Tài liệu Đề tài Tổng quan về lạm phát: Trang 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT trang 1
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT trang 1
1.1.1. Quan điểm của phái trọng tiền trang 1
1.1.2. Quan điểm của phái Keynes trang 3
1.2. TÍNH HAI MẶT CỦA LẠM PHÁT trang 6
1.2.1. Những tác động tích cực của lạm phát đối với nền kinh tế trang 6
1.2.2. Những tác động tiêu cực của lạm phát đối với nền kinh tế trang 9
1.2.2.1. Phân bố nguồn lực không hiệu quả trang 9
1.2.2.2. Phân bố thu nhập bị biến dạng trang 10
1.2.2.3. Làm suy thoái kinh tế trang 10
1.2.2.4. Tốn kém chi phí của xã hội trang 11
1.3. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT trang 12
1.4. KINH NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI trang 14
1.4.1. Chấm dứt siêu lạm phát ở Bolivia trang 14
1.4.2. Kiểm soát lạm phát ở Trung quốc trang 15
1.4.3. Lạm phát mục tiêu, kinh nghiệm kiểm soát la...
80 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về lạm phát, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT trang 1
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT trang 1
1.1.1. Quan điểm của phái trọng tiền trang 1
1.1.2. Quan điểm của phái Keynes trang 3
1.2. TÍNH HAI MẶT CỦA LẠM PHÁT trang 6
1.2.1. Những tác động tích cực của lạm phát đối với nền kinh tế trang 6
1.2.2. Những tác động tiêu cực của lạm phát đối với nền kinh tế trang 9
1.2.2.1. Phân bố nguồn lực không hiệu quả trang 9
1.2.2.2. Phân bố thu nhập bị biến dạng trang 10
1.2.2.3. Làm suy thoái kinh tế trang 10
1.2.2.4. Tốn kém chi phí của xã hội trang 11
1.3. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT trang 12
1.4. KINH NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI trang 14
1.4.1. Chấm dứt siêu lạm phát ở Bolivia trang 14
1.4.2. Kiểm soát lạm phát ở Trung quốc trang 15
1.4.3. Lạm phát mục tiêu, kinh nghiệm kiểm soát lạm phát ở một số nước kinh
tế phát triển trang 17
Kết luận chương 1 trang 21
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA trang 22
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 2
2.1. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1986-1991
trang 23
2.1.1. Tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát trang 24
2.1.2. Nguyên nhân gây ra tình trạng siêu lạm phát thời kỳ này trang 25
2.1.3. Các biện pháp kiểm soát phát trang 27
2.2. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1992-1999
trang 29
2.2.1. Diễn biến tình hình lạm phát trang 29
2.2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát trang 32
2.2.3. Các biện pháp chủ yếu để chống lạm phát trang 35
2.2.3.1.Về chính sách tài khoá trang 35
2.2.3.2.Về chính sách tiền tệ trang 36
2.2.3.3. Các chính sách bổ trợ khác trang 39
2.3. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
trang 40
2.3.1. Diễn biến tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát: trang 40
2.3.2. Nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát trang 43
2.3.2.1. Lạm phát do cầu kéo trang 44
2.3.2.2. Lạm phát do chi phí đẩy trang 46
2.3.2. Một số biện pháp kiểm soát lạm phát trang 48
Kết luận chương 2 trang 51
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM trang 52
3.1. Quan điểm về kiểm soát lạm phát trang 52
3.2. Mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trang 53
3.3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT trang 56
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 3
3.3.1. Hoàn thiện phương pháp để đo lường lạm phát ở Việt Nam trang 56
3.3.2. Về chính sách tiền tệ trang 57
3.3.2.1. Hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ trang 58
3.3.2.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, ngân hàng
thương mại trang 64
3.3.2.3. Mở rộng và thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trang 65
3.3.3. Về chính sách tài khoá trang 66
3.3.3.1. Đối với chi ngân sách nhà nước trang 66
3.3.3.2. Đối với hệ thống thu thuế trang 68
3.3.4. Các chính sách bổ trợ khác trang 69
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 trang 73
KẾT LUẬN trang 74
---------------------
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 4
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT
Về kinh tế, khi nói đến lạm phát là nói đến sự gia tăng liên tục của mức giá
chung trong nền kinh tế. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sụt giảm liên tục sức
mua của đồng tiền. Trên giác độ mối quan hệ cung cầu thì mức giá chung tăng khi
tổng cung giảm hoặc tổng cầu tăng. Tổng cung giảm có thể là do các cú sốc bất lợi
về phía cung như giá của các yếu tố sản xuất tăng, cung lao động giảm. Tổng cầu
tăng có thể là do tăng chi tiêu của chính phủ, giảm thuế hay do tăng cung tiền.
Tổng cung giảm hay tổng cầu tăng liên tục sẽ làm cho giá cả không ngừng tăng
lên và lạm phát xảy ra.
Tuy đa số các nhà kinh tế có cùng một quan điểm như trên về lạm phát,
nhưng tùy theo từng giai đoạn lịch sử và giác độ nghiên cứu khác nhau, giữa họ
cũng có những quan điểm khác nhau về nguyên nhân gây ra lạm phát cũng như
cách thức để chống lại lạm phát. Trong đó, đáng chú ý nhất là quan điểm của các
nhà kinh tế theo hai trường phái: phái trọng tiền và phái Keynes.
1.1.1. Quan điểm của phái trọng tiền
Trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các nhà kinh tế cổ điển (điển hình là nhà
kinh tế Mỹ Irving Fisher) đã đề xướng ra học thuyết số lượng tiền tệ, theo đó, giữa
tổng chi tiêu để mua hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế PY
(trong đó P là mức giá cả, Y là tổng sản phẩm) và lượng tiền tệ M có mối quan hệ
với nhau, và được biểu hiện bằng tốc độ chu chuyển của tiền tệ V. Cách tính tốc
độ chu chuyển V là bằng tổng chi tiêu, chia cho lượng tiền tệ (V=PY/M). Dựa vào
công thức này, các nhà kinh tế đã đưa ra một phương trình trao đổi MV=PY. Với
lập luận rằng, trong thời gian ngắn hạn tốc độ V, tổng sản phẩm Y sẽ thay đổi
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 5
không đáng kể và coi như bất biến, nếu lượng tiền M tăng lên thì giá cả P cũng
phải tăng theo. Theo cách lý giải này, bất cứ việc tăng cung tiền nào cũng làm cho
giá cả tăng lên, và như vậy để giảm tỷ lệ lạm phát thì biện pháp duy nhất là ngưng
việc tăng cung tiền vào trong lưu thông. Rõ ràng, cách lập luận này về lạm phát là
quá đơn giản vì đặt nền kinh tế vào trong một trạng thái tĩnh tại, đó là khi tăng
cung tiền thì sẽ dẫn đến một khối lượng tiền nhiều hơn dùng để mua một khối
lượng hàng hoá như cũ, do đó sẽ làm cho giá cả tăng lên. Điều này sẽ không lý
giải được tại sao giá cả không thay đổi trong trường hợp vẫn tăng cung tiền. Tuy
sự nhìn nhận về lạm phát còn đơn giản, nhưng dẫu sao quan điểm trên cũng đã tạo
ra một tiền đề cho việc nhận thức về lạm phát sau này của các nhà kinh tế.
Để khắc phục nhược điểm trên trong phương trình trao đổi của Irving
Fisher, các nhà kinh tế tiền tệ đã nhìn nhận lạm phát dưới trạng thái động hơn
thông qua công thức trao đổi tiền tệ cải tiến dưới dạng tỷ lệ, đó là %P = %M + %V
- %Y. Theo công thức này, lạm phát xảy ra là do tăng lượng tiền và tăng tốc độ
chu chuyển tiền dẫn đến lạm phát. Hay nói cách khác, lạm phát xảy ra là do tăng
cung tiền nhanh hơn tốc độ tăng của tổng sản phẩm, và nếu tốc độ tăng cung tiền
bằng với tốc độ tăng của tổng sản phẩm thì lạm phát sẽ không xảy ra. Điều này đã
giải thích được việc tăng cung tiền trong một số trường hợp nào đó sẽ không làm
cho giá cả tăng lên. Như vậy, với cách nhìn mới này các nhà kinh tế cũng có cùng
quan điểm với Irving Fisher khi cho rằng tăng cung tiền cũng là nguyên nhân duy
nhất gây ra lạm phát. Tuy nhiên để chống lại lạm phát, khác với I.Fisher, họ cho
rằng không phải bằng việc ngưng tăng cung tiền mà là duy trì sự phát triển cân đối
giữa tăng cung tiền và tăng trưởng kinh tế, điều này sẽ làm cho giá cả được ổn
định.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 6
Một vấn đề liên quan đến biện pháp chống lạm phát này là có thể dẫn đến
suy thoái kinh tế kéo dài. Vì kết quả trước tiên của việc giảm tăng cung tiền là sụt
giảm trong tổng cầu. Tổng cầu giảm dẫn đến sản lượng giảm và thất nghiệp gia
tăng. Hơn nữa, việc giảm cung tiền sẽ làm cho lãi suất tăng lên kéo theo đầu tư
giảm. Điều này sẽ làm giảm năng suất và sản lượng của nền kinh tế. Trong dài
hạn, giảm cung tiền, sản lượng cũng giảm, vì thế, để duy trì sự cân đối giữa tiền
và hàng hoá chống lại lạm phát đòi hỏi phải cắt giảm cung tiền nhiều hơn, kéo
theo sụt giảm sản lượng và suy thoái kinh tế hơn nữa. Nói như vậy, không có nghĩa
là việc duy trì mối quan hệ cân đối giữa tăng cung tiền và tăng trưởng là không
quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát, mà vấn đề là ở chỗ biện pháp chống
lạm phát này có thể phải trả giá rất cao.
1.1.2. Quan điểm của phái Keynes
Để khắc phục những thiếu xót của lý thuyết cổ điển khi cho rằng cung tiền
là nguyên nhân duy nhất gây ra lạm phát, John Maynard Keynes đã phát triển một
lý thuyết mới về lạm phát. Theo đó, Keynes cho rằng nguyên nhân chủ yếu gây ra
lạm phát là do việc tăng nhu cầu quá mức, vượt quá khả năng cung ứng của nền
kinh tế, tức vượt quá mức sản lượng tiềm năng (là mức sản lượng đạt tới mức toàn
dụng nhân công). Sở dĩ như vậy là vì, khi nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng,
các doanh nghiệp thường không tăng giá bán để đáp ứng nhu cầu gia tăng, mà
thay vào đó họ thường chọn giải pháp gia tăng sản lượng. Khi cầu vượt quá mức
sản lượng tiềm năng, các doanh nghiệp không thể tăng sản lượng thêm được nữa
vì thế họ buộc phải tăng giá bán, kết quả là lạm phát xảy ra.
Mặc dù trong phân tích của mình, Keynes cũng thừa nhận rằng việc tăng
cung tiền quá mức cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc gây ra lạm phát và
trong thời gian dài, cung tiền là nguyên nhân chính gây ra tình trạng siêu lạm phát,
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 7
đó là việc giá cả tăng nhanh với một tốc độ rất cao. Điều này dễ dàng được nhận
thấy trong thực tế khi chính phủ tài trợ cho các khoản chi tiêu của mình bằng việc
phát hành tiền giấy quá mức. Song, theo Keynes cung tiền chỉ là một trong nhiều
nhân tố làm ảnh hưởng đến tổng cầu mà thôi, do đó, ông nhấn mạnh đến vai trò
của tổng cầu hơn là cung tiền trong việc xác định lạm phát. Keynes đã chỉ ra rằng
có bốn nhân tố tác động đến tổng cầu, đó là: chi tiêu của hộ gia đình, chi tiêu của
chính phủ, chi tiêu đầu tư và cán cân ngoại thương. Do đó, để giảm lạm phát do
cầu tăng quá mức cần phải giảm tổng cầu thông qua việc tác động vào các nhân tố
này, chẳng hạn như tăng thuế sẽ làm giảm thu nhập khả dụng và do đó làm giảm
chi tiêu của hộ gia đình, giảm chi tiêu của chính phủ.
Với sự phân tích đó, Keynes cũng đưa ra một khái niệm cơ bản thể hiện mối
quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp gọi là đường cong Phillips (Phillips curve).
