cuộc
xâm lăng tàn bạo của giặc Nguyên – Mông cũng như chống lại sự ảnh
hưởng của nền văn hóa ngoại lai. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông
ra đời chính là xuất phát từ đòi hỏi cấp thiết đó của lịch sử. Nó không
chỉ đáp ứng nhu cầu về tư tưởng là đưa triết lý đạo đức của nhà Phật
33
trở thành một trong những nền tảng đạo đức cho toàn xã hội trên cơ
sở xây dựng một tổ chức Phật giáo Việt Nam thống nhất mà còn đáp
ứng nhu cầu về chính trị là nhằm thiết lập hệ tư tưởng độc lập, làm
chỗ dựa về mặt tinh thần vững chắc cho xã hội Đại Việt.
1.2. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TÔN GIÁO HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG
Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông không chỉ được hình
thành và phát triển trên cơ sở đặc điểm và nhu cầu của điều kiện lịch
sử, kinh tế, chính trị – xã hội thời kỳ nhà Trần, mà còn là sự kế thừa
những tư tưởng trước đó. Đó chính là tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội nói chung, của triết học nói riêng trong quá trình phát triển.
Xét về mặt văn hóa và về mặt triết lý tôn giáo, tư tưởng triết học
Trần Nhân Tông là kết quả của sự kế thừa, dung hợp các tiền đề tư
tưởng như tư tưởng văn hóa Việt Nam truyền thống, tư tưởng của Tam
giáo: Nho, Đạo và Phật với ba thiền phái nổi tiếng dưới triều đại nhà
Lý là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, và đặc biệt là
triết học Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ – tiền đề trực tiếp của
tư tưởng triết học Trần Nhân Tông.
1.2.1. Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và tư tưởng
của “Tam giáo” với việc hình thành triết học Trần Nhân Tông
Với tư cách là nhà văn hóa, nhà tư tưởng, cuộc đời của Trần
Nhân Tông nói chung, tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông nói
riêng là sự kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc, thể hiện ở ý chí độc
lập, tự chủ, tự cường và tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc.
34
Trước khi các triều đại phong kiến phương Bắc xâm lược nước
ta cũng như trước khi Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo du nhập Việt
Nam, dân tộc Việt đã có một lịch sử dựng nước sớm, một nền văn
minh lâu đời, đó là nền văn minh Sông Hồng và việc hình thành nhà
nước sơ khai – nhà nước Văn Lang (khoảng năm 700 – 258 trước
Công nguyên) và nhà nước Âu Lạc ( khoảng năm 257 – 208 trước
Công nguyên); với “trình độ văn hóa khá cao, có xã hội tổ chức thành
quy củ, tồn tại lâu dài hình thành hàng ngàn năm’’ [28, tr. 106], có
phong tục tập quán, có ngôn ngữ, chữ viết, tín ngưỡng, tôn giáo, có
công cụ kỹ thuật sản xuất cùng với các phương thức sinh hoạt văn hóa
tinh thần phong phú hình thành từ rất sớm, qua các nền văn hóa
Phùng Nguyên (2000 – 1500 tr. CN), Đồng Đậu (1500 – 1100 tr. CN),
Gò Mun, Sơn Vi, Hòa Bình, Đông Sơn (khoảng thế kỷ VII trước CN
đến thế kỷ II sau CN) “biểu hiện bằng các món dụng cụ, trang sức,
trống đồng, thạp đồng, mũi tên đồng, thành quách, v.v… mà người Việt
Nam hiện đại rất tự hào” [27, tr. 57].
Về kinh tế, người Việt cổ đã biết chế tạo và sử dụng vật dụng
sản xuất bằng đồng sau đó là bằng sắt, biết chăn nuôi gia súc và trồng
lúa nước. Trên lĩnh vực tư tưởng người Việt cổ đã biết ý niệm về sự
đối xứng, biết tư duy phân loại và tổng hợp, đặc biệt đã hình thành tư
duy phân đôi lưỡng hợp với những quan niệm về thế giới và nhân
sinh, về cội nguồn của dân tộc rất phong phú và không kém phần sâu
sắc; như quan niệm về tứ phủ, quan niệm về “cha rồng – mẹ tiên”,
“Sơn Tinh – Thủy Tinh”, về Thần trụ trời và các cặp khái niệm phân
đôi lưỡng hợp như “cao – thấp”, “khô – ướt”, “chim – rắn”… Họ cũng
35
đã tin vào sự luân hồi, tuần hoàn của vạn vật và sự tồn tại linh hồn
của con người sau khi chết.
