Đề tài Triển khai hình thức đào tạo mới trong ngành y tế - Bùi Trung Dũng

Tài liệu Đề tài Triển khai hình thức đào tạo mới trong ngành y tế - Bùi Trung Dũng: Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 55 có 1 bệnh nhân Barret và 4 trường hợp u nhú biểu mô vảy. Khi đối chiếu mức độ triệu chứng lâm sàng với hình ảnh nội soi thực quản cho thấy đối với những trường hợp có triệu chứng lâm sàng độ I có tới 50% bệnh nhân là bình thượng nhưng khi triệu chứng lâm sàng ở độ IV chỉ có 9,1% là bình thường và có tới 36,4% tổn thương thực quản độ IV. Điều này cho thấy thường bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng rầm rộ thì tổn thương thực quản cũng nặng hơn. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 115 trường hợp trào ngược thực quản cho kết quả thu được như sau: Bệnh nhân nam giới mắc bệnh ít hơn nữ, nhóm tuổi này hay gặp từ 31 - 40 tuổi. Thời gian mắc bệnh ít nhất dưới 1 tuần và lớn hơn 12 tháng. Triệu chứng lâm sàng: 35,7% ợ nóng đơn thuần, 27% ợ nóng kết hợp với triệu chứng khác, (16,5%) nuốt vướng, (13%) triệu chứng ngoài thực quản (ho, khàn...). Mô bệnh học thực quản: Viêm mạn tính (21,4%), viêm loét (42,9%), Barret 7,1%). Mô bện...

pdf5 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Triển khai hình thức đào tạo mới trong ngành y tế - Bùi Trung Dũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 55 có 1 bệnh nhân Barret và 4 trường hợp u nhú biểu mô vảy. Khi đối chiếu mức độ triệu chứng lâm sàng với hình ảnh nội soi thực quản cho thấy đối với những trường hợp có triệu chứng lâm sàng độ I có tới 50% bệnh nhân là bình thượng nhưng khi triệu chứng lâm sàng ở độ IV chỉ có 9,1% là bình thường và có tới 36,4% tổn thương thực quản độ IV. Điều này cho thấy thường bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng rầm rộ thì tổn thương thực quản cũng nặng hơn. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 115 trường hợp trào ngược thực quản cho kết quả thu được như sau: Bệnh nhân nam giới mắc bệnh ít hơn nữ, nhóm tuổi này hay gặp từ 31 - 40 tuổi. Thời gian mắc bệnh ít nhất dưới 1 tuần và lớn hơn 12 tháng. Triệu chứng lâm sàng: 35,7% ợ nóng đơn thuần, 27% ợ nóng kết hợp với triệu chứng khác, (16,5%) nuốt vướng, (13%) triệu chứng ngoài thực quản (ho, khàn...). Mô bệnh học thực quản: Viêm mạn tính (21,4%), viêm loét (42,9%), Barret 7,1%). Mô bệnh học dạ dày: Viêm mạn tính (37,5%), viêm loét (37,5%), viêm teo (6,2%). Những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng rầm rộ thì có tổn thương thực quản nặng hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Thị Hoài, Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi – mô học và đo PH thực quản liên tục 24 giờ trong hội chứng trào ngược dạ dày thực quản. Luận văn thạc sỹ y học, trường Đại học Y Hà Nội. 2. Tạ Long (2005), “Dịch tễ học, chẩn đoán và xử trí bệnh trào ngược dạ dày thực quản”, Đặc san tiêu hoá Việt Nam, 3, tr 05-14. 3. Dương Minh Thắng (2001), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, nội soi, mô bệnh học của trào ngược dạ dày thực quản, Luận văn thạc sỹ y học, Học viện Quân y, Hà Nội. 4. Nguyễn Cảnh Bình (2008), Nghiên cứu tổn thương bệnh lý tại đoạn nối thực quản dạ dày trong bệnh trào ngược dạ dày thực quản, Tạp chí Khoa học Tiêu hoá Việt Nam, 9, tr 530-535. 