Theo đó, có một sự đánh đổi giữa việc ổn định giá cả và việc làm. Nếu làm giảm
lạm phát sẽ gia tăng thất nghiệp, và ngược lại, gia tăng việc làm sẽ gây áp lực làm
cho lạm phát tăng cao. Tuy nhiên, sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp trong
thực tế là không chắc chắn, thậm chí không xảy ra khi nền kinh tế rơi vào tình
trạng lạm phát định đốn, khi đó lạm phát và gia tăng thất nghiệp cùng xảy ra mà
không có một sự đánh đổi nào. Chính vì lý do đó, có nhiều ý kiến tranh luận cho
rằng mô hình của Keynes là không đúng.
Để lý giải cho trường hợp trên, Keynes và các nhà kinh tế vĩ mô theo
trường phái Keynes cho rằng phía cung cũng quan trọng trong việc gây ra lạm
phát. Khi có những cú sốc về phía cung như khủng hoảng dầu lửa, đình công đòi
tăng lương, làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên buộc các doanh nghiệp
phải thu hẹp sản xuất và nâng cao giá bán sản phẩm. Điều này sẽ làm dịch chuyển
đường cong Phillips theo hướng suy thoái, nghĩa là nền kinh tế phải điều chỉnh ở
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 8
mức sản lượng thấp hơn và mức giá cao hơn trước. Quá trình điều chỉnh này hàm ý
cả việc lạm phát tăng và gia tăng thất nghiệp, vì thế tình trạng lạm phát đình đốn
không mâu thuẫn với mô hình của Keynes.
Ngoài các lý thuyết trên về lạm phát, các nhà kinh tế vĩ mô hiện đại theo
phái Keynes còn cho rằng sự “kỳ vọng” trong tương lai cũng là một nguyên nhân
gây ra lạm phát, đó gọi là lạm phát quán tính. Theo lý thuyết này, lạm phát có thể
góp phần tạo ra lạm phát hơn nữa nếu mọi người mong đợi điều đó sẽ xảy ra. Đó
là vì khi lạm phát xảy ra, người lao động dự kiến lạm phát vẫn tiếp tục tăng trong
tương lai, do đó để duy trì “mức lương thực” của mình người lao động yêu cầu
được tăng mức lương danh nghĩa lên để bù đắp sự mất giá của đồng tiền. Nếu yêu
cầu này được chấp nhận và tiền lương tăng lên sẽ đẩy chi phí tăng. Để duy trì lợi
nhuận của mình, doanh nghiệp sẽ chuyển phần chi phí tăng lên này sang cho người
tiêu dùng bằng cách tăng giá bán, và như vậy lạm phát sẽ tiếp tục xảy ra. Điều
đáng chú ý ở đây là nếu người lao động cho rằng trong tương lai lạm phát xảy ra là
thấp thì yêu cầu đòi tăng lương sẽ thấp và có thể không xảy ra, còn nếu người lao
động cho rằng lạm phát khó có thể kiềm chế được thì yêu cầu đòi tăng lương sẽ
cao. Do vậy, việc phát ra những dấu hiệu đáng tin cậy cho thị trường rằng lạm
phát sẽ đi xuống và được kiểm soát trong tương lai là rất quan trọng đối việc giảm
lạm phát quán tính. Những dấu hiệu này chỉ có thể có được từ việc công bố và
thực thi các chính sách đáng tin cậy để kiềm chế lạm phát của chính phủ.
Như vậy, qua các quan điểm về lạm phát của các nhà kinh tế theo hai
trường phái trọng tiền và Keynes đã trình bày ở trên, có thể nhận thấy rằng lạm
phát là một hiện tượng kinh tế rất phức tạp vì nó có liên quan đến nhiều vấn đề,
nhiều mặt của nền kinh tế, đặc biệt là liên quan đến tiền tệ và giá trị của đồng
tiền. Tuy quan điểm của các nhà kinh tế về lạm phát có một số điểm khác nhau,
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 9
nhưng nhìn chung, đa số họ đều cho rằng biểu hiện bên ngoài của lạm phát là sự
gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế. Mức giá chung là mức giá
cả trung bình của tất cả các loại hàng hàng, dịch vụ, vì thế, khi mức giá chung tăng
lên không có nghĩa là tất cả các mặt hàng đều tăng giá mà có thể có một số mặt
hàng không thay đổi giá hay giảm giá so với trước. Do đó, khi nói đến lạm phát là
nói đến sự tăng giá cả hàng hoá trên diện rộng và kéo dài chứ không phải là sự
tăng giá của các hàng hoá riêng lẻ, nhất thời. Hơn nữa, giá cả là biểu hiện bằng
tiền giá trị của hàng hoá, hay nói cách khác, tiền tệ là thước đo giá trị của hàng
hoá, cho nên giá trị của đồng tiền thay đổi cũng làm thay đổi giá cả hàng hoá,
chính vì vậy, lạm phát xảy ra suy cho cùng ít nhiều đều liên quan đến chính sách
tiền tệ và tài chính của quốc gia.
1.2. TÍNH HAI MẶT CỦA LẠM PHÁT
Lạm phát xảy ra nói chung là một tín hiệu không tốt cho nền kinh tế. Duy
trì lạm phát sẽ làm giảm dần lợi tức thực của những người có thu nhập thấp, những
người hưởng lương hưu và dẫn đến sai lệch trong việc phân phối của cải của xã
hội. Tuy nhiên, lịch sử lạm phát đã cho thấy rằng không phải bất cứ lúc nào lạm
phát xảy ra cũng là xấu, và cũng không phải ai cũng bị thiệt hại khi nền kinh tế bị
lạm phát. Cũng như đa số các hiện tượng kinh tế khác, lạm phát cũng có tính hai
mặt của nó là mang lại lợi ích cũng như gây ra thiệt hại đối với nền kinh tế.
2.3.3. Những tác động tích cực của lạm phát đối với nền kinh tế
Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô, khi nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng,
hay nói cách khác, khi các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, vốn, công nghệ…
chưa được khai thác hết thì khi mức giá chung tăng lên sẽ có tác dụng kích thích
các doanh nghiệp gia tăng đầu tư để tăng sản lượng hàng hoá cung ứng trên thị
trường, làm cho sản xuất được mở rộng. Sản xuất mở rộng sẽ tạo ra được nhiều
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 10
công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng thu nhập của người dân. Đầu tư
cho sản xuất tăng, thu nhập của người dân tăng sẽ góp phần làm tăng tổng cầu.
Tổng cầu tăng lại tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Sản xuất và tiêu dùng liên
tục phát triển, mở rộng sẽ góp phần duy trì sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.
Trên giác độ này, lạm phát được xem là một nhân tố kích thích kinh tế phát triển.
Giá cả chung tăng tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, nhưng không phải
tất cả các ngành trong nền kinh tế đều phát triển. Giá cả tăng sẽ làm cho các yếu
tố sản xuất đầu vào tăng giá, làm tăng chi phí sản xuất. Vì thế, những ngành nào
tăng được giá bán thì sẽ tồn tại và phát triển, còn những ngành nào mà giá bán
không tăng được, hay thậm chí còn giảm xuống, thì có thể bị thu hẹp dần. Kết quả
là vốn đầu tư sẽ chuyển dịch, các ngành kinh tế phát triển được thì sẽ thu hút được
nhiều vốn đầu tư, còn các ngành không phát triển được sẽ thu hút được ít vốn đầu
tư, hơn nữa vốn đầu tư còn bị rút dần để đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề
khác. Điều này sẽ góp phần làm biến đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng có lợi và
hiệu quả hơn.
Giá cả tăng không những góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế mà còn tạo
ra một áp lực cạnh tranh rất lớn trong nền kinh tế ở hầu hết các ngành nghề. Đối
với các ngành tăng được giá bán áp lực lớn nhất đối với các doanh nghiệp là làm
sao để duy trì và phát triển thị phần của mình. Còn những ngành không tăng giá
được các doanh nghiệp phải chịu áp lực lớn hơn vì vừa phải duy trì thị phần vừa
phải cố gắng hạ thấp chi phí để đảm bảo có lợi nhuận. Trong bối cảnh đó, để tồn
tại và phát triển buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng
cao năng suất lao động, năng lực quản lý, cải tiến chất lượng sản phẩm và hạ giá
thành sản phẩm.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 11
Theo quan niệm của các nhà đầu tư tài chính, lạm phát cũng được xem như
là một nhân tố rủi ro tiềm ẩn và là một động cơ cần thiết để đầu tư sinh lợi. Rủi ro
này thể hiện ở sự không chắc chắn về giá trị của đồng tiền trong tương lai. Nếu
lạm phát tăng thì một đồng ngày hôm nay sẽ có giá trị nhiều hơn một đồng trong
tương lai, tức giá trị đồng tiền giảm đi. Giá trị đồng tiền giảm đi theo thời gian như
là một thứ thuế đánh trên những người nắm giữ tiền. Điều này sẽ khuyến khích
những người nắm giữ tiền sử dụng tiền của mình để đầu tư sinh lợi, chẳng hạn như
gửi tiết kiệm, mua chứng khoán, góp vốn kinh doanh…, nhằm bảo tồn được giá trị
thực của tiền và có thể mang lại một giá trị tiền tệ lớn hơn. Kết quả là làm tăng
hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Giá cả tăng lên, đồng tiền bị mất giá, điều này sẽ có lợi cho một số bộ phận
trong xã hội đó là: chính phủ, các doanh nghiệp và người vay nợ.
- Chính phủ là người hưởng lợi trước tiên từ lạm phát. Giá cả tăng sẽ làm
tăng thu nhập của nhà sản xuất, và vì thế mức lương của người lao động cũng tăng
theo. Khi thu nhập của xã hội tăng thì thuế trả cho nhà nước cũng tăng. Trong khi
đó, các khoản chi trả lương, trợ cấp hưu trí… của nhà nước thường mang tính ổn
định trong một thời gian dài, hoặc nếu thay đổi cũng không bằng nguồn thu tăng
thêm vào ngân sách do tăng giá, cho nên nhà nước vẫn được lợi từ lạm phát. Hơn
nữa, chính phủ thường là chủ nợ lớn nhất trong xã hội dưới dạng các tài sản tài
chính như trái phiếu chính phủ, lạm phát sẽ làm cho phần lãi suất thực mà chính
phủ chi trả cho các khoản nợ bằng tiền trong nước sẽ giảm đi. Và nếu lạm phát
xảy ra là do phát hành tiền thì chính phủ càng được lợi hơn nữa, vì năng lực mua
sắm của những đồng tiền hiện có sẽ bị sụt giảm và chuyển dịch vào những đồng
tiền phát hành mới. Như vậy, rõ ràng chính phủ sẽ rất có lợi vì chỉ cần bỏ ra một ít
chi phí để in tiền là có thể dùng để mua sắm một khối lượng hàng hoá lớn hơn trên
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 12
thị trường. Cũng chính vì những mối lợi này mà đa số các chính phủ đều cố gắng
duy trì lạm phát trong nền kinh tế.
- Các doanh nghiệp cũng có lợi từ lạm phát đứng trên giác độ tăng giá bán
so với sự thay đổi tiền lương của người lao động. Thông thường, khi lạm phát xảy
ra các doanh nghiệp thường sẽ tăng giá bán trước khi có những quyết định để thay
đổi tiền lương cho người lao động. Sự thay đổi lương này thông thường được thực
hiện vào thời điểm đầu năm, và nếu có tăng lương thì mức tăng cũng thể không
cao hơn mức tăng giá vì thế lợi nhuận của nhà sản xuất thường cao hơn so với
trước.
- Đối với những người đi vay, nếu lãi suất đi vay không gắn với sự thay đổi
lạm phát thì khi giá cả tăng, năng lực mua sắm của đồng tiền bị giảm sút, vì thế
giá trị đồng tiền khi họ vay sẽ cao hơn giá trị đồng tiền mà họ trả lại nợ vay cho
chủ nợ, do đó người đi vay cũng sẽ được hưởng lợi từ lạm phát. Dĩ nhiên, nếu lãi
suất vay gắn với sự biến động của lạm phát thì người đi vay sẽ không có lợi gì.
Như vậy, lạm phát xảy ra cũng có những tác động tích cực nhất định đối với
nền kinh tế như tăng trưởng, gia tăng việc làm, kích thích cạnh tranh, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn... Tuy nhiên, những tác động tích cực trên chỉ có được thực
sự khi lạm phát xảy ra là thấp và mang tính ổn định trong một thời gian dài.
2.3.4. Những tác động tiêu cực của lạm phát đối với nền kinh tế
Mặc dù trong một số trường hợp nào đó, lạm phát xảy ra là có lợi cho nền
kinh tế, nhưng nhìn chung, lạm phát xảy ra đều có những tác động tiêu cực đối với
nền kinh tế, thể hiện ở một số mặt như : phân bố nguồn lực, phân phối thu nhập,
phát triển kinh tế và lãng phí của xã hội.
