Tài liệu Đề tài Tổng quan về thị trường chứng khoán phi tập trung (thị trường otc): 1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG UPCoM
Thị trường UPCoM (Unlisted Public Company Market) của Việt Nam được
xây dựng trên nền tảng thị trường OTC nhưng phù hợp với điều kiện kinh tế, chính
trị ở Việt Nam, và là bước đệm để tiến tới xây dựng một thị trường OTC hiện đại
tại Việt Nam. Vì vậy lý luận tổng quan về thị trường UPCoM được dựa trên lý luận
tổng quan về thị trường OTC.
Để UPCoM đạt được mục tiêu đề ra chúng ta cần hiểu rõ và nắm vững cơ sở
lý luận, đồng thời nghiên cứu mô hình thị trường OTC của một số nước trên thế giới
nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho việc phát triển thị trường UPCoM ở Việt Nam.
1.1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHI TẬP
TRUNG (THỊ TRƯỜNG OTC)
1.1.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán (TTCK) phi tập trung
TTCK phi tập trung là loại TTCK xuất hiện sớm nhất trong lịch sử hình
thành và phát triển TTCK. Việc mua, bán chứng khoán chủ yếu được thực hiện
thông qua các quầy của ngân hàng, các công ty chứng khoán (CTCK). Phươ...
79 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về thị trường chứng khoán phi tập trung (thị trường otc), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG UPCoM
Thị trường UPCoM (Unlisted Public Company Market) của Việt Nam được
xây dựng trên nền tảng thị trường OTC nhưng phù hợp với điều kiện kinh tế, chính
trị ở Việt Nam, và là bước đệm để tiến tới xây dựng một thị trường OTC hiện đại
tại Việt Nam. Vì vậy lý luận tổng quan về thị trường UPCoM được dựa trên lý luận
tổng quan về thị trường OTC.
Để UPCoM đạt được mục tiêu đề ra chúng ta cần hiểu rõ và nắm vững cơ sở
lý luận, đồng thời nghiên cứu mô hình thị trường OTC của một số nước trên thế giới
nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho việc phát triển thị trường UPCoM ở Việt Nam.
1.1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHI TẬP
TRUNG (THỊ TRƯỜNG OTC)
1.1.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán (TTCK) phi tập trung
TTCK phi tập trung là loại TTCK xuất hiện sớm nhất trong lịch sử hình
thành và phát triển TTCK. Việc mua, bán chứng khoán chủ yếu được thực hiện
thông qua các quầy của ngân hàng, các công ty chứng khoán (CTCK). Phương thức
giao dịch chủ yếu là mua bán trực tiếp thủ công, thương lượng giá. Khi TTCK phát
triển, hoạt động của thị trường được thực hiện bởi một mạng lưới các nhà môi giới
và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư ở các địa điểm
phân tán khác nhau mà không có trung tâm giao dịch. Các loại chứng khoán giao
dịch trên thị trường này là chứng khoán chưa niêm yết, chủ yếu là của doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Việc giao dịch được thực hiện thông qua mạng điện thoại, internet; giá
cả chứng khoán giao dịch được xác định dựa trên cơ sở thỏa thuận, thương lượng.
Chính vì vậy, TTCK phi tập trung còn được gọi là “thị trường qua quầy” - thị
trường OTC (Over the counter market).
TTCK phi tập trung được đặt dưới sự quản lý, điều hành của các tổ chức do
pháp luật quy định và chịu sự quản lý của nhà nước.
2
Với sự phát triển của kỹ thuật tin học, TTCK phi tập trung phát triển rất
mạnh và nhanh, trở thành một loại hình TTCK hiện đại.
1.1.2. Cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán phi tập trung
1.1.2.1. Phương thức xác lập giá trên thị trường OTC
Phương thức xác lập giá trên thị trường OTC chủ yếu thực hiện thông qua
phương thức thương lượng và thỏa thuận song phương giữa bên mua và bên bán,
khác với cơ chế đấu giá tập trung tại Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK). Hình
thức khớp lệnh trên thị trường OTC rất ít phổ biến và thường chỉ áp dụng đối với
các lệnh nhỏ. Giá chứng khoán được hình thành qua thương lượng và thỏa thuận
riêng biệt nên sẽ phụ thuộc vào từng nhà kinh doanh, đối tác trong giao dịch và như
vậy sẽ có nhiều mức giá khác nhau đối với mỗi chứng khoán tại một thời điểm. Tuy
nhiên với sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường và cơ chế báo giá tập trung qua
mạng máy tính điện tử như hiện nay đã dẫn đến sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các
nhà kinh doanh chứng khoán. Vì vậy, khoảng cách chênh lệch giữa các mức giá
được thu hẹp do diễn ra sự đấu giá giữa các nhà tạo lập thị trường với nhau, nhà đầu
tư chỉ có việc lựa chọn giá tốt nhất trong các báo giá của các nhà tạo lập thị trường.
1.1.2.2. Hình thức tổ chức thị trường OTC
Thị trường OTC được tổ chức theo hình thức không có địa điểm giao dịch
mang tính tập trung giữa bên mua và bán. Việc mua bán chứng khoán được diễn ra
tại các địa điểm thuận tiện cho người mua và bán như tại các ngân hàng, CTCK…
1.1.2.3. Hàng hóa giao dịch trên thị trường OTC
Hàng hóa giao dịch trên thị trường phần lớn là các chứng khoán chưa đủ điều
kiện niêm yết trên SGDCK song đáp ứng được các điều kiện về tính thanh khoản và
yêu cầu tài chính tối thiểu của thị trường OTC, trong đó chủ yếu là chứng khoán của
các công ty vừa và nhỏ, các công ty mới được thành lập, công ty công nghệ cao và
có tiềm năng phát triển. Ngoài ra còn có các loại chứng khoán đã niêm yết trên
SGDCK. Như vậy, chứng khoán niêm yết và giao dịch trên thị trường OTC rất đa
dạng và có độ rủi ro cao hơn so với các chứng khoán niêm yết trên SGDCK.
3
1.1.2.4. Hệ thống giao dịch của thị trường OTC
Thị trường OTC sử dụng hệ thống mạng máy tính điện tử diện rộng liên kết
tất cả các đối tượng tham gia thị trường. Vì vậy, thị trường OTC còn được gọi là thị
trường mạng hay thị trường báo giá điện tử. Hệ thống mạng của thị trường được các
đối tượng tham gia thị trường sử dụng để đặt lệnh giao dịch, đàm phán thương
lượng giá, truy cập và thông báo các thông tin liên quan đến giao dịch chứng
khoán… Chức năng của hệ thống mạng được sử dụng rộng rãi trong giao dịch mua
bán và quản lý trên thị trường OTC.
1.1.2.5. Cơ chế thanh toán trên thị trường OTC
Cơ chế thanh toán trên thị trường OTC rất linh hoạt và đa dạng do phần lớn
các giao dịch mua bán trên thị trường được thực hiện trên cơ sở thương lượng và
thỏa thuận giữa người mua và người bán, khác với phương thức thanh toán bù trừ
đa phương thống nhất trên thị trường tập trung. Thời hạn thanh toán không cố định
như trên thị trường tập trung mà rất đa dạng T+1, T+2, T+x trên cùng một thị
trường, tùy theo từng thương vụ và sự phát triển của thị trường.
1.1.2.6. Quản lý thị trường OTC
Cấp quản lý thị trường OTC tương tự như quản lý hoạt động của TTCK tập
trung và được chia thành 2 cấp:
Cấp quản lý Nhà nước: Do cơ quan quản lý TTCK quản lý theo pháp luật về
chứng khoán và các luật có liên quan, cơ quan này thường là Ủy ban chứng khoán
(UBCK).
Cấp tự quản: Do Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán quản lý như ở
Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản… hoặc do trực tiếp sở giao dịch đồng thời quản lý như ở
Anh, Pháp, Canada… Nhìn chung, nội dung và mức độ quản lý ở mỗi nước có khác
nhau, tùy thuộc vào điều kiện và đặc thù của từng nước nhưng đều có chung mục
tiêu là đảm bảo sự ổn định và phát triển liên tục của thị trường.
1.1.2.7. Các chủ thể tham gia trên thị trường OTC
Các chủ thể tham gia trên thị trường OTC gồm:
4
¾ Nhà phát hành: Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn
thông qua TTCK dưới hình thức phát hành chứng khoán, tạo ra nguồn cung hàng
hóa cho TTCK.
¾ Nhà đầu tư: Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán
trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: Nhà đầu tư cá nhân và nhà
đầu tư có tổ chức.
9 Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia
mua bán trên TTCK với mục đích kiếm lời.
9 Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán
chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể tồn tại dưới
các hình thức công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu, công ty tài chính,
ngân hàng thương mại và các CTCK.
Sự tham gia của các nhà đầu tư có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của
TTCK.
¾ Các công ty chứng khoán: Các CTCK là những công ty hoạt động trong
lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ
chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng
khoán và tự doanh.
¾ Nhà tạo lập thị trường: Các nhà tạo lập thị trường là các tổ chức tài
chính được cấp phép, luôn nắm giữ một lượng chứng khoán đủ lớn và sẵn sàng
mua, bán nhằm tạo lập thị trường cho chứng khoán đó. Đây là một điểm rất đặc
trưng của thị trường OTC. Các nhà tạo lập thị trường được xem là động lực của thị
trường này, họ mua bán chứng khoán kiếm lời và tự chịu rủi ro.
Trước hết, nhà tạo lập thị trường là các nhà kinh doanh chứng khoán. Khi
nắm giữ các loại chứng khoán, họ có thể nhận được thu nhập từ chứng khoán (trái
tức, cổ tức), từ chênh lệch tăng giá chứng khoán hoặc nhận được các quyền lợi khác
(quyền mua cổ phiếu khi công ty phát hành thêm cổ phiếu, nhận cổ phiếu thưởng từ
tổ chức phát hành). Khi tạo lập thị trường cho chứng khoán, các nhà tạo lập thị
trường có thể nhận được tiền hoa hồng từ dịch vụ hỗ trợ mua, bán chứng khoán cho
5
khách hàng. Ngoài ra họ còn có thể được hưởng các quyền lợi khác như khoản miễn
giảm thuế và phí giao dịch, quyền được nhận thông tin, quyền lợi từ các chính sách
hỗ trợ khác của Nhà nước và Hiệp hội kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, các nhà tạo lập thị trường khác với các nhà kinh doanh chứng
khoán thông thường. Theo quy định họ phải luôn nắm giữ một lượng chứng khoán
đủ lớn và phải sẵn sàng mua bán một lượng chứng khoán tối thiểu theo mức giá đã
cam kết khi có yêu cầu. Như vậy, với tư cách là nhà buôn, các nhà tạo lập thị trường
phải thực hiện 2 nghiệp vụ chính, đó là: nghiệp vụ ngân quỹ nhằm đáp ứng yêu cầu
thanh toán, chi trả phát sinh, nhu cầu dự phòng thanh toán và nghiệp vụ dự trữ
nhằm xác định và duy trì mức dự trữ hợp lý và cần thiết. Hay nói cách khác, nhà tạo
lập thị trường thực hiện đồng thời 2 chức năng: môi giới và kinh doanh chứng
khoán. Để thực hiện các chức năng này, các nhà tạo lập thị trường phải đáp ứng các
yêu cầu về mức vốn pháp định, hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật, đội ngũ nhân
lực... và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan quản lý thị trường và Hiệp hội kinh
doanh chứng khoán.
Các nhà tạo lập thị trường phải đối mặt với nguy cơ sụt giảm giá chứng
khoán, thậm chí nguy cơ mất trắng do tổ chức phát hành bị phá sản. Họ đóng vai trò
người bán khi giá chứng khoán lên và vai trò người mua khi giá chứng khoán giảm.
Hơn nữa họ cần có đủ lượng tiền mặt cần thiết để đáp ứng nhu cầu bán chứng khoán
của các nhà đầu tư, lượng tiền mặt cao sẽ làm tăng chi phí cơ hội. Để chống lại
nguy cơ đó, các nhà tạo lập thị trường phải có quy mô vốn lớn, năng lực quản lý và
giám sát tốt, khả năng đa dạng hóa đầu tư cao, quan hệ tốt với công chúng và các
nhà đầu tư có tổ chức khác. Thông thường các nhà tạo lập thị trường phải là các nhà
đầu tư có tổ chức, các tổ chức tài chính trung gian. Song không phải tổ chức tài
chính trung gian nào cũng có thể trở thành nhà tạo lập thị trường. Vấn đề này trước
hết phụ thuộc vào mô hình kinh doanh chứng khoán.
Tóm lại, nhà tạo lập thị trường là các thành viên tham gia trên các thị trường
mua bán công cụ tài chính thực hiện theo phương thức khớp giá, thực hiện chức
năng đặt các lệnh chào mua, chào bán. Những nhà tạo lập thị trường tạo ra thị
6
trường có tính thanh khoản cao bằng cách thường xuyên yết lên các mức giá chào
mua, chào bán, qua đó đảm bảo một thị trường 2 chiều, mua bán liên tục. Nhà tạo
lập thị trường khác với nhà môi giới và nhà đầu tư chỉ đơn thuần là kiếm lời từ việc
đóng vai trò trung gian và đối tác trong giao dịch. Nhà tạo lập thị trường ngoài việc
đóng vai trò là nhà môi giới, nhà đầu tư, họ còn đóng vai trò là nhà cân bằng giá,
tạo ra sự cân bằng, trật tự ngắn hạn trong giao dịch chứng khoán.
¾ Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán: Các tổ chức liên
quan đến TTCK gồm cơ quan quản lý Nhà nước, SGDCK, công ty dịch vụ máy tính
chứng khoán và các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
9 Cơ quan quản lý Nhà nước là cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với TTCK.
9 SGDCK là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những
quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên SGDCK phù hợp
với các quy định của luật pháp và UBCK Nhà nước.
9 Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán là tổ chức phụ trợ, phục vụ các
giao dịch chứng khoán.
9 Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ
đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn theo những
điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
Qua tìm hiểu về cơ chế vận hành của thị trường OTC ta thấy được sự
khác biệt giữa thị trường này với thị trường chứng khoán tập trung và thị
trường tự do (thị trường chợ đen) như sau:
¾ Phân biệt với thị trường chứng khoán tập trung (SGDCK):
SGDCK là một thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán
được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch (trading floor) hoặc
thông qua hệ thống máy tính. Các chứng khoán được niêm yết giao dịch tại SGDCK
thông thường là chứng khoán của các công ty lớn, có danh tiếng và đáp ứng được
các tiêu chuẩn niêm yết do SGDCK đặt ra.
7
Phương thức giao dịch tại SGDCK được thực hiện trên cơ sở đấu lệnh
(matching order) hoặc đấu giá (price order) do các thành viên môi giới thực hiện
trên cơ sở giá cả cạnh tranh tốt nhất.
Tóm lại SGDCK là nơi gặp gỡ của các nhà môi giới chứng khoán để thương
lượng đấu giá, mua bán chứng khoán, là cơ quan phục vụ cho hoạt động mua bán
chứng khoán.
Như vậy, ta thấy thị trường OTC và SGDCK đều là thị trường có tổ chức,
chịu sự quản lý và giám sát của Nhà nước.
Tuy nhiên, hai thị trường này có những điểm khác nhau như sau:
BẢNG 1.1. ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA THỊ TRƯỜNG OTC VÀ
SGDCK
Thị trường OTC SGDCK
Địa điểm giao dịch
Địa điểm giao dịch là phi tập
trung.
Giao dịch tại trung tâm
cụ thể.
Cơ chế giao dịch
Dựa trên cơ sở thương lượng
và thỏa thuận, các giao dịch
được thực hiện thông qua các
nhà môi giới hoặc nhà tạo lập
thị trường.
Giao dịch thông qua
đấu lệnh hoặc đấu giá
tập trung.
Chứng khoán giao dịch
Các chứng khoán của các
công ty đại chúng chưa niêm
yết, hoặc hủy niêm yết tại
SGDCK.
Các chứng khoán của
các công ty đại chúng
niêm yết trên SGDCK.
