Tài liệu Đề tài Tổng quan về hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng thương mại: MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, kinh tế thế giới đã có nhiều biến chuyển, nổi lên trong đấy là khu vực kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, một khu vực năng động và giàu tiềm năng. Nằm trong khu vực, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, có sự chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, kinh tế xã hội. Có thể nói, trong hơn 10 năm trở lại đây, nước ta là nước có nền kinh tế đang phát triển với tốc độ cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong 5 năm qua, GDP đạt bình quân 7,8 %/năm. Trong năm 2007 GDP đã đạt 8,48%/năm, cao nhất trong vòng 10 năm qua. Tình hình chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững cùng với những thuận lợi khi gia nhập vào tổ chức Thương mai quốc tế đã thúc đẩy hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh, buôn bán… phát triển, tạo tiền đề cho việc tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân. Đời sống người dân ngày càng được cải thiện mạnh mẽ.
Riêng năm 2007, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế từng...
69 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 986 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng thương mại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, kinh tế thế giới đã có nhiều biến chuyển, nổi lên trong đấy là khu vực kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, một khu vực năng động và giàu tiềm năng. Nằm trong khu vực, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, có sự chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, kinh tế xã hội. Có thể nói, trong hơn 10 năm trở lại đây, nước ta là nước có nền kinh tế đang phát triển với tốc độ cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong 5 năm qua, GDP đạt bình quân 7,8 %/năm. Trong năm 2007 GDP đã đạt 8,48%/năm, cao nhất trong vòng 10 năm qua. Tình hình chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững cùng với những thuận lợi khi gia nhập vào tổ chức Thương mai quốc tế đã thúc đẩy hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh, buôn bán… phát triển, tạo tiền đề cho việc tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân. Đời sống người dân ngày càng được cải thiện mạnh mẽ.
Riêng năm 2007, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế từng bước được nâng lên thể hiện trên các chỉ số tăng trưởng cao, duy trì tốc độ ổn định trên mọi lĩnh vực kinh tế. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng dịch vụ và giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp (khu vực nông nghiệp chiếm 20%; công nghiệp và xây dựngchiếm41,5%,dịchvụ38,1%). Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 ước đạt 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2006; trong đó, khu vực ngoài quốc doanh tăng 20,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2% và khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,3%.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam năm 2007 đạt 835 USD. Một sự tăng trưởng vượt bậc và dự kiến sẽ tăng lên 960 USD vào năm 2008 và đạt khoảng 1.100 USD vào năm 2009. Người dân được tiêu dùng những mặt hàng chất lượng dần dần đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cuộc sống. Mặc dù thu nhập bình quân đầu người đã tăng cao, song để mua được những hàng hoá có giá trị lớn như nhà cửa hay ôtô thì vẫn là một khó khăn lớn.
Một trong những giải pháp có thể sử dụng nhằm giải quyết vấn đề này đó là sự tham gia của các ngân hàng thương mại tài trợ vốn cho các cá nhân và tổ chức bằng hình thức cho vay trả góp, ngân hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền cần thiết ở thời điểm hiện tại và khách hàng sẽ trả dần số tiền nợ gốc đó làm nhiều kỳ và trả lãi hàng tháng, sao cho phù hợp với nguồn thu nhập của mình.
Như vậy, xuất phát từ thực trạng về nhu cầu vay trả góp trong nền kinh tế, từ nhu cầu phát triển của mỗi ngân hàng, qua quá trình xem xét, tìm hiểu và quan sát tình hình thực tế trong thời gian thực tập tại ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank), em đã quyết định chọn đề tài “” để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề tốt nghiệp ngoài lời mở đầu, kết luận, nội dung chính được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay trả góp tại ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank)
Chương 3: Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank).
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất, là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong mọi nền kinh tế. Ngân hàng thương mại điều phối tiền tệ nhàn rỗi từ những cá nhân tổ chức chưa có nhu cầu sử dụng đến những cá nhân tổ chức có nhu cầu sử dụng.
Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào việc thực hiện các hoạt động của mình một cách có hiệu quả.
Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại bao gồm:
1.1.1.1. Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động cơ sở cũng như là tiền đề của hoạt động cho vay. Bất kỳ một ngân hàng nào muốn cho vay được đều phải đi huy động vốn. Huy động vốn vừa sinh lợi cho các cá nhân tổ chức gửi tiền cũng vừa tạo nguồn vốn cho chính ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Ngân hàng mở các dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Để tìm và thu hút được các khoản tiền gửi, các ngân hàng thương mại thường đưa ra những mức lãi suất huy động khá hấp dẫn như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Sau khi thu hút được các khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ gián tiếp thu “phí” thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng tiền gửi đó.
1.1.1.2. Hoạt động cho vay
Cùng với huy động vốn, cho vay là hoạt động quan trọng và mang tính truyền thống của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về hoạt động cho vay. Tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu mà ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Khi xem xét cho vay như là một phương thức tài trợ cho hoạt động tín dụng, thì “cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận, với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi” (theo điều 3 quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước).
Hoạt động cho vay một mặt mang lại thu nhập chính cho ngân hàng, mặt khác chứa đựng rủi ro cho ngân hàng. Nếu cho vay một cách có hiệu quả sẽ bù đắp được chi phí huy động vốn và thu được lợi nhuận. Ngược lại, sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản và tính chất an toàn của hệ thống ngân hàng. Do vậy, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải xây dựng, thực hiện các chính sách tín dụng đúng đắn và không ngừng đa dạng hoá các loại hình cho vay. Chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu các hình thức cho vay khác nhau của ngân hàng thương mại ở phần sau của chuyên đề này.
1.1.1.3. Các hoạt động khác
Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua, bán) ngoại tệ. Tức là, một ngân hàng đã đứng ra để mua và bán một loại tiền này (chẳng hạn USD, EURO…) để lấy một loại tiền khác (như VND, Yên Nhật…) và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi này có vai trò rất quan trọng, nhất là đối với khách du lịch, vì họ sẽ cảm thấy thuận lợi hơn rất nhiều khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố mà họ đến. Tuy nhiên, mức độ rủi ro của những giao dịch này rất cao, đồng thời nó cũng đòi hỏi một trình độ chuyên môn nhất định. Do vậy, ngày nay việc mua bán ngoại tệ mới chỉ được thực hiện tại các ngân hàng thương mại lớn.
