Đề tài Tổng quan về kế hoạch trong doanh nghiệp

Tài liệu Đề tài Tổng quan về kế hoạch trong doanh nghiệp: PHẦN MỞ ĐẦU Đất nước ta với hơn 70% dân số sống bằng nghề nông với trồng trọt và chăn nuôi là chủ yếu. Trong các loại cây tròng mang lại thu nhập khá cao trong đó có cây mía là nguyên liệu chủ yếu sản xuất ra sản phẩm đường. Sản phẩm này thường không ổn định đã làm cho sản xuất đường đứng trong tình trạng “Ngàn cân treo sợi tóc”. Trong khi nền kinh tế nước ta không ngừng phát triển vượt bậc, do sự đóng góp lớn của sản phẩm nông nghiệp. Trong đó đỉnh cao là xuất khẩu gạo và sản phẩm của một số cây công nghiệp. Còn cây mía vẫn đang trong tình trạng trì trệ không được cải thiện thêm. Đến lúc này chúng ta kêu gọi kế hoạch sản xuất đường liệu có phải là quá muộn không? Dù sao chúng ta không thể để tình trạng này kéo dài. Đây là lý do em chọn đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn thầy đã giúp đỡ em hoàn thiện đề án này. Voí kién thức chưa đầy đủ của mình em mong thầy thông cảm cho em những phần còn thiếu sót. PHẦN NỘI DUNG I . TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH TRONG DOANH NGHIỆP 1.Tổng quan vế do...

doc32 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về kế hoạch trong doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Đất nước ta với hơn 70% dân số sống bằng nghề nông với trồng trọt và chăn nuôi là chủ yếu. Trong các loại cây tròng mang lại thu nhập khá cao trong đó có cây mía là nguyên liệu chủ yếu sản xuất ra sản phẩm đường. Sản phẩm này thường không ổn định đã làm cho sản xuất đường đứng trong tình trạng “Ngàn cân treo sợi tóc”. Trong khi nền kinh tế nước ta không ngừng phát triển vượt bậc, do sự đóng góp lớn của sản phẩm nông nghiệp. Trong đó đỉnh cao là xuất khẩu gạo và sản phẩm của một số cây công nghiệp. Còn cây mía vẫn đang trong tình trạng trì trệ không được cải thiện thêm. Đến lúc này chúng ta kêu gọi kế hoạch sản xuất đường liệu có phải là quá muộn không? Dù sao chúng ta không thể để tình trạng này kéo dài. Đây là lý do em chọn đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn thầy đã giúp đỡ em hoàn thiện đề án này. Voí kién thức chưa đầy đủ của mình em mong thầy thông cảm cho em những phần còn thiếu sót. PHẦN NỘI DUNG I . TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH TRONG DOANH NGHIỆP 1.Tổng quan vế doanh nghiệp 1.1. Khái niệm về doanh nghiệp Trong những năm qua thế giới nói chung và các tổ chức kinh tế nói riêng đã từng trải qua những sự thay đổi nhanh chóng, cơ bản và quyết liệt và đầy kịch tính hơn bất kỳ điều gì chúng ta đều có thể nghĩ đến. Quá trình cạnh tranh toàn cầu, việc sử dụng rộng rãi mạng máy vi tính và thông tin viễn thông, các chính sách mở rộng tự do của các nước trên thế giới, sự đổ vỡ của bức tường Berlin từng chia cắt miền ĐôngTây nước Đức hàng nhiều thập kỷ, cũng như sự biến động khôn lường của các nước Đông Âu. Rồi lại dến các cuộc khủng bố vào các nước sừng sỏ đã biến điều bất thường trở thành điều bình thuờng.Việt Nam với chính sách mở cửa, chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự điều tiết của nhà nước đang vừa là động lực, vừa là cú sốc lớn cho nhiều doanh nghiệp. Vào năm 1995 nhà nước ban hành luật doanh nghiệp, trong bộ luật này có giải thích “doanh nghiệp” là tổ chức có tên riêng, có tái sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh. Dựa trên các điều 1(luật doanh nghiệp nhà nước ngày 20- 4- 1995), điều 2 (luật doanh nghiệp tư nhân, ngày21-12-1990), điều 3 (luật công ty ngày 21 - 12 - 1990), điều 4 (luật hợp tác xã, ngày 20 – 3 - 1996) có thể định nghĩa doanh nghiệp như sau: “Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế do nhà nước hoặc các đoàn thể tư nhân đầu tư vốn nhằm mục đích chủ yếu thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động công ích góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước” Theo luật doanh nghiệp (12 - 6 - 1999 - Nghị định số 03: Hướng dẫn thực hiện luật doanh nghiệp 3-2-2000): Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên , có tái sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo qui định pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.Trong đó hoặt động kinh doanh là công việc thực hiện một hoạc một số công đoạn sản xuất, đến tiêu thụ cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Từ khái niệm trên ta thấy rằng: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế.Tổ chức là một nhóm tối thiểu là hai người cùng hoạt động với nhau một cách có quy củ theo những nguyên tắc, thể chế và các tiêu chuẩn (văn hoá) nhất định, nhằm đặt ra mục tiêu chung. Như vậy một tổ chức có các đặc trưng cơ bản sau đây: + Một nhóm người cùng hoặt động với nhau. + Có mục tiêu chung. + Được quản lý theo thể chế ,nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc được quan niệm như là các chuẩn mực tiêu chuẩn cần thiết để điều hành tổ chức một cách có trật tự nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra. Có nhiều loại tổ chức tuỳ theo mục đích phân loại, nếu xét theo tính chất hoạt động sẽ có các tổ chức khác nhau: Tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức kinh doanh... Nếu xét theo mục tiêu sẽ có tổ chức nhằm mục tiêu lợi nhuận và tổ chức nhằm mục tiêu phi lợi nhuận, xét theo tính tồn tại thì sẽ có tổ chức ổn định và tổ chức tạm thời. Vậy để xác định đâu là tổ chức kinh tế, chúng ta phải dựa vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp. Đây là điều cơ bản để ta phân biệt nó với các tổ chức khác. 1.2.Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp Vào năm 1986 Đaị Hội Đảng lần VI tuyên bố đường lối đổi mới bắt đầu thực hiện chương trình đổi mới. Trước năm 1986 chúng ta đang nằm trong cái bọc của nền kinh tế quan liêu bao cấp. Phạm trù xí nghiệp được sinh sôi nảy nở, nó được hiểu là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động công ích nhằm thực hiện mục tiêu chung do nhà nước giao cho. Hoạt động sản xuất thụ động, trông chờ từ cấp trên đưa xuống, với mục tiêt hoàn thành đúng, đủ, kịp thời số lượng từ trên đưa xuống, không cần quan tâm đến khách hàng. Điều này dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Cái ngột ngạt của cơ chế cũ đã khiến cho làn gió KTTT ùa vào đã làm thay đổi cục diện nền kinh tế. Mục tiêu hoạt động kinh tế là tối đa hoá lợi nhuận. Đây là mục tiêu cuối cùng mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới. Để thực hiện được điều đó doanh nghiệp cần phải làm nhiều mục tiêu trung gian khác nhau để đạt được mục tiêu cuối cùng đó. Các mục tiêu trung gian chồng chéo lên nhau, để đạt được mục tiêu trung gian này lại cần hoàn thành mục tiêu trung gian khác. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau song có thể khẳng định trong cơ chế thị trường mọi doanh nghiệp đều phải nhằm vào mục bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Chỉ trên cơ sở này doanh nghiệp mới đứng vững trên trong cạnh tranh, có điều kiện thực hiện tái sản xuất mở rộng, cải thiện việc làm , nâng cao đời ích người lao động và thực hiện nghĩa vụ xã hội. Một doanh nghiệp luôn phải theo đuổi nhiều mục tiêu khác nhau, hình thành hệ thống mục tiêu, trong đó mục tiêu nâu dài là tối đa hoá lợi nhuận, trong doanh nghiệp, nhiều bộ phận khác nhau cùng tham gia hoặc có ảnh hưởng tới quá trính xác định mục tiêu: Chủ sở hữu, các nhà quản lý, tập thể người lao động (nguồn lực ). Chính vì vậy trong suốt thời kỳ tồn tại cũng như thời kỳ phát triển cụ thể hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp thường mang tính thoả hiệp. Điều này dẵn đến trong từng thời kỳ đều phải xác định thứ tự ưu tiên của hệ thống. Mặt khác, không nhất thiết hệ thống mục tiêu của mọi thời kỳ phát triển của doanh nghiệp đều phải lấy mục tiêu tối đa hoá lơị nhuận ở vị trí ưu tiên thứ nhất. Như trên em đã nói để đạt được mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận doanh nghiệp cần đạt nhiều mục tiêu trung gian khác nhau. Trong đó có hai mục tiêu trung gian quan trọng cần thực hiện đó là tổ chức quản lý tốt và có kế hoạch kinh doanh phù hợp trong từng gian đoạn kinh doanh khác nhau. 1.3.Các giai đoạn kế hoạch kinh doanh Trong giai đoạn hình thành: thường lập kế hoạch định hướng, thời kỳ này rất cần sự mềm dẻo và linh hoạt vì mục tiêu có tính thăm dò, nguồn chưa được xác định rõ, thị trường chưa có gì chắc chắn. Giai đoạn phát triển: Các kế hoạch có xu hướng ngắn hạn và thiên về các mục tiêu được xác định rõ hơn, các nguồn đưa vào thị trường cho đầu ra đang phát triển. Giai đoạn chín muồi có tính ổn định và tính dự đoán của doanh ghiệp lớn nên kế hoặch dài hạn và cụ thể trong từng giai đoạn này là thích hợp. Giai đoạn suy thoái có kế hoạch chuyển từ dài hạn sang ngắn hạn, từ cụ thể sang định hướng. Giống giai đoạn đầu, thời kỳ suy thoái cần mềm dẻo.Vì các mục tiêu phải được xem xét và đánh giá lại, nguồn cung được phân phối lại và điều chỉnh khác. 1.4 Quản lý sản xuất trong doanh nghiệp Chất lượng Tính linh hoạt Tốc độ Hiệu quả Môi trường kinh doanh Dù bất kỳ một tổ chức nào cũng cần phải có quản lý. Nhất là trong một doanh nghiệp thì nó không thể thiếu được. Chỉ khi có quản lý các doanh nghiệp mới hướng các thành viên cùng theo đuổi một mục tiêu chung, và hoạt động có hiệu quả. Nếu không có quản lý thì doanh nghiệp không còn là một tổ chức nữa, ngày nay cùng với sự vượt bậc sản xuất thì năng lực của người quản lý không ngừng được nâng cao. Nhìn vào sơ đồ ta thấy bốn đỉnh của tứ giác là chất lượng, tốc độ, hiệu quả, tính linh hoạt. Bốn đỉnh đó chịu ảnh hưởng của môi trường kinh doanh. Như chúng ta đã biết môi trường kinh doanh không phải lúc nào cũng ổn định. Sự đỏng đảnh của nó khiến cho chúng ta phải quản lý tốt. Đúng vậy kế hoạch và quản lý là hai vấn đề lớn tạo ra sự thành công của doanh nghiệp. Vậy kế hoạch kinh doanh là gì? 2. Khái quát kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp. 2.1. Khái niệm kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp. Đứng trên góc độ người quản lý lập kế hoạch là việc xác định cần làm gì và làm như thế nào vì vậy nó trở thành việc lựa chọn những cơ hội về lâu dài cần phải biết phân tích cơ hội và lựa chọn ra cơ hội tốt nhất. Ví dụ, cần phải quyết định chào bán những chủng loại sản phẩm nào, giá bán, phương pháp sản xuất sẽ sử dụng, mức lương sẽ trả và nhiều vấn đề khác....vvv Một định nghĩa kế hoạch kinh doanh được đưa ra là: Đó là việc đưa ra mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt tới và những phương thức thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Dù trong bất kỳ thời kỳ nào thì kế hoạch kinh doanh cũng được hiểu theo nghiã như trên nhưng khác nhau ở mục tiêu và phương thức thực hiện. Nếu như trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp mục tiêu của doanh nghiệp là sản xuất đúng và đủ theo yêu cầu của cấp trên giao, còn trong thời kỳ kinh tế thị trường mục tiêu của doanh nghiệp sản xuất sao cho tạo ra lợi nhuận tối đa. Chính sự đối lập trong mục tiêu dẫn đến nghịch lý trong phương thức thực hiện. Sự ấu trĩ của cơ chế cũ được thể hiện trong điều này, họ sản xuất hàng hoá mà không quan tâm tới sở thích của khách hàng chính vì vậy vấn đề cửa quyền mệnh lệnh đã làm cho xã hội đi xuống. Vì vậy chuyển sang nền kinh tế thị trường là điều tất yếu. Trong thời kỳ này hoạt động của doanh nghiệp có nhiều thuận lợi và cũng rất nhiều khó khăn. 2.2. Những thử thách và thuận lợi của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Với bất kỳ một doanh nghiệp nào đi tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận tối đa, không phải đi trên “thảm đỏ”. Sự thất bại và thành công dường như là hình và bóng, một người quản lý giỏi phải biết tạo ra nhiều thành công, phải đứng vững trên thương trường. Lý do cuả sự khó khăn này là môi trường kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay cơ chế ngày càng thông thoáng là điều kiện tốt để doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, giao lưu buôn bán với nước ngoài. Nguồn FDI là vô cùng quan trọng trong tình hình nước ta đang thiếu vốn, với nguồn vốn này nó tạo ra sự thay đổi toàn bộ bộ mặt kinh tế từ khoa học kỹ thuật tới cơ sở hạ tầng.Trên thực tế doanh nghiệp sản xuất của ta đang tận dụng cơ hội do cơ chế mới mang lại nhưng gặp phải nhiều khó khăn. Tuy có sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ nhưng việc nắm bắt chúng còn chậm, cơ sở hạ tầng phát triển nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Chính vì vậy lên điều kiện sản xuất của ta còn khó khăn, chi phí cao làm cho giá thành cao đây là một trong những lý do khiến cho năng lực cạnh tranh yêú. Các loại sản phẩm việt nam có giá thành cao hơn từ 20%- 40% giá thành các nước trong khu vực như là : đường, giấy, xi măng, vải, phân bón, hoá chất cơ bản, thép... mà nguyên nhân chính ở đây là chi phí trong gian