Tài liệu Đề tài Trồng rừng Tràm trên những vùng đất chua nặng ở đồng bằng sông Cửu Long và nông dụng thương phẩm mới của nó: SAPROF TEAM FOR JAPAN BANK FOR
INTERNATIONAL COOPERATION (JBIC)
Trồng rừng Tràm trên những vùng
Đất chua Nặng ở Đồng bằng sông Cửu Long
và Công dụng Thương phẩm mới của nó
Nhóm Nghiên Cúu
Dương Văn Ni, Lê Đăng Khoa, Ngô Thanh Bình: Trung tâm nghiên cứu Hòa An, Đại học Cần Thơ
Junichi Ito, Haru Omura: Worldlink Japan
Tháng 9, 2005
2
Nội dung
Mở đầu
Chương 1 Chính sách Phát triển Nông thôn
1-1 Phát triển Nông thôn và Chính sách Giảm nghèo
1-2 Chính sách Trồng rừng (Dự án Quốc gia về Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng)
1-3 Hoàn cảnh kinh tế -xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long
Chương 2 Nghiên cứu ở ba Tỉnh (Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang)
2-1 Chính sách Trồng rừng
2-2 Hiện trạng của những Vùng Khảo sát
2-2-1 Chọn những Làng, Quận và Tỉnh để Khảo sát
2-2-2 Phân bố Đất chua nặng, Sử dụng Đất và Trồng rừng Tràm
2-2-3 Sản xuất Nông trại
2-2-4 Điều kiện Tài chính
2-3 Hoàn cảnh kinh tế-xã hội của Cư dân trong vùng
2-3-1 Cơ cấu công nghiệp
2-3-2 Điều kiện s...
95 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Trồng rừng Tràm trên những vùng đất chua nặng ở đồng bằng sông Cửu Long và nông dụng thương phẩm mới của nó, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SAPROF TEAM FOR JAPAN BANK FOR
INTERNATIONAL COOPERATION (JBIC)
Trồng rừng Tràm trên những vùng
Đất chua Nặng ở Đồng bằng sông Cửu Long
và Công dụng Thương phẩm mới của nó
Nhóm Nghiên Cúu
Dương Văn Ni, Lê Đăng Khoa, Ngô Thanh Bình: Trung tâm nghiên cứu Hòa An, Đại học Cần Thơ
Junichi Ito, Haru Omura: Worldlink Japan
Tháng 9, 2005
2
Nội dung
Mở đầu
Chương 1 Chính sách Phát triển Nông thôn
1-1 Phát triển Nông thôn và Chính sách Giảm nghèo
1-2 Chính sách Trồng rừng (Dự án Quốc gia về Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng)
1-3 Hoàn cảnh kinh tế -xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long
Chương 2 Nghiên cứu ở ba Tỉnh (Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang)
2-1 Chính sách Trồng rừng
2-2 Hiện trạng của những Vùng Khảo sát
2-2-1 Chọn những Làng, Quận và Tỉnh để Khảo sát
2-2-2 Phân bố Đất chua nặng, Sử dụng Đất và Trồng rừng Tràm
2-2-3 Sản xuất Nông trại
2-2-4 Điều kiện Tài chính
2-3 Hoàn cảnh kinh tế-xã hội của Cư dân trong vùng
2-3-1 Cơ cấu công nghiệp
2-3-2 Điều kiện sống của Nông dân
2-4 Dự án hỗ trợ
2-4-1 Hỗ trợ bởi các Tổ chức Quốc tế
2-4-2 Hỗ trợ bởi NGO và những tổ chức khác
Chương 3 Sử dụng và Thị trường của Tràm
3-1 Hiện trạng Tập quán Sử dụng và Dự đoán Nguồn cung cấp
3-1-1 Hiện trạng và Thị trường về Cừ
3-1-2 Hiện trạng Trồng rừng và Dự đoán Nguồn cung cấp Tràm
3-1-3 Các Tập quán Sử dụng khác và Nét chính của rừng Tràm
3-2 Sự cần thiết Phát triển Thị trường mới
3-2-1 Công nghiệp Bột giấy và Giấy
3-2-2 Công nghiệp Xuất khẩu Ván Việt Nam
3-2-3 Công nghiệp Xuất khẩu đồ gỗ Nội thất
3-3 Đặc điểm Khoa học và Phát triển Sử dụng rừng Tràm
3-3-1 Đặc điểm Vật lý và Cơ học của Tràm
3-3-2 Tràm dùng làm gỗ Nội thất
3-3-3 Kết quả các Thử nghiệm đặc điểm về Bột giấy và Giấy
3-3-4 Khả năng và Vấn đề của Tràm làm Vật liệu Xây dựng
3-3-5 Hệ thống Vận chuyển cần thiết để cung cấp cho các Thị trường mới (Gồm cả xây dựng
đường Rừng)
Chương 4 Cải thiện Môi trường sinh thái của Tràm
4-1 Tràm và Sự làm Màu mỡ đất
3
4-2 Tính khả thi của Dự án CDM
Chương 5 Dự án Mô hình Trồng rừng Tràm bởi Vốn Vay Nhật và các công việc liên hệ
5-1 Cơ sở và Sự cần thiết của Dự án
5-1-1 Vấn đề 1: Chi phí Trồng rừng và Giá Thị trường
5-1-2 Vấn đề 2: Trồng rừng, Công nghệ Chế biến, và Hệ thống Vận chuyển cần cho các Công
dụng mới
5-1-3 Vấn đề 3: Nghiên cứu và Phát triển Tràm cho Thị trường mới
5-1-4 Vấn đề 4: Cuộc sống tốt hơn cho Nông dân
5-2 Trung tâm Sáng lập Tràm (MPC)
5-2-1 Nhóm Nghiên cứu và Phát triển các Nhu cầu mới của Tràm
5-2-2 Nhóm Hỗ trợ về Công nghệ và Quản lý Trồng rừng
5-2-3 Nhóm Hỗ trợ về Hệ thống Phân phối và Công nghiệp liên hệ đến Tràm
5-2-4 Nhóm Phát triển và Hỗ trợ về Hệ thống Canh tác mới
5-2-5 Bổ sung về Tài chính và Tổ chức Nông dân
5-3 Dự án Trồng rừng điểm của Trung tâm Sáng lập Tràm
5-3-1 Chính sách cơ bản của Dự án
5-3-2 Nét chính của Dự án
5-3-3 Tổ chức Dự án
5-4 Ngân sách và Thời biểu Dự án của Trung tâm Sáng lập Tràm
5-5 Kết luận
BỔ SUNG
1- Oji Paper Co., Ltd “Evaluation report of Melaleuca”
4
Danh sách Từ Viết tắt
BDT Born Dry Ton
C&F Cost and Freight
CREST Core Research for Evolutional Science and Technology
FSIV Forest Science Institute of Viet Nam
FSSIV Forest Science Sub-institute of South Viet Nam
HAWA Handicraft and Wood Industry Association
JBIC Japan Bank for International Cooperation
JICA Japan International Cooperation Agency
MAI Mean Annual Increment
MARD Ministry of Agriculture and Rural Development
MDF Medium Density Fiber Board
MPI Ministry of Planning and Investment
NGO Non Governmental Organization
OXFAM Oxford Committee for Famine Relief
PPC Provincial People’s Committee
R&D Research and Development
TFAP Tropical Forestry Action Program
TOR Terms of Reference
VBARD Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development
VBSP Vietnam Bank for Social Policies
VINAPACO Vietnam Paper Corporation
WB World Bank
Tỉ giá
(USD) US$ 1.00 = 15.800 VND (Việt Nam Đồng)
5
Mở đầu
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng bằng rộng lớn trải dài xuống hạ lưu sông Cửu Long quốc tế
xuyên qua 6 nước (tỉnh Yunnan - miền Nam Trung Quốc, Thái Lan, Myanma, Lào, Cambodia và Việt
Nam), và khoảng 75% của 3,9 triệu ha Đồng bằng sông Cửu Long thuộc nước Công Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam (Việt Nam). Phần Đồng bằng sông Cửu Long thuộc nước Việt Nam được ưu đải với
đất phì nhiêu và vùng sản xuất lúa nổi tiếng được gọi là “Vựa Lúa châu Á”.
Tuy nhiên phần đất phì nhiêu chỉ giới hạn trong khoảng 1,1 triệu ha của lưu vực hai sông lớn, sông Hậu,
sông Tiền và các nhánh của chúng. Phần còn lại khoảng 2,8 ha cấu tạo bởi các loại đất như đất phèn
(1,08 triệu ha), đát chua nặng (510.000 ha), và đất nhiễm mặn do ảnh hưởng của thủy triều (810.000 ha),
không loại nào trong các loại đất này thích hợp cho nông sản.
Trên đất không thích hợp đó, cư dân đã cải tạo đất bằng nhiều cách để trồng hoa màu. Nông dân đã
bán Tràm trồng tự nhiên để sống vì sản xuất nông nghiệp trên đất chua thật thấp và lúa chỉ có thể trồng
một vụ trong năm.
Từ lâu rừng Tràm được bán như hàng hóa. Tràm thường được dùng làm cừ, nước hoa, củi đốt và
nhiều sản phẩm khác, nên Tràm là nguồn thu nhập có giá trị cho nông dân trên đát chua. Trên hết, từ
lâu cây Tràm với đặc tính chịu nước và khó mục được dùng làm cừ trong công nghệ dân dụng ở phía
Nam Việt Nam.
Công nghệ dân dụng và nhu cầu xây dựng gia tăng khi kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng có nhịp độ
từ năm 1990, điều này thúc đẩy nhu cầu Tràm làm cừ móng. Do đó, nhiều nông dân sống trên vùng
đất chua đã chủ động trồng rừng Tràm làm cừ móng. Chính phủ khuyến khich nông dân trồng Tràm vì
năng suất lúa thấp. Chính phủ rất kỳ vọng trồng rừng Tràm trên đất chua càng nhiều càng tốt để cải tạo
đất sản xuất lúa thấp và có thể đưa đến sự phát triển kinh tế vùng.
Chính phủ Nhật hỗ trợ kỹ thuật trồng Tràm thông qua Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (“JICA”) và
Viện Khoa học Rừng Việt Nam (“FSIV”) trong 3 năm từ năm 1997. Tuy nhiên, ngay khi nhu cầu về
công nghệ dân dụng và xây dựng gia tăng như mong muốn của những người liên hệ, hầu hết là những
dự án lớn dùng các phương pháp xây dựng tiên tiến. Nhu cầu cừ đúc thích hợp với phương pháp xây
dựng tiên tiến tăng nhưng nhu cầu cừ Tràm không tăng như mong muốn. Trái lại, nhu cầu cừ Tràm
giảm khi nhu cầu cừ đúc tăng. Thêm vào đó, chúng tôi nghĩ ràng giá thị trường của cừ Tràm tiếp tục
giảm vì trồng ngay nhiều rừng Tràm sẽ làm tăng quá mức nguồn cung cấp.
Hầu hết nông trang ngưng trồng rừng Tràm từ 4 đến 5 năm qua và rừng được đốn ngay từ 1 đến 2 năm.
Điều này không ngoài dự đoán bao lâu tình trạng trên vẫn còn, ngày càng nhiều nông dân đối mặt với
những khó khăn trong cuộc sống do thị trường trì trệ của cừ Tràm.
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm phát động thời kỳ tăng trưởng phấn khởi và cải thiện đời sống
của dân chúng cũng đã cảnh báo hiện trạng và đã xem vấn đề nghiêm túc. Chúng tôi cần nhanh chóng
tác động chống những vấn đề ngắn hạn như viễn cảnh tăng số nông dân hóa nghèo từ 1 đến 2 năm nữa.
Thêm vào đó, về lâu dài, điều mà chính quyền địa phương phải gánh nặng với vùng đất chua rộng lớn là
chăm lo “cải thiện sản xuất nông nghiệp bằng cách sử dụng hữu hiệu vùng đất chua” để phát triển kinh
tế địa phương.
Trong khi đó, khi chúng tôi xem xét ở phạm vi toàn cầu, kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh và từ
khi Nghị định thư Kyoto có hiệu lực, vai trò của rừng trở nên có ý nghĩa trong cam kết ngăn ngừa sự
6
nóng lên của trái đất. Ở động thái này, “rừng trồng” đã và đang cần hơn rừng tự nhiên trong thị trường
sản phẩm bằng gỗ hay vật liệu làm giấy và bột giấy. Khi chúng tôi xem xét thị trường trong nước Việt
Nam, công nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nội thất đã phát triển nhanh và giá trị xuất khẩu đạt khoảng 1 tỷ USD
năm 2004. Tuy nhiên, hầu hết nguyên liệu làm đồ gỗ nội thất vẫn là gỗ nhập từ các nước như Brazil,
Tân Tây Lan, các nước châu Á. Do đó, nguồn cung cấp ổn định vật liệu gỗ trong nước là mấu chốt cho
sự phát triển công nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nội thất ở Viêt Nam.
Nhiều nước gồm Nhật, Úc và Anh đang nghiên cứu sự phát triển công dụng mới của rừng Tràm. Ở
Nhật, phòng thí nghiệm của Đại học Tokyo đã thành công trong hai thí nghiệm nghiên cứu “đặc điểm làm
bột giấy của Tràm” và “đặc điểm làm đồ gỗ” mặc dù còn ở mức độ thí nghiệm. Tuy vậy, những kết
quả thí nghiệm về kỹ thuật này chưa liên kết được với công dụng thương phẩm đầy đủ.
Liên hệ hoàn cảnh nêu trên, chúng tôi chú trọng những điểm sau:
(1) Sự phát triển nhu cầu mới và công dụng của rừng Tràm, và sự cải thiện giá trị thương phẩm của
chúng.
(2) Sự cải thiện mức sống chuẩn của cư dân bằng cách tăng sản xuất của 500.000 ha đất chua nặng ở
Đồng bằng sông Cửu Long.
Thừa nhận điều này, chúng tôi tiến hành khảo sát chú trọng các điểm sau:
(1) Trong các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long, chính quyền đã tích cực phát động trồng Tràm đặc
biệt ở 3 tỉnh (Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp) mà thành phố Hồ Chia Minh là thị trường nội địa
lớn, có diện tích đất chua nhiều hơn các tỉnh khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Qua khảo sát
thực địa, chúng tôi chú trọng 3 tỉnh này để làm rõ các vấn đề như sự phân bố diện tích đất chua,
trồng Tràm, mối liên hệ giữa nông dân sống ở đó và trồng Tràm, và sinh kế của những nông dân
hóa nghèo bằng cách phỏng vấn trực tiếp họ để biết hiện trạng.
(2) Chúng tôi kiểm tra khả năng phát triển thị trường mới của rừng Tràm bằng cách tiến hành nghiên
cứu thị trường công nghiệp làm đồ gỗ và công nghiệp giấy và bột giấy ở Việt Nam.
(3) Khai thác kiến thức và kinh nghiệm liên hệ đến rừng Tràm sưu tập bởi Trung tâm Nghiên cứu về
Khoa học Tiến hóa và Công nghệ (“CREST”) và JICA, chúng tôi kiểm tra khả năng công nghiệp
hóa các vùng nông thôn bằng cách dùng những sản phẩm mới làm vật liệu xây dựng như ván ép
và khối gỗ.
(4) Tù kết quả những nghiên cứu trên, chúng tôi đề xuất dự án trồng rừng Tràm trên vùng đất chua,
phát triển bền vững kinh tế địa phương bằng công nghiệp hóa nông trang dựa trên trồng rừng
Tràm, cải thiện mức sống chuẩn của nông dân và vay vốn Nhật, điều này sẽ bảo vệ môi trường.
7
Chương 1
Chính sách Phát triển Nông thôn
1-1 Phát triển Nông thôn và Chính sách Giảm nghèo
Cho đến năm 2002, chính quyền địa phương không có chính sách nông nghiệp riêng và nhiệm vụ của
họ là dựa trên chính sách cơ bản của chính quyền trung ương để có hiệu quả sản xuất cao nhất.
Chính sách cơ bản của chính quyền trung ương là “sản xuất nhiều lúa để dân không lo thiếu ăn”. Do
đó, chính quyền trung ương đặt hy vọng nhiều nhất vào chính quyền địa phương ở Đồng bằng sông
Cửu Long, vùng vựa lúa. Đất chua được chuyển thành đất nông nghiệp bằng cách đốn Tràm hoang để
sản xuất nhiều lúa.
Nhưng năm 2002, chính sách nông nghiệp chỉ đạo bởi chính quyền trung ương được chuyển sang
chính sách nông nghiệp chỉ đạo bởi chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương bắt đầu chọn
nông sản, quyết định cách sử dụng đất và đưa ra chính sách nông nghiệp của họ.
Tuy nhiên, chính quyền địa phương phải dựa vào chính quyền trung ương để có tài trợ cần cho việc
thực hiện chính sách nông nghiệp của họ khi đưa ra. Không thể loại trừ nếu chính quyền địa phương
đề xuất dựa án nông nghiệp cần nhiều tiền, chính quyền trung ương sẽ đàm phán với chính quyền địa
phương và sẳn lòng chấp thuận dự án khác cần tài trợ ít hơn.
1-2 Chính sách Trồng rừng1 (Dự án Quốc gia về Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng)
(1) Hoàn cảnh Trồng rừng
Năm 1943, diện tích rừng ở Việt Nam khoảng 42.7% nghĩa là độ 14 triệu ha đất được rừng bao phủ.
Tuy nhiên, do phun thuốc trừ dịch hại và bom đạn trong chiến tranh liên miên, và sau chiến tranh ngày
càng nhiều rừng được chuyển thành đồng ruộng để sản xuất lương thực, rừng ở Việt Nam bị tàn phá
nghiêm trọng. Thêm vào đó, nông nghiệp cắt-và-đốt du canh cổ truyền và đốn rừng làm củi góp phần
làm thoái hóa rừng nhanh.