5. Pal Demeter and Akos Pap (2004), “The relationship between Gastroesophageal Reflux disease and obstructive sleep apnea”, Journal of Gastroenterology, vol 39, pp. 815-520. 6. Dentetal, Scan.J.Gastr(2008), vol 43, Supplement 244, Or8. TRIỂN KHAI HÌNH THỨC ĐÀO TẠO MỚI TRONG NGÀNH Y TẾ BÙI TRUNG DŨNG - Bệnh viện Bạch Mai TÓM TẮT Giáo dục trực tuyến (eLearning) trong y tế đã phát triển tại nhiều nước trên thế giới nhưng chỉ mới bắt đầu hình thành tại Việt Nam. Nhằm đánh giá những yếu tố liên quan đến quá trình chuẩn bị triển khai giáo dục trực tuyến trong ngành Y tế ở Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tại Bệnh viện Bạch Mai theo phương pháp mô tả cắt ngang với nhóm cán bộ giảng viên năm 2013. Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn đối tượng bằng bộ câu hỏi, kết quả cho thấy phần lớn đối tượng nghiên cứu có mức độ sẵn sàng áp dụng cao, nhu cầu lớn và thực tế đang thường xuyên sử dụng các phần mềm vi tính như Powerpoint, Word, Excel...Mức độ truy cập Internet và giao tiếp qua thư điện tử là rất cao. Hàng tuần, giảng viên truy cập chủ yếu vào các diễn đàn trực tuyến chuyên ngành để xem và tải tài liệu liên quan. Mặc dù nhóm giảng viên này chưa được tiếp cận hay làm bài giảng trực tuyến, nhưng nhận thức về lợi ích của giáo dục trực tuyến là rất tốt. Các thầy cô giáo chấp nhận thay đổi phương pháp giảng dạy, sẵn sàng kết hợp với giáo dục truyền thống, liên hệ chặt chẽ hơn với học viên để tăng cường hỗ trợ từ xa qua các công cụ trực tuyến linh hoạt, qua đó giảm bớt chi phí học tập của học viên và giảm tải gánh nặng mất nhân lực tại các cơ sở cử học viên đi học. Từ khóa: Đào tạo trực tuyến, Bệnh viện Bạch Mai. SUMMARY ELearning in health has been developed in many countries around the world, but just began to form in Vietnam last few years. This research was conducted in one of the three biggest hospitals in Vietnam with purposes of assessment some main factors related the implement eLearning in Vietnam. The study design was cross-sectional survey with teachers and facilitators. The result of interviewing research subjects by questionnaire reveals that the majority had a high application availability, high demand and often practical use computer software such as PowerPoint, Word, Excel... The level of access Internet and communication via e-mail is very high. They access mainly to specialized online forums to view and download relevant documents every week. Although this group have not made online lectures yet, but their awareness of the benefits of eLearning is very good. The teachers accept to change teaching methods, willing to combine with traditional education and more closely associate with students to enhance remote support through online tools flexibly. There by reducing the learning cost and the burden of lacking of employees at the lower level health facilities. Keywords: ELearning, Bach Mai hospital. ĐẶT VẤN ĐỀ Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 56 Giáo dục trực tuyến đã được hình thành và phát triển tại nhiều nước phát triển trên thế giới. Mô hình giáo dục trực tuyến (eLearning) đã được hình thành tại khoảng 90% các trường đại học, cao đẳng Mỹ với số người tham gia học tăng 33% hàng năm trong 5 năm liên tiếp từ 1999 - 2004. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin tại Việt Nam thời gian qua dẫn đến số người sử dụng Internet tăng vọt, ví dụ năm 2012 có hơn 31 triệu người sử dụng Internet, chiếm 35,49 % dân số, đứng thứ 18/20 quốc gia có số người dùng Internet lớn nhất thế giới, đứng thứ 8 khu vực Châu Á và đứng vị trí thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á (ASEAN). So với năm 2000, số lượng người dùng Internet Việt Nam đã tăng khoảng hơn 15 lần và đang tiếp tục tăng [1]. Tuy nhiên, những nghiên cứu tại Việt Nam về giáo dục trực tuyến trong ngành y vẫn còn rất thiếu và chưa toàn diện. Trên thế giới, giáo dục trực tuyến trong y tế đã được chứng minh có thể làm giảm nhu cầu “mặt đối mặt” như phương pháp dạy học truyền thống, nhất là với giảng dạy lý thuyết mà không làm suy giảm chất lượng đào tạo [2]. Nhiều nghiên cứu còn nhận định eLearning và việc sử dụng công nghệ Internet là để tăng hiệu suất dạy học, bổ sung cho giảng dạy truyền thống [3, 4]. Một cơ sở hạ tầng phát triển để hỗ trợ eLearning trong giáo dục y tế bao gồm kho lưu trữ, hoặc các thư viện kỹ thuật số, quản lý truy cập tài liệu học tập điện tử, sự đồng thuận về tiêu chuẩn kỹ thuật, và phương pháp đánh giá ngang hàng các nguồn tài nguyên. Sự hội nhập của eLearning vào giáo dục y tế có thể xúc tác cho sự thay đổi với việc áp dụng lý thuyết học người lớn, nơi mà các nhà giáo dục sẽ không còn phục vụ chủ yếu là các nhà phân phối nội dung, mà sẽ tham gia nhiều hơn như hỗ trợ của các giám định viên học tập và năng lực [3]. Tuy nhiên, để triển khai thành công eLearning trong y tế lại cần phải chuẩn bị hoàn chỉnh nhiều yếu tố quan trọng như nội dung của khóa học phù hợp đặc thù của ngành, một môi trường học tập điện tử có cấu trúc xã hội, cũng như các công nghệ có sẵn [4]. Giáo dục trực tuyến, mặc dù không thể đáp ứng với tất cả các nội dung giảng dạy, nhưng một số kết quả báo cáo chỉ ra rằng nó là một phương tiện hiệu quả và thuận tiện về mặt kinh tế mà khó có thể đạt được với giáo dục truyền thống [5]. Việc đào tạo cán bộ y tế tại Việt Nam hiện nay dù đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Số liệu năm 2009 cho thấy, số bác sỹ trên một vạn dân mới đạt 6,59, thấp hơn một số nước lân cận như Trung Quốc, Phi-líp- pin [6]. Công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho nhân viên y tế cũng gặp một số khó khăn về nguồn kinh phí và tổ chức thực hiện. Nhiều nhân viên y tế không thích tham gia các khóa đào tạo chuyên môn do kinh phí hỗ trợ quá thấp, ảnh hưởng đến phần thu nhập thêm. Hình thức bồi dưỡng, nâng cao năng lực chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là các lớp ngắn hạn, tập trung. Nhiều cơ sở y tế, đặc biệt là ở các khu vực khó khăn và tuyến huyện, xã, không muốn cử cán bộ đi học các khóa đào tạo chính quy, do nhiều nhân viên y tế sau khi tốt nghiệp không trở về cơ sở y tế đã cử đi học, mà xin chuyển đến các cơ sở lớn hơn, ở tuyến cao hơn [6]. Trong tình trạng còn nhiều bất cập của giáo dục trong y tế, với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, giáo dục trực tuyến đã trở thành một lựa chọn tối ưu, rất cần phải khẩn trương chuẩn bị và triển khai để khắc phục những tồn tại đó. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu với mục đích đánh giá những yếu tố liên quan đến quá trình chuẩn bị triển khai giáo dục trực tuyến trong ngành Y tế ở Việt Nam. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Đào tạo và Chỉ đạo tuyến, Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng: Là các giảng viên thuộc danh sách chính thức của Bệnh viện Bạch Mai năm 2013. Không phân biệt tuổi, giới. Đủ sức khỏe và tự nguyện tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang. Tất cả các đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp qua bộ phiếu câu hỏi điều tra tập trung vào yếu tố liên quan đến 2 nhóm chủ đề là thực trạng trang thiết bị, kỹ năng, nhu cầu và nhận thức của giảng viên liên quan đến giáo dục trực tuyến trong y tế, từ đó đánh giá được sự chuẩn bị để triển khai trong thời gian tới. Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 15.0. KẾT QUẢ Kết quả nghiên cứu cho thấy đến 81% đối tượng nghiên cứu ủng hộ và sẵn sàng triển khai giáo dục trực tuyến trong y tế. 1. Thực trạng của giảng viên Biểu đồ 1: Phân loại đối tượng nghiên cứu theo trình độ Tỷ lệ lớn giảng viên có trình độ cao trong đó 42% Tiến sỹ và 27% Thạc sỹ với tỷ lệ giảng viên nam cao gấp gần 3 lần nữ (73% so với 27%). Tất cả giảng viên đều đang công tác tại bệnh viện, thậm chí kiêm nhiệm cả giảng viên của trường Đại học Y hoặc trường Cao đẳng Y. Nên khi triển khai eLearning, đây chính là nhóm cốt lõi quyết định sức hấp dẫn thu hút học viên tham gia và phát triển loại hình đào tạo mới này bên cạnh các yếu tố về kỹ thuật. Lứa tuổi giảng viên tập trung trên 45 tuổi (71%) với trên 15 năm thâm niên giảng dạy cho thấy đối tượng đã rất quen thuộc và có thể hiểu được những Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 57 tồn tại của giáo dục truyền thống, từ đó có thể có động lực để thay đổi phương pháp giảng dạy. Biểu đồ 2: Mức độ truy cập Internet của giảng viên Mức độ truy cập Internet, một đặc điểm bắt buộc của giáo dục trực tuyến, ở nhóm giảng viên bệnh viện chiếm tỷ lệ rất cao (92%), gấp hơn 2,5 lần mức độ truy cập chung toàn quốc [1]. Đây là một lợi thế vô cùng lớn khi triển khai giáo dục trực tuyến tại bệnh viện. Thực trạng sử dụng công cụ giao tiếp qua Internet của giảng viên cũng rất khả quan. 100% giảng viên có hòm thư điện tử với mức độ thường xuyên sử dụng là 88%. Bên cạnh email, 40% giảng viên thường xuyên sử dụng những công cụ tương tác chủ yếu hỗ trợ cho eLearning như yahoo, skype,... Mức độ truy cập vào một diễn đàn trực tuyến chuyên ngành hàng tuần của giảng viên chỉ là 38%, nhưng có thể thấy rõ nhu cầu chủ yếu của 88% giảng viên là xem và tải tài liệu với 76% thấy dễ dàng khi tìm kiếm thông tin. Biểu đồ 3: Những thiết bị tin học cá nhân của giảng viên Giảng viên đã được hoặc tự trang bị những phương tiện cần thiết cho giảng dạy trực tuyến như 92% có máy tính xách tay, 79% có máy tính để bàn, hầu hết có mạng Internet hoặc thiết bị truy cập Internet di động (3G). Ngoài ra, số lượng thiết bị di động như tablet, điện thoại thông minh có