Bảo lãnh
Đây là hoạt động mà ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có ba bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình để phát hành chứng khoán, mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác… Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ở các ngân hàng ngày càng đa dạng và phát triển mạnh.
Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Với kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi, tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền, dùng để thanh toán khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó chính là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
Cho thuê tài sản
Cho thuê tài sản của ngân hàng là hoạt động trong đó ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời hạn khoảng 80% - 90% đời sống kinh tế của tài sản). Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Ngân hàng cũng phải đối đầu với nhiều rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả, không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống cho vay, nó được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân hàng Trung ương thành lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn.
Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện ở mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
Cung cấp các hoạt động môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ uỷ thác tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác đầu tư, uỷ thác phát hành… Thậm chí, các ngân hàng còn đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp…
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng cũng không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Các ngân hàng, thường là ngân hàng lớn đã cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như phát hành hộ, thanh toán hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.1.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay là hoạt động mang tính truyền thống của ngân hàng thương mại. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng và dẫn tới hoạt động cho vay ngày càng phát triển và đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay, hoạt động cho vay được phân theo nhiều loại khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại.
1.1.2.1. Căn cứ vào kỳ hạn cho vay
Cho vay ngắn hạn
Là hình thức cấp tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và mục đích chủ yếu là bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán tiền hàng hóa, tài trợ cho vốn lưu động của doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn
Đây là hình thức cấp tín dụng thường có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng và thường được áp dụng cho vay các trường hợp đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy móc mà thời gian khấu hao thường không quá dài để có thể hoàn trả vốn đúng hạn cho ngân hàng.
Cho vay dài hạn
Cho vay dài hạn có thời hạn từ 60 tháng trở lên và sử dụng chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Phân loại các khoản vay theo kỳ hạn là phổ biến ở các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trong thực tế có những khoản vay không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
1.1.2.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
Cho vay tiêu dùng
Là loại hình cho vay để tài trợ cho việc tiêu dùng nhằm giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho người vay được hưởng mức sống cao hơn. Thông thường quy mô của những khoản vay này nhỏ, rủi ro cao nên lãi suất của cho vay tiêu dùng thường cao. Tuy nhiên cho vay tiêu dùng là hình thức đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Đối tượng được vay là các cá nhân và hộ gia đình vay để phục vụ cho mục đích mua nhà, mua ô tô, du học, du lịch…
Cho vay kinh doanh
Là loại hình cho vay của tổ chức tín dụng đối với các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức như: cho vay công nghiệp, cho vay thương mại, cho vay nông nghiệp. Các khoản vay này thường được sử dụng vào việc mua sắm máy móc thiết bị, tài trợ cho vốn lưu động… Lãi suất của chúng thường thấp hơn trong hệ thống lãi suất và đối tượng khách hàng chủ yếu của loại hình cho vay này là các doanh nghiệp.
1.1.2.3. Căn cứ vào tính chất bảo đảm của khoản vay
Cho vay có tài sản bảo đảm
Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như cầm cố, thế chấp hoặc phải có bảo lãnh của bên thứ ba. Việc cho vay có bảo đảm nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán khi đến hạn. Ngân hàng có thể phát mại tài sản nếu khách hàng không có khả năng chi trả khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết. Giá trị của tài sản bảo đảm thông thường cao hơn giá trị của khoản vay nhằm đề phòng sự mất mát, hao hụt, trượt giá… và chi phí quản lý.
Cho vay không có tài sản bảo đảm
Việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng đi vay mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba. Cho vay không có tài sản bảo đảm thông thường dành cho các khách hàng có uy tín cao, khách hàng truyền thống, tình hình tài chính lành mạnh, thường xuyên có lãi… Tuy nhiên, đây là hình thức cho vay mang nhiều rủi ro đối với các ngân hàng. Ngân hàng cần thẩm định kỹ khách hàng trước khi quyết định cho vay.
1.1.2.4. Căn cứ vào phương thức cho vay
Cho vay từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức tín dụng
Ngân hàng và khách hàng ký kết một hợp đồng tín dụng trong đó quy định giá trị tối đa mà khách hàng được vay trong một thời gian cố định. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Cho vay hợp vốn
Là hình thức cho vay gồm một nhóm các tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn của khách hàng. Trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Các tổ chức tín dụng phải ký kết với nhau về việc hợp vốn trên và khách hàng vay vốn có thể không biết được điều đó. Hiện nay ở Việt Nam hình thức này tương đối phát triển, nguyên nhân là do nhiều khách hàng có nhu cầu vay vốn lớn nhưng các ngân hàng bị giới hạn bởi “luật các tổ chức tín dụng” quy định mỗi ngân hàng không được cho vay đối với mỗi khách hàng vượt quá 15% vốn điều lệ.
Cho vay theo dự án đầu tư
Ngân hàng cho khách hàng vay để thực hiện dự án đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Ngân hàng có thể giải ngân theo từng hạng mục mà dự án đang thực hiện khi khách hàng cung cấp đủ các tài liệu, chứng từ ngân hàng yêu cầu cho lần giải ngân đó.
Cho vay luân chuyển
Loại hình cho vay này dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, khi đó ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng, thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Loại hình cho vay này thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay thấu chi
Là nghiệp vụ cho vay theo đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
1.1.2.5. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay trả góp
Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Nhờ vậy việc hoàn trả không phải là một lần duy nhất như trong trường hợp khoản cho vay trả một lần. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc tài sản lâu bền. Số tiền và thời gian hoàn trả được tính sao cho phù hợp với khả năng hoàn trả của khách hàng. Trong cho vay trả góp đối tượng cho vay thông thường là người có thu nhập ổn định, phù hợp với mỗi lần họ hoàn trả cho ngân hàng.
Cho vay phi trả góp (cho vay trả một lần)
Là những khoản cho vay mà trong hợp đồng tín dụng thoả thuận khách hàng hoàn trả toàn bộ số tiền gốc một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng, lãi trả hàng tháng.
Cho vay tuần hoàn
Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng bằng cách sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai.
