Tài liệu Đề tài Tổng quan về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng ngân hàng: 1Chương 1
Tổng quan về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng
ngân hàng
1.1 Hoạt động tín dụng
1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Căn cứ theo khoản 01 Điều 03 của Quy chế cho vay của Tổ chức Tín dụng đối
với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Cho vay là một hình thức cấp
tín dụng, theo đó Tổ chức Tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để
sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc và lãi.”
Căn cứ theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX đã được
Qu...
80 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1095 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng ngân hàng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1Chương 1
Tổng quan về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng
ngân hàng
1.1 Hoạt động tín dụng
1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Căn cứ theo khoản 01 Điều 03 của Quy chế cho vay của Tổ chức Tín dụng đối
với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Cho vay là một hình thức cấp
tín dụng, theo đó Tổ chức Tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để
sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc và lãi.”
Căn cứ theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX đã được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ hai thông
qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm
1998 thì “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn
huy động để cấp tín dụng”
Căn cứ theo Điều 49 của Luật này về “Cấp tín dụng” thì Tổ chức tín dụng được
cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương
phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
21.1.2 Bản chất
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
hoàn trả và có các đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn.
Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay
cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.3 Phân loại hoạt động tín dụng
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên
một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để
thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín
dụng. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây:
- Dựa vào mục đích của cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
+ Cho vay mua bán bất động sản.
+ Cho vay sản xuất nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
- Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
3+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích của loại
cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
+ Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục đích của
loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại
cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động tín dụng có thể phân
chia thành các loại sau:
+ Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay
vốn để quyết định cho vay.
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay
như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
- Dựa vào phương thức cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay theo món vay: là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổ
chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay mà tổ chức tín dụng và khách
hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời
gian nhất định.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa
thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản
thanh toán của khách hàng.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng
thời người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.
4+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán như là:
Chiết khấu thương mại; bao thanh toán.
1.2 Rủi ro tín dụng
1.2.1 Khái niệm
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân
hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ
không đúng hạn cho ngân hàng.
Căn cứ vào khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng (Ban hành theo Quyết định số 493 /2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ
mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc
không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá
trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài
chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng.
Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro
liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.2 Phân loại
Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau:
- Rủi ro giao dịch (Transaction rish): là một hình thức của rủi ro tín dụng mà
nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt
5cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa
chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín
dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết
định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong
hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và
mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý
các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục (Porfolio rish): là một hình thức của rủi ro tín dụng mà
nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của
ngân hàng, được phân chia thành hai loại là rủi ro nội tại (Intrinsic rish) và rủi ro
tập trung (Concentration rish).
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng
biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ
đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối
với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một
ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một
loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.3 Nguyên nhân
Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng
thương mại nhưng đây cũng chính là lĩnh vực nghiệp vụ phức tạp và ẩn chứa nhiều
rủi ro nhất. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng là
6thực sự cần thiết để các ngân hàng thương mại có được các giải pháp cần thiết để
hạn chế rủi ro này và đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất
Như chúng ta đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp
tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được
nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Rủi ro này có nguyên nhân từ nhiều
phía: từ phía người cho vay, từ phía người đi vay và cả từ môi trường bên ngoài.
1.2.3.1 Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
Trước hết phải nói đến các ngân hàng còn thiếu một chính sách tín dụng nhất
quán, chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho vay,
chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay, danh
mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn,… Nguyên nhân gây ra rủi ro tín
dụng từ phía ngân hàng có thể được khái quát cơ bản dưới đây:
- Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích
và đánh giá khách hàng,… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án xin
vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh
doanh của khách hàng.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát
hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo
chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất lượng
khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh
của khách hàng.
- Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý
hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm địa
phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ.
7- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ
tầm và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng.
- Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và
nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán,
từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn nhiều;
hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy
vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo
quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất
lượng khoản vay.
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa
đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát
sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đế
các doanh nghiệp khác.
- Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng
quản lý.
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa
phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn
đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế
toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản
lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà
lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
8- Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều
thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền
dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản,
nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các
doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng
các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và
trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng
nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Do đó, khi cán bộ ngân
hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh
nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.
- Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước nếu
doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng thua lỗ thì nhà
nước chịu.
- Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng.
1.2.3.3 Nguyên nhân khách quan.
- Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây
tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới.
Bởi vì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và
nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và
giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
- Sự tấn công của hàng nhập lậu
Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức
tạp và tình hình nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng
nhập lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm qua mà kết quả là hàng lậu vẫn
9tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và
các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này.
- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ
quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn
bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân
hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động
ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều bất cập.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước.
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và
đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng; năng lực
cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu; nội dung và phương pháp
thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới; vai trò kiểm toán chưa được
phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu; thanh tra
tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền
tệ và giám sát rủi ro còn yếu;…
- Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, trung tâm thông tin tín
dụng ngân hàng (CIC) của Ngân hàng nhà nước đã hoạt động hơn một thập niên
và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp
thông tin tín dụng. Tuy nhiên, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật,
chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin.
- Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên
vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng,
khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
1.2.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và nền kinh tế xã hội
10
1.2.4.1 Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và
lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi
đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng
quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả, chi phí
của ngân hàng tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử
dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực
nào đấy, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân
hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp
rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài
chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm không những trong thị trường nội
địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng
xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu không
có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
1.2.4.2 Ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian
tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức,
các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu
những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi
vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà
quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền
ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân
hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn.
Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó
11
khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ
nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất
nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày
nay, nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) và
mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung
chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát
triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền
kinh tế các nước có liên quan.
* Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau:
nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay,
nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn
đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục
được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nến kinh tế nói
chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị
ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm
thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2.5 Một số phương pháp quản lý rủi ro tín dụng.
Tín dụng là hoạt động chính yếu của ngân hàng. Nếu quản lý tốt, tín dụng sẽ
góp phần đáng kể trong việc tạo ra lợi nhuận và làm tăng giá trị ngân hàng.
Ngược lại, nếu quản lý kém, tín dụng có thể gây ra tổn thất lớn và làm giảm giá
trị ngân hàng. Một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý tín dụng là làm
giảm tối đa rủi ro tín dụng. Muốn vậy, ngân hàng cần phải lượng hóa và đánh
giá được rủi ro tín dụng để từ đó có các biện pháp quản lý hiệu quả.
1.2.5.1 Lượng hóa rủi ro tín dụng.
12
Lượng hóa rủi ro tín dụng là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng hóa
mức độ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín
dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi
ro. Sau đây là các mô hình được áp dụng tương đối phổ biến:
* Mô hình chất lượng 6 C:
(1) Tư cách người vay (Character)
Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích xin
vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân
hàng và phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của khách hàng hay không,
đồng thời xem xét lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách
hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như từ: trung tâm
phòng ngừa rủi ro, từ ngân hàng bạn, từ các cơ quan thông tin đại chúng,…
(2) Năng lực của người vay (Capacity)
Tùy thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia. Đòi hỏi người đi vay phải có
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
(3) Thu nhập của người đi vay (Cash)
Trước hết, phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ
doanh thu bán hàng hay thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát
hành chứng khoán,…
(4) Bảo đảm tiền vay (Collateral)
Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể
dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
(5) Các điều kiện (Conditions)
Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ
như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng, nhằm
thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương theo từng thời kỳ.
13
(6) Kiểm soát (Control)
Tập trung vào những vấn đề như sự thay đổi của luật pháp có liên quan và
quy chế hoạt động mới có ảnh hưởng xấu đến người vay hay không? Yêu cầu
tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng hay không?
* Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & poor:
Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp
hạng trái phiếu và khoản cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi một số
dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó có Moody và Standard & Poor là những dịch
vụ tốt nhất.
Đối với Moody xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor thì cao
nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody) và AA (Standard & Poor)
sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, chứng
khoán (khoản cho vay) trong 4 loại đầu được xem như loại chứng khoán (cho
vay) mà ngân hàng nên đầu tư, còn các loại chứng khoán (khoản cho vay) bên
dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng không đầu tư (không cho vay).
Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhuận
nên những chứng khoán (khoản cho vay) tuy được xếp hạng thấp (rủi ro không
hoàn vốn cao) nhưng lại co lợi nhuận cao nên đôi lúc ngân hàng vẫn chấp nhận
đầu tư vào các loại chứng khoán (cho vay) này.
Mô hình xếp hạng của công ty Moody và Standard & Poor
Nguồn Xếp hạng Tình trạng
Standard & Poor
Aaa Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất*
Aa Chất lượng cao*
A Chất lượng trên trung bình*
14
Baa Chất lượng trung bình*
Ba Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu
cơ
B Chất lượng dưới trung bình
Caa Chất lượng kém
Ca Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ
C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu
Moody
AAA Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất*
AA Chất lượng cao*
A Chất lượng trên trung bình*
BBB Chất lượng trung bình*
BB Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu
cơ
B Chất lượng dưới trung bình
CCC Chất lượng kém
CC Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ
C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu
* Mô hình điểm số Z (Z – Credit scoring model):
Đây là mô hình do E.I. Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín
dụng đối với người đi vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
15
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó:
X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch
toán của nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì xác suất vỡ nợ của người đi vay càng thấp. Ngược lại,
khi trị số Z thấp hoặc là một số âm thì đó là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có
nguy cơ vỡ nợ cao.
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp
hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
* Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng:
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng mô hình cho điểm
tín dụng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ
thuộc, sở hữu nhà, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác.
Bảng dưới đây là những hạn mục và điểm thường được sử dụng ở các ngân
hàng của Hoa Kỳ.
STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm
1 Nghề nghiệp của người vay
- Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh
- Công nhân có kinh nghiệm
- Nhân viên văn phòng
- Sinh viên
- Công nhân không có kinh nghiệm
10
8
7
5
4
16
- Công nhân bán thất nghiệp 2
2 Trạng thái nhà ở
- Nhà riêng
- Nhà thuê hay căn hộ
- Sống cùng bạn hay người thân
6
4
2
3 Xếp hạng tín dụng
- Tốt
- Trung bình
- Không có hồ sơ
- Tồi
10
5
2
0
4 Kinh nghiệm nghề nghiệp
- Nhiều hơn 1 năm
- Từ 1 năm trở xuống
5
2
5 Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành
- Nhiều hơn 1 năm
- Từ một năm trở xuống
2
1
6 Điện thoại cố định
- Có
- Không có
2
0
7 Số người sống cùng (phụ thuộc)
- Không
- Một
- Hai
- Ba
- Nhiều hơn ba
3
3
4
4
2
8 Các tài khoản tại ngân hàng
17
- Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành Sec
- Chỉ tài khoản tiết kiệm
- Chỉ tài khoản phát hành Sec
- Không có
4
3
2
0
Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục tiêu trên là 43
điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa
khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình
thành khung chính sách tín dụng theo mô hình điểm số như sau:
Tổng số điểm của khách hàng Quyết định tín dụng
Từ 28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng
29 - 30 điểm Cho vay đến 500 USD
31 - 33 điểm Cho vay đến 1.000 USD
34 – 36 điểm Cho vay đến 2.500 USD
37 – 38 điểm Cho vay đến 3.500 USD
39 – 40 điểm Cho vay đến 5.000 USD
41 – 43 điểm Cho vay đến 5.000 USD
1.2.5.2 Đánh giá rủi ro tín dụng.
Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là:
* Tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ cho vay
18
Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các
Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn
ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
Nợ quá hạn (non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc
toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn.
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm
bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn
thành các nhóm sau:
+ Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú ý.
+ Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn.
+ Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ.
+ Nợ quá hạn trên 361 ngày – Nợ có khả năng mất vốn.
* Tỷ trọng nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể
đòi,…) là khoản nợ mang các đặc trưng sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các
cam kết này đã hết hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn
đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
+ Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị
phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
+ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005, nợ xấu của tổ
chức tín dụng bao gồm các nhóm nợ như sau:
19
- Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất
một phần nợ gốc và lãi. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại.