Giá chứng khóan
Trên thị trường có nhiều mức
giá cho một chứng khoán
trong cùng một thời điểm.
Chỉ có một mức giá
cho một chứng khoán
trong cùng một thời
điểm.
Giá tham chiếu chứng
khoán
Bình quân gia quyền của các
giá giao dịch thỏa thuận điện
Giá đóng của của
phiên giao dịch trước
8
tử của ngày có giao dịch gần
nhất
đó.
Rủi ro
Độ rủi ro cao hơn SGDCK. Độ rủi ro thấp hơn thị
trường OTC.
Vai trò của CTCK
CTCK đóng vai trò chính, các
công ty này là nhà tạo lập thị
trường, kết hợp với môi giới
và tự doanh.
CTCK chủ yếu là môi
giới và tự doanh.
¾ Phân biệt với thị trường chứng khoán tự do (thị trường chợ đen)
Ngoài TTCK phi tập trung, chứng khoán chưa niêm yết của các công ty chưa
đủ điều kiện niêm yết vẫn được giao dịch thông qua thị trường tự do (hay còn gọi là
thị trường chợ đen). Trên thị trường này, giao dịch tự phát, không được thanh toán
tập trung, chứng khoán không được lưu ký, việc mua bán chứng khoán thông qua
các nhà môi giới tự do, không được cấp phép... nên có nhiều yếu tố rủi ro mà tổ
chức phát hành, công ty chứng khoán tổ chức hoạt động giao dịch không chịu trách
nhiệm với nhà đầu tư.
Thị trường OTC và thị trường tự do đều có địa điểm giao dịch là phi tập
trung, chủ yếu áp dụng cơ chế thanh toán và xác lập giá qua thương lượng và thỏa
thuận. Tuy nhiên hai thị trường này có những điểm khác nhau như sau:
BẢNG 1.2. ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA THỊ TRƯỜNG OTC VÀ TTCK
TỰ DO
Thị trường OTC Thị trường tự do
Sự tổ chức
Là thị trường có tổ chức,
chịu sự quản lý và giám sát
của Nhà nước.
Là thị trường không có
tổ chức, không có sự
quản lý của Nhà nước.
Cơ chế giao dịch
Dựa trên cơ sở thương lượng
và thỏa thuận, các giao dịch
Giao dịch có thể thỏa
thuận trực tiếp.
9
được thực hiện thông qua
các nhà môi giới hoặc các
nhà tạo lập thị trường.
Chứng khoán giao dịch
Các chứng khoán của các
công ty đại chúng chưa niêm
yết, hoặc hủy niêm yết tại
SGDCK và được đăng ký tại
TTLKCK.
Tất cả các chứng
khoán phát hành, kể cả
chứng khoán phát
hành riêng lẻ.
Rủi ro Rủi ro thấp hơn TTCK tự do. Rủi ro rất cao.
1.1.3. Vai trò của thị trường OTC
Thị trường OTC là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của hệ thống
TTCK vì sự có mặt của thị trường này đã góp phần mở rộng thị trường dành cho
các loại chứng khoán chưa được niêm yết trên TTCK tập trung, tạo ra một kênh huy
động vốn mới cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cung cấp cho thị trường một
phương thức giao dịch khác với phương thức của thị trường tập trung. Chính vì vậy,
thị trường OTC đã góp phần hoàn thiện hệ thống TTCK, thể hiện qua một số vai trò
cơ bản sau:
1.1.3.1. Hỗ trợ và thúc đẩy thị trường chứng khoán tập trung phát triển
Thị trường OTC có những chức năng riêng biệt của mình, những chức năng
này không những không lấn át, không thay thế cho chức năng của TTCK tập trung
mà nó còn là một bộ phận hỗ trợ cho thị trường tập trung vì mỗi loại thị trường đều
có những đặc điểm riêng tạo thành một tổng thể phục vụ đa dạng nhu cầu giao dịch
chứng khoán trong nền kinh tế. Sự có mặt của thị trường OTC cùng với TTCK tập
trung tạo thành hệ thống TTCK hoàn thiện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Cả TTCK tập trung và thị trường OTC đều thu hút nhà đầu tư đến với thị
trường không chỉ bằng tính thanh khoản, bằng khả năng sinh lời mà còn bằng việc
thị trường nào sẽ tạo điều kiện để nhà đầu tư có thể mua bán được dễ dàng. Do vậy,
việc hoàn thiện thị trường OTC không những thu hút nhà đầu tư đến với thị trường
10
này mà còn tạo ra sự cạnh tranh đối với TTCK tập trung. Đây chính là động lực để
thúc đẩy TTCK tập trung ngày càng phát triển.
1.1.3.2. Tạo thị trường cho các chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ,
các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết
Cùng với hệ thống thị trường tài chính nói chung, thị trường OTC có vai trò
trong việc mở ra một kênh huy động vốn mới cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
doanh nghiệp chưa đủ điều kiện niêm yết để huy động vốn trên TTCK tập trung,
thực hiện tính thanh khoản của các chứng khoán này.
Phương thức giao dịch trên thị trường này được xem là linh hoạt, đa dạng,
thuận lợi cho người đầu tư trên cơ sở áp dụng kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện
đại, chất lượng cung cấp dịch vụ cho thị trường ngày càng hoàn hảo. Chính vì vậy,
thị trường OTC đã góp phần hoàn thiện môi trường huy động và phân bổ vốn cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư.
1.1.3.3. Hạn chế, thu hẹp thị trường tự do, góp phần đảm bảo sự ổn định
và lành mạnh của thị trường chứng khoán
Chúng ta không phủ nhận sự có mặt của thị trường tự do có vai trò nhất định
đối với sự phát triển của TTCK trong giai đoạn hiện nay. Chính sự có mặt của thị
trường tự do đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu phát hành và giao dịch chứng
khoán cho các công ty muốn huy động vốn và nhà đầu tư. Đúng như tên gọi của
mình, giao dịch mua bán trên thị trường tự do là do giữa các bên tự thỏa thuận,
không phải chịu giới hạn trần, sàn về giá như trên thị trường tập trung và cùng với
việc giao dịch mọi lúc mọi nơi đã giúp cho nhà đầu tư thuận tiện hơn trong việc
mua bán và đặc biệt là có cơ hội kiếm lãi cao.
Nhưng xét cho cùng sự tồn tại của thị trường này ở thời điểm hiện tại và lâu
dài sẽ bộc lộ nhiều tiêu cực. Cụ thể là do thị trường tự do nằm ngoài sự quản lý của
nhà nước cho nên những người hoạt động kinh doanh trên thị trường này sẽ không
có môi trường giao dịch thuận lợi, không được bảo vệ quyền lợi, hoạt động trong
điều kiện không công bằng, môi trường thông tin không đáng tin cậy, dễ xảy ra tình
trạng tranh chấp, lừa đảo, nhà đầu tư có cơ hội kiếm lãi cao nhưng cũng phải đối
11
mặt với rủi ro cao. Chính vì vậy, hoạt động của thị trường tự do hiện tại cũng như
về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK chính thức, không đảm bảo
được sự phát triển ổn định, lành mạnh của TTCK. Vì vậy, việc hình thành thị
trường OTC hoạt động một cách quy củ sẽ góp phần đáng kể trong việc khắc phục
những hạn chế của TTCK tự do.
1.1.3.4. Tạo môi trường đầu tư linh hoạt, thuận lợi cho các nhà đầu tư
Thị trường giao dịch cổ phiếu OTC có tổ chức ra đời sẽ mang đến nhiều lợi
ích cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư tránh được những rủi ro mang tính pháp lý cũng
như tình trạng mua bán chứng khoán giả mạo, thanh toán không đảm bảo và đặc
biệt là tính thanh khoản kém trên thị trường, tình trạng làm giá, tung tin thất thiệt
cũng sẽ được hạn chế tối đa khi nhà đầu tư có kênh thông tin chính xác, doanh
nghiệp có trách nhiệm với chính cổ phiếu của họ. Đồng thời mở ra một kênh đầu tư
mới ngoài các cổ phiếu đã niêm yết trên TTCK tập trung, tạo điều kiện hơn nữa cho
các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư nhỏ, tiếp cận TTCK một cách nhanh
chóng và thuận tiện.
Trên đây là vị trí và vai trò hết sức quan trọng của TTCK phi tập trung đối
với sự phát triển của TTCK nói riêng và đối với nền kinh tế quốc gia nói chung.
Đây là những tác động tích cực không thể phủ nhận của TTCK phi tập trung.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực đó thì TTCK phi tập trung vẫn
có một số khiếm khuyết và hạn chế nhất định vì đây là thị trường phi tập trung nên
rất khó để quản lý một cách chặt chẽ và có nhiều rủi ro trong giao dịch do tình trạng
bất cân xứng thông tin, tình trạng làm giá, tình trạng cổ đông lớn ép cổ đông nhỏ,
tính thanh khoản kém … Vì vậy, việc lựa chọn hình thức tổ chức TTCK phi tập
trung như thế nào là phù hợp để quản lý chặt chẽ và kích thích sự phát triển chung
của TTCK là một đòi hỏi mang tích thực tiễn khách quan cao.
1.2. PHÂN BIỆT GIỮA THỊ TRƯỜNG UPCoM VÀ THỊ TRƯỜNG
OTC
Thị trường UPCoM do SGDCK Hà Nội (HNX) tổ chức và chính thức được
vận hành vào ngày 24/6/2009. Đây là thị trường giao dịch chứng khoán (cổ phiếu và
12
trái phiếu chuyển đổi) của các công ty đại chúng chưa niêm yết, hoặc hủy niêm yết
tại SGDCK TP.HCM (HoSE) hoặc SGDCK Hà Nội.
1.2.1. Cơ chế vận hành trên thị trường UPCoM:
Theo quy định của SGDCK Hà Nội, cơ chế vận hành trên thị trường UPCoM
gồm các nội dung chủ yếu sau:
1.2.1.1. Các chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường UPCoM
Các tổ chức và cá nhân tham gia trên thị trường UPCoM gồm:
¾ Tổ chức đăng ký giao dịch (công ty đại chúng):
Tổ chức đăng ký giao dịch trên UPCoM là các công ty đại chúng theo điều
25 của Luật chứng khoán có chứng khoán không niêm yết hoặc bị hủy niêm yết tại
các SGDCK và đã được đăng ký lưu ký tại TTLKCK Việt Nam.
Các công ty đại chúng đăng ký giao dịch trên UPCoM phải chịu trách nhiệm
về tính chính xác, đầy đủ và trung thực của nội dung thông tin được công bố.
¾ Tổ chức cam kết hỗ trợ (Công ty chứng khoán):
Tổ chức cam kết hỗ trợ phải ký hợp đồng cam kết hỗ trợ với tổ chức đăng ký
giao dịch theo mẫu do SGDCK ban hành.
Tổ chức cam kết hỗ trợ có các nghĩa vụ sau:
9 Chịu trách nhiệm về việc chứng khoán của công ty đại chúng do mình
cam kết hỗ trợ có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để đưa vào hệ thống
đăng ký giao dịch của SGDCK;
9 Thay mặt công ty đại chúng do mình cam kết hỗ trợ thực hiện các thủ tục
đăng ký giao dịch chứng khoán vào hệ thống đăng ký giao dịch của SGDCK.
9 Hỗ trợ tổ chức đăng ký giao dịch do mình cam kết hỗ trợ trong việc thực
hiện nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định:
- Thường xuyên đôn đốc tổ chức đăng ký giao dịch thực hiện công bố thông
tin đúng quy định của pháp luật;
- Hỗ trợ tổ chức đăng ký giao dịch về cách thức, nội dung công bố thông tin
khi có yêu cầu của tổ chức đăng ký giao dịch;
13
- Công bố trên trang thông tin điện tử của mình những thông tin công bố của
công ty đại chúng do mình cam kết hỗ trợ.
9 Trong trường hợp tổ chức cam kết hỗ trợ đã thực hiện trách nhiệm hỗ trợ
tổ chức đăng ký giao dịch do mình cam kết hỗ trợ thực hiện công bố thông tin mà tổ
chức đăng ký giao dịch đó vẫn không thực hiện đúng nghĩa vụ công bố thông tin,
thì trong vòng hai mươi bốn (24) giờ, kể từ thời điểm thông tin cần phải được công
bố theo quy định của pháp luật, tổ chức cam kết hỗ trợ phải có văn bản báo cáo
UBCKNN, SGDCK về vấn đề này kèm theo những tài liệu chứng minh về việc thực
hiện đúng trách nhiệm cam kết hỗ trợ của mình.
9 Tổ chức cam kết hỗ trợ phải báo cáo SGDCK trong vòng hai mươi bốn
(24) giờ, kể từ thời điểm chấm dứt làm tổ chức cam kết hỗ trợ cho tổ chức đăng ký
giao dịch hoặc ký được hợp đồng làm tổ chức cam kết hỗ trợ mới cho tổ chức đăng
ký giao dịch.
¾ Nhà đầu tư:
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK.
Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ
chức.
9 Nhà đầu tư cá nhân: Nhà đầu tư ưa rủi ro và nhà đầu tư không thích rủi
ro.
9 Nhà đầu tư có tổ chức: Công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm
xã hội, công ty tài chính.
¾ Các tổ chức có liên quan đến TTCK gồm:
9 Cơ quan quản lý Nhà nước
9 Sở giao dịch chứng khoán
9 Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
9 Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
9 Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
9 Các tổ chức tài trợ chứng khoán
9 Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
14
1.2.1.2. Điều kiện tham gia giao dịch:
Theo Quy định tại điều 7 quy chế tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán
công ty đại chúng chưa niêm yết tại SGDCK Hà Nội được ban hành kèm theo Quyết
định số 108/2008/QĐ-BTC ngày 20 tháng 11 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính,
chứng khoán của các công ty đại chúng được giao dịch trên thị trường UPCoM khi đáp
ứng đủ các điều kiện sau:
¾ Công ty đại chúng chưa niêm yết hoặc hủy niêm yết có vốn điều lệ đã góp từ
10 tỷ đồng trở lên và tối thiểu có 100 cổ đông sở hữu không kể nhà đầu tư chứng khoán
chuyên nghiệp (điều 25 Luật chứng khóan);
¾ Chứng khoán đã được đăng ký lưu ký tại TTLKCK;
¾ Được một (01) thành viên cam kết hỗ trợ;
Tuy nhiên kể từ ngày 19/7/2010, để giản tiện cho tất cả các công ty đại chúng có
thể tham gia đăng ký giao dịch trên thị trường UPCoM, điều kiện được một thành viên
cam kết hỗ trợ không còn là điều kiện bắt buộc.
1.2.1.3. Trình tự đăng ký giao dịch
¾ Tổ chức phát hành lựa chọn một CTCK là tổ chức cam kết hỗ trợ và ký hợp
đồng cam kết hỗ trợ;
¾ Tổ chức phát hành phối hợp với tổ chức cam kết hỗ trợ thực hiện:
9 Đăng ký, lưu ký chứng khoán của công ty đại chúng với TTLKCK;
9 Đăng ký giao dịch chứng khoán của công ty đại chúng với SGDCK Hà Nội;
¾ Sau khi được chấp thuận đăng ký giao dịch, tổ chức đăng ký giao dịch công bố
thông tin và hoàn tất các thủ tục đăng ký ngày giao dịch đầu tiên và đưa chứng khoán vào
giao dịch.
1.2.1.4. Phương thức giao dịch
¾ Cách thức giao dịch trên UPCoM
Khi bắt đầu đi vào hoạt động, thị trường UPCoM áp dụng phương thức giao dịch
thỏa thuận với 2 hình thức: Thỏa thuận điện tử và thỏa thuận thông thường.
15
9 Thỏa thuận điện tử là hình thức giao dịch trong đó đại diện giao dịch nhập lệnh
với các điều kiện giao dịch đã được xác định và lựa chọn lệnh đối ứng phù hợp để thực
hiện giao dịch;
Đối với hình thức giao dịch này, tổ chức cam kết hỗ trợ (thành viên) có trách nhiệm
thực hiện ngay lệnh của nhà đầu tư trong thời gian giao dịch của SGDCK. Trường hợp
không có lệnh đối ứng phù hợp để thực hiện, thành viên phải nhập lệnh ngay vào hệ thống
đăng ký giao dịch theo thứ tự ưu tiên về thời gian.