1.2.2.1. Phân bố nguồn lực không hiệu quả
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 13
Khi lạm phát xảy ra đồng tiền sẽ bị mất giá, đặc biệt là trong thời kỳ lạm
phát cao thì giá trị đồng tiền sẽ sụt giảm nghiêm trọng, cho nên càng giữ nhiều
tiền mặt trong tay thì càng trở nên nghèo đi. Để đối với với tình trạng này, người
ta chuyển sang nắm giữ các tài sản khác lâu bền hơn và giá trị ít bị biến động bởi
lạm phát hơn như bất động sản, vàng, đá qúi và các loại ngoại tệ mạnh. Các khoản
tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng sẽ bị sụt giảm do người dân không thích gửi tiền
vào ngân hàng nữa, không những thế họ còn đổ xô đến ngân hàng để rút tiền ra.
Điều này làm cho nguồn vốn cho vay của các ngân hàng bị giảm sút nghiêm trọng.
Nguồn vốn ngân hàng giảm sẽ làm tăng lãi suất cho vay, dẫn đến vốn đầu tư cho
sản xuất cũng giảm. Kết quả là vốn đầu tư vào sản xuất sẽ giảm đi, trong khi đó
vốn đầu tư vào các tài sản ngoài sản xuất như bất động sản sẽ tăng lên. Xét trên
giác độ nền kinh tế, các tài sản ngoài sản xuất không góp phần tạo ra sản phẩm
cho xã hội vì thế việc đầu tư nhiều vào các tài sản này sẽ làm giảm hiệu quả của
nền kinh tế.
1.2.2.2. Phân bố thu nhập bị biến dạng
Như đã phân tích ở phần trên, đứng trên giác độ phân phối thu nhập trong
xã hội thì lạm phát xảy ra sẽ có lợi cho người đi vay, nhà sản xuất và người phát
hành tiền, chính phủ, ngược lại, những người cho vay và những người hưởng lương,
trợ cấp sẽ bị thiệt hại.
Đối với người hưởng lương, trợ cấp thì khi lạm phát xảy ra, lương của họ
thường được điều chỉnh sau khi giá cả tăng lên, nhưng hầu như tốc độ tăng lương
không bằng với tốc độ tăng giá cả, vì thế lượng hàng hoá mà họ tiêu dùng sẽ thấp
hơn so với trước, kết quả là thu nhập thực sự của họ giảm xuống, do đó mức sống
sẽ ngày càng thấp nếu lạm phát ngày càng cao. Hơn nữa, do tốc độ tăng lương
chậm hơn tốc độ tăng giá sẽ làm cho lợi nhuận của nhà sản xuất tăng lên, do đó
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 14
một phần những khoản thiệt hại mà người lao động phải chịu đã chuyển thành
phần lợi mà nhà sản xuất được hưởng. Điều này làm cho nhà sản xuất dường như
ngày càng giàu hơn, trong khi đó người lao động, hưu trí ngày càng nghèo đi.
Đối với những người cho vay, thường là họ cho vay dưới dạng lãi suất cố
định, khi lạm phát xảy ra, những đồng tiền mà họ nhận được từ việc cho vay sẽ có
giá trị thấp hơn lúc cho vay, vì thế phần lãi suất thực mà họ được hưởng sẽ giảm
sút, thậm chí còn bị âm nếu lạm phát quá cao. Trong số những người cho vay, có
thể nói dân chúng là người cho vay nhiều nhất dưới dạng tiền gửi tiết kiệm và mua
trái phiếu chính phủ, nên cũng là những người chịu thiệt hại nhiều nhất.
1.2.2.3. Làm suy thoái kinh tế
Lạm phát xảy ra làm cho nguồn lực phân bố không hiệu quả, các khoản đầu
tư không sản xuất gia tăng làm cho các khoản đầu tư vào sản xuất sụt giảm, làm
giảm cầu về các yếu tố sản xuất, do đó làm giảm tổng cầu của nền kinh tế. Tổng
cầu và sản xuất sụt giảm sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế, tăng tình trạng thất
nghiệp và dẫn đến suy thoái kinh tế.
Lạm phát cao sẽ làm cho việc dự đoán giá cả và chi phí gặp khó khăn, do
đó các dự án đầu tư mới cũng sẽ khó được thực hiện. Giá cả tăng nên các yếu tố
sản xuất đầu vào cũng tăng, nhu cầu tiền vốn để thanh toán các giao dịch mua bán
cũng tăng làm cho lãi suất tăng cao. Lãi suất tăng lại làm tăng chi phí sản xuất,
giảm lợi nhuận cho nên sẽ không khuyến khích sản xuất phát triển. Hơn nữa, chi
phí tăng cao, lợi nhuận thấp sẽ không hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền vào thị
trường vốn. Kết quả là thị trường vốn trong nước bị suy yếu và thu hẹp dần, các
luồng vốn đầu tư quốc tế sẽ chạy qua các nước khác có mức lạm phát thấp hơn và
ổn định hơn.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 15
Ngoài ra, nếu lạm phát trong nước cao hơn lạm phát ở nước ngoài sẽ làm
cho giá cả của hàng hoá trong nước tăng lên làm giảm sức cạnh tranh của hàng
hoá xuất khẩu, đồng thời kích thích nhập khẩu hàng hoá. Xuất khẩu giảm, nhập
khẩu tăng sẽ làm mất cân đối cán cân thanh toán quốc tế, làm thu hẹp sản xuất
trong nước.
1.2.2.4. Tốn kém chi phí của xã hội
Do lạm phát gây ra những thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế như đã kể
trên, vì thế khi lạm phát xảy ra các bộ phận trong nền kinh tế gồm chính phủ,
doanh nghiệp và người dân phải mất chi phí để tìm cách đối phó và kiểm soát lạm
phát.
Lạm phát xảy ra, người dân mà nhất là người lao động, hưu trí là những
người chịu thiệt hại nhiều nhất. Để đối phó với tình trạng này họ phải mất nhiều
thời gian, công sức để tính toán, tìm kiếm và mua sắm những hàng hoá có thể cất
trữ giá trị tốt hơn. Tiền mặt càng nhiều, thiệt hại càng lớn vì thế khối lượng giao
dịch mua bán hàng hoá cũng tăng lên, người dân chỉ cất trữ một số lượng rất ít tiền
mặt trong thời kỳ lạm phát để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu tối thiểu hàng ngày.
Hơn nữa, do tiền gửi tiết kiệm trong dân cũng rất lớn, do đó, người dân cũng phải
tốn nhiều thời gian, chi phí để đến các ngân hàng rút tiền và thanh toán các khoản
nợ mua hàng hoá, dịch vụ.
Khi lạm phát gia tăng, để có thể chủ động đối phó với các tình huống xấu
có thể xảy ra các doanh nghiệp phải tốn nhiều tiền hơn cho việc tổng hợp, phân
tích và dự báo thông tin kinh tế liên quan đến thị trường. Hơn nữa, để tránh bị lỗ
các doanh nghiệp cũng buộc phải thay đổi giá bán. Họ phải mất thời gian và tốn
kém chi phí để tính toán lại giá bán, in ấn lại bảng giá. Đối với những hàng hoá
mà giá in sẵn trên sản phẩm thì phải tốn thêm chi phí để điều chỉnh lại giá. Các
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 16
chi phí giao dịch với khách hàng cũng tăng lên để thông báo, giải thích về việc
thay đổi giá. Trong thời gian ngắn, sự sụt giảm về khối lượng hàng hoá bán ra là
không tránh khỏi do điều chỉnh tăng giá.
Lạm phát xảy ra ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trên giác độ
là người quản lý kinh tế vĩ mô chính phủ cũng phải tìm các biện pháp để kiểm soát
lạm phát sao cho có lợi nhất cho nền kinh tế. Các biện pháp này cũng đòi hỏi phải
tốn thời gian, công sức và chi phí để thực hiện. Chẳng hạn như để chống lại tình
trạng lạm phát do một số loại nguyên vật liệu nhập khẩu tăng đột biến làm mức
giá chung tăng lên trên diện rộng, chính phủ có thể áp dụng biện pháp giảm thuế
nhập khẩu, chi bù lỗ cho các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng này... Điều
này sẽ làm giảm nguồn thu vào ngân sách nhà nước và tăng chi tiêu của chính
phủ.
1.3. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT
Hiện nay có nhiều phương pháp được dùng để đo lường lạm phát. Tùy vào
điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia mà chính phủ lựa chọn phương pháp phù hợp
sao cho kết quả đo lường có thể phục vụ một cách đắc lực nhất cho việc điều hành
các chính sách kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Để tính toán lạm phát, các
phương pháp được lựa chọn thường dùng các chỉ số như chỉ số giá sản xuất (PPI),
chỉ số giảm phát GDP, chỉ số giá bán lẻ (RPI), chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Trong
đó, hai chỉ số được sử dụng phổ biến nhất là chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số giảm
phát GDP.
Đo lường chỉ số giá tiêu dùng CPI:
10000
0
x
ii
i
t
i
qp
qp
CPI ∑
∑=
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 17
0
ip : giá bán lẻ của sản phẩm i ở thời điểm 0.
t
ip : giá bán lẻ của sản phẩm i ở thời điểm t.
0
iq : lượng sản phẩm i ở thời điểm 0.
Tỷ lệ lạm phát:
Tỷ lệ lạm
phát năm t 100x CPI
CPI - CPI
1-t
1-tt
=
Chỉ số giá tiêu dùng được dùng để phản ánh mức giá trung bình của một rổ
hàng hoá, dịch vụ ở kỳ hiện hành so với kỳ gốc. Nhược điểm chính của chỉ số này
là sự giới hạn của rổ hàng hoá cũng như sử dụng trọng số cố định trong tính toán.
Do đó, chỉ số giá không phản ánh được sự thay đổi chất lượng của hàng hoá, cơ
cấu hàng hoá tiêu dùng và sự biến đổi chi tiêu của người tiêu dùng cho những
hàng hoá khác nhau theo thời gian. Còn chỉ số giảm phát GDP được tính dựa vào
toàn bộ khối lượng hàng hoá, dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một năm và
giá cả ở kỳ hiện hành so với kỳ gốc. Về cơ bản thì chỉ số giảm phát GDP sẽ tính
toán lạm phát chính xác hơn chỉ số giá tiêu dùng theo định nghĩa về lạm phát, vì
nó thể hiện được xu hướng tăng mức giá chung của hàng hoá. Tuy nhiên, chỉ số
giảm phát GDP chỉ tính được lạm phát của một năm sau khi đã có thông báo chính
thức về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của năm đó, còn chỉ số giá sẽ có ưu điểm
hơn là tính được lạm phát tại từng tháng, từng qúy hay từng năm.
Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng phổ biến để thông tin về tình
hình lạm phát ở các thời kỳ trong năm, lạm phát đó gọi là lạm phát chỉ số giá tiêu
dùng. Nhưng việc sử dụng chỉ số này làm mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ đã
gây ra nhiều tranh cãi và không thống nhất ở mỗi quốc gia. Đó là vì do xuất phát
từ các nhược điểm chính như đã kể trên, chỉ số giá tiêu dùng rất dễ bị tác động bởi
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 18
các cú sốc tạm thời lên một số hàng hoá, đặc biệt là những mặt hàng chiếm tỷ
trọng lớn trong rổ hàng hoá. Chính vì dễ bị tác động nên chỉ số giá tiêu dùng
thường không ổn định, do đó sẽ dễ dẫn đến sai lệch khi dùng nó để dự báo xu
hướng lạm phát và có thể làm chệch hướng chính sách tiền tệ. Khắc phục nhược
điểm đó, các nước đã áp dụng nhiều phương pháp để tìm ra một chỉ số giá khác
mang tính ổn định hơn và ít chịu sự tác động của những cú sốc tạm thời hơn. Chỉ số
giá mới này được tính toán trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng nhưng có loại trừ ảnh
hưởng của các hàng hoá có mức giá dao động mạnh như: giá lương thực thực
phẩm, xăng dầu, năng lượng. Do đó, lạm phát được đo lường từ chỉ số giá mới này,
được gọi là “lạm phát cơ bản” (core inflation), sẽ thể hiện chính xác hơn sự gia
tăng mức giá chung của nền kinh tế. Và đây là mục tiêu chính mà chính sách tiền
tệ cần tác động để kiểm soát lạm phát trong nền kinh tế.