- Nhóm nợ nghi ngờ: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả
năng tổn thất cao. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại.
- Nhóm nợ có khả năng mất vốn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn
trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ
cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Theo quy định hiện nay, tỷ lệ này không được vượt quá 3%.
* Hệ số rủi ro tín dụng
Tổng dư nợ cho vay
Hệ số rủi ro tín dụng = x 100%
Tổng tài sản có
Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có,
khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng
thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân
hàng được chia thành 3 nhóm:
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản
cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân
hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của
ngân hàng.
20
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho
vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân
hàng. Đây cũng là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ
cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những
khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mạng lại
cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong
tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
* Tỷ lệ xóa nợ
Các khoản xóa nợ ròng
Tỷ lệ xóa nợ = x 100%
Tổng tài sản có
1.2.5.3 Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng.
Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài
chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay. Xem xét và quyết định
việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản, cho
vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc khi xử
lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng thực hiện các giải pháp
nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng.
Phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc, thủ tục
cho vay và cấp tín dụng khác, tránh xảy ra sự cố gây thất thoát tài sản; sắp xếp
lại tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng yêu cầu kinh
doanh ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh
doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ của tổ chức tín
dụng.
21
Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi ro tín
dụng, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó
bao gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín
dụng, các tài sản bảo đảm, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín
dụng
Thực hiện các quy định bảo đảm kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động tín
dụng:
+ Xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống các quy chế, quy trình nội
bộ về quản lý rủi ro; trong đó đặc biệt chú trọng việc xây dựng chính sách khách
hàng vay vốn, sổ tay tín dụng, quy định về đánh giá, xếp hạng khách hàng vay,
đánh giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu.
+ Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo cân
đối thời hạn cho vay với thời hạn của nguồn vốn huy động.
+ Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài
chính, bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt động
kinh doanh.
Đối với các trường hợp chây ỳ nhận nợ và trả nợ vay, các tổ chức tín dụng
cần áp dụng các biện pháp kiên quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, kể cả
việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh, khởi kiện lên cơ quan tòa án.
Phân tán rủi ro trong cho vay: không dồn vốn cho vay quá nhiều đối với một
khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành, lĩnh vực
kinh tế có rủi ro cao.
Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ trước khi quyết
định tín dụng.
Mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay.
Phải có chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối phó
với rủi ro.
22
Trước khi cho một khách hàng vay, ngân hàng phải xem xét các điều kiện cơ
bản như là: Khả năng trả nợ của khách hàng so với mức cho vay; Trị giá tài sản
đảm bảo so với mức cho vay; Giới hạn tổng dư nợ cho vay một khách hàng, một
nhóm khách hàng có liên quan;….
1.2.6 Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của các nước
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp trích lập dự phòng.
Trích lập dự phòng là cách thức hữu hiệu để quản trị rủi ro do tổn thất tín
dụng. Việc trích lập dự phòng phải căn cứ vào thực tế trả nợ vay thay vì căn cứ
vào khả năng trả nợ trong quá khứ của khách hàng. Các nước chia sẻ kinh
nghiệm rằng họ áp dụng các nguyên tắc dự phòng khác nhau dựa theo việc phân
loại nợ vay có khả năng gây tổn thất ở mức độ khác nhau.
- Hồng Kông: xếp loại rủi ro cho khách hàng và trích lập dự phòng tương
ứng.
- Hàn Quốc: các nguyên tắc dự phòng phân lập theo loại tín dụng.
- Singapore: dự phòng tổn thất khoản vay ước tính từ danh mục vay được áp
dụng cho các khoản vay tiêu dùng.
- Thái Lan: phân loại khoản vay được đưa vao luật. Các cơ quan giám sát
ngân hàng có quyền yêu cầu trích lập dự phòng cho các khoản vay cần chú ý.
- Columbia: dự phòng cho tín dụng tiêu dùng, thương mại, cầm cố thế chấp
và tín dụng nhỏ theo thời hạn khoản vay từ 1-18 tháng.
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp tuân thủ những nguyên tắc tín
dụng thận trọng.
- Hồng Kông: giới hạn cho vay các đối tác ở mức 5%giá trị ròng doanh
nghiệp. Tổng dư nợ vay cho các đối tác không vượt quá 10% vốn tự có Ngân
hàng.
23
- Hàn Quốc: giới hạn cho vay cổ đông ở mức 25% vốn tự có Ngân hàng
hoặc tỷ lệ mà họ sở hữu. Giới hạn cho vay các đối tác liên quan ở mức 10% vốn
tự có Ngân hàng.
- Singapore: Ngân hàng không được phép tham gia vào các hoạt động phi tài
chính. Cũng không được phép đầu tư hơn 10% vốn vào các công ty hoạt động
phi tài chính. Mức đầu tư vốn vào một công ty đơn lẻ giới hạn ở 2% vốn tự có
Ngân hàng. Tổng vốn đầu tư giới hạn ở 10% vốn tự có Ngân hàng.
- Thái Lan: giới hạn đầu tư ở mức 10% vốn khách vay và 20% vốn của Ngân
hàng. Giới hạn cho vay cho nhóm khách hàng ở mức 5% vốn ngân hàng, 50%
giá trị ròng của doanh nghiệp và 25% giá trị nợ.
- Columbia: giới hạn cho vay cho nhóm khách hàng liên quan 10% vốn tự
có. Mở rộng tới 25% nếu có tài sản đảm bảo tốt.
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp đặt ra hạn mức cho vay
Phòng ngừa rủi ro do tập trung tín dụng là hoạt động được xem là thường
xuyên của Ngân hàng các nước trong việc quản lý danh mục tín dụng của mình.
Biện pháp sử dụng là đặt ra các hạn mức cho vay dựa trên vốn tự có của Ngân
hàng đối với khách hàng vay riêng lẻ hay nhóm khách hàng vay:
- Hồng Kông: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của
Ngân hàng.
- Hàn Quốc: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 20% vốn tự có của
Ngân hàng và giới hạn cho vay nhóm khách hàng ở mức 25% vốn tự có của
ngân hàng.
- Singapore: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của
Ngân hàng.
- Thái Lan: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của
Ngân hàng.
- Columbia: giới hạn vay ở mức 40% giá trị ròng của khách hàng vay.
24
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp kiểm tra, giám sát
Kiểm tra và giám sát là các hoạt động thường xuyên được thực hiện trước
khi cho vay, trong khi cho vay và sau khi cho vay:
- Hồng Kông: sử dụng mô hình CAMEL (vốn, tài sản, quản lý, thu nhập,
thanh khoản) để đánh giá.
- Hàn Quốc: sử dụng mô hình CAMELS (vốn, tài sản, quản lý, thu nhập,
thanh khoản và thử nghiệm chịu đựng cực điểm). (Capital, Assets, Management,
Earnings, Liquidity and Stress testing)
- Singapore: kiểm tra trong quá trình phát vay, báo cáo hàng tháng và hàng
quý.
- Thái Lan: kiểm tra trong quá trình phát vay và sau khi cho vay. Giám sát hệ
số đủ vốn dự báo. Có hệ thống báo cáo định kỳ.
- Columbia: kiểm tra trong quá trình phát vay, kiểm tra bởi Ủy ban giám sát
Ngân hàng.
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp quản trị hệ thống thông tin tín
dụng
Tổ chức tốt hệ thống thông tin tín dụng sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác thẩm
định khách hàng vay, giúp hạn chế phòng ngừa rủi ro ngay từ khâu thẩm định
hồ sơ vay:
- Singapore: Hiệp hội Ngân hàng tổ chưc và quản lý thông tin tín dụng từ các
thành viên. Hỗ trợ thông tin về các khoản tín dụng lớn.
- Thái Lan: Cục thông tin tín dụng được quản lý bởi công ty tư nhân, tất cả
các Ngân hàng báo cáo thông tin về Cục, sau đó Cục thông tin kết xuất báo cáo
về khách hàng vay và lịch sử trả nợ vay hàng tháng, không cung cấp thông tin
thẩm định tín dụng.
25
- Columbia: Ngân hàng báo cáo các khoản vay cho cơ quan giám sát theo
định kỳ hàng tháng. Sau đó thông tin về giá trị khoản vay, lãi suất vay, chất
lượng khoản vay và tư cách khách hàng vay sẽ được tập hợp lại.
26
Chương 2
Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu
2.1 Giới thiệu khái quát về Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo Giấy phép
số 0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp ngày 24/4/1993, và Giấy
phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP.HCM cấp ngày 13/5/1993. Ngày
04/6/1993 ACB chính thức đi vào hoạt động, là một trong những ngân hàng thương
mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang
chuyển sang nền kinh tế thị trường và trụ sở chính được đặt tại 442 Nguyễn Thị
Minh Khai, Quận 3 TP.HCM.
- Về Quy mô hoạt động:
+ Năm 2006: Vốn chủ sở hữu là 1.630 tỷ đồng; Tổng tài sản là 44.346 tỷ đồng;
Về mạng lưới kênh phân phối, tính đến cuối năm 2006, toàn hệ thống ACB có 80
chi nhánh và phòng giao dịch với tổng số nhân viên là 2.892, trong đó 90% số nhân
viên có trình độ Đại học và Sau đại học.
+ Năm 2007: Vốn chủ sở hữu là 6.258 tỷ đồng; Tổng tài sản là 85.392 tỷ đồng;
Về mạng lưới kênh phân phối, tính đến cuối năm 2007, toàn hệ thống ACB có 111
chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc với
tổng số nhân viên là 4.600, trong đó 93% số nhân viên có trình độ Đại học và Sau
đại học.
- Quá trình phát triển và một số sự kiện đáng chú ý:
+ Năm 1996, ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam
phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-MasterCard.
27
+ Năm 1997, ACB phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Visa. Và cũng trong
năm này, ACB bắt đầu tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại dưới hình thức của
một chương trình đào tạo nghiệp vụ ngân hàng toàn diện kéo dài hai năm do giảng
viên nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Thông qua chương trình này,
ACB đã nắm bắt một cách hệ thống các nguyên tắc vận hành của một ngân hàng
hiện đại, các chuẩn mực và thông lệ trong quản lý rủi ro, đặc biệt trong lĩnh vực
ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu ứng dụng trong điều kiện Việt Nam.
+ Năm 1999, ACB triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin
ngân hàng, xây dựng hệ thống mạng diện rộng, nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa
hoạt động giao dịch. Và cuối năm 2001, ACB chính thức vận hành hệ thống công
nghệ ngân hàng lõi là TCBS (The Complete Banking Solution: Giải pháp ngân
hàng toàn diện), cho phép tất cả chi nhánh và phòng giao dịch nối mạng với nhau,
giao dịch tức thời, dùng chung cơ sở dữ liệu tập trung.
+ Năm 2000, sau những bước chuẩn bị từ năm 1997, ACB đã thực hiện tái cấu
trúc như là một bộ phận của chiến lược phát triển trong nửa đầu thập niên 2000. Cơ
cấu tổ chức được thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ trợ. Các khối kinh
doanh gồm có: Khối khách hàng cá nhân, Khối khách hàng doanh nghiệp và Khối
ngân quỹ. Các đơn vị hỗ trợ gồm có: Khối công nghệ thông tin; Khối giám sát điều
hành; Khối phát triển kinh doanh, Khối quản trị nguồn lực và một số phòng ban do
Tổng Giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Hoạt động kinh doanh của Hội sở được chuyển
giao cho Sở giao dịch (TPHCM). Việc tái cấu trúc nhằm đảm bảo tính chỉ đạo
xuyên suốt toàn hệ thống, sản phẩm được quản lý theo định hướng khách hàng và
được thiết kế phù hợp với từng phân đoạn khách hàng, quan tâm đúng mức việc
phát triển kinh doanh và quản lý rủi ro.
+ Năm 2003, ACB xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9001:2000 và được công nhận đạt tiêu chuẩn trong các lĩnh vực: Huy động vốn;
28
Cho vay ngắn hạn và trung - dài hạn; Thanh toán quốc tế; và cung ứng các nguồn
lực tại Hội sở.
