Đề tài Tổng quan về nokia

Tài liệu Đề tài Tổng quan về nokia: Nhóm KUBUNO Bài Môn Quản trị chuỗi cung ứng ………………………………………….. Phần I.TỔNG QUAN VỀ NOKIA. 1.Lịch sử hình thành và phát triển. Nokia được thành lập năm 1966 bởi 3 công ty của Phần Lan là: Nokia Company (Nhà máy sản xuất bột gỗ làm giấy – thành lập năm 1865), Finnish Rubber Works (nhà máy sản xuất ủng cao su, lốp, các sản phẩm cao su công nghiệp và tiêu dùng khác – thành lập năm 1898) và Finnish Cable Works (nhà cung cấp dây cáp cho các mạng truyền tải điện, điện tín và điện thoại – thành lập năm 1912) Nokia có trụ sở chính đặt tại Espoo, ngoại ô thủ đô Helsinki, Phần Lan. Các nhà máy sản xuất chính nằm ở Phần Lan, Đức, Trung Quốc, Indonesia, Đài Loan, Brazil…Trung tâm nghiên cứu và phát triển của Nokia đặt tại Phần Lan, Đức, Trung Quốc và Mỹ với hơn một 100 ngàn nhân viên tại 120 quốc gia. Nokia tại châu Á – Thái Bình Dương Nokia bắt đầu hoạt động tại khu vực châu Á- Thái Bình Dương vào đầu những năm 80. Từ đó, Nokia đã thiết lập một nhãn hiệu hàng đầu tại nhiều thị trường địa...

doc18 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1763 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tổng quan về nokia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm KUBUNO Bài Môn Quản trị chuỗi cung ứng ………………………………………….. Phần I.TỔNG QUAN VỀ NOKIA. 1.Lịch sử hình thành và phát triển. Nokia được thành lập năm 1966 bởi 3 công ty của Phần Lan là: Nokia Company (Nhà máy sản xuất bột gỗ làm giấy – thành lập năm 1865), Finnish Rubber Works (nhà máy sản xuất ủng cao su, lốp, các sản phẩm cao su công nghiệp và tiêu dùng khác – thành lập năm 1898) và Finnish Cable Works (nhà cung cấp dây cáp cho các mạng truyền tải điện, điện tín và điện thoại – thành lập năm 1912) Nokia có trụ sở chính đặt tại Espoo, ngoại ô thủ đô Helsinki, Phần Lan. Các nhà máy sản xuất chính nằm ở Phần Lan, Đức, Trung Quốc, Indonesia, Đài Loan, Brazil…Trung tâm nghiên cứu và phát triển của Nokia đặt tại Phần Lan, Đức, Trung Quốc và Mỹ với hơn một 100 ngàn nhân viên tại 120 quốc gia. Nokia tại châu Á – Thái Bình Dương Nokia bắt đầu hoạt động tại khu vực châu Á- Thái Bình Dương vào đầu những năm 80. Từ đó, Nokia đã thiết lập một nhãn hiệu hàng đầu tại nhiều thị trường địa phương và công việc kinh doanh cũng được mở rộng đáng kể tại tất cả các khu vực để hỗ trợ nhu cầu khách hàng và sự phát triển của công nghệ truyền thông trong khu vực. Trụ sở chính ở khu vực của Nokia được đặt tại Alexandra Technopark ở Singapore. Là trung tâm của khu vực của Nokia, đây là cơ sở của hơn 700 nhân viên Nokia cung cấp các công nghệ, sản phẩm và giải pháp hỗ trợ 20 thị trường khác nhau và các văn phòng Nokia tại châu Á – Thái Bình Dương Trung tâm tài chính khu vực Nokia – Nokia Treasury Asia – hoạt động từ Singapore như một ngân hàng nội bộ của tập đoàn phục vụ các công ty con Nokia tại khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Nokia