1.4. KINH NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI
1.4.1. Chấm dứt siêu lạm phát ở Bolivia
Chương trình chống lạm phát nổi bật nhất trong thập kỷ 80 là chương trình
của Bolivia. Nửa đầu năm 1985, tỷ lệ lạm phát của Bolivia là 20.000% và đang
trên đà tăng lên. Tỷ lệ lạm phát cao đến nỗi giá vé chiếu bóng thường tăng trong
khi người dân đang xếp hàng mua vé. Tháng 08/1985, Tổng thống mới của Bolivia
tuyên bố chương trình chống lạm phát, gọi là “Chính sách kinh tế mới”. Để kìm
chế sự tăng trưởng tiền tệ và thiết lập lòng tin, chính phủ mới tiến hành những
biện pháp mạnh mẽ để giảm thâm hụt ngân sách bằng cách đóng cửa nhiều xí
nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả, hủy bỏ trợ cấp, giữ yên tiền lương của
khu vực nhà nước, và tăng thuế thu nhập. Ngân sách nhà nước được giữ thăng
bằng trên cơ sở hàng ngày và không có ngoại lệ, bộ trưởng tài chính không cho
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 19
phép chi quá số thuế đã thu được từ ngày hôm trước. Kết quả là lạm phát ở Bolivia
đã dừng lại trên đường đi của nó trong vòng một tháng và mức tụt giảm sản phẩm
rất ít, không đến 5% GDP.
Như vậy, kinh nghiệm rút ra từ việc kiểm soát lạm phát ở Bolivia là khi rơi
vào tình trạng siêu lạm phát, chính phủ cần phải kiên quyết thực hiện các biện
pháp triệt để và đồng bộ nhằm hạ nhiệt cơn sốt lạm phát.
1.4.2. Kiểm soát lạm phát ở Trung quốc
Kể từ khi thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, nền kinh tế Trung quốc
đã có những bước phát triển rất nhanh, tốc độ tăng trưởng bình quân vào khoảng
10% một năm. Đặc biệt, từ năm 2003 cho đến nay, nền kinh tế Trung Quốc đã
phát triển quá nóng so với các nước khác trên thế giới, điều này tạo ra một áp lực
rất lớn cho nguy cơ xảy ra lạm phát cao. Gần cuối năm 2004, Trung Quốc đã trở
thành nước lớn thứ ba trên thế giới về kim ngạch ngoại thương và đạt trên 1.000 tỷ
USD. Trước tình hình đó, chính phủ Trung Quốc đã đề ra các biện pháp cấp bách
nhằm hạ nhiệt nền kinh tế và giảm nguy cơ lạm phát cao.
Biện pháp trước tiên mà chính phủ Trung Quốc thực hiện là cắt giảm đầu tư
và chi tiêu một cách nhanh chóng. Từ năm 2003, Trung Quốc bắt đầu giảm mạnh
việc phát hành trái phiếu chính phủ xuống còn 150 tỷ NDT, và dự kiến năm 2004
còn giảm thấp hơn năm 2003. Bên cạnh đó, chính phủ Trung Quốc cũng thực hiện
việc cắt giảm chi ngân sách và chi đầu tư. Ngay từ trung tuần tháng 05/2004,
Trung Quốc đã quyết định cắt giảm ngay các khoản đầu tư vào các ngành sản xuất
thép, kim loại màu, vật liệu xây dựng, dệt may... để kịp thời ngăn chặn lạm phát
và tăng trưởng kinh tế quá nóng.
Thứ hai, chính phủ Trung Quốc đã tiến hành các biện pháp để điều chỉnh
giá cả thị trường, đặc biệt là thị trường bất động sản, vật liệu xây dựng, xăng dầu
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 20
và điện. Theo đó, hạn chế tối đa việc khởi công thực hiện các dự án mới và việc
đầu tư vào những dự án kém hiệu quả, chồng chéo ngành nghề, nhưng đồng thời
cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, dự án làm ăn có hiệu quả. Về
thị trường bất động sản, xác định nguyên nhân tăng giá nhà đất là do một số nhà
đầu tư đã bỏ vốn đầu cơ vào nhà đất chứ không phải đầu tư vào phát triển kinh
doanh và do tốc độ đô thị hoá đang diễn ra rất nhanh, hàng năm có hàng triệu
người từ nông thôn nhập cư vào các thành phố. Vì vậy, chính phủ Trung Quốc đã
có các biện pháp để kiểm soát tăng giá bất động sản như thu hồi các bất động sản
không đưa vào sử dụng trong vòng hai năm, điều tiết để giá bất động sản không
tăng nhanh hơn tỷ lệ lãi suất ngân hàng, bãi bỏ các dự án treo chưa thực hiện hoặc
kéo dài.
Thứ ba, để kiểm soát việc gia tăng đầu tư, chính phủ Trung Quốc đã cho
thực hiện các chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát việc gia tăng tín dụng và
khả năng thanh toán của hệ thống tài chính trong nước. Liên tục từ năm 2003 đến
nay, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã nhiều lần thực hiện điều chỉnh lãi suất
tín dụng, và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng từ 6% lên 7,5%. Từ
đầu năm 2004, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã cho mở rộng biên độ dao
động lãi suất của các tổ chức tín dụng lên 1,7 lần so với mức lãi suất cơ bản, trong
đó, hợp tác xã nông thôn được mở rộng biên độ lãi suất lên đến 2 lần so với mức
lãi suất cơ bản.
Thứ tư, củng cố và đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống của
người dân nông thôn, và duy trì sự ổn định của giá cả lương thực. Từ đầu năm
2004, Trung quốc bắt đầu thực hiện việc cắt giảm thuế nông nghiệp và dự kiến
trong vài năm nữa sẽ tiến tới xoá bỏ thuế nông nghiệp. Bên cạnh đó, chính phủ
Trung quốc cũng gia tăng đầu tư vào các cơ sở hạ tầng nông thôn và các doanh
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 21
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Tăng cường quản lý các loại vật tư,
phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và thực hiện việc trợ cấp trực tiếp cho
nông dân trồng cây lương thực.
Với những biện pháp quyết liệt và đồng bộ nêu trên, tình hình tăng trưởng
kinh tế quá nóng của Trung quốc đã có dấu hiệu chững lại, các nguy cơ gây áp lực
tăng giá đã có dấu hiệu giảm xuống. Theo dự đoán, năm 2004 tốc độ tăng trưởng
của Trung Quốc sẽ đạt 9,3% và lạm phát là 5%.
Qua kinh nghiệm kiểm soát lạm phát của Trung Quốc, có thể thấy rằng tăng
trưởng quá cao sẽ làm gia tăng nguy cơ xảy ra tình trạng lạm phát cao. Vì vậy, cần
phải có các liệu pháp thích hợp để “hạ nhiệt” nền kinh tế một cách an toàn, tránh
gây ra những tác động bất lợi đối với tăng trưởng kinh tế.
1.4.3. Lạm phát mục tiêu, kinh nghiệm kiểm soát lạm phát ở một số nước kinh
tế phát triển
Trong suốt nhiều năm, một số nước có nền kinh tế phát triển như Anh, New
Zealand, Canada, Phần Lan, Thụy Điển,... đã bị thất bại trong việc kiểm soát lạm
phát bằng các phương pháp truyền thống khi sử dụng những mục tiêu trung gian
như lãi suất, tỷ giá hối đoái, kết quả là lạm phát thường ở mức cao và các chi phí
để kiểm soát lạm phát dường như rất tốn kém. Để khắc phục tình trạng trên, chính
phủ các nước đã nghiên cứu và áp dụng một phương cách để kiểm soát lạm phát
mới và bắt đầu tập trung vào mục tiêu chính là tỷ lệ lạm phát. Sự thay đổi này
trong việc kiểm soát lạm phát, chủ yếu sử dụng trong việc điều hành chính sách
tiền tệ được gọi là lạm phát mục tiêu. Tức thay đổi cách thức kiểm soát lạm phát,
chuyển từ việc chống lại lạm phát sang việc ngăn chặn các nguy cơ xảy ra lạm
phát, tức chuyển từ chữa bệnh sang phòng ngừa bệnh.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 22
Trước tiên, chính phủ các nước này quyết định rằng đạt được mục tiêu ổn
định giá, tức là một tỷ lệ lạm phát thấp và ổn định, là trách nhiệm chính của chính
sách tiền tệ để hỗ trợ phát triển kinh tế. Thứ hai, kinh nghiệm thực tế đã chứng
minh rằng trong thời gian ngắn hạn, việc sử dụng chính sách tiền tệ để đạt được
những mục tiêu khác như tăng trưởng và việc làm cao, có thể tạo ra mâu thuẫn với
chính sách ổn định giá. Một số nhà kinh tế cho rằng việc cố gắng để đạt nhiều
mục tiêu kinh tế khiến cho chính sách tiền tệ có khuynh hướng tạo ra lạm phát.
Ngân hàng trung ương chắc chắn sẽ bị nhiều chỉ trích của xã hội khi tăng lãi suất
để chống lạm phát hơn là hạ thấp lãi suất, và họ phải chịu áp lực thường xuyên đối
với việc hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế. Lạm phát mục tiêu sẽ làm thay đổi sự
bất cân xứng này bằng việc xem lạm phát là mục tiêu cơ bản của chính sách tiền
tệ, còn các mục tiêu việc làm, tăng trưởng hay các mục tiêu khác chỉ là thứ yếu.
Điều này cũng buộc ngân hàng trung ương phải có cái nhìn đi trước, nhằm sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt để làm giảm bớt các áp lực
gây ra lạm phát.
Về lý thuyết, lạm phát mục tiêu không quá phức tạp để thực hiện. Theo đó,
ngân hàng trung ương sẽ dự đoán đường đi tương lai của lạm phát, dự đoán này có
so sánh với tỷ lệ lạm phát mục tiêu mà chính phủ đã lựa chọn và tin tưởng thích
hợp đối với nền kinh tế. Sự khác nhau giữa dự đoán và mục tiêu sẽ làm căn cứ
định lượng cho chính sách tiền tệ. Những nước áp dụng phương pháp lạm phát mục
tiêu tin tưởng rằng điều này sẽ làm thay đổi nội dung và hình thức của chính sách
tiền tệ được thực hiện bởi ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, để có thể áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu đòi hỏi phải hội
đủ hai điều kiện cần thiết. Thứ nhất, ngân hàng trung ương phải có khả năng để
điều hành chính sách tiền tệ ở một mức độ tương đối độc lập, ít chịu tác động của
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 23
chính phủ. Dĩ nhiên không có ngân hàng trung ương nào hoàn toàn độc lập khỏi
chính phủ, nhưng nó phải được tự do trong việc chọn các công cụ để đạt được tỷ lệ
lạm phát mà chính phủ cho là thích hợp. Để tuân thủ với điều kiện này, một quốc
gia không thể biểu lộ sự thống trị của chính sách tài chính, tức chính sách tài chính
không được chi phối chính sách tiền tệ. Sự độc lập khỏi chính sách tài chính ngụ ý
rằng chính phủ mượn tiền từ ngân hàng trung ương cao hay thấp là tùy thuộc thị
trường tài chính trong nước có đủ khả năng để tiếp nhận các khoản nợ hay không.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc thu nhập của chính phủ không được dựa vào
nguồn thu nhập từ việc đúc tiền. Nếu vị thế tài chính tồn tại, áp lực lạm phát do
nguyên nhân tài chính sẽ làm suy yếu những kết quả của chính sách tiền tệ bằng
việc ràng buộc ngân hàng trung ương đáp ứng các nhu cầu tiền tệ của chính phủ
như nới lỏng lãi suất để đạt được các mục tiêu tài chính. Điều kiện thứ hai để thực
hiện lạm phát mục tiêu là sự sốt sắng và khả năng của các quan chức điều hành
chính sách tiền tệ không chuyển sang việc thực hiện các mục tiêu khác như: việc
làm, tỷ giá hối đoái. Chẳng hạn như, một quốc gia lựa chọn hệ thống tỷ giá hối
đoái cố định thường theo đuổi mục tiêu tỷ giá, do đó sẽ không có khả năng để
điều hành một hệ thống lạm phát mục tiêu, đặc biệt khi vốn được tự do lưu chuyển
ra vào khỏi quốc gia. Vì vậy, mọi người sẽ không chắc chắn được rằng các quan
chức điều hành sẽ ưu tiên cho việc thực hiện lạm phát mục tiêu hay là tỷ giá hối
đoái, điều này làm cho chính sách tiền tệ không có được sự đáng tin cậy, một điều
kiện cần thiết cho việc thành công của chính sách.