+ Năm 2005, ACB và Ngân hàng Standard Chartered (SCB) ký kết thỏa thuận
hỗ trợ kỹ thuật toàn diện. Và SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB. ACB
triển khai giai đoạn hai của chương trình hiện đại hóa công nghệ ngân hàng bao
gồm các cấu phần: nâng cấp máy chủ, thay thế phần mềm xử lý giao dịch thẻ ngân
hàng bằng một phần mềm mới có khả năng tích hợp với công nghệ lõi hiện nay và
lắp đặt hệ thống máy ATM.
+ Năm 2006, ACB được Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chấp thuận
cho đăng ký giao dịch tại trung tâm kể từ ngày 31/10/2006 theo Quyết định số
21/QĐ-TTGDHN ngày 31/10/2006.
+ Năm 2007, ACB mở rộng mạng lưới hoạt động, thành lập mới 31 chi nhánh
và phòng giao dịch, thành lập Công ty cho thuê tài chính ACB, hợp tác với các đối
tác như Open Solutions (OSI) - Thiên Nam, hợp tác với Microsoft về việc áp dụng
công nghệ thông tin vào vận hành và quản lý, hợp tác với Ngân hàng Standard
Chartered về việc phát hành trái phiếu. ACB phát hành 10 triệu cổ phiếu và thu
được hơn 1.800 tỷ.
- Trong hoạt động, ACB luôn tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với
ngân sách nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn. Và ACB cũng đã khẳng định được
vị trí là một thương hiệu mạnh trong và ngoài nước. Tại Việt nam, ACB xếp hạng
là “1 trong 500 thương hiệu nổi tiếng tại Việt nam” (do VCCI bình chọn năm
2005); và là nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ xuất sắc trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng (Chương trình “Tin & Dùng Việt Nam 2006” do Thời báo kinh tế Việt Nam tổ
chức). Liên tiếp trong hai năm 2005 và 2006, ACB là ngân hàng đầu tiên của Việt
Nam nhận được 3 giải thưởng quốc tế danh giá do các tổ chức và tạp chí uy tín
trong ngành ngân hàng trao tặng: The Banker, the Asean banker và Euromoney. Và
trong năm 2007, ACB là đơn vị đầu tiên và duy nhất trong ngành ngân hàng Việt
29
Nam được Hội đồng tư vấn doanh nghiệp (BAC) của Hiệp hội ASEAN tặng giải
thưởng “Doanh nghiệp ASEAN xuất sắc nhất” trong lĩnh vực phát triển đội ngũ lao
động.
- Song song với các thành tích đạt được trong kinh doanh, ACB còn được công
nhận là doanh nghiệp tích cực hoạt động xã hội và có nhiều đóng góp cho sự phát
triển chung của cộng đồng. Điển hình là công tác ủng hộ đồng bào bị thiên tai, hỗ
trợ phẫu thuật cho 600 người mù nghèo, đóng góp xây dựng trường học và tài trợ
học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo…Trong năm 2007, ACB đã chi tổng cộng
trên 10 tỷ đồng cho các hoạt động quan hệ cộng đồng. Đồng thời, ACB còn thực
hiện tốt công tác chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên, phát huy công tác
Đảng, Đoàn thể tại đơn vị.
- Về kế hoạch phát triển trong tương lai, ACB đã đề ra chiến lược 5 năm 2008 –
2010 và tầm nhìn 2015 khẳng định việc ACB sẽ tiếp tục giữ vị thế hàng đầu trong
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trên các mặt: tăng trưởng cao, chỉ số tài
chính duy trì ở mức an toàn cao trong đó ROE cần đạt 25% đến 30%, chất lượng tài
sản có, quản lý rủi ro theo thông lệ tốt nhất, các chỉ tiêu tăng trưởng bền vững, hệ
thống sản phẩm và kênh phân phối đa dạng, chất lượng dịch vụ cao. Và để thực
hiện chiến lược trên, ACB sẽ tiếp tục tích cực phát triển hệ thống kênh phân phối
không chỉ là các chi nhánh và phòng giao dịch mà còn là hệ thống máy ATM và
kênh ngân hàng điện tử để nâng cao năng lực phục vụ khách hàng và thu hút khách
hàng mới, nâng cao chất lượng dịch vụ và cho ra đời nhiều sản phẩm gắn với nhu
cầu của người dân, xây dựng phong cách phục vụ của nhân viên theo hướng chuyên
nghiệp và áp dụng hệ thống công nghệ hiện đại cho hoạt động ngân hàng.
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua
Sau 14 năm hoạt động, ACB luôn giữ vững sự tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định.
Và điều này được thể hiện bằng các chỉ số tài chính qua các năm như sau:
30
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Quý 1/2008
Tổng tài sản 15,417 24,247 44,346 85,392 99,409
Vốn huy động 14,359 22,332 39,548 74,943 81,064
Dư nợ cho vay 6,760 9,382 17,114 31,974 40,694
Lợi nhuận trước thuế 278 385 658.8 2,127 513
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 và Báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ tại
ngày 31/03/2008 của Ngân hàng TMCP Á Châu)
0
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
80,000
90,000
100,000
2004 2005 2006 2007 Đến Q1/08
Tổng tài sản
Vốn huy động
Dư nợ cho vay
Lợi nhuận trước thuế
31
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên, chúng ta có thể nhận thấy tình hình kinh
doanh khá hiệu quả và ổn định qua các năm.
Một ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả là một ngân hàng huy động được
nguồn vốn cần thiết cho hoạt động của mình. Trong tình hình cạnh tranh về lãi suất
và thị trường có nhiều kênh thu hút vốn (cổ phiếu, trái phiếu,..) như hiện nay thì
việc huy động vốn gặp không ít khó khăn, nhưng qua bảng số liệu trên cho thấy khả
năng huy động vốn của Ngân hàng Á châu vẫn giữ tốc độ tăng dần qua các năm:
cuối năm 2007 đạt 74.943 tỷ đồng, tăng 89,5% so với năm 2006, vượt chỉ tiêu kế
hoạch năm 2007 là 46,2% (kế hoạch 2007 là 51.261 tỷ đồng), đến cuối Quý 1/2008
đạt 81.064 tỷ đồng, tăng 8,17% so với năm 2007, trong đó huy động tiền gửi thanh
toán và tiết kiệm từ dân cư tăng đáng kể. Điều này đã chứng tỏ sự tin tưởng của
khách hàng vào ACB ngày càng cao. Nguyên nhân là do ngân hàng đã duy trì nhiều
hình thức huy động đa dạng, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt cho từng địa bàn
và tăng cường công tác quảng bá hình ảnh.
Sau khi đã huy động được nguồn vốn cần thiết, đòi hỏi các ngân hàng thương
mại phải tìm được khách hàng để cấp tín dụng nhằm giải phóng nguồn vốn và tìm
kiếm lợi nhuận. Trong năm 2007 đạt 31.974 tỷ đồng, tăng 86,8% so với năm 2006
và đến cuối Quý 1/2008 đạt 40.694 tỷ đồng, tăng 27,27% so với năm 2007. Đây là
thành quả của sự năng động tìm kiếm khách hàng, chuyên nghiệp trong phong cách
phục vụ và liên tục đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng.
Tổng tài sản của ACB cao hơn so với các ngân hàng đối thủ cạnh tranh cả về số
tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng. Cụ thể, tổng tài sản năm 2007 tăng 92,6% so với
năm 2006, đạt 85.392 tỷ đồng và đến cuối Quý 1/2008 đạt 99.409 tỷ đồng, tăng
16,41% so với năm 2007. Quy mô tổng tài sản hiện nay đang mang lại ưu thế cạnh
tranh về vốn hoạt động cho ACB so với các ngân hàng thương mại cổ phần khác.
32
Với định hướng chiến lược tăng trưởng cao, quản lý chi phí tốt và duy trì nợ quá
hạn ở mức thấp đã giúp nâng cao lợi nhuận của ACB. Lợi nhuận trước thuế năm
2007 đạt 2.127 tỷ đồng, tăng 222,9% so với năm 2006 và là ngân hàng có mức lợi
nhuận trước thuế đứng đầu trong toàn hệ thống ngân hàng thương mại mặc dù xét
về mặt quy mô tổng tài sản, ACB chỉ xếp vị trí thứ 5 (sau 4 ngân hàng thương mại
Nhà nước). Và sang Quý 1/2008, lợi nhuận trước thuế đạt 513 tỷ đồng.
2.2 Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Á Châu
Trước khi đi sâu phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Á Châu,
chúng ta sẽ xem xét phân tích về cơ cấu cho vay và chất lượng tín dụng trong thời
gian qua.
2.2.1 Tín dụng chung
Qua bảng số liệu 1, nhìn chung hoạt động tín dụng của Ngân hàng Á Châu trong
thời gian qua tăng trưởng nhanh và khá cao. Tổng dư nợ tín dụng cuối năm 2007
đạt 127,8% so với kế hoạch và tăng 86,8% so với năm 2006 và đến cuối Quý
1/2008 đạt 40.694 tỷ đồng, tăng 27,27% so với năm 2007
Nếu phân tích theo thời hạn cho vay, thì tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn cao,
năm 2007 chiếm 55% và đến cuối Quý 1/2008 chiếm 56% so với tổng dư nợ cho
vay, trong khi đó tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn chỉ đạt 45% trong năm
2007 và đến cuối Quý 1/2008 đạt 44% . Bởi vì về khía cạnh thời hạn thì những món
vay có thời hạn càng dài thì càng ẩn chứa nhiều rủi ro. Cho nên ngân hàng luôn có
xu hướng dịch chuyển tăng tỷ trọng nợ vay ngắn hạn để mau thu hồi, quay vòng
vốn nhanh đặc biệt là trong điều kiện kinh tế phát triển nhanh, có nhiều biến động
và cạnh tranh như hiện nay.
Nếu phân tích theo loại tiền tệ cho vay thì hình thức cho vay bằng đồng Việt
Nam chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ cho vay năm 2007 chiếm 67,6%, và đến
cuối Quý 1/2008 chiếm 68,6% tổng dư nợ cho vay. Tỷ lệ giải ngân bằng ngoại tệ và
33
vàng cũng tăng đáng kể, năm 2007 tăng 141,4% so với năm 2006, chiếm 32,4% và
đến cuối Quý 1/2008 tăng 24%, chiếm 31,4% tổng dư nợ cho vay.
Cơ cấu dư nợ nếu phân loại theo thành phần kinh tế thì đến cuối Quý 1/2008
cho thấy: chiếm tỷ lệ cao nhất là khách hàng thể nhân, chiếm 48,5%, kế đến là các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chiếm 45,7% và phần còn lại là 5,8% dư nợ cho
vay các doanh nghiệp Nhà nước. Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng của
Ngân hàng Á Châu tiếp tục thay đổi tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay
các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế
phi Nhà nước nhằm hỗ trợ mạnh nhu cầu về vốn cho sự phát triển. Khách hàng của
ngân hàng mở rộng và phát triển đến mọi thành phần kinh tế. Với chính sách hợp
lý, Ngân hàng Á Châu đã và đang xây dựng cho mình một đội ngũ khách hàng đa
dạng, đông đảo, vững mạnh và gắn bó với ngân hàng.
Tình hình dư nợ nhìn chung qua các năm đều tăng cao, sự tăng trưởng này là có
cơ sở và gắn liền với các yếu tố thúc đẩy như: nhu cầu vốn từ khách hàng, từ nền
kinh tế nói chung và kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Và chất lượng tín dụng thì quan trọng hơn việc mở rộng tín dụng. Phần phân
tích chỉ tiêu dư nợ tín dụng ở trên cho thấy sự tăng trưởng khá cao của chỉ tiêu này
trong thời gian qua. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng có hiệu quả hay không lại phụ
thuộc rất lớn vào chất lượng tín dụng.
2.2.2 Rủi ro tín dụng
Dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động tín dụng, nhưng
trên thực tế, vấn đề nợ quá hạn cũng là một vấn đề mà Ngân hàng Á Châu cần phải
quan tâm vì đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của ngân hàng.
34
ĐVT: Triệu đồng
Năm 2006 Năm 2007 Quý 1/2008
Chỉ tiêu
Giá trị
So với
tổng
dư nợ
(%)
Giá trị
So với
tổng
dư nợ
(%)
So vơi
2006
(%)
Giá trị
So với
tổng
dư nợ
(%)
So vơi
2007
(%)
TỔNG DƯ NỢ 17,014,419 100.00 31,974,000 100.00 187.00 40,694,275 100.00 127.00
NỢ QUÁ HẠN (NQH) 188,961 1.11 97,524 0.31 51.61 134,787 0.33 138.21
Trong đó:
NQH đến 180 ngày 13,041 0.08 9,167 0.03 70.29 18,410 0.05 200.83
NQH đến 360 ngày 9,006 0.05 7,078 0.02 78.59 12,205 0.03 172.44
NQH trên 360 ngày 11,115 0.07 10,320 0.03 92.85 10,493 0.03 101.68
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 và Báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ tại
ngày 31/03/2008 của Ngân hàng TMCP Á Châu)
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
2005 2006 2007 Đến Q1/08
- NQH đến 180 ngày
- NQH đến 360 ngày
- NQH trên 360 ngày
Theo bảng số liệu trên, ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với
tổng dư nợ cho vay. Năm 2007 tỷ lệ nợ quá hạn chiếm 0,31% và đến cuối Quý
35
1/2008 chiếm 0,33% so với tổng dư nợ cho vay. Phần lớn, các khoản nợ quá hạn
đều có khả năng thu hồi là do được đảm bảo bằng tài sản có tính khả mại cao, chủ
yếu là bất động sản.
Ngày 31/12/2007 dự phòng cho các khoản cho vay khách hàng đạt 134.537 triệu
đồng, tăng 139,4% so với năm 2006. Ngày 31/03/2008 dự phòng cho các khoản cho
vay khách hàng đạt 244.873 triệu đồng, tăng 175,9% so với cùng kỳ năm 2007.
Đồng thời, hệ số an toàn vốn của Ngân hàng Á Châu tính đến ngày 31/12/2007 là
16,19%, tăng 48,53% so với năm 2006 (10,9%) và nằm trong mức an toàn cao thể
hiện sự chủ động của ngân hàng trong vấn đề cân đối giữa rủi ro và lợi nhuận mà
vẫn đảm bảo nguyên tắc thận trọng cần thiết. Và điều này chứng tỏ rằng Ngân hàng
Á Châu đã có chính sách kiểm soát chất lượng tín dụng tốt.
Như vậy, trong giai đoạn vừa qua, chất lượng tín dụng của Ngân hàng Á Châu vẫn
khá ổn định và có xu hướng tốt hơn đi đôi với tăng trưởng quy mô tín dụng. Đặc
biệt, tỷ lệ nợ quá hạn vào cuối năm 2007 là một tín hiệu đáng mừng cho việc quản
lý rủi ro trong hoạt động tín dụng. Trong tương lai sắp tới, để có thể xử lý nợ xấu
tốt hơn thì việc tìm hiểu những nguyên nhân và đề ra những giải pháp quản lý rủi ro
tín dụng hiệu quả hơn là điều rất cần thiết.
2.2.3 Đánh giá chung về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng
Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Á Châu đã đạt được
những kết quả đáng kể. Cụ thể:
Dư nợ cho vay tăng trưởng ở mức cao, quản lý rủi ro tốt và kinh doanh hiệu
quả, trong đó ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng. Mặc dù chịu áp lực cạnh tranh khá
lớn trên thị trường nhưng Ngân hàng Á Châu vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng khá
cao cả về huy động vốn và cấp tín dụng. Ngân hàng đã tận dụng hệ thống giao dịch
ngân hàng trực tuyến và danh mục sản phẩm huy động và cho vay phong phú, đa
dạng của mình để tập trung thực thi chiến lược thâm nhập thị trường tại hai địa bàn
36
trọng yếu là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, cùng với chiến lược phát triển thị
trường tại các vùng kinh tế phát triển.
Ngân hàng đã có kế hoạch và nỗ lực chuyển đổi cơ cấu cho vay. Cụ thể, cho vay
đối với khách hàng thể nhân và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng
cao; tỷ trọng cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn được điều chỉnh hợp lý.
Ngân hàng đã tích cực phát triển hệ thống kênh phân phối, không chỉ là các chi
nhánh và phòng giao dịch mà còn là hệ thống máy ATM và kênh ngân hàng điện tử
để nâng cao năng lực phục vụ khách hàng và thu hút khách hàng mới, nâng cao chất
lượng dịch vụ và cho ra đời nhiều sản phẩm gắn với nhu cầu của người dân, từ đó
nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Ngân hàng đã chú trọng đến công tác phòng ngừa và quản lý rủi ro tín dụng.
Quản lý tín dụng được đặc biệt kiện toàn, cụ thể là: xây dựng chính sách tín dụng
trong đó thực hiện nghiêm túc quy định, chế độ, quy trình nghiệp vụ tín dụng của
ngân hàng, xác định rõ các giới hạn cho vay để định hướng cho việc tăng trưởng tín
dụng trong tầm kiểm soát. Và nhiệm vụ này sẽ tiếp tục được đẩy mạnh nhưng
không chỉ dừng ở chỗ phát hiện và yêu cầu khắc phục mà còn phải phân tích
nguyên nhân, đề xuất biện pháp giải quyết thích hợp và triệt để.
Với những kết quả trên, có thể kết luận rằng những biện pháp mà Ngân hàng Á
Châu đã áp dụng trong thời gian qua nhằm hạn chế và ngăn ngừa rủi ro tín dụng đã
có những tác dụng nhất định, chất lượng tín dụng phần nào cũng được cải thiện và
quan trọng nhất là đã được nhìn nhận và đánh giá đúng hướng, đúng bản chất.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn nhiều tồn tại cần được
khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng nói
chung và hiệu quả hoạt động tín dụng nói riêng. Cụ thể là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng
dư nợ có xu hướng tăng vào cuối Quý 1/2008, đồng thời việc xử lý nợ xấu, thu hồi
lãi và gốc còn gặp nhiều khó khăn, nguy cơ gia hạn nợ và phát sinh nợ quá hạn vẫn
lớn, ngay cả đối với một số món nợ chưa đến hạn nhưng chất lượng không cao.
37
Tóm lại, với mọi nỗ lực nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng cho thấy
công tác tín dụng tại Ngân hàng Á Châu trong thời gian qua đã đạt được những kết
quả đáng kể: quy mô tăng trưởng dư nợ tín dụng ở mức cao, tỷ trọng nợ quá hạn
chiếm tỷ lệ thấp so với tổng dư nợ, tuy nhiên có xu hướng tăng vào cuối Quý
1/2008. Và do hoạt động này vẫn luôn ẩn chứa nhiều rủi ro vì vậy cần có biện pháp
kiểm soát và ngăn ngừa.
2.3 Chính sách và quy trình cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
Để thực hiện được mục tiêu rút ngắn thời gian làm thủ tục cho vay nhằm phục
vụ khách hàng nhanh chóng và đảm bảo an toàn vốn vay đòi hỏi phải tuân thủ một
cách nghiêm ngặt quy trình tín dụng đã đề ra.
Quy trình cho vay tại Ngân hàng Á Châu được thực hiện thông qua 15 bước cơ bản
sau:
2.3.1 Hướng dẫn thủ tục vay vốn và tiếp nhận hồ sơ
Tại Sở Giao dịch, các chi nhánh và phòng giao dịch, khi khách hàng có nhu cầu
vay vốn sẽ được tiếp nhận và hướng dẫn về thủ tục, điều kiện và các loại giấy tờ, hồ
sơ cần thiết. Và việc này được thực hiện bởi nhân viên quản lý và phát triển khách
hàng (A/O) hoặc nhân viên dịch vụ tín dụng (Loan CSR).
2.3.2 Thẩm định hồ sơ vay và lập tờ trình
Sau khi nhận đầy đủ hồ sơ vay vốn từ khách hàng, nhân viên A/O sẽ tiến hành
gửi hồ sơ tài sản đảm bảo cho nhân viên định giá tài sản (A/A) (tại trung tâm định
giá tài sản trực thuộc Hội sở) để định giá tài sản thế chấp, cầm cố. Nhân viên A/A
sẽ lập tờ trình thẩm định tài sản sau khi đã thẩm định tài sản đảm bảo. Và nhân
viên A/O cũng sẽ tiến hành lập tờ trình thẩm định về tư cách và khả năng tài chính
của khách hàng bao gồm : việc kiểm tra hồ sơ pháp lý (chứng minh nhân dân, hộ
khẩu, giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký thuế, quyết định bổ nhiệm
người đại diện pháp nhân,…), kiểm tra lịch sử vay - trả của khách hàng kể cả với
38
các ngân hàng khác qua Trung tâm thông thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà
nước (CIC) để đánh giá uy tín của khách hàng, đồng thời kiểm tra năng lực tài
chính của khách hàng thông qua các số liệu trên các báo cáo tài chính do khách
hàng cung cấp (những thông tin này sẽ được phân tích và tính toán thành các nhóm
chỉ tiêu như: Khả năng tạo ra lợi nhuận, Khả năng khai thác và sử dụng tài sản, Cơ
cấu nguồn vốn tài trợ và cuối cùng là Khả năng thanh toán của khách hàng) để từ
đó đánh giá một cách chính xác năng lực tài chính của khách hàng, đồng thời tiến
hành phân tích phương án vay vốn trên các mặt: phương án sản xuất kinh doanh có
phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đã đăng ký không?, tính khả thi và hiệu
quả dự kiến của phương án trên, nguồn trả nợ cho phương án vay đó có phù hợp và
đảm bảo không? Việc thẩm định phương án vay vốn để đạt được hiệu quả cao đòi
hỏi nhân viên A/O phải có nghiệp vụ chuyên môn vững vàng và có kiến thức nhất
định trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau để có được những nhận
định chính xác về tính khả thi cũng như hiệu quả của mỗi phương án. Ngoài ra nhân
viên A/O còn phải cập nhật những thông tin về khách hàng vô phần mềm chấm
điểm tín dụng nhằm để đảm bảo tính khách quan trong việc xem xét tư cách khách
hàng.
2.3.3 Quyết định cho vay và thông báo cho khách hàng
Sau khi hoàn thành tờ trình thẩm định khách hàng, nhân viên A/O sẽ tiến hành
trình cấp có thẩm quyền xem xét và ký vào tờ trình thẩm định khách hàng. Sau đó,
nhân viên A/O sẽ tiến hành photo hồ sơ gởi cho thư ký Ban tín dụng/Hội đồng tín
dụng (để Thư ký gửi đến các thành viên Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng). Tại buổi
họp Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng, nhân viên A/O sẽ trình bày với các thành viên
về nội dung thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, phân tích, đánh giá và đưa ra
quan điểm của mình về khoản vay mà khách hàng đã đề nghị. Các thành viên Ban
tín dụng/Hội đồng tín dụng sẽ trực tiếp phỏng vấn các vấn đề có liên quan đến
khách hàng vay đối với nhân viên A/O. Sau khi các thành viên đã trao đổi và thống
39
nhất ý kiến cho vay hay không cho vay và các điều kiện cần thiết khi được cho vay,
Thư ký sẽ lập Biên bản họp ghi nhận lại các ý kiến thống nhất của các thành viên
Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng và sau đó sẽ lập phúc đáp thông báo kết quả xét
duyệt khoản vay cho nhân viên A/O. Tối đa hai ngày làm việc kể từ ngày Ban tín
dụng/Hội đồng tín dụng quyết định cho vay hoặc không cho vay, nhân viên A/O
hoặc nhân viên Loan CSR phải thông báo kết quả cho khách hàng.