Research Center – bộ phận nghiên cứu của tập đoàn - có các văn phòng đặt tại Nhật và Trung Quốc. Nokia cũng sản xuất các sản phẩm từ 3 cơ sở chính tại Masan (Hàn Quốc), Bắc Kinh và Quảng Đông (Trung Quốc). Tiền thân là một công ty sản xuất ủng cao su và gỗ, Nokia đã tạo một bước đột phá khi quyết định tập trung phát triển công nghệ điện thoại di động vào năm 1992. Là nhà tiên phong trong lĩnh vực sản xuất điện thoại di động, hiện nay Nokia đã khẳng định vị trí “đại gia” của mình. Nokia đang dẫn đầu về doanh số bán, doanh thu và lợi nhuận. Năm 2006 và 2007, thương hiệu Nokia liên tục được xếp hạng Nhất tại Châu Á do Synovate bình chọn, đồng thời năm 2007, Nokia cũng giữ vị trí số 1 tại Châu Âu do European Brand Institute bình chọn. Hơn thế nữa, trong bảng xếp hạng thương hiệu toàn cầu, Nokia đã từ vị trí thứ 6 vượt lên chiếm giữ vị trí thứ 5 cũng trong năm 2007. Có mặt trên khắp các châu lục, Nokia chiếm trung bình hơn 35% thị phần điện thoại di động trên toàn thế giới và con số này vẫn luôn duy trì ổn định trong những năm gần đây.Theo thống kê của Nokia hiện nay : Hơn 800 triệu người sử dụng thiết bị Nokia mỗi ngày. Là nhà cung cấp cho 58 mạng lưới WCDMA. Nokia cho doanh nghiệp sẵn sàng phục vụ các nghiệp vụ kinh doanh trên toàn cầu. Cứ mỗi giây có 10 điện thoại mang thương hiệu Nokia ra đời. Tiên phong trong việc khai thác và sử dụng những công nghệ mới (sản xuất thiết bị di động Wifi đầu tiên; kênh truyền hình di động đầu tiên; máy thu phát sóng cầm tay với cơ chế kép, sóng 3 băng tần đầu tiên). Nokia có sự khởi đầu thuận lợi tại những thị trường đang tăng trưởng nhanh như Trung Quốc và Ấn Độ. Công ty này còn có khoản vốn là 9,5 tỷ USD tiền mặt và không hề có nợ nần. Do đó, Nokia có thể đầu tư những khoản lớn hơn rất nhiều so với các đối thủ khác trong việc phát triển các sản phẩm mới và chiếm lĩnh các thị trường mới. Anssi Vanjoki, Giám đốc phụ trách bộ phận thiết bị đa phương tiện của Nokia nói: “Chúng tôi muốn được công bố về khách hàng thứ hàng tỉ của mình, do đó, chúng tôi buộc phải làm mọi thứ theo cách đúng đắn.” Thị phần ĐTDĐ toàn cầu Quý 1 năm 2008 Tuy vậy, Nokia cũng đã từng phải trải qua một số giai đoạn khủng hoảng. Trở lại thời điểm năm 1995, hệ thống sản xuất của Nokia gần như sụp đổ dưới sức nặng của sự tăng trưởng nhanh chóng. Vào năm 2003, Nokia chậm chạp trong việc đưa ra các mẫu máy gập và có màn hình màu. Từ quý 4/2003 đến quý 1/2004, thị phần của Nokia giảm từ mức 34,6% xuống còn 28,4%. Những thách thức tương tự gần như đã loại các hãng sản xuất điện thoại di động khác khỏi thị trường. Những đối thủ một thời như Panasonic, Philips, Siemens hiện nay chỉ chiếm thị phần dưới 1% trên thị trường điện thoại di động toàn cầu. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Giám đốc Điều hành Jorma Ollila và người kế nhiệm ông, Olli-Pekka Kallasvuo, Nokia đã trỗi dậy còn mạnh mẽ hơn trước. Bằng cách đa dạng hóa sản phẩm và mở rộng thị trường, Nokia giờ đây đã có khả năng tự vệ tốt hơn nhiều trước các cú sốc ở thời điểm hơn 3 năm trước đây. Nhà phân tích Neil Mawston của Strategy Analytics nói: “Rõ ràng là Nokia học được nhiều điều từ những gì mà họ đã trải qua. Họ đã phân tán rủi ro nhiều hơn trước.” 2.Các bộ phận kinh doanh của Nokia: Từ tháng 1 năm 2004, Nokia đã sắp xếp lại cấu trúc tổ chức toàn cầu nhằm tập trung vào tính hội tụ, các thị trường di động mới và đang tăng trưởng. Để phục vụ các lãnh vực kinh doanh mới trong thời đại di động trong khi vẫn củng cố được vị trí hàng đầu trong lĩnh vực truyền thông thoại di động, Nokia đã có 4 bộ phận kinh doanh để đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của mỗi lĩnh vực: - Mobile Phones cung cấp nhiều sản phẩm điện thoại di động có tính cạnh tranh cao trên toàn cầu cho các phân khúc khách hàng lớn và phát triển điện thoại di động cho tất cả các chuẩn chính và các phân khúc khách hàng tại hơn 130 quốc gia. Bộ phận này chịu trách nhiệm kinh doanh điện thoại di động chính, chủ yếu dựa trên các công nghệ WCDMA, GSM, CDMA và TDMA. Mobile Phones tập trung cung cấp những sản phẩm điện thoại giàu tính năng cho tất cả các phân khúc trên thị trường toàn cầu. - Multimedia cung cấp đa truyền thông di động cho khách hàng qua các thiết bị di động và ứng dụng tiên tiến. Các sản phẩm có tính năng và chức năng như hình ảnh, trò chơi, âm nhạc, truyền thông và một loạt các nội dung hấp dẫn khác cũng như các phụ kiện di động và giải pháp sáng tạo. - Networks tiếp tục cung cấp hạ tầng mạng, công nghệ hàng đầu và các dịch vụ liên quan dựa trên các chuẩn không dây chính cho các nhà điều hành di động và các nhà cung cấp dịch vụ. Tập trung vào các công nghệ GSM, bộ phận Networks hướng đến vị trí hàng đầu trong lĩnh vực mạng GSM, EDGE và WCDMA. Các mạng của chúng tôi được lắp đặt ở tất cả các thị trường chính trên toàn cầu theo những tiêu chuẩn này. Networks cũng là bộ phận cung cấp hàng đầu việc truy cập băng thông rộng và các mạng TETRA cho những người sử dụng chuyện nghiệp trong lĩnh vực an toàn và bảo mật. Nokia Siemens Networks là một trong những công ty lớn nhất thế giới về mạng lưới truyền thông, luôn giữ vị trí dẫn đầu ở những thị trường chínhtrên toàn cầu. Công ty được thành lập vào tháng 4 năm 2007, là sự kết hợp giữa bộ phận mạng của Nokia và bộ phận mạng truyền thong của Siemens. Bằng việc kết hợp các thế mạnh truyền thống của Nokia và Siemens, Nokia Siemens Networks đưa ra những sản phẩm và giải pháp có ưu điểm nổi trội được hỗ trợ bởi năng lực riêng có, hỗ trợ sự hội tụ giữa dịch vụ và mạng lưới, nhờ đó cung cấp được các dịch vụ mới, giá trị mới cho một thị trường năng động. - Enterprise Solutions cung cấp hàng loạt các thiết bị đầu cuối và giải pháp kết nối di động không dây dựa trên cấu trúc di động cuối-cuối chuyên dành cho doanh nghiệp và các tổ chức trên toàn cầu giúp cải tiến hoạt