Sau đó, năm 1955 chính sách trồng rừng được phát động, và nhiều chính sách khác tiếp theo đó. Khởi
đầu bằng động thái trồng cây chủ trương bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1960, dự án chính thức về trồng
rừng được phát động trên quy mô cả nước. Nhưng trồng cây vào lúc đó được thực hiện bởi các bộ
phận chuyên về lâm nghiệp và nông nghiệp, và do nhiều vấn đề như chương trình không được điều
hành và quản lý chuyên môn, kỹ thuật trồng cây thấp và hột kém phẩm chất, tốc độ trồng rừng được
xem như thành công thấp từ 40 đến 50%.
Sau năm 1975, sự thoái hóa rừng diễn ra nhanh do sự phát triển nông nghiệp ở quy mô lớn để đối phó
với dân số tăng cao và nhu cầu về củi đốt và gỗ gia tăng. Kèm theo sự mất to lớn diện tích rừng, nhiều
hiểm họa tự nhiên như lũ lụt và diện tích đất chua rộng của Đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, chính
quyền Việt Nam đã tác động mạnh để giải quyết những vấn đề môi trường. Diện tích trồng rừng bình
quân từ năm 1975 đến năm 1985 đựoc ghi nhận khoảng 40.000 đến 50.000 ha.
Diện tích rừng giảm rõ rệt khoảng 9 triệu ha với vận tốc 27.7%. Từ khi Việt Nam bắt đầu chính sách
1 Đoạn 1-2 cơ bản được mô tả theo ấn phẩm sau: Private Fund Nissho Iwai Resaerch Institure, Feasibility Study
of Environmental Forestation as CDM Project, financed by Private fund, 2002.
8
Đổi Mới (Renovation) năm 1986, vận tốc trồng rừng thành công được xem vượt quá 70% do phát triển
cải thiện kỹ thuật trồng cũng như thành công trong chương trình điều hành và quản lý lúc cây mới lớn
các loài như Bạch đàn và Tràm. Năm 1995 diện tích trồng bình quân tăng khoảng 150.000 ha. Kết
quả là khoảng 4 triệu ha rừng được trồng trong 40 năm (từ năm 1955 đến năm 1995). Tuy nhiên, chỉ
còn khoảng 1.050.000 ha rừng trồng đặc biệt vì trước Đổi Mới tỉ lệ trồng rừng thành công thấp.
Thêm vào đó, chính phủ Việt Nam có những vấn đề xã hội như tạo việc làm cho các bộ đội phục viên trẻ
từ Cambodia về khi Việt Nam rút khỏi Cambodia và cải thiện đời sống các bộ lạc vùng núi. Do đó, dưới
khẩu hiệu “Lâm nghiệp, Nông nghiệp và định cư” chính quyền đã cố giải quyết các vấn đề chính trị và
kinh tế như “vấn đề môi trường”, “tăng thu nhập nông dân” và “phát động về lâm nghiệp và những công
nghiệp liên hệ” bằng cách lập những dự án trồng rừng có quy mô lớn như dự án quốc gia. Đây là
những dự án liên hệ đến rừng đề ra trong giai đoạn nêu trên.
Năm 1989/1991: Chương trình Hành động Rừng Nhiệt đới (“TFAP”).
Năm 1992: Ban hành Sắc lệnh Chính phủ 327/CT “Dự án sử dụng đất hoang, đồi thoái hóa, rừng, bãi
bồi ven biển, và các dạng nước”.
Năm 1993: TAFP được đổi tên và ban hành lại thành “Chương trình Hành động Rừng Quốc gia” và nằm
trong Dự án Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng.
Năm 1995: Ban hành Sắc lệnh Chính phủ 556/TTg sửa lại 327/CT, chuyển hướng chú trọng vào “bảo
tồn tài nguyên rừng và các đồn điền cây”.
Năm 1997: Quyết định Chính phủ về “Dự án Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng” (08/1997 QH10).
Năm 1998 Quyết định số 661/QD-TTg về “Mục tiêu, Nhiệm vụ, Chính sách và Tổ chức việc Thực hiện
Dự án Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng” được Thủ tướng ban hành.
Năm 2003 Diện tích rừng cả nước là 11.975.000 ha (9.874.000 ha rừng tự nhiên và 2.101.000 ha rừng
trồng). Như vậy, tỉ lệ tái phủ rừng khoảng 36%.
(2) Chính sách Trồng rừng: Hiện trạng và Thách thức
Chính sách trồng rừng hiện tại căn cứ trên nền pháp lý của 2 sắc lệnh:
(1) Sắc lệnh Chính phủ 327/CT
Sắc lệnh này được ban hành năm 1992, dưới khẩu hiệu “lâm nghiệp, nông nghiệp và định cư”.
Sắc lệnh được ban hành trong giai đoạn lâm nghiệp cũng như nông nghiệp đuợc chuyển từ hệ thống
nông nghiệp hợp tác sang hệ thống nông nghiệp hàng hóa. Sắc lệnh nêu rõ cư dân là lực lượng lao
động trồng rừng có trách nhiệm trong việc trồng và bảo vệ rừng kế cận theo hợp đồng và phải trả 20%
thu nhập cho chính quyền địa phương. Thêm vào đó, nông lâm nghiệp cho phép họ không chỉ lấy củi
đốt mà còn thức ăn từ rừng được giao. Các đoàn thể công cộng về rừng đươc nông dân tổ chức ở
nhiều vùng, ngay cả vài tổ chức đã thành lập và quản lý xưởng làm ván.
Trong khi đó, nhiệm vụ của chính quyền trung ương và địa phương được ghi rõ “huấn luyện làm đồn
điền”, “xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, trường học và cơ sở y tế” và “phân phối đất nông nghiệp, dự
trữ tài nguyên và cho vay”. Ở những vùng thưa dân hoặc vùng sâu, dự án đuợc thực hiện bằng lực
lượng lao động từ nhiều nhóm như các công ty lâm nghiệp nhà nước, quân đội và sinh viên.
Theo các dự án dựa trên Sắc lệnh này, 545.000 ha rừng phòng hộ đuợc phát triển trong giai đoạn từ
năm 1993 đến năm 1997. Sau đó, Sắc lệnh này hoàn tất nhiệm vụ và được kết hợp với Dự án Trồng
Mới 5 Triệu ha Rừng. Các dự án trồng rừng được phát động bằng cách mời dân đến định cư ở vùng
9
đất chua nặng trong Đồng bằng sông Cửu Long và những dự án đó tuân theo sắc lệnh này.
(2) Quyết định 661/QD-TTg của Thủ tướng
Quyết định này là nền tảng của chính sách trồng rừng hiện tại ở Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam
phê chuẩn năm 1998.
Quyết định này đặt mục tiêu từ năm 1998 đén năm 2010 và các vấn đề đặc thù cho giai đọan 13 năm
này như sau:
− Quyết định nhắm vào phân phối hợp lý rừng hiện có (rừng phòng hộ, rừng chuyên dùng, rừng
được trồng theo Chương trình 327, rừng sản xuất) cho cá nhân, gia đình và đoàn thể để bảo vệ
rừng và nâng cao đời sống nhân dân.
− Quyết định đặt thời hạn trồng mới 2 triệu ha rừng phòng hộ và rừng chuyên dùng và 3 triệu ha rùng
sản xuất (trồng 2 triệu ha rừng thương phẩm và 1 triệu ha hoa màu).
Chính phủ Việt Nam ước tính chi phí trực tiếp của 5 triệu ha do trồng rừng khoảng 31.700 tỷ VND
(khoảng 2,1 tỷ USD) năm 1998 do ngân sách nhà nước tài trợ 40% và phần còn lại từ nhiều nguồn vay
khác. Thực tế, tìm nguồn tài trợ rất khó và chúng tôi thấy thời hạn bị chậm trễ.
Hơn nữa, đối với thời hạn trồng rừng, Sắc lệnh Chính phủ 556/TTg đã ban hành năm 1995. Dưới khẩu
hiệu “Lâm nghiệp, Nông nghiệp và định cư” Sắc lệnh dự trù có 1 triệu hộ tham gia chương trình lâm
nghiệp qua nông lâm nghiệp để tái phủ rừng đạt 40% năm 2010 như vậy có thể hỗ trợ chính thức “dự án
mời dân đến định cư trong vùng”. “Dự án quốc gia Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng” hiện tại phát triển và
mở rộng Sắc lệnh này.
1-3 Hoàn cảnh kinh tế -xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long
Diện tích đất liền của Việt Nam khoảng 330.000 km2, bằng diện tích đất liền của Nhật Bản không kể
Kyushu, tuy nhiên, diện tích bình nguyên rất hạn chế và hai phần ba diện tích đất là cao nguyên và núi.
Phần lớn dân số 82 triệu (vào cuối năm 2002) tập trung ở hai bình nguyên; bình nguyên phía bắc giữa
Đông bắng sông Hồng và bình nguyên phía nam giữa Đông bằng sông Cửu Long.. Ở hai bình nguyên
này, dân tộc Kinh, nhóm người Việt chính chiếm 90% dân số Việt Nam và dân số còn lại khoảng 9 triệu
người là những nhóm nhỏ gồm từ 50 đến 60 dân tộc ít người chủ yếu sinh sống trên núi hay cao nguyên
tiếp giáp vơi các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cambodia. Khoảng 70% của 38 triệu lực
lượng lao động dân số Việt Nam (vào cuối năm 2002) là nông dân và khoảng 26% GDP của Việt Nam
do nông sản (năm 2002).
Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng rộng lớn do một nhóm châu thổ vùng hạ lưu sông Cửu Long
quốc tế xuyên qua 6 nước (tỉnh Yunnan, Thái Lan, Myanma, Lào, Cambodia và Việt Nam), và khoảng
75% diện tích hay 3.960.000 triệu ha nằm trong nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đồng
bằng sông Cửu Long gồm 12 tỉnh và 1 thành phố thuộc trung ương với dân số 18 triệu. 92% dân số
của Đồng bằng sông Cửu Long là dân tộc Kinh và số 8% còn lại là người gốc Hoa và Khmer. Vì Đồng
bằng sông Cửu Long ở Việt Nam có thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất Việt Nam, nông nghiệp,
lâm nghiệp và công nghiệp thủy sản phát triển từ lâu. Đặc biệt, trồng lúa là công nghiệp rất phổ biến và
giúp dân Việt Nam sống nhờ lúa.
Tuy nhiên trong số 3,96 triệu ha chỉ có 1,2 triệu ha diện tích đất phù sa màu mỡ. Phần còn lại gồm 1,6
triệu ha đất phèn (gồm đất chua và đất mặn), 750.000 ha đất mặn và 350.000 ha các đất khác. Làm
sao sử dụng loại đất sản xuất nông nghiệp thấp ngoài đất phù sa là mấu chốt để phát triển kinh tế và
giảm nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long.
10
Đất chua tập trung ở vùng Đồng Tháp Mười bao gồm các tỉnh Long An, Đồng Tháp và Tiền Giang,
vùng Tứ giác Long Xuyên đi qua các tỉnh An Giang và Kiên Giang, và vùng bán đảo Cà Mau. Bán đảo
Cà Mau không chỉ chua mà còn mặn.
Đặc đỉểm khác của Đông bằng sông Cửu Long là sông Cửu Long lũ lụt trong mùa mưa. Tuy nhiên,
đồng thời, lũ mang phù sa và nước, và rửa trôi các chất như acid trong đất. Như vậy mặt nào đó, lũ có
ảnh hưởng tốt trên đất và cần thiết cho canh tác trên đồng. Dân sống ở vùng đất có cao độ thấp bị ảnh
hưởng nghiêm trọng hơn. Ở những vùng này, hằng năm lũ kéo dài từ 3 đến 4 tháng và có thể lâu hơn
tùy năm. Có 3 vùng như thế ở Đông bằng sông Cửu Long: vùng Đồng Tháp Mười, đồng bằng Hà Tiên,
và vùng U Minh.
Như đã nêu trên, so với những vùng khác trong Đồng bằng sông Cửu Long, vùng Đồng Tháp Mười
gánh nặng 2 vấn đề lớn: “Bản chất đất chua không thích hợp cho nông nghiệp” và “Vì đất có cao độ thấp
nên bị lũ từ 3 đến 4 tháng mỗi năm”. Vùng được khảo sát lần này và sẽ được thảo luận ở Chương 2.
Như đã nêu trên, trồng lúa là công nghiệp mấu chốt ở Đồng bằng sông Cửu Long và Việt Nam là nước
xuất khẩu gạo lớn thứ hai sau Thái Lan và hầu hết lúa xuất khẩu được sản xuất ở Đồng bằng. Năm
2002 có khoảng 1.510.000 ha ruông lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng hiện nay phát triển nông
nghiệp dựa nhiều vào lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long sinh ra vài vấn đề.
Vài vấn đề quan tâm như sau2:
− Dựa quá nhiều vào xuất khẩu gạo kém phẩm chất làm Việt Nam dễ vỡ theo sự dao động giá gạo
toàn cầu.
− Môi trường và hiệu quả kinh tế sẽ thoái hóa bởi vật tư bên ngoài như phân hóa học và nông dược.
− Nămg suất lúa sẽ đứng yên và phẩm chất đất sẽ xuống cấp.
− Phần lớn Đồng bằng sông Cửu Long là đất phèn làm cho sản xuất nông nghiệp thấp.
Nên làm gì trong trường hợp như thế là xem lại những vấn đề từ viễn cảnh nhiều việc như môi truờng,
chi phí và thị trường. Trong các vấn đề, nhiều chuyên gia đã chỉ ra sự mâu thuẩn giữa thị truờng gạo
và người sản xuất, hay nông dân. Vì thị trường xuất khẩu được kiểm soát và giá không chỉ do người
sản xuất mà còn do người xuất khẩu gạo định, người sản xuất không có ảnh hưởng nào trên thị trường.
Bao lâu thị trường chỉ có gạo kém phẩm chất, giá mua lúa sẽ không đổi ngay khi người sản xuất làm ra
gạo tốt. Kết quả, người sản xuất không còn động lực làm gạo phẩm chất cao nữa. Thêm vào đó, có
nhiều môi giới giữa người sản xuất và người xuất khẩu và môi giới muốn kèm giá do người sản xuất
định càng thấp càng tốt. Hơn nữa, chịu gánh nặng chi phí các nông dược và phân hóa học, nhiều nông
dân phải mượn tiền ngân hàng hay người cho vay lãi suất cao theo thỏa thuận.
Để sửa đổi các trường hợp như thế và nâng cao đời sống nông dân, cần chuyển sang nông nghiệp cho
người sản xuất (hay giao cho nông dân). Có nhiều cách giao cho nông dân, một cách là tăng sự chọn
nông sản bên cạnh lúa cho nông dân. Nhưng khi canh tác, sự phân phối và thị truờng “nông sản bên
cạnh lúa” có thể phát triển không cho nông dân mà cho thương lái.
Sự chọn nông sản cho đất chua nặng rất hạn chế, chủ yếu là Tràm và lúa (Xem chi tiết ở Chương 2).
Phát triển thị truờng Tràm và cải thiện giá trị kinh tế của Tràm được xem là góp phần cải thiện đời sống
và giao cho nông dân sống trên vùng đất chua nặng.
2 Iwamoto, Izumi, school of agriculture, Kyushu University: Agricultural economy and diversification of paddy
field farming in Vietnam.
11
Diện tích trồng rừng
Năm 2003, diện tích rừng ở Đồng bằng sông Cửu Long như sau:
Bảng 1-3-1 Diện tích Rừng mỗi Tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long (theo ha)
Diện tích Rừng (năm 2003)3 Diện tích rừng Tràm4
Long An 64.900 61.690
Đồng Tháp 10.700 10.700
Tiền Giang 10.800 8.265
An Giang 12.500 1.753
Kiên Giang 110.900 2.500
Cần Thơ5 2.100 1.907
Bến Tre 5.300 -
Trà Vinh 8.200 -
Sóc Trăng 14.300 4.500
Bạc Liêu 6.100 -
Cà Mau 101.700 28.494
Tổng cộng 347.500 119.809
Để phát động kế hoạch trồng rừng gồm “Dự án Quốc gia về Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng” ngay cả ở
Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt ở đất chua nặng, chính quyền xác định cần tích cực trồng nhiều
Tràm thích hợp nhất và phổ biến ở đất chua nặng và thực tế đã trồng phần lớn.
Đây là kế họach trồng rừng ở Đồng bằng sông Cửu Long trong “Dự án Quốc gia về Trồng Mới 5 Triệu
ha Rừng6”.
Bảng 1-3-2 Kế hoạch Trồng rừng ở Đồng bằng sông Cửu Long (theo ha)
Tổng diện tích rừng sản xuất 111.400
- để làm giấy và bột giấy 24.000
- để làm gỗ nội thất 10.000
- để làm vật liệu xây dựng 76.300
- rừng tre 100
Diện tích rừng phòng hộ 78.000
Diện tích rừng chuyên dùng 9.500
Tông cộng 198.900
Các cơ quan Viện trợ trên thế giới tích cực phát động những hoạt động trợ giúp gồm cải tạo đất đai, phát
triển biện pháp canh tác, chuyển giao kỹ thuật trồng trọt. Theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, Chính
phủ Nhật Bản đã gởi nhóm công tác của JICA và JICA đã trợ giúp kỹ thuật trồng rừng trên đất phèn
nặng dựa vào nghiên cứu tiến hành ở huyện Thanh Hóa, tỉnh Long An của Phân Viện Khoa học Rừng
3 Niên giám Thống kê 2004, Nhà xuất bản Thống kê, 2004, tr.154.
4 Số liệu của Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp cung cấp là kết quả do chúng tôi khảo sát. Đối với những
tỉnh khác, nguồn: Nghiên cứu và Dự báo về Thị trường Gỗ Tràm ở Đồng bằng sông Cửu Long và thành phố
Hồ Chí Minh, 2003 (Investigation and Prediction about Tram Wood Market in Mekong Delta and Ho Chi
Minh City, 2003).