Về mặt tôn giáo, chúng ta biết trước khi tiếp nhận những tôn
giáo ngoại lai, người Việt cổ cũng đã có tín ngưỡng, tôn giáo riêng
của mình, bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Đó là tục
thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng đa thần giáo. Họ tin và thờ cúng các vị
thần linh như Trời, Sấm sét, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Ông Địa, Ông Táo,
thần bảo trợ mùa màng như Thần Lúa, Mẹ Lúa và các vị thần theo
những hiện tượng tự nhiên như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện… Theo họ, các vị thần này rất linh thiêng, đầy quyền năng và có
nhiều phép lạ xuất hiện ở mọi nơi để trừng phạt những kẻ gieo điều
ác, giúp đỡ khen thưởng những người hiền lành, nghèo khổ.
Việc hình thành một nền văn hóa và hình thức nhà nước phôi
thai sớm cùng với việc dân tộc ta liên tiếp phải chống lại các cuộc
xâm lăng của các thế lực phong kiến phương Bắc, đã giúp cho dân tộc
ta hình thành ý thức về quốc gia dân tộc, về tinh thần độc lập, tự chủ,
tự cường dân tộc và tinh thần yêu nước rất sớm thể hiện trong bài thơ
thần của Lý Thường Kiệt như một bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ
nhất của dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm ?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ! [94, tr. 321]
Tinh thần quốc gia dân tộc, độc lập tự chủ và tinh thần yêu
nước ấy đã được kế thừa và phát huy rực rỡ dưới triều đại nhà Trần
nói chung, dưới thời Trần Nhân Tông nói riêng, qua công cuộc xây
36
dựng, kiến thiết một nước Đại Việt thống nhất, có nền văn hóa độc
lập và qua ba lần chống lại cuộc xâm lược tàn bạo của giặc Nguyên –
Mông với tinh thần “Sát Thát”, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền đất nước.
Có thể nói, dưới triều đại nhà Trần tinh thần yêu nước, ý chí độc lập
tự chủ, thống nhất quốc gia dân tộc phát triển đến đỉnh cao. Với tầm
nhìn xa trông rộng của một nhà văn hóa, nhà chính trị, Trần Nhân
Tông đã biết kế thừa truyền thống văn hóa và tinh thần yêu nước của
dân tộc Việt Nam trong lịch sử, hòa quyện chính trị với tư tưởng văn
hóa, để phục vụ cho mục đích dựng nước và giữ nước. Với tinh thần
ấy, dưới triều đại của Trần Nhân Tông đã có hai Hội nghị lịch sử: Hội
nghị tướng lĩnh ở Bình Than năm 1282 và Hội nghị Diên Hồng năm
1284 ? được mở ra, thể hiện ý chí và tinh thần quyết chiến của dân
tộc Việt Nam. Dưới triều đại của Trần Nhân Tông tinh thần yêu nước
và ý thức độc lập dân tộc còn được kế thừa và thể hiện qua tình cảm
mãnh liệt và hào hùng của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ: “Ta
thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt
đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù;
dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da
ngựa, cũng nguyện xin làm .” [95, tr. 387] và ý chí khảng khái trước
quân thù của Trần Bình Trọng: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không
thèm làm vương đất Bắc” [84, tr. 507]. Tinh thần yêu nước ở thời đại
nhà Trần còn thể hiện trong những vần thơ đầy khí phách và niềm tự
hào của Trần Quang Khải:
“Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
37
Non nước ấy ngàn thu.” [95, tr. 424]
Tinh thần yêu nước và ý chí độc lập dân tộc được Trần Nhân
Tông kế thừa và phát triển đến đỉnh cao, còn được thể hiện ở chỗ,
ông đã biết chắt lọc, dung hợp các nguồn tư tưởng trong quá khứ của
dân tộc với Triết lý nhân sinh của Nho, Lão, Phật và đặc biệt là tư
tưởng triết học Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ để sáng tạo nên
dòng thiền mang bản sắc Việt Nam độc đáo, một ý thức hệ Đại Việt độc
lập.