Như vậy, về mặt lý thuyết nếu thỏa mãn hai điều kiện căn bản này, một
quốc gia có thể điều hành chính sách tiền tệ của mình tập trung vào lạm phát mục
tiêu. Trên thực tế, để lựa chọn tỷ lệ lạm phát mục tiêu các quan chức điều hành
cũng phải thực hiện một vài bước sơ bộ. Họ phải thiết lập những mục tiêu định
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 24
lượng về lạm phát cho một vài thời kỳ trong tương lai. Họ phải biểu thị một cách
rõ ràng và minh bạch với cộng đồng rằng việc đạt được lạm phát mục tiêu là ưu
tiên hàng đầu so với các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ. Họ phải xây dựng
một mô hình hay phương pháp để dự đoán lạm phát, trong đó có sử dụng một số
dấu hiệu hàm chứa thông tin về lạm phát tương lai. Sau cùng, họ phải đề ra kế
hoạch cho các phương thức thực hiện trong tương lai trong đó, các công cụ của
chính sách tiền tệ được điều chỉnh để đạt được mục tiêu lạm phát đã lựa chọn.
Muốn vậy, các quan chức điều hành phải có năng lực tổ chức và điều hành đối với
mô hình, có khả năng dự đoán lạm phát, biết được độ trễ thời gian của việc thực
hiện các công cụ chính sách tiền tệ tác động lên tỷ lệ lạm phát, cũng như sự phối
của các công cụ với nhau trong việc kiểm soát lạm phát.
Với phương thức kiểm soát lạm phát mới được áp dụng, các nước kinh tế phát
triển nêu trên đã đạt được những thành công nhất định trong việc kiểm soát lạm
phát, thực tế là trong hơn một thập kỷ qua, tỷ lệ lạm phát ở các nước này luôn
được duy trì ổn định ở mức thấp.
Qua kinh nghiệm kiểm soát ở một số nước đã phát triển, ta có thể thấy rằng
khi nền kinh tế đã tăng trưởng ổn định, thì vấn đề ổn định giá được ưu tiên hàng
đầu trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Hơn nữa, để việc thực thi chính sách tiền
tệ đạt được hiệu quả cao đòi hỏi các quan chức điều hành chính sách tiền tệ phải
có trình độ cao, năng lực quản lý giỏi và tính độc lập cao của ngân hàng trung
ương trong điều hành chính sách tiền tệ.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 25
Kết luận chương 1
Lạm phát là một hiện tượng của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, khi nào còn
tiền tệ thì lạm phát vẫn còn xuất hiện. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau liên
quan đến vấn đề lạm phát, nhưng đa số các nhà kinh tế đều có một thống nhất
chung rằng lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế.
Mức giá chung tăng lên là do nhiều nguyên nhân, trong đó có ba nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến việc tăng giá đó là do tăng cung ứng tiền tệ, do cầu kéo và do chi phí
đẩy. Nếu xét trong dài hạn, việc tăng mức giá chung bao giờ cũng liên quan đến
việc tăng cung tiền trong nền kinh tế và tình trạng lạm phát cao bao giờ cũng gắn
liền với việc phát hành quá mức tiền giấy vào trong lưu thông. Chính vì thế, việc
kiểm soát lạm phát luôn là đối tượng của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá
của một quốc gia.
Tùy vào đặc điểm và tình hình kinh tế ở mỗi nước, các quốc gia khác nhau
có thể lựa chọn các phương thức khác nhau để kiểm soát lạm phát, hoặc đưa ra các
biện pháp kiểm soát khi lạm phát đã xảy ra hoặc đưa ra các biện pháp phòng ngừa
ngăn chặn lạm phát xảy ra. Thực tế kiểm soát lạm phát ở các nước hiện nay cho
thấy, việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa tỏ ra có hiệu quả và ít
tốn kém hơn trong việc kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, cho dù thực hiện theo
phương cách nào các biện pháp kiểm soát đưa ra muốn đạt được thành công đều
phải dựa trên sự phân tích kỹ càng các nguyên nhân gây ra lạm phát cũng như các
nhân tố gây áp lực lên lạm phát, có như vậy, các biện pháp đưa ra sẽ có tác động
nhanh hơn đến lạm phát và ít tốn kém hơn.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 26
THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ
KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN QUA
CHƯƠNG 2
Những năm 1976-1985, đời sống kinh tế xã hội của Việt Nam phải đương
đầu với muôn vàn khó khăn: những hậu quả kinh tế xã hội nặng nề sau chiến
tranh; tiếp đến là cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và cải tạo nông
nghiệp ở miền Nam đã khiến cho năng lực sản xuất của nền kinh tế bị giảm sút;
chiến tranh liên tiếp xảy ra ở biên giới phía Bắc và phía Nam buộc Nhà nước phải
huy động tất cả các nguồn lực để đảm bảo an ninh quốc phòng; cộng thêm sự cấm
vận bao vây kinh tế của Mỹ và các nước phương Tây… Tất cả những điều đó đã
khiến cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng. Giai
đoạn này, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm quốc nội chỉ
đạt trên dưới khoảng 2%, trong khi đó dân số tăng với tốc độ bình quân trên 2,24%
một năm. Tình hình đó khiến cho đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, dẫn
đến làn sóng vượt biên ra nước ngoài càng diễn ra mạnh mẽ. Nền kinh tế lâm vào
thế bế tắc, giá cả hàng hoá leo thang nhanh chóng làm cho đời sống người dân đã
khó khăn càng thêm khó khăn hơn.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn trước mắt, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị 100-CT về công tác mở rộng và khoán sản
phẩm đến người lao động. Đây thực sự là một bước đột phá trong sản xuất nông
nghiệp thời bấy giờ, bởi vì nó cho phép người nông dân sử dụng có hiệu quả toàn
bộ phần đất nhận khoán của mình chứ không phải ở những mảnh đất nhỏ được
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 27
phân như trước đây. Với cơ chế khoán mới này đã tạo đà cho sản xuất nông
nghiệp phát triển, sản lượng lương thực đã tăng từ 14,4 triệu tấn năm 1980 lên 15
triệu tấn năm 1981. Bên cạnh cải cách nông nghiệp, Chính phủ cũng đã ban hành
quyết định số 25-CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ
động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh.
Tuy nhiên, do vẫn tồn tại cơ chế quản lý kế hoạch tập trung nên những
chính sách cải cách trên chưa thể giúp Việt Nam thoát khoải khó khăn, nền kinh tế
vẫn đang trong tình trạng thiếu hụt. Tình hình càng tồi tệ hơn khi cuộc cải cách giá
– lương – tiền trong năm 1985 bị thất bại, khiến cho giá cả hàng hoá càng leo
thang dữ dội, đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy siêu lạm phát và đạt tới đỉnh
điểm vào năm 1986 lên tới 774,7%.
2.1. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1986-1991
2.1.1. Tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) được coi là điểm mốc của
công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Rút kinh nghiệm những sai lầm trong quản
lý kinh tế ở những năm trước, Đại hội đã quyết định đổi mới triệt để cơ chế quản
lý kinh tế với những nội dung cơ bản như: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần; chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước; thực hiện mở cửa kinh tế và
nâng cao hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hành dân chủ trong mọi mặt của nền
kinh tế xã hội.
Trên cơ sở Nghị quyết của Đại hội Đảng VI, trong giai đoạn này, Chính phủ
đã thực hiện hàng loạt các cuộc cải cách mạnh mẽ về nông nghiệp, công nghiệp,
tài chính, tiền tệ, mở rộng ngoại thương, thu hút vốn đầu tư nước ngoài… Kết quả
là nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, tăng trưởng kinh tế dần
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 28
đi vào ổn định và không ngừng tăng lên từ 2,84% năm 1986 tăng lên 5,8% vào
năm 1990.
Bảng 1. Tình hình tăng trưởng và lạm phát giai đoạn 1986-1991
-
100,00
200,00
300,00
400,00
500,00
600,00
700,00
800,00
GDP(%) 2,84 3,63 5,10 4,68 5,10 5,80
CPI(%) 774,70 373,00 223,10 34,70 67,50 67,30
1986 1987 1988 1989 1990 1991
(Nguồn: Số liệu thống kê và ADB)
Mặc dù đạt được những thành tựu đáng ghi nhận như trên về tăng trưởng
kinh tế, nhưng giai đoạn này Việt Nam cũng chứng kiến những cơn sốc lạm phát
nghiêm trọng xảy ra, liên tục từ năm 1986 đến năm 1988 lạm phát tăng ở ba con
số, năm 1986 là 774,7%, năm 1987 là 373%, năm 1988 là 223,1%. Lạm phát tăng
cao đã làm ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội. Những hậu quả
của tình trạng siêu lạm phát xảy ra trong giai đoạn này là:
- Đồng tiền bị mất giá nghiêm trọng khiến cho đời sống của người dân ngày
càng gặp nhiều khó khăn, các khoản nhận từ lương không đủ đảm bảo cho nhu cầu
chi tiêu tối thiểu hàng ngày;
- Để đối phó với việc đồng tiền bị mất giá, người dân đã gia tăng việc mua
sắm tích trữ hàng hoá và mua vàng, ngoại tệ, bất động sản để dự phòng cho sự sụt
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 29
giảm giá trị của đồng tiền. Kết quả là giá vàng và ngoại tệ tăng giá liên tục, và trở
thành một phương tiện thanh toán song song với tiền nội tệ;
- Giá cả leo thang, hàng hoá khan hiếm, sức mua gia tăng đã tạo điều thuận
lợi cho nạn đầu cơ tích trữ hàng hoá để trục lợi, buôn lậu diễn ra mạnh mẽ. Điều
này làm cho tình trạng mua bán vàng, ngoại tệ càng diễn ra mạnh mẽ hơn, kéo
theo khối lượng tiền rất lớn trong lưu thông;
- Thu chi ngân sách bị mất cân đối nghiêm trọng, các khoản chi ngân sách
tăng lên liên tục bởi vì giá cả tăng làm gia tăng chi tiêu ngân sách và gia tăng bù
lỗ cho khu vực kinh tế quốc doanh. Trong khi đó các khoản thu từ thuế chủ yếu
dựa vào khu vực kinh tế nhà nước, khu vực mà đa số các doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ, do đó, nguồn thu rất hạn hẹp và tăng không đáng kể. Điều này làm cho
tình trạng thâm hụt ngân sách ở mức cao và kéo dài;
- Đồng tiền bị mất giá khiến cho nguồn vốn huy động vào trong hệ thống
ngân hàng giảm sút nghiêm trọng, trong khi đó nhu cầu bổ sung vốn để bù đắp
nguồn vốn thiếu hụt do làm ăn thua lỗ và mua sắm nguyên vật liệu từ các doanh
nghiệp lại tăng lên, làm cho tình trạng thiếu vốn ngày càng trở nên gay gắt,…
- Giá cả tăng cao trong khi nguồn vốn và nguồn cung cấp nguyên vật liệu
lại trở nên khan hiếm, các doanh nghiệp không đủ năng lực để duy trì hoạt động
sản xuất và chạy theo sự biến động của giá cả, kết quả là sản xuất bị sụt giảm,
thất nghiệp gia tăng, điều này càng làm cho đời sống của người dân càng khó
khăn hơn khi phần lớn lao động làm việc trong khu vực nhà nước.
2.1.2. Nguyên nhân gây ra tình trạng siêu lạm phát thời kỳ này
Về mặt lý thuyết, ở bất cứ đâu và bất cứ thời điểm nào, lạm phát tăng cao
và kéo dài luôn luôn gắn liền với việc phát hành tiền giấy quá mức vào trong lưu
thông để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước. Nhìn vào diễn biến lạm phát của
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 30
Việt Nam giai đoạn này, lạm phát tăng rất cao ở mức từ hai đến ba con số và kéo
dài liên tục từ năm 1986 cho đến năm 1991. Như vậy rõ ràng, nguyên nhân chính
gây ra lạm phát ở Việt Nam thời gian này là do phát hành tiền giấy quá mức để bù
đắp thâm hụt ngân sách (hơn 50% khoản thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng
nguồn phát hành tiền giấy), làm cho khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên
rất nhanh, điều này cũng đồng nghĩa với việc làm gia tăng tổng cầu trong nền kinh
tế. Trong khi đó, nền sản xuất trong nước còn kém phát triển và chịu sự chi phối
rất lớn của các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhìn
chung vẫn chưa có điều kiện để phát triển mạnh. Do đó, sản phẩm hàng hoá sản
xuất ra cũng không nhiều và chất lượng cũng không được cao, không đáp ứng được
sự gia tăng nhanh chóng trong tổng cầu. Kết quả là các mối quan hệ cung – cầu,
tiền - hàng bị mất cân đối nghiêm trọng, một khối lượng tiền lớn hơn dùng để mua
một khối lượng hàng hoá ít ỏi, cung không đáp ứng được cầu, khiến cho giá cả
tăng lên.