9 Thỏa thuận thông thường là hình thức giao dịch trong đó bên mua, bên bán tự
thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch và được đại diện giao dịch nhập thông tin
vào hệ thống đăng ký giao dịch để xác nhận giao dịch này.
Đối với hình thức giao dịch thoả thuận thông thường, thành viên có trách
nhiệm chuyển ngay kết quả giao dịch đã được thoả thuận vào hệ thống đăng ký giao
dịch trong thời gian giao dịch của SGDCK theo thứ tự ưu tiên về thời gian.
Tuy nhiên trong điều kiện các CTCK chưa phát huy được hết vai trò của một
nhà tạo lập thị trường thì việc áp dụng phương thức giao dịch như trên gặp nhiều
hạn chế. Vì vậy nhằm làm tăng khả năng thích ứng của các CTCK và nhà đầu tư đối
với phương thức giao dịch, tạo sự sôi động của thị trường, tăng tính thanh khoản
cho chứng khoán cũng như tính hấp dẫn của thị trường, thu hút được sự tham gia
của nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư, kể từ ngày 19/7/2010 thị trường UPCoM áp
dụng phương thức khớp lệnh liên tục thay cho hình thức thỏa thuận điện tử.
Khớp lệnh liên tục là phương thức trong đó giao dịch được thực hiện liên tục
ngay khi có các lệnh đối ứng được nhập vào hệ thống. Với phương thức khớp lệnh
liên tục, ngay sau khi lệnh được nhập vào hệ thống sẽ lập tức được so khớp và hình
thành giao dịch, từ đó giá cả được xác định liên tục chứ không phải vào một thời
điểm nhất định như khớp lệnh định kỳ. Tuy nhiên muốn áp dụng phương thức khớp
lệnh hiện đại này các SGDCK phải tiến hành nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất, đặc
biệt các chương trình xử lý lệnh và giao dịch cho khách hàng theo đúng lộ trình mà
Trung tâm thông báo. Hơn nữa, nhà đầu tư cần hiểu biết hơn, nắm vững thông tin
16
hơn khi quyết định đầu tư trên TTCK, nếu không rủi ro khi đầu tư theo phương thức
giao dịch khớp lệnh liên tục cũng cao hơn.
¾ Đơn vị giao dịch, khối lượng giao dịch, đơn vị yết giá, mệnh giá và biên độ dao
động giá:
9 Đơn vị giao dịch: Đơn vị giao dịch khớp lệnh liên tục là 100 cổ phiếu hoặc
100 trái phiếu. Không quy định đơn vị giao dịch đối với giao dịch thoả thuận. Áp
dụng khối lượng giao dịch tối thiểu đối với giao dịch thoả thuận là mười (10) cổ
phiếu hoặc mười (10) trái phiếu.
9 Đơn vị yết giá: Cổ phiếu là 100 đồng; không quy định đối với trái phiếu
9 Mệnh giá: Cổ phiếu là 10.000 đồng; trái phiếu là 100.000 đồng
9 Biên độ dao động giá: ± 10% đối với cổ phiếu; không quy định đối với
trái phiếu.
¾ Thời gian giao dịch:
Khi bắt đầu đi vào hoạt động, thời gian giao dịch của UPCoM là cả 2 buổi
các ngày làm việc trong tuần. Buổi sáng từ 10 giờ đến 11 giờ 30 phút và buổi chiều
từ 13 giờ 30 phút đến 15 giờ.
Kể từ ngày 19/7/2010 thời gian giao dịch hàng ngày từ 8h30 đến 15h00, thời
gian nghỉ giữa phiên từ 11h30 đến 13h30. Việc mở rộng thời gian giao dịch, có giờ
mở cửa cùng với thị trường niêm yết đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tham
gia giao dịch trên cả hai thị trường và đáp ứng nhu cầu giao dịch linh hoạt của nhà
đầu tư trong ngày giao dịch.
Nhà đầu tư có thể giao dịch mua bán trực tiếp với CTCK vào bất kỳ thời
điểm nào trong ngày làm việc theo quy định tại CTCK đó.
¾ Giá tham chiếu:
Giá tham chiếu của cổ phiếu đang giao dịch là bình quân gia quyền của các
giá giao dịch khớp lệnh liên tục của ngày có giao dịch gần nhất và được công bố
hàng ngày.
Trường hợp cổ phiếu mới đăng ký giao dịch, trong ngày giao dịch đầu tiên,
SGDCK chỉ nhận lệnh giao dịch khớp lệnh liên tục và không áp dụng biên độ dao
17
động giá. Nếu trong ngày giao dịch đầu tiên không có giá thực hiện thì giá tham
chiếu sẽ được xác định trong ngày giao dịch kế tiếp cho đến khi giá giao dịch được
xác lập trên hệ thống.
Trường hợp giao dịch cổ phiếu không hưởng cổ tức và các quyền kèm theo,
giá tham chiếu tại ngày không hưởng quyền được xác định theo nguyên tắc lấy giá
bình quân gia quyền của các giá giao dịch khớp lệnh liên tục của ngày có giao dịch
gần nhất điều chỉnh theo giá trị cổ tức được nhận hoặc giá trị các quyền kèm theo.
Trường hợp tách, gộp cổ phiếu, giá tham chiếu tại ngày giao dịch trở lại
được xác định theo nguyên tắc lấy giá bình quân gia quyền của các giá giao dịch
khớp lệnh liên tục của ngày có giao dịch trước ngày tách, gộp điều chỉnh theo tỷ lệ
tách, gộp cổ phiếu.
¾ Phương thức và thời gian thanh tóan:
Áp dụng phương thức thanh toán bù trừ đa phương, thời gian thanh toán là
T+3.
1.2.1.5. Quy định về công bố thông tin trên UPCoM
Các tổ chức buộc phải công bố thông tin trên sàn UPCoM gồm:
¾ Tổ chức đăng ký giao dịch
Theo điều 28 Quyết định 108/2008/QĐ-BTC ngày 20/11/2008 của Bộ Tài
chính thì tổ chức đăng ký giao dịch thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin đối với
công ty đại chúng nêu tại Mục II Thông tư số 38/2007/TT-BTC ngày 18/4/2007
gồm:
9 Công bố báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán
được chấp thuận và báo cáo thường niên;
9 Công bố thông tin bất thường: Nêu rõ sự kiện xảy ra, nguyên nhân, kế
hoạch và các giải pháp khắc phục (nếu có);
9 Công bố thông tin theo yêu cầu của UBCKNN, SGDCK Hà Nội;
9 Công bố thông tin về giao dịch cổ phiếu quỹ, giao dịch cổ phiếu của các
cổ đông nội bộ, cổ đông lớn, cổ đông sáng lập trong thời hạn còn bị hạn chế chuyển
nhượng;
18
9 Công bố thông tin về giao dịch chào mua công khai;
¾ Thành viên
Thành viên thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin đối với CTCK nêu tại Mục
V Thông tư số 38/2007/TT-BTC, gồm:
9 Công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính năm;
9 Công bố thông tin bất thường;
9 Công bố thông tin theo yêu cầu của UBCKNN và SGDCK Hà Nội;
¾ SGDCK Hà Nội:
SGDCK Hà Nội thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định tại Mục
VIII Thông tư số 38/2007/TT-BTC, gồm:
9 Thông tin về giao dịch chứng khoán tại SGDCK;
9 Thông tin về tổ chức niêm yết tại SGDCK Hà Nội, thông tin về CTCK
thành viên; công ty quản lý quỹ có quản lý quỹ đại chúng/công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng; quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng;
9 Thông tin giám sát hoạt động của TTCK.
1.2.2. Mục tiêu của thị trường UPCoM
SGDCK Hà Nội đưa thị trường UPCoM vào vận hành nhằm đạt được các
mục tiêu sau:
Thứ nhất, thu hẹp hoạt động của thị trường tự do, góp phần đảm bảo sự ổn định
và lành mạnh của thị trường chứng khoán.
Cùng với việc ra đời của HoSE và HNX, TTCK tự do ngầm hình thành và hoạt
động song song với TTCK tập trung. Thị trường này là nơi lưu thông các loại chứng khoán
chưa niêm yết. Bên cạnh việc tạo cơ hội cho các doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư, đáp ứng
nhu cầu khá lớn về mua bán, chuyển nhượng chứng khoán, TTCK tự do bộc lộ tính rủi ro
cao do tình trạng thiếu thông tin giao dịch và không được quản lý. Sự thao túng, lũng đoạn
về giá diễn ra ngày càng mạnh và tinh vi hơn, các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu vô
tội vạ ra công chúng, phát hành cổ phiếu giả. Hơn nữa, giá cổ phiếu trên thị trường này còn
bị thổi phồng hơn giá trị thực thực gấp nhiều lần do không có biên độ giá... Vì vậy, nếu để
19
thị trường này tiếp tục phát triển một cách tự do sẽ gây ra sự bất bình đẳng trong môi
trường đầu tư chứng khoán và gây ảnh hưởng tiêu cực đến TTCK tập trung.
Thị trường UPCoM ra đời sẽ góp phần thu hẹp thị trường tự do vì theo quy định,
chứng khoán của các công ty đại chúng phải được lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký
chứng khoán (TTLKCK) trước khi thực hiện giao dịch và việc mua bán chứng khoán của
công ty đại chúng chưa niêm yết được thực hiện tại CTCK.
Thứ hai, tạo môi trường đầu tư linh hoạt, thuận lợi cho các nhà đầu tư và tăng
tính thanh khoản cho TTCK.
Thị trường này mở ra một kênh đầu tư mới cho các nhà đầu tư ngoài các cổ phiếu
đã niêm yết trên TTCK tập trung, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận TTCK một
cách nhanh chóng và thuận tiện. Nhà đầu tư sẽ tránh được các rủi ro mang tính pháp lý,
tránh tình trạng mua bán chứng khoán giả mạo... đặc biệt nhà đầu tư sẽ biết rõ hơn về cổ
phiếu mà mình đầu tư do các công ty đại chúng phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin
định kỳ và bất thường theo quy định.
Các cổ phiếu chưa niêm yết trên TTCK tập trung khi vào UPCoM sẽ được nhiều
nhà đầu tư biết đến, các nhà đầu tư có thể tìm thấy nhau, yên tâm hơn khi mua cổ phiếu,
nhu cầu mua bán cũng được thực hiện thường xuyên và liên tục hơn. Điều đó khiến các
giao dịch chứng khoán chưa niêm yết trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn, làm tăng tính thanh
khoản cho thị trường và ngày càng thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia giao dịch.
Thứ ba, tạo điều kiện cho các công ty đại chúng chưa đủ chuẩn niêm yết trên
TTCK tập trung có thể huy động vốn trên TTCK và là bước đệm quan trọng đối với các
công ty chuẩn bị niêm yết trên sàn.
Cũng như thị trường tài chính nói chung, thị trường UPCoM có vai trò quan trọng
trong việc mở ra một kênh huy động vốn mới cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh
nghiệp chưa đủ điều kiện niêm yết để huy động vốn trên TTCK tập trung, thực hiện tính
thanh khoản của các chứng khoán này vì theo quy định của Luật chứng khoán, HoSE và
HNX có những quy định nhất định khiến nhiều công ty đại chúng không đủ điều kiện
niêm yết, vì vậy với điều kiện giao dịch dễ dàng hơn hai sàn niêm yết, thị trường UPCoM
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này. Khi doanh nghiệp lên UPCoM, thông
20
tin về doanh nghiệp và giá cả cổ phiếu được minh bạch, do đó cổ phiếu được nâng cao
tính thanh khoản, hình ảnh cũng như uy tín của doanh nghiệp được quảng bá.
Hơn nữa, đây cũng là bước đệm để các công ty đại chúng tập dợt chuẩn bị lên sàn
niêm yết vì hồ sơ, thủ tục để chuyển từ sàn UPCoM lên sàn niêm yết khá đơn giản so với
công ty chưa lên sàn UPCoM. Do vậy, UPCoM hoàn toàn có thể là một bước đệm quan
trọng để doanh nghiệp thực hiện việc niêm yết trên HoSE và HNX.
Thứ tư, thúc đẩy các CTCK phát triển theo hướng nhà tạo lập thị trường và là
bước đệm để tiến tới xây dựng thị trường OTC hiện đại, góp phần hoàn thiện TTCK
Việt Nam.
TTCK phi tập trung đóng vai trò hỗ trợ cho TTCK tập trung, nó mở rộng sự
hoạt động của thị trường thứ cấp và cùng với TTCK tập trung giúp hạn chế đến mức
tối thiểu sự biến động giá cả bằng cách thường xuyên kiểm tra tình hình giá cổ
phiếu lẫn nhau. Vì vậy, thiếu vắng sự vận hành của TTCK phi tập trung làm cho cơ
cấu TTCK Việt Nam chưa hoàn hảo, gây nên tác động tiêu cực đối với đời sống
kinh tế xã hội. Được xây dựng với mục tiêu đưa thị trường tự do vào khuôn khổ
dưới sự quản lý của Nhà nước và hướng tới xây dựng thị trường OTC hiện đại, thị
trường UPCoM với những chức năng riêng biệt của mình sẽ là bộ phận hỗ trợ cho
thị trường tập trung. Sự có mặt của thị trường UPCoM cùng với thị trường tập trung
góp phần hoàn thiện TTCK cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Để thị trường UPCoM đạt được các mục tiêu đề ra đòi hỏi phải có các nhà
tạo lập thị trường đóng vai trò chủ đạo, tạo lập hàng hóa và dẫn dắt thị trường. Vì
vậy thị trường UPCoM sẽ góp phần thúc đẩy các CTCK phát triển theo hướng nhà
tạo lập thị trường.
Có thể nói, những mục tiêu nêu trên là hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh
tế - chính trị - xã hội của nước ta hiện nay. Hoạt động của thị trường UPCoM tạo
tính thanh khoản cho các loại chứng khoán chưa niêm yết, tạo nên sân chơi hợp
pháp và công bằng cho các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán, góp phần đẩy
nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời thu hẹp thị trường
tự do và tiến tới xây dựng một thị trường OTC hiện đại. Do vậy, việc thành lập thị
21
trường UPCoM - một thị trường có tổ chức, có sự quản lý của Nhà nước cho những
cổ phiếu chưa niêm yết hoặc bị hủy niêm yết là việc làm cần thiết nhằm thúc đẩy
và hoàn thiện TTCK Việt Nam.
1.2.3. Phân biệt giữa thị trường OTC và thị trường UPCoM
Mặc dù thị trường OTC và thị trường UPCoM đều là thị trường chứng khoán
phi tập trung, có vai trò hạn chế, thu hẹp thị trường tự do, góp phần thúc đẩy TTCK
phát triển, tạo thị trường cho các chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, các
chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết... nhưng hai thị trường này cũng có những
điểm khác biệt nhất định như sau:
Ở thị trường OTC hiện đại, dù là những chứng khoán chưa được niêm yết tập
trung nhưng cũng thỏa mãn những tiêu chuẩn nhất định về điều kiện giao dịch; các
giao dịch được thực hiện thông qua nhà môi giới hoặc nhà tạo lập thị trường dựa
trên cơ sở thương lượng và thỏa thuận song phương giữa người mua và người bán;
thời hạn và phương thức thanh toán linh hoạt. Ở thị trường này, các CTCK không
chỉ dừng lại ở vai trò là người môi giới mà còn đóng vai trò là các nhà tạo lập thị
trường.
Riêng thị trường UPCoM ở Việt Nam, vì các CTCK chưa thực sự làm tốt vai
trò của các nhà tạo lập thị trường nên cơ chế giao dịch trên UPCoM chưa thực sự
linh hoạt, phải áp dụng phương thức khớp lệnh liên tục thay cho hình thức thỏa
thuận điện tử; áp dụng phương thức thanh toán bù trừ đa phương và thời gian thanh
toán là T+3.