Cùng với việc kế thừa và phát triển các giá trị của tư tưởng và
văn hóa truyền thống Việt Nam được hun đúc nên trong tiến trình
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, tư tưởng triết học Trần
Nhân Tông được hình thành, phát triển còn do ông đã tiếp thu, chắt
lọc các quan điểm khác nhau của Nho, Lão, Phật. Những tư tưởng
tôn giáo này là những luồng tư tưởng bên ngoài, trải qua không ít
thăng trầm trong tiến trình du nhập lâu dài, để tìm chỗ đứng trong đời
sống tinh thần của người Việt. Mỗi tôn giáo có lối đi riêng với những
cách thức khác nhau, cạnh tranh với nhau, khi ôn hòa, khi gay gắt, đã
được dân tộc Việt Nam tiếp nhận, biến đổi, hòa quyện với văn hóa
truyền thống bản địa để trở thành một trong những yếu tố của văn hóa
Việt Nam giàu bản sắc và trở thành tiền đề lý luận cho tư tưởng triết
học Trần Nhân Tông.
Về Nho giáo, theo Đại Việt sử ký toàn thư, thời Tây Hán, tức
khoảng năm 110 trước Công nguyên đến năm 39 sau Công nguyên,
hai viên Thái thú Tích Quang và Nhâm Diên đã “dựng học hiệu, dạy
lễ nghĩa” tại quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Nho giáo bắt đầu truyền
vào Việt Nam từ đó. Sau Tích Quang, Nhâm Diên có nhiều nho sĩ
38
người Hán tài năng được chính quyền phong kiến phương Bắc cử sang
Giao Chỉ để truyền bá Nho giáo, hoặc vì lý do nào đó mà sang lánh
nạn tại Giao Chỉ cũng tham gia vào quá trình truyền bá Nho giáo,
được chính quyền đô hộ trọng dụng.
Nho giáo du nhập Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc không còn là
Nho giáo Khổng – Mạnh nguyên thủy, mà đã được Hán Nho cải tạo
cho thích hợp với chế độ phong kiến trung ương tập quyền nhà Hán.
Trên cơ sở tư tưởng về “Đạo”, “Thiên lý”, “Thiên mệnh”, “trung
dung”, “trung thứ”, “nhân”, “nghĩa”, “trí”, “dũng”, “hiếu”, “kính
đễ”, “chính danh”, “quân tử”, “tiểu nhân” của Khổng Mạnh, Đổng
Trọng Thư (179 – 104 trước Công nguyên) đã cải tạo kết hợp với thần
học, “sấm vĩ”, thần bí hóa các tư tưởng Nho học thành một trào lưu tư
tưởng duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần xã hội phong
kiến thời Hán, với tư tưởng “Thiên bất biến, đạo diệc bất biến’’,
“Thiên nhân cảm ứng”, “Vương quyền thần thụ”, “tính tam phẩm”,
“tam thống, tam chính”, “dương tôn, âm ty”, trong quan điểm về vũ
trụ và nhân sinh cũng như trong tư tưởng về chính trị và đạo đức xã
hội. Nội dung Nho giáo du nhập, truyền bá vào Việt Nam thời kỳ này
đó là tư tưởng Thiên mệnh, tư tưởng tôn quân đại thống nhất, đề cao
quyền uy của Thiên tử, truyền bá thuyết “tam cương ngũ thường”, “tam
tòng tứ đức”… vừa là công cụ tinh thần phục vụ cho trật tự của bộ máy
nhà nước quan liêu, vừa được thần bí hóa lợi dụng yếu tố mê tín của
nhân dân.
Trong việc truyền bá Nho giáo, Sĩ Nhiếp (137 – 266) là người
có công lao lớn nhất. Theo Đại Việt sử ký toàn thư Sĩ Nhiếp “người
huyện Quảng Tín, quận Thượng Ngô. Tổ tiên ông là người Vấn
39
Dương nước Lỗ, hồi loạn Vương Mãng ở Bắc triều, tránh sang ở đất
Việt ta, đến Vương là sáu đời. Khi còn ít tuổi, Vương du học ở kinh đô
nhà Hán, theo học Lưu Tử Kỳ người Dĩnh Xuyên, chuyên trị sách Tả
thị xuân thu, có làm chú giải” [84, tr. 161]. Chính vì thế, sử thần Ngô
Sĩ Liên đã nói: “Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn
hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không chỉ ở đương thời mà
còn truyền mãi đời sau, há chả lớn sao?” [84, tr.164]. Do vậy Sĩ
Nhiếp đã được tôn là “Nam Giao học tổ”, các nhà nho Việt Nam sau
này kính trọng Sĩ Nhiếp, tôn ông là Sĩ Vương. Nhưng thực ra Sĩ Nhiếp
không phải là nhà nho chính thống, mà là một nhà Đạo học. Vào thời
Sĩ Nhiếp trong số những người tài và danh sỹ nhà Hán do hoạn nạn
chạy sang lánh tại Giao Châu có tới hàng trăm, được Sĩ Nhiếp tạo
điều kiện cùng với ông đẩy mạnh việc truyền bá Nho giáo và Hán
học ở Giao Châu. Họ mở trường dạy học ở Luy Lâu, Long Biên, Tư
Phố, Cư Phong… Những người theo học ở các trường này không chỉ là
con em của những người Hán cai trị và những người chạy sang Giao
Châu lánh nạn, mà còn có cả con em của những người bản địa giàu có
hay con em của những người hợp tác với chính quyền đô hộ. Trong số
đó, theo Bắc sử có một số người Giao Chỉ, Cửu Chân học hành đỗ đạt
được bổ làm quan ở Trung Quốc như Trương Trọng, Lý Cần, Lý Tiến,
Bốc Long...