2.3.4 Hoàn tất thủ tục pháp lý về tài sản đảm bảo
Căn cứ vào kết quả phê duyệt cho vay của Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng,
nhân viên A/O chuyển giao toàn bộ hồ sơ cho nhân viên Loan CSR để chuẩn bị hồ
sơ giải ngân. Nhân viên Loan CSR tiến hành chuyển hồ sơ tài sản đảm bảo kèm
phúc đáp thông báo kết quả xét duyệt khoản vay cho Nhân viên pháp lý chứng từ và
quản lý tài sản (LDO). Nhân viên LDO chịu trách nhiệm hoàn tất các thủ tục pháp
lý về tài sản đảm bảo cho khoản vay.
2.3.5 Nhận và quản lý tài sản đảm bảo
Khi khách hàng đã hoàn tất thủ tục pháp lý về tải sản đảm bảo nợ vay, nhân viên
LDO sẽ tiến hành thủ tục nhận và quản lý tài sản thế chấp, cầm cố theo quy định.
2.3.6 Lập Hợp đồng tín dụng/Khế ước nhận nợ
Khi khách hàng có nhu cầu rút tiền vay, căn cứ nhu cầu thực tế của khách hàng
và nội dung phê duyệt của Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng đã được thực hiện hoàn
tất, nhân viên Loan CSR tiến hành soạn Hợp đồng tín dụng/Khế ước nhận nợ,
chuyển cho khách hàng và bên có liên quan ký, sau đó trình cấp có thẩm quyền ký.
2.3.7 Tạo tài khoản vay và giải ngân
Căn cứ vào Hợp đồng tín dụng/Khế ước nhận nợ, nhân viên Loan CSR chịu
trách nhiệm thực hiện thủ tục tạo tài khoản vay thích hợp cho khách hàng. Sau khi
tài khoản vay đã có đầy đủ thông tin và kết nối về tài sản đảm bảo, nhân viên Loan
CSR phối hợp với nhân viên kiểm soát hiệu lực hóa khoản vay. Sau đó, nhân viên
giao dịch (Teller) sẽ thực hiện giải ngân cho khách hàng.
40
2.3.8 Lưu trữ hồ sơ
Việc lưu trữ hồ sơ tín dụng (bản chính) và các hồ sơ khác có liên quan sẽ được
nhân viên Loan CSR thực hiện theo quy định.
2.3.9 Kiểm tra, theo dõi khoản vay - thu nợ gốc và lãi vay
Sau khi đã giải ngân cho khách hàng, nhân viên A/O và Loan CSR sẽ thường
xuyên theo dõi tình hình trả nợ, kỳ hạn nợ của khách hàng thông qua màn hình
TCBS (The Complete Banking Solution) hoặc bảng kê các khoản nợ gốc, lãi vay
đến hạn phát sinh trước ngày năm (5) hàng tháng. Nhân viên Loan CSR có trách
nhiệm soạn thư báo nợ gốc và lãi vay đến hạn. Nhân viên A/O và Loan CSR tiến
hành nhắc nhở, đôn đốc khách hàng trả nợ và đề xuất ý kiến xử lý khi nhận thấy
khách hàng có dấu hiệu bất ổn trong thanh toán hoặc có những thay đổi làm ảnh
hưởng đến khoản vay.
Nhân viên A/O phải kiểm tra thường xuyên việc sử dụng vốn vay và tình hình
sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, thu nhập, công nợ của khách hàng sau khi
giải ngân để đảm bảo các khoản vay được sử dụng đúng mục đích. Khi kiểm tra,
nhân viên A/O phải lập Biên bản kiểm tra (theo mẫu). Nếu khách hàng sử dụng vốn
vay không đúng mục đích hoặc tình hình hoạt động ảnh hưởng xấu đến khả năng trả
nợ của khách hàng thì nhân viên A/O tiến hành lập tờ trình báo cáo và đề xuất
hướng xử lý trình cấp có thẩm quyền xem xét và ký vào tờ trình.
2.3.10 Cơ cấu lại thời hạn trả nợ
Khi có nhu cầu cơ cấu lại thời hạn trả nợ (gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả
nợ), khách hàng phải gửi Giấy đề nghị (theo mẫu) cho ngân hàng theo thời gian đã
quy định trong Hợp đồng tín dụng. Căn cứ giấy đề nghị này, nhân viên A/O sẽ tiến
hành khảo sát, đánh giá tình hình tài chính và hoạt động của khách hàng, sau đó lập
tờ trình thẩm định khách hàng, trong đó phân tích tình hình sản xuất kinh doanh,
nguồn trả nợ và nêu rõ lý do gia hạn nợ/điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và ý kiến đề xuất
đồng ý hoặc không đồng ý, trình Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng xét duyệt (trình tự
41
hồ sơ gia hạn nợ/điều chỉnh kỳ hạn trả nợ giống như bước quyết định cho vay và
thông báo kết quả cho khách hàng).
Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng phê duyệt gia hạn nợ/điều chỉnh kỳ hạn trả nợ theo
hình thức duyệt ngay trên tờ trình hoặc lập Biên bản họp (theo mẫu).
Trường hợp đồng ý gia hạn nợ/điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, trong Biên bản họp
phải nêu rõ: thời hạn gia hạn, lãi suất gia hạn, phương thức thanh toán trong thời
gian gia hạn/thay đổi kỳ hạn/số tiền trả mỗi kỳ hạn. Sau khi nhận được phê duyệt
đồng ý, nhân viên Loan CSR tiến hành cập nhật, điều chỉnh thông tin thay đổi trên
TCBS và lập Phụ lục Hợp đồng tín dụng sửa đổi, bổ sung (theo mẫu)
Trường hợp không đồng ý hạn nợ/điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, nhân viên A/O phải
làm thủ tục chuyển khoản vay sang nợ quá hạn.
2.3.11 Chuyển nợ quá hạn
Trong các trường hợp: đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả đủ nợ đến hạn
phải trả và không được đồng ý hạn nợ/điều chỉnh kỳ hạn trả nợ; hoặc có quyết định
thu hồi nợ trước hạn nhưng trong vòng 30 ngày mà khách hàng vẫn không thanh
toán đủ nợ vay thì nhân viên A/O sẽ lập tờ trình thẩm định khách hàng về việc xét
duyệt chuyển nợ quá hạn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Căn cứ vào phê duyệt của cấp có thẩm quyền, nhân viên Loan CSR sẽ thực hiện
chuyển nợ quá hạn trên chương trình phần mềm TCBS. Sau đó lập thư báo cho
khách hàng về việc chuyển nợ quá hạn, đồng thời lập Biên bản bàn giao hồ sơ vay
cho Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản Ngân hàng Á Châu (ACBA) hoặc bộ
phận xử lý nợ để theo dõi, khởi kiện thu nợ vay.
2.3.12 Khởi kiện thu hồi nợ xấu
Căn cứ vào hồ sơ khách hàng nợ quá hạn do nhân viên Loan CSR chuyển sang,
ACBA/Bộ phận xử lý nợ thực hiện thu hồi nợ theo đúng quy định chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức của ACBA/Bộ phận xử lý nợ.
42
ACBA/Bộ phận xử lý nợ sẽ dùng một số biện pháp xử lý nợ như: Đốc nợ (là
việc áp dụng các biện pháp đôn đốc khách hàng trả nợ mà chưa phải áp dụng biện
pháp khởi kiện); Khởi kiện (là biện pháp thu hồi nợ bằng việc tham gia tố tụng bắt
đầu từ giai đoạn khởi kiện cho đến khi hoàn tất việc thi hành án để thu hồi nợ); Xử
lý tài sản đảm bảo; Và một số biện pháp khác như: chuyển nợ sang ngân hàng khác,
bán nợ cho các tổ chức mua bán nợ,…
2.3.13 Miễn, giảm lãi
Khi khách hàng gặp khó khăn trong việc trả lãi vay và có đề nghị nộp hồ sơ đề
nghị miễn, giảm lãi vay, nhân viên Loan CSR sẽ tiếp nhận hồ sơ (bao gồm: Kế
hoạch trả nợ và cam kết trả nợ; Tài liệu chứng minh nguyên nhân, những mức độ
tổn thất về tài sản; khó khăn về tài chính; Báo cáo tài chính đến thời điểm gần
nhất).
Sau đó, nhân viên A/O sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ, các thông tin,
số liệu được cung cấp và đối chiếu với thực tế, lập tờ trình miễn, giảm lãi kèm hồ
sơ trình cấp có thẩm quyền ký. Trong tờ trình phải nêu rõ: quá trình cho vay, thu nợ
và các biện pháp đang áp dụng; mức độ tổn thất tài sản và khó khăn tài chính của
khách hàng; và đề xuất mức miễn, giảm lãi.
Sau khi cấp có thẩm quyền xem xét hồ sơ vay và có ý kiến đề nghị mức miễn,
giảm lãi, nhân viên A/O sẽ trình lên Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng (theo trình tự
giống như bước quyết định cho vay và thông báo kết quả cho khách hàng).
Sau khi nhận được Biên bản họp của Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng chấp thuận
miễn, giảm lãi vay, nhân viên A/O thông báo cho nhân viên Loan CSR thực hiện
việc miễn, giảm lãi vay trên chương trình phần mềm TCBS và thông báo cho nhân
viên Teller thanh lý tài khoản vay của khách hàng.
2.3.14 Thanh lý/Tất toán khoản vay
Hồ sơ vay sẽ được thanh lý khi khách hàng thanh toán đầy đủ vốn vay, lãi vay
và các chi phí khác có liên quan. Nhân viên Teller thu vốn, lãi, phí, phạt,… lần cuối
43
trên tài khoản vay của khách hàng. Cũng như các khoản phải thu trên tài khoản vay
này để xác định xử lý, tất toán khoản vay.
Khi khách hàng có đề nghị giải chấp tài sản, nhân viên Loan CSR sẽ tiếp nhận,
kiểm tra các dư nợ của khách hàng và làm giấy đề nghị giải chấp tài sản theo mẫu
và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Sau khi nhận được đề nghị giải chấp, nhân viên LDO sẽ tiến hành làm thủ tục
giải chấp tài sản thế chấp.
Nhân viên Loan CSR sẽ kiểm tra lại quá trình thanh toán của khách hàng trên tất
cả số dư (vốn, lãi, phí, phạt,…)
2.4 Những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
2.4.1 Nguyên nhân rủi ro thuộc về phía Ngân hàng
Những Tổ chức tín dụng được quản lý tốt thường thực hiện phân tích các khoản
cho vay đã gây ra tổn thất cho ngân hàng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm. Để phân
tích chính xác nguyên nhân gây ra tổn thất, Tổ chức tín dụng phải thu thập đầy đủ
thông tin về chính sách cho vay, chứng từ cho vay, cán bộ tín dụng giải quyết hồ sơ,
tình hình biến động của khách hàng, quá trình kiểm tra giám sát vốn vay,…Sau đây
là những trường hợp sai sót trong quy trình cấp tín dụng:
2.4.1.1 Thông tin tín dụng không đầy đủ và chính xác
Thông tin tín dụng đầy đủ và chính xác là yếu tố quyết định để đánh giá khả
năng trả nợ và thiện chí trả nợ của người vay, đồng thời là cơ sở để mở rộng tín
dụng. Trong hồ sơ tín dụng của khách hàng, Tổ chức tín dụng cần phải có các thông
tin rõ ràng, đặc biệt là các báo cáo tài chính như: bảng cân đối kế toán, báo cáo thu
nhập, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,… Và thông tin tín dụng cũng cần minh chứng cụ
thể mục đích, yêu cầu vay, kế hoạch dự định và nguồn chi trả, báo cáo tiến độ và
giám sát.
44
Trong quá trình cấp tín dụng, rủi ro phát sinh phần lớn là do thiếu thông tin khi
thẩm định và khi ra quyết định cho vay; từ đó dẫn đến những quyết định cho vay sai
lầm. Cụ thể như là:
- Nhân viên A/O thiếu năng lực thẩm định, lười biếng thu thập thông tin về
khách hàng và đôi khi hoàn toàn dựa trên tài liệu do khách hàng cung cấp, thiếu sự
xác minh lại thông tin và thiếu sự phân tích tính hợp lý của thông tin nên tờ trình
thẩm định khách hàng được trình bày rất suôn sẻ theo các khuôn mẫu có sẵn và
chứa đựng các thông tin có lợi cho khách hàng.