khả năng truy cập eLearning chiếm đến trên 80% giảng viên. Mặc dù chỉ có 24% giảng viên từng tham gia eLearning nhưng với những kỹ năng, trang thiết bị hiện có, việc triển khai giáo dục trực tuyến trong bệnh viện là có cơ sở chắc chắn. 2. Nhận thức của giảng viên Nhận thức của giảng viên về việc triển khai ứng dụng tin học trong giảng dạy, học tập là rất tích cực với 100% giảng viên cho rằng có rất nhiều và nhiều lợi ích. Những ưu điểm được đánh giá cao nhất là bài giảng sinh động hơn (92%), truyền đạt kiến thức dễ dàng hơn (87,5%), tăng tính chủ động trong học tập của học viên (79%) và tiết kiệm chi phí cho học viên (71%). Khi giảng dạy qua eLearning, giảng viên ý thức được việc hạn chế “mặt đối mặt” với học viên, do đó họ sẵn sàng chuẩn bị bài giảng chu đáo, chuẩn mực hơn và sử dụng nhiều công cụ tạo bài giảng trực quan hơn (83%), nhằm đảm bảo học viên có thể hiểu được nội dung truyền tải. Những bài giảng trực tuyến sẽ cần nhiều thời gian và công sức để biên soạn nhưng sẽ tăng hiệu suất đào tạo gấp nhiều lần cho nhiều hơn học viên với cùng một nguồn lực (83%). ELearning không có nghĩa là bỏ rơi học viên, mà ngược lại giảng viên nhận định cần phải giữ liên hệ chặt chẽ hơn, hỗ trợ liên tục quá trình học hỏi của học viên (75%), nắm vững quá trình học tập của họ (50%). Tương đồng với nhận thức về sự chuẩn bị kỹ càng của giảng viên, học viên có thêm nhiều lợi ích như thời gian và chi phí đi lại, ăn ở được giảm đi nhiều so với cách học tập trung (65%), nhưng tính chủ động trong học tập hay liên hệ với giảng viên phải được phát huy tối đa (96%). Tương tác trong eLearning cần phải là hai chiều mới phát huy được hiệu quả. Giáo dục truyền thống có nhiều điểm khác với giáo dục trực tuyến, trong đó 70% giảng viên cho rằng phương pháp giảng dạy cũng cần có những thay đổi phù hợp theo hướng áp dụng công nghệ thông tin vào bài giảng. Chi phí dành cho đào tạo điện tử vì thế được 71% giảng viên nhận định là sẽ tỷ lệ nghịch với số lượng học viên và thời gian đào tạo. Nhận định này tương đồng với báo cáo của một nhóm nghiên cứu tại Italia năm 2012 [5]. Chất lượng đào tạo sẽ chỉ được đảm bảo nếu giảng viên chuẩn bị bài giảng tốt, đúng nhu cầu của học viên, quản lý giám sát việc học tập chặt chẽ và học viên chủ động, tham gia tích cực, dành nhiều thời gian cho học tập kết hợp với cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật tốt theo nhận định của 100% giảng viên. Biểu đồ 4: Hình thức giảng dạy mong muốn nhất của giảng viên Biểu đồ 5: Khả năng thích ứng khi giảng dạy hoàn toàn qua Internet của giảng viên Nhận định sẽ cần phải có nhiều thay đổi khi triển khai giáo dục trực tuyến trong bệnh viện, 54% giảng viên cần thêm nhiều thời gian để làm quen với hình thức đào tạo mới, khả năng thích ứng vẫn sẽ còn một chút khó khăn ở 52% giảng viên, nên đến 81% giảng viên mong muốn nếu có triển khai giáo dục trực tuyến tại thời điểm hiện tại thì nên kết hợp với giáo dục truyền thống, chưa nên tách rời ngay lập tức vì họ Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 58 vẫn coi đó là hình thức giáo dục cơ bản. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu tại Mỹ (năm 2006) và Hà Lan (năm 2005) [3, 4]. KẾT LUẬN Giảng viên tại bệnh viện sẵn sàng cho việc triển khai giáo dục trực tuyến như một phương pháp giảng dạy bổ sung cho giáo dục truyền thống. Khi triển khai giáo dục trực tuyến sẽ có nhiều sự ủng hộ ngay từ đầu của cả giảng viên và học viên vì nhận thức của họ về lợi ích của hình thức đào tạo mới này là rất cao. Nhóm giảng viên có tuổi đời và thâm niên công tác nhiều sẽ có nhiều động lực để ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy khi đã hiểu rõ những khó khăn khi giảng dạy “mặt đối mặt” truyền thống. Mức độ truy cập Internet ở giảng viên ở mức rất cao, đầy đủ trang thiết bị tin học cơ bản như máy tính để bàn, máy tính xách tay, thiết bị truy cập Internet di động sẽ giúp giáo dục trực tuyến có thể tiếp cận với nhóm liên tục. Kỹ năng sử dụng hòm thư điện tử cũng như các hình thức đối thoại trực tuyến khác như yahoo, skype hay truy cập các diễn đàn trực tuyến chuyên ngành cũng như tìm kiếm thông tin trên Internet thành thạo cũng làm eLearning trở nên dễ dàng hơn với giảng viên bệnh viện. Triển khai giáo dục trực tuyến sẽ đáp ứng đúng nhu cầu của chính giảng viên hiện nay khi mục đích truy cập vào các diễn đàn chuyên ngành theo nghiên cứu này chủ yếu là tìm hiểu tài liệu chuyên ngành. Tham gia vào giáo dục trực tuyến, giảng viên nhận định sẽ cần: Chuẩn bị chu đáo hơn bài giảng, thu thập tài liệu chuẩn mực, dành nhiều thời gian và công sức cho việc biên tập và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Thay đổi tư duy và cách thức giảng dạy. Liên hệ chặt chẽ và liên tục hỗ trợ học viên. Giảng viên cũng nhận định học viên tham gia học trực tuyến sẽ: Có thể giảm chi phí đi lại, thời gian và công sức học tập xa nhà. Phải dành nhiều thời gian hơn cho việc học và liên hệ giảng viên từ xa. Chủ động, tích cực trong học tập. Việc giảng dạy và học tập khi đó được giảng viên nhận định sẽ: Tăng hiệu suất đào tạo. Chi phí đào tạo sẽ tỷ lệ nghịch với số lượng và thời gian đào tạo. Có sự phù hợp nhất định với giảng viên hiện tại. Cần tăng cường kết nối, liên hệ giữa hai phía giảng viên và học viên. Chất lượng đào tạo trực tuyến chỉ đảm bảo khi kết hợp đồng bộ giữa các yếu tố giảng viên, học viên và trang thiết bị kỹ thuật. Trên thực tế, khả năng thích ứng của giảng viên với giáo dục trực tuyến sẽ có một chút khó khăn, cần thời gian cũng như có phương pháp tiếp cận phù hợp để làm quen và triển khai thành công. KIẾN NGHỊ Xác định giảng viên tại các cơ sở y tế là nhóm nhân tố quan trọng của giáo dục trực tuyến, việc đầu tiên và quan trọng nhất là tiếp tục tăng cường nhận thức cho họ, nên để họ là những người đầu tiên trải nghiệm thực sự trong môi trường eLearning. Từ đó mới có thể biến suy nghĩ của họ thành hành động tích cực thực sự đóng góp vào việc bắt đầu triển khai hình thức đào tạo mới trong bệnh viện. Phát triển mạng lưới đội ngũ giảng viên nguồn có đầy đủ kiến thức, kỹ năng và mong muốn khuyếch trương giảng dạy trực tuyến vì lợi ích lâu dài của học viên. Xác định các khu vực trọng tâm, nhóm đối tượng ưu tiên cần khuyến khích phát triển hình thức đào tạo mới để phát huy được tối đa ưu điểm của giáo dục trực tuyến như cán bộ y tế tại các vùng sâu, vùng xa, vùng còn khó khăn về nhân lực y tế. Lựa chọn đầu