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm cho vay trả góp
Cho vay trả góp là một loại hình cho vay tương đối phổ biến hiện nay tại các ngân hàng thương mại. Đây là hình thức tín dụng rất hữu ích đối với ngành ngân hàng nói riêng và trong nền kinh tế nói chung. Xuất phát từ nhu cầu thực tế là nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng không đến cùng một lúc. Ngân hàng có thể thoả thuận để cho khách hàng chi trả một khoản tiền nhất định hàng tháng sao cho phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng và quy định của ngân hàng. Ta có thể định nghĩa “Cho vay trả góp là hình thức cấp tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc và lãi làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận”.
Cho vay trả góp bao gồm cả hoạt động cho vay kinh doanh và cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên do đặc điểm của hoạt động cho vay kinh doanh cần tiền quay vòng vốn trong sản xuất nên thường áp dụng cách vay theo món, trả gốc một lần vào cuối kỳ khi kết thúc chu kỳ sản xuất và thu được lợi nhuận. Do vậy, cho vay trả góp được áp dụng chủ yếu cho các món vay tiêu dùng, đáp ứng các nhu cầu chi tiêu trước mắt vượt quá khả năng thanh toán hiện tại của khách hàng. Phương thức cho vay trả góp này thường được áp dụng cho các khoản vay lớn như cho vay mua nhà, mua ô tô…
Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ theo phương thức trả góp có thể được tính bằng một trong những phương pháp sau đây:
Trả đều: Ngân hàng tính toán một cách phù hợp rồi thống nhất với khách hàng hàng tháng phải trả cho ngân hàng một khoản cố định đến hết thời gian vay. Như vậy, khách hàng luôn luôn phải trả một khoản tiền cố định từ đợt trả đầu tiên cho đến lần cuối cùng. Để làm được điều trên, ngân hàng căn cứ vào mức lãi suất, thời gian cho vay và số tiền cho vay để đưa ra cụ thể số tiền mà mỗi tháng người vay phải nộp.
Trả không đều: Phương thức thanh toán này bao gồm nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ như thanh toán nợ gốc từng kỳ, lãi trả hàng tháng; trả đều nhưng lãi suất thanh toán vào đầu mỗi kỳ; gốc và lãi trả hàng tháng…Lãi ở đây được tính trên số dư nợ thực tế của khoản vay. Thực chất các hình thức trả khác nhau này chỉ là thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của người vay.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay trả góp
Đối tượng
Trước hết đối tượng cho vay của ngân hàng phải là những cá nhân, tổ chức có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Xuất phát từ nhu cầu đi vay của các chủ thể mà đối tượng của cho vay trả góp tập trung chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập cao hoặc các hãng kinh doanh có tình hình tài chính lành mạnh.
Mục đích
Hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng xuất hiện nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu chi tiêu của khách hàng khi mà thu nhập và nhu cầu không xuất hiện cùng một lúc. Nhu cầu chi tiêu đó có thể là mua nhà để ở, các cá nhân mua ô tô phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc doanh nghiệp phục vụ cho nhu cầu đi lại, công việc, hay đơn giản hơn là mua sắm các đồ dùng gia đình… Mục đích của những khoản vay này thường rất cụ thể và rõ ràng, do đó nó cũng được ngân hàng đáp ứng nhanh chóng và dễ dàng hơn các khoản vay khác.
Quy mô khoản vay
Quy mô của các món vay trả góp thường nhỏ hơn so với các món vay khác đặc biệt là các món vay phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân là do các món vay trả góp chủ yếu phục vụ mục đích tiêu dùng, các sản phẩm mà khách hàng có nhu cầu mua thường có giá trị không lớn hoặc dù có giá trị lớn thì khách hàng cũng phải có sự chuẩn bị nhất định về nguồn vốn, còn ngân hàng chỉ có tác động hỗ trợ hoạt động cho họ. Tuy nhiên, do nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định, thu nhập của dân cư ngày càng cao, cho vay trả góp lại là một hình thức cho vay ưu việt, phổ biến và thường xuyên đối với khách hàng nên số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng ngày càng tăng. Và do vậy, tổng quy mô của cho vay trả góp là tương đối lớn.
Rủi ro
Cho vay trả góp mặc dù có mục đích cụ thể và rõ ràng song vẫn tiềm ẩn những rủi ro rất lớn do hoạt động quản lý sau cho vay gặp nhiều khó khăn. Khách hàng có thể vô tình hay cố ý không trả lãi, gốc khi đến kỳ trả gốc lãi nếu cán bộ tín dụng lơ là không theo sát nhắc nhở, dẫn tới tỷ lệ nợ quá hạn sẽ tăng lên. Việc thu hồi nợ trong cho vay trả góp phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập thường xuyên của khách hàng như tiền lương… cho nên bất cứ một sự thay đổi nào ảnh hưởng tới công việc của khách hàng cũng có thể khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ. Do vậy, có thể nói hoạt động cho vay trả góp tiềm ẩn rủi ro cao.
Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay trả góp áp dụng tùy từng trường hợp cụ thể. Lãi suất thường được ấn định ngay từ đầu cho đến hết kỳ hạn vay hoặc chỉ được điều chỉnh mỗi năm một lần dựa trên lãi suất huy động cộng thêm với một biên độ nhất định tùy thuộc quy định của từng ngân hàng.
Tài sản bảo đảm
Giống như tất cả mọi khoản vay khác, cho vay trả góp cũng đòi hỏi khách hàng phải có một tài sản để đảm bảo cho khoản vay của mình.Thường tài sản đó chính là tài sản hình thành từ vốn vay của ngân hàng. Tuy nhiên, tài sản đó cũng có thể là tài sản độc lập thuộc sở hữu của khách hàng hoặc của bên thứ ba. Tài sản này giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro cho mình trong trường hợp có tình huống xấu xảy ra đối với khoản vay.
Lợi nhuận thu được
Do tính chất của vay trả góp các khoản cho vay trả góp chủ yếu là các khoản cho vay trung và dài hạn. Bên cạnh đó, do tiềm ẩn tính rủi ro cao nên mức lãi suất mà khách hàng phải chịu là không nhỏ. Trong trường hợp khách hàng không thanh toán gốc và lãi khi đến kỳ thanh toán sẽ phải chịu một mức lãi phạt rất lớn (150%) so với mức lãi suất trong hợp đồng. Hoạt động này tỏ ra rất hiệu quả nên mức lợi nhuận mà ngân hàng thu về là rất lớn.