cao, mức chi phí này trong công nghiệp chiếm tới 60% trong đó có 80% là chi phí vật chất những con số tương ứng trong nông nghiệp là 40 % và 70%. Chi phí đầu vào của mỗi sanr phẩm nhất là nông phẩm có chiều hướng gia tăng. Chi phí đầu vào của cả nền kinh tế cao là do lệ thuộc nhiều vào nhập khẩu, phẩn nguyên liệu sản xuất trong đó chất lượng không cao, không ổn định. Ngoài ra chi phí dịch vụ sau sản xuất kinh doanh ở mức cao( như là chi phí kho bãi, thông tin, lệ phí , hải quan...) trình độ trang thiết bị lạc hậu từ hai đến ba thế hệ so với các nước trong khu vực. Công nhân kỹ thuật thiếu, tay nghề thấp. Tất cả điều đó đã làm cho năng xuất lao dộng thấp, 80% tăng trưởng dựa vào vốn. Phần đóng góp tăng trưởng từ năng xuất lao động chỉ chiếm khoảng 20%( con số này ở các nước trong khu vực từ 35% - 45%) và vẫn còn xu hướng giảm. Đứng trước tình hình hội nhập ta phải đối phó với hàng loạt vấn đề như trên, không loại trừ vấn đề bảo hộ thuế quan. Trong khi chính phủ khuyến khích tự lực thì các doanh nghiệp còn trông chờ vào hỗ trợ của nhà nước dưới các hình thức khác nhau. Tuy vậy điều nhức nhối nhất của ta là vấn đề quản lý, quản lý không tốt là một vấn đề quan trọng kéo theo nhiều vấn đề nhất là vấn đề sử dụng vốn đầu tư. Từ thuận lợi và khó khăn trên thì sản xuất của các doanh nghiệp không phải là đơn giản với biến động không ngừng từ cuộc chiến tranh vùng vịnh mà mục đích là sở hữu dầu mỏ, rrồi đến chiến tranh một số nước trên thế giới đã làm cung cầu sản phẩm hàng hoá biến động mạnh. Vấn đề dự báo sản xuất đã khó khăn lại càng trở lên khó khăn hơn đối với doanh nghiệp việt nam. Bởi chúng ta bị hạn hẹp trong thu thập thông tin, nhưng không phải vì vậy mà các doanh nghiệp sản xuất cứ sản xuất dàn trải mà không dựa vào đâu để sản xuất. Họ phải có kế hoạch kinh doanh phù hợp. 3. Hệ thống kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất, tài chính... được mô tả trong sơ đồ sau: KH sản xuất KH KH - CN KHMKT Doanh nghiệp KH nhân sự KH tài chính Đúng là sản xuất rất quan trọng nhưng để đạt được mục tiêu của mình, các doanh nghiệp không chỉ có kế hoạch sản xuất mà cần phải có kế hoạch khác nữa. Có sự kết hợp ăn ý giữa các kế hoạch mới tạo ra sự thành công. Trong điều kiện ngày nay kế hoạch marketing được coi là hoa tiêu, dù đã có sự thay đổi vị trí song các kế hoạch không thể tách rời nhau được, chúng hoạt động với chức năng riêng của mình nhưng dưới sự chỉ huy chung của doanh nghiệp. Các mục đích của nó cũng hướng tới mục đích cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận không ngừng tăng lên. Có thể thấy rõ hai kiểu lập kế hoạch. Kế hoạch dài hạn, ngắn hạn. Kế hoạch dài hạn hiển nhiên bắt nguồn từ mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp và có liên quan tới những bước thực hiện để tiến đến mục tiêu đó. Ví dụ, mục tiêu chen chân vào một thị trường nhất định nào đó, càn phải sản xuất sản phẩm này trong năm nay, năm sau thì sản xuất như thế nào, năm sau nữa có lên xây dựng nhà máy mới nữa không. Tuy nhiên trong kế hoach ngắn hạn, người quản lý vạch ra một cách chính xác, những bước triển khai và dựa vào sản xuất sản phẩm mới. Trong từng đợt ngắn phải xác định thời hạn hoàn thành, thứ tự yêu tiên, lên đơn hàng vật tư, và thuê tuyển huấn luyện công nhân, kỳ hạn càng ngắn thì kế hoạch càng phải rõ ràng. Rất nhiều việc lập kế hoạch có thể giao cho nhóm nhân viên thực hiện. Trong những năm gần đây rất nhiều kỹ thuật, như quy hoạch tuyến tính, PERT, các cơ sở dữ liệu tính toán, phương pháp tái tạo được nhân viên sử dụng để giúp họ phân tích và đưa ra quyết định tuy vậy ta không được quên rằng kỹ thuật đó không đưa ra quyết định mà người ra quyết định là người quản lý. Một ví dụ về việc lập dự án Satur của Generalmotors, trong đó công ty dự kiến xây dựng một nhà sản xuất ôtô mới để chế tạo và bán loại xe nhỏ “dùng cho gia đình” việc lập kế hoạch được xúc tiến khẩn trương để đảm bảo chắc chắn thành công trong một tổng thể công trình trên mặt bằng rộng 4 triệu phít vuông và áp dụng những khái niệm tiên tiến như tôt lắp ráp, chứ không phải hệ thống dây chuyền lắp rap, những nguồn cung cấp duy nhất và khối lượng dự trữ vật tư chỉ dùng cho 3 giờ. Như vậy việc lập kế hoạch không phải là đơn giản, nó đòi hỏi phải có sự công phu từ khâu xây dựng đến khâu thực hiên. Dù cho nền kinh tế thị trường có kế hoạch Marketing là hoa tiêu nhưng chúng ta không thể phủ nhận vai trò của kế hoạch sản xuất. Một doanh nghiệp chỉ tồn tại khi họ sản xuất bởi nó là hoạt động tạo đầu vào thành đầu ra. Kế hoạch sản xuất lại càng không thể thiếu được. II. KẾ HOẠCH SẢN XUẤT VÀ KẾ HOẠCH DỮ TRỮ TRONG DOANH NGHIỆP. 1.Vai trò của hoạt động sản xuất: Con người muốn tồn tại thì phải sản xuất, từ thời nguyên thuỷ chính loài người biết tập hợp thành nhóm để cùng taọ ra sản phẩm, duy trì sự sống. Cùng với tiến hóa của loài người thì sản xuất cũng tiến triển theo, nó không còn là hoạt động hái lượm săn bắn mà nó là hoạt động sản xuất, mục đích không chỉ dừng ở lo đủ mà mong muốn giầu có. Vào 1778 có cuộc cách mạng KHCN tại đây đánh dấu một bước vượt trội trong sản xuất. Nó khẳng định sự phát triển vượt bậc của loài người. Sản xuất dưới tác động của khoa học công nghệ đã làm cho năng xuất lao đông không ngừng tăng lên cho đến khi sản xuất quá nhiều so với nhu cầu, đó là lý do tạo ra cuộc khủng hoảng thừa trong sản xuất vào những năm 1929 – 1933. Vấn đề đặt ra cho sản xuất ngày càng khắt khe hơn vì vậy nền sản xuất hiện đại mang những đặc điểm sau. 2.