tư giáo dục trực tuyến vào một số bệnh viện trọng điểm, chuyên ngành có sức hút đào tạo lớn tại từng vùng làm thành mô hình điểm, từ đó nhân rộng mô hình, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí khi chưa có kinh nghiệm thực tế. Đưa những nội dung giáo dục trực tuyến tiếp cận từ từ vào giảng dạy từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành để giảng viên, học viên hình thành được thói quen tiếp cận ngay với loại hình đào tạo mới này, sau đó eLearning mới có thể phát huy được tối đa những ưu điểm trong thực tiễn công việc, khắc phục những hạn chế của giáo dục truyền thống trong thời đại tin học ngày nay. Đẩy mạnh đầu tư phát triển nhân lực và hệ thống phần mềm quản lý đào tạo trực tuyến, thay đổi cách thức đánh giá kết quả học tập để phù hợp với loại hình mới, đảm bảo chất lượng đào tạo mang tính thực tiễn. Tóm lại, để có thể triển khai được thành công giáo dục trực tuyến tại các cơ sở y tế Việt Nam mặc dù đã có nhiều yếu tố thuận lợi, ủng hộ phát triển, nhưng cần phải có lộ trình lâu dài, từng bước tiếp cận và phối hợp, phát huy được ưu điểm của giáo dục y tế truyền thống. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vietnam Internet Network Center, Vienam internet resource report in Vietnam internet development figures report. 2012: Hanoi. p. 3. 2. Nkenke, E., et al., Acceptance of technology- enhanced learning for a theoretical radiological science course: a randomized controlled trial. BMC Med Educ, 2012. 12: p. 18. 3. Ruiz, J.G., M.J. Mintzer, and R.M. Leipzig, The impact of ELearning in medical education. Acad Med, 2006. 81(3): p. 207-12. 4. Spanjers, R., A.F. Rutkowski, and R. Martens, Implementation and acceptance of eLearning in a hospital environment. International Journal of Healthcare Technology and Management, 2005. 6(4): p. 431-453. 5. Mazzoleni, M.C., et al., Is it worth investing in Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014 59 online continuous education for healthcare staff? Stud Health Technol Inform, 2012. 180: p. 939-43. 6. Vietnam Ministry of Health, Strengthening management capacity and reforming health financing to implement the five-year health sector plan 2011–2015, in Joint Annual Health Review 2011, Ministry of Health: Hanoi. p. 32-39. 7. Goh, J. and M. Clapham, Attitude to eLearning among newly qualified doctors. Clin Teach, 2014. 11(1): p. 20-3. 8. Kontio, R., et al., eLearning course may shorten the duration of mechanical restraint among psychiatric inpatients: A cluster-randomized trial. Nord J Psychiatry, 2013. 9. Einarson, E., et al., Interactive eLearning - a safe place to practice. Stud Health Technol Inform, 2009. 146: p. 841. NGHI£N CøU §ÆC §IÓM L¢M SµNG, CËN L¢M SµNG CñA XUÊT HUYÕT TI£U HãA DO GI·N Vì TÜNH M¹CH THùC QU¶N ë BÖNH NH¢N X¥ GAN Cã NGHIÖN R¦îU Vµ KH¤NG NGHIÖN R¦îU NguyÔn Duy C­êng*; TrÇn ThÞ H­¬ng** * Trường Đại học Y Dược Thái Bình ** Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình TÓM TẮT Để tìm hiểu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của xuất huyết tiêu hóa (XHTH) do giãn vỡ tĩnh mạch thực quản (TMTQ) ở bệnh nhân (BN) xơ gan có nghiện rượu và không nghiện rượu, nghiên cứu đã tiến hành trên 