Với những đặc điểm như trên, cho vay trả góp đã tỏ ra là hoạt động rất có ưu thế trong các loại hình cho vay của ngân hàng. Hiện nay, cho vay trả góp đang chiếm tỷ lệ lớn trong doanh số cho vay của ngân hàng, đặc biệt là trong cho vay tiêu dùng. Tuy lợi nhuận mà các món cho vay trả góp mang về cho ngân hàng là rất lớn, song nó cũng có chi phí khá cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do vậy, đòi hỏi cán bộ tín dụng cần quản lý chặt chẽ và linh hoạt trong suốt quá trình cho vay để tránh những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra cho ngân hàng.
1.2.3. Vai trò của hoạt động cho vay trả góp
Đối với khách hàng
Việc các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay trả góp chắc chắn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng. Khách hàng hoàn toàn có thể sử dụng những sản phẩm dịch vụ như mong muốn của họ mà trên thực tế, có những nhu cầu ngay lập tức người ta không thể có một khoản tiền lớn để đáp ứng. Chúng ta có thể thấy được rất rõ lợi ích của người tiêu dùng trong phương thức cho vay mua nhà trả góp. Để có thể có đủ tiền mua một ngôi nhà, một cá nhân có thể sẽ phải lao động và làm việc chăm chỉ trong một thời gian dài, thậm chí có thể đến khi về già mới có thể tiết kiệm đủ. Đến lúc đó thì độ thoả dụng đối với sản phẩm đã giảm đi rất nhiều. Do vậy, ngân hàng với hoạt động cho vay trả góp sẽ giúp khách hàng kết hợp được cả nhu cầu hiện tại và khả năng thanh toán trong tương lai.
Với hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng, các cá nhân có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình trong khi các doanh nghiệp có thêm sự lựa chọn nguồn tài trợ để phát triển hoạt động kinh doanh. Hơn nữa, việc mở rộng hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng còn làm cho lượng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ tăng lên, doanh thu của các ngành, các doanh nghiệp theo đó cũng tăng lên. Từ đó thúc đẩy việc mở rộng sản xuất, tạo ra sự cạnh tranh khiến các hãng, các danh nghiệp luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ. Và cuối cùng, người hưởng lợi không ai khác lại chính là khách hàng.
Mặc dù cho vay trả góp giúp khách hàng có thể được hưởng những tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền, đặc biệt trong những trường hợp cá nhân có các chi tiêu cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục, y tế. Tuy nhiên, nếu lạm dụng có thể sẽ làm người đi vay chi tiêu vượt mức cho phép, làm giảm khả năng tiết kiệm hoặc chi tiêu trong tương lai, gây ảnh hưởng tới cuộc sống của họ sau này.
Đối với ngân hàng
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính. Trước khi trở thành người cho vay, bản thân ngân hàng phải đi vay tiền của các cá nhân và tổ chức trong xã hội. Song song với nỗ lực huy động vốn đó, các ngân hàng thương mại còn cố gắng tối đa trong việc cấp tín dụng cho các cá nhân trong và ngoài nước, đảm bảo hoạt động cho vay diễn ra nhanh nhất, an toàn và hiệu quả nhất, đặc biệt bù đắp khoản chi phí huy động vốn và tạo sự chênh lệch thu chi cho ngân hàng. Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay thường chiếm tới quá nửa giá trị tổng tài sản, từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng.
Việc mở rộng hoạt động cho vay trả góp vừa giúp ngân hàng mở rộng được khách hàng, vừa tận dụng được nguồn vốn huy động, vừa đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Bằng cách đó ngân hàng có thể nâng cao sức mạnh trong cạnh tranh, đồng thời tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm, dịch vụ của mình. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những ngân hàng có xu hướng thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ, đa dạng hoá dịch vụ cung ứng.
Hơn thế nữa, hoạt động cho vay trả góp mang lại một khoản lợi nhuận không nhỏ cho ngân hàng. Cho vay trả góp được đánh giá là hoạt động có mức rủi ro thực tế thấp hơn so với các nghiệp vụ khác, hơn nữa số món vay trả góp lại lớn, do đó rủi ro thực tế được chia sẻ bớt. Lãi suất áp dụng đối với loại hình cho vay này lại tương đối cao, điều này khiến cho hoạt động cho vay trả góp có tỷ suất lợi nhuận không nhỏ.
Mở rộng hoạt động cho vay trả góp giúp ngân hàng vừa mở rộng được khách hàng cho vay, tận dụng được nguồn vốn huy động một cách hiệu quả, vừa đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Từ đó ngân hàng tăng được sức mạnh trong cạnh tranh, đồng thời tạo ra được những nét đặc trưng hấp dẫn riêng trong dịch vụ của mình.
Đối với nền kinh tế
Như đã nói ở trên, cho vay trả góp thúc đẩy tiêu dùng, kích thích doanh nghiệp tăng gia sản xuất thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đối với các ngành kinh tế, việc mở rộng hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng đồng nghĩa với việc kích cầu, tăng sức mua tạo nên sự sôi động cho thị trường và tạo ra sự thịnh vượng chung cho nền kinh tế.
Ngoài ra, việc mở rộng hoạt động cho vay trả góp giúp thực hiện vai trò quan trọng của các ngân hàng thương mại trong chính sách đổi mới nền kinh tế của đất nước. Khi một nước có chính sách kích thích nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì hệ thống các ngân hàng thương mại sẽ trở thành công cụ chủ yếu trong việc thực hiện mục tiêu của chiến lược tài chính tiền tệ của ngân hàng Trung ương và chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
1.2.4. Mở rộng hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng thương mại
1.2.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng hoạt động cho vay trả góp
Doanh số cho vay trả góp
Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô cho vay trả góp của ngân hàng đối với nền kinh tế. Chỉ tiêu này phản ánh chính xác về hoạt động cho vay trả góp qua các năm. Khi so sánh chỉ tiêu này qua các thời kỳ ta sẽ thấy được phần nào xu thế của hoạt động cho vay trả góp.