Đặc điểm của nền sản xuất hiện đại. Có lẽ đặc diểm quan trong nhất của nền sản xuất hiện đại là triết lý cơ bản cho rằng, sản xuất là quan trọng đáng để cho các ông chủ quan tâm xem xét hàng đầu. Sản xuất đã đến thời kỳ đòi hỏi có kế hoạch đúng đắn, các kỹ sư giỏi, đội ngũ công nhân được đào tạo tốt và trang thiết bị hiện đại. Chỉ có những công ty hạng nhất mới có hy vọng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đặc điểm thứ hai của sản xuât hiện đại là ngày càng chú trọng đến chất lượng. Trên thị trường quốc tế ngày nay, chất lượng là con đường duy nhất dành thắng lợi. Đã bao nhiêu lần chúng ta được nghe thấy câu “ chiếc Toyota của tôt thật tuyệt vời, nó tốt hơn hẳn xe của Mỹ sản xuất” và cũng không lấy làm ngạc nhiên rằng Ford quảng cáo “ chất lượng là công việc số một”. Đặc điểm thứ ba của sản xuất hiện đại là ngày càng nhận thức rõ hơn con người là tài sản lớn nhất của công ty. Ngày càng công ty xoá bỏ các chuyên viên ở bộ tổng tham mưu để cho những người thực sẹ tham gia sản xuất tạo ra sản phẩm có thể thông qua quyết định ngay trên “tuyển lửa”. Ngày càng thấy rõ hơn cần có một cơ cấu tổ chức ngang cấp, không có những hàng rào chức năng. Đặc điểm thứ tư của sản xuất là lỗi bận tâm về kiểm soát chi phí. Những nhà quản lý cấp cao luôn rà soát từng chức năng, xoá bỏ một số việc, gép một số việc lại, đề cao trách nhiệm của cấp dưới, lập kế hoạch mạnh nhất là đối với chức năng tham mưu, lập kế hoạch đào tạo, công việc văn phòng là việc được xem như là tốn kém. Đặc điểm thứ năm : Tập trung và chuyên môn hoá. Nhiều công ty thấy rằng họ không thể giỏi mọi thứ và cần phải tập trung vào cái họ làm tốt nhất. Họ phải xác định được sở trường của mình, một số nhà sản xuất tập trung vào sản xuất một mặt hàng một số khác thì giới hạn sản xuất một chủng loại sản phẩm có liên quan. Kết của của việc chuyên một hoá như vậy thường là hạ thấp được chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng. Việc chuyên môn hoá cũng có là phân công việc và trách nhiệm, điều này tác động cả công nhân và người quản lý. Đặc điểm thứ sáu: Thừa nhận rằng những nhà máy sản xuất hàng loạt, lớn, cũ của chúng ta có thể gặp trở ngại lớn do sự tiến bộ. Ngày càng nhiều các đơn vị độc lập, nhỏ có tính mềm dẻo. Đặc điểm thứ bẩy: Cơ khí hoá hiện đại hoá. Cách mạng công nghiệp là ứng dụng ý tưởng cơ khí hoá. Đến nay việc cơ giới hoá đã đi quá xa đến nỗi chúng ta không còn xem nó là một đặc điểm sản xuất nữa. Việc sử dụng máy móc đã trở thành một bộ phận của đời sống, dù ta đang cắt cỏ hay đang điều hành một xưởng máy. Tuy nhiên cũng cần nhắc một điều việc robot hoá và tự động hoá có thể dẫn đến đỉnh cao nhưng qúa tốn kém. Điều đáng quan tâm là việc cải tiến thường xuyên, có kế hoạch nhằm nâng cấp hiện đại hoá những máy móc hiện đại để kết hợp tận dụng mọi thiết bị máy móc. Mặc dù bao nhiêu năm nay con người đã chuyền được những kỹ năng thủ công cho máy móc, nhưng chỉ mới đây chúng ta mới có khả năng chuyền được một số nhất định những khả năng của trí óc cho máy móc. Nói cách khác, ngày nay một số máy móc có thể hoàn thành công việc của mình không cần phải hỗ trợ của tư duy con người trong suốt cả quá trình. Điều đó đã dẫn đến sử dụng rộng rãi điều khiển bằng số, tự động hoá các kiểu và những hệ thống sản xuất mềm dẻo, và dẫn đến ước mơ về một xưởng may hoàn toàn tự động. Đặc điểm thứ tám : Ngày càng sử dụng nhiều máy điện tử hơn nó cho phép lưu trữ rất nhiều số liệu thiết lập các cơ sở dữ liệu, giải quyết các vấn đề về kỹ thuật và kinh doanh phức tạp với một tốc độ nhanh không thể tưởng tượng nổi. Phạm vi ứng dụng rộng rãi và các thiết bị sử lý số liệu được mở rộng nhanh chóng những kỹ thuật mới được mang ra ứng dụng. Việc tiếp tục phát triển những bộ vi sử lý và khả năng của máy tính hứa hẹn một sự hỗ trợ đắc lực hơn nữa trong công tác quản lý, săn xuất cho phep nhanh chóng đưa ra những câu trả lời cho những vấn đề liên quan đến mẫu mã, xoá bỏ nhiều công việc văn phòng không cần thiết, điều khiển nhiều loại quá trình sản xuất và cung cấp thông tin nhan chóng. Đặc điểm thứ chín : Việc sử dụng các mô hình mô phỏng toán học để hỗ trợ cho việc đưa ra quyết định. Sự phát triển ngày càng nhiều phần mềm máy vi tính cho phép thử nghiệm các cấu hình sản xuất khác nhau khi lăp đặt và lựa chọn phương pháp đáp ứng tốt nhất những tiêu chuẩn đặt ra. Điều đó cung cấp cho công tác quản lý một công cụ lập kế hoạch rất đắc lực, giúp ngăn ngừa việc quyết định những bước đi sai lầm và tốn kém. Những đặc điểm trên chỉ nói lên được một phần trong đăc điểm sản xuất. Bởi tình hình sản xuất luôn biến động. Ngày này với sự phát triển vượt bậc của sản xuất thì dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ, dù bất kể sự phát triển mạnh mẽ tới đâu thì người ta vẫn không thể phủ nhận được vai trò to lớn của sản xuất. Họ ứng dụng các loại hình sản xuất vào sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp. 3. Các loại hình sản xuất. 3.1 Sản xuất liên tục Là sản xuất hàng trên cơ sở dây chuyền với một tốc độ định trước. Phương pháp dây chuyền đòi hỏi sản phẩm chuyển động không ngừng từ công đoạn này sang công đoạn khác, không dừng lại để kiểm tra tại một điểm nào trong sản xuất. Sản xuất liên tục thường được áp dụng trong các nhà máy để chế biến thực phẩm lớn và trong công nghiệp hoá chất. Công đoạn lăp ráp trong sản xuất thường là công đoạn liên tục. Ví dụ, kỹ thuật băng chuyền lăp ráp được sử dụng ở nhà máy chế tạo ôtô, radio, tủ lạnh và các sả phẩm tương tự. Sản xuất liên tuc cũng có thể được sử dụng trong sản xuất máy thân hộp số. Trong trường hợp này một dây chuyền các máy công cụ trong công đoạn được bố trí tương xứng. Ví dụ, người điều khiển máy thứ nhất sẽ lấp phôi đúc ở kho ra và thực hiện công đoạn thứ nhất. Sau đó chi tiết đã được gia công một phần thường được đưa lên băng tải chuyển tiếp cho người tiếp theo để thực hiện công đoạn sau. Cứ như vậy, hết công đoạn này đến công đoạn khác phôi đúc được gia công cho đến khi một chi tiết may được hoàn thành. 3.2 Sản xuất gián đoạn. Khi không thể thực hiện được sản xuất liên tục thì người ta áp dụng loại hình sản xuất này.Tuỳ thuộc số lượng sản xuất lớn hay nhỏ, thì người ta sử dụng kiểu sản xuất gián đoạn với kiểu sản xuất là sản phẩm gia công theo lô chứ không phải trên cơ sở sản phẩm liên tục. Chức năng của người kỹ sư thiết kế quy trình kinh tế xác định mô hình của lô sản xuất sao cho kinh tế đối với ngành, tiết kiệm cụm và khối, sản xuất gián đoạn đặc biệt thích hợp với những doanh nghiệp chế tạo nhiều loại sản phẩm , chẳng hạn như một vài thiết kế một vài máy bơm nước theo cùng một thiết kế. Trong những trường hợp như vậy người ta thường tiêu chuẩn hoá các chi tiết cấu thành để có thể sử dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau hay nhiều sản phẩm kích cỡ khác nhau. Càng có nhiều yêu cầu sản phẩm thì càng đảm bảo được những quy mô lô sản xuất tối ưu về kinh tế. Sản xuất đơn chiếc loại nhỏ, sản xuất gián đoạn thường còn có nghĩa là sản xuất đơn chiếc loại nhỏ, tức là sản xuất theo đơn hàng của khách hàng hay theo yêu cầu đặc biệt. Sản xuất đơn chiếc nhỏ là nét đặc trưng của doanh nghiệp chế tạo những máy móc thiết bị lớn đắt tiền. Khách hàng có thể đặt một hai hay nhiều đơn vị sản phẩm: Lệnh sản xuất chỉ bao gồm một lô và vật tư cũng