Từ thời nhà Tấn đến nhà Lương do loạn lạc ở Trung Quốc nên
Nho học ở nước ta thời kỳ này không có tiến bộ nào. Đến thời kỳ Tùy
Đường, khi Trung Quốc thống nhất trở lại chính sách đồng hóa của
nhà nước phong kiến phương Bắc lại được tiếp tục đẩy mạnh, việc
truyền bá Nho giáo và Hán học vào Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
40
Nhiều người Giao Châu đã tới tận kinh đô Trường An nhà Đường du
học. Thời Đường ở Cửu Chân, hai anh em Khương Công Phụ và
Khương Công Phục đã đỗ tiến sĩ ở kinh đô, đều được làm quan ở triều
đình. Tại Giao Châu, thời Đường cũng đã xuất hiện Lưu Hữu Phương
là người nổi tiếng thơ văn.
Nhìn một cách tổng quát thời Bắc thuộc Nho giáo ít đi vào các
tầng lớp xã hội và chưa có vai trò gì đáng kể trong xã hội Việt Nam.
Trừ cuộc khởi nghĩa của Lí Bí, có một nhà nho là Tinh Thiều, người
bản xứ Giao Châu, không thuộc “danh gia vọng tộc” đi theo, còn nhìn
chung một loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân ta liên tiếp
nổ ra thời kỳ Bắc thuộc chống quân xâm lược phương Bắc đều do các
hào trưởng lãnh đạo. Sở dĩ có điều đó là vì, một mặt, muốn học Nho
thì phải biết chữ Hán, một thứ chữ rất khó học và những người có
điều kiện học tập chỉ tập trung ở một số ít con em quan lại thống trị
và con em của những người bản địa giàu có, có thế lực; mặt khác, sự
du nhập của Nho giáo lại đi theo sau vó ngựa của quân xâm lược và
sự truyền bá văn hóa, truyền bá Nho giáo vào Việt Nam lại nằm
trong chính sách đồng hóa của các thế lực phong kiến phương Bắc,
nhằm nô dịch đô hộ dân tộc ta.
Để khẳng định tinh thần độc lập dân tộc chống âm mưu đồng
hóa bảo tồn nòi giống, bảo tồn di sản văn hóa cổ truyền dân tộc, bảo
tồn tiếng nói, chữ viết, tín ngưỡng, phong tục tập quán, nhân dân ta
không thể không phản ứng lại hệ tư tưởng thống trị của kẻ xâm lược
đưa vào. Nhưng dân tộc ta cũng biết tiếp thu tinh hoa văn hóa ngoại
lai để làm phong phú và sâu sắc nền văn hóa vốn có của dân tộc.
Người Việt, theo một số học giả, đã dùng Phật giáo làm tấm lá chắn
41
của chính quyền đô hộ. Bởi vì Phật giáo với tư tưởng “từ, bi, hỉ, xả”
đứng về người đau khổ, đứng về phía dân tộc, rất gần gũi với quan
niệm phúc đức, nhân ái, vị tha, hòa hiếu của người Việt.
Từ sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng
Vương hiệu (939) nền độc lập và chủ quyền quốc gia thật sự được
khôi phục. Sau đó, nhà Đinh – Tiền Lê (968 – 1009) tiếp tục trị vì đất
nước. Lúc này, các nhà nước phong kiến dân tộc quá bận rộn với việc
chống giặc ngoại xâm, ổn định trật tự xã hội và thực hiện thống nhất
nước nhà nên chưa có điều kiện chăm lo văn hóa giáo dục. Việc học
hầu hết “do nhà chùa đảm nhận. Tam giáo tự do lưu hành. Nhà nước
sử dụng nhân tài từ cả ba nguồn – Phật, Đạo, Nho – mà trước hết là từ
Phật giáo, rồi kế đó là Đạo giáo; còn Nho giáo thì chưa được trọng thị
lắm, nhân tài Nho giáo hãy còn hiếm hoi, mờ nhạt như sao buổi sáng.”
