Đề tài Tổng quan về thẩm định rủi ro tài chính trong tín dụng dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại

Tài liệu Đề tài Tổng quan về thẩm định rủi ro tài chính trong tín dụng dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại: -1- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH RỦI RO TÀI CHÍNH TRONG TÍN DỤNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Dự án đầu tư và phân loại dự án đầu tư 1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư Ngân hàng thế giới (World Bank) - một định chế tài chính đa quốc gia rất nổi tiếng trong lĩnh vực tài trợ dự án ở khắp nơi trên thế giới đã đưa ra định nghĩa như sau về dự án: “Dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định”. Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO 8402) thì đưa ra định nghĩa: “Dự án là một quá trình bao gồm các hoạt động được phối hợp thực hiện và quản lý trong một giai đoạn xác định nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể trong điều kiện hạn chế về nguồn lực”. Ở nước ta hiện nay, theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng do Chính phủ Việt Nam ban hành thì dự án được hiểu như sau: Dự án là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở r...

pdf64 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về thẩm định rủi ro tài chính trong tín dụng dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-1- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH RỦI RO TÀI CHÍNH TRONG TÍN DỤNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Dự án đầu tư và phân loại dự án đầu tư 1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư Ngân hàng thế giới (World Bank) - một định chế tài chính đa quốc gia rất nổi tiếng trong lĩnh vực tài trợ dự án ở khắp nơi trên thế giới đã đưa ra định nghĩa như sau về dự án: “Dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định”. Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO 8402) thì đưa ra định nghĩa: “Dự án là một quá trình bao gồm các hoạt động được phối hợp thực hiện và quản lý trong một giai đoạn xác định nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể trong điều kiện hạn chế về nguồn lực”. Ở nước ta hiện nay, theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng do Chính phủ Việt Nam ban hành thì dự án được hiểu như sau: Dự án là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo cơ sở vật chất nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. Từ các định nghĩa trên đây chúng ta có thể rút ra được các yếu tố cơ bản sau đây hình thành nên một dự án đầu tư: - Các chính sách, giải pháp và đề xuất về việc bỏ vốn, chi phí hay nguồn lực phải được hoạch định, lập kế hoạch, tính toán cụ thể. - Các mục tiêu mà dự án cần phải đạt được là mục tiêu tăng trưởng, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ.. và/hoặc lợi ích kinh tế xã hội. - Dự án phải được hoàn thành trong một khoảng thời gian xác định. -2- 1.1.2. Các loại hình dự án đầu tư Tùy theo đối tượng và mục tiêu nghiên cứu người ta phân loại các dự án đầu tư theo các tiêu thức sau đây: - Căn cứ vào chủ thể đầu tư: gồm dự án đầu tư trong nước, dự án đầu tư nước ngoài. - Căn cứ vào trình tự lập dự án: Dự án tiền khả thi và dự án khả thi. - Căn cứ vào tính chất của dự án, gồm các loại: dự án độc lập, dự án phụ thuộc và dự án loại trừ (hay thay thế) lẫn nhau. - Căn cứ vào mục đích đầu tư, người ta phân loại thành dự án đầu tư mở rộng; dự án thay thế; dự án phát sinh để đáp ứng các yêu cầu về pháp lý, sức khỏe và an toàn. Đây là tiêu chí phân loại phổ biến mà chủ đầu tư và các nhà tài trợ quan tâm. + Các dự án đầu tư mở rộng: Do hầu hết các sản phẩm hiện có cuối cùng đều trở thành lỗi thời, tăng trưởng của một doanh nghiệp tùy thuộc vào việc triển khai và tiếp thị các sản phẩm mới. Điều này đưa đến việc phát sinh các đề xuất đầu tư vào nghiên cứu phát triển, đầu tư nghiên cứu thị trường, đầu tư tiếp thị thử sản phẩm và có thể ngay cả đầu tư vào các nhà máy, tài sản và thiết bị mới. + Các dự án thay thế: Nếu sản phẩm trở nên lỗi thời theo thời gian thì nhà máy, tài sản, thiết bị và các quy trình sản xuất cũng vậy. Việc sử dụng thường xuyên làm hoạt động của các nhà máy lâu năm trở nên tốn kém hơn do chi phí bảo trì cao hơn và thời gian ngưng việc nhiều hơn. Hơn nữa, việc triển khai các công nghệ mới làm cho các thiết bị hiện hữu trở nên lỗi thời về mặt kinh tế. Các yếu tố này tạo nên cơ hội cho các đầu tư tiết giảm chi phí, bao gồm việc thay thế các máy móc thiết bị cũ kỹ, lỗi thời bằng các máy móc thiết bị mời hơn có năng suất cao hơn. + Các dự án phát sinh để đáp ứng các yêu cầu pháp lý, các tiêu chuẩn sức khỏe và an toàn: Các dự án này bao gồm các đề xuất đầu tư cho những thiết bị kiểm soát ô nhiễm, an toàn lao động, bảo vệ môi trường… -3- 1.2. Thẩm định tín dụng dự án đầu tư 1.2.1. Ý nghĩa và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với dự án đầu tư Tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng, vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền tệ hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi vay cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với các tổ chức kinh tế, cá nhân khác. Đây là hình thức chủ yếu chiếm vị trí đặc biệt trong nền kinh tế. a. Ý nghĩa của tín dụng ngân hàng đối với dự án đầu tư - Trước hết đó là loại đầu tư có hoàn trả trực tiếp, do vậy nó thúc đẩy việc sử dụng vốn đầu tư tiết kiệm và có hiệu quả. - Là hình thức đầu tư linh họat có thể xâm nhập vào nhiều ngành nghề với những quy mô lớn, vừa và nhỏ, do vậy nó cho phép thỏa mãn nhiều nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới trang thiết bị, thay đổi dây chuyền công nghệ... - Đầu tư qua tín dụng là đầu tư bằng nguồn vốn tiết kiệm và tích lũy trong xã hội, vì vậy nó cho phép khai thác và sử dụng triệt để các nguồn vốn trong xã hội để tận dụng và khai thác các tiềm năng về lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên nhằm phát triển và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. b. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với dự án đầu tư Tín dụng dự án đầu tư nói riêng và tín dụng nói chung là hình thức cấp tín dụng góp phần đem lại lợi nhuận cho hoạt động ngân hàng. Ngân hàng cần nhận thức rõ rằng tín dụng dự án đầu tư là một loại sản phẩm quan trọng cung cấp cho khách hàng nhằm mục đích đem lại lợi nhuận. Việc nhận thức tín dụng như là một sản phẩm tiêu thụ nhằm mục đích sinh lợi giúp cho ngân hàng thấy được trách -4- nhiệm của mình và nỗ lực phục vụ khách hàng của mình tốt hơn. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với dự án đầu tư thể hiện ở các yếu tố chủ yếu sau: - Tài trợ vốn cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư nhằm mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn tăng trưởng mạnh, các doanh nghiệp ra đời theo luật doanh nghiệp ngày càng nhiều, nền kinh tế đang rất cần vốn cho đầu tư. Phần lớn các doanh nghiệp đang trong tình trạng máy móc thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, dẫn đến đầu tư cho chất lượng sản phẩm chưa cao, chất lượng cạnh tranh kém. - Giúp các doanh nghiệp mở rộng và phát triển thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc trước hết vào chất lượng và giá cả sản phẩm. Chất lượng và giá cả lại phụ thuộc vào công nghệ, kỹ thuật và trình độ quản lý. Muốn có được kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến đòi hỏi phải có vốn lớn. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp phải chủ động lập dự án đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ chuyên môn... Điều này chỉ có thể làm được khi có vốn. Nhờ vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng, các nhà đầu tư, doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn ngân hàng để mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư máy móc thiết bị nhằm tăng năng lực cạnh tranh. - Giúp các chủ dự án chủ động trong việc huy động và thanh toán vốn: + Để huy động vốn thực hiện dự án của mình, các doanh nghiệp có thể tiến hành kêu gọi góp vốn, liên doanh hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên các hình thức này có các hạn chế: + Phải phân chia quyền hạn và lợi ích hoặc công bố thông tin về mình hoặc đang ở trong điều kiện thị trường không có lợi cho việc phát hành. + Các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn vốn trên thị trường tài chính. + Thông qua tín dụng ngân hàng, các nhà đầu tư không lo ngại việc phải thanh toán nợ trong cùng một thời hạn như trái phiếu. Mặt khác, trong quá trình sử -5- dụng vốn, các nhà đầu tư có thể chủ động hơn trong việc sử dụng theo tiến độ xây dựng, sản xuất kinh doanh, vốn chưa sử dụng chưa phải chịu lãi vay, có thể trả nợ trước hạn và thậm chí không phải bị phạt, có thể thương lượng lại các điều khoản một cách trực tiếp với người cho vay. + Thời hạn của các khoản vay dự án thường ngắn hơn thời hạn của các trái phiếu, do đó có thể có lợi cho doanh nghiệp ở những thời kỳ lãi suất cao. + Đối với vay đầu tư dự án người đi vay không phải tốn chi phí đăng ký, chi phí bảo lãnh và chi phí bán chứng khoán ra thị trường. Vì vậy trong một số trường hợp chọn con đường đi vay sẽ có chi phí thấp hơn phát hành trái phiếu. 1.2.2. Vai trò của thẩm định tín dụng dự án đầu tư Hoạt động tín dụng đa dạng nhưng rủi ro của nó cũng được thể hiện ở nhiều mặt với nhiều mức độ khác nhau. Riêng về lĩnh vực cho vay đối với các tổ chức kinh tế được chia thành các khâu liên kết trong dây chuyền tín dụng, từ khâu quyết định cho vay, giải ngân đến khâu thu nợ. Chất lượng của các khoản tín dụng được đảm bảo khi quyết định cho vay là đúng đắn, mà một quyết định là đúng đắn khi các yếu tố liên quan đã được thẩm định đầy đủ rõ ràng.Vì thế thẩm định tín dụng không chỉ là một khâu trong quá trình hoạt động tín dụng mà còn là điều kiện tiên quyết, một yếu tố không thể thiếu tính cân nhắc của ngân hàng. a. Khái niệm Thẩm định tín dụng dự án đầu tư là việc tổ chức thu thập và xử lý thông tin một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án đầu tư làm căn cứ để quyết định cho vay. b. Vai trò của thẩm định tín dụng dự án đầu tư Thẩm định tín dụng dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng, được coi là giai đoạn khởi đầu cho quá trình đầu tư tín dụng. Qua thẩm định có thể đánh giá một cách khách quan về sự cần thiết, tính khả thi và hiệu quả của dự án, nhờ đó có biện pháp để quản lý tốt quá trình cho vay, thu nợ nhằm hạn chế các rủi ro, nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng. Mặt khác, thông qua thẩm định có thể tư vấn cho đơn vị -6- vay vốn có phương hướng và biện pháp xử lý các vấn đề liên quan đến dự án một cách tốt nhất. Giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá được sự cần thiết và tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, xác định được những lợi ích và thiệt hại của dự án khi đi vào hoạt động dựa trên các khía cạnh công nghệ, vốn, ô nhiễm môi trường và các lợi ích xã hội khác. c. Mục đích thẩm định tín dụng dự án đầu tư Đối với doanh nghiệp hay chủ đầu tư, mục đích của việc thẩm định dự án đầu tư là nhằm đánh giá dự án có khả thi hay không để quyết định đầu tư và huy động nguồn tài trợ. Còn đối với ngân hàng hay nhà tài trợ thì mục đích của việc thẩm định tín dụng đầu tư theo dự án là sử dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích nhằm kiểm tra đánh giá mức độ tin cậy và rủi ro của dự án mà khách hàng đề nghị vay vốn, nhằm phục vụ cho việc ra quyết định tín dụng. Khác với lập dự án đầu tư, thẩm định tín dụng cố gắng phân tích và hiểu được tính chất khả thi thực sự của dự án về mặt kinh tế đứng trên góc độ của ngân hàng. Khi lập dự án, khách hàng do mong muốn được vay vốn, có thể đã thổi phồng và dẫn đến ước lượng quá lạc quan về hiệu quả kinh tế của dự án. Do vậy, thẩm định tín dụng cần phải xem xét đánh giá đúng thực chất của dự án. Tuy nhiên không phải vì thế mà tín dụng ước lượng dự án một cách quá bi quan khiến cho hiệu quả dự án bị giảm sút đến nỗi quyết định không cho vay. Mục đích của thẩm định tín dụng là thu thập thông tin và đánh giá lại dự án nhằm phục vụ cho quyết định cho vay. Do vậy thẩm định tín dụng cần phải đạt được các mục tiêu sau: - Đánh giá mức độ tin cậy của dự án đầu tư mà khách hàng đã lập và nộp cho ngân hàng khi làm thủ tục vay vốn. - Phân tích và đánh giá được mức độ rủi ro của dự án khi quyết định cho vay. - Giảm xác suất của hai loại sai lầm khi quyết định cho vay: (1) cho vay một dự án tồi và (2) từ chối cho vay một dự án tốt. - Góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và giữ cho nợ quá hạn trong vòng kiểm soát. -7- 1.2.3. Các quan điểm khi thẩm