5 Nay được chia thành Cần Thơ, thành phố thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang.
6 Nguồn: Báo cáo FSSIV (Ngày lập kế hoạch không rõ)
12
Nam Việt Nam (FSSIV)7.
Trong khi đó, Trường Đại học Cần Thơ ở Thành phố Cần Thơ, thành phố thuộc trung ương trong Đồng
bằng sông Cửu Long cộng tác với các trường đại học và viện nghiên cứu trên thế giới để lý giải về mặt
khoa học “cơ chế giữa các loại Tràm khác nhau và sự cải tạo đất” và nghiên cứu tìm hiểu việc trồng rừng
Tràm và phát triển các phương pháp nông nghiệp mới”. Các dự án có quy mô nhỏ tài trợ cho nông dân
đã được đưa vào thử nghiệm.
Hoàn cảnh hóa nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long
Miền Nam Việt Nam, gồm Đồng bằng sông Cửu Long, được xem là phong phú hơn miền Bắc nhưng
điều này không luôn luôn đúng. Tỉ lệ dân nghèo sống trong những vùng đông dân ở Đông bằng sông
Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, không quá cao so với các vùng khác nhưng số người nghèo ở đó
cao8. Thêm vào đó, thu nhập bình quân của dân ở hai vùng Đồng bằng này cao hơn các vùng khác,
tuy nhiên, khoảng cách thu nhập giữa các thành phần trong hai Đồng bằng lớn. Thu nhập của nhóm có
thu nhập thấp nhất trong hai vùng Đồng bằng gần như bằng nhóm có thu nhập thấp nhất ở các vùng
khác. Mặt khác, thu nhập của nhóm có thu nhập cao nhất cao hơn nhóm có thu nhập cao nhất ở các
vùng khác.
Bảng 1-3-3 Thu nhập của Dân ở những vùng Nông thôn (theo VND)
Thu nhập
bình quân
Thu nhập của
nhóm có thu nhập
thấp nhất (A)
Thu nhập của
nhóm có thu nhập
cao nhất (B)
Khoảng cách
(B) / (A)
Cả nước 356.100 107.700 872.900 8,10
Vùng Nông thôn trong nước 275.100 100.200 598.600 5,97
Đồng bằng sông Hồng9 283.900 117.800 596.900 5,06
Đông Bắc 268.800 95.100 588.000 6,18
Tây Bắc 197.000 75.000 446.600 5,95
Giữa miền Bắc 235.400 88.900 518.700 5,83
Giữa miền Nam 305.900 112.900 656.900 5,81
Giữa cao nguyên 244.000 85.500 546.700 6,39
Đông Nam10 398.900 142.500 878.700 6,17
Đồng bằng sông Cửu Long 371.300 126.200 860.100 6,81
Nguồn: Niên giàm Thống kê 2003.
Chúng tôi cũng nhận thấy chi phí ở phía nam vùng Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn chi phí ở các
vùng khác.
Bảng 1-3-4 Chi phí của Dân vùng Nông thôn (theo VND)
7 JICA chú trọng vào 3 điểm: “chọn và đưa vào các loài thích nghi”, “phát triển kỹ thuật cải tạo dất” và “nghiên
cứu và phân tích hoàn cảnh kinh tế-xã hội cho cư dân”, và hỗ trợ kỹ thuật trong 3 năm từ năm 1997.
8 Báo cáo Phát triển Việt Nam 2004, Nghèo, 12-2003, Hà Nội. (Conference report of supporters of Vietnam.
Development Report of Vietnam 2004, Poverty. Hanoi. 2-3 December, 2003. Hanoi)
9 Để biết thu nhập ở nhũng vùng nông thôn, không kể số liệu của thành phố Hà Nội và thành phố Hải phòng
trong Niên giám Thông kê.
10 Cùng lý do như trên, không kể số liệu của thành phố Hồ Chí Minh.
13
Thu nhập
bình quân
Thu nhập của
nhóm có thu nhập
thấp nhất (A)
Thu nhập của
nhóm có thu nhập
cao nhất (B)
Khoảng cách
(B) / (A)
Cả nước 269.100 123.300 548.500 4,45
Vùng Nông thôn trong nước 211.100 116.300 357.500 3,07
Đồng bằng sông Hồng 208.200 127.500 325.500 2,55
Đông Bắc 220.200 112.700 401.800 3,56
Tây Bắc 179.000 89.200 353.800 3,96
Giữa miền Bắc 192.800 108.300 344.700 3,18
Giữa miền Nam 247.600 127.700 456.400 3,57
Giữa cao nguyên 201.800 101.300 373.700 3,69
Đông Nam 290.200 163.900 478.400 2,92
Đồng bằng sông Cửu Long 256.400 142.400 441.700 3,10
Nguồn: Niên giàm Thống kê 2003.
Những lý do vì sao chi phí ở phía nam Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn chi phí các vùng khác như
sau:
1. Kinh tế thi trường đã thâm nhập vào so với các vùng khác (đặc biệt so với vùng núi).
2. So với miền Bắc, miền Nam có nhiều người không sở hữu đất và nhiều người nhập cư hơn, vì
thế những người này phải mua nông sản gồm lúa mà người sở hữu đất không phải mua.
Bảng dưới đây cho thấy lợi nhuận (công thức: thu nhập - chi phí). Từ bảng này, có thể thấy rằng ở
nhóm có thu nhập thấp nhất chi phí vượt quá thu nhập nên điều kiện sống của dân Đồng bằng sông Cửu
Long cũng khó khăn như dân các vùng khác. Trái lại, nhóm có thu nhập cao kiếm được nhiều hơn dân
các vùng khác nên hiển nhiên khoảng cách lớn hơn.
Bảng 1-3-5 Chi phí - Thu nhập (theo VND)
Thu nhập
bình quân -
Chi phí
bình quân
Thu nhập -
Chi phí của nhóm
có thu nhập thấp
nhất (A)
Thu nhập -
Chi phí của
nhóm có thu nhập
cao nhất (B)
Khoảng cách
(B) - (A)
Cả nước 87.000 -15.600 324.400 340.000
Vùng Nông thôn trong nước 64.000 -16.100 241.100 257.200
Đồng bằng sông Hồng 75.700 -9.700 271.400 281.100
Đông Bắc 48.600 -17.600 186.200 203.800
Tây Bắc 1.8000 -14.200 92.800 107.000
Giữa miền Bắc 42.600 -19.400 174.000 193.400
Giữa miền Nam 58.300 -14.800 200.500 215.300
Giữa cao nguyên 42.200 -15.800 173.000 188.800
Đông Nam 108.700 -21.400 400.300 421.700
Đồng bằng sông Cửu Long 114.900 -16.200 418.400 434.600
Nguồn: Niên giàm Thống kê 2003.
Đây là những đặc điểm của sự nghèo nàn ở phía nam Đồng bằng sông Cửu Long.
1. Số đông dân nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long và mức độ nghèo cũng nghiêm trọng như các
14
vùng khác.
2. Khoảng cách giàu và nghèo lớn hơn các vùng khác. Do vậy, ai thuộc nhóm mục tiêu và xác
định mục tiêu của nhóm thế nào, quan trọng hơn những vùng khác khi tìm cách chống nghèo ở
Đông bằng sông Cửu Long.
3. Chi phí bình quân cao hơn chi phí bình quân những vùng khác.
4. Nhiều người không sở hữu đất cũng như nhiều người nhập cư và di cư hơn những vùng khác.
Thêm vào đó, so với miền Bắc cộng đồng nông thôn không vững chắc, nên làng ở miền Nam
được gọi là “ làng mở”. Nhưng cùng lúc, nhiệm vụ của làng như mạng an toàn không hoạt
động như miền Bắc, nên nguy cơ người nghèo có thể dễ mất đất và cuối cùng trở thành dân di
cư.
Tóm tắt
Những hoạt động sau đây được đề ra để cải thiện đời sống cho dân nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long
và cho họ quyền tự chủ:
1. Cải thiện hệ thống thị trường lúa gạo và hệ thống phân phối nó.
2. Phát triển hệ thống canh tác quan tâm đến ảnh hưởng của môi trường.
3. Phát triển cây trồng tương lai ngoài lúa.
4. Tạo những giống cây trồng có thể canh tác trên đất chua không thích hợp cho nông nghiệp.
Trong khảo sát này, chúng tôi đặc biệt chú trọng vào điểm 3 và 4 về triển vọng của thị trường rừng Tràm.
Chúng tôi cũng sẽ khảo sát hệ thống chỉ đạo sản xuất bằng cách xem lại hiện trạng trồng lúa, sự chỉ đạo
phân phối và ảnh hưởng môi trường.
15
Chương 2
Nghiên cứu ở ba Tỉnh (Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang)
2-5 Chính sách Trồng rừng
Theo “Dự án Quốc gia về Trồng mới 5 Triệu ha Rừng”, để tăng diện tích rừng và cải thiện đời sống nông
dân, chính quyền địa phương của mỗi tỉnh trong 3 tỉnh trên lập kế hoạch sử dụng đất chú trọng tăng diện
tích trồng rừng Tràm. Năm 2000, khi kế hoạch đất đai đến 2010 được dự thảo, nhu cầu cừ móng Tràm
tăng liên tục, nên chính quyền lập kế hoạch tăng diện tích trồng rừng. Nhưng sau đó 5 năm hiện hoàn
cảnh đã thay đổi nhiều và mỗi chính quyền địa phương và mỗi chính quyền địa phương cần phải xem lại
kế hoạch.
Ví dụ, diện tích rừng (nơi Tràm được trồng chủ yếu) ở tỉnh Long An là 70.391 ha năm 2005 và lúc đầu
được kế hoạch đến năm 2010 tăng lên 75.100 ha. Tuy nhiên, do sự xuống giá gỗ Tràm và tăng giá lúa,
nhiều nông dân đốt rừng Tràm và chuyển sang trồng lúa. Do đó, chính quyền xem lại kế hoạch và
quyết định giảm diện tích rừng xuống còn 69.800 ha năm 2010. Bây giờ chính quyền đối mặt với nhiệm
vụ làm sao duy trì diện tích rừng hiện có.
Trong chương này, chúng tôi sẽ phân tích hòanh cảnh kinh tế-xã hội của cư dân sống trên đất chua và
xem họ có thể thật được lợi của việc trồng rừng Tràm.
2-6 Hiện trạng của những Vùng Khảo sát
2-2-1 Chọn những Làng, Quận và Tỉnh để Khảo sát
Trong 7 có đất chua, chúng tôi chọn các tỉnh Long An, Đồng Tháp và Tiền Giang. Lý do chúng tôi chọn
các tỉnh này vì 3 tỉnh nằm xuyên qua vùng Đồng Tháp Mười phủ bởi đất chua, dễ ngập lũ vì cao độ đất
thấp, có nhiều hộ nghèo. Thêm vào đó, 3 tỉnh gần thành phố Hồ Chí Minh, một thành phố lớn hoặc thị
trường lớn.
Kế đó, căn cứ trên cả đất chua và trồng rừng Tràm, chúng tôi chọn huyện Thanh Hóa thuộc tỉnh Long An,
huyện Tháp Mười thuộc tỉnh Đồng Tháp và huyện Tân Phước thuộc tỉnh Tiền Giang.
Bảng 2-2-1 Diện tích Đất chua và Rừng cấp huyện tỉnh Long An11 trong năm 2003 (theo ha)
Tổng diện
tích
Tổng diện tích đất chua Tổng diện tích rừng Diện tích rừng Tràm
TX Tân An 8.193 - - -
Tân Hưng 49.738 33.947 12.645 12.643
Vỉnh Hưng 38.452 13.322 4.101 4.052
Mộc Hóa 50.328 23.477 8.328 8.173
Tân Thành 42.578 35.103 8.175 8.175
Thanh Hóa 46.826 33.931 16.376 16.355
Đức Huệ 43.092 20.612 8.699 6.873
Đức Hòa 42.654 9.767 1.095 516
11 Nguồn: UBNDT Long An, Sở NN&PTNT; Điều Chỉnh Quy Hoạch Nông-Lâm Ngư nghiệp tỉnh Long An
đến năm 2010, 12-2003 (Long An Provincial People’s Committee, Agriculture and Rural Development
Bureau. Agriculture, Forestry and Fisheris Industries Plan of Long An Province toward 2010: Revised version.
Dec. 2003).
16
Tổng diện
tích
Tổng diện tích đất chua Tổng diện tích rừng Diện tích rừng Tràm
Bến Lức 28.933 5.234 438 438
Thủ Thừa 29.901 14.045 4.466 4.466
Châu
Thành
15.050 1.461 0 0
Tân Trụ 10.649 3.352 0 0
Cần Đước 21.803 5.425 70 0
Cần Giuộc 20.986 8.773 70 70
Tổng cộng 44.9187 208.449 64.463 61.690
Bảng 2-2-2 Diện tích Rừng ở những Huyện chính của tỉnh Đồng Tháp trong năm 200412 (theo ha)
Tổng diện tích Tổng diện tích rừng
Tháp Mười 51.800 5.448
Tam Nông 45.900 3.572
Cao Lãnh 46.200 1.965
Tân Hồng 29.200 39
Tổng cộng 4 huyện 173.100 11.024
Tổng cộng cả tỉnh 323.805 11.024
Bảng 2-2-3 Diện tích Rừng ở những Huyện chính của tỉnh Tiền Giang trong năm 200013
Tổng diện tích Diện tích đất chua Diện tích rừng
Tân Phước 33.321 14.320 6.483
Cái Bè 42.090 5.275 105
Cai Lậy 41.127 4.188 -
Châu Thành 33.321 2.855 -
Gò Công Đông 35.776 847 1.677
Tổng cộng 5 huyện 185.635 27.485 8.265
Tổng cộng cả tỉnh 236.663 27.485 8.265
Sau khi chọn những huyện đẻ khảo sát, chúng tôi chọn một làng mỗi huyện. Điều kiện để chọn là: 1.
Diện tích rừng Tràm phảii lớn, và 2. Chúng tôi, những người khảo sát, có thể đén làng bằng xe hơi.
Theo ý kiến của chính quyền địa phương, chúng tôi hỏi Ủy ban Nhân dân Tỉnh (“UBNDT”) để chọn làng.
Kết quả, các làng được chọn là: làng Thủy Tây huyện Thanh Hóa district, tỉnh Long An, làng Trường
Xuân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp là làng có diện tích trồng Tràm lớn nhất trong huyện, làng Mỹ
Phước huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang vì làng gần trung tâm huyện và tích cực trồng cả Tràm lẫn
Khóm.
Thời gian khảo sát là 1 tuần mỗi làng. Ở tuần thứ nhất, chúng tôi gặp người của Sở Nông nghiệp mỗi
12 Nguồn: UBNDT Đồng Tháp; Tổng Hợp độ che phủ rừng theo cấp huyện tỉnh Đồng Tháp (Dong Thap
Provincial People’s Committee. Chart of Forest Rate of Dong Thap Province, by district. 2004).
13 UBNDT Tiền Giang, Sở NN&PTNT; Quy Hoạch Nông Nghiệp và Nông Thôn đến năm 2010 tỉnh Tiền Giang,
02-2003. (Tien Giang provincial People’s Committee, Agriculture and Rural Development Bureau. Plan for
Agriculture and Rural Areas in Tien Giang Province toward 2010. Feb. 2003).
17
tỉnh và Phòng Nông nghiệp Ủy ban Nhân dân mỗi huyện để trình bày nét chính của cuộc khảo sát và tìm
hiểu số liệu cần thiết (Chúng tôi thu thập số liệu vào ngày cuối). Sau đó, chúng tôi đến từng làng để
viếng Ủy ban Nhân dân mỗi làng. Ở đó, chúng tôi trình bày nét chính của cuộc khảo sát và mời cộng
tác, rồi phỏng cấn họ về nét chính của làng.
Từ ngày thứ hai đến ngày thứ năm, 4 người khảo sát (3 nhà nghiên cứu Trường Đại học Cần Thơ và 1
chuyên gia xã hội-kinh tế của nhóm nghiên cứu) được chia thành 3 nhóm để phỏng vấn nông hộ theo
bảng câu hỏi (tổng cộng 358 mục).
Số nông hộ là: 42 ở làng Thủy Tây, 40 ở làng Mỹ Phước và 40 ở làng Trường Xuân. Tiến hành khảo
sát, phần trăm hộ nghèo, phần trăm hộ theo nông sản chính (ví dụ phần trăm hộ trồng lúa, phần trăm hộ
trồng Tràm, và phần trăm hộ trồng cả Tràm lẫn Khóm), và phần trăm hộ theo kích thước đất phải càng
gần phần trăm hộ của cả làng.
2-2-2 Phân bố Đất chua nặng, Sử dụng Đất và Trồng rừng Tràm
Đất chua và Phân phối địa điểm
Diện tích đất chua trong tỉnh Long An là 208.449 ha, gồm 46% tổng diện tích đất của tỉnh, 15% diện tích
đất chua trong toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, 70% diện tích đất chua trong Đồng Tháp Mười.
Hầu hết đất chua của tỉnh này tập trung ở 7 huyện trong Đồng Tháp Mười. Diện tích đát chua của tỉnh
Tiền Giang tương đối nhỏ 27.485 ha và tập trung ở huyện Tân Phước trong vùng Đồng Tháp Mười.