Sự mất cân đối tiền – hàng càng gia tăng khi niềm tin của dân chúng vào
giá trị của đồng tiền bị giảm sút nghiêm trọng. Chức năng của tiền dùng làm
phương tiện cất trữ bị biến mất, mọi người chỉ giữ rất ít tiền trong túi để phục vụ
cho nhu cầu chi tiêu tối thiểu hàng ngày, khi có tiền trong tay họ lập tức chi tiêu
để mua sắm hàng hoá, vàng, ngoại tệ… Điều này làm cho tốc độ chu chuyển tiền
tệ gia tăng nhanh chóng mà không cần thanh toán qua ngân hàng, nhiều loại hàng
hoá tiêu dùng không còn mang tính chất để sử dụng mà trở thành một thứ hàng
hoá dùng để mua đi bán lại kiếm lời, điều này càng làm giá cả gia tăng nhanh
hơn.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 31
Như vậy, với sự gia tăng nhanh chóng trong phát hành tiền và tốc độ chu
chuyển của tiền so với tốc độ tăng trưởng của hàng hoá đã làm cho lạm phát tăng
lên rất cao đến vài trăm phần trăm. Lạm phát tăng cao làm cho tăng trưởng kinh tế
giai đoạn này trở nên vô nghĩa vì mức tăng trưởng thực là con số âm, vì thế, để ổn
định và phát triển kinh tế, điều cần thiết nhất của Nhà nước trong giai đoạn này là
phải kiểm soát được lạm phát.
2.1.3. Các biện pháp kiểm soát phát
Trước tình hình lạm phát xảy ra nghiêm trọng, để đưa nền kinh tế thoát khỏi
vòng xoáy siêu lạm phát và ổn định kinh tế, Nhà nước đã thực hiện đồng bộ các
giải pháp bao gồm:
¾ Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và thực hiện hàng loạt các biện pháp mạnh
liên quan đến chính sách tiền tệ.
Từ năm 1988, với Nghị định 53/HĐBT do Hội đồng Bộ trưởng ban hành, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đã chuyển từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân
hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về mặt tiền tệ và tín dụng,
và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín
dụng. Và đến năm 1990, Pháp lệnh ngân hàng ra đời đã đánh dấu một sự thay đổi
về hệ thống ngân hàng bằng việc quy định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của ngân
hàng nhà nước trong việc đưa ra các chính sách tiền tệ và hướng dẫn kiểm tra hệ
thống ngân hàng. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hệ
thống ngân hàng Việt Nam sau này.
Về chính sách điều hành lãi suất đã có những bước đột phá để chuyển dần
theo hướng gắn với thị trường, thể hiện bằng Quyết định số 39 của Hội đồng bộ
trưởng ngày 10/04/1989 về việc quy định cơ chế điều hành lãi suất theo cơ chế thị
trường, theo đó: lãi suất tín dụng phải bù đắp được tỷ lệ lạm phát, khuyến khích
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 32
các tổ chức, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng; lãi suất phải phục vụ cho kinh doanh
có hiệu quả. Trên cơ sở Quyết định này, lãi suất tín dụng đã dần được điều chỉnh
và từ ngày 10/05/1989 lãi suất tiền gửi ngân hàng đã được nâng lên 13%/tháng
nhằm thu hút lượng tiền gửi từ trong dân chúng, qua đó, góp phần làm giảm bớt
khối lượng tiền trong lưu thông và có vốn để phục vụ cho đầu tư phát triển. Với
việc tăng lãi suất lần này, có lẽ như là đồng tiền trong nước đã tăng giá trở lại,
điều này gây ra một tác động tâm lý rất lớn và kết quả là một khối lượng lớn tiền
tệ đã được huy động vào trong hệ thống ngân hàng, giúp làm giảm bớt nhu cầu chi
tiêu trong dân chúng.
¾ Thực hiện những cải cách sâu rộng trong sản xuất nông nghiệp.
Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý trong
nông nghiệp, đây là một bước tiến xa hơn so với nội dung khoán được thực hiện
vào năm 1981. Các hộ nông dân được coi là những đơn vị kinh tế tự chủ, điều này
cho phép nông dân được làm chủ hoàn toàn công việc sản xuất của họ và chỉ phải
nộp thuế cho nhà nước theo luật định. Nhờ đó, các nguồn lực của mỗi hộ nông dân
được huy động đến mức tối đa và sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
¾ Xây dựng những hành lang pháp lý tạo điều kiện cho các thành phần kinh
tế phát triển.
Ngày 14/11/1987, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Quyết định 217/HĐBT
nhằm trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh,
theo đó, các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn phải nộp thuế cho nhà nước thay vì
phải thực hiện hàng loạt các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh như trước đây. Bên cạnh
đó, nhằm tạo môi trường pháp lý để khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân phát
triển, ngày 09/03/1988, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 27-NĐ về kinh tế tư
doanh và số 29-NĐ về kinh tế gia đình, cho phép tư nhân được quyền tự do kinh
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 33
doanh trong các lĩnh vực kinh tế mà pháp luật cho phép. Đồng thời, nới lỏng sự
độc quyền của nhà nước về ngoại thương, ngân hàng, kinh doanh vàng bạc, đá
qúy.
¾ Thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế, thu hút luồng vốn đầu tư nước
ngoài và khuyến khích đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu.
Ngày 29/12/1987 Luật Đầu tư nước ngoài đã được ban hành tạo ra một hành
lang pháp lý nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngày 10/09/1989, Nghị định
64/NĐ-HĐBT do Hội đồng Bộ trưởng ban hành đã tạo ra một bước đột phá về cơ
chế chính sách trong hoạt động xuất nhập khẩu, theo đó các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế được quyền xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm do mình làm
ra và nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình.
¾ Xoá bỏ cơ chế điều hành giá cả bằng các biện pháp hành chính trước đây,
thay vào đó, nhà nước chỉ quản lý giá một số mặt hành chủ yếu như: điện, nước,
viễn thông, xăng dầu, vận tải. Còn các mặt hàng nhà nước không quản lý thì được
phép hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu trên thị trường, khi cần thiết nhà nước
có thể can thiệp thông qua các biện pháp gián tiếp như hỗ trợ vốn, lãi suất, trợ
cấp.
Như vậy, bằng những giải pháp đồng bộ để thu hút bớt lượng tiền trong lưu
thông và đẩy mạnh phát triển nền sản xuất hàng hoá, tình hình lạm phát giai đoạn
này tuy cao nhưng cũng đã có những chuyển biến tích cực từ chỗ ba con số từ năm
1986 đến năm 1988 đã giảm xuống còn 34,7% vào năm 1989. Tuy nhiên do lãi
suất tín dụng tăng cao và lại được sử dụng chủ yếu để cấp vốn bổ sung cho khu
vực nhà nước với lãi suất thấp đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông và giảm hiệu
quả hoạt động cho vay tín dụng. Điều này buộc Nhà nước phải tăng chi ngân sách
để bù lỗ cho hoạt động của ngân hàng và tài trợ lãi suất cho vay đối với khu vực
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 34
nhà nước. Kết quả lượng tiền trong lưu thông lại tăng lên, thâm hụt ngân sách
cũng tăng thêm, làm cho lạm phát tăng trở lại vào các năm cuối của giai đoạn này,
67,5% ở năm 1990 và 67,3% ở năm 1991.
2.2. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1992-1999
2.2.1. Diễn biến tình hình lạm phát
Những diễn biến tình hình kinh tế xã hội phức tạp ở các năm 1986-1991
khiến cho nỗi lo về việc quay trở lại tình trạng siêu lạm phát là rất lớn. Chính vì
vậy, một trong những mục tiêu trọng tâm của nước ta trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội giai đoạn này là phải kiểm soát và đẩy lùi được lạm phát nhằm ổn
định đời sống kinh tế xã hội, tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư,
phát triển kinh tế. Xác định nguyên nhân chính gây ra tình trạng siêu lạm phát ở
những năm trước là do tăng phát hành tiền giấy quá mức để bù đắp thâm hụt ngân
sách và sự phát triển yếu kém của nền sản xuất hàng hoá trong nước. Vì vậy, để
kiểm soát được lạm phát và đạt được mục tiêu tăng trưởng, Nhà nước đã áp dụng
đồng bộ các chính sách tài khoá và tiền tệ thắt chặt, cùng với các biện pháp để
đẩy mạnh phát triển kinh tế, khai thác các nguồn lực trong nước, thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, và mở rộng thị trường xuất khẩu... Kết quả là nền kinh tế
đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt là tăng trưởng kinh tế tăng đều
và ổn định ở mức cao, liên tục từ năm 1992 đến 1997 tăng trưởng duy trì trên mức
8%/năm, mặc dù năm 1998 và 1999 có giảm xuống nhưng đó là do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 35
Bảng 2: Tình hình lạm phát và tăng trưởng 1992-1999
-
2,00
4,00
6,00
8,00
10,00
12,00
14,00
16,00
18,00
GDP(%) 8,70 8,10 8,80 9,50 9,30 8,20 5,80 4,80
CPI(%) 17,50 5,20 14,40 12,70 4,80 3,60 9,20 0,10
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Về tình hình lạm phát, nhìn vào đồ thị trên, có thể nhận thấy rằng tình hình
lạm phát giai đoạn này tuy có ở mức thấp hơn so với các năm trước nhưng xu
hướng biến động là không rõ nét. Trong hai năm đầu, lạm phát có xu hướng giảm
thấp rõ rệt từ 67,3% vào năm 1991 đã giảm xuống nhanh chóng vào năm 1992 là
17,5% và giảm hẳn vào năm 1993 xuống còn một con số là 5,2%. Sau đó, lạm
phát lại đột ngột tăng lên cao ở mức hai con số là 14,4% vào năm 1994 và lại có
xu hướng giảm xuống ở ba năm sau đó, năm 1995 là 12,7%, năm 1996 là 4,8% và
năm 1997 là 3,6%. Đến năm 1998, lạm phát lại đột biến tăng cao gần hai con số ở
mức 9,2% và sau đó lại giảm xuống còn 0,1% vào năm 1999. Rõ ràng với sự biến
động thất thường như vậy, rất khó nhận diện được xu hướng biến động của lạm
phát ở Việt Nam giai đoạn này.