1.3. NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH THỊ TRƯỜNG OTC CỦA MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆC XÂY
DỰNG THỊ TRƯỜNG UPCoM Ở VIỆT NAM
Thị trường UPCoM được xây dựng trên nền tảng của thị trường OTC nhưng
phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị ở Việt Nam với mục tiêu thu hẹp thị trường
tự do và hướng tới xây dựng một thị trường OTC hiện đại.
Vì vậy, việc tìm hiểu mô hình thị trường OTC ở một số số nước trên thế giới
nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm, từ đó áp dụng, cải tiến và phát triển thị
22
trường UPCoM ngày càng hoàn thiện, trở thành thị trường OTC hiện đại trong
tương lai là việc làm hết sức cần thiết.
Trước tiên ta tìm hiểu một số thị trường OTC nổi tiếng trên thế giới.
1.3.1. Mô hình thị trường OTC ở một số nước trên thế giới
1.3.1.1. Thị trường OTC Mỹ
NASDAQ (The National Association of Securities Dealers Automated
Quotation) là thị trường OTC tại Mỹ, được thành lập năm 1971 bởi Hiệp hội những
người buôn bán chứng khoán Quốc gia (NASD -The National Association of
Securities Dealers) và hiện đang được điều hành bởi Nasdaq Stock Market, Inc.
NASDAQ là sàn giao dịch chứng khoán điện tử lớn nhất nước Mỹ, với khoảng hơn
15.000 loại chứng khoán được giao dịch trên thị trường, lớn hơn rất nhiều so với
khoảng 4.500 loại chứng khoán giao dịch trên TTCK tập trung. Hệ thống giao dịch
tại thị trường này được tự động hóa hoàn toàn. Hầu hết các giao dịch tại đây đều
được tiến hành thông qua mạng lưới điện thoại và vi tính với doanh số lớn gấp
nhiều lần so với các SGDCK. Hệ thống này nối mạng với các máy con của các hội
viên thuê bao hệ thống NASD, cung cấp giá cả chứng khoán cho các thành viên để
tiến hành thương lượng, đàm phán trước khi ký hợp đồng tiêu thụ chứng khoán
Thị trường này có giá trị vốn hoá thị trường đứng thứ 3 thế giới (sau NYSE
và Tokyo stock Exchange). Tuy không niêm yết trên sàn giao dịch, các chứng
khoán OTC muốn được chào giá trên hệ thống NASDAQ cũng cần có các tiêu
chuẩn không kém. Tiêu chí chứng khoán được niêm yết trên NASDAQ có nhiều
loại nhưng nói chung bao gồm các tiêu chuẩn về tổng giá trị tài sản công ty, vốn và
lợi nhuận, số cổ phiếu do công chúng nắm giữ, số lượng cổ đông, số lượng các nhà
tạo lập thị trường. Tiêu chuẩn niêm yết chứng khoán trên thị trường NASDAQ quốc
gia cao hơn so với thị trường NASDAQ thông thường.
NASDAQ được vận hành bởi một hệ thống các nhà tạo lập thị trường và các
nhà môi giới, có khoảng 500 nhà tạo lập thị trường hoạt động tích cực trên thị
trường này, trung bình mỗi nhà tạo lập thị trường làm nhiệm vụ tạo lập cho 8 loại
cổ phiếu. Cơ chế niêm yết tự động bằng hệ thống điện tử. NASDAQ chịu sự quản lý
23
của hai cấp UBCK Mỹ (SEC) và Hiệp Hội các nhà kinh doanh chứng khoán Mỹ
(NASD). Thị trường NASDAQ hiện nay đã được nối mạng toàn cầu với nhiều thị
trường OTC trên thế giới. Cơ chế xác lập giá chủ yếu là thỏa thuận giá trên cơ sở
báo giá tập trung, tuy nhiên có một bộ phận của thị trường (gọi là hệ thống khớp
lệnh nhỏ tự động của NASDAQ – SOSE) cung cấp dịch vụ khớp lệnh tập trung đối
với các lệnh nhỏ dưới 1,000 cổ phiếu. Ngoài ra Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng
khoán NASD còn cung cấp dịch vụ báo giá điện tử qua mạng NASDAQ cho hơn
15,000 chứng khoán khác không đủ tiêu chuẩn niêm yết trên NASDAQ, tạo điều
kiện cho những CTCK tham gia thị trường này có thể báo giá chứng khoán mà họ
làm nhà tạo lập thị trường, cập nhật báo giá tức thời, truy cập thông tin về báo giá
của các nhà tạo lập thị trường khác.
1.3.1.2. Thị trường OTC Nhật Bản
Có hai thị trường OTC tại Nhật Bản: JASDAQ và J-NET.
Thị trường JASDAQ (còn gọi là NASDAQ Nhật Bản) hoạt động từ năm
1991 trên cơ sở phát triển thị trường OTC truyền thống hoạt động từ tháng 2/1963
do Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Nhật Bản (JSDA) quản lý, áp dụng cơ
chế thương lượng giá tay đôi giữa các CTCK với nhau hoặc giữa CTCK với khách
hàng. Luật chứng khoán sửa đổi năm 1983 đã đưa thị trường OTC vào quỹ đạo
quản lý Nhà nước, cơ chế thương lượng giá được đổi sang cơ chế đấu giá tập trung.
Hệ thống các nhà tạo lập thị trường gắn liền với cơ chế thương lượng giá được áp
dụng lại từ năm 1987 để cạnh tranh với thị trường tập trung và tạo tính thanh khoản
cho thị trường OTC. Hiện nay trên thị trường JASDAQ có 449 công ty làm nhà tạo
lập thị trường. Hệ thống giao dịch và thông tin tự động qua mạng JASDAQ theo mô
hình NASDAQ Mỹ được chính thức đưa vào hoạt động từ năm 1991 để thúc đẩy thị
trường OTC. Hiện nay hệ thống này bao gồm 2 mạng, mạng giao dịch và mạng
thông tin. Mạng giao dịch được sử dụng để khớp các lệnh giao dịch tự động và
mạng thông tin được dùng cho các nhà tạo lập thị trường báo giá tập trung, thông
báo về các giao dịch đã thỏa thuận và truyền phát các thông tin khác. Chứng khoán
giao dịch trên OTC là chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, công ty có chất
24
lượng cao, công ty công nghệ hạng hai. Tiêu chí niêm yết trên JASDAQ chủ yếu
dựa vào các tiêu chuẩn như thời gian thành lập công ty, tài sản ròng, lợi nhuận ròng,
tổng giá trị thị trường của chứng khoán, số lượng cổ đông, số lượng chứng khoán
lưu hành, ý kiến kiểm toán và các tiêu chí khác. Tính đến tháng 9/1997 đã có 800
chứng khoán được giao dịch trên thị trường này, tăng hơn 2,5 lần so với năm 1990.
Thị trường J-NET mới được đưa vào hoạt động tháng 4/1999, đây là thị
trường được thành lập mới, chịu sự quản lý trực tiếp của SGDCK OSAKA, áp dụng
cơ chế thương lượng giá. Chứng khoán niêm yết trên thị trường J-NET là các chứng
khoán không được niêm yết trên SGDCK OSAKA. Thành viên của SGDCK
OSAKA, nhà đầu tư và Trung tâm quản lý được trực tiếp nối mạng với nhau thông
qua một mạng điện tử đa tầng, tạo điều kiện cho các đối tượng này có thể chia sẻ
thông tin thị trường. Đặc trưng của J-NET là dịch vụ rẻ - nhanh - tiện lợi, có thể
truy cập trực tiếp thị trường – thông tin thị trường, người đầu tư có thể thực hiện
giao dịch bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu và với bất kỳ ai. J-NET cũng là mạng được
nối với các mạng khác trong nước và mạng quốc tế. Đây là mạng được đánh giá có
tiềm năng hữu dụng lớn trong tương lai đối với TTCK trong và ngoài nước.
1.3.1.3. Thị trường OTC Hàn Quốc
Thị trường OTC truyền thống của Hàn Quốc được thành lập tháng 4/1987
nhằm tạo môi trường hoạt động cho các chứng khoán không được niêm yết trên
SGDCK Hàn Quốc (KSE), chịu sự kiểm soát của Hiệp hội các nhà kinh doanh
chứng khoán (KSDA). Tháng 4/1997, Chính phủ Hàn Quốc quyết định tổ chức lại
và thúc đẩy thị trường này phát triển bằng việc thành lập thị trường mạng máy tính
KOSDAQ nhằm tạo điều kiện cho các công ty vừa và nhỏ không đủ tiêu chuẩn
niêm yết trên thị trường tập trung có thể huy động vốn trực tiếp.
Thị trường này được xây dựng theo mô hình NASDAQ (Mỹ), giao dịch qua
mạng điện tử có sự kiểm soát trung tâm. Các tổ chức niêm yết trên thị trường
KOSDAQ phải đáp ứng một số tiêu chí cơ bản như mức vốn điều lệ tối thiểu, tỷ lệ
phát hành ra công chúng... Tuy nhiên việc định giá được thực hiện theo phương
thức đấu lệnh tập trung tương tự như sở giao dịch.
25
Cho đến nay thị trường KOSDAQ rất phát triển, tốc độ tăng hàng năm của
thị trường này lớn hơn nhiều so với thị trường tập trung và chiếm 98% tổng giao
dịch trái phiếu của TTCK.
Tháng 3/2000 thị trường OTC-BB theo mô hình NASDAQ OTC-BB (Mỹ)
chính thức đi vào hoạt động tạo điều kiện huy động vốn cho các trái phiếu và các cổ
phiếu chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết trên KSE và KOSDAQ. Thị trường này sử dụng
mạng điện tử KOSDAQ để giao dịch tương tự như thị trường OTC-BB Mỹ. Phương
thức xác lập giá trên thị trường này là phương thức thông lệnh tự động trên cơ sở tự
động khớp 2 lệnh có giá và khối lượng giống hệt nhau. Thực chất đây cũng là
phương pháp thương lượng giá tự động đang được áp dụng tại một bộ phận của thị
trường NASDAQ Mỹ.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho thị trường UPCoM ở Việt Nam
Qua tìm hiểu các mô hình thị trường OTC nổi tiếng trên thế giới, chúng ta
thấy rằng:
Thứ nhất, mỗi một mô hình ở mỗi thị trường đều có những lợi thế và hạn
chế nhất định. Sự khác nhau về tên gọi, cơ chế hoạt động, các quyền lợi và nghĩa vụ
tạo ra cho các nhà tạo lập thị trường ở mỗi thị trường những nét đặc trưng khác
nhau. Một mô hình thị trường có tính cạnh tranh cao giữa các nhà tạo lập thị trường
như NASDAQ đã chứng minh những ưu thế của nó qua quy mô thị trường, quy mô
giao dịch, qua tính chất phản ánh tự nhiên giá trị chứng khoán trên thị trường, qua
tính thanh khoản. Tuy nhiên một cơ chế cạnh tranh luôn tìm ẩn những hành vi tiêu
cực có thể của chính các nhà tạo lập thị trường, hoặc cũng có thể là từ các mánh
khóe của các nhà đầu tư nắm được những thông tin mang tính chất nội gián mà nhà
tạo lập thị trường không nắm được, điều này làm tăng rủi ro đối với các chứng
khoán “trong kho” của nhà tạo lập thị trường.
Thứ hai, với thị trường như NYSE, các nhà tạo lập thị trường hầu như
không gặp phải rủi ro như các nhà tạo lập thị trường ở NASDAQ. Họ là người duy
nhất nắm toàn bộ thông tin về duy nhất một loại chứng khoán. Tuy nhiên mô hình
này chỉ phù hợp với thị trường mà tất cả chứng khoán đều có chất lượng cao, được
26
giao dịch mạnh với khối lượng lớn, nếu không sẽ không công bằng cho những
chuyên gia nhận tạo lập thị trường cho những loại chứng khoán kém chất lượng, và
theo đó là kém thanh khoản.
Thứ ba, mô hình thị trường với sàn điện tử đấu lệnh tập trung đã không còn
tồn tại kể từ năm 2001, điều này chứng tỏ nó có những điểm không phù hợp với sự
phát triển của TTCK. Trái lại mô hình tạo lập thị trường phi tập trung trên sàn điện
tử đấu lệnh như Euronext hiện đang là một xu thế mới và được áp dụng rộng rãi.
Tuy nhiên đây lại là một mô hình tương đối linh động, mỗi thị trường có thể áp
dụng theo các hình thức khác nhau với cơ chế hoạt động của nhà tạo lập thị trường
có những điểm khác nhau nhất định.
Thứ tư, tuy không niêm yết trên sàn tập trung nhưng các chứng khoán muốn
được giao dịch trên OTC cũng phải đáp ứng được những tiêu chí nhất định về thời
gian thành lập công ty, tổng giá trị tài sản công ty, vốn và lợi nhuận, số cổ phiếu do
công chúng nắm giữ, số lượng cổ đông, số lượng các nhà tạo lập thị trường… và
các tiêu chí khác.
Như vậy, để phát triển và hoàn thiện thị trường UPCoM cho Việt Nam với
mục tiêu thu hẹp thị trường mở và tiến tới xây dựng thị trường OTC hiện đại,
chúng ta cần chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất, mô hình tổ chức hệ thống giao dịch ở thị trường UPCoM nên
được trang bị hệ thống giao dịch tự động với sự ứng dụng của công nghệ thông tin
hiện đại, hay nói cách khác chúng ta phải xây dựng một hệ thống giao dịch điện tử
hiện đại có quy mô giao dịch qua mạng diện rộng để có thể liên kết tất cả các thành
viên thị trường trên cả nước, qua đó các thành viên và nhà đầu tư đều có thể truy
cập hệ thống, kết nối thông tin nhanh chóng. Điều này một mặt giúp chúng ta có thể
tổ chức và điều hành nhiều loại thị trường giao dịch với nhiều hình thức giao dịch
khác nhau, mặc khác sẽ hạn chế tối đa tình trạng sai lệch thông tin - một trong
những nguyên nhân chủ yếu làm thiệt hại đến nhà đầu tư.
Thứ hai, thị trường UPCoM đòi hỏi nhà tạo lập thị trường đóng vai trò chủ
đạo, tạo lập hàng hóa và dẫn dắt thị trường. Do vậy, để phát huy tối đa hiệu quả của
27
thị trường UPCoM chúng ta phải xây dựng hệ thống các nhà tạo lập thị trường vừa
chuyên nghiệp vừa hiện đại theo hướng xây dựng và phát triển các CTCK trở thành
các nhà tạo lập thị trường. Để trở thành nhà tạo lập thị trường đúng nghĩa, thực hiện
được vai trò mà thị trường yêu cầu, các CTCK phải không ngừng đổi mới, nâng cao
năng lực tài chính cũng như năng lực hoạt động. Đây chính là điều kiện cần thiết và
quan trọng để tiến tới xây dựng một TTCK phi tập trung hiện đại trong tương lai.
Thứ ba, thị trường UPCoM thu hút nhà đầu tư không chỉ qua cơ chế giao
dịch, qua số lượng mà còn phụ thuộc vào chất lượng của các công ty đăng ký giao
dịch. Vì vậy để thị trường UPCoM đạt được mục tiêu đề ra, chúng ta cần xây dựng
những tiêu chí cụ thể đối với các công ty đăng ký giao dịch trên UPCoM. Điều này
giúp thị trường UPCoM không chỉ thu hút được nhà đầu tư mà còn thu hút được các
doanh nghiệp có uy tín đăng ký giao dịch.
Kết luận chương 1
Những nội dung cơ bản về thị trường OTC như khái niệm, phương thức hoạt
động, vai trò, những điểm giống và khác nhau giữa thị trường OTC với TTCK tập
trung và thị trường tự do; việc tìm hiểu về cơ chế vận hành, mục tiêu của thị trường
UPCoM để tìm ra những điểm khác biệt giữa thị trường UPCoM và OTC cũng như
việc nghiên cứu mô hình thị trường OTC của một số nước trên thế giới giúp chúng
ta có một cái nhìn tương đối và rút ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình phát
triển thị trường UPCoM ở Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển thị trường UPCoM trên nền tảng thị trường OTC
đặt dưới sự quản lý của Nhà nước là điều cần thiết và phù hợp với điều kiện thực tế
kinh tế - chính trị - xã hội của Việt Nam. Việc ra đời thị trường UPCoM không chỉ
mang ý nghĩa về tổ chức thị trường, mà còn là định hướng ổn định và thu hẹp thị
trường tự do vốn đang nảy sinh rất nhiều vướng mắc và xung đột lợi ích, tạo cơ hội
giao dịch chứng khoán minh bạch, công khai cho công chúng đầu tư và cơ hội huy
động vốn hiệu quả cho các công ty đại chúng. Đồng thời hướng tới xây dựng một
thị trường OTC hiện đại.