động thông qua tính di động mở rộng. Các giải pháp cuối-cuối bao gồm từ các thiết bị di động tối ưu hóa cho doanh nghiệp trên front end đến một danh sách nhiều cổng gateway tối ưu hóa doanh nghiệp di động bao gồm: internet và email không dây, di động ứng dụng, bảo vệ tin nhắn, các mạng cá nhân ảo, bức tường lửa và bảo vệ chống xâm nhập. Phần II. Tổng quan chuỗi cung ứng của Nokia Với tư cách là một nhà tiên phong trong chiến lược chuỗi giá trị, Nokia đã dẫn đầu trong lĩnh vực phát triển nhà cung ứng, S&OP (kế hoạch hoạt động và bán hàng) , phát triển sản phẩm hợp tác. Có thể nói, cách thức quản lý chuỗi cung ứng của Nokia tốt hơn so với bất kỳ một công ty nào trên thế giới. Chuỗi cung ứng “xanh” Tất cả những nhà cung ứng của Nokia phải có hệ thống quản lý môi trường tại chỗ phù hợp với những tiêu chuẩn quốc tế. Đối với những nhà sản xuất theo hợp đồng, họ phải được chứng nhận tiêu chuẩn ISO 14001 hoặc EMAS. Nokia hợp tác với các nhà cung ứng chính để giúp đảm bảo rằng các vấn đề về môi trường là mối ưu tiên trong việc phát triển sản phẩm và cũng để thỏa thuận các chỉ tiêu cải thiện môi trường. Nokia cũng ràng buộc các nhà cung ứng để chắc chắn rằng họ hiểu những yêu cầu theo điều lệ mới EU REACH về hóa chất. Các quốc gia và khu vực chính nơi có các nhà cung cấp và nhà phân phối của Nokia: 1.Úc 2.Bỉ 3.Brazil 4.Canada 5.Trung Quốc (China P&T Appliances) 6.Cộng hòa Séc 7.Đan Mạch 8.Phần Lan 9.Pháp 10.Đức 11.Hungary 12.Ấn Độ 13.Ai-len 14.Israel 15.Ý 16.Nhật Bản 17.Malaysia 18.Mehico 19.Ma-rốc 20.Hà Lan 21.Philippin 22.Ba Lan 23.Bồ Đào Nha 24.Singapore 25.Slovakia 26.Hàn Quốc 27.Tây Ban Nha 28.Thụy Điển 29.Thụy Sĩ 30.Đài Loan 31.Thái Lan 32.Ukraina 33.Anh 34.Mỹ (Best Buy và AT & T) 35.Việt Nam (FPT) Mối quan hệ với các tổ chức khác Sau thời gian hoạt động trong Supply Chain Working Group of the Global e-Sustainability Initiative (GeSI) từ năm 2004, Nokia trở thành thành viên chính thức của GeSI vào năm 2007. GeSI có quan hệ mật thiết với Electronics Industry Citizenship Coalition (EICC) trong việc phát triển một hệ thống công cụ và quy trình nhất quán nhằm đo lường và cải thiện tính hiệu quả về mặt xã hội và môi trường trong chuỗi cung ứng. Nokia là số 1 Nokia đứng ở vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng 25 chuỗi cung ứng hàng đầu thế giới năm 2007 theo AMR Research. Sự hợp tác công khai với các nhà cung ứng trong việc đổi mới sản phẩm cũng như việc sản xuất “lấp đầy”, Nokia là một điển hình cho mô hình cung ứng dựa trên nhu cầu (Demand Driven Supply Network-DDSN) Tạo mô hình nhu cầu Sáng tạo sản phẩm gắn vào Đánh giá khách quan Chấp nhận nhu cầu Sáng tạo sản phẩm Đánh giá chủ quan Mô hình đường tròn, tự đổi mới Mô hình đẩy theo đường thẳng Những điểm nhấn năm 2010: Đưa ra các yêu cầu được cập nhật của các nhà cung cấp xuyên suốt doanh nghiệp. Thực hiện 80 hoạt động đánh giá hệ thống và 10 đánh giá về chiều sâu đối với các