Về mặt lý thuyết, giữa tăng trưởng và lạm phát có một mối liên hệ qua lại,
kích thích tăng trưởng sẽ làm gia tăng lạm phát và ngược lại, nếu làm giảm lạm
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 36
phát sẽ làm giảm tăng trưởng. Với lập luận như vậy, tình hình lạm phát ở Việt
Nam giai đoạn này chứa đựng nhiều mâu thuẫn so với sự biến động của tăng
trưởng kinh tế. Từ năm 1993 cho đến 1996, tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng
lên, nhưng lạm phát lại thay đổi lúc lên lúc xuống, xét trong hai năm 1995 và
1996, tăng trưởng ở mức cao nhất trong giai đoạn này nhưng lạm phát lại giảm
xuống và qua năm 1998 tăng trưởng giảm nhưng lạm phát lại tăng cao. Ngược lại,
xét trong bốn năm từ 1994 đến 1997 là xu hướng giảm lạm phát rõ rệt từ 14,4%
năm 1994 xuống còn 3,6% năm 1997, nếu cho là nhà nước có các biện pháp làm
giảm lạm phát thì khi lạm phát giảm xuống sẽ làm cho tăng trưởng chậm lại,
nhưng thực tế tăng trưởng vẫn ở mức cao 9,3% vào năm 1997 (năm lạm phát giảm
thấp)…
Đến đây có thể kết luận rằng, nguyên nhân gây ra lạm phát giai đoạn này
là không rõ ràng, và sự biến động thất thường của lạm phát trong mối quan hệ với
tăng trưởng, cho thấy rằng, chỉ số giá tiêu dùng là không ổn định và chịu tác động
rất lớn bởi các yếu tố bên trong của nó, đó là các nhóm hàng hoá trong rổ hàng
hoá dùng để tính chỉ số giá. Qua đồ thị ở bảng số 3, ta nhận thấy rằng chỉ số giá
tiêu dùng chịu sự tác động rất lớn của nhóm hàng lương thực thực phẩm, điều này
dễ dàng giải thích được tại sao chỉ số giá tiêu dùng lại tăng vọt ở các năm
1994,1995 và 1998, đó là do nhóm hàng lương thực thực phẩm đột biến tăng lên ở
các năm đó. Và như vậy, nếu loại trừ sự biến động bất thường của nhóm hàng này
ra khỏi rổ hàng hoá để tính chỉ số giá tiêu dùng ở các năm đó, thì lạm phát sẽ ở
mức thấp. Và do đó, ta có thể thấy rõ xu hướng vận động của lạm phát là ổn định
và ở mức dưới hai con số.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 37
Bảng 3: Sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng và nhóm hàng lương thực
phẩm từ 1991-1999
(40)
(20)
-
20
40
60
80
100
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
CPI(%)
Lương thực (%)
Thực phẩm (%)
(Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 319-Tháng 12/2004 –Trang 33)
2.2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Theo lý thuyết, trong giai đoạn nền kinh tế đang tăng trưởng, nếu không có
những cú sốc về phía cung, thì lạm phát xảy ra là do tăng tổng cầu nhanh hơn tốc
độ tăng trưởng. Tổng cầu tăng là do gia tăng chi tiêu trong nền kinh tế và sự gia
tăng thặng dư (hay giảm thâm hụt) trong cán cân ngoại thương. Với cách lập luận
này, ta có thể kết luận rằng nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát trong giai đoạn
này là do cầu kéo thể hiện qua các mặt sau:
- Về chi tiêu của dân chúng, qua tình hình biến động của chỉ số giá tiêu
dùng ta có thể kết luận rằng nhu cầu chi tiêu mua sắm của dân chúng có tăng lên
trong giai đoạn này, vì với nền kinh tế đang tăng trưởng và sự thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, tình trạng thất nghiệp sẽ giảm xuống và thu nhập của người dân sẽ
tăng lên, hơn nữa, nếu sức mua giảm thì chỉ số giá sẽ có dấu hiệu giảm xuống.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 38
- Về thâm hụt ngân sách, do nguồn thu ngân sách ổn định nên mức thâm hụt
ngân sách được huy trì ở mức thấp dưới 5%GDP. Mặc dù, Nhà nước đã chấm dứt
việc tài trợ thâm hụt bằng phát hành tiền nhưng lại bù đắp bằng nguồn vay nợ
trong và ngoài nước. Việc bù đắp thâm hụt bằng vay vốn trong nước sẽ không làm
thay đổi cơ sở tiền tệ và do đó cũng không làm thay đổi tổng cầu. Tuy nhiên, với
việc vay nợ từ nước ngoài chắc chắn sẽ làm tăng cơ sở tiền và do đó sẽ làm tăng
tổng cầu.
Bảng 4: Thâm hụt NSNN và bù đắp thâm hụt NSNN 1991-1999
Chỉ tiêu 1991-1995 1996 1997 1998 1999
1. Thâm hụt NSNN %GDP
2. Phát hành tiền (%)
3. Vay trong nước (%)
4. Vay nước ngoài (%)
4,3
-
63
37
3,1
-
58
42
4,2
-
64
36
3,8
-
50
50
4,9
-
53
47
(Nguồn số liệu: Bộ Tài chính).
- Về chi tiêu đầu tư, tổng số vốn đầu tư tăng đều hàng năm từ 64,7 ngàn tỷ
năm 1992 tăng lên 99,8 ngàn tỷ vào năm 1999. Mặc dù vốn đầu tư nước ngoài có
sụt giảm vào các năm 1998 và 1999, nhưng được thay thế và bổ sung bằng vốn
đầu tư trong nước, đặc biệt là vốn đầu tư của tư nhân. Điều này cũng góp phần làm
tăng tổng cung.
Bảng 5: Vốn đầu tư phát triển phân theo thành phần kinh tế 1995-1999
Chia ra
Tổng số Khu vực kinh
tế nhà nước
Khu vực
tư nhân
Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài
Giá so sánh 1994 Tỷ đồng
1995 64.684,8 27.184,8 17.857,1 19.642,9
1996 74.314,6 36.474,5 18.537,4 19.302,7
1997 88.607,1 43.800,7 20.032,1 24.774,3
1998 90.952,4 50.497,7 21.586,2 18.868,5
1999 99.854,6 58.584,8 24.011,5 17.258,3
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 39
- Về cán cân ngoại thương, tổng kim ngạch ngoại thương tăng đều hàng
năm từ 13,6 tỷ đô la năm 1995 tăng lên 23,28 tỷ đô la vào năm 1999, trong đó kim
ngạch xuất khẩu tăng mạnh từ 5,5 tỷ đô la vào năm 1995 tăng lên 11,5 tỷ đô la
vào năm 1999. Với việc gia tăng nhanh chóng xuất khẩu đã làm cho thâm hụt
ngoại thương có xu hướng giảm xuống, xét theo từng năm thì sẽ làm tăng tổng cầu
của năm sau so với năm trước. Mặt khác, với việc đẩy mạnh xuất khẩu đã gây áp
lực rất lớn đến lượng hàng cung ứng cho nhu cầu nội địa, góp phần làm tăng giá cả
trong nước.
Bảng 6: Tổng trị giá xuất nhập khẩu từ 1995-1999
Chia ra
Năm
Tổng số
(triệu USD) Xuất khẩu Nhập khẩu
Thâm hụt
1995 13.604,3 5.448,9 8.155,4 (2.707)
1996 18.399,5 7.255,9 11.143,6 (3.888)
1997 20.777,3 9.185,0 11.592,3 (2.407)
1998 20.859,9 9.360,3 11.499,6 (2.139)
1999 23.283,5 11.541,4 11.742,1 (201)
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn ta có thể thấy rằng tốc độ tăng tổng cầu
không lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng. Nếu chỉ xét ảnh hưởng của vốn đầu
tư và cán cân ngoại thương lên tổng cầu ta thấy rằng, từ năm 1995 đến 1999, tuy
tốc độ tăng vốn đầu tư có nhanh hơn nhiều so với mức tăng trưởng nhưng thâm hụt
ngoại thương lại xảy ra đều ở các năm, do đó, làm cho tổng cầu tăng lên không
nhiều.
Tổng cầu tăng trưởng nhanh hơn tổng cung nhưng với mức độ không lớn, sẽ
làm gia tăng lạm phát nhưng ở mức độ thấp. Điều này càng làm sáng tỏ hơn phần
phân tích ở trên rằng, việc loại bỏ những biến động bất thường của nhóm hàng
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 40
lương thực thực phẩm trong các năm 1994,1995 và 1998 sẽ làm cho chỉ số tiêu
dùng thể hiện đúng đắn hơn xu hướng vận động củ lạm phát.
2.2.3. Các biện pháp chủ yếu để chống lạm phát
2.2.3.1.Về chính sách tài khoá
Nhà nước đã thực hiện hàng loạt cải cách để lành mạnh hoá chi ngân sách
nhà nước và đổi mới chính sách thuế cho phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường.
Theo đó, các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước đã được phân định thành hai loại
là chi thường xuyên để duy trì hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước và chi đầu
tư để phát triển sản xuất kinh doanh, và được thực hiện trên nguyên tắc tiết kiệm
các khoản chi tiêu thường xuyên và gia tăng chi tiêu cho đầu tư phát triển. Trong
chi tiêu đầu tư, các khoản cấp phát đầu tư xây dựng cơ bản cho các công trình phi
sản xuất, công trình kinh doanh không có hiệu quả được loại bỏ dần; các khoản
cấp phát vốn lưu động trực tiếp cho doanh nghiệp nhà nước cũng giảm và chuyển
sang hình thức cho vay ưu đãi thông qua các qũy hỗ trợ tài chính. Kiên quyết loại
bỏ việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, thay vào đó sử dụng hình
thức tín dụng nhà nước để vay vốn trong và ngoài nước.
Đối với thu ngân sách, thực hiện những cải cách toàn diện hệ thống thu thuế
vào ngân sách nhà nước, với trọng tâm là xoá bỏ hệ thống thu theo cơ chế kế
hoạch tập trung và thiết lập một hệ thống thu thuế mới hiệu quả hơn, phù hợp với
cơ chế thị trường đang hình thành ở nước ta. Yêu cầu cụ thể đặt ra cho hệ thống
thu thuế là phải đảm bảo thuế là nguồn thu cơ bản của ngân sách nhà nước, góp
phần thực hiện công bằng xã hội, kích thích các thành phần kinh tế tăng cường
cạnh tranh và đầu tư phát triển, có tính pháp luật cao và trở thành công cụ chủ yếu
trong quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Từ năm 1991 đến 1999, Quốc hội đã
ban hành nhiều luật thuế nhằm hình thành nên một hệ thống thuế mới tương đối
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 41
hoàn chỉnh phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế như thuế doanh thu, thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế lợi tức, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế xuất
nhập khẩu, thuế nhà đất,... . Đặc điểm nổi bật của các loại thuế mới này là có rất
nhiều ưu đãi về thuế suất đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với
mục đích đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam. Hơn
nữa, trong quá trình thực hiện, hệ thống thuế đã nhiều lần được sửa đổi và hoàn
thiện theo hướng thu hẹp dần về thuế suất và mở rộng diện chịu thuế, giảm dần
các qui định phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, góp phần đảm bảo sự
bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Đến năm 1999, lần
đầu tiên một loại thuế mới được thực hiện ở Việt Nam đó là thuế giá trị gia tăng
để thay thế cho thuế doanh thu trước đây, loại thuế này đang được sử dụng phổ
biến ở các nước trên thế giới. Với những cải cách trên, hệ thống thuế đã dần đi
vào ổn định, nguồn thu từ thuế đã trở thành nguồn thu quan trọng cho ngân sách
nhà nước, chiếm tỷ trọng khoảng 87% tổng thu ngân sách nhà nước giai đoạn này,
trong đó tỷ trọng thu từ khu vực tư nhân có xu hướng tăng lên. Điều này góp phần
làm cân đối thu chi ngân sách, và đảm bảo duy trì thâm hụt ngân sách ở mức thấp
dưới 5% GDP.
2.2.3.2.Về chính sách tiền tệ
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng và kiểm soát
lạm phát, Nhà nước cũng đã tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng theo hướng gần
giống với hệ thống ngân hàng hiện đại. Việc cải tổ hệ thống ngân hàng lần này
được đánh dấu bằng việc tách chức năng quản lý ngân qũy của nhà nước ra khỏi
Ngân hàng Nhà nước, tức tách kho bạc ra ngoài hệ thống ngân hàng. Ngân hàng
Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân
hàng trong cả nước, không trực tiếp tham gia kinh doanh với dân chúng. Với hệ
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 42
thống ngân hàng mới này, Ngân hàng Nhà nước Việt nam có điều kiện thuận lợi
để sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát cung ứng tiền tệ
trong nền kinh tế, và tăng cường công tác quản lý đối với các ngân hàng, tổ chức
tín dụng, qua đó góp phần kiểm soát được lạm phát và hỗ trợ cho mục tiêu tăng
trưởng kinh tế.
- Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: Được chính thức sử dụng từ năm 1992,
ban đầu, tiền dự trữ bắt buộc được duy trì tại một tài khoản riêng và tỷ lệ dự trữ
bắt buộc là 10% trên toàn bộ tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Theo đó, vai trò
của công cụ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát cung
ứng tiền. Năm 1995 công cụ dự trữ bắt buộc đã được đổi mới với một số quy định
chủ yếu như: tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán được thống nhất vào
một tài khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% áp dụng cho các loại tiền gửi dưới một
năm, và trong cơ cấu tiền dự trữ bắt buộc có 70% phải gửi tại Ngân hàng Nhà
nước và các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt
buộc phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước. Với cách thức quản lý dự trữ bắt buộc như
vậy, Ngân hàng Nhà nước có thể dự báo nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng
thông qua theo dõi mức dự trữ vượt. Tuy nhiên, việc khống chế theo ngày cùng với
sự phát triển của thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên
cứng nhắc, các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt, hạn chế khả năng sử dụng
vốn hiệu quả của tổ chức tín dụng.
Từ năm 1999, công cụ dự trữ bắt buộc được áp dụng mở rộng thêm với các
đối tượng là ngân hàng hợp tác, qũy tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc từ 0% đến 20%, và đặc biệt số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình
quân trên số dư tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước trong kỳ duy trì. Theo đó, các tổ
chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn trước đây, đồng thời Ngân hàng
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 43
Nhà nước có thể dự đoán được nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng, tăng khả
năng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước.
- Đối với lãi suất tín dụng: Năm 1992, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện
một bước chuyển đổi quan trọng, chuyển từ chính sách lãi suất âm sang chính sách
lãi suất dương. Việc chuyển đổi này là bước khởi đầu, tạo cơ sở cho việc theo đuổi
mục tiêu tự do hoá lãi suất, tạo đòn bẩy cho các ngân hàng thương mại chuyển
hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. Điều này đã làm giảm bớt được các
khoản chi bù lỗ tín dụng từ ngân sách nhà nước.