Dư nợ và tăng trưởng dư nợ cho vay trả góp:
Dư nợ cho vay trả góp là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế theo phương thức trả góp tại một thời điểm nhất định. Dư nợ cho vay trả góp được tính như sau:
Dư nợ CVTG năm nay
Dư nợ CVTG năm trước
Doanh số thu nợ CVTG năm nay
Doanh số CVTG năm nay
=
+
-
Tăng trưởng dư nợ cho vay trả góp là chỉ tiêu tương đối thể hiện bằng nhịp độ gia tăng tổng dư nợ cho vay trả góp năm sau so với năm trước. Đây là chỉ tiêu cơ bản và quan trọng nhất làm căn cứ cho việc đánh giá hoạt động cho vay trả góp. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng càng mở rộng.
Tỷ trọng dư nợ cho vay trả góp trong tổng dư nợ:
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh quy mô của các món vay trả góp trong tổng số các món vay được ngân hàng giải ngân. Sự tăng trưởng của chỉ tiêu này cho thấy sự phát triển của hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng.
Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay trả góp trong tổng thu nhập
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay trả góp. Tỷ trọng này càng cao chứng tỏ khả năng sinh lời của các khoản cho vay trả góp càng lớn.
Tỷ trọng thu nhập từ CVTG
=
Thu nhập từ CVTG
Tổng thu nhập
Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay trả góp
Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng tín dụng, độ rủi ro trong cho vay trả góp của ngân hàng. Một ngân hàng thường không tránh khỏi việc gặp phải rủi ro nợ quá hạn, có thể do tình hình tài chính không lành mạnh của khách hàng vay dẫn đến việc trả nợ không đầy đủ hoặc không đúng hạn, hay do khách hàng cố tình không thanh toán khi đến hạn. Do đó, hoạt động cho vay của ngân hàng được coi là mở rộng và hiệu quả khi có tỷ lệ nợ quá hạn nằm trong giới hạn cho phép và phải thấp hơn kỳ trước.
Thị phần cho vay trả góp của ngân hàng so với các ngân hàng khác cùng thị trường
Chỉ tiêu này cho biết mức độ mở rộng về mặt lượng cũng như khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường của ngân hàng. Khi so sánh với các ngân hàng khác đang hoạt động trên cùng thị trường, ngân hàng có thể phân tích khả năng và tiềm lực của mình cũng như của đối thủ, xác định mức độ mở rộng và chiếm lĩnh thị trường trong tương lai. Từ đó, ngân hàng sẽ đưa ra những chính sách và hành động cụ thể để phát triển hơn nữa hoạt động cho vay trả góp của mình.
Mức độ đa dạng hoá các hình thức cho vay trả góp
Đây là chỉ tiêu liên quan đến khả năng đáp ứng sản phẩm và thoả mãn nhu cầu khách hàng của ngân hàng. Ngân hàng chỉ có thể phát triển khi nó cung cấp cho thị trường một số lượng phong phú và đa dạng các sản phẩm cho vay trả góp nhằm thoả mãn những nhu cầu khác nhau của khách hàng. Trong điều kiện hiện nay, khi mà nhu cầu vay trả góp của thị trường ngày càng trở nên sôi động hơn, việc phát triển thị phần cho vay trả góp của các ngân hàng cần phải hướng đến những tiêu chí về chất lượng phục vụ khách hàng như tính tiện ích và thuận tiện khi sử dụng sản phẩm, mức độ thoả mãn của khách hàng.
1.2.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động cho vay trả góp
Các nhân tố chủ quan
Việc phát triển hoạt động cho vay trả góp trước hết phụ thuộc vào chính các yếu tố nội lực của ngân hàng.
Chính sách của ngân hàng
Không chỉ hoạt động cho vay trả góp mà tất cả các hoạt động khác của ngân hàng đều chịu sự chi phối trực tiếp từ những văn bản pháp quy, quy trình, quy chế… của chính ngân hàng đó. Mỗi ngân hàng đều có một chính sách tín dụng riêng bao gồm mức cho vay, lãi suất, tài sản đảm bảo… Một chính sách tín dụng hợp lý của ngân hàng với các phương thức trả nợ gốc và lãi linh hoạt, mức lãi suất hợp lý, thời hạn cho vay dài, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến vay. Từ đó, ngân hàng sẽ dễ thành công hơn trong việc mở rộng hoạt động cho vay. Ngược lại, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng cứng nhắc, không chú ý đến nhu cầu của khách hàng sẽ hạn chế cho vay, giảm tính cạnh tranh trong hoạt động của ngân hàng.
Định hướng chiến lược phát triển của ngân hàng
Nếu như ngân hàng không có định hướng rõ ràng trong việc phát triển hoạt động cho vay, không có các chính sách phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý cho hoạt động này thì chắc chắn ngân hàng đó không thể hoạt động có hiệu quả như mong muốn. Chẳng hạn một ngân hàng với định hướng phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, thì sẽ tập trung chủ yếu vào các đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cùng với tầng lớp trung lưu trong xã hội. Từ đó, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng tập trung thoả mãn nhu cầu của các đối tượng này. Khi đó, hoạt động ngân hàng sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Hoặc những ngân hàng có chiến lược bán buôn thì khách hàng chính của họ là những đối tác lớn như các tập đoàn, các tổng công ty hay các ban dự án.
Chất lượng hoạt động của nhân viên tín dụng
Chất lượng của nhân viên tín dụng thể hiện trước hết qua thái độ phục vụ khách hàng, trình độ nghiệp vụ và khả năng thẩm định ban đầu đối với khách hàng. Thông thường, khách hàng tiếp xúc với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thông qua cán bộ tín dụng đặc biệt là đối với các khách hàng mới. Do vậy, cán bộ tín dụng chính là đại diện cho hình ảnh của ngân hàng. Vì thế, một đội ngũ cán bộ tín dụng nhiệt tình, thật lòng phục vụ khách hàng với thái độ niềm nở chân tình sẽ chiếm được cảm tình của khách hàng. Đó cũng là lợi thế cạnh tranh rất lớn của ngân hàng.
Các nhân tố khác
Cơ sở vật chất thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Công nghệ ngân hàng cũng như hệ thống mạng lưới chi nhánh ngân hàng cũng sẽ là một lợi thế của ngân hàng. Bởi lẽ trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, yếu tố nhanh chóng và tiện lợi được khách hàng đặc biệt quan tâm.
Bên cạnh đó, nguồn vốn cũng là một yếu tố cần thiết có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng. Nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng lớn thì uy tín của ngân hàng đối với khách hàng càng cao, khả năng huy động vốn càng mạnh, khả năng mở rộng địa bàn càng lớn. Từ đó, hoạt động ngân hàng ngày càng vững mạnh và phát triển.