[27, tr. 64]
Đến triều Lý (1010 – 1225), vương triều được xem là đã mở ra
kỷ nguyên văn minh Đại Việt với những thành tựu phát triển về mọi
mặt, nhất là về văn hóa tinh thần và tư tưởng, xã hội phong kiến bắt
đầu phát triển mạnh mẽ. Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều được nhà
nước tạo điều kiện phát triển, bổ sung cho nhau, đáp ứng nhu cầu tổ
chức quản lý xã hội, củng cố vương triều, củng cố đất nước của giai
cấp thống trị, đồng thời đáp ứng cả nhu cầu tư tưởng, đời sống tâm
linh, đạo đức của các tầng lớp xã hội. Trong đó, Phật giáo – học
thuyết được coi là quốc giáo từ ba triều đại trước và đóng vai trò chủ
chốt trong việc kiến lập nên vương triều Lý – được nhà Lý hết sức coi
trọng, chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, “muốn
trị nước, củng cố chế độ phong kiến, thì ở vào thế một nước láng
42
giềng có mối quan hệ văn hóa và chủng tộc với Trung Quốc, nhà Lý
không thể không cậy vào Nho giáo mỗi lúc một thêm nhiều” [27, tr.
66].
Năm 1070, vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) đã chấp thuận
việc xây Văn Miếu ngay tại kinh thành Thăng Long, cho đắp tượng
Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối (gồm Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử
Tư, Mạnh Tử) thờ phụng ở Văn Miếu, cho vẽ tượng Thất thập nhị
hiền (72 học trò giỏi của Khổng Tử) để bốn mùa cúng tế. Năm 1075,
nhà Lý mở khoa thi Nho giáo đầu tiên, chính thức khai sinh chế độ thi
cử Nho giáo ở nước ta. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại: “Mùa xuân
tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam
trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học” [84, tr. 280].
Năm 1076 nhà Lý đã cho lập Quốc tử giám ở ngay giữa kinh thành và
“chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc tử giám”
[84, tr. 280]. Từ đây, con em quý tộc họ Lý chính thức bắt đầu được
đào tạo theo Nho giáo, nền đại học nước ta được khai sinh. Năm 1156,
nhà Lý cho lập miếu riêng để thờ Khổng Tử, thể hiện khuynh hướng
muốn dựng Nho giáo thành một giáo lý độc tôn.
Đến triều Trần (1226 – 1400), Nho giáo và Nho học có sự khởi
sắc hơn thời Lý. Về cơ bản, nhà Trần vẫn tôn chuộng đạo Phật trong
bối cảnh khoan dung “Tam giáo đồng nguyên” mà chủ yếu là sự kết
hợp giữa Phật và Nho. Nhưng với bài học từ các cuộc nổi dậy của
nông dân vào cuối đời Lý, đồng thời để thể hiện duy trì quyền lực và
bảo đảm trật tự xã hội, giai cấp thống trị nhà Trần không những tiếp
tục thực hiện việc giảng dạy Nho học, phát triển và hoàn thiện chế độ
khoa cử, mà còn tôn tạo Văn Miếu, tế tự Khổng Tử, du nhập kinh
43
điển làm cho Nho giáo phát triển lên một bước mới. Trên cơ sở Quốc
tử giám được lập từ đời Lý, nhà Trần lập ra các trường Quốc tử viện,
Quốc học viện, Thái học, Nhất toát trai, Tư thiện đường, Thiên trường
phủ học, Lạn Kha thư viện v.v... đã củng cố việc học và mở rộng đối
tượng học tập. Năm 1236, nhà Trần đặt chức Thượng thư tri Quốc tử
viện, đưa con em văn thần, tụng thần (chức quan tư pháp) vào học.
Năm 1253, nhà nước cho lập Quốc học viện, đắp tượng Khổng Tử,
Chu Công và Á Thánh (Mạnh Tử), vẽ tranh 72 người hiền để thờ [85,
tr. 25], và năm Nhâm Thân, /Thiệu Long/ năm thứ 15 còn “xuống
chiếu vời nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện giảng tứ thư lục kinh”
[85, tr. 25]. Năm 1272, vua Trần Thánh Tông “xuống chiếu tìm người
tài giỏi, đạo đức thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc tử giám,
tìm người có thể giảng bàn ý nghĩa của Tứ thư ngũ kinh sung vào hầu
nơi vua đọc sách” [85, tr. 39]. Về khoa cử, năm 1232 nhà Trần đặt ra
học vị đầu tiên cho thi cử Nho giáo ở nước ta, là học vị Thái học sinh,
học vị thuộc hàng cao nhất (sau đổi thành Tiến sĩ). Các kỳ thi Thái
học sinh được tổ chức quy củ và thường xuyên, bảy năm một kỳ. Nội
dung và quy chế thi được quy định chặt chẽ. Năm 1304, thi kẻ sĩ trong
nước, có tất cả 44 người đỗ Thái học sinh.