Diện tích đất chua của tỉnh Đồng Tháp 140.396 ha, gồm 43% tông diện tích đát của tỉnh và cũng tập
trung chính trong 4 huyện của vùng Đồng Tháp Mười. Về sự phân phối đất, xem bản dồ phân bố đất.
Sử dụng đất
Đất chua nặng về bản chất không thích hợp với nông sản khác hơn cây Tràm, tuy nhiên cải thiện điều
kiện tưới tiêu và dùng vôi với lân đã giúp trồng trọt các sản phẩm khác có thể gồm lúa. Sử dụng đất
của 3 tỉnh như sau:
Bảng 2-2-4 Sử dụng đất ở 3 Tỉnh14
(Dân số: theo người. Diện tích: theo ha)
Tỉnh
Long An
(năm 2003)
Tiền Giang
(năm 2000)
Đồng Tháp
(năm 2004)
Tông cộng
của 3 tỉnh
Tổng dân số 1.364.355 1.618.412 1.639.357 4.622.124
Lực lượng lao động không số liệu 992.734 835.776 1.828.510
Tông diện tích 449.187 236.663 323.805 1.009.655
Diện tích đất chua 208.449 27.485 140.396 376.330
Lúa một vụ 62.244 9.790 3.525 75.559
Lúa hai vụ 204.431 11.158 165.508 381.097
Lúa ba vụ / Lúa hai vụ &
một vụ cây trồng khác
Gồm trong
mục trên
85.693 12.706 98.399
Khóm 0 8.570 0 8.570
Khoai mỡ - 2.553 - -
Cây trồng nhất niên 29.531 3.638 3.710 36.879
14 Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
18
Tỉnh
Long An
(năm 2003)
Tiền Giang
(năm 2000)
Đồng Tháp
(năm 2004)
Tông cộng
của 3 tỉnh
Cây trồng đa niên 7.791 57.505 - 65.296
Ao nuôi trồng 5.675 2.677 - 8.352
Tràm 67.769 8.265 11.024 87.058
Bạch đàn 2.546 - - 2.546
Đất thổ cư na 7.646 17.315 24.961
Đất chuyên dùng na 15.887 22.584 38.471
Đất không dùng 13.148 4.402 26.234 43.784
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Bảng 2-2-5 Sử dụng đất của mỗi Huyện trong Khảo sát15
Tỉnh Long An Tiền Giang Đồng Tháp
Huyện Thanh Hóa Tân Phước Tháp Mười
Tổng cộng
của 3 tỉnh
Tổng dân số (người) 50.782 - 125.096 -
Lực lượng lao động (người) - - 58.202 -
Tổng diện tích 46.826 33.321 51.766 131.913
Ruộng lúa 46.826 12.508 33.924 93.258
Khoai mỡ 1.645 960 0 2.605
Khóm 0 8.570 0 8.570
Cây ăn trái 612 506 0 1.118
Tràm 17.620 8.552 5.651 31.823
Bạch đàn 22 1.699 0 1.721
Đất chuyên dùng 3.321 3.651 4.049 11.021
Sông / Kênh mương 1.093 - 163 -
Đất thổ cư 435 380 2.839 3.654
Đất không dùng 3.897 153 18 4.068
Đất chua 33.931 14.320 - -
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Không có số liệu chính xác của 3 làng trong khảo sát, tuy nhiên, chúng tôi được biết phần lớn diện tích là
đất chua. Bảng dưới cho thấy sử dụng đất ở mỗi làng. Tràm và lúa chiếm phần lớn đất nhưng ở làng
Mỹ Phước khóm cũng được trồng như lúa.
Bảng 2-2-6 Sử dụng đất ở mỗi Làng trong Khảo sát
(Dân số: theo người. Diện tích: theo ha)
Tỉnh Long An Tiền Giang Đồng Tháp
Huyện Thanh Hóa Tân Phước Tháp Mười
Làng Thủy Tay Mỹ Phước Trường Xuân
Tổng cộng của
3 tỉnh
Tổng dân số 4.203 2.830 12.000 19.033
Lực lượng lao động 2.043 1.615 6.000 9.658
15 Như trên
19
Số hộ 923 652 1.928 3.503
Tổng diện tích 3.500 3.896 7.303 14.699
Ruộng lúa 1.621 73 2.982 4.676
- Một vụ 698 22 482 1.202
- Hai vụ 923 51 1.830 2.804
- Ba vụ 0 0 670 670
Khóm 0 1.757 0 1.757
Khoai mỡ 46 0 0 46
Cây trồng khác 12 50 0 62
Tràm 1.182 1.315 3.165 5.662
Bạch đàn 0 299 0 299
Đất thổ cư 30 22 - 52
Đất chuyên dùng 2.749 350 498 3.597
Kênh mương / Sông 50 - 35 -
Đất không dùng 0 46 56 102
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Sử dụng đất của những hộ trong 3 làng khảo sát được trình bày dưới đây cho thấy hầu hết các hộ trông
lúa hoặc / và Tràm. Lúa được trồng ở hầu hết các hộ không để ý đế kích thước đất sở hữu Tràm
được ít nông dân có dưới 1 ha trồng nhưng được trồng bởi nhiều nông dân có 1 ha hoặc hơn.
Bảng 2-2-7 Số Nông hộ trồng mỗi loại cây theo Kích thước đất (theo hộ)
Dưới 1 ha
1 đến ít hơn
3 ha
3 đến ít hơn
5 ha
5 đến ít hơn
10 ha
10 ha hay
trên
Tổng cộng
Hộ khảo sát 17 55 28 18 6 124
Lúa 11 40 20 10 4 85
Tràm 3 33 22 16 6 80
Khoai mỡ 0 3 5 2 0 10
Khóm 2 7 4 1 0 14
Cây khác 1 5 0 1 0 7
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Bảng 2-2-8 Diện tích bình quân Nông trại theo Kích thước đất (theo ha)
Dưới 1 ha
1 đến ít hơn
3 ha
3 đến ít hơn
5 ha
5 đến ít hơn
10 ha
10 ha hay
trên
Tổng cộng
Lúa 0,56 1,27 1,68 2,27 4,42 1,61
Tràm 0,27 1,01 1,82 4,05 11,6 2,61
Khoai mỡ 0 0,9 1,6 2,8 0 3,50
Khóm 0,7 1,67 2,8 5,0 0 2,77
Cây khác 0,2 0,7 0 1,0 0 0,67
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Thêm vào điều kiện đất, điều kiện khí hậu ảnh hưởng đến canh tác nông sản. Đất trong khảô sát có 2
mùa: mùa nắng và mùa mưa. Mùa nắng từ tháng Mười hai đến tháng Năm và mùa mưa từ tháng Sáu
20
đến tháng Mười một. Nhờ hệ thống thủy lợi, độ acid đất thấp hơn trước. Tuy nhiên, độ acid trở nên
cao hơn vào cuối mùa nắng, từ tháng Tư đến tháng Năm, và điều này ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
của cây trồng. Đặc biệt, khi giai đoạn sinh trưởng sớm của cây trồng rơi vào tháng Tư và thang Năm,
độ acid có ảnh hưởng nghiêm trọng.
Cũng vậy, như đã nêu ửo đọan 1-3, trong vùng Đồng Tháp Mười nơi tập trung đất chua, đất ngập từ 3
đén 4 tháng hay hơn từ tháng Tám đêsn tháng Mười một mỗi nămvì cao độ mực nước biển thấp. Do
đó, thường không thể trồng các nông sản trong giai đoạn đó. Vài phần nông trại có đê bao ngăn lũ để
nâng sản xuất đất, trong đê trồng lúa và khóm. Tuy nhiên, điều này khiến nông trại không thu được lợi
ích của lũ là rữa acid trên đát mặt và đồng thời, mang đất phì nhiêu đến thay, hậu quả độ acid của đất
vẫn tiếp tục cao và về lâu dài khả năng đất sẽ thoái hóa.
Chúng tôi sẽ mô tả đặc điểm của các nông sản trồng trên đất chua.
Lúa
Để trồng lúa cần bón phân hóa học chứa lân mà đất chua thiếu và rải vôi trên đồng có hệ thống tưới tiêu
tốt. Lúa có thể trồng 3 vụ trong năm.
Tong vụ mùa thứ nhất, mạ đuợc cấy ngay sau lũ. Ở “vụ đông xuân” này quá trình từ gieo đến gặt hoàn
tất chỉ trong 3 tháng rưởi vào giai đọan cuối tháng Mười đến tháng Hai. Điều kiện đất tương đối tốt vì lũ
rửa trôi acid trên đất mặt và đồng thời đem đất phì nhiêu đến thay, kết quả năng suất cao từ 5 đến 6
tấn/ha. Ở vùng có hệ thống thủy lợi kém, chỉ trồng được “vụ đông xuân”. Tuy nhiên, vì chính phủ đã
cải thiện mạng lưới thủy lợi, nhiều vùng có thể trồng hai vụ trong khi vùng một vụ giảm.
Trong vụ mùa thứ hai, tức “vụ hè thu”, chỉ có thể trồng khi hệ thống thủy lợi tốt vì trong thời gian này độ
acid đất trở nên cao hơn từ tháng Tư đến tháng Năm. Thu hoach lúa phải chấm dứt trước thang Tám,
mùa lũ. Do đó, mạ đuợc cấy vào thời điểm khác nhau tùy vùng và nông trại từ cuối tháng Giêng đến
tháng Tư. Năng suất vào khoảng tiừ 3 đén 4 tấn/ha, năng suất này thấp hơn đất thông thường vì bị
ảnh hường bởi đát chua.
Trong vụ mùa thứ ba, tức “vụ thu đông”, mạ được cấy vào cuối tháng Năm và thu hoạch vào tháng Tám.
Vì là mùa mưa, công việc chỉ thực hiên ở nếu nông trại có đê bao quanh. Do đó hầu hết đất gần như
không thể làm ba vụ một năm, ngoại trừ 670 ha đất ở làng Trương Xuân thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh
Đồng Tháp ngoài các đất khảo sát. Khi nông dân làm “vụ thu đông”, “vụ đông xuân” và “vụ hè thu” phải
xong càng sớm càng tốt, mạ cần được cấy ngay sau sau đó. Năng suất cỡ vụ hè-thu khoảng 4 tấn/ha.
Điều này cho thấy trong khi trồng ba vụ sẽ cải thiện hiệu suất đất, đát có đê bao không thể hưởng lợi ích
nào từ trồng ba vụ, hậu quả là đất thoái hóa do tăng tính acid.
Khóm
Khóm sinh trưởng tốt trên đất chua, nhưng đất phải thoát nước để trồng, nông trại cần làm đê bao. Đất
không được lợi từ lũ và hơn nữa, lá và thân khóm không thể vùi vào đất do sinh khối thấp. Như vậy, về
lâu dài, chúng tôi đoán trước trồng khóm sẽ làm thoái hóa độ phì nhiêu của đất. Có khoảng 8.600 ha
nông trại khóm ở tỉnh Tiền Giang và chở đến nhà máy chế biến trong và ngoài tỉnh.
Bên cạnh đó, vài nông dân trồng nông sản như dưa hấu, khoai mỡ và cây ăn traấingy cả khi chúng được
trồng trên lô đất nhỏ.
Trồng rừng Tràm
Tràm thích hợp với đất chua ẩm ướt và không đòi hỏi cải tạo đất. Tràm có thể trồng trên đât chua thoát
nước kém. Trồng Tràm có chi phí hợp lý và không cần nhiều công sức để trồng. Hơn nữa, vì nhu cầu
21
cừ móng Tràm lớn, Tràm được trồng mạnh trong 3 tỉnh.
Bảng 2-2-9 Sự phát triển của Diện tích Rừng Tràm (theo ha)
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Long An 45.267 53.163 61.690 na 67.769 70.391
Tiền Giang 8.265 na na 10.500 na na
Đồng Tháp 9.440 10.000 9.789 10.770 11.024 na
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Tuy nhiên, dù không nêu trong bảng trên, giá thị trường của Tràm giảm sau khi đạt đỉnh cao từ năm
2004 đến 2004 và đồng thời giá lúa giảm. Do đó, nhiều nông dân đã chuyển từ Tràm sang các cây
trồng khác kể cả lúa. Chính quyền cố gắng tìm cách tốt nhất đề duy trì rừng Tràm hiện có. Chính
quyền đã lập hệ thống kiểm lâm để ngừa lửa rừng và kêu gọi không nên chuyển Tràm sang các cây
trồng khác ở vùng rừng đã chỉ định.
Các loại Rừng Tràm và Chủ của chúng
Rừng Tràm có 3 loại: rừng phòng hộ, rừng chuyên dùng và rừng sản xuất. Bảng dưới đây cho thấy chi
tiết.
Rừng sản xuất có 85,6%, hoặc 72.096 ha của tổng diện tích rừng 84.245 ha ở 3 tỉnh. Chi tiết về những
chủ rừng sản xuất ở Long An và Tiền Giang không rõ, tuy nhiên, dựa vào số liệu của tỉnh Đồng Tháp và
phỏng vấn mỗi tỉnh, chúng tôi giả định hơn phân nửa rừng do nông dân làm chủ.
Bảng 2-2-10 Các loại rừng Tràm ở 3 Tỉnh (theo ha)
Rừng sản xuất
Rừng
phòng hộ
Rừng
chuyên
dùng
Hộ
Cơ quan
nhà nước
Quân sự
Ủy ban Nhân
dân
Tổng diện
tích
Long An 1.198 2.000 62.065 65.262
Tiền Giang 3.388 101 4.470 7.959
Đồng Tháp 2.624 2.839 2.733 1.892 825 113 11,024
Tổng cộng 7.110 4.940 72.096 84.245
Ghi chú: Số liệu ở Long An dựa vào Thống kê năm 2002; số liệu ở Tiền Giang năm 2000, số liệu ở
ĐồngTháp năm 2004.
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Các loại Rừng Tràm
Hầu hết rừng được trồng Tràm cừ để làm cừ móng. Thông thường, Tràm trồng lần đầu được đốn làm
cừ móng lúc 7 năm. Sau lần trồng thứ hai, Tràm trồng từ 5 đến 6 năm để làm cừ móng. Khác với
Tràm làm cừ móng, trong 3 tỉnh khảo sát chỉ tỉnh Long An trồng 834 ha loại Tràm gió để trích tinh dầu.
Hoàn cảnh Trồng Tràm
Đây là hoàn cảnh riêng rẽ của những nông dân trồng Tràm.
Bảng 2-2-11 Những Hộ Trồng Tràm và Diện tích trong 3 Làng
Làng Tổng của 3 làng Thủy Tây Mỹ Phước Trường Xuân
Tổng số hộ 3.503 923 652 1.928
- Hộ trồng rừng Tràm na na 151 788
- Diện tích trồng rừng Tràm 5.662 1.182 1.315 3.165
22
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Rừng Tràm được trồng bởi 80 trong 124 hộ khảo sát. Vì những hộ trong làng Trường Xuân đã trồng
Tràm nhiều năm hơn những làng khác, nên vài nông dân trồng đến hơn 10 ha và diện tích trồng bình
quân tương đối rộng hơn 5,33 ha. Tuy nhiên, ở các làng Thủy Tây và Mỹ Phước, sau chiến tranh nhiều
người nhập cư và bộ đội phục viên bắt đầu trồng, diện tích trồng bình quân ít hơn 2 ha và phần lớn
những hộ ở đó trồng ít hơn 3 ha.
Bảng 2-2-12 Nét chính của 80 Hộ Trồng Rừng Tràm
Làng Tổng của 3 làng Thủy Tây Mỹ Phước Trường Xuân
Hộ khảo sát 124 42 42 40
- Hộ trồng rừng Tràm 80 27 30 23
Diện tích sở hữu bình
quân (ha)
3,10 2,84 2,61 4,50
Diện tích rừng Tràm bình
quân (ha)
2,61 1,15 1,81 5,33
- Dưới 1 ha (hộ) 22 7 11 4
- Từ 1 đến ít hơn 3 ha (hộ) 36 13 16 7
- Từ 3 đé ít hơn 5 ha (hộ) 12 7 0 5
- 5 ha hoăhc hơn (hộ) 10 0 3 7
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Qui trình trồng Tràm và Đặc điểm của Tràm
Tràm đuợc thừa nhận là cây trồng về cơ bản ít đòi hỏi chi phí trồng và sức người. Nhiều hộ thường
không chăm sóc đồng Tràm trừ lúc trồng và thu hoach. Tuy nhiên, khi mục đích trồng Tràm chuyển
sang lấy cừ móng để bán, nhiều hộ bắt đầu làm liếp, rải phân, tỉa thưa cây con để thúc đẩy sinh trưởng
và nâng phẩm chất rừng tốt hơn.
∗ Làm đất:
Làm liếp và xẻ mương: Cách làm liếp và xẻ mương thông thường nhất là đắp đất làm liếp rộng từ 5
đến 6 m và cao từ 20 đến 50 cm, và đào mương rộng từ 1 đến 1,5 m giữa liếp. Điều này ngăn cây
con ngấm trong nước acid quá nhiều giúp cây sinh trưởng. Hơn nữa, mương có thể rửa trôi nước
acid và ngăn ngừa lửa. Tuy nhiên, lòng liếp là nơi trú ẩn của chuột vì liếp không để nước ngấm
vào và giữ bình thường nhiệt độ và ẩm độ bên trong. Do đó, đất dễ bị chuột phá hại.
∗ Cày: Nông dân cày đất trước khi trồng cây con (hay hột). Vài nông dân vừa làm đất và cày nhưng
vai người không làm gì hết
∗ Cây con:
Trồng từ 25.000 đến 30.000 cây con trên ha. Khoảng cách cây là:
@50×50cm, @50×70cm, @70×100cm, hoặc @70×70cm
− Mua cây con: Nông dân mua cây con từ người bán cây con.