được mua sắm theo lô do những đơn vị sản phẩm làm xong,sẽ được giao luôn. Sản phẩm này có thể được xem là thông thường khi nhà chế tạo vẫn đang sản xuất nó, nhưng các đơn vị sản phẩm được xem là sản xuất xong khi chúng được bán hết. Mặc dù trong một số trường hợp có thể có những đơn hàng lặp lại,khả năng này không được tính đến trong khi thiết kế các quy trình sản xuất và trong khi tính giá thành sản phẩm . Mặt khác các công cụ,khuôn mẫu chuyên dùng vẫn được lưu giữ lại đề phòng những trường hợp đột xuất như vậy. Điều này đặt ra vấn đề khó khăn cho người sản xuất đơn chiếc loại nhỏ phải bảo quản những thứ đó. Các kiểu sản xuất hỗn hợp,trong sản xuất hàng hoá hầu hết các ngành công nghiệp đều sử dụng hai loại sản xuất liên tục và gián đoạn. Trong khi các công đoạn lắp ráp liên tục đã trở lên phổ biến, thì việc sản xuất liên tục tất cả các chi tiết cấu thành sản phẩm là đương nhiên. Mục tiêu phấn đấu của nhà máy tự động vẫn chưa được phổ biến ở mức độ mong muốn, lý do là khó có thể cân bằng thời gian chế tạo một đơn vị sản phẩm cho tất cả yêu cầu về cấu thành chi tiết. Một thách thức thực tế phải tăng tính chất mềm dẻo của các thiết bị cơ khí hoá và tự động hoá làm sao có thể sử dụng chúng để chế tạo các chi tiết nhiều kích cỡ khác nhau hay nhiều chi tiết khác nhau có thể gia công trong cùng một dây truyền cơ khí hoá .Việc giải quyết thành công vấn đề này cho phép kết hợp sản xuất liên tục với thực tế sản xuất gián đoạn thông thường ở mức độ lớn hơn. 4.Kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp: Sản xuất vô cùng quan trọng ,các loại hình sản xuất cho ta thấy không phải bất kỳ đầu vào nào cũng tạo ra đầu ra hữu hiệu. Muốn có kết quả tốt thì phải có kế hoạch sản xuất sao cho phù hợp.Với mục đích của nó là: Từ phía khách hàng: Ta không thể nói rằng kế hoạch sản xuất chỉ nhằm về phía doanh nghiệp, mục đích của nó còn về phía khách hàng, đó là thượng đế mà doanh nghiệp phải phục vụ. Kế hoạch sản xuất sẽ giúp cho hàng hoá sản xuất ra đúng lúc kịp thời, hàng hoá được trao bán không chậm trễ. Lý do này giúp cho doanh nghiệp giữ được uy tín với khách hàng,đây là tài sản vô cùng quý giá đối với doanh nghiệp, không những thế có kế hoạch sản xuất doanh nghiệp giữ vững tiến độ sản xuất của mình, doanh nghiệp sẽ xác định được sản xuất bao nhiêu, dự trữ bao nhiêu, mua bán bao nhiêu... Tất cả những điều này khiến cho lợi nhuận doanh nghiệp đạt tối đa có thể có. Trong kế hoạch sản xuất doanh nghiệp phải trả lời các câu hỏi: + Sản xuất bao nhiêu? + Sản xuất ở đâu? + Sử dụng đầu vào như thế nào ? + Sản phẩm phụ của nó là gì? + Vấn đề dự trữ ra sao Việc trả lời câu hỏi đặt doanh nghiệp ở đâu? Không phải dễ dàng xác định địa điểm cho một nhà máy mới, hay một chi nhánh ở một nơi thích hợp lại có ý nghĩa to lớn, bởi vì các tổ chức này hoàn toàn không cơ động, một khi đã xây dựng ở một nơi nào thì sẽ ở đó mãi mãi. Hơn nữa, địa điểm nhà máy có thể ảnh hưởng rất lớn chi phí khai thác lợi nhuận.Vì vậy, cần phải phân tích kỹ lưỡng địa điểm của nhà máy. Điều này đồng nghĩa với câu trả lời sản xuất ở đâu.Vấn đề này phụ thuộc vào giao thông vận tải, nguồn nhân lực gần thị trường, gần nguồn nguyên liệu, gần nhà máy hiện có, chi phí đất đai, tài nguyên thiên nhiên. Sản xuất bao nhiêu? Trả lời câu hỏi này doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường.Trong việc này, thì dự báo thị trường là việc làm cần thiết và cần phải chính xác. Sử dụng đầu vào và các sản phẩm phụ đầu ra như thế nào để tiết kiệm được chi phí sao cho lợi nhuận được cao. Nhất là vấn đề dự trữ cần phải được đảm bảo sao cho hợp lý. Đây là vấn đề nhạy cảm bởi nó là một chuỗi các mâu thuẫn đòi hỏi doanh nghiệp cần phải giải quyết. III. KẾ HOẠCH DỰ TRỮ TRONG DOANH NGHIỆP . 1. Lý do dự trữ Không phải ngẫu nhiên mà doanh nghiệp muốn dự trữ, có rất nhiều lý do, dưới đây là một trong những lý do mà em đề cập tới. Việc dự trữ giúp doanh nghiệp ngăn ngừa những trục trặc về vật chất kinh tế đối với các hoặt động cung ứng vật tư hàng hoá, để đảm bảo đúng nơi nó cần đến. Thứ hai, chống lại sự gián đoạn của quá trình cung cấp do các nguyên nhân không mong đợi như thời tiết, tai nạn, đình công... Thứ ba nó đảm bảo quá trình sản xuất và cung ứng dịch vụ liên tục, nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng, khắc phục được các sai sót trong dự đoán cầu về hàng hoá của doanh nghiệp . Thứ tư là có thể giảm thiểu hoá được một số chi phí trong đặt và mua hàng. Như vậy dự trữ được xét trên các phương diện sau : + Để giảm thời gian cần thiết đáp ứng nhu cầu. + Làm bằng phẳng mức sản xuất trong khi nhu cầu thay đổi. + Bảo vệ công ty trước các rủi ro do những dự đoán thấp về nhu cầu. Mặt khác dự trữ bao giờ cũng được coi là nguồn nhàn rỗi. Do đó khi dự trữ càng cao thì càng gây ra lãng phí, vậy dự trữ bao nhiêu được coi là hợp lý? Các nhà quản lý tài chính thì muốn giữ mức dự trữ thấp và sản xuất mềm dẻo để công ty có thể đáp ứng nhu câu nhưng sẽ hạ thấp mức đầu vào tồn kho. Thực tế dự trữ như là một lớp đệm lót giữa nhu cầu và khả năng sản xuất. Khi nhu cầu biến đổi mà hệ thống sản xuất có thể điều chỉnh khả năng sản xuất của mình, hệ thống sản xuất không cần đến lớp đệm lót tồn kho. Với cách nhìn nhận như vậy các lỗ lực đầu tư sẽ hướng vào một hệ thống sản xuất linh hoạt, điều chỉnh sản xuất nhanh, thiết lập quan hệ tốt với các nhà cung cấp để có thể đặt hàng thật nhanh với quy mô nhỏ. Còn các nhà sản xuất thì muốn có thời gian vận hành sản xuất dài để sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị, lao động. Họ tin rằng hiệu quả sản xuất đặt hàng với quy mô lớn có thể bù đắp những lãng phí mà dự trữ cao gây ra, điều nay dẫn đến mong muốn dự trữ cao. Mặc dù dùng mục tiêu giảm thấp các phí tổn liên quan đến dự trữ song cách nhìn nhận vấn đề theo những chiều hướng khác nhau. Rõ ràng trong những điều kiện nhất định lượng dự trữ hợp lý cần phải xác định một cách toàn diện. Nếu dự trữ quá cao sẽ làm tăng đầu tư vào tồn kho. Dự trữ thấp sẽ , tốn kếm trong việc mua hàng,thiết bị sản xuất ,bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Khi xem xét vấn đề chi phí dự trữ có hai khuynh hướng trái ngược nhau. Có chi phí tăng lên khi dự trữ tăng, có chi phí giảm khi dự trữ tăng.Vì vậy cần phải phân tích kỹ lưỡng các chi phí dự trữ trước khi đi đến một phương thức hợp lý sao cho làm cực tiểu chi phí có thể có. 2.Chi phí của dự trữ: 2.1 Chi phí