định dự án đầu tư Một dự án đầu tư phải được thẩm định đầy đủ các phương diện: Thị trường - Kỹ thuật - Nhân sự và quản lý - Tài chính - Kinh tế - Xã hội. Từ các phương diện thẩm định này có thể phân chi thành các quan điểm thẩm định như: Quan điểm tài chính - Quan điểm kinh tế - Quan điểm phân phối thu nhập và Quan điểm nhu cầu cơ bản. Ngoài việc phân chia theo các quan điểm thẩm định như trên, dự án còn có thể được thẩm định theo các quan điểm của các cá nhân và tổ chức như : Chủ đầu tư, ngân hàng và các định chế tài chính khác, cơ quan quản lý ngân sách hay quốc gia. Việc thẩm định dự án theo các quan điểm khác nhau là rất quan trọng vì chúng cho phép các nhà thẩm định xác định xem các thành viên có liên quan tới dự án thấy có đáng tài trợ, đáng tham gia hay thực hiện dự án hay không. Nếu kết quả dự án là hấp dẫn đối với chủ đầu tư nhưng không hấp dẫn đối với các tổ chức tài chính hay các cơ quan quản lý ngân sách của chính quyền thì dự án có thể gặp khó khăn trong khâu xét duyệt hoặc tìm nguồn tài trợ. Ngược lại, nếu dự án là có lợi theo quan điểm của ngân hàng hay của cơ quan quản lý ngân sách nhưng không có lợi cho chủ đầu tư thì dự án có thể gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Nói tóm lại, để đảm bảo cho việc phê chuẩn và thực hiện thành công một dự án cần hấp dẫn đối với tất cả các nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan tới dự án. Dưới đây là bảng biểu diễn các quan điểm thẩm định của các chủ thể tham gia vào dự án: Quan điểm thẩm định Tài chánh Kinh tế xã hội Phân phối thu nhập Nhu cầu cơ bản Ngân hàng + - + - Chủ sở hữu + - + - Cơ quan ngân sách + - + - Quốc gia - + + + -8- Từ các quan điểm thẩm định trên đây cho thấy, thẩm định kinh tế, phân phối thu nhập và nhu cầu cơ bản là thẩm định theo quan điểm của quốc gia nên các quan điểm thẩm định này không được chủ đầu tư và ngân hàng quan tầm nhiều lắm. Ngược lại, chủ đầu tư, ngân hàng và cơ quan quản lý ngân sách quan tâm đến thẩm định theo quan điểm tài chính. Sau đây ta xem xét cụ thể từng quan điểm thẩm định nêu trên. - Quan điểm tổng đầu tư (TIPV – Total Investment Point of View): Theo quan điểm của tổng đầu tư (mà đại diện là quan điểm của ngân hàng), xem xét một dự án là nhằm đánh giá sự an toàn của số vốn vay mà dự án có thể cần. Do đó quan điểm tổng đầu tư là nhằm xác định hiệu quả sinh ra từ toàn bộ số vốn đầu tư ban đầu thông qua xem xét tới tổng dòng ngân lưu chi cho dự án (kể cả phần đóng thuế) và tổng dòng ngân lưu thu về (kể cả phần trợ cấp trợ giá). Từ sự phân tích này các ngân hàng (nhà tài trợ) sẽ xác định được tính khả thi về mặt tài chính, nhu cầu vay vốn cũng như khả năng trả nợ của dự án. Nói cách khác, quan điểm tổng đầu tư còn được xem là đại diện cho bất cứ thành viên nào muốn tham gia vào dự án. Một cách tổng quát, quan điểm tổng đầu tư có thể được diễn tả như sau: A = Lợi ích tài chính trực tiếp – Chi phí tài chính trực tiếp – Chi phí cơ hội - Quan điểm của chủ đầu tư (EPV - Equity Investment Point of View): Theo quan điểm của chủ sở hữu (còn gọi là quan điểm của chủ đầu tư hay quan điểm của cổ đông), mục đích là xem xét giá trị thu nhập ròng còn lại của dự án so với những gì họ có được trong trường hợp không thực hiện dự án, hay nói cách khác là xem xét dòng tiền còn lại có đủ bù đắp được chi phí cơ hội của vốn chủ sở hữu hay không. Khác với quan điểm tổng đầu tư, quan điểm phân tích của chủ sở hữu khi tính toán dòng ngân lưu phải tính đến, tức là phải cộng vốn vay ngân hàng cho dòng ngân lưu vào và khoản trả lãi vay và nợ gốc cho dòng ngân lưu ra. Tổng quát, dòng tiền theo quan điểm chủ sở hữu có thể diễn tả như sau: B = A + Vay - Trả nợ gốc và lãi vay -9- - Quan điểm của cơ quan quản lý ngân sách (Government Budget Point of View): Đối với cơ quan quản lý ngân sách, một dự án ra đời có thể cần được ngân sách trợ giá hay trợ cấp đối với các sản pẩhm đầu ra hay sử dụng yếu tố đầu vào của dự án và ngân sách cũng có thể thu được từ dự án các khoản phí và thuế trực tiếp hay gián tiếp. Do đó, dòng tiền theo quan điểm này có thể diễn tả như sau: C = Phí, thuế trực tiếp và gián tiếp - Trợ giá, trợ cấp trực tiếp và gián tiếp - Quan điểm của nền kinh tế (Economic Point of View): Khi sử dụng phân tích kinh tế để tính toán mức sinh lợi của dự án theo quan điểm của toàn quốc gia, các nhà phân tích sử dụng “giá cả kinh tế” để xác định giá trị thực của các yếu tố nhập lượng và xuất lượng của dự án. Những giá cả kinh tế này có tính đến thuế và trợ cấp. Ngoài ra còn phải tính đến các ngoại tác tích cực và tiêu cực mà dự án gây ra. Một số dự án thuộc lĩnh vực công như: bệnh viện, trường học, công viên, cơ sở hạ tầng, đường giao thông miễn phí…, thẩm định dự án về mặt tài chính có rất ít hoặc không có ý nghĩa mà chủ yếu là thẩm định về mặt kinh tế. Lợi ích ròng của dự án theo quan điểm nền kinh tế có thể diễn tả như sau: D = Tổng lợi ích kinh tế - Tổng chi phí kinh tế - Quan điểm phân phối thu nhập (Social Distribution Point of View): Theo quan điểm này, nhà thẩm định tính toán lợi ích tài chính ròng mà dự án mang lại cho những nhóm đối tượng khác nhau khi họ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi dự án sau khi đã trừ chi phí cơ hội của họ. Thẩm định phân phối thu nhập được xây dựng trên cơ sở của thẩm định kinh tế và tài chính có tính đến các ngoại tác do dự án mang lại làm thay đổi thu nhập của các đối tượng khác nhau trong xã hội. - Quan điểm nhu cầu cơ bản (Basic Needs Point of View): Theo quan điểm này, các nhà thẩm định quy ra một lợi ích ngoại tác khi dự án tạo ra được một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ đáng khuyến khích như giáo dục, y tế hay dinh dưỡng và trong trường hợp đó, nhà thẩm định sẽ cộng thêm một -10- khoản tiền thưởng cho mỗi giá trị hàng hóa gia tăng đáp ứng nhu cầu cơ bản của xã hội. Ngược lại, nếu dự án tạo ra một sản phẩm hay dịch vụ đáng trách cho xã hội chẳng hạn như thuốc lá thì sẽ quy ra một khoản tiền phạt cho mỗi đơn vị giá trị hàng hóa gia tăng gây hại cho xã hội. 1.2.4. Các nội dung của thẩm định tín dụng dự án đầu tư Thẩm định tín dụng nói chung và thẩm định tín dụng đầu tư theo dự án nói riêng được khái quát qua các nội dung sau: - Thẩm định tính pháp lý, tư cách của đơn vị vay vốn. Căn cứ thẩm định là dựa trên cơ sở hồ sơ pháp lý do khách hàng cung cấp, thông qua phỏng vấn, hồ sơ lưu trữ… Đây là yếu tố mang tính tiền đề khi ra quyết định tín dụng. - Thẩm định tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của đơn vị vay vốn. Cơ sở thẩm định là tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp, phân tích tình hình tài chính dựa trên các báo cáo tài chính gồm các nhóm chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu thanh toán; nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn; nhóm chỉ tiêu lợi nhuận; nhóm chỉ tiêu cơ cấu tài chính. Đây là yếu tố mang tính tham khảo khi ra quyết định tín dụng. - Thẩm định dự án đầu tư. Đây là yếu tố mang tính quyết định khi ra quyết định tín dụng. - Thẩm định tài sản đảm bảo. Đây là yếu tố mang tính dự phòng khi ra quyết định tín dụng. 1.3. Thẩm định rủi ro tài chính dự án đầu tư 1.3.1. Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư Một dự án đầu tư được đánh giá là rất tốt khi dự án đó phải tạo ra được mức lợi nhuận tuyệt đối - tức khối lượng của cải ròng lớn nhất; có tỷ suất sinh lời cao – ít nhất phải cao hơn lãi suất vay hoặc tỷ suất sinh lời mong muốn hoặc tỷ suất chiết khấu bình quân ngành hoặc thị trường; khối lượng và doanh thu hòa vốn thấp và dự án phải nhanh chóng thu hồi vốn - để hạn chế những rủi ro bất trắc. -11- Xuất phát từ suy nghĩ đơn giản và thông thường đó, người ta có những tiêu chuẩn tương ứng dùng để thẩm định tính hiệu quả của dự án. Có nhiều tiêu chuẩn khác nhau được dùng để đánh giá kết quả dự kiến của các dự án đầu tư nhưng trên thực tế có ba chỉ tiêu được sử dụng nhiều nhất trong thẩm định dự án đầu tư đại diện cho các tiêu chuẩn hiệu quả về mặt tuyệt đối, tương đối và thời gian, đó là các tiêu chuẩn: hiện giá ròng - NPV; tiêu chuẩn tỷ suất sinh lời nội bộ - IRR và tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn đầu tư. a. Tiêu chuẩn hiện giá ròng – NPV - Đây là chỉ tiêu cơ bản dùng để đánh giá hiệu quả của một dự án đầu tư vì nó thể hiện giá trị tăng thêm mà dự án mang lại cho công ty. NPV là tổng hiện giá ngân lưu ròng của dự án với suất chiết khấu thích hợp. NPV được sử dụng rộng rãi trong thẩm định hiệu quả tài chính dự án. ∑ = += n t t t r NCFNPV 0 )1( Trong đó: NCFt là ngân lưu ròng năm thứ t; r là suất chiết khấu của dự án; n là tuổi thọ của dự án; - Ý nghĩa của NPV: + Với cùng một suất chiết khấu, dự án nào có NPV lớn chứng tỏ dự án đó có hiệu quả hơn vì nó tạo ra giá trị lớn hơn cho công ty. + Một dự án có NPV>0 có nghĩa là dự án có suất sinh lời cao hơn chi phí cơ hội của vốn (suất sinh lời của dự án cao hơn suất chiết khấu). + Một dự án có NPV=0 có nghĩa là dự án có suất sinh lời bằng chi phí cơ hội của vốn (suất sinh lời của dự án bằng suất chiết khấu). + Một dự án có NPV<0 có nghĩa là dự án có suất sinh lời thấp hơn chi phí cơ hội của vốn (suất sinh lời của dự án nhỏ hơn suất chiết khấu). Nói chung dự án chỉ đáng đầu tư khi nào có NPV>0 và chỉ khi ấy thu nhập từ dự án mới đủ trang trải chi phí và mang lại lợi nhuận tăng thêm cho nhà đầu tư. -12- Sử dụng chỉ tiêu NPV để quyết định có nên đầu tư dự án hay không nói chung có các ưu điểm sau: Có tính đến thời giá của tiền tệ; xem xét toàn bộ ngân lưu của dự án; đơn giản và có tính chất cộng: NPV(A+B) = NPV(A) + NPV(B); có thể so sánh giữa các dự án có quy mô khác nhau. Tuy nhiên, chỉ tiêu NPV cũng có nhược điểm là việc tính toán xác định chỉ tiêu này phụ thuộc vào suất chiết khấu, do đó đòi hỏi phải quyết định tỷ suất chiết khấu phù hợp mới áp dụng tiêu chuẩn này được. b. Tiêu chuẩn tỷ suất sinh lời nội bộ - IRR Tỷ suất sinh lời nội bộ là tỷ lệ chiết khấu tại đó giá trị hiện tại của dòng tiền vào tương đương với dòng tiền ra. Nói cách khác, nó là tỷ lệ chiết khấu sao cho giá trị hiện tại của thu nhập từ dự án tương đương với giá trị hiện tại của đầu tư và NPV=0. ∑ = =+= n t t t IRR NCFNPV 0 0 )1( IRR chính là tỷ suất sinh lời thực tế của dự án đầu tư. Vì vậy một dự án được chấp nhận khi tỷ suất sinh lời thực tế của nó (IRR) bằng hoặc cao hơn tỷ suất sinh lời yêu cầu (suất chiết khấu). Sử dụng chỉ tiêu IRR để quyết định có nên đầu tư dự án hay không nói chung có ưu điểm là có tính đến thời giá tiền tệ, có thể tính IRR mà không cần biết suất chiết khấu, tính đến toàn bộ ngân lưu. Tuy vậy, phương pháp này có nhược điểm là có thể một dự án có nhiều IRR khi dòng ngân lưu đổi dấu nhiều lần. Cùng với NPV, chỉ tiêu IRR được sử dụng rộng rãi trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư. c. Tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn – PP – Payback Period Thời gian hoàn vốn là thời gian để ngân lưu tạo ra từ dự án đủ bù đắp chi phí đầu tư ban đầu. Cơ sở để chấp nhận dự án dựa trên tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn là thời gian hoàn vốn phải thấp hơn hoặc bằng thời gian hoàn vốn yêu cầu hay còn gọi là ngưỡng thời gian hoàn vốn. -13- Có hai phương pháp tính thời gian hoàn vốn là thời gian hoàn vốn không chiết khấu và thời gian hoàn vốn có chiết khấu. - Phương pháp thời gian hoàn vốn không chiết khấu. 1 0 + =∑+= n n t t NCF NCF nPP Trong đó: n là số năm để ngân lưu tích lũy của dự án <0, nhưng ngân lưu tích lũy sẽ dương khi đến năm thứ n+1. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản nhưng nó không xét đến dòng ngân lưu sau thời gian hoàn vốn và không quan tâm đến giá trị tiền tệ theo thời gian. Để khắc phục được nhược điểm này người ta thường dùng phương pháp thời gian hoàn vốn có chiết khấu (DPP – Discount Payback Period). Việc tính toán thời gian hoàn vốn có chiết khấu cũng giống như phương pháp tính thời gian hoàn vốn không chiết khấu nhưng dựa trên dòng ngân lưu có chiết khấu. Một dự án được chọn là dự án mang lại lợi nhuận tuyệt đối - tức khối lượng của cải ròng lớn nhất (NPV lớn nhất). Tuy nhiên nguồn lực nói chung theo quy luật ngày một khan hiếm, vì vậy phải xem xét dự án tạo ra lợi nhuận lớn nhất ấy đã phải sử dụng mức vốn đầu tư là bao nhiêu. Hiệu quả mà dự án mang lại có thật thỏa đáng hay không khi so sánh với cùng mức vốn đầu tư như vậy nếu đầu tư vào một dự án khác. Để giải quyết các câu hỏi trên người ta sử dụng chỉ tiêu so sánh tương đối: Chỉ số lợi nhuận - PI. d. Chỉ số lợi nhuận (PI – Profibility Index) Chỉ số lợi nhuận hay còn gọi là tỷ số lợi ích - chi phí (B/C – Benefit-Cost Ratio) là tỷ số giữa tổng hiện giá của lợi ích ròng chi cho tổng hiện giá của chi phí đầu tư ròng của dự án. I PVPI = Chỉ tiêu PI cũng có những ưu nhược điểm như chỉ tiêu NPV. Tuy nhiên chỉ tiêu NPV là số đo tuyệt đối của lợi nhuận hay của cải gia tăng từ dự án, trong khi PI là số đo tương đối biểu thị lợi nhuận tạo ra trên một đồng vốn đầu tư. -14- 1.3.2. Rủi ro tài chính và sự cần thiết phải phân tích rủi ro tài chính trong tín dụng dự án đầu tư a. Rủi ro tài chính trong tín dụng dự án đầu tư Rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn và được định nghĩa như là sự khác biệt giữa giá trị thực tế và giá trị kỳ vọng khi đánh giá một chỉ tiêu nào đó. Giá trị kỳ vọng chính là giá trị trung bình có trọng số của một biến nào đó, chính là xác suất xảy ra giá trị của biến đó. Nói đến rủi ro tức là nói đến quan hệ giữa giá trị của một biến nào đó so với kỳ vọng của nó. Như vậy, rủi ro đối với các chỉ tiêu của dự án đầu tư (như là NPV, IRR...) chính là sự sai biệt của giá trị thực tế so với giá trị kỳ vọng của các chỉ tiêu này. Với cách tiếp cận đó chúng ta có thể thấy rằng việc thẩm định rủi ro các chỉ tiêu tài chính của dự án đầu tư cần thiết phải tính đến sự biến động của các biến rủi ro ảnh hưởng dẫn đến sự sai biệt giữa giá trị kỳ vọng và giá trị thực tế của các chỉ tiêu tài chính của dự án. Đây chính là mấu chốt của việc đánh giá mức độ rủi ro tài chính của dự án. Có nhiều biến rủi ro ảnh hưởng ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của dự án, trong đó các biến thường tác động nhiều nhất là sự thay đổi của giá bán, sản lượng tiêu thụ, thay đổi giá cả nguyên vật liệu, yếu tố lạm phát, tỷ giá hối đoái, công suất hoạt động... b. Sự cần thiết phải thẩm định rủi ro tài chính dự án đầu tư Người ta thường nói: “có một điều chắc chắn là không có gì chắc chắn cả”. Mặc dù trước khi ra quyết định cho vay, ngân hàng đã tiến hành thẩm định các yếu tố kỹ càng và khoa học, nhưng khả năng thu hồi vốn của dự án còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa và chẳng ai biết chắc được chuyện gì sẽ xảy ra cho đến khi nó thực sự xảy ra. Vì thế quyết định tín dụng dự án đầu tư là một quyết định rủi ro. Chúng ta không thể loại bỏ được rủi ro nhưng có thể phân tích, đánh giá mức độ rủi ro nhằm kiểm soát và hạn chế được rủi ro. -15- Thẩm định rủi ro tài chính dự án đầu tư bắt đầu từ việc nhận định các yếu tố rủi ro, phân tích rủi ro cho đến dự báo các yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính dự án, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp để quản lý và hạn chế rủi ro. Việc phân tích rủi ro tài chính dự án sẽ giúp cho công tác thẩm định nhận biết các dự án xấu, hiệu quả không chắc chắn. Qua phân tích rủi ro sẽ xác định mức độ chắc chắn về hoạt động của dự án, tạo cơ sở cho việc quản lý rủi ro bằng cách phân tán, chia sẻ rủi ro thông qua các yếu tố tính toán của hợp đồng trong quá trình thực hiện đầu tư và vận hành dự án. Thị trường vốn ngày càng phát triển đa dạng sẽ giúp cho các ngân hàng dễ quản lý các rủi ro này hơn. Sự phát triển các thị trường phái sinh như hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn và tương lai cho phép các ngân hàng sắp xếp đưa ra các chiến lược tự bảo hiểm để giảm thiểu những thay đổi không thể đoán được ở các thị trường tài chính. 1.3.3. Các phương pháp phân tích rủi ro Phân tích rủi ro tài chính dự án đầu tư có thể dựa trên các phương pháp: a. Phương pháp phân tích độ nhạy - Nội dung: Phân tích độ nhạy là xem xét mức độ nhạy cảm của các kết quả khi có sự thay đổi giá trị của một hay một số tham số đầu vào. Nếu biến nào thay đổi mà không ảnh hưởng đến kết quả thì các biến này không được dùng trong phân tích rủi ro. Phân tích độ nhạy giúp người ra quyết định trả lời câu hỏi “cái gì xảy ra nếu như… ", giúp đánh giá được các biến số quan trọng, đó là biến số có ảnh hưởng nhiều đến kết quả và sự thay đổi của biến số có nhiều tác động đến kết quả. Phân tích độ nhạy gồm hai loại: + Phân tích độ nhạy một chiều: Phân tích sự thay đổi của một biến rủi ro ảnh hưởng đến kết quả dự án. Ví dụ như phân tích mức độ nhạy cảm của mức biến động của giá bán sản phẩm đến chỉ tiêu NPV của dự án. + Phân tích độ nhạy hai chiều: Phân tích sự thay đổi của hai biến rủi ro cùng lúc để đánh giá mức độ ảnh hưởng đến kết quả dự án. Ví dụ như phân tích -16- đồng thời sự biến động của chi phí nguyên vật liệu và giá bán ảnh hưởng đến chi tiêu NPV hay IRR của dự án. - Ưu và nhược điểm của phương pháp phân tích độ nhạy: Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản và dễ dàng áp dụng. Về kỹ thuật phân tích, nhờ có Microsoft Excel, những người thường xuyên sử dụng bảng tính như trong thẩm định dự án dễ dàng sử dụng kỹ thuật này bằng lệnh Table trong thanh công cụ Data. Tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của phân tích độ nhạy là chỉ xem xét từng tham số trong khi kết quả lại chịu tác động của nhiều tham số cùng một lúc và không trình bày được xác suất xuất hiện của các tham số và xác suất xảy ra của các kết quả. Phân tích độ nhạy là loại phân tích “tất định” ở trạng thái tĩnh. Mỗi lần thử chỉ xem xét sự thay đổi của một biến (đối với phân tích độ nhạy hai chiều là hai biến) và giả định các biến còn lại là không đổi. Tuy nhiên trong thực tế rất khó xảy ra trường hợp lý tưởng như vậy. Do đó nó không đưa ra một quy tắc rõ ràng giúp các nhà thẩm định đưa ra quyết định chấp nhận hay loại bỏ dự án. Phân tích độ nhạy chỉ giúp “xem và hình dung” mà không đưa ra một kết quả rằng dự án có đáng được thực hiện hay không về mặt tài chính để làm cơ sở ra quyết định tín dụng. Điều này đòi hỏi phải có một mô hình phân tích sự thay đổi đồng thời của nhiều tham số. b. Phương pháp phân tích tình huống (Scenario Analysis): - Nội dung: Phân tình huống hay còn gọi là phân tích kịch bản giúp xem xét sự thay đổi dòng ngân lưu của một tổ hợp các biến có mối tương quan nhau. Phân tích tình huống dựa trên quan điểm các biến có tương quan lẫn nhau và biến động theo chiều hướng thuận lợi hay bất lợi cho dự án. Theo đó một tập hợp của nhiều biến rủi ro được chọn do được đánh giá là mang nhiều rủi ro nhất và được sắp đặt theo các tình huống: lạc quan, trung bình và bi quan. Mục đích là xem xét kết quả của dự án trong các tình huống tốt nhất (ví dụ giá bán cao nhất, chi phí thấp nhất, lạm phát thấp nhất…), trường hợp trung bình, trường hợp xấu nhất (giá bán thấp nhất, chi phí cao nhất, lạm phát cao nhất…). Như vậy, muốn có kết quả cho mỗi tình huống ta phải tiến hành tính toán lại kết quả dự án theo các dữ liệu của -17- từng kịch bản. Về kỹ thuật phân tích tình huống, nhờ có Microsoft Excel, người thẩm định dự án dễ dàng sử dụng kỹ thuật này bằng lệnh Scenario trong thanh công cụ Tools. - Nhược điểm: Phân tích kịch bản cũng là dạng phân tích tất định, nó có hạn chế là không thể xác định được cho tất cả các trường hợp kết hợp lẫn nhau giữa các yếu tố. Để khắc phục các nhược điểm của hai phương pháp nêu trên, người ta đã xây dựng phương pháp phân tích thứ ba, đó là phương pháp phân tích mô phỏng. c. Phân tích rủi ro theo phương pháp mô phỏng Monte Carlo Mô phỏng là xây dựng những mô hình mà mỗi mô hình là một ý niệm hoặc một đại biểu của một hệ thống thực (một ý tưởng thực hay một đối tượng nghiên cứu thực). Tiến hành thử nghiệm trên các mô hình đó để đạt tới sự hiểu biết rõ ràng về hành vi của hệ thống hoặc trợ giúp để giải quyết những vấn đề ra quyết định. Ngoài mô hình tất định (deterministic) là mô hình mà ở đó, mọi dữ liệu đã được biết hoặc giả định là đã biết một cách chắc chắn (như các mô hình quy họach tuyến tính – Liner programming Models) còn có mô hình xác suất (probabilistic) là mô hình có vài dữ liệu được mô tả bởi các phân phối xác suất (probability distribution), mang tính ngẫu nhiên. Mô phỏng được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như sản xuất, quân sự, nghiên cứu vũ trụ…ví dụ như việc chạy thử một hệ thống máy móc thiết bị, cuộc tập trận hay một trò chơi quay số ở sòng bạc Monte Carlo. Phương pháp phân tích mô phỏng Monte Carlo, còn gọi là phương pháp thử nghiệm thống kê (Method of Statistics), là một phương pháp phân tích mô tả hiện tượng có chứa yếu tố ngẫu nhiên (trong dự án đầu tư là các biến rủi ro ảnh hưởng đến kết quả dự án) nhằm tìm ra lời giải đúng. Phương pháp phân tích mô phỏng Monte Carlo xuất phát từ mong muốn tìm ra quy luật để chiến thắng trong trò chơi ở sòng bạc Monte Carlo. Mỗi lần đặt tiền nhận một kết quả và ghi nhận lại (sẽ có một tổ hợp của các giả định và các kết quả) để tìm ra một chiến lược chơi và đi đến chiến thắng. -18- Phân tích mô phỏng được ứng dụng trong lĩnh vực tài chính là sự mở rộng tự nhiên của phương pháp phân tích độ nhạy và phân tích tình huống. Thực chất của phương pháp phân tích mô phỏng Monte Carlo là lấy một cách ngẫu nhiên các giá trị có thể có của các biến ngẫu nhiên ở đầu vào và tính ra một kết quả thực nghiệm của đại lượng cần phân tích. Quá trình đó lặp lại nhiều lần để có một tập hợp của các kết quả thử nghiệm, tính toán thống kê các kết quả đó để có các đặc trưng thống kê cần thiết của kết quả cần phân tích. Với sự phát triển của máy tính, mô phỏng được thực hiện nhanh chóng và chính xác nhiều bài toán phức tạp trong kinh tế cũng như nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác. Crystal Ball là một điển hình. Đó là một phần mềm mô phỏng đầy sức mạnh, tạo sự nhanh chóng và thuận lợi trong việc thực hiện các bảng tính và tiến hành các phân tích rủi ro theo mô hình xác suất. Hàng chục ngàn lần mô phỏng chỉ được thực hiện trong vài mươi giây đồng hồ. d. Kỹ thuật phân tích mô phỏng theo phương pháp Monte Carlo Kỹ thuật phân tích mô phỏng theo phương pháp Monte Carlo được thực hiện thông qua chương trình Crystal Ball. Đây là một trong những chương trình dự báo và phân tích rủi ro thân thiện với người sử dụng theo xu hướng sử dụng đồ thị, giúp loại trừ yếu tố bất định khi ra quyết định, được xây dựng và vận hành trên nền tảng của Microsoft Excel - một công cụ phân tích quen thuộc với những nhà thẩm định tài chính. Thông qua sức mạnh mô phỏng, Crystal Ball đã trở thành công cụ hiệu quả trong tay những người ra quyết định, giúp cho chủ đầu tư và nhà tài trợ có thể trả lời câu hỏi như: khả năng đạt mức lợi nhuận kỳ vọng là bao nhiêu, làm thế nào để gia tăng lợi nhuận của dự án, rủi ro (về mặt tài chính) của dự án là gì, khả năng dự án kết thúc đúng thời hạn là bao nhiêu… Khi chạy mô phỏng, Crystal Ball sử dụng phương pháp Monte Carlo để phát ra các số ngẫu nhiên cho các biến rủi ro (Crystal Ball gọi là các ô giả thiết – Assumption cells), tuân theo các khả năng của đời sống thực. Mỗi tập số ngẫu nhiên mô phỏng chỉ một kịch bản “cái gì - nếu” cho mô hình bảng tính. Khi chạy mô phỏng, đối với mỗi kịch bản, mô hình sẽ tính toán lại và các kết quả được hiển thị -19- động trong một đồ thị dự báo dễ hiểu của các biến kết quả (Crystal ball gọi là ô dự báo – Forecast cells). Đây là một quá trình lặp cho đến khi hoặc đã đạt đến tiêu chuẩn dừng hoặc mô phỏng được dừng bằng tay. Đồ thị dự báo cuối cùng phản ánh tính không chắc chắn được kết hợp của các ô giả thiết trên kết quả mô hình. - Các ưu điểm khi sử dụng phương pháp mô phỏng Monte Carlo trong phân tích rủi ro dự án: + Mô phỏng Monte Carlo cho phép phân tích cùng một lúc rất nhiều các biến rủi ro và mối tương quan giữa chúng ảnh hưởng đến kết quả phân tích để đưa bài toán đến gần với thế giới thực hơn. + Phân tích độ nhạy và thể hiện bằng đồ thị độ nhạy trong quá trình chạy mô phỏng, giúp dễ dàng dự báo và đánh giá được độ mạnh của các biến rủi ro ảnh hưởng đến kết quả dự án như thế nào nhằm đưa ra giải pháp quản lý rủi ro thích hợp. + Sử dụng quá trình mô phỏng Monte Carlo, Crystal Ball mô tả các kết quả trong đồ thị dự báo và trình bày toàn bộ các kết quả có thể có cũng như khả năng đạt được mỗi kết quả, giúp cho người ra quyết định có cái nhìn toàn diện hơn về kết quả cần phân tích. - Các bước xây dựng mô phỏng Monte Carlo: + Bước 1: Xây dựng mô hình toán học. Trong phân tích tài chính dự án đó là xây dựng các bảng tính thẩm định dự án từ bảng thông số đầu vào cho đến bảng kết quả ngân lưu dự án. Đây là bước quan trọng nhất trong quá trình thực hiện mô phỏng, bởi vì việc xác định giá trị các thông số kỹ thuật chính xác hay không sẽ ảnh hưởng đến kết quả toàn bộ mô hình, còn kỹ thuật tính toán được máy tính giải quyết một cách đơn giản. + Bước 2: Xác định các ô giả thiết (hay còn gọi là biến nhạy cảm và không chắc chắn hay biến rủi ro – Define Assumption) có ảnh hưởng đến kết quả cần phân tích. Các biến nhạy cảm và không chắc chắn chẳng hạn như chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, công