Các nhân tố khách quan
Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là nhân tố có tác động rất lớn đến hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng. Cho vay trả góp phụ thuộc rất lớn vào mức thu nhập thường xuyên của người dân và sự phát triển của các doanh nghiệp. Nếu nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, đời sống dân cư tăng lên, thu nhập của người dân được cải thiện, từ đó nhu cầu tiêu dùng và hưởng thụ của người dân tăng lên bởi họ có thể yên tâm vào mức thu nhập trong tương lai. Hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng thương mại nhờ đó sẽ có cơ hội phát triển mạnh. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, mất ổn định, người dân sẽ hạn chế nhu cầu chi tiêu mà chỉ duy trì một mức sống bình thường, các doanh nghiệp không thể tăng cường hay mở rộng quy mô hoạt động. Do vậy, môi trường kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng.
Môi trường văn hoá xã hội
Thói quen, trình độ văn hoá cũng như phong tục tập quán, bản sắc dân tộc cũng đều có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động cho vay trả góp. Mỗi xã hội đều có những nét đặc thù về văn hoá riêng biệt, nó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu tiêu dùng và hưởng thụ của dân cư. Điều đó ảnh hưởng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tới những nhu cầu tiêu dùng và hưởng thụ hiện đại hơn của các cá nhân hay doanh nghiệp. Từ đó cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng.
Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý có tác động đến tính quy chuẩn, trật tự giúp hoạt động cho vay của ngân hàng diễn ra thông suốt và an toàn. Một môi trường pháp lý ổn định với hệ thống các văn bản luật cụ thể, đầy đủ, rõ ràng và xuyên suốt sẽ tạo điều kiện rất lớn cho sự phát triển của hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng. Ngược lại, nếu những văn bản và quy định của pháp luật không rõ ràng, rườm rà, thiếu khoa học sẽ tạo ra nhiều khe hở khiến nhiều đối tượng xấu lợi dụng để phạm pháp, gây khó khăn trong hoạt động của các ngân hàng.
Các nhân tố thuộc về phía khách hàng
Nhóm nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất phải kể đến trong những yếu tố thuộc về khách hàng là đạo đức khách hàng. Nó được đánh giá trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Năng lực pháp lý thể hiện ở việc khách hàng không vi phạm các quy định của pháp luật trước trong và sau quá trình xin vay. Độ tín nhiệm của khách hàng là các yếu tố về thu nhập, tài sản đảm bảo, mối quan hệ vay trả của khách hàng với ngân hàng trong các khoản vay trước, sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng… Một ngân hàng không thể có được tất cả các thông tin tuyệt đối chính xác về khách hàng của mình. Do vậy, nếu khách hàng cố ý sử dụng sai mục đích số tiền vay, hoặc không có thiện chí trả nợ thì chắc chắn sẽ gây khó khăn không nhỏ cho các ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Ngoài ra, khả năng tài chính và tài sản đảm bảo của khách hàng cũng là những nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Đối thủ cạnh tranh
Năng lực của đối thủ cạnh tranh trong ngành cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng. Đặc biệt là các ngân hàng lớn, với tiềm lực vốn mạnh, thị trường lớn, và mối quan hệ lâu đời với khách hàng. Do vậy, trong một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ và khốc liệt như hiện nay, mỗi ngân hàng trong quá trình phát triển đều phải xác định được chỗ đứng của mình trong ngành để có những chiến lược phát triển đúng đắn.
Những nhân tố chủ quan và khách quan như trên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng của ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng thưong mại cần đánh giá được khả năng của mình, những thế mạnh riêng cũng như những điểm yếu còn tồn tại của mình để có những kế hoạch phát triển cụ thể và những bước đi thích hợp trong từng thời kỳ.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP TẠI NGÂN HÀNG NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM (VPBANK)
2.1. KHÁI QUÁT VỀ VPBANK
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của VPBank
Lịch sử hình thành
Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993.
Các chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng; Kinh doanh ngoại hối; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của NHNN Việt Nam.
Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu phát triển, theo thời gian VPBank đã nhiều lần tăng vốn điều lệ. Đến tháng 8/2006, vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9/2006, VPBank nhận được chấp thuận của NHNN cho phép bán 10% vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC - một Ngân hàng lớn nhất Singapore, theo đó vốn điều lệ sẽ được nâng lên trên 750 tỷ đồng. Tiếp theo, đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của VPBank sẽ tăng lên trên 1.000 tỷ đồng. Và đến tháng 7/2007 vốn điều lệ của VPBank đã tăng lên 1.500 tỷ đồng. Và hiện nay là 2.000 tỷ đồng.
Sự tăng trưởng vốn điều lệ của VPBank
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Các giai đoạn phát triển
Là một trong số những ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) ra đời đầu tiên tại Việt Nam, VPBank đã trải qua 15 năm hoạt động với rất nhiều thăng trầm.
1993-1996: Giai đoạn đầu mới thành lập là giai đoạn phát triển năng động của VPBank với nhiều kết quả khả quan trên các mặt của hoạt động kinh doanh. Những năm 1995, 1996 VPBank là một NHTMCP năng động với tỷ suất lợi nhuận lớn và VPBank đã được đứng trong “top” những ngân hàng dẫn đầu thời bấy giờ.