- Về phía người xét duyệt cho vay, do khối lượng hồ sơ vay cần được xét duyệt
quá nhiều nên không có nhiều thời gian đọc kỹ tờ trình thẩm định, do cảm thấy an
tâm khi đọc những thông tin về tài sản đảm bảo, do quá tin tưởng vào những thông
tin mà nhân viên A/O đưa ra và sự kiểm tra của cấp dưới mà quyết định xét duyệt
cho vay.
Ngoài ra, do hệ thống thông tin nội bộ của Ngân hàng Á Châu còn yếu kém, hầu
như chưa có thư viện thông tin về các lĩnh vực kinh tế, các doanh nghiệp có quan hệ
trong hệ thống nên nhân viên A/O khó có thể có một nhận định chính xác về quá
trình hoặc môi trường hoạt động của khách hàng.
Đồng thời, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, do hoạt động kiểm toán chưa
phát triển và tính minh bạch về tài chính còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó, do công
tác kế toán và báo cáo tài chính chưa thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật
nên các Tổ chức tín dụng thường gặp nhiều khó khăn về tính chính xác của thông
tin do khách hàng cung cấp.
2.4.1.2 Lạm dụng tài sản thế chấp
Do thiếu thông tin trung thực về khách hàng nên ngân hàng luôn xem nặng phần
tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. Tuy
nhiên, dần dần ngân hàng trở nên dựa dẫm quá nhiều vào tài sản thế chấp thay vì
đánh giá tính khả thi của phương án kinh doanh nên sẽ dễ dẫn đến tâm lý ỷ lại và
45
khi ấy sẽ dễ mắc sai lầm chủ quan. Nhiều nhân viên A/O, ngay cả những người xét
duyệt cho vay quan niệm rằng có tài sản đảm bảo là an toàn cho khoản vay. Điều
này rất nguy hiểm vì khoản vay cần được trả nợ bằng dòng tiền tạo ra bởi phương
án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế
chấp chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi
ro ngoài dự kiến mà thôi. Hơn nữa, nếu rủi ro xảy ra thì ngân hàng cũng sẽ gặp
những khó khăn trong quá trình xử lý tài sản thế chấp để thu nợ, chẳng hạn như là:
nếu không thỏa thuận được việc xử lý tài sản với chủ tài sản thì ngân hàng không
thể tự xử lý được, việc bán tài sản đảm bảo cũng đòi hỏi ngân hàng thực hiện hàng
loạt các thủ tục rườm rà, thực hiện chậm và thậm chí giá trị tài sản thanh lý sau
cùng thu về có thể thấp hơn giá trị nợ phải thu hồi,…
2.4.1.3 Thiếu kiểm tra giám sát vốn vay
Trong thời gian cho vay, Tổ chức tín dụng cần thực hiện đầy đủ việc kiểm tra
giám sát khoản vay để có thể nắm được những thay đổi trong hoạt động kinh doanh
của khách hàng , việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích hay
không? tài sản đảm bảo có được quản lý tốt hay không? Để bảo đảm được khả năng
hoàn trả nợ vay của khách hàng. Vì vậy, đây là trách nhiệm quan trọng nhất của cán
bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian qua,
Ngân hàng Á Châu chưa thực hiện tốt công tác này, nguyên nhân là:
- Do chạy theo thành tích “chỉ tiêu dư nợ” nên cán bộ tín dụng ưu tiên giải quyết
các hồ sơ mới và do tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng nên cán bộ tín dụng
chưa quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra giám sát sau khi cho vay.
- Mặc dù Ngân hàng Á Châu có quy định rõ về việc kiểm tra giám sát sau khi
cho vay nhưng vẫn còn lỏng lẻo trong việc kiểm soát sự tuân thủ của nhân viên tín
dụng, vì thế các nhân viên tín dụng đã không thực hiện đầy đủ quy định này hoặc
nếu có thực hiện thì cũng chỉ mang tính hình thức, đối phó bằng cách gửi biên bản
kiểm tra cho khách hàng ký mà thực tế lại không kiểm tra tại đơn vị hoặc chỉ làm
46
biên bản kiểm tra khi có sự kiểm tra của kiểm toán nội bộ của ngân hàng và khi có
sự thanh tra của Ngân hàng Nhà nước nên dễ dẫn đến tình trạng khách hàng sử
dụng vốn sai mục đích hoặc gặp khó khăn về tài chính mà vẫn tiếp tục giải ngân
cho khách hàng trong hạn mức tín dụng đã cấp trước đó, do vậy việc kiểm tra giám
sát sẽ không hiệu quả vì thiếu thông tin về những sự cố của khách hàng vay nên
những khoản vay lúc khởi đầu vẫn tốt nhưng sau đó trở thành các khoản vay có vấn
đề và thua lỗ.
2.4.1.4 Sự lỏng lẻo trong công tác kiểm soát nội bộ ngân hàng
Kiểm soát nội bộ ngân hàng là tổng thể hệ thống các văn bản và các quy định về
Ngân hàng, các cơ chế kiểm soát được cài đặt trong tất cả các nghiệp vụ thuộc hệ
điều hành của ngân hàng, hệ thống thông tin báo cáo để kiểm soát hoạt động quản
lý, điều hành, tác nghiệp và đảm bảo tính tuân thủ nhằm hạn chế và kiểm soát rủi ro
có thể phát sinh trong quy trình nghiệp vụ và hoạt động của ngân hàng.
Kiểm soát nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Ngân hàng Nhà nước ở tính thời
gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của
người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công
việc kinh doanh. Kiểm soát nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ
xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống thắng này phải càng an
toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn
tồn tại thường trực trên con đường đi tới. Nếu làm tốt, công tác này sẽ trở thành lá
chắn thứ nhất đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
Năm 2006, Ban kiểm soát nội bộ Ngân hàng Á Châu đã tổ chức lại bộ máy giúp
việc là Ban Kiểm toán nội bộ và thể chế hóa hoạt động. Ban Kiểm toán nội bộ gồm
có các bộ phận kiểm toán khu vực, kiểm toán tại chỗ, kiểm toán doanh nghiệp và
giám sát từ xa.
Ban kiểm toán nội bộ đã xây dựng được hệ thống tiêu chí kiểm tra cho bộ phận
giám sát từ xa gồm có: 25 tiêu chí kiểm tra nghiệp vụ giao dịch - ngân quỹ, 18 tiêu
47
chí kiểm tra nghiệp vụ tín dụng, 5 tiêu chí kiểm tra nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
Và chi tiết hoạt động của các kiểm toán viên tại các chi nhánh như sau:
- Kiểm toán hoạt động tín dụng: kiểm tra các hồ sơ tín dụng đã giải ngân, chú
trọng lựa chọn một số tiêu chí theo thứ tự ưu tiên mang tính phát hiện rủi ro trong
hoạt động cho vay tại các chi nhánh, đồng thời kiểm tra và phân tích nguyên nhân
nợ quá hạn đối với các hồ sơ nợ quá hạn.
- Kiểm soát sau hồ sơ mở tài khoản, hồ sơ mở thẻ.
- Kiểm soát sau chứng từ giao dịch, thẻ, Western Union, chứng từ kế toán.
- Giám sát an toàn kho quỹ.
Năm 2007, Ban Kiểm soát cũng đã chỉ đạo Ban Kiểm toán nội bộ tiến hành
kiểm toán tại chỗ 56 đơn vị trực thuộc trong tổng số 111 đơn vị (bao gồm các chi
nhánh, phòng giao dịch và các công ty trực thuộc), kiểm tra an toàn kho quỹ trên
300 lượt, cũng như tuyển dụng đào tạo thêm 112 nhân viên trên toàn hệ thống.
Tuy nhiên, hoạt động kiểm soát nội bộ của ngân hàng Á Châu trong thời gian
qua chưa theo kịp với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Công tác này chưa thực hiện
đúng nhiệm vụ của nó mà mang nặng tính hình thức. Các báo cáo kiểm soát nội bộ
thường chỉ là tổng hợp, phân tích, thống kê các số liệu từ báo cáo của bộ phận tín
dụng nên chưa thể hiện được tính độc lập, tính kiểm tra và cảnh báo của mình.
Nguyên nhân là do lãnh đạo Ngân hàng Á Châu chưa thực sự chú trọng đến công
tác này và do thiếu nhân sự có đủ trình độ chuyên môn để thực hiện. Nhân sự của
Ban Kiểm soát nội bộ thường được tuyển dụng từ nguồn cán bộ tín dụng nhưng do
tính chất va chạm và nhạy cảm của công việc này nên các cán bộ tín dụng thường
từ chối thuyên chuyển công tác. Còn nguồn nhân sự từ ngành kiểm toán thì thường
không am hiểu sâu về công tác tín dụng nên gặp khó khăn trong công việc. Do đó,
kiểm soát nội bộ của ngân hàng khó có thể có những nhận định đúng về thực trạng
tín dụng của ngân hàng.
2.4.1.5 Năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng còn hạn chế
48
Hiện nay, hàng loạt các ngân hàng cổ phần ra đời, cạnh tranh giữa các ngân
hàng ngày càng gia tăng kéo theo là cạnh tranh nguồn nhân lực. Để mở rộng mạng
lưới hoạt động phục vụ cho tốc độ tăng trưởng nhanh, ngân hàng Á Châu cũng đã
có chính sách thu hút lao động. Tuy nhiên, việc tuyển dụng lao động đa phần là từ
nguồn cán bộ mới ra trường nên chưa đủ kinh nghiệm để thực hiện việc thẩm định
cho vay, chưa nhận thức được đầy đủ về yêu cầu và tính phức tạp của công tác tín
dụng trong môi trường mới. Họ chưa đáp ứng được những đòi hỏi của cơ chế thị
trường, cũng như khả năng và trình độ đánh giá đúng hiệu quả và mức độ rủi ro của
phương án, dự án còn yếu kém. Không nhận biết được những dấu hiệu rủi ro đôi
khi xuất hiện ngay từ giai đoạn tiếp xúc khách hàng. Chưa chấp hành đầy đủ quy
trình, quy chế nghiệp vụ tín dụng đã ban hành, công tác thẩm định không kỹ về các
mặt.
Bên cạnh đó, do khối lượng công việc ngày càng quá tải dẫn đến nguy cơ không
kiểm soát được toàn diện và đầy đủ tình hình khách hàng mà mình đang phụ trách.
Ngoài ra, tại Ngân hàng Á Châu, số nhân viên nghỉ việc bình quân hàng năm là 3%,
mà trong đó đến hơn phân nữa là nhân viên tín dụng do đó áp lực công việc cho các
nhân viên tín dụng còn lại là rất nặng nề.
Ngoài nguyên nhân về năng lực chuyên môn thì vấn đề đạo đức của nhân viên
tín dụng cũng là nguyên nhân gây rủi ro cho hoạt động tín dụng. Dù nhân viên tín
dụng, những người liên quan đến công tác thẩm định, cho vay đã rất tận tâm nhưng
cũng không thể tránh được hoàn toàn rủi ro. Vì một nguyên nhân khách quan là
không phải khách hàng nào vay vốn ngân hàng cũng kinh doanh có hiệu quả. Và ở
đâu chú trọng đến công tác tín dụng, luôn tuân thủ các quy trình từ xét duyệt cho
vay, kiểm tra giám sát việc sử dụng tiền vay, thu hồi nợ, xử lý nợ,..luôn nêu cao
phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ thì ở đó, chất lượng tín dụng
cao và kiểm soát tốt, giảm thiểu rủi ro. Ngược lại, ở đâu sự quan tâm chú trọng
không đầy đủ đúng mức thì ở đó chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Và qua kết
49
luận của kiểm tra, kiểm toán nội bộ các ngân hàng, thanh tra, kiểm tra của Ngân
hàng Nhà nước cho thấy, nhiều món vay kém chất lượng , tồn đọng không có khả
năng thu hồi và có nguy cơ mất trắng đều có nguyên nhân thẩm định sơ sài, hồ sơ
có vấn đề, thiếu kiểm tra kiểm soát. Điều đó một phần là do năng lực của cán bộ
liên quan, nhưng một phần không nhỏ gây nên tình trạng đó là một bộ phận cán bộ
tín dụng, cán bộ thẩm định,…liên quan đến công tác cho vay bị sa sút về phẩm
chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm.