− Mua hột: Vài người mua hột và trồng thành cây con nhưng vài người gieo trực tiếp hột vào đất.
− Gieo hột thu được trong đất của họ: Vài người mua hột và trồng thành cây con nhưng vài người
gieo trực tiếp của hột vào đất.
− Để cây đến lớn: Sau thu hoạch, hột rơi xuông và gốc cây sẽ nảy mầm và nông dân để trồng.
23
∗ Bón phân:
Hiện nay, ngày càng nhiều nông dân phun phân bón lên rừng để thúc sinh trưởng của cây.
Thường, phân bón đuợc phun từ năm thứ 2 đến năm thứ 4. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều nông dân
theo cách trồng cổ truyền, họ không dùng phân bón gì cả. Hoặc, vài nông dân sau cùng bỏ dùng
phân bón vì giá phân bón tăng và giá bán Tràm hiện có xu hướng giảm.
∗ Phun nông hóa phẩm:
Nếu nông dân phun nông hóa phẩm, họ thường phun trên lá trong năm thứ nhất. Nhiều người
không phun nông hóa phẩm gì hết. Lý do vì sao nông dân không phun ở năm thứ 2 vì rừng quá
cao nên họ không thể phun.
∗ Tưới tiêu:
Trong hầu hết trường hợp, tưới tiêu không cân thiết vì nông dân để cây đến lớn.
∗ Tỉa thưa:
Nông dân tỉa thưa rừng nhiều lần đén mật độ rừng Tràm khoảng 10.000 khi sinh trưởng đầy đủ.
Cây rừng được tỉa thường dùng làm nhiên liệu cho hộ. Tuy nhiên, nhiều người không tỉa thưa và
để rừng chọn lọc tự nhiên. Đồng thời lúc tỉa thưa rừng nông dân lọai bỏ cỏ dại mọc leo quanh cây
rừng. Điều này cải thiện phẩm chất rừngnhưng nhiêu hộ vẫn không làm.
∗ Ngăn lửa rừng:
Chính quyền địa phương ghi nhận dấu hiệu lửa khi Tràm dễ cháy và phương thức nông nghiệp
cắt-và-đốt (du canh) chuyển sang trồng vụ khác tăng lên có thể gây ra lửa rùng. Điều này tùy thuộc
vào vùng nếu nông dân thu được lệ phí.
∗ Thu hoạch:
Hầu hết nông dân bán Tràm cho nguồi môi giới theo ha, và người môi giơi đốn cây. Vài nông dân
tự đốn rừng và bán rừng theo số lượng họ muốn.
Vận chuyển bằng tàu trên nước rẻ hơn vận chuyển trên đất liền nên trong hầu hết các trường hợp,
Tràm được chở bằng tàu trên kênh rạch. Nhiều nông dân đốn và bán rừng trong mùa mưa khi
kênh rạch đầy nước kể cả các mương trong rừng Tràm. Do đó, điều này cho thấy ở mùa mưa, dễ
vận chuyển nhưng khó bán cây cao giá trong khi ở mùa nắng khó vận chuyển nhưng có thể bán cây
giá cao hơn.
Đây là biểu đồ cho thấy sự khác biệt về chi phí trồng giữa canh tác hiện đại và phương pháp cổ truyền
chỉ có nông dân trồng và thu hoạch. Khi nông dân chăn sóc Tràm tốt, chi phí gấp 20 lần chi phí nông
dân không chăm sóc Tràm.
Bảng 2-2-13 Khác biệt về Chi phí Canh tác (Trường hợp mẫu)
Qui trình Canh
tác
Những hộ làm trọn qui
trình (mẫu)
Những hộ hầu như
không làm gì cả
(mẫu)
Chuẩn của
OXFAM
Làm liếp 4.000.000 0 2.000.000
Cày Gồm trong mục 1 trên 0 1.500.000
Làm đất
Xẻ mương Gồm trong mục 1 trên 0 Gồm trong
mục 2 trên
Trồng Mua cây con 1.500.000 0 1.500.000
24
Qui trình Canh
tác
Những hộ làm trọn qui
trình (mẫu)
Những hộ hầu như
không làm gì cả
(mẫu)
Chuẩn của
OXFAM
Trồng lại 1.000.000 584.000 1.000.000
Bón phân 840.000 0 700.000 Năm thứ nhất
Phun nông hóa
phẩm
300.000 0 0
Bón phân 942.000 0 700.000 Năm thứ 2
Tỉa thưa 350.000 0 0
Bón phân 984.000 0 600.000 Năm thứ 3
Tỉa thưa 350.000 0 0
Năm thứ 4 Bón phân 0 0 0
Năm thứ 5 và
sau đó
Thu hoạch 0 0
Tổng chi phí 10.266.000 584.000 8.000.000
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Đây là biểu đồ cho thấy có bao nhiêu miếng (hoặc bao nhiêu %) đất được dùng trồng Tràm ở mỗi qui
trình canh tác.
Table 2-2-14 Thực hiện Qui trình Canh tác bởi các Hộ Khảo sát (Miếng và Phần trăm đất)
Làng Tổng của 3 làng Thủy Tây Mỹ Phước Trường Xuân
Đơn vị Miếng đất % Miếng đất % Miếng đất % Miếng đất %
Hộ 80 27 30 23
Miếng đất ở vùng
canh tác
103 100 36 100 32 100 35 100
Diện tích canh tác
bình quân
2,61 0,61 1,81 5,33
Làm đất 73 70,9 31 86,1 22 65,6 21 60,0
Mua hột / cây con 85 82,5 32 88,9 27 75,0 26 74,3
Trồng lại cây con 91 88,3 34 94,4 31 96,9 26 74,3
Thêm cây 20 19,4 5 13,9 5 15,6 10 28,6
Bón phân 70 68,0 25 69,4 26 72,2 19 54,3
Phun nông dược 52 50,5 24 66,7 16 50,0 12 34,3
Tưới tiêu 12 11,7 0 0 3 9,4 9 25,7
Tỉa thưa 61 59,2 29 80,6 25 78,1 7 20,0
Ngừa lửa rừng 19 18,4 0 0 15 46,9 4 11,4
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Làm đất, mua và trồng cây con được thực hiện ở nhiều nông trại. Bón phân, phun nông dược, và tỉa
thưa thường ít làm, nhưng nay được thực hiện trong hơn phân nửa nông trại. Sự cố gắng to lớn này
nhằm cải thiện phẩm chất gỗ và rút ngắn thời gian canh tác cho thấy nông dân kỳ vọng thu được nhiều
từ Tràm.
25
Đây là chi phi canh tác bình quân.
Bảng 2-2-15 Chi phí Canh tác bình quân (theo VND)
Village Tổng của 3 làng Thủy Tây Mỹ Phước Trường Xuân
Làm đát 2.732.460 2.140.484 4.345.236 1.937.174
Mua hột / cây con 1.479.379 1.280.859 1.212.216 2.000.355
Trồng cây con 393.884 320.539 450.395 592.076
Thêm cây 206.739 478.333 196.000 76.311
Bón phân 1.062.328 1.422.257 921.550 781.382
Phun nông dược 190.361 203.950 235.560 193.719
Tưới tiêu 911.382 0 315.385 2.522.014
Tỉa thưa 680.678 631.226 1.075.609 288.571
Ngừa lửa rừng 55.126 0 35.143 130.682
Tổng chi phí bình
quân*2
5.052.550 4.910.323 6.343972 4.004.236
Tổng chi phí bình quân ở
mỗi qui trình*3
7.712.337 6.477.648 8.787.094 6.222.284
*1: Như trình bày ở bảng 2-2-14 trên, tùy miếng đất thực hiện qui trình. Do đó, để biết chi phí bình
quân của mỗi qui trình, chúng tôi chia chi phí của mỗi qui trình không cho tổng số miếng đất
nhưng cho số miếng đất được thực hiện qui trình.
*2: Tổng chi phí bình quân: Tổng chi phí của mỗi qui trình được chia cho tổng số miếng đất.
*3: Tổng chi phí bình quân của mỗi qui trình: Tổng chi phí của mỗi qui trình được chia cho số miếng
đát được thực hiện qui trình.
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Sản phẩm của Rừng Tràm
Mật ong:
Không có nông dân sản xuất mật ong ở làng khảo sát. Nhưng mật ong lấy từ Tràm được xem có phẩm
chất tốt và cao giá. Mặt khác, dân đốt thuốc lá để tự bảo vệ đối với ong khi họ thu mật. Một trong
những nguyên nhân của lửa rừng là thuốc lá có thể tiếp xúc với Tràm gây cháy dễ dàng.
“Cỏ bàng”:
Cỏ bàng mọc như buội rậm dưới rừng Tràm hay đất chua. Vài nông dân phơi khô chúng làm chổi hay
đồ thủ công.để thêm thu nhập. Trong cuộc khảo sát, nông dân làng Mỹ Phước dùng cỏ này làm đồ thủ
công.
Dầu thơm:
Dầu thơm không thể trích tử Tràm làm cừ móng ở các nông trại khảo sát. Trong những hộ khảo sát,
vài nông dân ở tỉnh Long An trồng Tràm để lấy dầu nhưng lượng trích rất ít.
Giá bán Tràm
Thường nông dân bán Tràm cho thương lái theo ha và thương lái theo dõi sự thu hoạch và vân chuyển.
Lú thu hoạch, sau khi tỉâ thưa, số cây bình quân trên mỗi ha từ 7.000 đén 10.000. Giá bán thường từ
70 đến 100 triệu VND (khoảng từ 4.430 đến 6.330 USD) mỗi ha cho đến năm 2002 nhưng giá đã giảm
và hiện được biết từ 40 đến 50 triệu VND (khoảng từ 2.500 đến 3.160 USD).
26
Ngay ở thời điểm giá đạt đỉnh cao, một hộ bán Tràm 15 triệu VND mỗi ha. Một hộ khác bán Tràm được
60 triệu VND năm 2004. Phần lớn, giá bán chung trong khoảng từ 30 đên 40 triệu VND trong năm
2003 đến năm 2004. Giá dao động lớn do phẩm chất gỗ nhưng thiếu thông tin về yếu tố khác. Vài
nông dân than phiền họ thường chỉ lấy thông tin về giá Tràm từ thương lái hay láng giềng, và thương lái
thường ép giá.
Trên tổng thể, giá đang giảm và khong còn nghi ngờ gì nữa giá sẽ tiếp tục giảm.
Nơi học Kỹ thuật Trồng Tràm
Chúng tôi đã đề cập phương pháp trồng Tràm từ phương pháp cổ truyền đã thay đổi. Vì thế, phương
pháp nào được nông dân chấp nhận? Ví dụ, kỹ thuật trồng lúa và các giống lúa được thông tin cho mỗi
nông hộ qua các buổi hội thảo tập huấn đươc. vài viện tổ chức như trung tâm hỗ trợ nông nghiệp. Tuy
nhiên, không có nơi chuyên môn để lấy thông tin về Tràm. Vài người viếng nông trại được tiếng tốt ở
tỉnh Long An như trung tâm trồng Tràm, và vài người khác chờ lớp tập huấn về trông Tràm trong những
vùng mà NGO của OXFAM quốc tế tích cực thực hiện chương trình hỗ trợ16 trồng Tràm.
2-2-3 Sản xuất Nông trại
Chúng tôi đã mô tả việc sử dụng đất chua và những sản phẩm chính trồng ở đất chua là Tràm và lúa
cùng với các sản phẩm khác như khóm và khoai mỡ. Dựa vào kết quả nghiên cứu, chúng tôi sẽ so
sánh Tràm với 3 sản phẩm khác về chi phí canh tác, thị trường, lợi nhuận và ảnh hưởng môi trường.
Những Hộ nghĩ thế nào về Trồng rừng Tràm
Chúng tôi đã hỏi 80 hộ canh tác Tràm họ sẽ làm gì với diện tích trồng Tràm. Đây là trả lời của họ
(Được trả lời nhiều cách).
− 3 hộ: “Tăng diện tích Tràm”.
Lý do:
“Tràm không cần nhiều sức, nên thích hợp với chúng tôi không đủ sức người”.
“Sau khi trồng một lần có thể thu hoạch nhiều lần”.
“Tôi tin giá Tràm sẽ tăng dù hiện nó đang giảm”.
− 11 hộ: “Đốn và trồng những cây trồng khác”.
Lý do:
“Nhũng cây trồng khác có nhiều lợi nguận hơn” (9 hộ).
“Theo kế hoạch sử dụng đất của chính quyền” (3).
− 58 hộ: ”Giữ nguyên hiện trạng”.
Lý do:
“Không đủ tiền để chuyển sang những cây trồng khác” (13).
“Không đủ lao động để trồng nhũng cây trồng khác” (9).
“Điều kiện đất xấu không cho phép chúng tôi trồng những cây trồng khác” (7).
“Bằng lòng với cuộc sống hiện tại: (10).
“Theo kế hoạch sử dụng đất của chính quyền” (3).
“Láng giềng đã trồng Tràm rồi” (2).
“Muốn thu lại tiền đầu tư. Tiền lãng phí mất trước khi chúng tôi thu hoạch” (5).
“Không đủ đất để trồng những cây trồng khác” (2).
16 Về chi tiết, xem đoạn 2-4-2.
27
Các lý do khác (4).
− 9 hộ: “Tùy theo giá”.
Lý do: n/a
Như đã nêu trên, hầu như không có hộ nào nghĩ sẽ tiếp tục canh tác Tràm dựa vào những lý do chính
đáng. Chúng tôi cũng thấy những hộ đó ít sức người và tiền của, hoặc những hộ khác có đất với điều
kiện xấu không còn lựa chọn nào ngoài tiếp tục trồng Tràm.
Nhưng đồng thời, điều nay hàm ý ngay cả những hộ có ít lao động và tài trợ hay điều kiện đất xấu, Tràm
có thể trồng được trong khi không thể trồng những cây trồng khác.
Chúng tôi cũng hỏi nếu bỏ trồng Tràm và trồng những cây trồng khác, họ thích loại nào trong các cây
trồng khác đó (Được trả lời nhiều cách).
Những câu trả lời là:
Lúa: 14 hộ.
Khoai mỡ: 4.
Khóm: 1.
Bạch đàn: 2.
Cây khác: 2.
Chúng tôi thấy nhiều nông dân thích trồng lúa không chỉ vì giá bán lúa tăng mà còn vì nông dân cảm
thấy an tâm họ có thể có thu nhập hằng năm.
Chi phí Canh tác
Lúa
Bảng 2-2-16 Chi phí, Tổng thu nhập và Lợi nhuận trên ha (theo VND/ha)
Tổng của 3 làng
Vụ đông-xuân năm
2004
Vụ hè-thu
năm 2004
Vụ thu-đông năm
2004
Hộ trồng lúa (hộ) 90 69 10
Diện tích bình quân ruộng lúa (ha) 1.61 1.73 1.97
Năng suất lúa (kg/ha) 6.272 3.636 4.329
Giá bán (VND/kg) 2.224 1.994 2.094
Cày 430.971 371.761 269.994
Đào mương 258.020 137.611 96.305
Mua mạ 435.692 392.824 443.339
Gieo hột 51.246 49.379 43.021
Cấy 236.557 212.931 174.559
Mua phân bón 2.211.653 2.339.454 2.434.532
Mua nông dược 1.212.667 1.067.874 1.156.754
Trả công lao động phun phân bón & nông
dược
338.095 316.061 269.836
Tưới tiêu 263.087 261.641 236.574
Làm cỏ 208.026 284.480 392.696
Thu hoạch 1.080.137 922.608 1.075.655
28
Tổng của 3 làng
Vụ đông-xuân năm
2004
Vụ hè-thu
năm 2004
Vụ thu-đông năm
2004
Tổng chi phí (1.000 VND/ha) 6.607 6.143 6.224
Tổng thu nhập (1.000VND/ha) 13.949 7.250 9.065
Lợi nhuận (1.000VND/ha) 7.342 1.107 2.841
Ghi chú 1: Lúa thu hoạch không chỉ bán mà còn dùng cho gia đình hay dùng làm giống. Cũng thế,
không ít nông dân trữ lúa và bán dần. Nhưng trong biểu đồ này, tổng thu nhập được giả
định tất cả lúa thu hoạch đều bán.
Ghi chú 2: Vài công việc được thành viên trong gia đình làm nhưng vài công việc được mướn lao
động. Mỗi loại chi phí được tính trên giả định những thành viên trong gia đình cũng được
mướn và trả công. Do đó, chi phí thực tế có thể thấp hơn đối với vài công việc.
Ghi chú 3: Không kể số liệu có giá trị quá cao.
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Khóm
Bảng 2-2-17 Chi phí bình quân Canh tác Hằng năm của Khóm trên ha (theo VND)
Hộ khảo sát (hộ) 14
Diện tích sở hữu bình quân (ha) 2,77
Diện tích canh tác khóm bình quân (ha) 2,09
Năng suất (kg/ha) 15.326
Giá bán (VND/kg) 1.039
Làm đất (1) 7.570.938
Cây con (2) 2.116.905
Trồng cây con (3) 1.806.019
Phân bón (4) 2.985.291
Chi phí lao động bón phân (5) 373.183
Nông dược (6) 175.045
Chi phí lao động phun nông dược(7) 69.063
Tưới tiêu (8) 933.268
Làm cỏ (9) 2.098.297
Thu hoạch (10) 486.653
Chi phí khác (Kích thích ra hoa) (11) 343.000
Tổng chi phí (12) (theo 1.000 VND/ha) 18.957
(Chi phí ban đầu chia cho 15 năm) + chi phí duy trì (13) (theo 1.000 VND/ha) 8.230
Tổng thu nhập (14) (theo 1.000 VND/ha) 15.923
Lợi nhuận (14)-(13) (theo 1.000 VND/ha) 7.693
Ghi chú 1: Chi phí ban đầu gồm: (1) Chi phí làm đất, (2) Chi phí mua cây con, (3) Chi phí trồng cây
con.