tăng lên khi tăng dự trữ: - Chi phí vốn : Đầu vào dự trữ phải được xem xét như tất cả các cơ hội đầu tư ngắn hạn khác. Trong điều kiện nguồn vốn giới hạn, đầu tư vào dự trữ phải chấp nhận phí tổn về cơ hội của vốn đầu tư vào dự trữ và tỷ suất sinh lời của dự án có lợi đã bị bỏ qua. Sự gia tăng dự trữ làm tăng vốn cho dự trữ và chấp nhận phí tổn cơ hội vốn cao. - Chi phí kho: Bao gồm chi phí lưu giữ như chi phí kho bãi, tiền lương nhân viên, quản lý kho bãi, các điều kiện bảo quản dự trữ (giữ nóng, chống ẩm, làm lạnh) - Thuế và bảo hiểm: Chống lại rủi ro gắn với quản lý dự trữ, công ty có thể phải tổn chi phí bảo hiểm, chi phí này sẽ tăng khi tồn kho tăng. Dự trữ là một tài sản, nó có thể bị đánh thuế do đó dự trữ tăng chi phí thuế tăng. - Rủi ro kinh doanh: Trong thời gian dự trữ sản phẩm để lâu có thể bị lạc hậu và giảm giá. 2.2 Các chi phí giảm khi tồn kho tăng: - Chi phí đặt hàng: Là các chi phí phát sinh theo mỗi lần đặt hàng và nhận hàng như chi phí ước lượng, thương lượng do chuẩn bị đơn hàng, tiếp nhận... Quy mô lô hàng lớn sẽ có ít lần đặt hàng hơn thì chi phí đặt hàng trong năm ít hơn vì số lần đặt hàng ít. Song đặt hàng quy mô lớn dự trữ bình quân tăng lên và hiển nhiên chấp nhận chi phí dự trữ cao. - Giảm giá do chiết khấu khối lượng lớn: Đặt hàng quy mô lớn có thể được hưởng sự giảm giá chiết khấu. - Chi phí chuẩn bị sản xuất: Các hệ thống sản xuất chế tạo cần chi phí cho mỗi lần chuẩn bị sản xuất gồm, chi phí chuẩn bị tài liệu, máy móc nhàn rỗi, chi phí nhân công chuẩn bị ,phế phẩm do sản xuất thử... Khi dự trữ tăng thì nó sẽ làm giảm một số chi phí và làm tăng các chi phí khác. Mức dự trữ hợp lý là cực tiểu hoá tổng chi phí có liên quan, muốn làm tốt việc này đòi hỏi phải có một kế hoạch dự trữ hợp lý. IV.TIẾP CẬN VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT KẾ HOẠCH SẢN XUẤT VA DỰ TRỮ TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT ĐƯỜNG: 1.Vai trò kế hoạch sản xuất và dự trữ trong doanh nghiệp sản xuất đường: 1.1Sự cần thiết tồn tại các doanh nghiệp sản xuất đường: Diện tích mía đường đến năm 2003đạt 317.4 nghìn ha, có 44 nhà máy đường lớn tập trung lớn ở ĐBSCL. Cây mía giờ đây không chỉ được xem là trồng để lấy đường mà còn cho ra nhiều loại sản phẩm khác. Cung cấp mật, chế biến nhiếu trong nhiều nghành công nghiệp, tận thu bã mía để làm ván ép,làm phân bón, làm thực phẩm để nuôi bò, trồng nấm, làm nguyên liệu cho nhiều nghành năng lượng như sản xuất điện, đốt lò...Các nhà máy này tồn tại khá nâu đời tốn rất nhiều tiền của của nhà nước, ở nhiều nơi nghề trồng mía cung cấp nguyên liệu cho nhà máy đường là một nghề truyền thống.Với vai trò như vậy thì sự tồn tại của các nhà máy này là cần thiết. Nhưng hiện nay các doanh nghiệp sản xuất đường thường xuyên bị thua lỗ ,điều này khiến cho các nhà quản lý đang băn khoăn giữa sự tồn tại của chúng. Đơn cử ra ví dụ về cây mía ở DBSCL hiện là đòn cân kinh tế, một bên treo hơn 400 tỷ đồng lỗ là luỹ kế 3 năm (1999-2002) của 7 nhà máy đường, bên kia là món nợ khó đòi của nông dân trồng miá.Điều đáng ngại là cả hai bên đối kháng càng lúc càng nặng thêm ,chiếc đòn cân vốn mang hương vị ngọt ngào nhưng vừa nhỏ vừa giòn này chắc chắn có lúc gập gẫy. Khi ấy không những không thể cứu nổi nông dân mà tìm đâu ra nguồn tài chính để trả nợ đã vay đầu tư ban đầu và bù lỗ cho các nhà máy. Hiền giờ chúng ta đang đối mặt với tình trạng giá mía hạ, giá đường tăng nhưng không phải vì vậy mà nông dân không trồng mía các doanh nghiệp sản xuất đường không tồn tại. Bởi chúng ta không thể phủ nhận được vai trò của các doanh nghiệp này. Họ chính là người tiêu thụ sản phẩm của nông dân.Ví như trồng mía ở Trà Vinh đã có từ nâu đời, nó trở thành nghề là nguồn thu nhập chính của người dân, nhất là nông dân vùng ven sông Hậu. Trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cây mía được hai huyện Trà Cú và Tiểu Cần xem là cây chủ lực. Từ khi có nhà máy đường công suất 15000tấn mía cây /ngày của tổng công ty mía đường I chuyển về địa phương tại xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú, cây mía bắt đầu phát triển mạnh ở vùng lân cận nhà máy. Đó là ví dụ điển hình về vai trò to lớn của các doanh nghiệp sản xuất đường. Chúng ta không thể phủ nhận điều đó, nhưng chúng ta không thể làm ngơ trước những khó khăn mà doanh nghiệp mắc phải do những đặc điểm đặc thù của sản phẩm gây ra. 1.2. Các đặc điểm của sản phẩm đường. Sóc trăng là vùng trồng mía có năng xuất cao nhất ở ĐBSCL, mùa thu hoạch mía năm 2002 các hộ bán được giá mía rất cao, bình thường là 200-390 đồng/kg. Cuối vụ có hộ bán được với giá 500đ/kg.Còn năm 2003 cây mía trồng ngoài đồng không ai mua. Nguyên nhân do năng xuất mía lên cao, nguồn dự trữ đường của các nhà máy từ năm trước để lại nhiều, nếu thời kỳ thuận lợi thì làm sản lượng tăng lên nữa. Vụ mía năm 2001 –2002 càng về cuối giá mía lên càng cao ( 350000 – 370000đ/tấn) đã kích thích nông dân gia tăng trồng mía cho vụ 2002 –2003, điều này ảnh hưởng tới mức dự trữ sản phẩm đường, đặc biệt vấn đề dự báo rất khó khăn bởi không phải cái gì cũng có thể dự đoán chính xác đặc biệt là vấn đề liên quan đến thời vụ. Một đặc trưng nữa của sản phẩm đường là rất khó bảo quản bởi nó liên quan đến thời tiết, nhiệt độ.. chi phí dự trữ và bảo quản tăng lên. Vì vậy đối với dự trữ và bảo quản sản phẩm đường sao cho hợp lý. Ngoài ra nó còn rất nhạy cảm với thị trường thế giới và nguồn nguyên liệu đầu vào. Nếu sản lượng mía quá nhiều cộng với lượng dư thừa của kỳ trước, nhu cầu tăng không tương xứng gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản phẩm đường. Dự đoán sản phẩm đường của liên linh châu Âu trong liên vụ 01-02 tăng từ 16 –17,4 triệu tấn đẩy giá đường giảm xuống đến mức kỷ lục. Lượng đường tại liên minh châu âu, thổ nhĩ kỳ, Nam phi, úc, Mỹ và Braxin tăng mạnh sẽ gây áp lực đối với các nước sản xuất đường khác. Trung quốc hầu như không tham gia thị trường nhập khẩu và sản lượng đường Mỹ tăng. Chỗ dựa chung của thị trường nhập khẩu sẽ đổ dồn vào Nga. Nơi dự đoán không có sự tăng lên của sản phẩm nội địa. Mặc dù vậy thị trường thế giới không tránh khỏi suy thoái. Các nhà sản xuất đường trên thế giới phải đứng trước tình trạng giá đường thấp cho đến khi mức cân bằng cung -cầu được thiết lập. Để sản xuất đường thì nguyên liệu không thể thiếu đó là mía, giá nguyên liệu này tăng thì giá đường tăng, đây là điều hiển nhiên mà