Có thể thấy chế độ giáo dục, khoa cử đời Trần đã nâng cao địa
vị Nho giáo thêm một bậc so với thời Lý, đồng thời đã tạo một tầng
lớp nho sĩ ngày càng đông, có ảnh hưởng ngày càng lớn trong triều
đình và giới quý tộc, trong đó có những gương mặt nổi bật như Lê
Văn Hưu, Chu Văn An, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương
Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi… Nhiều nho sĩ được bổ vào các chức ở Viện
Hàn lâm, các cơ quan hành khiển, sung vào các phái bộ sứ thần hoặc
44
tiếp sứ ở Trung Quốc, đóng góp quan trọng vào công cuộc ngoại giao
cũng như chính trị… Thế lực họ ngày càng mạnh, nắm vững nhiều
chức vụ trọng yếu trong bộ máy nhà nước phong kiến và “họ lần lần
có đủ uy lực chẳng những để dám công khai phản đối một số đặc
quyền đặc lợi của quý tộc, mà còn công khai tiến công vào Phật giáo
lúc Phật giáo còn là tôn giáo của nhà vua” [27, tr. 69]. Trương Hán
Siêu, khi được soạn văn bia chùa Khai Nghiêm ở Bắc Giang đã viết:
“Chùa bỏ rồi lại dựng, đã chẳng phải ý của ta. Dựng bia rồi khắc chữ,
ta biết nói chuyện gì. Ngày nay thánh triều muốn truyền bá phong
hóa nhà vua, để chấn hưng phong tục đang bị suy đồi. Dị đoan đáng
phải truất bỏ, thánh đạo nên được phục hưng. Làm sĩ đại phu, không
phải đạo Nghiêu Thuấn thì không trình bày, không phải đạo Khổng
Mạnh thì không trước thuật. Thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện Phật, ta
định lừa dối ai đây ?” [85, tr. 134 – 135]
Sự phê phán, bài bác Phật giáo của các nho thần thực chất là
cuộc đấu tranh tư tưởng giữa một bên là tiếng nói đại diện cho tầng
lớp địa chủ quan liêu và một bên là tiếng nói đại diện cho tầng lớp
quý tộc tôn thất nhà Trần. Nó cũng không chỉ đơn thuần biểu hiện
trên phương diện tư tưởng và tôn giáo mà sâu xa hơn chính là “muốn
làm sáng đạo thánh hiền”, chấn hưng “thánh đạo”, bác bỏ cả thể chế
xã hội của tầng lớp quý tộc nhà Trần. Cho nên họ đã bị những người
bảo vệ cho tư tưởng, chế độ, nhà nước vương triều Trần lên tiếng kết
tội khá gay gắt. “Phan Phu Tiên đã nói: “Triều thần như bọn Lê Bá
Quát, Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi chế độ.” Vua nói: “Nhà nước đã
có phép tắc riêng, Nam Bắc khác nhau, nếu nghe kế của bọn học trò
mặt trắng tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay.” [85, tr.138]
45
Cũng như các vị vua trước kia của triều đại nhà Trần, Nho giáo
không chỉ ảnh hưởng đến Trần Nhân Tông trong việc trị nước, an dân,
mà còn ảnh hưởng đến nội dung tư tưởng triết học của ông. Điều này
được phản ánh rõ nét qua các bài thơ thể hiện tư tưởng của mình,
Trần Nhân Tông từng nhiều lần đề cập đến các điển tích Nho giáo,
nhắc đến Nghiêu, Thuấn; đến Kinh đến Dịch và sử dụng nhiều quan
điểm, khái niệm quan trọng của Nho giáo khi bàn về vấn đề đạo đức
nhân sinh, như “Trong đạo nghĩa, khoảng cơ quan, đã lọt lẫn trường
Kinh cửa Tổ’’[95, tr. 507], “ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới
trượng phu trung hiếu’’ [95, tr. 507], “Sống mà không giúp gì cho đời
là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu” [95, tr. 477] qua một loạt các
phạm trù đạo đức nhân sinh của Nho giáo như: “đạo nghĩa”, “trung”,
“hiếu”, “thờ chúa”, “thờ cha”, “thờ thầy”, “trượng phu”, “xem kinh”,
“đọc lục”, “học đạo”…
Không ảnh hưởng lớn như Nho giáo và Phật giáo, nhưng Đạo
giáo cũng giữ một vai trò nhất định và là một trong những tiền đề lý
luận của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông. Theo các tài liệu nghiên
cứu, người ta đều cho rằng, Đạo giáo du nhập Việt Nam thời kỳ Bắc