Ghi chú 2: Để tính tổng thu nhập bình quân, chúng tôi dùng số liệu tổng thu nhập của các hộ trong 3
29
năm hay hơn sau khi canh tác vì khóm không thể thu hoạch trong từ 1 đến 2 năm đầu.
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Vài hộ trồng khóm sớm từ năm 1993 nhưng hầu hết bắt đầu trồng khóm năm 2002 hay sau đó. Chúng
tôi hỏi nông dân chi phí ban đầu cho năm thứ nhất họ bắt đầu trồng, và các chi phí khác cho những năm
trước. Canh tác khóm đòi hỏi chi phí ban đầu rất cao. Nhưng từ khi nông dân làm liếp và trồng lại cây
con trên liếp, họ ít cần chi phí ban đầu nữa trong thời gian tương đối lâu. Chi phí ban đầu chia cho số
năm cần để trồng lại (ở đây, chúng tôi dùng thử dùng 15 năm vì chúng tôi không biết chính xác số năm)
như trình bày ở trên.
Khoai mỡ
Bảng 2-2-18 Chi phí bình quân của Khoai mỡ trên ha (theo VND)
Hộ khảo sát (hộ) 10
Diện tích sở hữu bình quân (ha) 3,5
Diện tích canh tác khoai mỡ bình quân (ha) 1,63
Năng suất (kg/ha) 15.210
Giá bán 1.460
Làm đất 2.200.000
Cây con 2.600.444
Trồng cây con 480.423
Phân bón 2.358.034
Chi phí lao động bón phân 162.077
Nông dược 774.744
Chi phí lao động phun nông dược 164.013
Tưới tiêu 594.615
Làm cỏ 536.795
Thu hoạch 2.025.064
Chi phí khác 1.067.615
Tổng chi phí (1.000 VND/ha) 12.964
Tổng thu nhập (1.000 VND/ha) 22.207
Lợi nhuận (1.000 VND/ha) 9.243
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
(3) So sánh giữa Tràm và các nông sản khác
Chi phí, Tổng thu nhập và Lợi nhuận
Đây là chí phí canh tác bình quân, tổng thu nhập và lợi nhuận trên ha của nông sản. Cần 7 năm để
Tràm sinh trưởng hoàn toàn. Do đó, chúng tôi tính toán lợi nhuận theo giả định nông dân bán Tràm ít
hơn chút ít 50 triệu VND trên ha gần với giá thị trường hiện hành.
Bảng 2-2-19 So sánh Chi phí bình quân, Tổng thu nhập và Lợi nhuận trên ha (theo 1.000 VND/ha)
Cây trồng Tràm Một vụ Hai vụ Ba vụ Khóm Khoai mỡ
Chi phí 7.712 6.607 12.749 18.973 8.230 12.963
Tổng thu nhập 49.804 13.964 21.359 30.423 15.923 22.206
30
Lợi nhuận 42.092 7.357 8.610 11.449 7.693 9.242
Lợi nhuận hằng năm 6.013 7.357 8.610 11.449 7.693 9.242
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Đặc điểm Chi phí Canh tác và Lao động
− Tràm: Chi phí cần cho 7 năm gần bằng chi phí cần cho vụ mùa thứ nhất của lúa. Nếu nông dân có
thể chuẩn bị chi phí ban đầu gồm chi phí làm đất như lên liếp, chi phí mua và trồng cây con , sau đó
họ không cần nhiều tiền. Thêm vào đó, trồng Tràm không đòi hỏi nhiều sức người nên nông dân
có thể canh tác diện tích lớn.
− Lúa: Trồng lúa đòi hỏi chi phí và lực lượng lao động. Đăc biệt, giá phân bón và nông dược đang
tăng và thêm vào đó, nông dân có xu hướng dùng chúng nhiều. Cho nên đây là gánh nặng cho
nông dân. Không ít nông dân trồng lúa vay tiền từ người bán phân bón với lãi suất cao.
− Khóm: Nông dân trồng khóm cần chi phí ban đầu rất lớn và nhiều sức người. Trong bảng trên, chi
phí ban đầu được chia cho 15 năm. Thực tế, nếu nông dân trồng khóm lần đầu, cần 18.958.000
VND gần bằng chi phí của lúa ba vụ.
− Khoai mỡ: Như trình bày trong bảng trên, chi phí canh tác cao vì cần làm đất, mua cây con và phân
bón. Tuy nhiên, cần ít sức người hơn lúa.
Thị trường & Lợi nhuận
− Lúa: Nông dân có thể thu hoạch một lần trong từ 3 đến 4 tháng nên họ có thể hy vọng thu nhập
chắc chắn trong thời gian ngắn. Cũng thế, trồng lúa hấp dẫn nhiều nông dân vì giá lúa tăng từ
năm 2004 đến nay, năm 2005. Tuy nhiên, vì dựa nhiều vào xuất khẩu lúa kém phẩm, giá lúa có
thễ xuống dễ dàng và nhạy cảm với sự dao động giá lúa toàn cầu.
− Khóm: Nông dân không thể thu hoach trong từ 1 đến 2 năm đầu nhưng sau đó, họ có thể thu hoạch
cố định. Mùa thu hoạch có thể điều khiển bằng chất kích thích ra hoa. Thị trường nhỏ vì không
thể xuất khẩu khóm ngay khi có nhà máy chế biến ở gần.
− Khoai mỡ: Nông dân có thể thu hoạch để bán mỗi năm. Lợi nhuận cao do năng suất cao (30
tấn/ha). Tuy nhiên, gần như không có phương pháp chế biến và thị trường nhỏ. Do đó, diện tích
canh tác nhỏ và thị trường gần như không mở rộng trong tương lai.
− Tràm: Nông dân chỉ có thể thu hoạch một lần trong từ 5 đến 7 năm nên họ không thể kiếm sống
thường xuyên. Thêm vào đó, vào lúc này, nhu cầu Tràm chỉ để làm cừ móng, tuy nhiên, thị trường
Tàm là cừ móng đang co lại. Do đó, thị trường rất bất ổn và nông dân không thể thấy hướng thu
nhập tin cậy.
Ảnh hưởng trên Môi trường và Đất, và tính Bền vũng
− Tràm: Thích hợp ở đất chua ẩm ướt và không cần đầu tư để cải tạo đất. Thêm vào đó, Tràm sinh
trưởng tốt ngay khi độ acid đất tăng trong mùa nắng hay khi đất bị ngập lũ. Lúc sinh trưởng, lá và
vỏ rơi xuống và tích tụ làm đất phì nhiêu (Xem chi tiết ở Chương 4).
− Lúa: Yếu ớt với acid nặng, ruộng cần có hệ thống thoát nước tốt, nhiều phân bón hóa học và vôi.
Tuy nhiên, dùng quá nhiều phân bón hóa học và vôi có thể ảnh hưởng đến đất và nước. Có thể
trồng ba vụ lúa vì đất có đê bao, tuy nhiên, đồng thời đê ngăn nông dân hưởng lợi nhờ lũ rửa trôi
acid từ đất và đem đất phì nhiêu đến. Do đó, về lâu dài, chúng tôi dự đoán nó làm đất thoái hóa và
tăng độ acid.
31
− Khóm: Khóm sinh trưởng tốt ở đất chua, nhưng nhạy cảm với lũ. Nên nông dân cần bao đê ruộng
để canh tác khóm nhưng đồng thời, đê ngăn nông dân hưởng lợi từ lũ. Hơn nữa, lá và cây khóm
không thể vùi vào đất vì sinh khối thấp. Cho nên, chúng tôi nghĩ canh tác khóm sẽ giảm độ phì
nhiêu đất trong tương lai gần do độ acid đất tăng.
− Khoai mỡ: Cũng như lúa, để canh tác khoai mỡ, ruộng cần được cải tạo bằng phân bón. Cần
quan tâm phân bón hóa học và nông dược sẽ ảnh hưởng đến đất và nước. Thêm vào đó, khi
canh tác, nông dân lên liếp và thoát nước, họ lo ngại về sự thoát nước acid nặng vào môi trường
chung quanh.
Đây là tóm tắt vể trồng rừng Tràm.
(5) Tràm rất tuyệt về tính thích nghi và ảnh hưởng dến môi trường. Tràm sinh trưởng tốt ở điều
kiện xấu là đất chua nặng và nó thân thiện với môi trường. Trong cuộc khảo sát này, không có
cây trồng nào khác hơn Tràm mọc được trong đất chua.
(6) Về chi phí, Tràm biểu hiện rất tốt. Chi phí canh tác Tràm trong 7 năm gần bằng chi phí lúa một
vụ. Cũng thế, Tràm không cần nhiều sức lao động Do đó, nông dân không đủ tiền hay nông
hộ ít sức lao động có thể canh tác Tràm. 3 cây trồng kia cần chi phí và sức lao động.
(7) Thị trường Tràm không ổn định. Nhưng không có thị trường cây trồng nào ổn định.
(8) Vì nông dân chỉ có thể thu hoạch một lần từ 5 đến 7 năm, điều này cho thời gian để kiếm tiền.
Đây là vấn đề của nông dân nghèo. Đối với nông dân nghèo, những cây trồng khác Tràm hấp
dẫn hơn vì họ có thể thu nhập cố định.
Như đã nêu trên, so với những cây trồng khác, có nhiều bất lợi ở Tràm, nó cần thời gian sinh trưởng để
thu hoạch, thị trường bất ổn và co lại. Tuy nhiên, đồng thời, có nhiều thuận lợi, Tràm có tính thích nghi
với đất chua ẩm ướt, nó thân thiện với môi trường và chi phí canh tác không nhiều. Những điều này là
thuận lợi chỉ có ở Tràm. Nếu những cây trồng khác không có rủi ro của dao động thị trường, chúng vẫn
sẽ có những vấn đề như tính thích nghi và tính bền vững, chi phí cao và cần nhiều sức lao động. Do đó,
chúng tôi dự đoán sẽ có nhiều nông dân muốn sống trên công nghiệp rừng Tràm trong vùng.
2-2-4 Điều kiện Tài chính
Nhiều loại Tài chính Nông nghiệp
Nhũng người cho vay ở nông trang chủ yếu là Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn Việt
Nam (“VBARD”), Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (VBSP), những đoàn thể cư dân địa phương
như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, và các hội tài chính tư. Chúng tôi xem cụ thể làng Mỹ Phước thuộc
huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang có số liệu tương đối dồi dào.
VBARD
Để phát triển tài chính ở nông thôn, dựa trên Quyết định NQLT2308 ban hành bởi VBARD và Ủy ban
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, làng Mỹ Phước (652 hộ) lập ra Ủy ban Quản lý và Phát triển Tài
chính cho vay và kiểm tra các quỹ của chi nhánh tỉnh VBARD ở Tân Phước cho dân làng.
Ủy ban Quản lý và Phát triển Tài chính trong làng gồm 9 thành viên ủy ban và Thường trực Ủy ban Nhân
dân kiêm chủ tịch ủy ban và chủ tịch Hội Phu nữ kiêm phó chủ tịch. 7 thành viên khác cũng kiêm nhiệm
bởi trưởng các tổ chức khác như các đoàn thể cư dân địa phương. Có 6 nhóm dưới ủy ban này, mỗi
nhóm lần lượt kiểm tra từ 20 đến 60 hộ.
¾ Nhóm của Ô. Duong Van Can kiểm tra 1 tỉ 69 triệu VND cho 63 hộ.
¾ Nhóm của Ô. Nguyen Van Tho kiểm tra 465 triệu VND cho 23 hộ.
32
¾ Nhóm của Ô. Doan Van Ngan kiểm tra 409 triệu VND cho 32 hộ.
¾ Nhóm của Ô. Nguyen Ngoc Hai kiểm tra 484 triệu VND cho 21 hộ.
¾ Nhóm của Ô. Nguyen Van Lung kiểm tra 645 triệu VND cho 26 hộ.
¾ Nhóm của Ô. Tran Thi Dung kiểm tra 18,6 triệu VND cho 31 hộ.
Họat động của Ủy ban
Ủy ban chỉ đạo những họat động sau trực tiếp hay thông qua những nhóm nêu.
¾ Xem xét hộ có tuân theo các điều kiện vay của VBARD.
¾ Xem xét hộ có dùng tiền vay cho mục đích họ đã cam kết.
¾ Phối hợp với ban điều hành VBARD để đối phó với những phiền nhiễu hay rắc rối có thể có.
¾ Thu hồi những khoản vay tồn đọng hoặc thuyết phục người mượn trả lại.
¾ Gợi ý hộ mở tiết kiệm trong ngân hàng.
Tài chính năm 2004
Trong 198 hộ mới vay tổng cộng 4 tỉ 957 triệu VND năm 2004:
− Vay ngắn hạn: 1 tỉ 847 triệu VND cho 97 hộ,
− Vay trung hạn: 3 tỉ 119 triệu VND cho 102 hộ,
− Vay dài hạn: Không có.
Trong 290 hộ vay tổng cộng 8 tỉ 843 triệu VND vào ngàg 5 tháng Mười hai năm 2004:
− Vay ngắn hạn tồn đọng: 1 tỉ 234 triệu VND cho 67 hộ,
− Vay trung hạn tồn đọng: 7 tỉ 91 triệu cho 202 hộ,
− Vay dài hạn tồn động: 195 triệu VND cho 4 hộ.
Tiền vay tăng đến 1 tỉ 169 triệu VND so với năm 2003. Năm 2004, 190 hộ hoàn tiền vay 3 tỉ 288 triệu
VND nhưng 26 hộ trong đó hoàn trễ hạn 174 triệu VND. Không có hộ nào không hoàn tiền ngay khi
hạn vay đã qua.
Khảo sát Hộ
VBARD cho vay 86 trong 124 hộ khảo sát. Lượng tiền cho vay trong khoảng từ 2 tỉ đến 160 triệu VND
và bình quân là 20 triệu 90 ngàn VND. Mục đích vay của 78 hộ để sản xuất nông nghiệp: 45 hộ trồng
lúa (chủ yếu mua phân bón và nông dược), 8 hộ trồng Tràm, 8 hộ trồng khóm, 3 hộ trồng khoai mỡ, 2 hộ
nuôi cá, 4 hộ nuôi heo, 2 hộ thương mại và dich vụ, 1 hộ cho giáo dục con và 3 hộ để sửa và xây dựng
nhà.
Tất cả hộ dùng đất để đăng lý bảo đảm. Không cần người bảo lãnh (32 hộ nhờ Ủy ban Nhân dân bảo
lãnh nhưng hiện Ủy ban không bảo lãnh). Thời gian hoàn trả từ 4 tháng dến 5 năm, tùy theo mục đích
vay. Hộ có mục đích canh tác Tràm hay khóm được vay dài hạn từ 3 đến 5 năm. (Vài hộ được vay
ngắn hạn nói rằng họ không biết họ có thể được vay dài hạn). Lãi suất: từ 0,5% đến 1,5% tháng. Qui
trình định lãi suất còn được tìm hiểu.
VBSP
Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (“VBSP”) được gọi chính thức là Ngân hàng cho Người nghèo
(“VBP”) chủ yếu cho người hóa nghèo vay. Ở làng Thủy Tây thuộc huyện Thanh Hóa, tỉnh Long An
(923 hộ), Hôi Phụ nữ Việt Nam kiểm tra quỹ vay từ VBSP và VBSP cho những hộ nghèo vay không đòi
hỏi ký quỹ. Vay vốn được nhóm những người nghèo thực hiện và mỗi thành viên trong nhóm bão lãnh
cho những thành viên khác. Nông dân chỉ được tài trợ cho sản xuất nông nghiệp. Lãi suất: 0,5%
tháng. Khoảng 200 hộ được vay.
33
NGO
Trong những làng khảo sát, chỉ có làng Mỹ Phước thuộc huyện Tân Phước, tỉmh Tiền Giang trồng Tràm
nhờ tài chính hỗ trợ bởi OXFAM. Xem chi tiết về Tràm ở đoạn 2-4.
Ngoài ra, OXFAM đã đưa ra dự án hỗ trợ chăn nuôi gia súc trong làng. OXFAM hỗ trợ 3 triệu VND mỗi
hộ để nhân giống bò thịt. Lãi suất: từ 0,8 đến 1,0% tháng. Tuy nhiên, 3 triệu VND không đủ vì giá bò
thịt khoảng 10 triệu VND. Do đó, ít nông dân dùng vốn vay này. Cho đến nay, 14 hộ đã vay và mua
bò thịt nhưng trong đó có 4 hộ nuôi thất bại do bò bị bệnh. Một hộ có thể vay OXFAM 1,5 triệu VND để
nuôi gà vịt. Nhưng do dịch cúm gà, hầu như không có nông dân hỏi vay.
OXFAM cúng đưa dự án hỗ trợ tài chính ở làng Trương Xuân (1,928 hộ) thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh
Đồng Tháp. Dự án cho cư dân mượn 2 triệu VND mỗi người để nuôi heo và buôn bán nhỏ. Lãi suất:
1,2 % tháng. Thời gian vay: 12 tháng. Một hộ với 10 triệu VND tài sản có thể có thể vay vốn. Dự án
hỗ trợ này được thực hiện từ năm 1997 đến năm 1999, hỗ trợ vốn vay cho 265 nông dân.