2.4.1.6 Rủi do do sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành
mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu
quan tâm đến chất lượng khoản vay
Một trong số các vấn đề nổi bật trong hoạt động ngân hàng ở nước ta hiện nay là
cạnh tranh sôi động trên nhiều lĩnh vực như là: mở rộng và đa dạng hóa dịch vụ
ngân hàng, mở rộng mạng lưới, tập trung vào các thành phố lớn và các khu công
nghiệp, mở rộng cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên, khi có càng nhiều ngân hàng, càng
nhiều chi nhánh và phòng giao dịch được thành lập thì sự cạnh tranh trên thị trường
càng trở nên gay gắt. Ngân hàng Á Châu cũng đang phát triển mạng lưới hoạt động
của mình theo hướng này, phấn đấu đến năm 2010 đạt hơn 350 chi nhánh và phòng
giao dịch trên toàn quốc.
Xu hướng mở rộng mạng lưới hoạt động này không chỉ tạo ra sự cạnh tranh giữa
ngân hàng này với ngân hàng khác mà còn là sự cạnh tranh gay gắt không đáng có
của các chi nhánh trong cùng một ngân hàng. Hậu quả của việc mở rộng quá mức
mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch là sự tranh giành khách hàng, hạ tiêu chuẩn
và các nguyên tắc thận trọng an toàn trong cùng một ngân hàng.
Tâm lý sợ mất khách hàng dẫn đến không ít trường hợp các chi nhánh Ngân
hàng Á Châu sử dụng nhiều biện pháp như là đánh giá sơ sài về hiệu quả đầu tư dự
án, phương án sản xuất kinh doanh, không thường xuyên giám sát vốn vay đặc biệt
là những khách hàng có trụ sở giao dịch ngoài địa bàn hoạt động,… đối với những
50
khách có khả năng tài chính yếu kém, kết quả kinh doanh có lãi thấp hoặc lỗ, khả
năng cạnh tranh trên thị trường yếu. Và điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng.
2.4.2 Nguyên nhân rủi ro thuộc về phía khách hàng
Ngoài các nhân tố chủ quan xuất phát từ phía Ngân hàng, còn có nhân tố khách
quan xuất phát từ phía khách hàng dẫn đến rủi ro tín dụng. Cụ thể như:
2.4.2.1 Do năng lực tài chính của khách hàng yếu kém
Quy mô tài sản và nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết các Doanh nghiệp Việt Nam. Với năng lực tài chính như vậy nên
để hoạt động được thì họ phải dựa vào số vốn vay ngân hàng, tỷ trọng vốn tự có
tham gia vào dự án kinh doanh không đáng kể. Cho nên mọi thua lỗ, rủi ro trong
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tác động ngay tới ngân hàng, nếu doanh nghiệp bị
thua lỗ, phá sản thì ngân hàng có nguy cơ mất vốn.
Ngoài ra, do thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác và rõ ràng các sổ sách kế toán
vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ
sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho Ngân hàng Á Châu khi đề nghị vay
vốn nhiều khi mang tính chất hình thức hơn thực chất. Và hiện nay chưa có bất cứ
chế tài nào buộc các doanh nghiệp phải kiểm toán báo cáo tài chính của mình nên
ngân hàng không thể buộc khách hàng được. Cho nên khi nhân viên A/O lập các
bảng phân tích các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh
nghiệp cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực.
Đây cũng là nguyên nhân vì sao Ngân hàng Á châu vẫn luôn xem nặng phần tài
sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
2.4.2.2 Do năng lực quản trị điều hành kinh doanh yếu kém
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa
phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn
đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế
51
toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản
lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà
lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Qua các hồ sơ phân tích, báo cáo về nợ quá hạn của phòng tín dụng tại Ngân
hàng Á Châu thì đa phần các khách hàng hoạt động khá hiệu quả khi còn ở quy mô
vừa và nhỏ, nhưng sau khi đầu tư phát triển lớn mạnh với nhiều dự án kinh doanh
lớn thì khả năng quản lý không theo kịp với tốc độ tăng trưởng và đã làm cho hoạt
động sản xuất kinh doanh bị đình trệ, phát sinh những khoản chi phí, thiệt hại, ảnh
hưởng đến khả năng hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Và cũng có một số doanh
nghiệp đã xảy ra tình trạng thường xuyên thay đổi người điều hành đơn vị, dẫn đến
không theo dõi kịp quá trình kinh doanh, phát triển của doanh nghiệp nên đã làm
cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, thậm chí thua lỗ.
2.4.2.3 Do sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trả nợ
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Để đảm bảo khả năng trả nợ theo như kế hoạch kinh doanh đã
thẩm định thì đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn đã giải ngân vào đúng
mục đích kinh doanh đã giải trình thì mới đảm bảo vòng quay vốn và dòng tiền về
đúng hạn trả nợ. Nhận thức được tầm quan trọng của việc này nên sau khi giải
ngân, Ngân hàng Á Châu luôn yêu cầu các nhân viên A/O định kỳ 06 tháng 01 lần
phải trực tiếp đi xuống doanh nghiệp giám sát tình hình sử dụng vốn vay và phải
làm báo cáo thực tế để đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã cam
kết và qua đó để biết tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng như thế nào?
Có đảm bảo khả năng trả nợ vay cho ngân hàng hay không? Tuy nhiên, sau khi
kiểm tra thì không ít khách hàng cho biết một phần vốn vay thực sự được sử dụng
vào hoạt động kinh doanh, phần khác thì dùng cho mục đích khác như là: mua sắm
vật dụng, thậm chí là tiêu xài cá nhân…Điều này rất nguy hiểm, sẽ ảnh hưởng đến
dòng tiền của doanh nghiệp và làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay cho ngân
52
hàng, hệ quả là dẫn đến phát sinh nợ xấu. Thậm chí còn có một số trường hợp
khách hàng xin vay ngắn hạn nhưng thực tế là sử dụng vào những công trình đầu tư
trung dài hạn, vì trong tình hình nền kinh tế tăng trưởng như hiện nay, các doanh
nghiệp thường có nhu cầu đầu tư trung dài hạn để cải tiến mở rộng sản xuất kinh
doanh, trong khi nguồn vốn ngân hàng duyệt cho vay thì có hạn và điều này dẫn
đến tình trạng doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư trung dài hạn mà
không nghĩ đến việc nợ đến hạn sẽ không trả được.
Thậm chí có cả trường hợp là sau khi kết thúc chu kỳ kinh doanh, mặc dù có lợi
nhuận nhưng khách hàng vẫn cố tình chây ỳ, không chịu trả nợ nhằm mục đích
chiếm dụng vốn ngân hàng và điều này đã gây khó khăn cho nhân viên tín dụng
trong quá trình thu hồi nợ, trong việc giải thích với lãnh đạo về khách hàng mà
mình thẩm định, liên quan đến uy tín của nhân viên tín dụng và phần nào làm ảnh
hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
2.4.2.4 Do khách hàng gian lận
Tính không minh bạch của thông tin còn xuất hiện trong quá trình cho vay với
hình thức gian lận. Cho dù không phải món cho vay thương mại nào cũng hàm chứa
khả năng gian lận, song thực tế đáng tiếc là chính hành vi gian lận đã gây nên
những tổn thất lớn cho ngân hàng. Gian lận có thể được coi là hậu quả tệ hại nhất
khi thông tin không minh bạch. Nếu chủ nợ có thể quan sát được rõ ràng và đầy đủ
mọi việc doanh nghiệp làm thì doanh nghiệp không thể gian lận được vì tất cả các
hành động bất hợp pháp đều có thể bị phát hiện và lôi ra ánh sáng.
Nhiều chủ nợ cho rằng gian lận là loại rủi ro khó quản lý nhất. Nếu một con nợ
thông minh cố tình lừa đảo thì ván bài gian lận dường như đã sẵn sàng triệt hạ chủ
nợ. Không có gì ngạc nhiên khi các bằng chứng cho thấy tác giả của những vụ gian
lận kinh động nhất lại là những khách hàng vay nợ thông minh nhất. Vì vậy, đây là
nỗi lo lớn của Ngân hàng Á Châu và bản thân những người làm công tác tín dụng.
53
Tổng hợp các thông tin nội bộ của Ngân hàng Á Châu về các vụ gian lận của khách
hàng trong thời gian qua, có thể đúc kết như sau:
- Gian lận liên quan đến báo cáo tài chính hoặc gian lận kế toán: hình thức gian
lận này xảy ra khi một công ty cố tình khai mang các số liệu trên báo cáo tài chính.
Nếu các báo cáo tài chính không được kiểm toán mà do kế toán viên chuyên nghiệp
xây dựng thì hành vi gian lận biểu hiện ở việc các doanh nghiệp thủ phạm cung cấp
cho kế toán viên đó các thông tin giả hoặc dối trá. Gian lận báo cáo tài chính diễn ra
dưới rất nhiều hình thức như:
+ Ghi nhận doanh thu không đúng-có sự khác nhau giữa nội dung và hình thức:
gian lận này là thủ đoạn bóp méo hoặc khai khống các giao dịch nhằm làm tăng thu
nhập trên báo cáo.
+ Ghi nhận doanh thu không đúng kỳ kế toán: thủ đoạn này biểu hiện ở chỗ
hạch toán một giao dịch là bán hàng trước khi thương vụ bán hàng được thực hiện
xong.
+ Công bố không đầy đủ các giao dịch với các bên liên quan. Đây là hành vi
gian lận thành công nhất và thường gặp nhất. Giao dịch với các bên liên quan bao
gồm các giao dịch khống và giao dịch có xung đột quyền lợi.
+ Xác định giá trị tài sản không đúng: là những thủ đoạn như xác định sai giá trị
công nợ, cố ý định giá không đúng hàng hóa,…
- Gian lận liên quan đến tài sản đảm bảo: hình thức gian lận này xảy ra khi bên
đi vay cố tình khai man về sự tồn tại của tài sản đảm bảo cho khoản vay. Ở đây,
phổ biến là gian lận công nợ và hàng tồn kho-những tài sản căn bản của hình thức
cho vay trên cơ sở tài sản:
+ Lập hóa đơn trước: nghĩa là bên đi vay lập hóa đơn ngày hôm nay cho những
hàng hóa hoặc dịch vụ ngày mai hoặc mãi sau này mới giao. Đây là hình thức gian
lận phổ biến nhất để tạo tài sản thế chấp.
54
+ Phân loại công nợ trên biểu thu công nợ sai quy định: trường hợp này xảy ra
khi bên đi vay chuyển những hóa đơn công nợ từ cột quá hạn không đủ tiêu chuẩn
sang cột đủ tiêu chuẩn để tăng mức tài sản thế chấp cho vay nợ.
+ Khai khống công nợ: trong hành vi gian lận này, con nợ tạo khống các khoản
công nợ. Đó có thể là những hóa đơn chưa bao giờ tồn tại, hoặc là các hóa đơn phát
sinh từ giao dịch với bạn bè hoặc những doanh nghiệp có liên quan, trong đó cả bên
đi vay lẫn đối tác của bên đi vay đều ghi nhận doanh thu bán hàng trên sổ sách kế
toán của mình. Đây là hành vi gian lận nghiêm trọng nhất và nguy hiểm nhất.