thuộc có lẽ cùng thời với Nho giáo. Về mặt học thuật, cơ sở lý luận
của Đạo giáo là bắt nguồn từ học thuyết triết học Lão – Trang. Tuy
nhiên sau thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc, Đạo giáo bắt đầu rời bỏ
siêu hình học trong lý luận về phạm trù “đạo” có tính chất trừu tượng,
tự nhiên, vô vi và đi vào con đường tu tiên, tìm kiếm sự trường sinh
bất tử, kết hợp với các hiện tượng mê tín dị đoan để trở thành phái
Hoàng Lão. Với tư cách là một trường phái tư tưởng, ở Việt Nam Đạo
giáo không ảnh hưởng lớn bằng Phật giáo và Nho giáo. Nếu Đạo gia
46
ảnh hưởng nhiều đến tầng lớp trí thức thì Đạo giáo lại ảnh hưởng
trong dân chúng. Trong Đạo giáo lại chia thành hai khuynh hướng, là
Đạo thần tiên và Đạo phù thủy. Đạo giáo thần tiên ảnh hưởng đến
vua quan quý tộc ở tư tưởng tiêu dao, khoáng đạt, sống ung dung tự
tại, còn Đạo phù thủy lại hòa nhập với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền
của nhân dân. Nhưng Đạo giáo Việt Nam không giống với Đạo giáo ở
Trung Quốc, bởi vì, Đạo giáo Việt Nam có tiền đề tư tưởng, nguồn
gốc lý luận không chỉ từ phía Trung Quốc, mà đã được Việt hóa trên
cơ sở tín ngưỡng, ma thuật và tư tưởng phiếm thần bản địa. Điều đó
được biểu hiện qua việc Đạo giáo Việt Nam ngoài việc vay mượn,
tiếp nhận nhiều vị thần vốn có trong Đạo giáo Trung Quốc như Lão
Tử (Thái Thượng Lão Quân), Quan Công, Lão Đồng Tân, Văn Sương
Đế Quân, Hiên Thiên Chấn Vũ… tín đồ Đạo giáo Việt Nam sau này
đã dung hợp Đạo giáo với tín ngưỡng bản địa để tạo ra các vị thần
riêng của mình như, tục thờ Tứ bất tử gồm Bà Chúa Liễu Hạnh, Thần
núi Tản Viên, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, như tín ngưỡng thờ mẫu
(Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa), tục thờ Tam phủ,
Tứ phủ… mà mỗi vị thần này đều có sự tích công trạng riêng và đi
kèm là các hình thức lễ nghi thờ cúng riêng.
Đến thời kỳ nhà Lý, Đạo giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong
đời sống tinh thần xã hội, biểu hiện ở việc các thiền sư trong một số
trường hợp đã sử dụng đến quan điểm của Đạo gia về thuyết vô vi để
bàn cách trị nước, như thiền sư Pháp Thuận và ở việc xây dựng nhiều
miếu thờ cũng như sự trọng vọng tin dùng các đạo sĩ, nổi bật là đạo sĩ
Thông Hiền. Đến thời nhà Trần, Đạo giáo hòa nhập rộng rãi vào tín
ngưỡng dân gian của cư dân đất Việt, tạo nên sự dung hợp trong tinh
47
thần Tam giáo đồng nguyên. Các thiền sư nổi tiếng để thu phục lòng
người, xiển dương Phật pháp cho quần chúng, đã sử dụng những bùa
phép ma thuật khá phù hợp với tín ngưỡng dân gian của nhân dân ta,
kết hợp với yếu tố Mật tông để cầu đảo, cầu phúc, bốc thuốc chữa
bệnh, trừ diệt tà ma. Nhiều bậc danh tăng được người đời hết mực tôn
kính với tài năng đức độ và năng lực thần thông của họ trong việc phù
trợ chính quyền như thiền sư Khuông Việt, thiền sư Vạn Hạnh, thiền
sư Không Lộ, thiền sư Giác Hải… Tôn thất nhà Trần cũng rất tin theo
các đạo sĩ như khi đạo sĩ Thái Thanh cầu tự cho vua Thái Tông “đọc
sớ xong [đạo sĩ] tâu vua: “Thượng đế đã y lời sớ tâu, sắp sai Chiêu
Văn đồng tử giáng sinh ở trần bốn thế kỷ”. Thế rồi hậu cung có
mang. Sau quả nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ “Chiêu Văn
đồng tử”, nét chữ rất rõ.” [85, tr. 26]. Đạo giáo trong tổ hợp tam giáo
đời Trần là sự kết hợp giữa triết lý vô ngã của Phật giáo, tính chất
duy lý của Nho giáo và các hình thức tín ngưỡng dân gian của người
Việt, nên không hoàn toàn mang tính chất ma thuật thần bí, mà hết
sức thuần phác.