28
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG UPCoM
VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG,
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TỰ DO
2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG UPCoM
2.1.1. Quy mô niêm yết và giao dịch trên thị trường UPCoM sau một
năm rưỡi đi vào hoạt động (tính đến cuối năm 2010):
Ngày 24/6/2009 thị trường UPCoM chính thức đi vào hoạt động với 10
doanh nghiệp đăng ký giao dịch cổ phiếu với tổng khối lượng niêm yết là
123,138,182 cổ phiếu, tương đương với giá trị niêm yết là 1,231.38 tỷ đồng. Tính
đến ngày 31/12/2010, thị trường UPCoM đã thu hút được 108 doanh nghiệp niêm
yết với tổng khối lượng niêm yết là 1,132,680,087 cổ phiếu, tương đương với giá trị
niêm yết hơn 11,326 tỷ đồng (xem phụ lục 1).
Sau một năm rưỡi đi vào hoạt động quy mô giao dịch trên thị trường UPCoM
được thể hiện như sau:
BẢNG 2.1. THỐNG KÊ GIAO DỊCH TỪ 24/6/2009 ĐẾN 31/12/2010
KLGD GTGD UPCOM-Index phiên cuối tháng
Tháng Khối lượng
(cổ phiếu)
Tăng/Giảm
so với
tháng trước
(%)
Giá trị (tỷ
đồng)
Tăng/Giảm
so với
tháng trước
(%)
Điểm
Tăng/Giảm
so với
phiên cuối
tháng trước
(%)
6/09 2,134,247 35.56 81.83
7/09 6,189,183 80.11 76.06 (7.05)
8/09 4,648,788 (24.89) 62.71 (21.72) 66.16 (13.02)
9/09 7,756,569 66.85 107.03 70.67 66.67 0.77
10/09 9,337,734 20.38 134.65 25.81 72.72 9.07
11/09 5,142,972 (44.92) 70.33 (47.77) 57.98 (20.27)
12/09 4,037,826 (21.49) 51.66 (26.55) 53.82 (7.17)
01/10 5,675,667 40.56 72.86 41.04 52.43 (2.58)
02/10 4,926,628 (13.20) 63.88 (12.33) 46.74 (10.85)
29
03/10 9,012,201 82.93 126.45 97.95 44.92 (3.89)
04/10 16,612,592 84.33 255.36 101.95 47.07 4.79
05/10 18,777,173 13.03 271.97 6.50 48.97 4.04
06/10 8,820,739 (53.02) 148.66 (45.34) 48.45 (1.06)
07/10 29,400,390 233.31 542.92 265.21 52.55 8.46
08/10 11,819,579 (59.80) 181.77 (66.52) 49.28 (6.22)
09/10 9,360,605 (20.80) 139.52 (23.24) 45.67 (7.33)
10/10 6,216,510 (33.59) 93.24 (33.17) 42.35 (7.27)
11/10 12,381,406 99.17 157.74 69.18 41.18 (2.76)
12/10 11,649,168 (5.91) 131.76 (16.47) 45.19 9.74
Tổng 183,899,977 2,728.18
Nguồn: Sở Giao Dịch Chứng khoán Hà Nội
Tháng 6/2009:
Với hơn 10 cổ phiếu giao dịch, kết thúc phiên giao dịch đầu tiên ngày
24/6/2009 sàn UPCoM đạt hơn 1.05 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng tương
đương giá trị xấp xỉ 19 tỷ đồng. Sau đó thị trường đã giảm điểm 3 phiên liên tiếp
trong bối cảnh giao dịch trầm lắng do ảnh hưởng từ hai sàn niêm yết là HoSE và
HNX, đa số các cổ phiếu đồng loạt giảm giá, tính thanh khoản thấp, nhà đầu tư chỉ
tập trung vào các cổ phiếu ngành chứng khoán, giao dịch sụt giảm cả về khối lượng
và giá trị. Kết thúc phiên giao dịch cuối tháng 6/2009, chỉ số UPCoM – Index còn
81.83 điểm, giảm 18.17 điểm tương đương 18.17% so với phiên giao dịch đầu tiên.
Trong tháng đầu tiên được đưa vào vận hành, KLGD trên thị trường UPCoM
đạt hơn 2 triệu cổ phiếu tương ứng với GTGD khoảng 35.56 tỷ đồng.
Tháng 7/2009:
Thị trường vẫn chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia giao dịch, tính
thanh khoản chưa được cải thiện. Với đa số những phiên giảm điểm, chỉ số
UPCoM-Index rơi khỏi mốc 70 điểm khi đứng ở mức 69.57 điểm vào ngày
21/7/2009. Tuy nhiên, hòa trong không khí sôi động của hai sàn niêm yết trong
những phiên giao dịch cuối tháng 7, chỉ số UPCoM-Index đã bật tăng mạnh và cận
kề mốc 80 điểm khi đạt 79.77 điểm vào ngày 29/7/2009, nhưng sau đó chỉ số này lại
30
quay đầu giảm và đạt 76.06 điểm ngày 31/7/2009, giảm 5.77 điểm tương đương
7.05% so với phiên giao dịch cuối tháng 6/2009.
KLGD tháng 7/2009 chỉ đạt hơn 6 triệu cổ phiếu ứng với GTGD hơn 80 tỷ
đồng.
Tháng 8/2009:
Từ phiên 03/8/2009 đến phiên 14/8/2009 thị trường bức phá và tăng mạnh
mặc dù có nhiều phiên điều chỉnh giảm, ngày 14/8/2009 UPCoM-Index đạt mức
cao nhất với 96.54 điểm. Tuy nhiên sau đó thị trường lại đảo chiều giảm mạnh với
10 phiên giảm điểm liên tiếp mặc dù hai sàn niêm yết đã có những phiên tăng điểm
ngoạn mục. Kết thúc phiên giao dịch ngày 31/8/2009 UPCoM-Index chỉ còn 66.16
điểm, giảm 9.9 điểm tương đương 13% so với phiên giao dịch cuối tháng 7/2009.
Thanh khoản giảm mạnh khi KLGD tháng này chỉ đạt hơn 4.6 triệu cổ phiếu
ứng với GTGD hơn 62 tỷ đồng, giảm 24.89% về KLGD và 21.72% về GTGD so
với tháng 7/2009.
Có thể nói trong tháng 8, với khối lượng niêm yết khá lớn so với các mã còn
lại, cổ phiếu ABI của CTCP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp có sức ảnh hưởng
rất lớn trên thị trường, chỉ vài chục cổ phiếu cũng có thể làm UPCoM-Index tăng
hay giảm. ABI là cổ phiếu tăng trần duy nhất trên sàn này trong nhiều phiên kéo
UPCoM-Index tăng mạnh, nhưng thực chất chỉ là tăng ảo do chỉ có vài chục hoặc
10 cổ phiếu được giao dịch và dư bán sàn tới vài ngàn cổ phiếu nhưng không ai
mua. Khi UPCoM-Index giảm mạnh 10 phiên thì giá cổ phiếu này bị giảm hơn một
nửa do giảm sàn 10 phiên liên tiếp với mỗi phiên chỉ khớp có vài chục hoặc vài
trăm cổ phiếu. Đến phiên 31/8/2009 mã duy nhất giảm sàn vẫn là ABI mặc dù sau
10 phiên giảm điểm liên tiếp UPCoM-Index đã tăng trở lại ở mức 66.16 điểm khi
kết thúc phiên giao dịch.
Như vậy phương thức khớp lệnh thỏa thuận tại sàn UPCoM đã bộc lộ hạn
chế khi không thể hiện được giá trị thực của cổ phiếu, các cổ phiếu rất dễ bị làm
giá. Như thực tế nêu trên, cổ phiếu ABI dư bán sàn lớn, không ai đặt mua, nhưng
nếu có ai muốn làm giá sẽ đặt mua giá trần và sẽ khớp với giá trần, chứ không phải
31
giá sàn. Điều này sẽ kéo giá trung bình của ngày lên cao để làm giá đóng cửa và mở
cửa cho ngày hôm sau.
Tháng 9/2009:
Sau phiên tăng điểm ngày 31/8/2009, UPCoM-Index lại tiếp tục giảm thêm 4
phiên liên tiếp vào đầu tháng 9/2009, KLGD giảm mạnh có phiên chỉ khoảng
107,060 cổ phiếu được giao dịch. Kết thúc phiên giao dịch cuối tháng 9/2009, trong
khi hai chỉ số của thị trường niêm yết giảm điểm thì chỉ số UPCOM-Index lại tăng
nhẹ khi đóng cửa ở mức 66.67 điểm, tăng 0.51 điểm tức 0.77% so với phiên đóng
cửa cuối tháng 8/2009.
Thanh khoản thị trường tăng vọt khi KLGD đạt hơn 7.7 triệu cổ phiếu ứng
với GTGD hơn 107 tỷ đồng, tăng 66.85% về KLGD và 70.67% về GTGD so với
tháng 8/2009. Tuy nhiên, KLGD tháng 9 cao hơn tháng 8 chủ yếu vẫn nhờ cổ phiếu
của các CTCK và Ngân hàng, các mã cổ phiếu này ngày càng được giao dịch nhiều
hơn (trung bình 330,000 cổ phiếu được giao dịch mỗi phiên). Sự chênh lệch về
KLGD giữa các cổ phiếu cũng ngày càng tăng, tính riêng 4 mã có KLGD nhiều nhất
đã chiếm trên 80% KLGD toàn thị trường.
Tháng 10/2009:
Đầu tháng 10/2009 thị trường tiếp tục xen kẽ những phiên tăng giảm điểm
nhưng xu hướng chính vẫn là đi xuống, sau đó tăng dần với biên độ nhẹ. Từ phiên
12/10 thị trường bật tăng trở lại với xu hướng tăng ngày càng rõ khi có 8 phiên tăng
điểm liên tiếp, tuy nhiên KLGD lại giảm nhẹ. Đến phiên 21/10/2009 đà tăng bắt đầu
hãm lại và thị trường quay đầu giảm mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối tháng 10
UPCoM-Index đạt 72.72 điểm, tăng 6.05 điểm tương ứng 9% so với phiên giao dịch
ngày 30/9/2009.
KLGD đạt hơn 9.3 triệu cổ phiếu tương đương KLGD hơn 134 tỷ đồng, tăng
20.38% về KLGD và 25.81% về GTGD so với tháng 9/2009.
Tháng 11/2009:
Tiếp tục xu hướng giảm điểm ở các phiên cuối tháng 10/2009, các phiên giao
dịch trong tháng 11 chủ yếu là giảm điểm, nhà đầu tư tham gia giao dịch chủ yếu
32
mang động thái thăm dò, KLGD và thanh khoản của thị trường sụt giảm mạnh,
nhiều mã cổ phiếu không có giao dịch trong nhiều phiên liên tiếp. Trong tổng 21
phiên giao dịch trong tháng 11/2009 chỉ có 5 phiên tăng điểm, còn lại 16 phiên đều
giảm điểm với biên độ mạnh, đặc biệt là 8 phiên giảm điểm liên tục từ 18/11 đến
30/11 (ngoại trừ phiên tăng điểm vào ngày 26/11) kéo UPCoM-Index xuống còn
57.98 điểm ở phiên giao dịch cuối tháng, giảm 14.74 điểm (20.27%) so với phiên
giao dịch cuối tháng 10.
Các cổ phiếu có KLGD và GTGD nhiều nhất vẫn là các mã quen thuộc như
APS, TAS, API, VDS và HIG. Giá giao dịch cổ phiếu UPCoM trong tháng này
cũng có sự biến động mạnh khi có 14/25 mã cổ phiếu giảm giá, cá biệt có đến 3 mã
giảm giá trên 30% so với phiên giao dịch bình quân cuối tháng 10 là: ABI giảm
36.72%; KMT giảm 36.51%; TNM giảm 33.33%. Bên cạnh đó cũng có những mã
tăng mạnh như: CFC tăng 21%; DDN tăng 10.33% và BTC tăng 7.07%.
Thanh khoản thị trường giảm mạnh khi KLGD chỉ khoảng hơn 5.1 triệu cổ
phiếu tương ứng GTGD đạt khoảng 70.33 tỷ đồng, giảm gần 45% về KLGD và hơn
47% về GTGD so với tháng 10/2009.
Tháng 12/2009:
Sang tháng 12/2009, thị trường vẫn tiếp tục sụt giảm, KLGD ngày càng
giảm, có tới 6 mã không có giao dịch trong tháng là CT3, DNT, IME, KMT, TCO
và TMW. Nhiều phiên có khoảng 200,000 cổ phiếu được giao dịch, thậm chí phiên
16/12 chỉ có 66,611 cổ phiếu được giao dịch với GTGD là 683.8 triệu đồng, thấp
nhất từ trước đến nay. Từ phiên giao dịch ngày 24/12 trở đi mặc dù tính thanh
khoản của thị trường được cải thiện do ảnh hưởng không khí sôi động của 2 sàn
niêm yết nhưng thị trường vẫn trong xu hướng đi xuống. Kết thúc phiên giao dịch
ngày 31/12/2009 UPCoM đóng cửa ở mức 53.82 điểm, giảm 4.16 điểm (7.17%) so
với phiên đóng cửa ngày 30/11/2009.
KLGD tháng này đạt hơn 4 triệu cổ phiếu ứng với GTGD gần 52 tỷ đồng,
giảm 21.49% về KLGD và 26.55% về GTGD so với tháng 11/2009.
33
Tháng 01/2010:
Sang tháng 01/2010, dù đã được HNX tuyên bố sẽ bổ sung phương thức
khớp lệnh liên tục nhằm tăng cường tính linh hoạt trong giao dịch tại sàn UPCoM
trong năm 2010 nhưng thị trường vẫn chưa thoát khỏi tình trạng giao dịch èo uột
mặc dù KLGD có tăng hơn so với tháng 12/2009.
Tháng này thị trường vẫn tiếp tục xu hướng đi xuống nhưng với biên độ nhẹ
do nhà đầu tư vẫn giữ khoảng cách và thận trọng với thị trường này. Tuy nhiên
KLGD và tính thanh khoản cũng đã cải thiện hơn so với tháng cuối năm 2009
(phiên có KLGD lớn nhất trong tháng là phiên 15/01 với 641,533 cổ phiếu được
giao dịch; phiên có KLGD thấp nhất nhất trong tháng là phiên 27/01 với 142,937 cổ
phiếu được giao dịch). Kết thúc phiên giao dịch ngày 29/01/2010 UPCoM-Index
đóng cửa ở mức 52.43 điểm, giảm 1.39 điểm tức 2.58% so với phiên đóng cửa ngày
31/12/2009.
KLGD đạt hơn 5.6 triệu cổ phiếu ứng với GTGD gần 72.86 tỷ đồng, tăng
40.56% về KLGD và 41.04% về GTGD so với tháng cuối năm 2009. Đặc biệt mã
API của Công ty CP Đầu tư Châu Á Thái Bình Dương ngày càng được giao dịch
nhiều hơn với KLGD đứng thứ hai trên thị trường (sau APS) đạt 976,530 cổ phiếu
chiếm 17.2% KLGD toàn thị trường, tương đương GTGD là 8.34 tỷ đồng. Thị
trường vẫn còn nhiều mã không được giao dịch. Đặc biệt mã NT2 có khối lượng cổ
phiếu đăng ký giao dịch lớn nhất thị trường nhưng vẫn không có cổ phiếu nào được
giao dịch trong tháng.