264 BN, kết quả như sau: - Tuổi trung bình của nhóm nghiện rượu là 49,04 ± 8,42, XHTH do giãn vỡ TMTQ gặp 100% ở nam, độ tuổi trung bình của nhóm không nghiện rượu là 55,35 ± 1,22, XHTH do giãn vỡ TMTQ gặp 25,3% ở nữ. - Có mối liên quan giữa thời gian nghiện rượu với thời gian tái phát XHTH trong vòng 1 năm đầu (OR = 5,2, 95% CI: 1,04 - 29,14, p < 0,05) - Có mối liên quan giữa mức độ xơ gan theo phân độ Child – Pugh với thời gian tái phát XHTH trong năm đầu (OR = 2,75, 95% CI: 1,42 - 5,3) và tần suất tái phát XHTH (OR = 3,81, 95% CI: 1,03 - 15,33) - Có mối liên quan giữa độ giãn TMTQ với thời gian tái phát XHTH trong năm đầu (OR = 2,2, 95% CI: 1,03 - 4,75, p < 0,01). Từ khóa: Xuất huyết tiêu hóa, xơ gan SUMMARY STUDY ON CLINICAL, SUBCLINICAL OF GASTROINTESTINAL BLEEDING DUE TO RUPTURE OF ESOPHAGEAL VEINS STRETCH IN CIRRHOSIS PATIENS WITH ALCOHOLISM AND NON-ALCOHOLISM SUMMARY - The average age of the alcoholics group was 49.04 ± 8.42, not alcoholics group was 55.35 ± 1.22. - Gastrointestinal bleeding due to relaxing break esophageal veins in patients with alcoholic cirrhosis occurred 100% in men and in non-alcohol group occurred in women 25.3%. - There is an association between alcoholism time to time recurrent gastrointestinal bleeding started within 1 year (OR=5.2,95% CI: 1.04 to 29.14, p<0.05) - There is an association between the level of liver fibrosis as assigned by the Child - Pugh time recurrent gastrointestinal bleeding in the first year (OR = 2.75,95 % CI : 1.42 to 5.3) and frequency recurrent gastrointestinal bleeding (OR = 3.81,95 % CI : 1.03 to 15.33) - There is an association between esophageal variceal recurrence time gastrointestinal bleeding in the first year (OR= 2.2,95 % CI: 1.03 to 4.75, p<0.01). Keywords: Gastrointestinal bleeding, cirrhosis ĐẶT VẤN ĐỀ XHTH là một cấp cứu thường gặp. Tại BV Chợ Rẫy trong 2 năm 1994-1995 có 1003 trường hợp XHTH cao, trong đó gần 30% do giãn vỡ TMTQ và 70% do loét dạ dày tá tràng. Theo thống kê của BV Việt Đức giai đoạn 1992-1996: có 12-26% XHTH là do giãn vỡ TMTQ. Giai đoạn 2001-2005 là 24-30%. Tại BV Bạch Mai, tỷ lệ này là 30% [1]. XHTH do giãn vỡ TMTQ đứng đầu về mức độ chảy máu. Tỷ lệ giãn TMTQ trên BN xơ gan thay đổi từ 40-80%, nguy cơ chảy máu từ TMTQ giãn là 30-50% [2]. XHTH do giãn vỡ TMTQ có nguyên nhân chủ yếu là tăng áp lực tĩnh mạch cửa do xơ gan (khoảng 90%). Tỷ lệ tử vong cao, có khoảng 30% tử vong ở lần xuất huyết đầu tiên, 70% BN sống sót sẽ bị tái phát. Tỷ lệ tái xuất huyết khoảng 60 % trong 1 năm, trong đó khoảng 30-40 % tái phát trong phạm vi 6 tuần [3]. BN xơ gan có nghiện rượu thường có tỷ lệ mắc các biến chứng và tái phát biến chứng nặng hơn và nhanh hơn các BN xơ gan không nghiện rượu, đặc biệt là biến chứng XHTH do giãn vỡ TMTQ. Chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của xuất huyết tiêu hóa (XHTH) do giãn vỡ tĩnh mạch thực quản (TMTQ) ở bệnh nhân (BN) xơ gan có nghiện rượu và không nghiện rượu, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu BN > 16 tuổi được chẩn đoán là XHTH do vỡ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_trien_khai_hinh_thuc_dao_tao_moi_trong_nganh_y_te_bui.pdf
Tài liệu liên quan