nhà cung cấp. Khởi đầu công việc với các nhà cung cấp trong 4 lĩnh vực hàng hoá chính yếu nhằm ấn định các mục tiêu thuộc về môi trường khỏi những yêu cầu hiện tại của chúng ta. Liên lạc với tất cả các nhà cung cấp trực tiếp để nâng cao ý thức về EU REACH (EU Registration, Evaluation, Authorization and Restriction of Chemical subtances – EU REACH các Quy định về đăng ký, đánh giá, hạn chế và cấp phép sử dụng hoá chất của châu Âu) - các quy định về môi trường. Nokia đã trở thành thành viên chính thức của GeSI (Global e-Sustainability Initiative - Giải pháp toàn cầu về phát triển bền vững trong ngành điện tử). Tiếp tục tham gia trong nhóm hoạt động về chuỗi cung cứng của GeSI. Thông qua GeSI, chủ động gia nhập vào một dự án với nhiều bên có quyền lợi liên quan nhằm cải thiện điều kiện lao động, sức khoẻ và an toàn cũng như các đòi hỏi về môi trường trong chuỗi cung ứng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) ở Trung Quốc. Mục tiêu năm 2011: Ấn định các mục tiêu cho các nhà cung cấp về sử dụng năng lượng hiệu quả và giảm lượng khí thải CO2 . Tiếp tục áp dụng vào thực tiễn quy định EU REACH tại các cơ sở cung cấp. Hỗ trợ việc giới hạn các nguyên vật liệu khác. Đánh giá việc sử dụng các công cụ công nghiệp, chẳng hạn đánh giá nhà cung cấp quan trọng nhất, như một phần của công cụ kiểm định. Tiến hành ít nhất 5 đánh giá về chiều sâu đối với các nhà cung cấp chính. Tiếp tục các khoá đào tạo dành cho các nhân viên thầm định của nhà cung cấp. Mô hình cụ thể chuỗi cung ứng của Nokia: Những nhà cung cấp thông qua hệ thống iHubs & LSPs đưa nguyên liệu đến các nhà máy Các nhà máy lại sản xuất sản phẩm theo các hợp đồng sản xuất do bộ phận truyền thông cung cấp. Còn bộ phận truyền thông thì liên kết với các kênh đối tác thông qua kho lưu giữ thông tin. Những kênh đối tác này thông qua các nhà bán sĩ và bán lẻ đưa sản phẩm đến khách hàng. Tóm lại dòng thông tin từ khách hàng sẽ được chuyển đến các nhà cung ứng qua các hệ thống thông tin. Sau khi nhận được thông tin của khách hàng từ các phương tiện truyền thông và các kênh đối tác, các nhà máy sản xuất liên hệ với các nhà cung ứng nguyên vật liệu tiến hành sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng. Đây là một chuỗi cung ứng khép kín. Thông tin được truyền từ khách hàng đến nhà cung ứng, sản phẩm đi từ nhà cung ứng đến tay khách hàng. Phần 3: Phân tích chiến lược quản trị chuỗi cung ứng A, Giới thiệu và phân tích: Nokia bắt đầu chuyển đổi chuỗi cung ứng từ năm 1995 với chiến lược thay thế hàng tồn kho bằng thông tin và thiết lập mô hình chuỗi cung ứng kéo( JIT- Just In Time ) thống nhất kết nối các nhà cung ứng, nhà máy, các trung tâm viễn thông, các kênh đối tác, các nhà sản xuất, ngân hàng, doanh số, iHubs và các dịch vụ logistics tới khách hàng. Sự thay đổi này đã giúp Nokia tạo ra mạng lưới nhà cung ứng hiệu quả nhất với những giải pháp tối ưu để đạt được kỳ vọng của khách