các doanh nghiệp đều nhìn thấy. Vụ mía năm 2001-2002 giá mía lên quá cao đã kích thích nông dân trồng mía cho liên vụ 2002 – 2003. Giá đường cũng hạ, liên vụ 01 –02 sự gặt hái thành công của người dân trồng mía do gía mía quá cao nhưng giá đường lại tăng đã không làm cho các doanh nghiệp sản xuất đường sáng sủa hơn, để nó còn phụ thuộc vào giá đường trên thế giới. Giá đường trong nước cao là một điều thuận lợi cho hàng nước ngoài tràn vào. Nhất là đường lậu, theo số liêu năm 2001 lượng đường nhập lậu từ Thái Lan qua biên giới Tây Nam tập trung tại các cưả khẩu thuộc An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tây Linh, rồi toả đi tiêu thụ ở nhiều nơi. ước tính tại An Giang thời điểm này có khoảng 300 tấn đường nhập lậu, nếu cứ giữ tốc độ như vậy chỉ trong vòng 2 tháng , nhập đường nhập lậu ở An Giang có thể gần bằng sản lượng 1 năm của nhà máy sản xuất cỡ lớn ở miền Đông Nam Bộ. Lượng đường nhập lậu 2001 là 163 tấn bắt được không bằng một nửa lượng nhập lậu qua cửa khẩu An Giang trong vòng một ngày. Thực tế ngành đường được nhà máy bảo hộ khá toàn diện là một trong 4 mặt hàng khi nhập khẩu phải có hạn ngạch do nhà nước cấp, đường nhập vào Việt Nam phải chụi thuế nhập khẩu lên tới 50%( cả VAT). Tuy vậy đường nhập lậu không dễ gì ngăn cản, nó làm lũng đoạn thị trường trong nước. Với sản phẩm đường nguồn nguyên liệu mía là vô cùng quan trọng. Nó phụ thuộc rất lớn vào thời vụ, vì vậy sản xuất đường phải tăng tính mềm dẻo, hình thức sản xuất liên tục. Với tình hình thị trường mía luôn thất thường thì vấn đề dự báo khó khăn nhưng cấn thiết cho việc đưa ra kế hoạch sản xuất và dự trữ. Tuy dự trữ đường rất mạo hiểm nhưng nó chống lại sự dán đoạn của quá trình cung ứng do nguyên nhân không mong đợi như thời tiết, đảm bảo quá trình sản xuất và cung ứng dịch vụ liên tục nhằm thoả mãn tối ưu đòi hỏi của khách hàng khắc phục sự sai xót trong dự đoán cầu, giảm một số chi phí trong đặt và mua hàng.... 2. Hiện trạng cung cấp nguyên liệu cho sản phẩm đường. Theo bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn vụ mía đương 01 – 02 diện tích mía ước tính đạt 310000 ha, tăng 2,3 % so với vụ trước. Trong đó diện tích trồng mía thuộc phần quy hoạch của các nhà máy đường là 233100 ha chiếm 75,2 % tổng diện tích trồng mía cả nước. Năng xuất mía bình vụ 01- 02 ước đạt 50 tấn/ha tăng 3 tấn/ha so với vụ trước, sản lượng mía ước đạt 15,5 triệu tấn tăng gần 1 triệu tấn. Tuy nhiên so với tổng công xuất cán ép của các nhà máy chế biến đường công nghiệp vụ 01- 02 khoảng 82800 tấn mía cây/ngày thì sản lượng mía vẫn còn thiếu hụt lớn. đây là nguyên nhân làm giá mía cây vụ 01- 02 liên tục tăng. Trong vụ 02-03 một số nhà máy đường đã vận hành với công xuất gấp đôi, ba công xuất thiết kế. Thế nhưng tại nhiều vùng mía nguyên liệu, mía quá tuổi thu hoạch đã chết khô trên đồng mà không có người đến mua. Người trồng mía quá bối rồi phải chạy ngược chạy xuôi tìm đường đưa cây mía tới trực tiếp nhà máy, một việc làm không dễ chút nào! Do ảnh hưởng của vụ trước đã làm cho sản lượng trồng mía mở rộng thêm, theo số liệu 2002- 2003 diện tích mía là 317,4 ngìn ha sản lượng đạt 16823,5 nghìn tấn tăng 14,8% so với vụ trước. Tuy vậy chất lượng giống mía chưa tốt, để tìm giải pháp ổn đinh cho các nhà máy sản xuất đường, bộ NN & PTNT mới đây đưa ra dự thảo đề án “ phát tiển giống mía cho vùng nguyên liêu cho các nhà máy đương giai đoạn 03-08” nhiều nhà quản lý cho rằng năng xuất mía trên một số diện tích dù có tăng cao nhưng sự gia tăng ấy còn chậm và không đều. Nguyên nhân vì vẫn còn tình trạng thiếu giống mía tốt giá hợp lý đáp ứng đúng yêu cầu trông mới tại chỗ. Ngành mí đường những năm qua đã nhập nội và chọn lọc từ các nứơc được hơn 10 giống mía thâm canh có năng xuất cao. Các loại giống này được khảo nghiệm, khu vực hoá ở 28 điểm đại diện cho các vùng nguyên liệu mía cả nước, bước đầu lai tạo chọn được 26 loại giống tốt để xây dựng cơ cấu bộ giống cho từng vùng theo quy trình thâm canh. Vì vậy cần xây dựng hệ thống sản xuất giống gắn với vùng nguyên liệu mà lòng cốt là các trại giống của chính nhà máy đường, nhà máy gắn với vùng nguyên liệu chính là cơ sở để thực hiện quyết định 80 ngày 20 – 06 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông phẩm thông qua hợp đồng. Việc quy hoạch vùng mía nguyên liệu, phải được thực hiện tốt, nhưng vấn đề này gặp nhiều trở ngại về hệ thống giao thông khó khăn dẫn đến việc đầu tư quy hoạch chỉ đạo vùng nguyên liệu của nhà máy chưa được quan tâm đúng mức. Nhà máy phó mặc sản xuất ho người dân.khó khăn trong ký kết hợp đồng mua mía của nông dân, ví như trong liên vụ 2002 –2003 khởi vụ sản xuất, nhiều nông dân lo sợ mía thu hoạch đông ken giá công, vận chuyển đến nhà máy đều tăng sẽ đẩy giá thành cao hơn giá bao tiêu lên không dám ký hợp đồng sản xuất với công ty mía đường hơn nữa việc sản xuất theo hợp đồng dễ phát sinh các vấn đề rắc rôí khi giao sản phẩm mà nông dân lo ngại phần thiệt sẽ thuộc về mình. Chính vì thế mà công ty chỉ ký hợp đồng với 6% diện tích mía của toàn tỉnh Sóc Trăng. ông nguyễn Minh Châu giám đốc công ty mía đường Sóc Trăng cho biết “ đầu vụ công ty đã ký hợp đồng hoa tiêu gần 800ha cho nông dân với giá 200 –220 đ/kg, tuy nhiên khi nông dân giao mía cho nhà máy điều họ lo ngại đã xảy ra. Nhiều trường hợp chấp nhận giá 140đ/kg. Trước tình cảnh này vừa mất của, vừa mang nợ của nông dân công ty sẽ ưu tiên thu mua hết số mía trong hợp đồng, trợ cước vận chuyển 20đ/kg. Không còn đường nào khác nông dân giao mía theo hợp đồng giống như việc “ hối lại của đổ”, lỗ ít còn hơn trắng tay! Về phí nguyên liệu khó khăn là vậy nhưng doanh nghiệp không có gì tốt đẹp hơn, điều hành sản xuất còn yếu năng lực hoạt động kém máy móc thiết bị lạc hậu sản phẩm chất lượng kém chi phí cao dẫn đến giá cao, đối mặt với vấn đề này chúng ta phải biết được nhu cầu sản xuất được hợp lý để thoả lòng người dân và sự mong đợi của doanh nghiệp. 3. Nhu cầu sản xuất được. Sản lượng đường tăng, nhập lậu tăng đã làm tồn kho đường tăng mạnh là nguyên nhân làm gía đường trong nước những nănm qua có xu hướng giảm mạnh nhưng giá đường trong nước còn cao hơn so với các nước trong khu vực Năm 2000 2001 2002 2003 Giá đường 5250 6640 5800 Sản lượng 1208,7 1059,5 1077,8 1100 Vậy nhu cầu sản xuất đường ngày càng tăng, nhưng để chiếm được thị trường trong nước là điều khó khăn. Nghĩ đến xuất khẩu liệu có phải là quá xa vời. Hiệp hội mía đường cho biết, sản lượng đường công nghiệp 2003 theo đăng ký 44 nhà máy cả năm sẽ đạt 962000 tấn đường tồn kho từ vụ trước. Tổng nguồn cung sẽ tăng lên 1,2 triệu tấn. So với nhu cầu trong nước ngành mía đường nội địa sẽ dư thừa từ 200 nghìn đến 300 nghìn tấn đương.