suất máy móc thiết bị, giá bán, tỷ lệ lạm phát…Các biến này được khai báo ở bảng thông số. Các ô giả thiết ô dữ kiện ban đầu nên phải là ô không chứa các công thức tính toán. -20- + Bước 3: Định nghĩa các ô giả thiết. Bước này gồm hai nội dung: • Xác định các phân phối xác suất cho các biến nhạy cảm. Các phân phối xác suất thông thường nhất là phân phối xác suất chuẩn; phân phối xác suất tam giác; phân phối xác suất đều và phân phối xác suất bậc thang. Crystal Ball liệt kê tối đa 17 loại phân phối xác xuất trong bảng phân phối xác xuất. • Xác định các tham số (miền các lựa chọn) cho phân phối xác suất của các biến này. Việc xác định các tham số của phân phối xác suất của biến rủi ro thông qua dãy dữ liệu lịch sử của biến đó. Chẳng hạn, để xác định 2 tham số là độ lệch chuẩn và giá trị trung bình của phân phối xác xuất chuẩn của biến lạm phát, Crystal Ball căn cứ vào dãy dữ liệu quá khứ của tỷ lệ lạm phát để tính toán và gắn các tham số này cho phân phối xác suất được lựa chọn. + Bước 4: Xác định và định nghĩa tương quan giữa các biến (Correlated Assumption). Việc xác định và định nghĩa các biến có tương quan gồm hai nội dung là xác định các biến có tương quan đồng biến hay nghịch biến và xác định độ mạnh của tương quan (hệ số tương quan). Trong Crystal Ball, các giả thiết thường được tính độc lập nhau. Crystal Ball phát ra các số ngẫu nhiên đối với mỗi giả thiết mà không quan tâm đến việc các số ngẫu nhiên được phát ra sao đối với các giả thiết khác. Tuy nhiên tình trạng phụ thuộc nhau thường xảy ra giữa các biến trong hệ thống được mô hình hóa. Tính năng các giả thiết có tương quan trong Crystal Ball cho phép sử dụng các hệ số tương quan để định nghĩa sự phụ thuộc giữa các giả thiết. Crystal Ball sau đó sẽ dùng các hệ số tương quan để sắp xếp lại các số được phát ra ngẫu nhiên để tạo ra các tương quan mong muốn. Giá trị của hệ số tương quan nằm trong khoảng từ -1 đến 0 đối với tương quan nghịch biến và từ 0 đến +1 đối với tương quan đồng biến. + Bước 5: Xác định các ô dự báo (Define Forecast). Các ô dự báo thường chứa công thức tham chiếu đến một hoặc nhiều ô giả thiết. Các ô dự báo phối hợp các giá trị trong các ô giả thiết để tạo ra kết quả mong muốn. Định nghĩa một ô dự báo nghĩa là gán một tên cho một dự báo, xác định đơn vị của trị số dự báo, chọn -21- kích thước của hiển thị dự báo và chỉ định rằng có muốn thấy cửa sổ đồ thị dự báo hay không trong khi mô phỏng đang chạy. Ví dụ xác định các ô dự báo như NPV, IRR trong bảng lưu chuyển tiền tệ là các kết quả cần phân tích của dự án. Crystal Ball cho phép giới hạn thực tế bao gồm tổng cộng khoảng 1.000 giả thiết, dự báo và tương quan phối hợp cho mỗi bảng tính, nghĩa là A + F + C < 1.000 (Asumptions + Forecast + Correlated <1.000). + Bước 6: Chạy mô hình mô phỏng. Crystal Ball sử dụng kỹ thuật mô phỏng Monte Carlo để dự báo một dãy toàn bộ các kết quả mà có thể xảy ra trong trường hợp đã định nghĩa trong mô hình bảng tính. Kỹ thuật này bao gồm phát ra các số ngẫu nhiên cho các biến giả thiết, tức là thực hiện một chuỗi phân tích cho nhiều tổ hợp giá trị tham số khác nhau. Trong khi mô phỏng đang chạy, Crystal Ball hiển thị các kết quả giả thiết này trong một đồ thị dự báo để cho thấy dãy toàn thể các kết quả có thể có. Khi chạy mô phỏng ta có thể dừng, tiếp tục hoặc tái lập mô phỏng bất kỳ lúc nào. Trước khi chạy mô phỏng ta xác định số lần thử tối đa cho mỗi lần mô phỏng, chẳng hạn 1.000; 10.000 hay 100.000 lần thử… tùy theo tốc độ của máy tính. Số lần thử càng lớn độ chính xác của kết quả phân tích sẽ càng cao. + Bước 7: Phân tích các kết quả, tức là phân tích các giá trị thống kê và các phân phối xác suất. Sau khi chạy mô phỏng, Crystal Ball sẽ tạo ra các kết quả sau: • Tạo đồ thị dự báo cho mỗi ô dự báo bằng cách sử dụng các phân phối tần số. Một phân phối tần số cho thấy con số hay tần số các giá trị xảy ra trong một khoảng nhóm cho trước. Đồ thị biểu diễn các kết quả dự báo cho thấy cách thức các kết quả dự báo được phân phối và khả năng đạt được một kết quả cho trước. Cụ thể, đồ thị dự báo biểu diễn một khoảng hiển thị bao gồm tất cả các giá trị cách giá trị trung bình một khoảng bằng 2,6 lần độ lệch chuẩn (xấp xỉ 99% các giá trị dự báo) và biểu diễn khoảng chắc chắn cho dự báo là khả năng đạt được các giá trị dự báo trong một khoảng xác định nào đó. • Đồ thị độ nhạy (Sensitivity Chart): Crystal Ball sẽ xếp hạng các giả thiết theo mức độ ảnh hưởng của chúng đến kết quả phân tích thông qua đồ thị độ nhạy. Đồ thị độ nhạy giúp nhanh chóng và dễ dàng đánh giá mức độ ảnh hưởng của các ô -22- giả thiết lên một ô dự báo bất kỳ nào đó. Đồ thị độ nhạy sẽ biểu diễn các hạng này bằng đồ thị cột và chỉ ra rằng giả thiết nào là quan trọng nhất và ít quan trọng nhất đối với kết quả phân tích. Crystal Ball tính độ nhạy bằng cách tính thứ tự hệ số tương quan hạng giữa các giả thiết và các dự báo với nhau trong khi đang chạy mô phỏng. Hệ số tương quan cung cấp một đại lượng có nghĩa để đo mức độ các giả thiết và dự báo thay đổi cùng nhau. Nếu một giả thiết và một dự báo có tương quan cao có nghĩa là giả thiết đó có ảnh hưởng lớn đến dự báo thông qua cả độ không chắn chắn và độ nhạy mô hình của nó. Hệ số dương chỉ ra rằng giả thiết tăng sẽ liên quan đến dự báo tăng, hệ số âm diễn tả điều ngược lại. Hệ số tương quan có trị số tuyệt đối càng lớn thì mối quan hệ càng mạnh. Trên cơ sở đó ta có thể đánh giá được mức độ ảnh hưởng của các biến nhạy cảm đến kết quả cần phân tích để có thể đưa ra giải pháp quản lý rủi ro thích hợp. • Đồ thị phủ (Overlay Chart): Cho phép xem xét các tính chất tương đối của các dự báo trong cùng một đồ thị. Đồ thị phủ tập hợp các số liệu tần suất từ các dự báo được lựa chọn vào cùng một chỗ để có thể rút ra các nhận xét về sự khác nhau hay giống nhau giữa chúng. • Đồ thị xu hướng (Trend Chart): Cho phép xem khoảng chắc chắn của tất cả các dự báo trên một đồ thị duy nhất, tóm tắt và hiển thị thông tin từ nhiều dự báo, giúp dễ dàng phát hiện và phân tích các xu hướng có thể tồn tại giữa các dự báo có liên quan nhau. • Báo cáo (Report): Crystal Ball cho phép tạo một báo cáo sau khi chạy mô phỏng bằng cách diễn giải gồm các hạng mục: đồ thị phủ, đồ thị xu hướng, đồ thị độ nhạy, tổng kết dự báo, thông kê, đồ thị dự báo, các thông số giả thiết, đồ thị giả thiết, phân vị, đếm tần suất. Một cách tổng quát, ở góc độ ngân hàng với tư cách là trung gian trong mối quan hệ giữa chủ thể cần vốn cho đầu tư và chủ thể nhàn rỗi vốn, thẩm định tín dụng dự án đầu tư là khâu cốt lõi trong cả quá trình tài trợ dự án đầu tư nhằm đánh -23- giá và nhận diện các rủi ro nhằm đưa ra các giải pháp quản lý và kiểm soát rủi ro, trong đó thẩm định hiệu quả tài chính của dự án được xem là khâu tổng hợp của tất cả các nội dung thẩm định liên quan đến dự án. Tuy nhiên việc thẩm định hiệu quả tài chính của một dự án đầu tư không chỉ dừng lại ở việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính một cách cứng nhắc trong trạng thái tĩnh và không quan tâm đến sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố rủi ro liên quan đến kết quả cần thẩm định mà phải xem xét ở trạng thái luôn biến đổi của các yếu tố rủi ro và trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa chúng có khả năng ảnh hưởng đến kết quả của dự án. Nói đến dự án tức là nói đến những gì hình thành trong tương lai được xây dựng trên những thông tin có được trong quá khứ và hiện tại, mà một điều chắc chắn trong tương lai đó là không có gì chắc chắn cả. Do vậy việc phân tích và lượng hóa các rủi ro trong tương lai ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án là vấn đề hết sức quan trọng mà các tổ chức tín dụng cần phải quan tâm nhằm đưa ra các giải pháp hạn chế rủi ro trước khi đưa ra các quyết định tín dụng. Phương pháp phân tích mô phỏng Monte Carlo là một trong những kỹ thuật hiện đại đáp ứng được yêu cầu này. -24- CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH RỦI RO TÀI CHÍNH TRONG TÍN DỤNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2.1. Khái quát công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 2.1.1. Sơ lược quá trình phát triển của công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Trước đây trong nền kinh tế tập trung bao cấp, hệ thống ngân hàng Việt Nam là ngân hàng một cấp và cho đến cuối năm 1987 vẫn chưa có ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng huy động và chức năng cho vay, việc cho vay còn theo cơ chế ban cho, các đơn vị vay vốn chủ yếu là thành phần kinh tế quốc doanh. Đặc biệt, trong lĩnh vực cho vay đối với các công trình xây dựng cơ bản, các dự án đầu tư thì việc cho vay của ngân hàng thực hiện theo kế hoạch được duyệt, ngân hàng ít quan tâm đến tính khả thi cũng như hiệu quả của dự án. Mặt khác, việc cho vay trung dài hạn đối với các dự án đầu tư để cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, ngân hàng cũng chưa có những quy định hoặc những hướng dẫn cụ thể về phương pháp, kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư. Do vậy công tác thẩm định để cho vay đối với các dự án đầu tư còn sơ sài và chưa thống nhất. Các nội dung thẩm định chỉ nêu chung chung về sự cần thiết của dự án đầu tư cùng với một số chỉ tiêu tính toán hiệu quả kinh tế so sánh trước và sau khi đầu tư. Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, công tác thẩm định tín dụng đầu tư theo dự án tại các ngân hàng thương mại đã có một bước chuyển đáng kể. Các dự án đầu tư đã dần dần được phân tích, thẩm định trên nhiều nội dung quan trọng như yếu tố về thị trường, kinh tế xã hội, kỹ thuật và tài chính… -25- Trong thời gian này, các tài liệu về khoa học thẩm định dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu được phổ biến. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại ngày càng cao, đòi hỏi tính hiệu quả của dự án khi vay vốn, công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư ngày càng hoàn chỉnh, khoa học hơn, từng bước đã tiến dần đến hòa nhập với thế giới về kỹ thuật thẩm định. Việc tính toán các chỉ tiêu thẩm định đã quan tâm đến vấn đề giá trị thời gian của tiền tệ, quan tâm đến các chỉ tiêu đánh giá về khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ, đã phân tích được vòng đời của dự án thay vì áp đặt lịch trả nợ vay của ngân hàng. 2.1.2. Những tác động đến hoạt động tín dụng dự án đầu tư của các ngân hàng thương mại Việt Nam Có thể khái quát các thời cơ và thách thức hiện nay đối với hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng dự án đầu tư đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng như sau: - Chính sách ưu tiên đẩy mạnh xuất khẩu của Chính phủ: Để triển khai định hướng này, vừa qua Chính phủ đã thực thi hàng loạt các giải pháp như giảm thuế xuất khẩu; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư…và mới đây nhất là việc thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Theo đó trong hàng loạt các mặt hàng truyền thống chiếm tỷ trọng vay lớn của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua như gạo, thủy sản, cà phê, hạt điều, cao su, may mặc, giày da… thì nhiều mặt hàng được nằm trong danh mục được vay vốn ưu đãi giờ đây được chuyển cho quỹ hỗ trợ phát triển thực hiện. Như vậy định hướng ưu tiên đẩy mạnh xuất khẩu của chính phủ một mặt có tác động thuận lợi đến hoạt động đầu tư của các ngân hàng trong lĩnh vực xuất khẩu, đồng thời cũng là một thách thức lớn vì các ngân hàng thương mại sẽ phải đối mặt với việc chuyển dời vốn của các doanh nghiệp xuất khẩu lớn sang quỹ hỗ trợ phát triển, thị phần cho vay của các ngân hàng thương mại chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng. -26- - Xuất hiện nhân tố thuận lợi đối với các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Tình hình chính trị và trật tự xã hội tại Việt Nam đang được đánh giá có độ an toàn cao trong vùng, tốc độ phát triển kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và ổn định liên tục qua các năm, đảm bảo các điều kiện làm ăn yên ổn lâu dài. Chính vì vậy rất có khả năng các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển dịch vùng đầu tư từ các nước kém an toàn sang Việt Nam, theo đó mức tăng trưởng tín dụng cũng tiếp tục được duy trì ở mức cao. Đây vừa là mặt thuận lợi vừa là thách thức cho các ngân hàng thương mại Việt Nam đối với hoạt động tín dụng dự án đầu tư. Bảng 1: Mức tăng trưởng GDP và tín dụng từ 1999 - 2003: Năm Mức tăng trưởng GDP (%) Mức tăng trưởng tín dụng (%) 1999 4,77 24,1 2000 6,57 32,9 2001 6,84 27,1 2002 7,04 27,9 2003 7,24 26,6 2004 7,7 24 2005 (ước tính) 8,5 25 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đồ thị 1: Mức tăng trưởng GDP và mức tăng trưởng tín dụng qua các năm. Mức tăng trưởng GDP (%) - 2.00 4.00 6.00 8.00 10.00 1999 2001 2003 2005 (ước tính) -27- Mức tăng trưởng tín dụng (%) - 10.00 20.00 30.00 40.00 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 (ước tính) Tiến trình hội nhập quốc tế thông qua việc Việt Nam đang và sẽ trở thành thành viên chính thức các tổ chức AFTA, WTO… chắc chắn sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho các ngân hàng thương mại trong nước đầu tư, tài trợ vốn cho các dự án xuất nhập khẩu, nhất là cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. - Nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn: Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, các ngành công nghiệp mũi nhọn như dầu khí, điện lực, viễn thông, giao thông, xi măng, sắt thép, đóng tàu… đều đang phát triển, triển khai các dự án lớn. Nhu cầu vốn cho các dự án này là rất lớn. Tuy nhiên dư nợ tín dụng đáp ứng cho nền kinh tế thời gian qua chỉ mới đạt xung quanh 55% GDP, thấp xa so với mức trên 80% của các nước trong khu vực. Do môi trường kinh doanh được cải thiện nên thành phần kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỏ ra yên tâm hơn trong đầu tư. Tính chung trong gần bốn năm qua có gần 80.000 doanh nghiệp được thành lập trong cả nước. Các hộ nông dân phát triển theo xu hướng hình thành các trang trại trồng cây công nghiệp, nuôi trồng theo phương pháp công nghiệp… Nhu cầu vốn tăng lên nhanh chóng và các khoản vay ở dạng dự án cũng tăng lên nhanh chóng. -28- - Chủ trương nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng thương mại trong đầu tư cho vay: Cơ chế chính sách của Nhà nước tiếp tục được ban hành theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các ngân hàng thương mại trong việc cấp tín dụng đến khách hàng. Đặc biệt là Quyết định 1627/QDĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Ngân hàng Nhà nước về quy chế cho vay; Nghị định 85/2002/NĐ- CP của Chính phủ và Thông tư 07/2003/TT-NHNN ngày 19/5/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về hướng dẫn thực hiện cơ chế bảo đảm tiền vay; Luật sửa đổi luật tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 1/10/2004 theo hướng giao quyền chủ động nhiều hơn cho các tổ chức tín dụng. Như vậy định hướng đa dạng hóa khách hàng, đa dạng hóa danh mục đầu tư của các ngân hàng thương mại có điều kiện tốt để triển khai. - Xu hướng phát triển của nền kinh tế: Xu hướng chuyển sang đầu tư dự án, mở rộng sản xuất kinh doanh thay vì đơn thuần kinh doanh thương mại tiếp tục phổ biến và có hướng phát triển nhanh trong thời gian tới của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại cho vay các dự án trung dài hạn nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức trong quản trị thanh khoản và cân đối vốn. Định hướng chiến lược của Nhà nước là phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn. Đây chính là cơ hội để các ngân hàng thương mại thực hiện việc cho vay trung dài hạn đối với các dự án trọng điểm của Nhà nước, nhưng cũng là thách thức trong việc thẩm định và đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn. - Mức độ cạnh tranh cho vay giữa cá ngân hàng thương mại ngày càng trở nên gay gắt: Mặc dù nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn song nhìn chung do tình hình tài chính của các doanh nghiệp chưa thực sự mạnh, phát triển sản xuất kinh doanh chưa ổn định, năng lực quản trị còn yếu kém… Vì vậy số lượng các dự án kinh doanh khả thi và hiệu quả không nhiều. Trong khi đó lãi suất huy động vốn của các -29- ngân hàng thương mại ngày càng manh tính cạnh tranh vì vậy ảnh hưởng đến tình hình tài chính của mỗi ngân hàng cũng như của chung các ngân hàng thương mại. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động tín dụng đầu tư dự án, ngoài những khách hàng chủ yếu là doanh nhiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian tới các ngân hàng này sẽ mở rộng sang các đối tượng cho vay khác nhằm cạnh tranh, giành giật thị phần từ hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng, vốn là các ngân hàng có thế mạnh trong lĩnh vực này. 2.2. Thực trạng công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 2.2.1. Những hiệu quả đạt được từ tín dụng dự án đầu tư a. Đáp ứng vốn cho nền kinh tế Trong những năm qua công tác thẩm định dự án đã góp phần cung ứng vốn tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn cho nền kinh tế. Điều này thể hiện ở tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn ngày càng tăng trong tổng dư nợ của toàn nền kinh tế. Bảng 2: Cơ cấu tín dụng phân theo thành phần kinh tế và thời hạn tín dụng từ năm 1999 -2003: Đơn vị tính: tỷ đồng Theo thời hạn tín dụng Năm Tổng dư nợ tín dụng Ngắn hạn Tỷ trọng (%) Trung dài hạn Tỷ trọng (%) 1999 139.180 89.120 64,3 49.896 35,7 2000 184.936 118.359 64 66.577 36 2001 225.704 142.194 63 83.510 37 2002 286.644 171.985 60 114.665 40 2003 365.300 212.970 58,3 152.330 41,7 (Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) -30- Đồ thị 2: Cơ cấu tín dụng 0 10 20 30 40 50 60 70 1999 2000 2001 2002 2003 Tỷ trọng ngắn hạn (%) Tỷ trọng trung dài hạn (%) Bảng trên cho thấy dư nợ tín dụng ngày càng tăng qua các năm, trong đó dư nợ tín dụng trung dài hạn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng dư nợ, góp phần đáp ứng vốn cho hoạt động và tăng trưởng của toàn nền kinh tế. Kết quả đó có sự đóng góp một phần rất lớn từ công tác thẩm định dự án đầu tư vì một trong những vấn đề cốt lõi quyết định hiệu quả công tác cho vay đầu tư dự án đó là chất lượng công tác thẩm định trong toàn bộ quy trình tín dụng. Bảng 3: Tỷ trọng dư nợ trung dài hạn trong tổng dư nợ tại các Ngân hàng thương mại Nhà nước: Đơn vị tính: % Tên ngân hàng / Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 NH NN&PTNT 39,0 42,0 42,8 42 41,5 44,1 NH Đầu tư & Phát triển 54,0 51,0 52,0 53 49 47 NH Công Thương 20,0 25,2 30,6 40,0 41,4 40,4 NH Ngoại Thương 30,0 19,7 16,8 35 45 48,0 Nguồn: Báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại Nhà nước -31- Đồ thị 3: Tỷ trọng dự nợ trung dài hạn của các ngân hàng thương mại Nhà nước: 0.0% 10.0% 20.0% 30.0% 40.0% 50.0% 60.0% 1999 2000 2001 2002 2003 2004 NH NN&PTNT NH Đầu tư & Phát triển NH Công Thương NH Ngoại Thương b. Các ngân hàng thương mại đã xây dựng quy trình tín dụng mang tính khoa học Trước năm 2004 tại các ngân hàng thương mại nhà nước chưa có ngân hàng nào xây dựng sổ tay tín dụng một cách thống nhất và khoa học mà chỉ là tập hợp các văn bản hay tài liệu hướng dẫn. Cho đến năm 2004 các ngân hàng thương mại Nhà nước đã xây dựng được sổ tay (hay cẩm nang) tín dụng, trong đó đã thiết lập được quy trình tín dụng nói chung và tín dụng theo dự án nói riêng một cách có hệ thống và khoa học, toàn bộ là phiên bản 1. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đưa vào lưu hành tháng 9/2004; Ngân hàng Công Thương Việt Nam lưu hành tháng 10/2004; Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long lưu hành đầu năm 2004; Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đưa vào lưu hành từ tháng 1/2004; Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam lưu hành tháng 7/2004. c. Ứng dụng sự phát triển của công nghệ thông tin và khoa học thẩm định dự án đầu tư Trong vài năm trở lại đây, sự phát triển của ngành công nghệ thông tin đã hỗ trợ rất nhiều cho công tác thẩm định dự án đầu tư, nhất là nguồn thông tin phục vụ thẩm định thông qua Internet. Thông qua Inernet, nguồn thông tin và dữ liệu từ các lĩnh vực, ngành nghề được cập nhật phong phú, đa dạng và dễ dàng truy cập đã tạo -32- điều kiện thuận tiện cho việc tìm kiếm, truy cập thông tin về các yếu tố liên quan đến dự án đầu tư phục vụ cho công tác thẩm định. Bên cạnh đó, thông tin về khách hàng, tình hình tài chính và tình hình quan hệ tín dụng từ trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước (CIC) đã có thể được truy cập một cách trực tiếp giúp cho việc nắm bắt thông tin về khách hàng một cách khá hiệu quả và nhanh chóng. Việc áp dụng sự phát triển của môn khoa học thẩm định dự án cũng đã góp phần hỗ trợ và nâng cao khả năng thẩm định dự án đầu tư của các ngân hàng thương mại và kỹ năng thẩm định của cán bộ thẩm định. Thẩm định tài chính dự án đã tính đến giá trị tiền tệ theo thời gian, tính đến yếu tố thị trường… 2.2.2. Những hạn chế trong công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư a. Quy mô và hiệu quả của tín dụng dự án đầu tư còn thấp - Về quy mô tín dụng: Bảng 4: Cơ cấu dư nợ phân theo thành phần kinh tế từ năm 1999 – 2003: Đơn vị tính: Tỷ đồng Theo thành phần kinh tế Năm Tổng dư nợ tín dụng Quốc doanh Tỷ trọng (%) Ngoài quốc doanh Tỷ trọng (%) 1999 139.180 103.506 75 35.510 25 2000 184.936 136.853 74 48.083 26 2001 225.704 165.862 73,5 59.812 26,5 2002 286.644 209.250 73,3 77.394 26,7 2003 365.300 260.824 71,4 104.476 28,6 (Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). -33- Đồ thị 4: Tỷ trọng dư nợ theo thành phần kinh tế 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 1999 2000 2001 2002 2003 Tỷ trọng quốc doanh (%) Tỷ trọng ngoài quốc doanh (%) Bảng trên đây cho thấy dư nợ cho vay thành phần kinh tế quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu (hơn 70%) mặc dù có xu hướng giảm dần nhưng không nhiều. Điều đó một phần cho thấy với tỷ trọng dư nợ trung bình khoảng 40% trong tổng dư nợ, tín dụng trung dài hạn chưa nâng cao khả năng đáp ứng vốn cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhằm góp phần thúc đẩy thành phần kinh tế này phát triển, mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất. - Về chất lượng tín dụng: Bảng 5: Tỷ lệ nợ quá hạn theo đánh giá của Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF qua các năm (tỷ lệ %): Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Toàn hệ thống 13,2 13,1 9,3 9,25 8,02 NHTM Nhà nước 11,1 11,0 9,1 8,7 7,20 NH TMCP 23,0 24,4 23,8 22,4 20,4 NHLD& Chi nhánh nước ngoài 0,42 0,51 0,55 0,52 0,50 Nguồn: Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp bộ: Những giải pháp chủ yếu và bước đi cho quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam (số liệu: IMF). -34- Đồ thị 5: Tỷ lệ nợ quá hạn 0.00 5.00 10.00 15.00 20.00 25.00 1999 2000 2001 2002 2003 Toàn hệ thống NHTM Nhà nước NHTM Cổ phần NHLD & Chi nhánh nước ngoài Theo số liệu về nợ quá hạn của IMF như trên thì tỷ lệ nợ quá hạn của toàn nền kinh tế trong những năm qua là rất cao so với tỷ lệ nợ quá hạn trong mức an toàn 5% theo thông lệ quốc tế. Số liệu về tỷ lệ nợ quá hạn nêu trên đã một phần phản ánh thực trạng yếu kém trong công tác quản lý rủi ro của các ngân hàng thương mại thời gian qua trong đó có công tác thẩm định dự án, bởi vì dư nợ cho vay trung dài hạn trong giai đoạn hiện nay chiếm khoảng 40% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. b. Chưa xây dựng chi tiết khung phân tích tài chính thống nhất khi thẩm định dự án đầu tư Thực tế hiện nay việc thẩm định tín dụng dự án đầu tư tại các ngân thương mại chủ yếu dựa vào số liệu tổng quát được cung cấp bởi các nhà đầu tư, chưa xây dựng được một khung phân tích thẩm định tài chính dự án đầu tư một cách chi tiết. Mục đích cuối cùng của việc thẩm định dự án là dựa trên kết quả của các chỉ tiêu thẩm định để trả lời câu hỏi: dự án có giá trị hay không, có nên đầu tư hay không? Các kết quả thẩm định dù trên quan điểm của nhà đầu tư, quan điểm của nhà tài trợ đều phải dựa vào nền tảng của các phân tích bộ phận như: Doanh thu, chi phí, thu nhập do dự án mang lại… Nền tảng này cần được thiết kế thành khung phân tích dự án đầu tư và được trình bày bằng một bảng phân tích dự án. Bảng phân tích này bắt đầu từ cơ sở dữ liệu – có được từ những nghiên cứu nhu cầu, khối lượng hoạt động, -35- ước tính giá trị đầu tư, kế hoạch tài chính và tài trợ… cho đến dòng ngân lưu của từng khoản mục. Nội dung bảng phân tích gồm các bảng chi tiết: - Bảng thông số: Nhằm mục đích thiết lập các thông số cơ sở (dữ liệu gốc) dùng để tính toán trong quá trình thẩm định dự án. Nó bao tất cả các số liệu, chỉ tiêu, thông số như: công suất, sản lượng, giá bán, tổng chi phí đầu tư, nội dung đầu tư, cơ cấu tài chính, suất chiết khấu, tài trợ vốn, lãi suất tiền vay: nội địa, nước ngoài, vốn lưu động dự kiến, thuế, lạm phát, tỷ giá hối đoái… - Bảng chỉ số lạm phát và tỷ giá hối đoái: Lạm phát và tỷ giá hối đoái là những nhân tố rất quan trọng tác động đến kết quả thẩm định dự án. Do đó việc xác định, xem xét tỷ lệ lạm phát và tỷ giá hối đoái trong suốt vòng đời dự án là việc không thể không thực hiện. Việc xác định chính xác tỷ lệ lạm phát cho năm kế tiếp đã là