1997-2000: Cùng với sự khủng hoảng tài chính tiền tệ của khu vực và Châu Á năm 1997 và sự khó khăn của nền kinh tế trong nước, VPBank cũng rơi vào khủng hoảng do những sai lầm trong quản lý (hoạt động cho vay và bảo lãnh không tuân thủ theo đúng quy định). Những nguyên nhân trên đã dẫn VPBank đến tình trạng không đủ năng lực tài chính để thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình. Ngân hàng gần như không tìm ra được lối thoát, đứng trên bờ vực của sự phá sản khi các hoạt động kinh doanh bị đình trệ, nợ quá hạn lên tới 300 tỷ đồng, giá trị L/C trả chậm của khách hàng còn tồn đọng ở nước ngoài lên đến 40 triệu USD, mất uy tín trong thanh toán với khách hàng trong nước và đặc biệt là với các đối tác nước ngoài. Thời gian này, Ngân hàng Nhà nước đã từng xếp VPBank thuộc nhóm “các NHTMCP có điểm yếu rõ rệt không rõ liệu có thể tồn tại được hay không trong tương lai” (Nguồn: World Bank và IMF năm 1999)
2001-nay: Thời kỳ từ 2001-2003 là thời kì toàn hệ thống VPBank dốc sức vào công cuộc cải tổ, xây dựng lại ngân hàng. Năm 2001, VPBank đã tiến hành cải tổ bộ máy tổ chức và đưa ra được quy chế hoạt động hiệu quả của ngân hàng. Đây là hệ thống văn bản đầu tiên ban hành một cách đầy đủ về chức năng và nhiệm vụ của các Phòng, Ban làm cơ sở cho các phòng triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các nhiệm vụ của mình. Để lành mạnh hoá tài chính, Ngân hàng đã tập trung vào công tác thu hồi nợ để giải quyết các khoản nợ còn tồn đọng từ giai đoạn trước đồng thời tăng cường hoạt động tín dụng với những khoản vay đảm bảo nhằm giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Ngoài ra, ngân hàng cũng đã nỗ lực giải quyết các khoản L/C trả chậm để cải thiện tình hình tài chính và khôi phục lại uy tín của mình ở nước ngoài. Cũng trong thời gian này, VPBank chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước, các hoạt động đều bị hạn chế.
Sau một thời gian dài nỗ lực phấn đấu, ngày 06/07/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký quyết định bỏ kiểm soát đặc biệt với VPBank trước thời hạn 4 tháng, chính thức chấm dứt cuộc khủng hoảng và mở ra thời kì hoạt động mới cho toàn hệ thống VPBank.
Mạng lưới hoạt động
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn.
Tính đến tháng 1 năm 2007, hệ thống VPBank có tổng cộng khoảng 133 điểm giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 25 Chi nhánh cấp I tại các tỉnh, thành phố của đất nước là: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Giang; 108 chi nhánh cấp 2 và phòng giao dịch.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức nhân sự
Tình hình nhân sự
Về quy mô: Số lượng nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống tính đến nay có trên 2.600 người, trong đó phần lớn là các cán bộ, nhân viên có trình độ đại học và trên đại học (chiếm 87%). Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của ngân hàng, giúp VPBank sẵn sàng đương đầu được với cạnh tranh, nhất là trong giai đoạn đầy thử thách sắp tới khi Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, những năm vừa qua VPBank luôn quan tâm nâng cao chất lượng công tác quản trị nhân sự.
Về đào tạo: Trong năm 2007 Trung tâm đào tạo VPBank đã tổ chức được 21 khóa đào tạo về nghiệp vụ, trong đó có 35 khoá học cơ bản dành cho nhân viên tân tuyển.
Tổng số có 742 lượt người được đào tạo trong các khoá học nội bộ. Trong đó phía Bắc có 354 lượt học viên được đào tạo; phía Nam có 388 lượt học viên được đào tạo.
Nhìn chung công tác đào tạo đã được tổ chức nề nếp, nội dung chương trình đào tạo dần dần được chuẩn hoá thống nhất trên toàn hệ thống nên chất lượng đào tạo cũng được nâng cao hơn trước.
Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của VPBank được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ Cơ cấu nhân sự
Hội đồng Quản trị: Được bầu tại Đại hội cổ đông thường niên năm 2005, ngày 31/3/2006, với nhiệm kỳ 4 năm (2006 - 2009), gồm 6 thành viên:
Ông Phạm Hà Trung (Cử nhân Kinh tế)
Chủ tịch Hội đồng Quản trị
Ông Lâm Hoàng Lộc (Cử nhân Kinh tế, Cử nhân tâm lý)
Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị
Ông Nguyễn Quang A (Tiến sĩ Khoa học)
Ủy viên
Ông Lê Đắc Sơn (Tiến sĩ Xã hội học, Kỹ sư Kinh tế)
Ủy viên
Ông Bùi Hải Quân (Cử nhân Kinh tế)
Ủy viên
Ông Linus Goh (Cử nhân Nhân văn)
Ủy viên
Ban Kiểm soát: Do Đại hội cổ đông bầu,gồm 3 thành viên:
Ông Vũ Hải Bằng (Cử nhân Luật)
Trưởng ban
Bà Phan Thị Thu Hà (Cử nhân Kinh tế)
Thành viên chuyên trách tại Hội sở
Ông Trần Đức Hạ (Cử nhân Kinh tế)
Thành viên chuyên trách tại TP Hồ Chí Minh
Hội đồng tín dụng: là tổ chức do HĐQT thành lập ra.
Tại khu vực phía Bắc gồm các thành viên sau:
Ông Lê Đắc Sơn (Ủy viên HĐQT - Tổng Giám đốc)
Chủ tịch
Ông Nguyễn Thanh Bình (Phó Tổng Giám đốc)
Phó Chủ tịch Hội đồng
Ông Nguyễn Quang A (Ủy viên HĐQT)
Thành viên
Ông Trần Văn Hải (Phó Tổng Giám đốc)
Thành viên
Ồng Đinh Như Tuynh (Phụ trách phòng Thu hồi nợ)
Thành viên
Tại khu vực phía Nam gồm các thành viên sau:
Ông Lâm Hoàng Lộc (Phó Chủ tịch HĐQT)
Chủ tịch
Ông Nguyễn Đình Long (Giám đốc Chi nhánh Sài Gòn)
Phó Chủ tịch
Ông Nguyễn Trí Dũng (Giám đốc Chi nhánh Hồ Chí Minh)
Thành viên
2.1.3. Lĩnh vực hoạt động
VPBank hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng trên cơ sở thực hiện các nghiệp vụ sau:
Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các tổ chức, cá nhân
Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước.
Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác.
Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức, cá nhân.
Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá.
Hùn vốn, liên doanh và mua cổ phần theo pháp luật hiện hành.
Thực hiện dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng.
Thực hiện kinh doanh ngoại tệ.
Huy động vốn từ nước ngoài.
Thanh toán quốc tế và thực hiện các dịch vụ liên quan đến thanh toán quốc tế.
Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức, đặc biệt chuyển tiền nhanh Western Union.