Tháng 02/2010:
Thị trường tiếp tục đi xuống, nhà đầu tư ngày càng không mặn mà với thị
trường này, đặc biệt là sự đi xuống của 2 sàn niêm yết khiến nhà đầu tư mất đi niềm
tin thị trường UPCoM có thể phục hồi trở lại. Chỉ sau 5 phiên giao dịch đầu tiên
trong tháng, UPCoM-Index giảm xuống còn 50.32 điểm vào phiên 08/02. Sau đó thị
trường tăng nhẹ trong 4 phiên nhưng cũng không cải thiện được UPCoM-Index do
thị trường lại giảm mạnh trong 4 phiên tiếp theo kéo UPCoM–Index xuống mức
34
dưới 50 điểm, đóng cửa phiên 26/02 ở mức 46.74 điểm (giảm 5.69 điểm, tức
10.85% so với phiên đóng cửa ngày 29/01/2010).
Như vậy chỉ trong vòng hơn 8 tháng hoạt động UPCoM – Index đã giảm hơn
50% so với giá trị ban đầu là 100 điểm vào ngày 24/06/2009.
Tháng này, KLGD đạt gần 5 triệu cổ phiếu ứng với GTGD khoảng 64 tỷ
đồng, giảm 13.2% về KLGD và 12.33% về GTGD so với tháng đầu năm 2010.
KLGD giảm một phần cũng do các ngày nghỉ Tết Âm lịch rơi vào tháng 2/2010.
Tháng 3/2010:
Vào những phiên nửa đầu tháng 3/2010 thị trường vẫn tiếp tục đi xuống, tuy
có vài phiên tăng điểm. Giao dịch trên UPCoM vẫn khá ảm đạm. Sau nhiều phiên
giảm mạnh liên tiếp UPCoM-Index bị kéo xuống mức 42.96 điểm (mức thấp nhất từ
trước đến nay) vào phiên 11/3 và 15/3. Những phiên nửa cuối tháng 3 thị trường đã
được cải thiện hơn do những tín hiệu vui từ 2 sàn niêm yết đã ảnh hưởng phần nào
đến thị trường, giao dịch nhiều hơn, thanh khoản tăng, nhà đầu tư bắt đầu trở lại thị
trường sau vài phiên tăng điểm liên tiếp. Nhưng sự phục hồi mới bắt đầu và chưa
được mạnh mẽ thì thị trường lại quay đầu giảm mạnh và bắt đầu điều chỉnh tăng
giảm xen kẽ. Kết thúc phiên giao dịch ngày 31/3/2010 UPCoM-Index đóng cửa ở
mức 44.92 điểm, tăng 1.82 điểm tức 3.89% so với phiên đóng cửa ngày 26/02/2010.
Tháng này, tình trạng giao dịch vẫn không có gì thay đổi, thị trường vẫn chỉ
tập trung vào mã các CTCK. Các mã khác có KLGD không đáng kể, tình trạng
nhiều mã không có giao dịch vẫn tiếp diễn, đặc biệt là các mã mới lên sàn. KLGD
đạt hơn 9 triệu cổ phiếu ứng với GTGD khoảng 126 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so
với tháng 02/2010.
Tháng 4/2010:
Thị trường lại tiếp tục những phiên tăng giảm với biên độ nhẹ, UPCoM-
Index đóng cửa tại ngày 29/4 ở mức 47.07 điểm (tăng 2.15 điểm tức 4.79% so với
phiên đóng cửa cuối tháng 3/2010).
Tuy nhiên KLGD trong tháng 4/2010 đã tăng hơn rất nhiều so với tháng
3/2010 với KLGD đạt hơn 16,6 triệu cổ phiếu tương ứng với GTGD hơn 255 tỷ
35
đồng, tăng 84.33% về KLGD và tăng gấp đôi về GTGD so với tháng 3/2010 nhờ sự
đóng góp lớn từ giao dịch đột biến của cổ phiếu VDS.
Tháng 5/2010:
Bên cạnh những phiên giảm điểm với biên độ nhẹ, thị trường đã có những
phiên tăng điểm liên tiếp, vượt qua ngưỡng 50 điểm ở phiên 5/5 và đạt mức 55.65
điểm ở phiên 10/5 trong khi cả hai sàn niêm yết điều chỉnh giảm mạnh. Sau đó thị
trường lại tiếp tục giao dịch dè dặt và cầm chừng, đa số các cổ phiếu rơi vào tình
trạng đứng giá hoặc không có giao dịch khiến UPCoM-Index đóng cửa tại ngày
31/5 ở mức 48.97 điểm, tăng 1.9 điểm tức 4.04% so với phiên đóng cửa cuối tháng
4/2010.
KLGD tháng này đạt hơn 18 triệu cổ phiếu ứng với GTGD gần 272 tỷ đồng,
tăng 13.03% về KLGD và 6.5% về GTGD so với tháng 4/2010.
Tháng 6/2010:
Sang tháng 6/2010, tuy có 14/22 phiên tăng điểm, đặc biệt có tới bảy phiên
tăng điểm liên tiếp vào cuối tháng nhưng UPCoM-Index chỉ đạt 48.45 điểm vào
phiên 30/6, giảm 0.52 điểm tức 1.06% so với phiên cuối tháng 5/2010.
Thị trường vẫn tiếp tục tình trạng có nhiều mã không được giao dịch, thanh
khoản giảm mạnh so với tháng trước. KLGD đạt hơn 8.8 triệu cổ phiếu ứng với
GTGD gần 149 tỷ đồng, giảm 53% về KLGD và 45.34% về GTGD so với tháng
5/2010.
Tháng 7/2010:
Những phiên giao dịch đầu tháng 7/2010 thị trường có những phiên tăng
điểm liên tiếp và vượt ngưỡng 60 điểm vào phiên 15/7 với mức 60.34 điểm và thanh
khoản tăng đột biến. Thông tin về việc Bộ Tài chính ban hành thông tư mới cho
phép UPCoM được áp dụng phương thức giao dịch khớp lệnh liên tục và thỏa
thuận thông thường thay vì phương thức giao dịch thỏa thuận điện tử như trước
kia; thời gian giao dịch cũng được kéo dài từ 8h30 đến 15h00 (thời gian nghỉ từ
11h30 đến 13h30); điều kiện được một thành viên cam kết hỗ trợ không còn là điều
kiện bắt buộc kể từ ngày 19/7/2010 đã thu hút được sự chú ý của giới đầu tư, dòng
36
tiền chảy vào thị trường UPCoM nhiều hơn, giao dịch sôi động và số mã tăng giá
nhiều hơn trên bảng điện tử. Đồng thời tình trạng cổ phiếu không có giao dịch cũng
được hạn chế.
Nhưng thật bất ngờ sau khi việc sửa đổi chính thức được áp dụng thì thị
trường lại liên tục những phiên giảm điểm kéo UPCoM-Index xuống còn 52.55
điểm khi kết thúc phiên giao dịch ngày 30/7, tăng 4.1 điểm tức 8.46% so phiên với
giao dịch cuối tháng 6/2010.
Tuy vậy, việc áp dụng phương thức giao dịch khớp lệnh liên tục và kéo dài
thời gian giao dịch đã phần nào thu hút nhà đầu tư, KLGD tháng này cao gấp 3 lần
so với tháng trước, đạt hơn 29 triệu cổ phiếu ứng với GTGD gần 543 tỷ đồng.
Tháng 8/2010:
Thị trường lại tiếp tục những phiên tăng giảm điểm với biên độ nhẹ nhưng
xu hướng chung vẫn là đi xuống. Kết thúc phiên giao dịch ngày 31/8, UPCoM-
Index tuột mốc 50 điểm khi đạt 49.28 điểm, giảm 3.27 điểm tức 6.22% so với phiên
giao dịch cuối tháng 7/2010.
KLGD ít hơn tháng trước với gần 12 triệu cổ phiếu được giao dịch ứng với
GTGD hơn 181 tỷ đồng, giảm 59.8% về KLGD và 66.52% về GTGD so với tháng
trước. Đa số các cổ phiếu vẫn trong tình trạng “đóng băng”, không có giao dịch tại
nhiều phiên liên tiếp như: BWA, HFC, KBE, KSC, PTT, TBT...
Tháng 9/2010:
Sang tháng 9/2010, giao dịch tiếp tục diễn biến ảm đạm và trầm lắng. Cung -
cầu chênh lệch. Lệnh vào thị trường nhỏ lẻ và thưa thớt. Sự chủ động vẫn thuộc về
bên bán. Cũng giống như hai sàn niêm yết, sau nhiều phiên liên tiếp giảm, giá nhiều
cổ phiếu trên sàn UPCoM khá rẻ nhưng vẫn không thu hút được nhiều nhà đầu tư.
Tình trạng đóng băng ở đa số cổ phiếu vẫn tiếp diễn. Kết thúc phiên giao dịch ngày
30/9, UPCoM-Index đạt 45.67 điểm, giảm 3.61 điểm tức 7.3% so với phiên giao
dịch cuối tháng 8/2010.
KLGD chỉ đạt hơn 9.3 triệu cổ phiếu ứng với GTGD gần 140 tỷ đồng, giảm
20.8% về KLGD và 23.24% về GTGD so với tháng 8/2010.
37
Tháng 10/2010:
Bước sang tháng 10/2010, thị trường vẫn tiếp tục những phiên giao dịch ảm
đạm, chỉ số UPCoM-Index tiếp tục bị mất điểm khi ở phiên cuối tháng 10 còn 42.35
điểm, giảm 3.32 điểm tức 7,27% so với phiên giao dịch cuối tháng 9/2010.
KLGD tiếp tục sụt giảm mạnh khi đạt hơn 6 triệu cổ phiếu ứng với GTGD
gần 93 tỷ đồng, KLGD và GTGD giảm tương ứng 33% so với tháng 9/2010.
Tháng 11/2010:
Ở phiên giao dịch cuối tháng 11/2010, chỉ số UPCoM-Index đóng cửa ở mức
41.18 điểm, giảm 1.17 điểm tức 2.76% so với phiên giao dịch cuối tháng 10/2010.
Tuy nhiên, tính thanh khoản đã được cải thiện đáng kể do giao dịch thỏa
thuận tăng đột biến ở phiên giao dịch ngày 08/11 lên hơn 5 triệu đơn vị, KLGD đạt
hơn 12,3 triệu cổ phiếu ứng với GTGD khoảng 157.74 tỷ đồng, tăng 99% về KLGD
và 69% về GTGD so với tháng 10/2011.
Tháng 12/2010:
Nhờ vào 4 phiên tăng điểm liên tiếp ở các phiên giao dịch cuối 2010, chỉ số
UPCoM-Index đạt 45.19 điểm tại phiên giao dịch ngày 31/12/2010, tăng 4.01 điểm
tức 9.74% so với phiên giao dịch cuối tháng 11/2010.
KLGD đạt khoảng 11.6 triệu cổ phiếu ứng với GTGD khoảng 131.76 tỷ
đồng, giảm 6% về KLGD và giảm 16% về GTGD so với tháng trước.
Như vậy sau một năm rưỡi đi vào hoạt động chỉ số UPCoM – In dex đã mất
54.01 điểm, tức giảm hơn 50% so với phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 24/6/2009.
2.1.2. Các thành viên trên thị trường UPCoM
Đến ngày 31/12/2010, hệ thống đăng ký giao dịch UPCoM có 92 CTCK
(xem phụ lục 2). Các thành viên này là thành viên giao dịch tại SGDCK Hà Nội
hoặc là các CTCK được UBCKNN cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán với
hoạt động tự doanh hoặc môi giới và đều là thành viên lưu ký cho các nhà đầu tư
đảm bảo theo đúng quy định.
Để đảm bảo được vai trò là các nhà tạo lập thị trường, các thành viên đều
trang bị điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động theo quy định:
38
¾ Có hệ thống chuyển lệnh, nhận lệnh và trạm đầu cuối đảm bảo khả năng
kết nối với hệ thống đăng ký giao dịch của SGDCK Hà Nội.
¾ Có thiết bị cung cấp thông tin giao dịch, giao dịch trực tuyến của SGDCK
Hà Nội phục vụ nhà đầu tư tại mỗi địa điểm giao dịch.
¾ Có đầy đủ các thiết bị công bố thông tin giao dịch cho khách hàng tại mỗi
địa điểm giao dịch;
¾ Có trang thông tin điện tử đảm bảo thực hiện việc công bố thông tin giao
dịch chứng khoán và thông tin công bố của CTCK.
¾ Có phần mềm phục vụ hoạt động giao dịch và thanh toán đáp ứng được các
yêu cầu kỹ thuật, nghiệp vụ và tham gia đường truyền dữ liệu dùng chung theo quy
định của SGDCK Hà Nội;
¾ Có hệ thống dự phòng trường hợp xảy ra sự cố máy chủ, đường truyền,
điện lưới;
¾ Có ban lãnh đạo và đội ngũ nhân viên có năng lực và kinh nghiệm hoạt
động trong lĩnh vực tài chính chứng khoán với tính trung thực và đạo đức nghề
nghiệp tốt...
Tuy nhiên thực tế cho thấy hầu hết các thành viên đều chưa thực hiện tốt vai
trò là các nhà tạo lập thị trường.
2.1.3. Những thành tựu, tồn tại và hạn chế của thị trường UPCoM sau
một năm rưỡi đi vào hoạt động
Qua tìm hiểu về thực trạng hoạt động của thị trường UPCoM sau một năm
rưỡi đi vào hoạt động ta thấy những thành tựu, tồn tại và hạn chế của thị trường
UPCoM như sau:
2.1.3.1. Những thành tựu đạt được:
Thị trường UPCoM được xem là trung gian giữa thị trường tự do và thị
trường niêm yết. Sau một năm rưỡi đi vào hoạt động, thị trường UPCoM đã đạt
được những thành tựu nhất định.
39
Thứ nhất, kết quả giao dịch của UPCoM trong giai đoạn đầu đã từng
bước đạt mục tiêu thu hẹp thị trường tự do, mở rộng thị trường giao dịch chứng
khoán có tổ chức và quản lý của nhà nước.
Từ 10 công ty đăng ký giao dịch đến nay trên thị trường UPCoM đã có 108
công ty. GTGD đã tăng từ 2 tỉ đồng/phiên lên hơn 10 tỉ đồng. Đặc biệt có phiên
GTGD trên UPCoM lên tới 86 tỉ đồng. Sự ra đời của thị trường UPCoM cùng với
việc UBCKNN công bố lộ trình đưa cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết
vào đăng ký tại TTLKCK cũng là động lực khiến nhiều doanh nghiệp quyết định
lựa chọn phương án niêm yết, đưa số lượng công ty niêm yết tại hai SGDCK tăng
lên 643 công ty.
Thứ hai, thị trường UPCoM ra đời tạo cho TTCK Việt Nam một diện mạo
mới và mở ra nhiều cơ hội cho các công ty chưa nêm yết.
Hiện nay có hơn 4,000 doanh nghiệp thuộc đối tượng công ty đại chúng,
trong đó số doanh nghiệp đăng ký với UBCKNN là công ty đại chúng khoảng gần
1,000 doanh nghiệp. Nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp này rất lớn, khi
chưa có thị trường UPCoM các doanh nghiệp này phải giao dịch chứng khoán trên
thị trường tự do. Thị trường UPCoM ra đời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này
có nơi giao dịch công khai và minh bạch hơn, giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế và
thương hiệu của mình, vì vậy việc huy động vốn của doanh nghiệp được dễ dàng
hơn thông qua hoạt động phát hành chứng khoán trên TTCK, đồng thời đây cũng là
bước đệm để các doanh nghiệp này tập dợt chuẩn bị lên sàn niêm yết vì hồ sơ, thủ
tục cho việc chuyển từ UPCoM lên sàn niêm yết chính thức khá đơn giản so với
doanh nghiệp chưa lên sàn UPCoM. Sau thời gian đăng ký giao dịch trên UPCoM,
cho tới nay đã có 5 công ty chuyển sang niêm yết tại HNX.
Thứ ba, thị trường UPCoM ra đời mở ra nhiều cơ hội mới cho nhà đầu tư.