một việc khó khăn thì việc xác định tỷ lệ lạm phát trong suốt vòng đời dự án tức ở tương lai càng xa thì càng là một việc không tưởng. Để giải quyết vấn đề này, trong thực tế các nhà thẩm định dự án giải quyết theo hai hướng sau: thứ nhất, sử dụng mô hình kinh tế lượng để dự báo lạm phát và tỷ giá trong suốt vòng đời dự án. Hướng giải quyết này cho kết quả khá chính xác nhưng đòi hỏi cần phải có nhiều số liệu từ quá khứ và lập mô hình kinh tế lượng khá phức tạp, khó khăn. Một hướng giải quyết đơn giản hơn là dự báo tỷ lệ lạm phát trong năm kế tiếp và giả định tỷ lệ này là không đổi trong suốt vòng đời dự án. Phương pháp này cũng giả định rằng tỷ giá hối đoái sẽ được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát. - Lịch đầu tư: Thể hiện các khoản chi phí, bao gồm các khoản trợ cấp, trợ giá của chính phủ, cần phải thực hiện từ khi triển khai tới khi dự án bắt đầu đi vào hoạt động bình thường. Từng khoản chi phí đầu tư này cần phải được xác định theo năm, được dự kiến từ lúc bắt đầu quan tâm và nghiên cứu dự án. - Kế hoạch doanh thu: Để xác định doanh thu cần phải lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch sản lượng và dự kiến giá bán trong suốt vòng đời của dự án. Giá bán sản phẩm của dự án cần phải xác định thay đổi theo từng năm. Muốn vậy giá bán sản phẩm dự kiến khi triển khai dự án được nhân với chỉ số lạm phát qua các năm đã được xác định ở bảng lạm phát. -36- - Kế hoạch chi phí hoạt động: Bao gồm tất cả các chi phí phát sinh kể từ khi dự án đi vào hoạt động bình thường. Từng khoản chi phí này cần được xác định theo từng năm mà ta dự kiến nó xảy ra. - Lịch vay và trả nợ: Được xây dựng nhằm mục đích xác định các khoản nợ vay tài trợ cho dự án và các khoản trả lãi nợ vay. Tất cả các khoản này đều phải tính tới tác động của lạm phát, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn để thực hiện dự án và không tính hết các chi phí để trả lãi vay. Các lịch vay và trả nợ sẽ bao gồm: + Lịch vay nội địa (tính bằng nội tệ). + Lịch vay nước ngoài (tính bằng ngoại tệ). + Lịch vay nước ngoài quy đổi ra nội tệ. - Tính toán vốn luân chuyển: Bao gồm tiền mặt, các khoản phải thu trừ đi các khoản phải trả và hàng tồn kho. Tất cả các khoản mục này phải được tính theo năm mà dự án dự kiến xảy ra. Đây là các khoản mục chịu tác động của lạm phát rõ nhất nên cần phải chú ý đến yếu tố lạm phát khi tính toán. - Lịch khấu hao: Chi phí khấu hao không phải là một hạng mục trong bảng ngân lưu nhưng được sử dụng để tính toán thuế, giá trị tài sản thanh lý. - Bảng giá thành đơn vị sản phẩm: Tập hợp chi phí sản xuất: nguyên vật liệu trực tiếp, công nhân, trực tiếp, chi phí sản xuất chung để tính giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm cho từng năm. Giá vốn hàng bán: Bảng tính này nhằm mục đích tính toán giá trị hàng tồn kho. Khi thẩm định dự án có tính đến tác động của lạm phát, mặc dù lượng hàng tồn kho không thay đổi nhưng dưới tác động của lạm phát sẽ làm giá vốn hàng bán thay đổi. Tác động của lạm phát tới chi phí hàng bán tùy thuộc vào phương pháp hạch toán hàng tồn kho (LIFO, FIFO hay bình quân gia quyền). - Bảng báo cáo thu nhập: Báo cáo thu nhập cho biết trong một chu kỳ kế toán, doanh nghiệp đã hoạt động kinh doanh lãi hay lỗ bằng con số cụ thể. Trong báo cáo thu nhập, lãi hay lỗ của doanh nghiệp là hiệu số giữa tổng thu nhập từ doanh thu và tổng chi phí. Đây là khoản thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Thiết -37- lập bảng báo cáo thu nhập là nhằm mục đích xác định khoản thuế thu nhập để đưa vào bảng ngân lưu. - Chi phí cơ hội: Chi phí cơ hội là những khoản thu nhập mà công ty phải mất đi do sử dụng nguồn lực vào dự án. Chi phí cơ hội không phải là một khoản mục thực chi nhưng vẫn được tính vào ngân lưu vì đó là một khoản thu nhập mà công ty phải mất đi khi thực hiện dự án. Tuy nhiên trong thực tế rất khó lượng hóa chi phí cơ hội trong các dự án, do đó các nhà phân tích dự án thường có khuynh hướng ghi nhận sự tồn tại của chi phí cơ hội hơn là cố tìm cách định lượng nó. - Xử lý chi phí lịch sử: Chi phí lịch sử là chi phí cho những tài sản sẵn có của công ty được sử dụng cho dự án. Chi phí này có được tính vào ngân lưu dự án hay không là tùy theo chi phí cơ hội của tài sản, nếu chi phí cơ hội của tài sản bằng không thì không tính, nhưng nếu tài sản có chi phí cơ hội thì sẽ được tính vào ngân lưu dự án như trường hợp chi phí cơ hội. Chi phí lịch sử cần phải được xử lý khi thẩm định dự án nhằm tránh các bóp méo khi ra quyết định đầu tư. - Chi phí đất đai: Đất đai là loại tài sản cố định không khấu hao. Cần xử lý đất như một khoản đầu tư riêng biệt. Không được gộp lãi hoặc lỗ về đất như một khoản thu nhập hay chi phí đối với khoản đầu tư vào đất nếu như sự đầu tư đó không làm cho chất lượng của đất được cải thiện hay bị hư hại đi. - Thiết lập báo cáo ngân lưu: Không có một khuôn mẫu trình bày một cách tiêu chuẩn cho báo cáo ngân lưu của một dự án đầu tư. Nhưng ta biết rằng ngân lưu ròng của dự án là khoản chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi. Do đó báo cáo ngân lưu có thể được trình bày thành hai phần thu và chi. Cần phải chú ý phân biệt sự khác nhau giữa việc xây dựng báo cáo ngân lưu và báo cáo thu nhập. Muốn vậy cần phân biệt sự khác nhau giữa doanh thu và khoản thu, giữa chi phí và khoản chi. Điều khác biệt đó xảy ra do các nguyên tắc kế toán ấn định. Chẳng hạn như thời điểm ghi nhận doanh thu khác với thời điểm thu tiền; ghi nhận những khoản chi phí nhưng không thực chi bằng tiền mặt; ghi nhận những khoản thu nhập nhưng không thực thu bằng tiền mặt… Lợi nhuận trong báo cáo thu nhập chỉ đơn giản là hiệu số giữa doanh thu và chi phí, còn trong báo báo ngân lưu -38- thể hiện những dòng thu, dòng chi bằng tiền mặt - trừ một trường hợp ngoại lệ đó là chi phí cơ hội. c. Chưa quan tâm đến yếu tố lạm phát và tỷ giá hối đoái trong thẩm định dự án Hiện nay hầu như toàn bộ các các ngân hàng thương mại khi thẩm định dự án thông qua việc tính toán các chỉ tiêu, lập bảng báo cáo ngân lưu chưa tính đến yếu tố lạm phát và sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, đặc biệt là các dự án có dòng thu và chi bằng ngoại tệ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tính chính xác khi tính toán các chỉ tiêu hiệu quả của dự án. Việc xác định không đúng về các biến số tài chính trong bảng phân tích ngân lưu của dự án là một trong những nguồn sai số thông thường nhất trong việc soạn thảo nghiên cứu khả thi cũng như công tác thẩm định. Đặc biệt, điều này xảy ra trong trường hợp tỷ lệ lạm phát dương được dự kiến sẽ tồn tại trong suốt thời hạn dự án. Việc xem xét ảnh hưởng của lạm phát trong phân tích dự án là cần thiết vì: - Việc không xem xét tác động của lạm phát có thể làm sai lệch đáng kể kết quả phân tích dự án. - Lạm phát cũng là một yếu tố bổ sung vào tính không chắc chắn làm ảnh hưởng đến rủi ro của dự án. Kết quả là những số thu lợi tài chính thực (sau khi trừ thuế) trong suốt thời hạn dự án có thể được thể hiện sai một cách nghiêm trọng, đơn giản là do hậu quả của việc sử dụng các phương pháp không đúng để tính lạm phát. Các tác động của lạm phát lên điều kiện tài chính của một dự án gồm (1) các tác động trực tiếp do những thay đổi trong chi phí trong thời gian đầu tư, cân đối tiền mặt, các khoản phải thu, các khoản phải chi và lãi suất danh nghĩa, (2) các tác động về thuế bao gồm chi phí lãi, tiền lãi, khấu hao và hàng tồn kho, và (3) tác động lên tỷ giá hối đoái thị trường. Lạm phát thay đổi số lượng và thời gian của các khoản lời hay khoản lỗ tài chính của các bên khác nhau tham gia vào dự án gồm chủ sở hữu, bên cho vay và chính quyền, tính toán các thay đổi đó là điều kiện cần thiết để xác định toàn bộ dự án tùy theo quan điểm của các bên khi phân tích. -39- Chúng ta có thể xem xét tác động của lạm phát lên một số yếu tố khi xác định ngân lưu dự án như sau: - Tác động của lạm phát đối với khoản phải thu (AR: Account Receivable): So sánh dòng ngân lưu của khoản phải thu trong hai trường hợp lạm phát 0% và 10%: Năm 0 1 2 3 - Trường hợp 1: Tốc độ lạm phát g=0%: Khoản phải thu (AR) 0 500 500 0 Thay đổi trong khoản phải thu (ΔAR) 0 500 0 -500 Hiện giá của ΔAR với r=15% $106 - Trường hợp 2: Tốc độ lạm phát g=10%: Chỉ số lạm phát 1 1.1 1.21 1.331 Khoản phải thu thực (ARR) 0 500 500 0 Khoản phải thu danh nghĩa (ARN) 0 550 605 0 Thay đổi trong khoản phải thu danh nghĩa (ΔARN) 0 550 55 -605 Thay đổi trong khoản phải thu thực, ΔARN (khử lạm phát) 0 500 45 -455 Hiện giá của ΔARR với r=15% $170 Hiện giá của ΔAR trong trường hợp có lạm phát lớn hơn so với không lạm phát, ảnh hưởng làm tăng dòng ngân lưu ra và làm giảm hiệu quả dự án (giảm NPV). - Tác động của lạm phát đối với khoản phải trả (AP: Account Payable): So sánh dòng ngân lưu của khoản phải trả trong 2 trường hợp: lạm phát 0% và 10%: -40- Năm 0 1 - Trường hợp 1: Tốc độ lạm phát g=0%: Khoản phải trả (AP) 0 400 400 0 Tha 2 3 y đổi trong khoản phải trả (ΔAP) 0 400 0 -400 Hiện giá của ΔAP với r=15% $85 - Trường hợp 2: Tốc độ lạm phát Chỉ số lạm phát 1 1.1 1.21 1.331 Khoản phải trả thực (APR) 0 400 400 0 Khoản phải trả danh nghĩa (APN) 0 440 484 0 Thay đổi trong khoản phải trả danh nghĩa (ΔAPN) 0 440 44 -484 Thay đổi trong khoản phải trả thực, ΔAPN (khử lạm phát) 0 400 36 -364 Hiện giá của ΔAPR với r=15% $136 Hiện giá của ΔAP trong trường hợp có lạm phát lớn hơn so với không lạm phát, ảnh hưởng làm tăng dòng ngân lưu vào và tăng hiệu quả của dự án (tăng NPV). Cách tính toán và lập luận tương tự được áp dụng cho các khoản mục còn lại của vốn lưu động: hàng hóa tồn kho và tiền mặt tồn quỹ. Đối với các nước đang phát triển, tỷ lệ lạm phát thường không ổn định và có xu hướng dương nên khi thẩm định dự án đầu tư cần tính đến biến rủi ro này. Thực tế thời gian qua ở nước ta tỷ lệ lạm phát có chiều hướng gia tăng, tỷ lệ lạm phát qua các năm gần đây như sau: Bảng 6: Tỷ lệ lạm phát trong nước từ 2001- 9/2005: Năm 2001 2002 2003 2004 9 tháng 2005 Tỷ lệ lạm phát (%) 0,8 4,0 3,0 9,5 6,5 Nguồn: Tổng cục thống kê -41- Tỷ lệ lạm phát (%) 0 2 4 6 8 10 2001 2002 2003 2004 9 tháng 2005 d. Sử dụng tỷ suất chiết khấu khi thẩm định dự án chưa hợp lý Một trong những yếu tố quan trọng liên quan đến việc ra quyết định đầu tư là tỷ suất chiết khấu của dự án. Một dự án có NPV dương khi tỷ suất sinh lợi mang lại từ dự án vượt quá tỷ suất sinh lợi yêu cầu của dự án. Tỷ suất sinh lời yêu cầu của một dự án phải bằng với tỷ suất sinh lời mang lại từ việc đầu tư vào một tài sản có độ rủi ro tương đương trên thị trường tài chính. Vì vậy tỷ suất sinh lời yêu cầu tối thiểu chính là chi phí sử dụng vốn của dự án. Tỷ suất chiết khấu chính là chi phí cơ hội của vốn đầu tư, là cái giá mà công ty phải trả khi đầu tư vào dự án, hay tỷ suất sinh lợi mà các nhà đầu tư đòi hỏi từ chứng khoán của công ty. Nếu dự án có rủi ro cao hơn rủi ro của công ty thì tỷ suất sinh lời yêu cầu tối thiểu đối với dự án phải cao hơn tỷ suất sinh lời đối với công ty. Chi phí sử dụng vốn sẽ được xác định trên thị trường vốn và phụ thuộc vào rủi ro của công ty hoặc rủi ro của dự án. Thực tế do khó xác định được rủi ro của dự án cao hơn hay thấp hơn rủi ro của công ty và do công ty là người đứng ra vay vốn để đầu tư vào dự án chứ không phải bản thân dự án đứng ra vay vốn nên chúng ta có thể xem xét mức độ rủi ro của dự án như là mức độ rủi ro của công ty. Qua nghiên cứu hướng dẫn thẩm định dự án đầu tư trong cẩm nang tín dụng của 05 ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại cổ phần thì hiện nay các ngân hàng thương mại chưa có khung quy định về sử dụng suất chiết khấu trong thẩm định các loại dự án đầu tư. Việc tính toán và sử dụng tỷ suất chiết -42- khấu chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ thẩm định. Thông thường cán bộ thẩm định áp dụng bằng lãi suất vay vốn trung dài hạn hoặc lãi suất cho vay trung dài hạn bình quân của các ngân hàng làm tỷ suất chiết khấu vì cho rằng đó chính là tỷ suất sinh lợi tối thiểu hòa vốn, hoặc tăng giảm một biên độ nào đó mà không có cơ sở khoa học. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc tính toán chỉ tiêu NPV của dự án, từ đó ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận của dự án mà đây là một trong những chỉ tiêu mang tính quyết định trong khi xác định tính khả thi về mặt tài chính của dự án hay không. e. Còn quá chú trọng vào tài sản đảm bảo Theo nguyên tắc tín dụng, tài sản đảm bảo là yếu tố mang tính dự phòng khi xem xét cấp tín dụng, nói cách khác đó là yếu tố trả nợ sau cùng. Tuy nhiên hiện nay khi cho vay đối với các dự án đầu tư mà đặc biệt là cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đặc điểm của dự án đầu tư là yếu tố rủi ro cao và chất lượng thẩm định dự án còn hạn chế nên đôi khi các ngân hàng thường đặt vấn đề tài sản đảm bảo lên hàng đầu trong quá trình xét cấp tín dụng. Điều này có thể dẫn đến hai sai lầm là cho vay một dự án tồi và đánh mất cơ hội tài trợ cho các dự án tốt nhưng không đáp ứng được tài sản đảm bảo. 2.3. Những hạn chế trong thẩm định rủi ro tài chính dự án đầu tư 2.3.1. Chưa tách biệt hai quan điểm khi thẩm định hiệu quả tài chính dự án – Quan điểm tổng đầu tư và quan điểm chủ đầu tư Dự án có thể được thực hiện một phần từ vốn vay và một phần từ vốn cổ đông. Điều này dẫn đến sự khác biệt về quan điểm khi đánh giá tính chất khả thi của dự án về mặt tài chính, đặc biệt là trong ước lượng dòng ngân lưu dự án. Có thể tóm tắt các quan điểm khi ước lượng dòng ngân lưu dự án qua bảng sau: -43- Bảng 7 : Các quan điểm phân tích dự án Khoản mục Tổng đầu tư Chủ đầu tư Nền kinh tế Ngân sách Thực thu + + + Thực chi - - - Chi phí cơ hội - - - Trợ cấp + + - Thuế - - + Vay/trả nợ +/- +/- Ngoại tác +/- Ghi chú: Dấu (+) thể hiện ngân lưu vào, dấu (-) thể hiện ngân lưu ra. Theo quan điểm của chủ đầu tư, nhu cầu vay và khả năng trả nợ đã được xác định, hiệu quả của dự án được chủ đầu tư đánh giá trên cơ sở ngân lưu ròng có đủ bù đắp được chi phí cơ hội của vốn chủ sở hữu hay không, nên khi ước lượng ngân lưu cần tính cả phần tiền nhận được khi nhận vốn vay vào ngân lưu vào và phần trả nợ và lãi vay vào ngân lưu ra. Ngược lại, theo quan điểm tổng đầu tư hay theo quan điểm của ngân hàng đứng trên góc độ là nhà tài trợ, hiệu quả của dự án được xem xét trên toàn bộ vốn đầu tư, do đó khi ước lượng ngân lưu cần đánh giá đúng thực chất khả năng sinh lợi của dự án nên không đưa tiền nhận được từ khoản vay hay trả nợ gốc và lãi vào ngân lưu dự án. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tiễn cho thấy rằng khách hàng, mặc dù đứng trên góc độ nhà đầu tư, nhưng thường chỉ đưa tiền vay nhận được vào ngân lưu vào nhưng không đưa tiền trả nợ gốc và lãi vào ngân lưu ra, hoặc chỉ đưa lãi mà không tính phần trả nợ vào ngân lưu ra. Sai lầm này do vô tình hay cố ý, khiến cho ngân lưu ròng của dự án phản ánh sai lệch thực chất khả năng sinh lợi của dự án, từ đó dẫn đến đánh giá sai về tính khả thi về tài chính của dự án. -44- 2.3.2. Hạn chế về nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định Nguồn thông tin thu thập từ các kênh hiện nay rất phong phú so với trước đây. Tuy nhiên để có thể thẩm định toàn diện dự án, ngân hàng còn gặp một số khó khăn và hạn chế. Đối với số liệu thông tin của khách hàng, đặc biệt là báo cáo tài chính của các đơn vị thường là cung cấp chưa đầy đủ và tính chính xác chưa cao. Các doanh nghiệp do mục đích vay vốn, đôi khi cung cấp cho bộ phận thẩm định các thông tin sai lệch so với sự thật, những thông tin này hiện nay chưa bắt buộc phải thông qua cơ quan chức năng kiểm tra và xác nhận, chẳng hạn như các công ty kiểm toán. Các thông tin kỹ thuật về dự án thông thường được xây dựng từ các nghề khác nhau và có những ngành nghề rất mới mẻ. Bản thân cán bộ thẩm định rất khó có thể đi sâu vào thẩm định chi tiết vấn đề kỹ thuật, chuyên môn và thị trường của dự án. Ở một số nước, để thẩm định khía cạnh kỹ thuật, các ngân hàng thường thuê các công ty tư vấn chuyên môn. Tuy nhiên, với điều kiện Việt Nam số lượng các công ty tư vấn trong nước còn hạn chế. Do đó để đi thuê một công ty tư vấn nước ngoài phải bỏ ra chi phí rất lớn nên công tác thẩm định dự án trên khía cạnh này thực tế chưa sâu sắc và chất lượng. Việc lập dự án hiện nay còn mang tính chủ quan của người lập và đôi khi cố chứng minh hiệu quả dự án để được duyệt hoặc được vay vốn, trong khi thẩm định phải đứng trên quan điểm khách quan để xem xét có quyết định có tài trợ cho dự án hay không. Muốn thẩm định được tin cậy giúp cho việc quyết định về dự án một cách đúng đắn và chính xác thì đầu tiên là xem xét các dữ liệu có chính xác hay không, cách lập dự toán của dự án có hợp lý và phù hợp không, nếu không chuyên viên thẩm định phải lập lại dự toán với các độ nhạy một cách có cơ sở. Thực hiện điều này sẽ tốn rất nhiều công sức và thời gian, gần như tái lập phương án tài chính dự án. -45- 2.3.3. Hạn chế về nguồn nhân lực Công việc thẩm định tài chính dự án tại một số ngân hàng thương mại hiện nay chưa đúng với ý nghĩa thẩm định. Nhân viên thẩm định chỉ đóng vai trò của một người nhận và làm hồ sơ cho khách hàng. Nghĩa là công việc thẩm định chủ yếu dựa trên những hồ sơ mà khách hàng cung cấp, thiếu xác minh thực tế và chưa thực sự là người hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp, phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vấn đề này tồn tại phổ biến hiện nay bởi: - Thứ nhất, trình độ thẩm định không đáp ứng được yêu cầu, “khả năng thẩm định dự án đồng tài trợ của cán bộ tín dụng còn yếu và không đồng đều giữa các ngân hàng, nhìn chung đội ngũ cán bộ còn bất cập về trình độ, kiến thức chưa được huấn luyện tốt về kĩ năng thẩm định” ( )1 , cán bộ thẩm định không đủ trình độ thẩm định, do đó việc thẩm định hiện nay chỉ dừng lại ở việc kiểm tra hồ sơ từ khách hàng để quyết định cho vay vốn chứ không đóng vai trò là người giúp chủ đầu tư phát hiện những bất hợp lý, những bất trắc rủi ro của dự án để họ có thêm nhận định khách quan về cơ hội đầu tư. - Thứ hai, do cách tổ chức sắp xếp phân công kém khoa học, chưa có tính chuyên môn hoá trong công việc của nhân viên thẩm định, mỗi cán bộ thẩm định cùng lúc phải xem xét và đánh giá tất cả các khía cạnh của rất nhiều dự án, lại thiếu thông tin và phải chịu sức ép về thời gian nên việc thẩm định đôi khi kéo dài nhưng chất lượng không đảm bảo. Với tình hình trên, chất lượng thẩm định dự án chưa đóng vai trò tích cực góp phần giảm rủi ro cho hoạt tín dụng của ngân hàng. Do đó việc ngân hàng chấp nhận những dự án xấu và từ bỏ những dự án tốt là không thể tránh khỏi, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động lẫn uy tín của ngân hàng. 2.4. Hạn chế trong phương pháp phân tích rủi ro tài chính dự án đầu tư Việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư làm cơ sở để ra quyết định tín dụng tại các ngân hàng thương mại hiện nay chỉ tập trung vào việc đánh giá các (1) Theo Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng số 4 (7/2004) -46- tiêu chuẩn về mặt tài chính của dự án, còn việc thẩm định rủi ro của dự án chưa được quan tâm đúng mức. Việc sử dụng các phương pháp phân tích rủi ro khi thẩm định mặt tài chính các dự án đầu tư của các ngân hàng thương mại còn hạn chế. Trong hướng dẫn phân tích thẩm định rủi ro tài chính dự án trong sổ tay tín dụng của các ngân hàng thương mại nước ta hiện nay chỉ dừng lại ở việc áp dụng phương pháp phân tích độ nhạy. Như đã biết, phương pháp phân tích độ nhạy là loại phân tích tất định, có một số nhược điểm là chỉ xem xét từng tham số trong khi kết quả lại chịu tác động của nhiều tham số cùng một lúc và không trình bày được xác suất xuất hiện của các tham số và xác suất xảy ra của các kết quả. Do đó phân tích độ nhạy chỉ giúp cho nhà quản trị “xem và hình dung” chứ không hề giúp cho họ dựa vào đó để ra một quyết định cụ thể nào cả. Chỉ với việc phân tích độ nhạy thì chúng ta không thể tính hết xác suất xảy ra đối với các biến đầu vào ảnh hưởng đến kết quả của các chỉ tiêu của dự án mà hiện nay các ngân hàng thương mại đang áp dụng. Để giải quyết bài toán này hiện nay trên thế giới người ta thường sử dụng các công cụ phần mềm phân tích và dự báo rủi ro như Risk Master, hay chương trình Crystal Ball thông qua phương pháp Monte Carlo chạy trên nền của phần mềm Microsoft Excel đã hỗ trợ rất tốt trong phân tích rủi ro tài chính dự án. Thực tế ở nước ta hiện nay một số nhà thẩm định dự án đầu tư, đứng trên góc độ chủ đầu tư hay là các nhà tư vấn đã áp dụng các công cụ hỗ trợ này trong thẩm định hiệu quả tài chính dự án. Tuy nhiên đối với các ngân hàng thương mại vẫn chưa áp dụng các tiện ích này. Cũng có quan điểm cho rằng việc áp dụng các công cụ hiện đại này trong phân tích rủi ro dự án là quá phức tạp, cần nhiều thông tin đầu vào và tạo ra nhiều kết quả gây khó khăn cho việc ra quyết định, nên chỉ ứng dụng trong những dự án lớn mang tính vĩ mô hơn là những dự án kinh doanh thông thường, có vốn đầu tư vừa phải. Tuy nhiên, trong thực tế việc vận dụng các công cụ này không mất nhiều thời gian cũng như không phức tạp. Tất cả các kỹ thuật tính toán đều do máy tính đảm trách một cách hoàn hảo, vấn đề còn lại là tính chính xác của cơ sở dữ liệu và các thông tin đưa vào mô hình tính toán. Do vậy, khó khăn ở đây là việc thu thập, tổ -47- chức và xử lý thông tin như thế nào và với thời gian bao lâu mà thôi. Hơn nữa, trên thế giới hiện nay việc ứng dụng mô hình phân tích động trong dự báo và phân tích rủi ro đã trở nên phổ biến thay thế cho phương pháp tất định (phương pháp tĩnh) vì ưu điểm nổi bật của nó là khả năng sát với thế giới thực hơn. Nói tóm lại, kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế ngày càng phát triển và vai trò của hệ thống các ngân hàng thương mại cũng ngày càng quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Trong khi thị trường tài chính nước ta còn chậm phát triển thì vai trò của các ngân hàng thương mại với tư cách là người huy động và phân phối vốn cho các nhu cầu đầu tư của nền kinh tế đáp ứng cho công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta càng chiếm vị trí quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên hệ thống ngân hàng thương mại chưa phát huy tốt vai trò của mình trong nền kinh tế, quy mô tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại mỗi năm chỉ chiếm khoảng 55%/GDP trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là trên 80%, bên cạnh đó tỷ trọng cho vay trung dài hạn chỉ chiếm khảng 40% tổng dư nợ. Chất lượng tín dụng theo đánh giá của IMF còn thấp hơn nhiều so với chuẩn mực của thế giới (trung bình trên 8% so với tiêu chuẩn 5%). Cùng với sự phát triển của khoa học thẩm định dự án, các ngân hàng thương mại đã từng bước ứng dụng các thành tựu về các tiêu chuẩn, chuẩn mực về thẩm định dự án đầu tư vào công tác thẩm định dự án, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro. Tuy nhiên trong thẩm định rủi ro tài chính dự án tại các ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều hạn chế như đã phân tích trên đây. Do đó cần phải có các giải pháp tốt hơn nhằm hoàn thiện công tác thẩm định rủi ro tài chính dự án, góp phần kiểm soát và hạn chế rủi ro. -48- CHƯƠNG 3 HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH RỦI RO TÀI CHÍNH TRONG TÍN DỤNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Việc nâng cao năng lực thẩm định tài chính dự án đầu tư nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án là yêu cầu luôn được đặt ra đối với các ngân hàng thương mại, giúp chủ động trong việc ngăn chặn các dự án tồi và tài trợ các dự án tốt một cách có hiệu quả. Ngoài ra còn giúp ngân hàng chủ động trong việc tham gia ngay từ đầu trong việc thẩm định và tư vấn cho chủ đầu tư nhằm tiết kiệm được chi phí cho nền kinh tế nói chung, bảo vệ lợi ích cho chính bản thân ngân hàng và đồng thời cho chủ đầu tư. Nói rộng hơn, việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư nói chung và thẩm định rủi ro tài chính dự án nói riêng còn mang ý nghĩa hết sức quan trọng trong tình hình hiện nay nước ta đang tập trung đẩy nhanh tốc độ đầu tư nhằm đạt được mục tiêu duy trì nhịp độ tăng tưởng kinh tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và tham gia lộ trình hội nhập kinh tế thế giới. Một khi đã tham gia vào thị trường thế giới thì các chủ thể trong nền kinh tế đều phải đối mặt với những yếu tố rủi ro và thách thức lớn hơn từ thị trường. Với ý nghĩa đó, nhằm góp phần hoàn thiện công tác thẩm định tín dụng dự án nói chung và thẩm định tài chính tài chính nói riêng tại các ngân hàng thương mại trên cơ sở phân tích những hạn chế và tồn tại đối với công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đã nêu ở phần trên, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ thể như sau: -49- 3.1 Các giải pháp mang tính định hướng 3.1.1. Thay đổi quan điểm về mục đích thẩm định tín dụng dự án đầu tư Mục đích của thẩm định dự án là xem xét sự đáng giá của dự án trước khi ra quyết định đầu tư hay tài trợ chứ không phải là ngược lại, quyết định đầu tư đã có trước mà việc lập dự án và thẩm định chỉ là công việc mang tính hình thức và thủ tục để được cấp giấy phép hoặc để nhận vốn, vì thế chủ đầu tư hay người thẩm định thường tìm cách làm cho các chỉ tiêu đánh giá dự án trở nên tốt