Hội Phụ nữ
Hội Phụ nữ Việt Nam tham gia nhiều hoạt động khác nhau tùy làng. Hội Phụ nữ ở làng Mỹ Phước
thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang điều hành và kiểm tra dự án tài chính của OXFAM. Dự án
được bắt đầu điều hành bởi Trường Đại học Cần Thơ, tuy nhiên, hiện Hội Phụ nữ quản lý dự án cho
OXFAM vì Cần Thơ xa Tiền Giang. Do quản lý phí cho Hội thấp, lãi suất hạ, ví dụ, lãi suất cho dự án
gia cầm thấp còn từ 1,0% đến 0,8% tháng. Hội nói rằng họ làm công việc không để được trả gì cả.
Đây là những hoạt động ở làng Trường Xuân thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
¾ Tín dụng Hội Phụ nữ.
¾ Thành viên trong hộ được chia thành nhiều nhóm và mỗi nhóm phải ký gởi 10.000 VND hay hơn mỗi
tháng. Tiền ký gởi được rút ra vào cuối năm (trong ngày nghỉ Năm Mới). Thành viên của 567 hộ
được chia thành 26 nhóm.
¾ Kiểm tra dự án tài chính bởi OXFAM.
¾ Ký gởi bắt buộc (từ năm 1999): Những hộ tham gia ký gởi 3.000 VND hay hơn mỗi 15 ngày. Các
thành viên có thể luân phiên dùng tiền ký gởi và trả lại sau. Tất cả tiền ký gởi vay đã dược trả hết.
Ở làng Thủy Tây thuộc huyện Thanh Hóa, tỉnh Long An, Hiệp hội tham gia quản lý quỹ VBSP. (Xem
đoạn về VBSP).
Hội Nông dân
Hội tham gia quản lý quỹ VBARD với Ủy ban Nhân dân. (Xem đoạn VBARD). Những họat động khác
của Hội còn được tìm hiểu.
Tài chính tư nhân
Nông dân mượn tiền từ các tài chính tư nhân khi không thể vay từ ngân hàng vì không có đủ vật ký quỹ,
hoặc họ cần lượng lớn tiền cho vài việc như giáo dục con, hay khi họ cần một quỹ trợ giúp. Trong 124
hộ khảo sát, số ít 6 hộ vay tư nhân, 3 trong số đó sở hữu dưới 1 ha, 3 trong số đó sở hữu từ 1 đến 3 ha.
Trong 6 hộ này, 2 sở hữu dưới 1 ha chỉ vay vốn tư nhân. Lãi suất: từ 1,4% đến 30% bình quân là
12,3%.
Kích thước Sở hũu và Lượng Tài chính
Bảng cho thấy bao nhiêu tiền tài trợ cho các hộ có kích thước sở hữu khác nhau trong khảo sát. Chúng
tôi có thể thấy hộ có kích thước sở hữu càng nhỏ, họ có thể mượn tiền càng ít.
Bảng 2-2-20 Hoàn cảnh Tài chính theo Kích thước Sở hữu
34
(Theo Hộ hay theo VND)
Kích thước Sở hữu
Dưới 1 ha
Từ 1 đến ít
hơn 3 ha
Từ 3 đến ít
hơn 5 ha
Từ 5 đếnít
hơn 10 ha
10 ha hay
hơn
Tổng cộng
Hộ trong khảo sát 18 57 28 18 3 124
Tài chính hộ trong
khảo sát
12 40 22 17 3 94
Lượng vay bình
quân
4.000.000 15.362.500 19.854.545 40.588.235 90.000.000 21.907.447
VBARD (hộ) 4 32 20 15 3 87
VBARD (lượng vay
bình quân)
5.250.000 12.453.125 19.975.000 43.933.333 90.000.000 20.091.954
VBSP (hộ) 5 4 3 1 0 13
VBSP (lượng vay
bình quân)
4.200.000 5.500.000 7.333.333 7.000.000 0 5.538.462
Hội quần chúng
(hộ)
1 4 1 0 0 6
Hội quần chúng
(lượng vay bình
quân)
3.000.000 3.750.000 3.000.000 0 0 3.500.000
NGO (hộ) 0 6 2 2 0 10
NGO (lượng vay
bình quân)
0 8.000.000 7.500.000 12.000.000 0 8.700.000
Tư nhân
(household)
3 3 0 0 0 6
Tư nhân (lượng
vay bình quân)
1.500.000 43.666.667 0 0 0 26.800.000
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
2-7 Hoàn cảnh kinh tế-xã hội của Cư dân trong vùng
2-3-1 Cơ cấu Công nghiệp
(3) Ở cấp Tỉnh
(a) Tỉnh Long An
GDP năm 2004 gồm 41,9% (giảm 3% so với năm trước) về nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, 27,8%
(tăng 2,6% so với năm trước) về công nghiệp và 30,3% (tăng 0,4% so với năm trước) về công nghiệp
dịch vụ của GDP năm 2004.
Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản
Tổng sản lượng là 4.896 tỉ VND đuợc chuyển đổi theo tỉ giá năm 1994.
Nông nghiệp: Nông sản chủ yếu là lúa, gạo, mía, đậu nành.
Chăn nuôi gia súc: Cả tỉnh có 280.000 heo, 49.000 bò thịt, 3.800 bò cái được nuôi. Dịch cúm gà ảnh
hưởng 95% gà con, nay chỉ còn 2,1 triệu gà con.
35
Nuôi cá: Công nghiệp này tăng trưởng nhanh. Diện tích ao nuôi cá tăng 2.400 ha so với năm trước, đạt
12.562 ha với sản lượng 15.685 tấn. Tuy nhiên, vì chưa tập huấn kỹ thuật cho nông dân, cá chưa
được nhân giống hợp lý. Trong tỉnh, tôm được nhân giống trong diện tích ao 9.937 ha (tăng đến 2.061
ha so với năm trước), tuy nhiên, bệnh lây lan giết 75% tôm nuôi.
Lâm nghiệp: Hầu hết là rừng Tràm. Năm 2004 rừng Tràm được trồng mới 5.000 ha. Có 45 lần cháy
rừng và 487 ha rừng bị mất. Báo cáo cho biết vài lần cháy rừng gây ra bởi người đi lấy mật ong đốt
thuốc lá ném đi. Người đốt thuốc lá để tự bảo vệ đối với ong khi họ lấy mật, nên thuốc lá tiếp xúc ngẫu
nhiên với Tràm gây cháy dễ dàng.
Công nghiệp
Sản lượng: 5.521 tỉ VND (chuyển đổi theo tỉ giá năm 1994), trong đó 679 tỉ VND là công nghiệp nhà
nước, 1.345 tỉ VND công nghiệp vùng, 3.352 tỉ VND công nghiệp nước ngoài đầu tư.
Giấy và bột giấy: Sản lượng 15.000 tấn tăng 25% so với năm trước.
Thép: Sản lượng 5.960 tấn tăng 19,2% so với năm trước.
Gạch: Sản lượng 4.771.000 m3 tăng 9% so với năm trước.
Nước khoáng: Sản lượng 45 triệu lít tăng 15,4% so với năm trước.
May mặc: 10.640.000 cuộn tăng 6,6% so với năm trước.
Xay lúa: 650.000 tấn tăng 3,3% so với năm trước.
Chế biến hạt điều: 13.257 tấn tăng 2,8% so với năm trước.
Đường: 111.000 tấn giảm 6% so với năm trước.
Chế biến hải sản: cùng sản lượng với năm trước.
Dệt may: 50 triệu thước giảm 13,8% decrease so với năm trước.
Thức ăn gia cầm: 69.000 tấn giảm 28,9% so với năm trước (ảnh hưởng bởi dịch cúm gà).
Thương nghiệp và Công nghiệp Dịch vụ
Tỉnh đạt tổng thu nhập 5.035 tỉ VND về vận chuyển và bán lẻ và 17,2 tỉ VND về du lịch. Cơ sở hạ tầng
cần thiết cho thương nghiệp và công nghiệp dịch vụ trong tỉnh đã cải thiện; ví dụ, 5 chợ mới và cửa hàng
nông sản đã được xây dựng, 6 chợ được sửa lại, 7 chợ đang xây dựng, 10 chợ đang thiết kế và các
điểm du lịch mới đang phát triển.
Nhập khẩu và Xuất khẩu
Năm 2004 lượng xuất khẩu là 288 triệu USD, tăng 19% so với năm trước. Danh mục xuất khẩu gồm
200.000 tấn gạo, 16.000 tấn hạt điều và quần áo. Năm 2004 lượng nhập khẩu là 160 triệu USD tăng
14% so với năm trước. Danh mục nhập khẩu chính là trang bị máy móc và nguyên liệu.
(b) Tỉnh Tiền Giang
Năm 2004, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đạt 50%, công nghiệp đạt 22.1%, và công nghiệp dịch
vụ đạt 27,9% GDP.
∗ Nông nghiệp: Sản lượng ngũ cốc (gồm gạo) là 1.317.267 tấn, 72% sản lượng là gạo giá cao như
gạo thơm và nếp. Số nông sản còn lại là gạo thường, bắp và đậu nành. Vì năm này giá lúa tăng
cao, ít nông dân chuyển canh tác từ lúa sang cây trồng khác. Giá bán lúa bình quân là 2.190
VND/kg. Sản lượng mía là 20.397 tấn. Canh tác cây ăn trái trong nước như xoài, vú sữa (milk
fruits), và bưởi được đẩy mạnh, sản lượng ước tính 728.488 tấn. Sản lượng khóm cũng tăng, đạt
110.000 tấn.
∗ Lâm nghiệp: 38 triệu cây mới được trồng chủ yếu trên đê hay bờ sông như rừng phòng hộ để ngăn
36
xói mòn đất hoặc gió mạnh. Ngoài ra, 380 ha đất được trồng mới rừng sản xuất, trong đó 159 ha
được trồng theo dự án 661 (Dự án Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng), và phần còn lại được nông dân tự
trồng.
∗ Nuôi gia súc: Tổng thể, có 495.373 heo, 30.903 trâu bò, và 4.597 gia cầm được nuôi. Do ảnh
hưởng dịch cúm gà, số gia cầm giảm đáng kể so với năm trước. Số trâu bò và heo tăng lên, tuy
nhiên, giá cỏ tăng là vấn đề lớn cho nông dân.
∗ Thủy sản: Số cá được nuôi là 55.000 tấn trong 11.150 ha ao. Bảy mươi ngàn tấn cá được đánh
bắt.
Công nghiệp
Tông sản lượng công nghiệp là 2.015 tỉ VND (chuyển đổi theo tỉ giá năm 1994).
− Khu vực công nghiệp nhà nước sản xuất 582,4 tỉ VND, trong đó 101,4 tỉ được sản xuất bởi chính
quyền trung ương (tăng 22% so với năm trước), và 481 tỉ VND còn lại được sản xuất bởi công
nghiệp trong vùng (giảm 3% so với năm trước). Công nghiệp trong vùng gồm Công ty Máy 1
tháng Năm, các công ty sản xuất dầu thực vật, liên doanh sản xuất nước đá, công ty xuất khẩu
quần áo Tiền Giang, 3 công ty thủy sản, các công ty rau quả, các công ty vật liệu xây dựng, các
công ty in, các công ty dược, và công ty phát triển và cung cấp nước cho nông dân.
− Khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất 1.140 tỉ VND (tăng 49.5% so với năm trước).
Khu vực này gồm các công ty chế biến hải sản đông lạnh, công ty xuất khẩu, công ty sản xuất chả
vò và công ty sản xuất vật liệu bao bì nhựa. Các công ty nằm trong thành phố Mỹ Tho và khu
công nghiệp Trung An.
− Khu vực đầu tư nước ngoài: 428 tỉ VND. Gồm công ty Foster's & Badavina stockbreeding.
Thương nghiệp và Dịch vụ
− Thương nghiệp nội địa: 7.700 tỉ VND tăng 10% so với năm trước. Tuy nhiên, dân ít mua hàng vì
giá phân bón và vật liệu xây dựng tăng, vì sự tăng giá khí đốt ảnh hưởng đến vận chuyển và vì sự
bùng phát của dịch cúm gà làm dân tìm thức ăn thay thế. Mặt khác, chính quyền địa phương phát
triển cơ sở hạ tầng để mở rộng thương nghiệp như xây dựng và cải thiện chợ.
− Du lịch: Năm 2004 du khách đến Tiền Giang ước khoảng 423.500 tăng 13,6% so với năm trước.
Trong đó lượng du khách nước ngoài 192.300. Hàng bán được 86,2 tỉ USD, tăng 23,6% so với
năm trước.
(c) Tỉnh Đồng Tháp: Không có số liệu.
(4) Ở cấp Huyện
Huyện Thanh Hóa, Tỉnh Long An
Năm 2004 nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đạt 80,5%, công nghiệp 8%, dịch vụ 11,5% GDP. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế là 8,0% trong nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp thủy sản, 7,5% trong công
nghiệp, 7,5% trong dịch vụ, và tốc độ tăng trưởng chung là 7,7%.
Nông nghiệp: Sản lượng lúa là 105.057 tấn và năng suất bình quân là 4,74 tấn trên ha. Khoai mỡ là
17.267 tấn. Dưa hấu sản xuất 7.344 tấn, và đay 1.038 tấn.
Nuôi gia súc: 10.500 heo, 368 dê, 418 trâu bò, và 30.000 gia cầm. Gà giảm vì ảnh hưởng vủa dịch cúm
gà.
Lâm nghiệp: Tràm là rừng được trồng chủ yếu. Thu nhập từ Tràm giảm vì nhu cầu Tràm giảm. Năm
2004 giá bán khoảng 40 triệu VND trên ha và 6 triệu VND trên ha trên năm. Chỉ có nhu cầu Tràm phẩm
37
chất tốt và giá Tràm kém phẩm giảm rất nghiêm trọng. Năm 2004 huyện có 14 lần lửa rừng và cháy
giảm còn 56,6 ha.
Công nghiệp: Gồm công nghiệp chế biến hạt điều và công nghiệp xay lúa. Công nghiệp tập trung ở
Tan Dong và khu công nghiệp Thuan Nghia Hoa. Xây dựng mở rộng kênh và làm đường hoàn thành.
Công nghiệp dịch vụ: 884 hộ đăng ký tham gia khu vực này, trong đó 140 đăng ký năm 2004. Trong
huyện có 50 phương tiện thương mại và dịch vụ, gồm xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp nhiên liệu, chế
biến thức ăn, vận chuyển, sơ chế hạt điều, cung cấp điện, và bưu điện. Phương tiện cung cấp điện cho
67% cư dân.
Huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang
Năm 2004 nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp thủy sản đạt 81,58%, công nghiệp 4,1%, và dịch vụ
14,4% GDP.
Nông nghiệp: Sản lượng lúa là 64.849 tấn. Họ trồng một vụ (vụ đông-xuân) hay hai vụ lúa (vụ
đông-xuân & vụ hè-thu) một năm. Họ trồng khoai mỡ trên 870 ha một vụ 8.212 tấn. Khoai môn và
khoai mì được trồng trên 82 ha một vụ 820 tấn. Những rau màu khác được trồng trên 778 ha một vụ
10.503 tấn. Dừa sản xuất được 86 tấn, và nhiều cây ăn trái được trồng trên 523 ha một vụ 1.309 tấn.
Lâm nghiệp: Theo dự án 661, Tràm được trồng mới trên 122 ha. Nông dân trồng mới Tràm trên 577 ha.
Ngoài ra, 1,4 triệu cây được trồng để chống xói mòn đất v.v…
Nuôi con giống: Có 8.840 heo và 1.139 trâu bò (31 là bò sửa), 218 dê, 232 thỏ, 1.121 bồ câu và 97.271
gà. Sản lượng 12 tỉ 825 triệu VND.
Thủy sản: Ao nhân giống cá là 64,5 ha, và thu hoạch 260 tấn cá. Đánh bắt được sáu mươi hai tấn cá.
Tổng sản lượng là 2 tỉ 838 triệu VND.
Công nghiệp: Sản lượng là 5 tỉ 36 triệu VND.
Thương nghiệp: 80 gia đình đăng ký mới tham gia thương mại năm qua. Có 755 phương tiện thương
mại hợp pháp.
Vận chuyển: 113.568 hành khách được chuyên chở. Vận chuyển bằng tàu: 81.023 tấn.
Huyện Tháp Mười, Tỉnh Đồng Tháp
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong công nghiệp là 17,7%, trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là
7,9%, thương nghiệp và dịch vụ là 14,3%. Năm 2004 GDP gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
83,0%, công nghiệp 3,0%, thương nghiệp và dịch vụ 14.0%.
Nông nghiệp: Năm 2004 năng suất lúa bình quân là 5,32 tấn/ha, và sản lượng là 50.897 tấn. Diện tích
các loại cây trồng khác là 1.005 ha.
Nuôi gia súc: Nông dân cố gắng tăng thịt heo nạc, và phát triển nuôi trâu bò.
Thủy sản: Có 274 ha ao nhân giống. Hai mươi bảy kiểu nông trại trình bày cách nuôi tôm, thành lập 6
trung tâm sản xuất các loại cá, và cung cấp 6.000 loại cá cho nông dân.
Lâm nghiệp: Dự án trồng Mới 5 Triệu ha Rừng được thực hiện. Tràm được trồng trên 5.651 ha.
Ngoài ra, Tràm được trồng dần trong các rừng phòng hộ.
Công nghiệp: Công nghiệp đồ thủ công như sản xuất thảm rơm phát triển. Sản lượng ước tính khoảng
27 tỉ VND.
Thương nghiệp và dịch vụ: Thương mại bán lẻ ước tính 368 tỉ VND. Năm 2004 225 hộ đăng ký mới
tham gia thương mại, và trong huyện có 2.558 phương tiện dịch vụ thương mại.