hàng. Chiến lược Just-In-Time (JIT) được gói gọn trong một câu: "đúng sản phẩm với đúng số lượng tại đúng nơi vào đúng thời điểm". Đối với một công ty mà hằng năm phải tung ra đến 50 sản phẩm khác nhau và vòng đời trung bình của mỗi sản phẩm là từ 12 đến 24 tháng như Nokia, việc tiết kiệm chi phí tồn kho và tránh lãng phí là mối quan tâm hàng đầu của công ty. Điều này đòi hỏi trong sản xuất và dịch vụ, mỗi công đoạn của quy trình sản xuất phải sản xuất ra một số lượng đúng bằng số lượng mà công đoạn sản xuất tiếp theo cần tới và mỗi quy trình phải cố gắng không tạo ra giá trị gia tăng phải bỏ. Qua đó, không có hạng mục nào rơi vào tình trạng để không, chờ xử lý, không có nhân công hay thiết bị nào phải đợi để có đầu vào vận hành. Thường xuyên đối mặt với sự lên xuống thất thường của sản phẩm, Nokia buộc phải đầu tư mạnh cho quản lý chuỗi cung ứng và hỗ trợ khi cần thiết để có tầm nhìn đúng về thời hạn và vòng đời của sản phẩm. Nokia đã đưa ra 3 mục tiêu để thực hiện hạn chế tồn kho hiệu quả nhất. Kiểm soát chất lượng: Kiểm soát chất lượng giúp cho hệ thống tích ứng hàng ngày với sự thay đổi của thị trường về số lượng, sở thích và nhu cầu. Bảo đảm chất lượng: Đảm bảo mỗi quy trình chỉ tạo ra các đơn vị sản phẩm tốt để tạo sự dễ dàng cho các quy trình tiếp theo. Tôn trọng con người: Nguồn nhân lực là sản phẩm vô giá của bất kỳ một công ty nào và Nokia cũng vậy, để tạo ra lượng hàng tồn kho thấp nhất, một trong những tiêu chí của công ty là phải phổ biến chính sách giảm thiểu hàng tôn kho thấp nhất cho công nhân, có những chính sách ưu đãi phù hợp giúp họ làm việc tốt hơn. 1. Chuỗi cung ứng linh hoạt và tinh gọn Như vậy, theo các phân tích trên thì chúng ta thấy rằng Nokia đã sử dụng chiến lược chuỗi cung ứng vừa linh hoạt vừa tinh gọn. Tính linh hoạt thể hiện ở chỗ Nokia luôn đáp ứng nhu cầu của khách hàng ở mọi nơi trên thế giới. Điều này đạt được nhờ vào quá trình chia sẻ thông tin một cách xuyên suốt trong hệ thống chuỗi cung ứng và cách thức cung cấp sản phẩm một cách nhanh chóng từ nhà sản xuất đến các khách hàng cuối cùng. Tính tinh gọn được thể hiện thông qua việc giảm thiểu chi phí tồn kho và sử dụng chiến lược sản xuất Just In Time. 2. Tính tương thích giữa chiến lược chuỗi cung ứng và chiến lược kinh doanh Chiến lược kinh doanh của Nokia là tạo ra nhiều dòng sản phẩm khác nhau để đáp ứng từng phân đoạn thị trường riêng biệt. Do đó, trong mô hình chuỗi cung ứng của mình,Nokia không sản xuất hàng loạt các sản phẩm giống nhau mà thông qua hệ thống thông tin chia sẻ xuyên suốt từ khách hàng đến nhà cung ứng để nhìn thấy một cách chính xác nhu cầu người sử dụng cuối cùng. Chính vì vậy mà các sản phẩm của họ luôn làm thỏa mãn được nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. 