+ Gian lận hàng trong kho gồm các hình thức như: khai tăng lượng hàng trong
kho và hạch toán hàng trong kho theo giá trị không có thực, giả mạo hàng trong kho
trên sổ sách kế toán nhất là hàng ở những kho cách xa hoặc đang trong quá trình
vận chuyển,…
+ Và các hình thức gian lận khác như là: một tài sản được đem thế chấp tại
nhiều ngân hàng khác nhau, dùng tài sản không thuộc sở hữu của mình để thế chấp,
vay vốn,….
- Gian lận liên quan đến việc ngụy tạo uy tín để lợi dụng vay tiền như:
+ Cố ý gây thanh thế, làm quen với những người có chức, có quyền và lợi dụng
quan hệ, uy tín đó để vay tiền.
+ Tạo cơ sở niềm tin ban đầu với ngân hàng bằng việc trả vốn và lãi đầy đủ
trong những lần vay vốn đầu tiên với số tiền nhỏ và khi đã tạo được tín nhiệm mới
tìm cách vay những khoản lớn hoặc tạo ra các dự án khống để vay khoản tiền lớn và
trốn chạy.
+ Móc nối, hối lộ cán bộ ngân hàng để vay được tiền, trì hoãn nợ,…
2.4.3 Nguyên nhân khách quan
Ngoài các nguyên nhân chính từ phía ngân hàng và khách hàng, không thể
không kể đến một số tác động khác gây rủi ro cho hoạt động tín dụng đến từ môi
trường kinh tế bên ngoài. Cụ thể là:
55
2.4.3.1 Rủi ro do sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh,
bão lụt gây tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
Việt Nam là nước nông nghiệp với thế mạnh về các mặt hàng nông sản như:
gạo, cà phê, cau su, tiêu, điều,… và có tỷ trọng xuất khẩu cao hàng năm. Bên cạnh
đó là ngành nghề chăn nuôi gia cầm, gia súc, chăn nuôi và chế biến thủy hải sản.
Đặc điểm của ngành nghề này là rất nhạy cảm với sự thay đổi của thời tiết và dịch
bệnh. Trong những năm qua, bên cạnh dịch cúm gia cầm gây nên những tổn thất
nặng nề cho những hộ chăn nuôi gia cầm thì còn có một loạt các cơn bảo khác đã
tàn phá khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Nam và đã gây ra những tổn thất
nặng nề cho nền kinh tế.
Theo Tổng cục Thống kê cho biết, tổng thiệt hại do thiên tai, chủ yếu là do sạt
lỡ đất, mưa to, bão lũ gây ra ở 50 tỉnh, thành phố trên cả nước trong năm 2007 ước
tính lên tới 11.600 tỷ đồng, bằng khoảng 1% GDP. Thiên tai đã làm ngập và hư hại
113.800 ha lúa, phá hủy trên 1.300 công trình, đập, cống, làm sạt lỡ cuốn trôi hơn
1.500 km đê và kênh mương, làm hơn 7.800 ngôi nhà, cơ sở sản suất và phòng họp
bị sập đỗ.
Các hộ gia đình, các doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng Á Châu để kinh
doanh nông sản, chăn nuôi gia cầm, gia súc, nuôi trồng thủy hải sản bị ảnh hưởng
bởi thiên tai, bảo lụt, dịch bệnh đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc trả nợ vay.
2.4.3.2 Rủi ro do sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị
trường thế giới.
Trong những năm 2005-2007, trên thế giới có nhiều biến động lớn về giá cả các
loại nguyên nhiên liệu đầu vào như nguyên liệu ngành nhựa, xăng dầu,… đã tác
động ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai dự án, hiệu quả sản xuất kinh doanh
của khách hàng và đã gián tiếp làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân
hàng vì phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng bị thất bại. Cụ thể:
56
Ngành dệt may Việt Nam trong năm 2007 xuất khẩu tuy đạt 7,8 tỷ USD, tăng
30% so với năm 2006, song còn nhiều vấn đề còn tồn tại lớn. Sản xuất ngành này
còn phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, mà những loại vật tư, nguyên
liệu đầu vào phục vụ làm hàng xuất khẩu trong nước đều đắt lên như xăng dầu, xơ
sợi,… tăng khoảng 15-30% tùy loại đã làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu bị
giảm tới 20%. Đồng thời, hầu hết các doanh nghiệp này làm hàng xuất khẩu đều thu
về ngoại tệ bằng USD, trong khi đồng USD suy yếu thì hàng hóa Việt Nam xuất
khẩu sang các thị trường đều bị thiệt hại nặng nề, ít nhất là giảm khoảng 4-5% giá
xuất khẩu. Ngoài ra, trong năm 2007, hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường
Hoa Kỳ là 4,5 tỷ USD, nhưng sẽ còn cao hơn nếu không bị Hoa Kỳ đối xử thiếu
công bằng bởi chương trình giám sát hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Và điều này đã
làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của
các ngân hàng cho vay nói chung.
Không chỉ các doanh nghiệp dệt may gặp khó khăn mà các doanh nghiệp ngành
vật liệu xây dựng, trang trí cũng bị tác động mạnh bởi giá xăng, dầu tăng. Xăng
tăng trên 10% làm cho chí phí vận chuyển của công ty tăng thêm 5%. Giá sắt, thép,
xi măng, cát, đá,… cũng tăng 20-30% làm cho hàng loạt các công trình xây dựng
gặp khó khăn, thậm chí ngưng trệ.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không
kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Theo Hiệp hội
thép Việt Nam, chỉ tính trong năm 2007, giá sắt thép tăng 100%. Việc tăng giá thép
làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi
phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
2.4.3.3 Rủi ro do sự tấn công của hàng nhập lậu
Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức tạp và
tình hình nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng nhập lậu
đã kéo dài dai dẵng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các
57
thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư
vốn cho các doanh nghiệp này. Bởi vì khi tính toán phương án vay vốn, khách hàng
hoạch định giá sản phẩm đầu vào và đầu ra theo các kênh giá chính thức trên thị
trường, nhưng khi các doanh nghiệp khác sử dụng hàng nhập liệu đầu vào là hàng
nhập lậu với chi phí thấp hơn sẽ giảm được giá thành và cạnh tranh với các doanh
nghiệp vay vốn, làm cho hàng hóa sản xuất ra không bán được vì có giá thành cao,
và điều này tất yếu sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Theo báo cáo của Bộ Công Thương tại hội nghị triển khai công tác đấu tranh
chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại ngày 28/3, cho thấy, riêng năm
2007, cơ quan chức năng đã kiểm tra, xử lý 130.787 vụ vi phạm pháp luật (tăng
6,42% so với năm 2006). Theo đó, tổng giá trị hàng hóa vi phạm, xử phạt và truy
thu thuế trên 1.280 tỷ đồng (tăng 136,7% so với năm 2006). Các mặt hàng chủ yếu
là kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm, thuốc
lá,…Và các địa bàn nóng vẫn là Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, Kiên Giang, An
Giang, Long An, Tây Ninh, Đồng Tháp, Quảng Trị. Địa bàn trung chuyển hàng lậu
đáng chú ý nhất là Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, hải Dương và Cần Thơ.
2.4.3.4 Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ
quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai
Môi trường pháp lý của Việt Nam chưa đồng bộ, chưa ổn định, nhiều khi còn
chồng chéo, bất cập nên đã ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hành
lang pháp lý cho các ngành nghề kinh doanh trong đó có ngân hàng còn chưa thống
nhất, xuyên suốt. Trong điều kiện pháp luật vừa thiếu, vừa không đồng bộ, quy định
không rõ ràng, công tác phổ biến còn nhiều bất cập, do vậy mỗi người hiểu và vận
dụng một cách khác nhau dẫn đến nhiều khó khăn trong thực hiện. Cụ thể:
- Về nội dung chủ yếu của hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản (hợp đồng bảo
đảm). Theo Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về giao dịch bảo đảm
(Điều 11), ngoài các nội dung chủ yếu như: nghĩa vụ được bảo đảm; mô tả tài sản
58
thế chấp, cầm cố; giá trị của tài sản thế chấp, cầm cố thì hợp đồng cầm cố, thế chấp
tài sản còn có một nội dung chủ yếu nữa là “các thỏa thuận khác”. Các thỏa thuận
khác là gì thì pháp luật không xác định rõ. Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày
29/12/1999 bảo đảm tiền vay của các Tổ chức Tín dụng lại càng không hề đề cập
đến vấn đề này mà chỉ quy định chung chung mang tính chất dẫn chiếu ngược trở
lại, đó là: tài sản, điều kiện nhận tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, thủ tục ký kết
và thực hiện hợp đồng thế chấp, cầm cố (hợp đồng bảo đảm) và đăng ký giao dịch
bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm (Điều 7). Nghị
định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 sửa đổi bổ sung Nghị định 178 nói trên cũng
không sửa đổi, bổ sung gì thêm. Các quy định này tạo ra vòng lẩn quẩn và gây
không ít khó khăn trong nhận thức và thực hiện của các Tổ chức Tín dụng.
- Về việc thế chấp, cầm cố tài sản Doanh nghiệp Nhà nước: tại Điều 7 Nghị định
27/1999/NĐ-CP ngày 20.4.1999 (sửa đổi bổ sung Quy chế quản lý tài chính và
hạch toán kinh doanh đối với Doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị
định 59/1996/NĐ-CP ngày 03.10.1996) quy định: “Khi doanh nghiệp (nhà nước)
cho thuê, thế chấp, cầm cố những tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính
theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật thì phải được cơ quan
quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản”. Thông tư 62/1999/TT-
BTC ngày 07.6.1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 27 nói trên
cũng nêu rõ: “Đối với tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh
nghiệp (nhà nước) theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật khi
cho thuê, cầm cố, thế chấp phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp
cho phép”. Tuy nhiên cho đến nay, thế nào là “toàn bộ dây chuyền công nghệ chính
của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật” thì
vẫn chưa được pháp luật làm rõ. Vì vậy, việc thế chấp, cầm cố tài sản Doanh
nghiệp Nhà nước để vay vốn ngân hàng đã gặp không ít khó khăn, ách tắc.
59
- Trường hợp khách hàng vay mà không trả được nợ thì ngân hàng thương mại
có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Nhưng trên thực tế, các ngân hàng thương
mại không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế chứ không phải
là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng
bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo
nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng,… đã dẫn đến ngân hàng thương mại
không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. Nghị định 165 và 178 đều
không có quy định rõ ràng, chưa nêu được trách nhiệm và quyền hạn của các cơ
quan có thẩm quyền trong việc xử lý tài sản đảm bảo, vì vậy đã gây khó khăn cho
việc hỗ trợ các Tổ chức Tín dụng trong việc thu giữ và xử lý tài sản đảm bảo.
- Sự bất cập trong công chứng hợp đồng tín dụng, do quy định phòng công
chứng yêu cầu phải ghi số hợp đồng cụ thể vào trong hợp đồng bảo đảm tiền vay,
do đó khi hợp đồng tín dụng hết thời hạn thì phải tất toán khoản vay và thay bằng
hợp đồng tín dụng mới, điều này không phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh
liên tục thường xuyên. Việc công chứng các phụ lục hợp đồng đảm bảo tiền vay
nhằm tăng giá trị tài sản để tăng hạn mức tín dụng cũng không được chấp nhận mà
yêu cầu làm hợp đồng đảm bảo tài sản mới. Điều này là không thực hiện được vì
khách hàng còn dư nợ nên ngân hàng không thể giải chấp hợp đồng đảm bảo để lập
hợp đồng mới.
- Thủ tục hành chính của Nhà nước rườm rà và kéo dài dẫn đến kế hoạch thu
tiền của khách hàng bị thất bại làm ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ ngân hàng, nhất
là các khách hàng vay vốn xây dựng hoặc bán hàng cho các dự án thuộc ngân sách
Nhà nước.
2.4.3.5 Rủi ro do sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng
Nhà nước
Qua các đợt thanh tra Ngân hàng Á Châu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy,
bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng chưa
60
có sự cải thiện căn bản về chất lượng; năng lực cán bộ thanh tra, giá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van 30062008_doc.pdf