Thực tế hiện nay thị trường OTC tại Việt Nam là thị trường “chợ đen”. Trên
thị trường này, giao dịch tự phát, không thanh toán tập trung, cổ phiếu không lưu
ký, việc mua bán thông qua các môi giới tự do... đã và đang mang lại nhiều rủi ro
cho nhà đầu tư. Do vậy, khi UPCoM - thị trường giao dịch chứng khoán của những
40
công ty đại chúng chưa niêm yết chính thức đi vào hoạt động đã giúp nhà đầu tư có
thêm một sân chơi công khai, minh bạch bên cạnh hai sàn niêm yết, góp phần hạn
chế những rủi ro của việc giao dịch cổ phiếu tự phát.
Tóm lại, sau một năm rưỡi đi vào hoạt động, ta thấy sự tồn tại của thị
trường UPCoM là hết sức cần thiết đối với TTCK Việt Nam. Thị trường UPCoM
đang đi đúng hướng nhưng vẫn cần có những giải pháp phát triển phù hợp dựa trên
cơ sở tiếp thu kinh nghiệm từ TTCK của các nước đi trước. Vấn đề này chắc chắn
sẽ gặp không ít khó khăn, thách thức nhưng việc tạo dựng và phát triển thị trường
UPCoM là một nhu cầu tất yếu của TTCK Việt Nam đang trên đà tăng trưởng và
phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thị trường UPCoM vẫn tồn
tại nhiều hạn chế nhất định.
2.1.3.2. Những tồn tại và hạn chế:
Sau một năm rưỡi chính thức được vận hành thị trường UPCoM còn tồn tại
những hạn chế sau:
Thứ nhất, quy mô thị trường còn rất nhỏ, không đạt được mục tiêu ban
đầu do UBCKNN đề ra.
Tính đến cuối tháng 12/2010 chỉ có 108 công ty đăng ký giao dịch trên sàn
UPCoM, một con số rất nhỏ so với mục tiêu ban đầu mà UBCKNN đưa ra là 1,000
công ty đại chúng sẽ lên sàn UPCoM trong năm 2009.
Thứ hai, thị trường UPCoM chưa thu hút được các công ty đại chúng có
chất lượng, hàng hoá còn thiếu và chưa đa dạng, giao dịch tập trung tại các mã
của các CTCK.
Hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng đều có xu hướng niêm
yết trên HoSE hoặc HNX để nâng cao uy tín và thương hiệu, còn sàn UPCoM thực
tế là sân chơi của các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ tiêu chuẩn để niêm yết
trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung.
Chỉ có một số ít mã của các doanh nghiệp lớn trên UPCoM gây được chú ý
và được giao dịch thường xuyên là: APS, TAS, VDS, API, SME... Còn lại hầu hết
41
đều là các cổ phiếu nhỏ, ít thanh khoản, thậm chí có nhiều mã không có giao dịch
trong nhiều phiên liên tiếp.
Thứ ba, thanh khoản kém, UPCOM-Index đi giật lùi.
Chính thức mở cửa ngày 24/6/2009 với 10 cổ phiếu được giao dịch,
UPCoM-Index mặc định ở mức 100 điểm và đóng cửa thị trường với hơn 1 triệu cổ
phiếu được khớp lệnh, GTGD đạt gần 19 tỷ đồng. Đến ngày 25/6 với biên độ dao
động là +/-10%; UPCoM-Index đóng cửa ở mức 93.71 điểm, giảm 6.29 điểm tương
ứng 6.29%. Tổng khối lượng trong phiên này giảm mạnh 60% so với ngày đầu giao
dịch, chỉ đạt 380,277 cổ phiếu, trị giá 6,2 tỷ đồng. Tính đến phiên giao dịch cuối
tháng 12/2010 với 108 công ty đăng ký giao dịch, UPCoM-Index đạt 45.19 điểm,
mất hơn 50 điểm so với phiên giao dịch đầu tiên.
Sở dĩ thị trường UPCoM còn những tồn tại và hạn chế nêu trên là do:
Thứ nhất, cơ chế giao dịch trên UPCoM chưa thực sự phù hợp để thu hút
nhà đầu tư.
Khi mới đi vào vận hành cơ chế giao dịch trên UPCoM đã bộc lộ rõ những
hạn chế khi áp dụng phương thức thỏa thuận điện tử và thỏa thuận thông thường,
thời gian giao dịch buổi sáng bắt đầu từ 10 giờ đến 11 giờ 30. Thị trường này chưa
thực sự sôi động và chưa thu hút được sự quan tâm của doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Để cải thiện tình hình nhằm thúc đẩy thị trường UPCoM phát triển, ngày
30/6/2010, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 95/2010/TT-BTC về việc sửa đổi,
bổ sung Quy chế Tổ chức và Quản lý giao dịch chứng khoán công ty đại chúng
chưa niêm yết tại TTGDCK Hà Nội ban hành kèm theo Quyết định số
108/2008/QĐ-BTC ngày 20/11/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Được sự chấp
thuận của UBCKNN, SGDCK Hà Nội đã thay đổi phương thức giao dịch và kéo dài
thời gian giao dịch trên thị trường UPCoM kể từ ngày 19/7/2010, cụ thể:
¾ Thay thế phương thức giao dịch thoả thuận điện tử bằng phương thức giao
dịch khớp lệnh liên tục. Theo đó, HNX sẽ tổ chức giao dịch đối với chứng khoán
đăng ký giao dịch trên hệ thống UPCoM theo 2 phương thức: khớp lệnh liên tục và
thỏa thuận thông thường.
42
¾ Kéo dài thời gian giao dịch hàng ngày từ 8 giờ 30 đến 15 giờ (nghỉ từ 11
giờ 30 đến 13 giờ 30), thay vì buổi sáng từ 10 giờ đến 11 giờ 30 và buổi chiều là từ
13 giờ 30 đến 15giờ như trước đó.
¾ Điều kiện được một thành viên cam kết hỗ trợ không còn là điều kiện bắt
buộc để được giao dịch trên UPCoM.
Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2010 sau hơn năm tháng thay đổi phương thức
giao dịch, kéo dài thời gian giao dịch, sàn UPCoM vẫn không cho thấy sự chuyển
biến tích cực. Với 108 công ty lên UPCoM, thị trường này vẫn chưa thực sự tạo
được chỗ đứng và vị thế trong con mắt nhà đầu tư, thậm chí cả các công ty đại
chúng chưa niêm yết. Cụ thể:
¾ Số mã đăng ký tăng nhanh nhưng thanh khoản vẫn yếu. Mở cửa với 10
công ty đăng ký giao dịch vào ngày 24/6/2009, tổng vốn điều lệ hơn 1,285 tỷ đồng.
Đến nay, con số này tăng lên 108 công ty, tổng vốn điều lệ đạt hơn 11,326 tỷ
đồng, trong đó 77/108 công ty có vốn điều lệ dưới 80 tỷ đồng (điều kiện để niêm
yết trên HoSE) và 31/108 công ty có vốn điều lệ trên 80 tỷ đồng. Tính bình quân
toàn thị trường, vốn điều lệ các doanh nghiệp lên UPCoM là 104,8 tỷ đồng/công ty.
Con số này cho thấy, quy mô của doanh nghiệp trên UPCoM không thua kém các
sàn niêm yết. Tuy nhiên, khối lượng và GTGD trên sàn UPCoM luôn ở mức rất
thấp. Từ khi mở cửa đến nay, KLGD bình quân mỗi phiên đạt gần 520,000 đơn vị,
giá trị chỉ đạt hơn 7.6 tỷ đồng (bằng 0.054% tổng giá trị vốn hóa thị trường).
¾ Thực tế cho thấy những thay đổi trong phương thức giao dịch và thời gian
giao dịch đã không cải thiện được tình hình trên UPCoM. Tác động tích cực chỉ
xuất hiện vài ngày trước khi những thay đổi trên có hiệu lực. Ngay sau khi có tin về
sự thay đổi trên UPCoM, dòng tiền chảy mạnh vào thị trường khiến khối lượng và
GTGD tăng vọt. Nhà đầu tư tranh nhau đặt lệnh kịch trần khiến thị trường “đột
ngột” đi lên trong 11 phiên liên tiếp, hàng chục cổ phiếu tăng trần bất chấp việc quy
chế giao dịch chưa hề thay đổi do nhiều nhà đầu tư kỳ vọng việc thay đổi này sẽ
khiến UPCoM hấp dẫn hơn, các cổ phiếu sẽ được các “đội lái” để ý và làm giá. Chỉ
trong 19 phiên giao dịch (kể từ 22/6 đến 16/7), thị trường đã có 15 phiên tăng và 4
43
phiên giảm điểm. Chỉ số UPCoM-Index tăng hơn 30.57% từ mức 46.02 điểm lên
60.09 điểm, nhiều cổ phiếu trên sàn UPCoM đã tăng giá hơn 100% như NBW,
BTW, TNB...
Tuy nhiên khi sàn UPCoM chính thức thay đổi giờ giao dịch và áp dụng
phương thức khớp lệnh liên tục thì thị trường này lại liên tiếp giảm điểm. Ngay tại
phiên đầu tiên việc thay đổi được áp dụng, UPCoM-Index giảm mạnh (giảm 1.37
điểm tức 2.78%) so với phiên giao dịch ngày 16/7/2010 và kết thúc phiên giao dịch
cuối năm 2010, UPCoM-Index chỉ còn 45.19 điểm, giảm 14.9 điểm tức 25% so với
phiên giao dịch ngày 16/7/2010. KLGD cũng như GTGD giảm mạnh, ngày
16/7/2010 toàn thị trường có 2.02 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng, GTGD
tương ứng đạt 37.21 tỷ đồng thì những phiên sau đó KLGD giảm mạnh, có những
phiên chỉ có trên dưới 300,000 cổ phiếu được giao dịch.
Thứ hai, các CTCK chưa làm tốt vai trò của nhà tạo lập thị trường.
Các CTCK chưa tận dụng được ưu thế của phương thức giao dịch thỏa thuận
nên đã ảnh hưởng đáng kể đến tính thanh khoản trên thị trường này.
UPCoM được xây dựng trên nguyên tắc là thị trường OTC có tổ chức. Giao
dịch OTC với vai trò chính là các nhà tạo lập thị trường mà trung tâm là các CTCK.
Với cách tổ chức như trên UPCoM thực hiện phương thức giao dịch thỏa thuận
nhằm tạo ra tính linh hoạt và giao dịch trọn gói, nhà đầu tư khi có nhu cầu mua bán
chứng khoán có thể đề nghị ngay với CTCK từ đầu về khối lượng và giá. Tuy nhiên
trong thời gian vừa qua các CTCK chưa phát huy được hết vai trò của mình một
phần là do chưa đầu tư đúng mức về nguồn lực cho thị trường UPCoM, một phần
do còn cảm thấy rủi ro đối với những chứng khoán có tính thanh khoản thấp.
Thứ ba, cơ chế công bố thông tin đối với sàn UPCoM còn khá lỏng lẻo.
UPCoM là thị trường mới ra đời, sự quan tâm và hiểu biết của các công ty
và nhà đầu tư chưa đầy đủ. Nhiều công ty đại chúng còn quan niệm thị trường
UPCoM là thị trường của các công ty có chất lượng thấp, do đó không muốn tham
gia vì sợ ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp. Vì vậy việc minh
44
bạch thông tin là điều kiện cần thiết để nhà đầu tư và doanh nghiệp an tâm khi tham
gia UPCoM.
Tuy nhiên, nhà đầu tư thường không nắm rõ về thông tin của các doanh
nghiệp đăng ký giao dịch trên UPCoM do cơ chế công bố thông tin đối với sàn
UPCoM còn khá lỏng lẻo. Các doanh nghiệp trên UPCoM ngoài việc phải công bố
thông tin bất thường, chỉ phải thực hiện công bố báo cáo tài chính năm được kiểm
toán và báo cáo thường niên. Nhà đầu tư chỉ được đọc bản cáo bạch khi doanh
nghiệp chính thức giao dịch. Tình trạng công bố thông tin “nhỏ giọt” khiến nhà đầu
tư chỉ hiểu biết tù mù về các công ty trên sàn này. Bên cạnh đó các CTCK còn thiếu
dịch vụ hỗ trợ cung cấp thông tin cho nhà đầu tư. Rất ít báo cáo phân tích cổ phiếu
trên UPCoM. Trên website của nhiều CTCK, cơ sở dữ liệu về UPCoM cũng không
được cập nhật.
Ngoài ra, một yếu tố khác khiến UPCoM chưa thật sự hấp dẫn nhà đầu tư là
có nhiều hàng hóa có tính thanh khoản cao trên 2 sàn HoSE và HNX nên sự lựa
chọn của nhà đầu tư vẫn dành cho những cổ phiếu trên 2 sàn này chứ không phải
UPCoM. Vì thế, chỉ số UPCoM-Index đã không thể trỗi dậy được như mong muốn
của cơ quan quản lý và KLGD đến nay cũng chỉ ở mức thấp.
Với những tồn tại và hạn chế nêu trên, thực tế cho thấy thị trường UPCoM
thực sự chưa đạt được những mục tiêu mà SGDCK Hà Nội, nhà đầu tư và doanh
nghiệp kỳ vọng.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN TẬP TRUNG
2.2.1. Đánh giá hoạt động của Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí
Minh (SGDCK TP.HCM)
TTGDCK TP.HCM được thành lập theo Quyết định 127/1998/QĐ-TTg ngày
11/7/1998 và chính thức thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000.
Ngày 11/5/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 99/2007/QĐ-
TTG về việc chuyển TTGDCK TP.HCM thành SGDCK TP.HCM. Ngày 08/8/2007
45
TTGDCK TP.HCM trở thành SGDCK TP.HCM với tên giao dịch quốc tế là
Hochiminh Stock Exchange (HoSE).
Qua hơn 10 năm hoạt động kể từ phiên giao dịch đầu tiên, SGDCK TP.HCM
đã phát triển về nhiều mặt, thực hiện tốt vai trò tổ chức và vận hành các giao dịch
chứng khoán trên thị trường tập trung thông suốt, an toàn và hiệu quả.
Cụ thể các mặt đạt được như sau:
2.2.1.1. Hoạt động quản lý, điều hành thị trường
Tính đến thời điểm ngày 31/12/2010, SGDCK TP.HCM đã tổ chức thành
công 2442 phiên giao dịch. Các hoạt động giao dịch được diễn ra liên tục, thông
suốt. SGDCK TP.HCM luôn nghiên cứu các giải pháp, kiến nghị Chính phủ và
UBCKNN ban hành những chính sách, quy định kịp thời để điều tiết thị trường
nhằm từng bước hoàn thiện và tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư tham gia
mua bán chứng khoán trên thị trường.
Khi mới hoạt động, HoSE chỉ thực hiện một đợt khớp lệnh trong một phiên
giao dịch và mỗi tuần chỉ tổ chức 3 phiên giao dịch vào các ngày thứ hai, tư, sáu
trong tuần thì nay HoSE đã tăng lên 3 đợt khớp lệnh trong một phiên và mỗi tuần
thực hiện 5 phiên giao dịch. Bên cạnh đó, nếu như trước đây trái phiếu được tổ chức
giao dịch thông qua 2 phương thức là khớp lệnh và thỏa thuận, có quy định biên độ
dao động, đơn vị yết giá thì nay, căn cứ vào tình hình thị trường và kinh nghiệm
quốc tế, trái phiếu được giao dịch chỉ qua phương thức thỏa thuận, không quy định
biên độ và đơn vị yết giá.
SGDCK TP.HCM đã thực hiện giao dịch khớp lệnh liên tục từ ngày
30/7/2007 và từng bước triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng với tình
hình thị trường đang phát triển. Kể từ tháng 01/2009, SGDCK TP.HCM đã đưa hệ
thống giao dịch trực tuyến vào hoạt động.
Ban đầu, chỉ có 2 công ty niêm yết tại HoSE là REE và SAM với tổng số vốn
là 270 tỷ đồng và một vài loại trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Số
lượng chứng khoán niêm yết đã tăng dần qua các năm, đến ngày 31/12/2010 toàn
thị trường có 276 công ty niêm yết với tổng số vốn khoảng 125,833 tỷ đồng.