Để giải quyết nó chúng ta đã tính đến xuất khẩu đưởng. Nhưng vấn đề này trở lên không tưởng khi mà giá đường tiếp tục hạ thấp, sản lượng đường lưu thông hạn chế đây là nguy cơ làm cho nganh mía đường trong nước trượt dài trên con đường thua lỗ. Theo số liêu báo cáo từ bộ NN&PTNT cho biết có đến 38/44 nhà máy chế biên đường trên cả nước thua lỗ trong thời gian này gần 300 tỷ đồng, trong đó có 5 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. nguyên nhân của sự thua lỗ là thiếu quy hoạch đầu tư vùng nguyên liệu, không ký hợp đồng mua mía của nông dân, năng xuất mía trung bình đạt từ 50 tấn/ha chỉ gần bằng 75% năng xuất trung bình trên thế giới. Trữ lượng sản phẩm đường rất bấp bênh, qua mỗi năm mỗi khác có thể liên vụ năm nay tiêu thụ nhiều mía sản xuất ra nhiều sản phẩm đường nhưng liên vụ năm tới mía trồng ra để “ làm củi”. Vì vậy dự báo nhu cầu làm một việc làm cần thiết, quy hoạch vùng nguyên liệu hiện tại rất khó khăn đòi hỏi các cấp ngành phải thực hiện nhanh chóng. 4.Những vấn đề cốt yếu của sản xuất và dự trữ đường. Điều khó nhất trong công tác lập kế hoạch kinh doanh ở Việt Nam hiện nay là thiếu thông tin số liệu thống kê. Việc lập kế hoạch dựa vào ba căn cứ chính là: Nguồn nguyên liệu đầu vào, thứ hai là căn cứ trên năng lực nhà máy thứ ba là thị trường. Vấn đề đầu tiên kế hoạch sản xuất số đường dự trữ cần làm là thu thập số liệu thống kê qua các năm về sản xuất và dự trữ sản phẩm đường. Thực tế cho thấy năng lực sản xuất của nhà máy đường rất kém. Theo số liệu 2002 bộ NN& PTNT cho rằng diện tích mía ở vùng nguyên liệu tập trung cho 44 nhà máy đường hiện có trong cả nước chỉ đạt bằng 200 nghìn ha (hiện tại là 241227 ha) năng xuất bình quân đạt 70 tấn/ha thì đã đủ mía nguyên liệu cho các nhà máy. Với năng lực hạn chế của mình nếu không có sự quy hoạch vùng nguyên liệu thì điều này sẽ gây bất an cho người dân trồng mía. Trong trường hợp nhà máy đường Sóc Trăng trong liên vụ 02 - 03 doanh nghiệp chỉ thua mua được gần 6% sản lượng mía của nông dân, vậy sản lượng mía còn lại sẽ đi về đâu? Về phía thị trường thường xuyên bị lũng đoạn bởi lượng đường nhập lậu. Giá đường trên thế giới thấp hơn giá đường trong nước đã làm cho thị trường trong nước ngày càng bị thu hẹp vươn ra thị trường nước ngoài là vô cùng khó khăn. đứng trước tình hình đó vai trò kế hoạch được nâng cao hơn lúc nào hết, giải pháp cho ngành mía đường không phải là đơn giản. 5. Giải pháp cho nhà máy đường Trước hết cần xây dựng hệ thống giống mía gắn với vung nguyên liệu mà lòng cốt là các nhà máy sản xuất đường. Trong tương lai, nhà máy nào có vùng nguyên liệu ổn định có năng lực sản xuất kinh doanh thì lên giữ lại, nhà máy nào không có điều kiện trên thì cho phá sản. Biện pháp nâng cao giống mía là biện pháp ổn định cho nganh mía đường mà chúng ta hàon toàn thực hiện được trong tầm tay. Người trồng mía phải được hướng dẫn để thực sự quan tâm đến chất lượng mía ngay từ khâu chọn giống, chăm sóc, bón phân... hệ thống giao thông phải có thay thay đổi sao cho thuận lợi cho việc đầu tư và quy hoạch được dễ dàng, quan tâm đúng mức hơn. Trong sản xuất có sự kết hợp ăn ý giữa nhà máy và người dân sao cho đôi bên cùng có lợi. Vấn đề tăng năng lực hoạt động là việc làm cần thiết để doanh nghiệp thu mua sản lượng mía của người dân nhiều hơn, tránh được thua lỗ cho dân. Nhưng để doanh nghiệp có lãi thì chất lượng mía phải tốt, năng xuất cao, chi phí thấp...để thực hiện được điều này thì phải đổi mới phương thức sản xuất và quản lý. Vấn đề dự trữ cần phải xem xét dựa vào đặc trưng của sản phẩm. KẾT LUẬN Trong thời đại ngày nay hoạt động sản xuất phong phú và đa dạng. Nền kinh tế thị trường biến động không ngừng, nó giống như một cô gái đẹp hấp dẫn nhưng đỏng đánh khó năm bắt. Nếu không có kế hoạch sản xuất thì doanh nghiệp sẽ mò mẫm không biết sản xuất sẽ đi đến đâu. Nhưng rất tiếc các doanh nghiệp Việt Nam lại xem nhẹ vấn đề này, nhiều doanh nghiệp lập kế hoạch xong rồi để đấy hoặc thực hiện không đúng kế hoạch. Trong các trường đại học không có hẳn chuyên ngành về vấn đề này. Từ nhiều thiếu xót trong hiện thực, với sự trì trệ của các doanh nghiệp sản xuất thì vấn đề kế hoạch sản xuất phải nâng ở tầm cao mới. Một ví dụ điển hình là doanh nghiệp sản xuất đường, một doanh nghiệp có truyền thống tồn tại lâu năm vậy mà giờ đây đang chênh vênh trên bờ vực một bên là lỗ hàng tỷ đồng cộng với nợ người dân, một bên là khoản vốn đầu tư khổng lồ của nhà nước và lượng mía người dân trồng. Vấn đề kế hoạch sản xuất và dự trữ được các doanh nghiệp này nâng cao hơn khi nào hết. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU PHẦN NỘI DUNG I. Tổng quan về kế hoạch trong doanh nghiệp 1. Tổng quan về doanh nghiệp 1.1. Khái niệm về doanh nghiệp 1.2. Mục itiêu hoạt động cảu doanh nghiệp 1.3. Các giai đoạn kế hoạch kinh doanh 1.4. Quản lý sản xuất trong doanh nghiệp 2. Khái quát kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp 2.1. Khái niệm kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp 2.2. Những thử thách và thuật lợi cảu doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 3. Hệ thống kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp II. Kế hoạch sản xuất và kế hoạch dự trữ trong doanh nghiệp 1. Vai trò hoạt động sản xuất 2. Đặc điểm của nền sản xuất hiện đại 3. Các loại hình sản xuất 3.1. Sản xuất liên tục 3.2. Sẳn xuất gián đoạn 4. Kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp III. Kế hoạch dữ trữ trong doanh nghiệp 1. Lý do dự trữ 2. Chi phí của dự trữ 2.1. Các chi phí làm tăng khi tồn kho tăng 2.2. Các chi phí giảm khi tồn kho tăng IV. Tiếp cận vấn đề lý thuyết kế hoạch sản xuất và dự trữ trong doanh nghiệp sản xuất đường 1. Vai trò kế hoạch sản xuất và dự trữ trong doanh nghiệp sản xuất đường 1.1. Sự cần thiết tồn tại các doanh nghiệp sản xuất đường 1.2. Các đặc điểm cảu sản phẩm đường 2. Hiện trạng cung cấp nguyên liệu cho sản phẩm đường 3. Nhu cầu sản xuất được 4. Những vấn đề cốt yếu cảu sản xuất và dự trữ đường 5. Giải pháp cho nhà máy đường KẾT LUẬN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA062.doc