(5) Ở cấp Làng
38
(a) Làng Thuy Tây, huyện Thanh Hoa, tỉnh Long An
Nông nghiệp là công nghiệp chính. Không rõ thành phần GDP. Trong tổng số 923 hộ có 877 là nông
dân. Bốn mươi sáu gia đình tham gia thương mại bán lẻ và dịch vụ. Không có nông dân nào chỉ trồng
Tràm. Không có dữ liệu về số hộ trồng Tràm. Có những hộ không sống trong làng (Họ có thẻ cư trú
nhưng không sống trong làng. Họ được cho là đã bán đất cho người giàu trong các người nghèo và bỏ
làng. Người giàu mua nhiều miếng đất sống ngoài làng).
Nông nghiệp: Xem đọan 2-2-1 về sử dụng đất. Sản xuất nông nghiệp đạt 12.146 tấn, khoai mỡ 391 tấn,
và dưa hấu 102 tấn. Rừng Tràm giảm 11 ha so với năm trước. Năm 2004 một lần lửa rừng đốt cháy
12 ha rừng, hậu quả thiệt hại 120 triệu VND.
Dịch vụ: Môi giới về Tràm, phân bón và nông dược, và thương mại bán lẻ, v.v…
(b) Làng Mỹ Phước, Huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang
Trong làng có 636 hộ định cư và 805 hộ không định cư. Có 345 hộ làm nông nghiệp, 151 hộ làm lâm
nghiệp (Không có hộ chỉ làm lâm nghiệp. Tuy nhiên, nếu diện tích trồng rừng lớn hơn ruộng, chúng tôi
kể họ trong lâm nghiệp), 15 hộ chế tạo (chủ yếu là công nghiệp thủ công), và 125 hộ làm thương mại và
dịch vụ.
Nông nghiệp: Xem mục 2-2-1 về tình trạng sử dụng đất. Chỉ có 123 ha được dùng trồng lúa và năng
suất bình quân là 4.88 tấn/ha. Trong tổng số 1.650 ha khóm có 1.270 ha diện tích có thể thu hoạch, với
năng suất 15 tấn/ha. Lượng thu hoạch là 19.050 tấn. Các cây ăn trái khác được trồng trên 50 ha và
phần lớn là xoài. Tuy nhiên, vì xoài không thích hợp trên đất chua, lượng thu hoạch không ổn định.
Nuôi con giống: Trong làng có 450 heo và 150 trâu bò. Vì dịch cúm gà, 3 cơ sở nuôi hàng loạt gia cầm
bỏ nhân giống gia cầm và bắt đầu nuôi 50~70 heo (mỗi hộ). Có một cơ sở nuôi hàng loạt bò cái đuợc
gọi là công ty rau quả Tiền Giang.
Thủy sản: Có 4,8 ha ao cá, và thu hoạch 15 tấn cá. Đánh bắt cá 5,8 tấn.
Lâm nghiệp: Năm 2004 diện tích trồng mới rừng là 10 ha. Rừng bạch đàn giảm đến 31 ha được
chuyển sang khóm.
Thương nghiệp và công nghiệp dịch vụ: Chín gia đình tham gia thương mại môi giới về Tràm, và mười
gia đình về khóm.
2-3-2 Điều kiện sống của Nông dân
(1) Nghèo
Chuẩn nghèo
Cho đến năm qua, chuẩn nghèo quốc gia ở Việt Nam là thu nhập hằng tháng từ 9.000 đến 10.000 VND
trên người. Tuy nhiên, chính quyền đã đổi chuẩn từ 18.000 đến 20.000 trên người trong năm này.
Vào thời điểm cuộc khảo sát của chúng tôi, điều này ngoài thời gian chuẩn cũ. Khi chúng tôi tiến hành
khảo sát, chính quyền địa phương tỉnh Long An và Tiền Giang đã áp dụng chuẩn mới, tuy nhiên, chính
quyền Đồng Tháp chưa áp dụng.
− Theo chuẩn mới, trong làng Thuy Tây, huyện Thanh Hoa, tỉnh Long An, 109 trong tổng số 923 hộ
được công nhận là nghèo.
− Theo chuẩn mới, trong làng Mỹ Phước, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang, 120 trong tổng số 652
hộ được công nhận là nghèo.
− Theo chuẩn cũ, trong làng Trường Xuân, huyện Tháp Mười, tỉnh Đông Tháp, 99 trong tổng số
1.928 hộ được công nhận là nghèo và số này sẽ tăng khi chuẩn mới được áp dụng.
39
Kết quả khảo sát hộ được phân tích và so sánh với kích thước sở hữu của các hộ, vì những tiêu chí của
chuẩn nghèo khác nhau giữa các chính quyền địa phương, điều này thật khó so sánh những hộ theo
một chuẩn sống như “nghèo, trung bình hoặc giàu”. Kích thước sở hữu không luôn có nghĩa là chuẩn
sống của mỗi hộ, nhưng nó là yếu tố quan trọng để xác định mức thu nhập trong diện tích nông nghiệp
chúng tôi khảo sát.
Bảng 2-3-1 Nét chính của những Hộ Khảo sát
Dưới 1 ha
Từ 1 đến
ít hơn 3
ha
Từ 3 đến ít
hơn 5 ha
Từ 5 đến ít
hơn 10 ha
10 ha hay
hơn
Tổng
cộng
Hộ khảo sát (hộ) 17 55 28 18 6 124
Thành viên gia đình
mỗi hộ (người)
4,18 4,48 5,14 5,11 6,00 4,87
Sức lao động mỗi
hộ (người)*
2,47 2,90 3,25 3,28 4,33 3,04
Diện tích đất bình
quân (ha)
0,5 1,76 3,84 6,58 15,83 3,48
* Định nghĩa sức lao động: Người từ 16 tuổi hay hơn cho đến 60 tuổi và cũng không đến trường.
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
(2) Thu nhập
Theo thống kê quốc gia ở Việt Nam, thu nhập bình quân của người trong cả nước và trong mỗi tỉnh như
sau:
Bảng 2-3-2 Thu nhập bình quân Hằng tháng ở các Tỉnh (theo VND)
Bình quân
(năm 2002)
Bình quân
(năm 2003)*
Nhóm có thu
nhập thấp nhất
(năm 2002)
Nhóm có thu
nhập cao nhất
(năm 2002)
Khoảng cách
(năm 2002)
Cả nước 356.100 484.000 107.700 872.900 8,1
Các vùng Nông thôn
trong nước
275.100 377.000 100.200 598.600 6,0
Tổng của Đồng bằng
sông Cửu Long
371.300 505.000 126.200 860.100 6,8
Tỉnh Long An 360.600 490.416 130.300 756.900 5,8
Tỉnh Tiền Giang 352.200 478.992 132.400 748.600 5,7
Tỉnh Đồng Tháp 390.200 530.672 127.800 988.900 7,7
Nguồn: Số liệu năm 2002 theo Niên giám Thống kê 2003. Thu nhập bình quân hằng tháng trong cả
nước và vùng nông thôn năm 2003 theo website của Văn phòng Thống kê. Số liệu của
Đông bằng sông Cửu Long và 3 tỉnh năm 2003 do suy đoán bằng cách tăng số liệu năm 2002
lên 36% (36% là tốc độ tăng bình quân của thu nhập năm 2003 so với năm trước theo
website của Văn phòng Thống kê).
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Thu nhập bình quân của những hộ khảo sát trong 3 làng như sau:
40
Bảng 2-3-3 Thu nhập hằng tháng bình quân trên người của những Hộ khảo sát theo Kích thước Sở
hữu (theo VND)
Trung bình Thấp nhất (A) Cao nhất (B) Khoảng cách (B) / (A)
Dưới 1 ha 291.430 119.267 617.718 5,18
Từ 1 đến ít hơn 3 ha 410.741 93.750 1.458.333 15,55
Từ 3 đến ít hơn 5 ha 769.629 263.750 2.666.667 10,11
Từ 5 đến ít hơn 10 ha 1.203.558 330.708 3.245.883 9,81
10 ha hay hơn 950.494 427.938 1.484.321 3,47
Tổng cộng 686.888 93.750 3.245.883 34,62
* Phương pháp tính tiền lương trên người: Chia thu nhập hằng năm trên hộ cho 12 tháng, sau đó
chia tiếp cho số gia đình đủ tuổi làm việc.
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Bảng 2-3-4 Tiền lương Hằng tháng trên Người của mỗi Hộ theo Kích thước Sở hữu (theo hộ)
Dưới 1 ha
Từ 1 đến ít
hơn 3 ha
Từ 3 đến ít
hơn 5 ha
Từ 5 đến ít
hơn 10 ha
10 ha hay
hơn
Tổng cộng
~200.000 2 11 1 0 0 14
200~500.000 10 20 13 2 1 46
500~1.000.000 6 20 6 8 2 42
1.000~2.000.000 0 4 6 3 3 16
2.000~3.000.000 0 0 2 2 0 4
4.000~5.000.000 0 0 0 3 0 3
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Theo những bảng trên, khoảng cách thu nhập trong 3 làng khảo sát rất lớn. Ngay khi 3 làng áp dụng
thu nhập bình quân trên người ở Đồng bằng sông Cửu Long khoảng 500.000 VND (xem bảng 2-3-2),
những nông dân kích thước nhỏ có đất dưới 3 ha là nghèo, kiếm được ít hơn thu nhập bình quân.
Nguồn Thu nhập chính
Bảng dưới cho thấy nguồn thu nhập chính của những hộ khảo sát xếp theo kích thước đất. 3 nguồn
thu nhập cao nhất được chọn từ bảng
Bảng 2-3-5 Nguồn Thu nhập theo kích thước Sở hữu (theo hộ)
Dưới 1 ha
Từ 1 đến ít
hơn 3 ha
Từ 3 đến ít
hơn 5 ha
Từ 5 đến ít
hơn 10 ha
10 ha hay hơn
Lúa 13 44 19 12 5
Tràm 1 15 7 5 2
Khoai mỡ 0 3 7 2 0
Khóm 2 7 7 1 0
Cây trồng khác 0 5 1 1 0
Cá 0 3 3 0 1
Heo 2 14 5 5 3
Gia súc khác 0 1 6 1 0
Thủ công nghệ 0 6 0 2 0
41
Ngày lao đọng 15 23 8 2 0
Buôn bán 0 4 3 7 0
Lương 1 11 3 5 1
Tiền do thành viên gia đình 5 1 1 1 0
Công nghiệp Dịch vụ 0 2 3 1 0
Cho thuê đất 0 0 1 0 1
Các nguồn khác 2 3 1 0 0
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Nguồn thu nhập chính do công việc đồng áng kể cả lúa bất chấp kích thước nông hộ. Chúng tôi có thể
thấy Tràm là nguồn thu nhập chính của các nông dân có 1 ha hay hơn dù không rõ rệt trong khảo sát vì
nông dân chỉ có thể thu hoạch mỗi một lần từ 5 đến 7 năm. Kết quả cho phép chúng tôi dự đoán sự
dao động của giá bán nông sản và năng suất cây trồng, giá phân bón và nông dược sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng và trực tiếp đến thu nhập của nông dân.
Như là nguồn thu nhập khác với nông nghiệp, nhiều nguồn thu nhập hỗ trợ những nông dân có kích
thước nhỏ. Ví dụ, tiền kiếm do ngày công lao động (chủ yếu do công việc đồng áng và canh tác Tràm),
tiền lương nếu là công chức hay công nhân nhà máy, và kiếm từ thủ công nghịệp như làm giỏ.
Như là thương mại buôn bán, những nông dân có kích thước nhỏ buôn bán ở quy mô nhỏ nhưng vài
nông dân sở hữu từ 5 ha hay hơn làm môi giới về Tràm và nông sản. Vài nông dân có con sống ở
thanh phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh hay nước ngoài gởi tiền cho họ hằng tháng hay hằng năm.
Như mô tả trên, ngay khi thu nhập từ nguồn khác nông nghiệp, nó vẫn liên hệ mật thiết và tùy thuộc vào
công nghiệp nông nghiệp và lâm nghịệp.
(3) Chi tiêu
Chi tiêu cho thức ăn
Các hộ khảo sát tự cung cấp thức ăn cho họ. Ví dụ, hơn phân nữa nông dân trong khảo sát ăn gạo từ
ruộng trồng lúa của họ và khoảng 40% trong họ lấy cá và rau từ ruộng của họ (gồm sản phẩm sinh
trưởng tự nhiên ở sông hay đồng trống, v.v…) Hầu hết những hộ trồng lúa ăn gạo từ ruộng trồng lúa
của họ.
Cá sông là nguồn đạm chính của nông dân. Họ chỉ có thể bắt cá vào mùa mưa và mùa lũ, nên trong
mùa nắng, phần lớn các hộ phải mua cá.
Không có nhiều hộ trồng rau do ảnh hưởng của đất chua hay ruộng còn trống hạn chế của nông dân cỡ
nhỏ. Nếu trồng rau, họ chỉ trồng vào mùa mưa vì độ acid của đất tăng trong mùa nắng. Thay vào đó,
phần lớn họ mua rau trong mùa nắng.
Bảng 2-3-6 Cách lấy thức ăn chính và Phần trăm trong Chi tiêu
Dưới 1 ha
Từ 1 đến ít
hơn 3 ha
Từ 3 đến ít
hơn 5 ha
Từ 5 đến ít
hơn 10 ha
10 ha hay
hơn
Tổng cộng
Hộ % Hộ % Hộ % Hộ % Hộ % Hộ %
tự cung cấp 11 68 35 68,3 15 44 10 57,5 4 59,2 75 61,5
Lúa
mua 7 32 25 31,7 16 56 9 42,5 2 40,8 59 38,5
nuôi 1 1,8 3 1,5 6 5 1 0,4 2 12,0 13 2,7Cá
Bắt 13 43 45 40,4 15 26 9 16,4 5 51,3 87 33,2
42
Dưới 1 ha
Từ 1 đến ít
hơn 3 ha
Từ 3 đến ít
hơn 5 ha
Từ 5 đến ít
hơn 10 ha
10 ha hay
hơn
Tổng cộng
Hộ % Hộ % Hộ % Hộ % Hộ % Hộ %
mua 16 55,2 51 58,2 27 69 17 83,3 5 36,7 116 64,2
trồng 9 26,1 22 20,0 11 17 6 9,7 3 31,2 51 17,0
mọc tự nhiên 3 4,8 14 9,8 6 11 5 12,8 2 22,8 30 13,1Rau
mua 13 69,1 49 70,2 23 73 15 77,5 5 46,0 105 69,9
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Bảng 2-3-7 Chi tiêu bình quân cho thức ăn chính trên hộ
(Giá trị thức ăn tự cung cấp được tính theo giá thị trường) (theo VND)
Dưới 1 ha
Từ 1 đến ít
hơn 3 ha
Từ 3 đến ít
hơn 5 ha
Từ 5 đến ít
hơn 10 ha
10 ha hay
hơn
Tổng cộng
tự cung cấp 1.559.155 1.882.848 1.076.680 1.814.285 2.605.195 1.713.238
Lúa
mua 733.720 969.952 1.370.320 1.340.993 2.235.539 1.071.480
nuôi 54.967 49.313 171.981 21.727 557.084 97.411
Bắt 1.313.106 1.328.165 894.302 890.810 2.381.535 1.213.875Cá
mua 1.685.662 1.913.346 2.373.340 4.524.662 1.703.749 2.349.895
trồng 475.250 229.334 170.770 120.044 919.043 191.069
mọc tự nhiên 87.402 112.374 110.498 158.408 671.609 147.117Rau
mua 1.258.229 804.964 733.307 959.111 1.355.000 786.242
Tổng cộng 7.167.492 7.290.296 6.901.198 9.830.040 12.428.754 7.570.327
Tự cung cấp 3.489.881 3.602.034 2.424.232 3.005.273 7.134.466 3.362.710
Mua 3.677.611 3.688.262 4.476.967 6.824.766 5.294.288 4.207.617
Nguồn: Nhóm Nghiên cứu JBIC
Những hộ không đất hay đất ít không thể tự cung cấp, nên họ phải mua thêm thức ăn như gạo và rau.
Lợi tức bình quân thu được từ bán lúa trung bình là 8.610.000 VND (Xem đoạn 2-2-2 về vụ mùa thứ hai).
Nhưng đối với vài nông dân có 1 ha ruộng lúa, lượng lúa tự tiêu dùng sẽ ăn mất một phần năm lợi tức từ
lúa và đối với vài nông dân có ít hơn 1 ha ruộng lúa sẽ ăn mất hơn phân nửa thu hoạch của họ.
Nhiên liệu
Nhiên liệu chính trong vùng thu hoạch là củi (Tràm), khí đốt, trấu, và dầu lửa.
Củi: Củi gần như là nhiên liệu chính trong vùng. Giá củi khoảng từ 30.000 đến 45.000 VND/thước (1
thước=1m×1m×0.35m2), và nói chung họ dùng khoảng từ 1,5 đến 2 thước mỗi tháng mặc dù điều này
tùy thuộc cỡ hộ. Nhưng như trình bày trong bảng dưới đây, hầu hết nông dân không mua củi. Họ lấy
gỗ Tràm tỉa thưa từ rừng của họ hay lấy miển phí từ chủ rừng Tràm láng giềng. Vài người bán gỗ tỉa
thưa với giá rất thấp nhưng hầu hết trường hợp, họ cho láng giềng.
Khí đốt: Giá khoảng 120.000 VND mỗi bình và 1 bình dùng từ 2 đến 2,5 thán
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TiemnangkinhtevacongdungcayTramoDBSCL.pdf