46
Qua hơn 10 năm đi vào hoạt động, chi số VN-Index luôn có những bước
thăng trầm, đạt đỉnh cao nhất vào ngày 12/3/2007 với 1,170 điểm, và rơi xuống đáy
sâu vào giữa tháng 02/2009 với 235 điểm.
Biến động giá cổ phiếu được phản ánh rõ nét qua biến động chỉ số VN-
Index:
ĐỒ THỊ 2.1: DIỄN BIẾN CHỈ SỐ VN-INDEX TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2010
Từ khi bắt đầu họat động cho đến năm 2005, thị trường luôn trong trạng
thái tẻ nhạt, ngoại trừ cơn sốt vào năm 2001 thì trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc
cao nhất chỉ xoay quanh mức 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến 130 điểm. Lý do
chính là do thị trường có quá ít hàng hóa, các doanh nghiệp niêm yết nhỏ, không nổi
tiếng cũng như không hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Từ đầu năm 2006 đến cuối năm 2007, giai đoạn này được mệnh danh là
“giai đoạn bùng nổ chứng khóan” trên thị trường Việt Nam với nhiều diễn biến mà
thậm chí các chuyên gia lâu năm cũng không thể dự đoán và giải thích được. VN-
47
Index chỉ khoảng 300 điểm vào đầu năm 2006 đã tăng vùn vụt lên đến gần gấp 4 lần
vào ngày 12/3/2007 khi đạt 1,170 điểm. Ngay sau đó thị trường bắt đầu đảo chiều
khi công chúng đầu tư nhận được nhiều lời cảnh báo rằng “TTCK Việt Nam đã phát
triển quá nóng”.
Từ đầu năm 2008 đến đầu năm 2009, thị trường tụt dốc không phanh. Tâm
lý nhiều nhà đầu tư rơi vào khủng hoảng và chán nản. TTCK sụt giảm nhanh chóng,
thậm chí giá cổ phiếu và chứng chỉ quỹ còn thấp hơn giá trị thực rất nhiều, kết quả
VN-Index dừng lại ở đáy sâu 235 điểm vào tháng 02/2009.
Từ những tháng cuối năm 2009 đến cuối năm 2010, thị trường có những
phiên tăng điểm ngoạn mục bên cạnh những phiên giảm điểm liên tiếp. Cụ thể trong
vòng bảy tháng từ tháng 3 đến 10/2009 thị trường đã tăng từ 235 điểm ngày
24/02/2009 lên 624 điểm ngày 22/10/2009. Tuy nhiên sau đó thị trường lại kéo dài
những phiên liên tiếp giảm điểm, đạt mức 420 điểm vào ngày 25/8/2010 và bất ngờ
tăng mạnh ở những phiên tiếp theo, đạt mức 455.08 điểm vào ngày 31/8/2010. Sau
đó thị trường lại tiếp tục những phiên tăng giảm điểm, trong đó có những phiên
giảm liên tiếp với biên độ mạnh. Kết thúc phiên giao dịch ngày 31/12/2010, chỉ số
VN-Index đạt 481.4 điểm.
BẢNG 2.2. QUY MÔ GIAO DỊCH NĂM 2010 TẠI HoSE
Khối lượng/Giá trị Khớp lệnh Thỏa thuận Tổng cộng
KLGD (cổ phiếu) 10,486,614,950 1,156,532,678 11,643,147,628
GTGD (tỷ VND) 335,525.483 40,984.883 376,510.366
Nguồn: Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM
Về việc quản lý các công ty thành viên, qua 10 năm hoạt động, số CTCK
thành viên SGDCK TP.HCM không ngừng tăng về số lượng, quy mô và chất lượng
dịch vụ. Lúc đầu chỉ có 6 CTCK, đến nay toàn thị trường đã có 102 công ty chứng
khoán đăng ký làm thành viên SGDCK TP.HCM với tổng số vốn đăng ký là 25,862
tỷ đồng. Các thành viên của SGDCK TP.HCM hầu hết được cấp giấy phép hoạt
48
động đăng ký kinh doanh với 05 nghiệp vụ gồm: môi giới, tự doanh, quản lý danh
mục đầu tư, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư.
Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư mở tại các CTCK
thành viên tăng liên tục qua từng năm. Đến cuối năm 2007, số lượng tài khoản của
các nhà đầu tư mở tại các CTCK thành viên lên tới gần 298 ngàn tài khoản, đến
cuối năm 2008 đã lên tới gần 400 ngàn tài khoản và tính đến cuối năm 2010 số
lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các CTCK đã lên tới trên 500 ngàn tài khỏan.
2.2.1.2. Hoạt động công bố thông tin thị trường
Hoạt động công bố thông tin thị trường chiếm vị trí khá quan trọng trong
việc xây dựng một TTCK hoạt động công khai, minh bạch nhằm tạo ra một môi
trường đầu tư công bằng, cung cấp kịp thời các thông tin, dữ liệu cần thiết cho các
nhà đầu tư. Nhận thức được điều đó, một mặt SGDCK TP.HCM tăng cường, kiểm
tra giám sát việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin của công ty niêm yết, mặt
khác nâng cao chất lượng, nội dung và đa dạng hóa các phương tiện công bố thông
tin theo phương châm “đầy đủ, kịp thời, chính xác và dễ tiếp cận”. Hiện nay các
thông tin về hoạt động chứng khoán và hoạt động của các tổ chức niêm yết được
công bố thông tin theo đúng quy định và qua nhiều phương tiện như: trang Web,
bản tin TTCK, màn hình điện tử đặt tại SGDCK TP.HCM và các CTCK thành viên,
thông qua mạng Internet gửi đến các địa chỉ E-mail đăng ký, Fax và các ấn phẩm
thường niên.
2.2.1.3. Hoạt động đối ngoại
SGDCK TP.HCM đã thực hiện ký kết nhiều biên bản hợp tác với các
SGDCK các nước trên thế giới như SGDCK Luân Đôn, Thái Lan, New York (Mỹ),
Malaysia, Sinapore, CH Czech, Warsaw (Ba Lan), Tokyo (Nhật Bản), Hồng Kông
trong các lĩnh vực về hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo cán bộ cho SGDCK TP.HCM, trao đổi
thông tin giữa các SGDCK, đồng thời tạo điều kiện thực hiện niêm yết chéo giữa
các Sở trong tương lai.
49
2.2.1.4. Đánh giá chung về hoạt động của Sở Giao dịch Chứng khoán TP
Hồ Chí Minh:
Có thể nói tại thời điểm ra đời, SGDCK TP.HCM gặp nhiều khó khăn như:
hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung chưa được hoàn thiện, các văn bản điều
chỉnh trên TTCK còn nhiều bất cập, chống chéo, chưa thống nhất..., đội ngũ cán bộ
quản lý điều hành chưa có kinh nghiệm thực tiễn, sự hiểu biết của công chúng về
đầu tư chứng khoán và TTCK còn nhiều hạn chế. Mặt khác, SGDCK TP.HCM khai
trương và chính thức đi vào hoạt động trong bối cảnh đất nước chưa thoát khỏi ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực, mức đầu tư cho nền kinh tế giảm
sút, nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp chưa cao, thu nhập bình quân đầu
người còn quá thấp, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân rất ít... Tuy vậy, được sự quan
tâm rất lớn của Chính phủ, các Bộ, ngành đặc biệt là sự chỉ đạo kịp thời, hiệu quả
của UBCKNN, qua hơn 10 năm hoạt động, SGDCK TP.HCM đã phát triển về nhiều
mặt, thực hiện tốt vai trò tổ chức và vận hành các hoạt động giao dịch chứng khoán
trên thị trường tập trung. Những kết quả mà SGDCK TP.HCM đạt được trong gần
10 năm qua là nền tảng quan trọng để TTCK tiếp tục phát triển, hướng đến mục tiêu
trở thành kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2.2. Đánh giá hoạt động của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
(SGDCK Hà Nội - HNX):
SGDCK Hà Nội tiền thân là TTGDCK Hà Nội được thành lập theo Quyết
định 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ, chính thức đi
vào hoạt động từ ngày 08/9/2005 với các hoạt động chính là tổ chức thị trường giao
dịch chứng khoán niêm yết, đấu giá cổ phần và đấu giá trái phiếu.
Kể từ ngày 24/6/2009 TTGDCK Hà Nội chính thức được nâng lên thành
SGDCK Hà Nội (HNX) và đồng thời SGDCK Hà Nội sẽ thực hiện phiên giao dịch
đầu tiên trên thị trường UPCoM.
Điều kiện đăng ký giao dịch cổ phiếu tại SGDCK Hà Nội:
¾ Vốn điều lệ: từ 10 tỷ trở lên.
50
¾ Số lượng cổ đông: 100 cổ đông (kể cả cổ đông trong và ngoài doanh
nghiệp).
¾ Tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh: Có tình hình tài
chính minh bạch; có lãi trong năm liền trước năm đăng ký giao dịch.
¾ Về kiểm toán báo cáo tài chính: Báo cáo tài chính của năm liền trước năm
đăng ký giao dịch phải được kiểm tóan bởi một tổ chức kiểm toán độc lập.
Sau hơn 5 năm hoạt động, SGDCK Hà Nội đã có những bước trưởng thành
nhanh và mạnh, thu hút được sự quan tâm của doanh nghiệp và công chúng đầu tư.
Cụ thể những thành tựu SGDCK Hà Nội đạt được các thành tựu như sau:
2.2.2.1. Hoạt động quản lý điều hành thị trường
Năm 2009 và 2010 là năm ghi nhận sự lớn mạnh vượt bậc của HNX, đặc biệt
là sự kiện TTGDCK Hà Nội được nâng lên thành SGDCK Hà Nội theo Quyết định
01/2009/QĐ-TTg ngày 02/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ và thị trường UPCoM
ra đời vào ngày 24/6/2009. Từ quy mô giao dịch nhỏ với 9 công ty đang ký giao
dịch tương ứng giá trị 1,500 tỷ đồng năm 2005 thì đến ngày 31/12/2010 đã tăng lên
367 doanh nghiệp với giá trị niêm yết tương đương 63,900 tỷ đồng, quy mô giao
dịch bình quân phiên đạt gần 1,000 tỷ đồng/phiên so với mức 3.7 tỷ đồng/phiên
năm 2005.
Về biến động giá giao dịch và chỉ số HASTC-Index:
ĐỒ THỊ 2.2. DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX-INDEX TỪ 2005 ĐẾN 2010
51
Từ khi bắt đầu phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 14/7/2005 đến đầu năm
2006, chỉ số HNX-Index ít biến động, chủ yếu dao động quanh mức 100 điểm và
đóng cửa ở mức thấp nhất 89.93 điểm vào ngày 21/12/2005. Sau đó thị trường tiếp
tục có những bước thăng trầm và tăng mạnh trong quý I/2007, ghi kỷ lục cao nhất
kể từ khi hoạt động với 454.81 điểm vào ngày 09/3/2007, tăng 211.92 điểm tức
87.25% so với đầu năm.
Tuy nhiên kể từ nửa cuối tháng 3/2007 HNX-Index bắt đầu giai đoạn điều
chỉnh giảm cho đến cuối tháng 9/2007. Sang tháng 10/2007 thị trường bắt đầu tăng
mạnh nhưng chỉ đến đầu tháng 12/2007 thị trường lại tiếp tục giảm mạnh và sâu,
tạo đáy 107.76 điểm vào ngày 10/6/2008. Sau đó thị trường tăng trở lại đạt 194.87
điểm vào ngày 04/9/2008. Sang năm 2009 thị trường lại tiếp tục những phiên tăng
rồi lại giảm, chạm đáy 78.06 điểm vào ngày 24/02/2009 và chạm mốc 186.17 điểm
vào ngày 09/6/2009. Sau đó thị trường đi xuống, đặc biệt có những phiên giảm
điểm mạnh khiến HNX-Index liên tục mất điểm. Kết thúc phiên giao dịch ngày
31/12/2010 HNX-Index đóng cửa tại mức 114.24 điểm.
BẢNG 2.3. QUY MÔ GIAO DỊCH CỔ PHIẾU NIÊM YẾT TẠI HNX
TỪ KHI ĐI VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẾN HẾT 2010:
Khối lượng/Giá trị Khớp lệnh Thỏa thuận Tổng cộng
KLGD (cổ phiếu) 11,907,318,600 612,592,989 12,519,911,589
GTGD (tỷ VND) 364,866.287 18,263.689 383,129.977
Nguồn: Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
SGDCK Hà Nội thực hiện cơ chế đấu giá bán cổ phần DNNN cổ phần hoá,
bán bớt cổ phần nhà nước nắm giữ một cách công khai, minh bạch trên cơ sở cung
cấp cho công chúng đầu tư đầy đủ thông tin về doanh nghiệp để tham dự đấu giá,
khắc phục được tình trạng cổ phần hoá khép kín trong nội bộ như trước đây. Hoạt
động này được đông đảo các nhà đầu tư tham gia và hưởng ứng trong đó bao gồm
nhà đầu tư cá nhân, tổ chức cũng như nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là sự tham
52
gia rất đông đảo của các tổ chức tài chính, các quỹ đầu tư nước ngoài đã làm cho
hoạt động đấu giá tại SGDCK Hà Nội trở nên sôi động và hấp dẫn hơn.
Tính đến hết năm 2010, SGDCK Hà Nội đã tổ chức 196 phiên đấu giá với
tổng số cổ phần chào bán là 1,170,388,867 cổ phần, trong đó tổng số cổ phần trúng
giá là 819,841,312 cổ phần, đạt 70% so với tổng số cổ phần chào bán. Tổng số tiền
Nhà nước và doanh nghiệp thu được hơn 27,011 tỷ đồng, thu lợi gần 19 tỷ đồng so
với giá trị cổ phần tính theo mệnh giá. Với kết quả như trên, ta có thể thấy được
hiệu quả cũng như lợi ích khi thực hiện đấu giá phát hành chứng khoán sơ cấp
thông qua SGDCK Hà Nội.
Bên cạnh thị trường niêm yết cổ phiếu truyền thống, SGDCK Hà Nội đã tổ
chức và đưa vào hoạt động hệ thống giao dịch trái phiếu Chính phủ từ tháng 9/2009
với hệ thống giao dịch hiện đại, đáp ứng các yêu cầu đặc thù của giao dịch trái
phiếu chính phủ, phù hợp với định hướng phát triển TTCK Việt Nam và các thông
lệ quốc tế. Trong những năm qua, SGDCK Hà Nội đã hoàn thành tốt công tác đấu
thầu TPCP để huy động vốn cho ngân sách nhà nước. Với 206 phiên đấu thầu trái
phiếu chính phủ đã được tổ chức, tổng số vốn huy động cho ngân sách nhà nước là
69,388 tỷ đồng. Hoạt động đấu thầu được tổ chức thường xuyên và tập trung tại
SGDCK Hà Nội không những đã huy động được một lượng vốn đáng kể phục vụ
kịp thời cho các công trình trọng điểm của quốc gia mà còn giúp giảm được lãi suất
huy động, giảm gánh nặng trả lãi cho ngân sách Nhà nước, góp phần định hướng và
bình ổn lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Đặc biệt, trong năm 2009, SGDCK Hà Nội đã tổ chức thành công việc đấu thầu trái
phiếu chính phủ bằng ngoại tệ lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam, huy động
được hơn 460 triệu đôla với lãi suất trúng thầu bình quân 3.4%, mở ra một hướng đi
mới đầy tiềm năng trong việc huy động ngoại tệ của Chính phủ qua kênh đấu thầu
trái phiếu. Tính đến nay, số lượng trái phiếu Chính phủ niêm yết trên SGDCK Hà
Nội đã đạt số lượng 1,803 trái phiếu với quy mô thị trường trái phiếu đạt 225,188 tỷ
đồng. Thị trường trái phiếu Chính phủ đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo
các CTCK trong và ngoài nước tham gia giao dịch.
53
Về quản lý các công ty thành viên, SGDCK Hà Nội hiện có 102 CTCK – là
các CTCK được UBCKNN cấp phép kinh doanh chứng khoán đối với hoạt động tự
doanh hoặc m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_thi_truong_upcom_o_viet_nam.pdf