Vào năm 1996, Ngân hàng Nhà nước thực hiện tự do hoá lãi suất tiền gửi
đồng VND và quy định trần lãi suất cho vay. Việc chỉ khống chế lãi suất cho vay
tối đa, không quy định lãi suất tiền gửi nhằm hoàn thiện công cụ lãi suất tiến tới
mục tiêu tự do hoá lãi suất và phù hợp với sự phát triển của các công cụ kiểm soát
tiền tệ hiện có.
Từ những năm 1997,1998 cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực và thế
giới đã làm cho luồng vốn đầu tư nước ngoài bị giảm sút, tình hình này buộc các tổ
chức tín dụng phải nâng lãi suất tiền gửi để tăng nguồn vốn huy động lên, đồng
thời, lãi suất cho vay cũng được hạ dần xuống để phù hợp với khả năng hấp thụ
vốn và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đa dạng hoá các loại hình ngân hàng thương mại nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng và khả năng kinh doanh tiền tệ của hệ thống ngân hàng, qua đó,
thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt và thu hút được nhiều nguồn vốn
trong và ngoài nước phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế.
- Kiểm soát chặt chẽ việc cho vay tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà
nước, theo đó hạn chế vay tín dụng đối với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu
quả, chậm trả nợ vay đồng thời mở rộng dần các khoản cho vay đối với các thành
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 44
phần kinh tế khác. Kết quả là tỷ trọng các khoản dư nợ cho vay đối với doanh
nghiệp nhà nước đã giảm dần, từ chỗ chiếm 90% tổng dư nợ của các ngân hàng
thương mại năm 1990 đã giảm xuống còn 48% vào năm 1999, trong khi tỷ trọng
cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh tăng lên từ 10% năm 1991 lên 52% vào
năm 1999. Điều này đã góp phần làm lành mạnh hoá hoạt động của ngân hàng,
nâng cao hiệu quả của việc cho vay tín dụng cũng như hiệu quả sử dụng vốn vay
của doanh nghiệp.
2.2.3.3. Các chính sách bổ trợ khác
Song song với các biện pháp liên quan đến chính sách tài khoá và tiền tệ,
để kiểm soát lạm phát Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách khác nhằm kiểm
soát lạm phát và thúc đẩy phát triển kinh tế, bao gồm:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, giảm bớt
gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn này, Nhà nước đã thực hiện
nhiều đợt cải cách doanh nghiệp nhà nước mà đáng chú ý nhất là việc chuyển đổi
sở hữu doanh nghiệp nhà nước sang hình thức cổ phần. Qua các đợt cải cách này,
tuy số lượng các doanh nghiệp đã giảm đáng kể từ 12.300 doanh nghiệp vào năm
1991 đã giảm xuống 5.790 doanh nghiệp vào năm 1999, nhưng khu vực doanh
nghiệp nhà nước đã có những bước phát triển đáng kể, cụ thể tỷ lệ đóng góp của
doanh nghiệp nhà nước trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 36,5% vào
năm 1991 lên 40,2% vào năm 1999, mức lợi nhuận trên vốn cũng tăng từ 0,096%
năm 1991 lên 0,11% vào năm 1999.
- Khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hàng
loạt các văn bản pháp quy đã được Nhà nước ban hành nhằm tạo ra một hành lang
pháp lý thuận lợi để kích thích kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh mẽ. Kết
quả là vốn đầu tư của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gia tăng đáng kể, số
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 45
lượng các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không
ngừng tăng lên. Điều này góp phần làm gia tăng việc làm, gia tăng khối lượng
hàng hoá, ổn định giá cả và giảm bớt gánh nặng về vốn đầu tư cho ngân sách nhà
nước. Điều đáng chú ý trong giai đoạn này là sự sụt giảm vốn đầu tư nước ngoài
vào những năm 1998 và 1999 do ảnh hưởng của cuộc khoảng hoảng tài chính trong
khu vực đã tác động không nhỏ đến đà tăng trưởng kinh tế của đất nước, từ 8,2%
vào năm 1997 đã giảm xuống 4,8% vào năm 1999, nền kinh tế có nguy cơ rơi vào
tình trạng suy thoái và giảm phát.
Như vậy, bằng việc thực hiện các biện pháp đồng bộ nêu trên lạm phát ở
Việt Nam đã dần được kiểm soát và có chiều hướng giảm xuống, tạo ra một môi
trường thuận lợi để thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Mặc dù đột biến tăng cao
ở năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực và sự sụt
giảm trong vốn đầu tư nước ngoài, nhưng đến năm 1999 đã giảm xuống ở mức
thấp là 0,1%. Những nỗ lực của Việt Nam trong việc kiểm soát lạm phát giai đoạn
này là rất đáng ghi nhận, lạm phát giảm thấp từ ba con số còn một con số nhưng
tốc độ tăng trưởng vẫn được duy trì và đạt ở mức cao, bình quân trên 7,5% một
năm.
2.3. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
2.3.1. Diễn biến tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát:
Để tránh tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á và để đối phó với
tình trạng suy thoái kinh tế, bắt đầu từ năm 1999 Nhà nước đã áp dụng các biện
pháp mạnh để kích cầu như tăng chi tiêu đầu tư, mở rộng tín dụng, trợ giá xuất
khẩu… để kích thích nền kinh tế phát triển và các biện pháp này đã mang lại hiệu
quả. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được phục hồi và liên tục tăng từ năm 2000
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 46
đến nay, với mức tăng bình quân hàng năm là 7% (năm 2000 là 6,79%, năm 2001:
6,89%, năm 2002: 7,08% và năm 2003: 7,26%).
Bảng 7: Tình hình lạm phát và tăng trưởng từ năm 2000-09/2004
(2,00)
-
2,00
4,00
6,00
8,00
10,00
GDP(%) 6,80 6,90 7,08 7,26 7,20
CPI(%) (0,60) 0,80 4,00 3,00 8,60
2000 2001 2002 2003 09/2004
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng gia tăng, khiến cho tình trạng lạm
phát được phục hồi và gia tăng trở lại, từ –0,6% năm 2000 đã tăng dần lên 3% vào
năm 2003, tuy nhiên, trong 9 tháng đầu năm 2004 lạm phát lại tăng đột biến lên
8,6%, mặc dù mức tăng trưởng không có gì đột biến so với các năm trước đó. Như
vậy, tuy vẫn có những biến động thất thường, rõ ràng xu hướng tăng lên của lạm
phát giai đoạn này là phù hợp với quan điểm lý thuyết, thể hiện một sự đánh đổi
giữa tăng trưởng và lạm phát, đó là kích thích tăng trưởng sẽ làm gia tăng lạm
phát. So sánh với tình trạng thiểu phát ở các năm từ 1999 đến năm 2000, thì xu
hướng tăng lạm phát giai đoạn này được xem như là một nhân tố tích cực, góp
phần kích thích kinh tế phát triển.
Trong các năm 1999-2000, do tình trạng thiểu phát xảy ra đã làm cho giá cả
hàng hoá giảm xuống, điều này có lợi cho người tiêu dùng nhưng lại làm cho
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 47
nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ và phải ngừng hoạt động. Để đối
phó với tình trạng này, các doanh nghiệp đã tiến hành hàng loạt các biện pháp để
cắt giảm chi phí, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh hay chuyển sang đầu tư
vào những ngành nghề khác, đặc biệt là dịch vụ. Kết quả là sản xuất bị thu hẹp,
thất nghiệp gia tăng, thu nhập của xã hội giảm xuống, làm giảm tăng trưởng kinh
tế.
Để giải quyết tình trạng trên, Nhà nước đã thực hiện hàng loạt các biện
pháp kích cầu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế. Kết quả là giá cả đã gia tăng trở
lại, chỉ số giá tiêu dùng tăng từ 0,8% năm 2001 lên 4% vào năm 2002, điều này lại
thúc đẩy các doanh nghiệp gia tăng sản xuất, vốn đầu tư tăng lên, thị trường được
mở rộng, việc làm gia tăng, thu nhập của người dân cũng tăng lên làm tăng nhu
cầu chi tiêu, do đó, sẽ làm tăng tổng cầu và tiếp tục kích thích kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, do sự thay đổi đột biến của chỉ số giá tiêu dùng vào các tháng đầu năm
2004, chỉ mới có 9 tháng đã tăng 8,6% (trong đó nhóm hàng lương thực thực phẩm
chiếm tỷ trọng 47,9% trong rổ hàng hoá lại tăng rất cao tới 15%), đã làm ảnh
hưởng không nhỏ đến sự ổn định của nền kinh tế xã hội thể hiện qua các mặt sau:
- Giá cả của các mặt hàng lương thực thực phẩm tăng nhanh trong các tháng
đầu năm (lương thực 12,5%, thực phẩm 16,8%), đã làm cho đời sống của người
dân gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với tầng lớp dân cư sống ở nông thôn,
những người có thu nhập thấp và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Giá cả nhiều mặt hàng tiêu dùng cũng tăng giá, cộng với sự biến động của
giá vàng trong nước (bị ảnh hưởng của giá vàng thế giới) đã tạo ra tâm lý bất ổn
về giá trị giảm sút của đồng tiền nội địa, khiến cho người dân chuyển sang nắm
giữ các loại ngoại tệ, vàng và đầu tư vào bất động sản. Điều này gây áp lực không
nhỏ đến việc gia tăng lãi suất tiền gửi của ngân hàng.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 48
- Giá cả nhiều nhóm hàng nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, như sắt thép,
xi măng, nhựa, phân bón…, cộng với sự tăng giá của các ngành điện, vận chuyển,
bưu điện đã làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
- Dược phẩm, y tế không ngừng tăng giá và đạt ở mức cao, tăng 8,7% trong
9 tháng đầu năm, gây khó khăn cho người bệnh mà đa số là người nghèo và người
có thu nhập thấp.
- Nguồn thu của ngân sách bị giảm trong khi chi tiêu của ngân sách lại tăng
lên để giảm thuế, trợ giá cho một số mặt hàng nhập khẩu như xăng dầu, sắt thép,
phân bón… làm gia tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Và cũng chính vì điều
này, đã làm cho giá cả một số mặt hàng được trợ giá, như xăng dầu, thấp hơn một
số nước trong khu vực như là Campuchia, do đó, làm gia tăng tình trạng đầu cơ
buôn lậu qua biên giới gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước, phá vỡ chủ
trương bình ổn giá cả trong nền kinh tế…
Như vậy, với những tác động tiêu cực như trên, việc xem xét và đánh giá
một cách đúng đắn nguyên nhân gây ra lạm phát ở giai đoạn này cũng như ở các
tháng đầu năm 2004 là cần thiết để tìm ra các giải pháp thích hợp nhằm kiểm soát
lạm phát trong tương lai.
2.3.2. Nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát
Theo quan điểm lý thuyết, có ba nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát, đó
là do cầu kéo, do chi phí đẩy và do tăng cung tiền. Lạm phát do cầu kéo là do tốc
độ tăng trưởng của tổng cầu tăng nhanh tốc độ tăng trưởng của tổng cung; lạm
phát chi phí đẩy là do ảnh hưởng những cú sốc về phía cung làm cho chi phí sản
xuất tăng cao, do đó làm tăng giá bán; còn lạm phát do tăng cung tiền là việc phát
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 49
hành tiền giấy quá mức vào trong lưu thông làm cho giá trị của đồng tiền bị mất
giá nhanh chóng, kết quả là giá cả tăng lên.
Như vậy, căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam có thể khẳng định rằng
lạm phát hiện nay không phải là do tăng cung tiền, vì từ năm 1992 Nhà nước đã
chấm dứt việc bù lỗ thâm hụt ngân sách nhà nước bằng việc phát hành tiền.
Những khoản tiền giấy do Ngân hàng Nhà nước phát hành là dựa vào những tín
hiệu thị trường, chứ không phải dựa vào nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước.
Một lý do nữa, để khẳng định lạm phát hiện nay không phải do nguyên nhân tăng
cung tiền là vì mức độ lạm phát xảy ra ở mức thấp, dưới hai con số. Nếu lạm phát
xảy ra là do tăng cung tiền thì chắc chắn phải từ ba con số trở lên. Đây là quan
điểm chung của hầu hết các nhà kinh tế cổ điển lẫn hiện đại và đã được kiểm
chứng qua thực tế ở nhiều nước như Đức vào năm 1923, Hungary vào năm 1946,
Bolivia vào năm 1985, Peru vào nă
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 42814.pdf