3. Tính tương thích giữa chiến lược chuỗi cung ứng và sản phẩm Đặc điểm các sản phẩm điện thoại di động Nokia là luôn có sự cải tiến và đổi mới công nghệ. Chu kỳ sống của sản phẩm ngắn, khoảng từ 12 đến 24 tháng. Chính vì thế nên Nokia luôn chú trọng hàng đầu trong công tác R&D và một điều đặc biệt là họ không để tồn kho sản phẩm. Một điều quan trọng chứng minh cho sự phù hợp này nữa là hệ thống thông tin được trao đổi trực tuyến một cách xuyên suốt và việc xử lý đơn hàng và giao hàng một cách nhanh chóng đến tay khách hàng cuối cùng cũng là một trong các chiến lược quan trọng của Nokia. B, Phân tích 5 thành tố chiến lược chuỗi cung ứng 1.Chiến lược sản xuất Nokia sản xuất trên cơ sở các đơn đặt hàng trực tuyến từ khách hàng và nhà phân phối. Khi có đơn hàng, nhà máy yêu cầu nhà cung ứng cung cấp nguyên vật liệu tiến hành sản xuất để đáp ứng một cách tốt nhất trong thời hạn sớm nhất của đơn hàng đó. Trong mỗi công đoạn của quy trình sản xuất, phải sản xuất ra một số lượng đúng bằng số lượng mà công đoạn sản xuất tiếp theo yêu cầu. Do đó, không có hạng mục nào rơi vào tình trạng chờ xử lý, không có công nhân hay thiết bị nào phải đợi để có đầu vào vận hành. 2. Chiến lược kênh Khách hàng đặt hàng trực tuyến đến Nokia, sau đó có 2 cách để Nokia đưa sản phẩm đến với khách hàng là giao hàng trực tiếp và thông qua hệ thống kênh bán sỉ và bán lẻ. Khi có nhu cầu đột biến thì nhà phân phối (người bán sỉ và bán lẻ) là người trữ hàng. 3. Chiến lược sử dụng ngoại lực Điểm mạnh của nokia so với các đối thủ là công nghệ và sự cải tiến. Với đội ngũ R&D tốt nhất, Nokia luôn tạo ra sự thay đổi và đột phá trong các dòng sản phẩm di động của mình. Bên cạnh đó, việc sản xuất không phải là yếu tố chiến lược, họ đã thuê ngoài hầu hết các hoạt động sản xuất của họ bằng cách ký hợp đồng với các nhà sản xuất gia công cơ bản và các nhà hậu cần bên ngoài để cung ứng dịch vụ vận chuyển, kho bãi và các dịch vụ gia tăng giá trị khác, như bao gói cuối cùng, kiểm tra cấu trúc sản phẩm. Ngoài ra, Nokia còn hợp tác với các hãng sản xuất phần mềm như Microsoft… nhằm kết hợp phần mềm Office của nó vào dòng điện thoại thông minh Smartphone có tên là Symbian nhằm cạnh tranh với dòng BlackBerry của Research in Motion. 4. Chiến lược phục vụ khách hàng Trên thực tế thì không phải tất cả các khách hàng đều có cùng một mức nhu cầu phục vụ. Chính vì vậy, với chiến lược kinh doanh của mình, Nokia đã tạo ra 5 dòng sản phẩm khác nhau, và theo đó mức phục vụ cũng khác nhau tương ứng theo các dòng sản phẩm này. 5. Mạng tài sản Nokia có trụ sở chính đặt tại Espoo, ngoại ô thủ đô Helsinki, Phần Lan. Các nhà máy sản xuất chính nằm ở Phần Lan, Đức, Trung Quốc, Indonesia, Đài Loan, Brazil… Trung tâm nghiên cứu và phát triển của Nokia đặt tại Phần Lan, Đức, Trung Quốc và Mỹ với hơn 100 000 nhân viên tại 120 quốc gia. Danh sách thành viên nhóm Ưng Thúy Kiều Phạm Chỉ Thiên Thành Nguyễn Ngô Thanh Ngọc Đặng Thế Việt Nguyễn Thị Phương Nhi Nguyễn Xuân Quyền

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphan tich chuoi cung ung nokia.doc