Trong tư tưởng triết học của mình Trần Nhân Tông cũng ảnh
hưởng quan điểm của Đạo giáo, nhưng sự ảnh hưởng đó chủ yếu trên
cơ sở triết lý của Đạo gia, chứ không phải là sự ảnh hưởng trên lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo, ma thuật. Trong triết lý nhân sinh của mình,
Trần Nhân Tông đề cao quan điểm “tiêu dao”, hòa với tự nhiên vô vi,
sống ung dung tự tại nơi “non xanh”, “nước biếc”, hoặc nơi thôn dã
thanh bình, “ăn rau trái”, “vận giấy vận sồi”, “lánh thị phi, ghê danh
sắc” [95, tr. 505 – 507], “Công danh chẳng trọng. Phú quý chẳng
48
màng”, “Kiếm chốn dưỡng thân; khuất tịch non cao, náu mình sơn
dã.” [95, tr. 533]
Một trong những tiền đề lý luận quan trọng nhất góp phần
hình thành nên tư tưởng triết học Trần Nhân Tông đó là Phật giáo.
Vấn đề sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam cho đến nay vẫn còn
nhiều quan điểm khác nhau. Theo Truyện nhất dạ trạch trong Lĩnh
Nam trích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú, vào đời Hùng Vương thứ
3 tức khoảng năm 512 trước Công nguyên ở núi Quỳnh Viên ngoài
biển, có một tiểu tăng tên là Ngưỡng Quảng (có sách gọi là Phật
Quang) đã truyền phép cho Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử trở về giảng
lại đạo Phật cho Tiên Dung, Tiên Dung bèn giác ngộ và cả hai bỏ phố
phường cơ nghiệp để tìm thầy học đạo. Như vậy, theo truyền thuyết
Phật giáo truyền vào nước ta khoảng cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ
thứ V trước Công nguyên. Nhưng đó chỉ là truyền thuyết.
Một số quan điểm khác lại cho rằng Phật giáo vào nước ta
khoảng thế kỷ thứ nhất, khi nước ta phụ thuộc nhà Hán. Khi đó ở Việt
Nam đã có một trung tâm Phật giáo nổi tiếng Luy Lâu, được thành
lập là do sự viếng thăm của các thương gia và các tăng sĩ Ấn Độ, trực
tiếp bằng đường biển chứ không phải từ Trung Hoa truyền xuống.
Trong Thiền uyển tập anh, phần tiểu sử thiền sư Thông Biện có đoạn
nói rằng Tùy Văn Đế muốn hỗ trợ tam bảo đã xây xá lợi để thờ 49
nơi, làm hơn 150 ngôi chùa tháp. Ông muốn làm chùa tháp ở Giao
Châu bèn sai pháp sư Đàm Thiên chọn một số danh tăng sang đó để
giao hóa, khiến mọi người đều biết đến Đạo Bồ đề. Pháp sư Đàm
Thiên tâu: “xứ Giao Châu có đường thông trực tiếp với Thiên Trúc.
Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu đã có tới
49
20 ngôi bảo tháp, độ được hơn 500 vị tăng và dịch được 15 quyển kinh
rồi” [49, tr. 91 – 92]. Điều đó chứng tỏ Phật giáo đến Giang Đông
chưa đầy đủ thì Luy Lâu đã trở thành trung tâm Phật giáo ở nước ta.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng vào thời Sỹ Nhiếp
(187 –226) Phật giáo không chỉ có mặt mà còn phát triển khá hưng
thịnh ở Việt Nam. Trong Đại Việt sử ký toàn thư c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thvnu0069.pdf