đẹp. Mục đích cuối cùng của công việc thẩm định dự án nói chung là nhắm đến quyền lợi và an toàn của chính đối tượng có liên quan đến dự án, kể cả quyền lợi quốc gia. Kết quả của thẩm định vì vậy cần phải độc lập với tất cả những ý muốn chủ quan cho dù đến từ bất kỳ phía nào. Hiện nay tại các ngân hàng thương mại đều có các quy trình thẩm định tín dụng trung dài hạn khoa học và mang tính thực tiễn cao, tuy nhiên ở một số ngân hàng chưa tách biệt giữa khâu quản lý khách hàng và khâu thẩm định, dẫn đến tình trạng cán bộ tín dụng phải tác nghiệp tất cả các khâu trong quá trình cho vay nên không còn đủ thời gian đầu tư cho công tác thẩm định. Bên cạnh đó nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định là do cán bộ tín dụng tự thu thập và cóp nhặt từ tất cả các nguồn thông tin có được nên thường không đầy đủ và không có tính hệ thống, các thông số của dự án đôi khi được sử dụng trực tiếp từ dự án do khách hàng cung cấp mà không đánh giá hay thẩm định lại một cách khách quan hơn. 3.1.2. Cần đứng trên quan điểm hiệu quả thực sự của dự án để ra quyết định tín dụng Một nguyên tắc của tín dụng là tiền tệ đi đôi với hàng hóa. Khi cấp tín dụng cho một dự án đầu tư thì tài sản đảm bảo cho dự án trước hết chính là giá trị gia tăng mà dự án mang lại trong tương lai. Tuy nhiên, vì những hạn chế trong phương pháp lượng hóa những rủi ro của dự án nên ở nước ta hiện nay các ngân hàng thương mại thường yêu cầu chủ đầu tư phải có tài sản đảm bảo khác ngoài tài sản do chính dự án mang lại và đôi khi đặt yếu tố này lên hàng đầu khi cho vay. Điều đó -50- làm mất đi cơ hội đầu tư cho những dự án tốt và sai lầm khi cho vay một dự án tồi. Do vậy cần đứng trên quan điểm hiệu quả tài chính của dự án khi cho vay. Một trong những giải pháp cho vấn đề này là phải ứng dụng những phương pháp khoa học và hiện đại của khoa học thẩm định dự án vào công tác thẩm định dự án đầu tư. 3.2. Các giải pháp hoàn thiện kỹ thuật đánh giá hiệu quả tài chính dự án 3.2.1. Sử dụng tỷ suất chiết khấu hợp lý khi thẩm định các chỉ tiêu tài chính dự án Khi nghiên cứu các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án chúng ta thấy rằng các chỉ tiêu như NPV, B/C, DPP đều có chung một nhược điểm là phụ thuộc vào tỷ suất chiết khấu. Việc sử dụng tỷ suất chiết khấu không hợp lý có thể làm thay đổi hiện giá dòng tiền từ âm sang dương hay ngược lại và do đó đảo ngược việc ra quyết định. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải xác định và xây dựng nguyên tắc thống nhất tỷ suất chiết khấu như thế nào cho phù hợp với các loại dự án khác nhau để kết quả thẩm định tài chính dự án đạt được độ tin cậy cao phù hợp với từng quan điểm thẩm định và phản ánh được chi phí của các nguồn vốn sử dụng trong dự án. Từ đó ta thấy, đứng trên quan điểm tổng đầu tư thì tỷ suất chiết khấu áp dụng phải phản ánh được chi phí vốn bình quân trọng số (WACC) của các nguồn vốn sử dụng trong dự án. Sử dụng WACC làm tỷ suất chiết khấu để tính NPV có ưu điểm là chúng ta có thể đánh giá hiệu quả đầu tư thông qua chi phí sử dụng vốn hiện tại của công ty. WACC có độ tin cậy cao hơn một số thông số khác trong việc chiết khấu dòng tiền đầu tư do phương pháp tính nó được xây dựng trên những giá trị bình quân của công ty và quan điểm thị trường. Chi phí sử dụng vốn bình quân được tính theo công thức sau: PPEEDD xRWxRWxRWWACC ++= Trong đó: WD: Tỷ trọng nợ vay trong tổng giá trị thị trường của công ty. WE: Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng giá trị thị trường của công ty. WP: Tỷ trọng vốn cổ phần ưu đãi trong tổng giá trị thị trường của công ty. -51- RD: Chi phí sử dụng nợ. RE: Chi phí sử dụng vốn cổ phần thường. RP: Chi phí sử dụng vốn cổ phần ưu đãi (nếu có). Chi phí sử dụng nợ chính là lãi suất vay hiện tại đối với dự án. Còn chi phí sử dụng vốn cổ phần chính là tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu. Trong trường hợp lãi vay chưa được tính vào chi phí của bảng dự toán kết quả kinh doanh thì WACC được xác định bằng công thức sau: PPEEDcD xRWxRWxR)T(xWWACC ++−= 1 Trong đó Tc là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặt khác, theo quan điểm của chủ đầu tư nguồn vốn đầu tư chỉ đánh giá trên vốn chủ sở hữu, thì trong trường hợp này chi phí sử dụng vốn bình quân chính là tỷ suất sinh lời mong muốn của vốn chủ sở hữu. Hiện nay người ta đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau để xác định tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu. Một trong những mô hình được nhắc đến nhiều nhất và được áp dụng rộng rãi đó là mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Công thức xác định tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu theo mô hình CAPM như sau: Re = Rf + β x (Rm – Rf) Trong đó: Rf: Tỷ suất sinh lời của chứng khoán phi rủi ro. Rm: Tỷ suất sinh lời kỳ vọng của thị trường. β : Độ nhạy cảm của chứng khoán doanh nghiệp so với thị trường. Độ lệch chuẩn của chứng khoán doanh nghiệp β = Độ lệch chuẩn của danh mục thị trường Tuy nhiên việc tính toán tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu như trên đòi hỏi phải có đầy đủ thông tin thị trường để xác định tỷ suất sinh lời thị trường và hệ số β . Hiện nay ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phát triển, nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển mình và chưa ổn định, do vậy chúng ta khó có những -52- thông tin phản ảnh đầy đủ về thị trường để có thể xác định suất chiết khấu hợp lý và đáng tin cậy khi thẩm định hiệu quả dự án đầu tư. Khi thông tin chưa đầy đủ thì tốt nhất là chúng ta nên sử dụng những thông tin thu thập được trong hiện tại để đảm bảo mức độ tin cậy nhất định hơn là áp dụng các kỹ thuật tính toán chặt chẽ nhưng không có số liệu hoặc số liệu thiếu chuẩn xác. Với quan điểm đó chúng ta có thể dựa trên một số nguyên tắc để xác định tỷ suất chiết khấu như sau: - Tùy theo dự đoán viễn cảnh của nền kinh tế và mức độ lạm phát, nếu dự đoán mức độ lạm phát tăng thì nên tăng tỷ suất chiết khấu và ngược lại. - Tùy theo mức độ thu hồi vốn của những tài sản đầu tư, nếu mức độ thu hồi vốn cao thì tỷ suất chiết khấu sẽ thấp và ngược lại. Theo quan niệm này thì đầu tư vào các ngành như bất động sản sẽ sử dụng tỷ suất chiết khấu thấp hơn các ngành sản xuất và những ngành đầu tư sản phẩm mới sẽ có tỷ suất chiết khấu cao nhất vì độ rủi ro của nó rất lớn. 3.2.2. Cần quan tâm đến yếu tố lạm phát và tỷ giá khi thẩm định hiệu quả tài chính dự án Lạm phát và tỷ giá hối đoái là hai yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả tài chính dự án, đặc biệt là đối với các dự án có hàng hóa ngoại thương trong thời kỳ có biến động mạnh về lạm phát và tỷ giá. Sự tác động của hai biến rủi ro này có thể tác động làm dòng ngân lưu của dự án từ dương sang âm và ngược lại. Do đó để đảm bảo dòng ngân lưu của dự án phản ánh tác động của lạm phát đến các giá trị thực của dự án, khi xây dựng dự án đầu tư cũng như quá trình thẩm định tài chính cần thiết phải tiến hành điều chỉnh phân tích dự án theo lạm phát. Tuy nhiên trong quá trình phân tích, cần phải nhất quán trong việc đưa yếu tố lạm phát vào các dòng thu chi có chịu ảnh hưởng của lạm phát để đảm bảo tính khách quan, không bỏ sót nhằm tránh bóp méo kết quả dòng ngân lưu. Các bước thực hiện điều chỉnh phân tích dự án theo lạm phát như sau: - Tính toán các mức giá cân đối tại thời điểm thực hiện đầu tư. - Giả thiết về tỷ lệ lạm phát trong nước và nước ngoài trong tương lai. -53- - Xác định những thay đổi về giá bán danh nghĩa. - Xác định lãi suất danh nghĩa. - Xác định các nhu cầu về vốn đầu tư, tiền mặt, phải thu, phải trả danh nghĩa. - Tính toán thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập danh nghĩa. - Xây dựng báo cáo ngân lưu dự án theo các giá trị danh nghĩa. Việc đưa hai biến rủi ro là lạm phát và tỷ giá hối đoái vào mô hình tính toán và đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả tài chính dự án sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng và dễ dàng thông qua kỹ thuật phân tích mô phỏng Monte Carlo. 3.2.3. Cần tách biệt các quan điểm khi thẩm định hiệu quả tài chính dự án Mục đích của quan điểm tổng đầu tư là xác định độ vững mạnh của tổng thể dự án, còn mục đích của quan điểm chủ đầu tư là xem xét giá trị thu nhập ròng còn lại của dự án so với những gì họ có được trong trường hợp không thực hiện dự án. Hai quan điểm đánh giá khác nhau sẽ dẫn đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án cũng sẽ khác nhau. Do đó cần thiết phải thẩm định tài chính dự án trên hai quan điểm để xem các bên thấy có đáng tài trợ, tham gia hay thực hiện dự án hay không. Việc tách biệt hai quan điểm khi thẩm định hiệu quả tài chính dự án sẽ càng được thể hiện rõ hơn khi sử dụng phương pháp phân tích động như phương pháp mô phỏng Monte Carlo trong phân tích rủi ro dự án. Điều này sẽ được thể hiện rõ hơn khi vận dụng vào thẩm định dự án cụ thể ở phần dưới đây. 3.2.4. Sử dụng kỹ thuật phân tích mô phỏng Monte Carlo trong phân tích rủi ro tài chính dự án đầu tư Như đã nêu ở các phần trên, phân tích rủi ro tài chính dự án không nên chỉ dừng lại ở phân tích tất định mà cần thiết phải sử dụng phương pháp phân tích động, tức là phải xét đến sự biến động cùng một lúc của các biến và mối tương quan giữa các biến đó với nhau tác động đến kết quả dự án. Việc sử dụng phương pháp phân tích mô phỏng Monte Carlo bằng chương trình phân tích rủi ro và dự báo Crystal -54- Ball là một trong những phương pháp phân tích rất hiệu quả, giúp giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và ấn tượng. Để vận dụng phân tích rủi ro bằng phương pháp mô phỏng Monte Carlo cho một dự án cụ thể, luận văn lấy điển hình phân tích Dự án đầu tư mở rộng nhà máy của Công ty Cổ phần Thực phẩm Wegon. Nội dung chi tiết được trình bày trong mô hình trên máy tính (kèm theo đĩa mềm) và phần Phụ lục diễn giải các bước thực hiện. Dưới đây chỉ xin trình bày một cách tổng quát các bước thực hiện mô phỏng như sau: - Bước 1: Xây dựng mô hình tính toán bằng các bảng tính hiệu quả dự án: Bảng thông số dự án: chứa các thông số của dự án; bảng lạm phát; bảng kế hoạch vay và trả nợ; lịch đầu tư và khấu hao; bảng doanh thu; bảng chi phí; bảng vốn lưu động; bảng giá vốn hàng bán; bảng báo cáo lãi lỗ và cuối cùng là bảng kết quả ngân lưu của dự án theo quan điểm tổng đầu tư và quan điểm chủ đầu tư. - Bước 2: Xác định các biến rủi ro chính ảnh hưởng đến kết quả dự án gồm: Giá bán; các chi phí như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, nhân công, chi phí cố định, chi phí quản lý và bán hàng; công suất hoạt động từng năm; tỷ lệ vay; tỷ lệ tồn quỹ tiền mặt; tỷ lệ phải thu; tỷ lệ phải trả; tỷ lệ tồn kho; tỷ lệ lạm phát; tỷ giá hối đoái, tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu, lãi suất vay vốn đầu tư và lãi suất vay vốn luân chuyển. Các biến rủi ro này tập trung ở bảng thông số của dự án. Ta chỉ nên xác định các biến rủi ro được đánh giá có ảnh hưởng nhiều đến kết quả của dự án. - Bước 3: Định nghĩa các ô giả thiết (biến rủi ro) + Xác định các phân phối xác suất thích hợp cho các ô giả thiết nêu trên trong bảng phân phối xác suất của Crystal Ball. Việc xác định hình dạng phân phối xác suất thích hợp cho mỗi biến rủi ro dựa trên các điều kiện để hình thành nên loại phân phối xác suất đó. + Xác định các tham số cho loại phân phối xác suất được chọn: Crystal Ball sẽ tự động làm thích hợp loại phân phối xác xuất cho biến rủi ro lựa chọn nếu có dãy dữ liệu lịch sử (bằng lệnh Fit). Nếu không có sẵn dãy dữ liệu lịch sử, chúng ta -55- dựa trên óc xét đoán và dựa trên kinh nghiệm có được để xác định các tham số. Chẳng hạn ta xác định được dãy dữ liệu lịch sử của biến lạm phát của các năm trong quá khứ từ 2001 đến 2005 ta sẽ xác định được giá trị trung bình và độ lệch chuẩn để đưa vào giả thiết. - Bước 4: Xác định và định nghĩa tương quan giữa các biến rủi ro. Các biến rủi ro của dự án có tương quan với nhau như: giữa giá bán, các chi phí với lạm phát có tương quan đồng biến nhau. Nếu có dãy dữ liệu lịch sử của các biến rủi ro có tương quan, Crystal Ball sẽ tự động định nghĩa độ mạnh tương quan giữa các biến. Nếu không xác định được dãy dữ liệu lịch sử thì ta có thể định nghĩa độ mạnh tương quan giữa hai biến dựa trên óc xét đoán và kinh nghiệm thực tế. Chẳng hạn như giữa chi phí nhiên liệu và lạm phát là hai biến có tương quan đồng biến mạnh. Trong thực tế các biến thường có tương quan lẫn nhau. Nếu ta càng định nghĩa nhiều tương quan thì khả năng xảy ra mâu thuẫn giữa các tương quan càng lớn làm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43461.pdf
Tài liệu liên quan