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh của VPBank trong những năm gần đây
Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là một trong những hoạt động trọng tâm của VPBank. Trong năm 2007, Hàng loạt các chương trình huy động vốn hấp dẫn, thu hút số lượng lớn tiền gửi trong dân cư như “ Đi tìm triệu phú bạch kim” rồi “ Tết này thắng to”. Trong khu vực liên ngân hàng, trong năm 2007 VPBank tiếp tục duy trì quan hệ tốt với các ngân hàng bạn để kinh doanh tiền tệ nên thu được nguồn lợi đáng kể trên thị trường này.
Kết quả đến hết năm 2007, tổng nguồn vốn huy động đạt 15.355tỷ đồng, tăng hơn 15% so với năm 2006. Huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng được 2.414 tỷ đồng, giảm hơn 33% so với thực hiện năm 2006. Nhìn chung các đơn vị đều hoàn thành vượt mức kế hoạch huy động vốn. Kết quả huy động vốn VPBank đạt được như sau:
Bảng 1 :Tình hình huy động vốn của VPBank giai đoạn 2005-2007
(Đơn vị tính: triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng số
Tỷ trọng
Tổng số
Tỷ trọng
Tổng số
Tỷ trọng
Tổng nguồn vốn huy động
5.645
100%
13.001
100%
15.355
100%
Thị trường I
3.217
57%
9.377
72,1%
12.941
84%
Thị trường II
2.428
43%
3.624
27,9%
2.414
16%
(Nguồn: Báo cáo thường niên VPBank 2005, 2006, 2007)
Ghi chú: Thị trường I: Các tổ chức và dân cư
Thị trường II: Các ngân hàng
Với chủ trương mở rộng mạng lưới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đem lại dịch vụ tốt hơn tới khách hàng, năm 2007 VPBank đã đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc trên toàn quốc. Tính đến cuối năm 2007 toàn hệ thống VPBank đã có tổng số 100 điểm giao dịch trên toàn quốc (chưa kể gần 30 điểm giao dịch khác đang chuẩn bị khai trương). Các CN, PGD mới khai trương của VPBank trên toàn quốc đều đi vào hoạt động suôn sẻ và bước đầu đạt được những kết quả khả quan.
Hoạt động tín dụng
Hoạt động cho vay của VPBank khá đa dạng và phong phú với quan điểm tín dụng là “Tiếp thị năng nổ, cho vay chặt chẽ”. Đây vẫn luôn là hoạt động chủ yếu đem lại nguồn thu cho ngân hàng. Năm 2007 là một năm ấn tượng trong ngành ngân hang nói chung và trong VPBank nói riêng. Một năm bùng nổ tín dụng. Nguồn vốn nước ngoài cứ tiếp tục đổ vào trong khi hang loạt các dự án đã được phê duyệt mà vẫn chưa đi vào triển khai
Bảng 2: Tình hình hoạt động của VPBank giai đoạn 2005-2007
Đơn vị: tỷ đồng
Các chỉ tiêu về tài sản (Đến 31/12)
2005
2006
2007
Tổng Tài sản có
6.093
10.159
18.231
Tiền huy động
3.178
9.065
15.355
Cho vay
3.014
5.031
13.217
Vốn cổ phần
309
756
2.299,8.
Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2007 đạt 13.217 tỷ đồng, tăng 8.186 tỷ đồng so với cuối năm 2006 (tương ứng tăng 163% so cuối năm 2006) và vượt 53% so với kế hoạch cả năm 2007, trong đó dư nợ cho vay bằng VNĐ đạt 12.596 tỷ đồng chiếm 95 % tổng dư nợ. Dư nợ ngắn hạn đạt 6.626 tỷ đồng chiếm50%tổngdưnợ. Chất lượng tín dụng của hệ thống vẫn tiếp tục duy trì tốt, tỷ lệ nợ xấu của toàn hàng đến cuối tháng 12/2007 là 0,49%.
Mặc dù tốc độ tăng cao, nhưng chất lượng tín dụng của VPBank vẫn đảm bảo được yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và qui chế của VPBank. Tỷ lệ nợ xấu của VPBank chỉ chiếm 0,49% tổng dư nợ, và tất cả đều có đủ tài sản bảo đảm hợp pháp nên hầu hết các khoản nợ xấu đều dược thu hồi sớm sau khi chuyển nợ quá hạn.
Hoạt động khác
Hoạt động thanh toán quốc tế: Hoạt động thanh toán quốc tế của VPBank trong năm 2007 đã đạt được những bước tiến đáng ghi nhận. Lượng giao dịch Thanh toán quốc tế của VPBank đã tăng lên rất nhanh cả về doanh số và phạm vi hoạt động. Tháng 4/2007 VPBank đã được đại diện của The Bank of New York trao “Chứng nhận đạt tỷ lệ điện chuẩn trong Thanh toán quốc tế” năm 2006, đây là năm thứ 3 liên tiếp VPBank được The Bank of New York công nhận về chất lượng giao dịch Thanh toán quốc tế. Trong tháng 9/2007, đại diện của Citibank đã trao cho VPBank giải thưởng “Ngân hàng hoạt động thanh toán xuất sắc” năm 2006.
Hoạt động kiều hối: Doanh số chuyển tiền ra nước ngoài của VPBank qua Western Union năm 2007 tăng 220% so với năm 2007. Doanh số chi trả cả năm đạt gần 30 triệu USD, tăng 64% so với năm 2006. Tổng số đại lý phụ đến cuối năm 2007 là 390 điểm, tăng 158 điểm so với năm 2006. Tổng số phí Western Union được hưởng năm 2007 đạt gần 500 ngàn USD tăng 68% so với năm 2006.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP TẠI VPBANK
2.2.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động cho vay trả góp
Cơ sở pháp lý đầu tiên áp dụng cho tất cả các hoạt động của ngân hàng thương mại là luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX và luật số 20/2004/QHXI ngày 15 tháng 6 năm 2004 về sửa đổi bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng. Luật này được ban hành để đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh, an toàn và có hiệu quả; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phát triển nền kinh tế theo định hướng của Nhà nước.
Cơ sở tiếp theo cho hoạt động cho vay của ngân hàng đó là quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Sau đó là quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế cho vay đó. Quy chế này quy định về việc cho vay bằng Đồng Việt Nam, ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không phải là tổ chức tín dụng, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư, phát triển và đời sống. Với sự rõ ràng và chặt chẽ trong các điều khoản, quy chế này đã tác động tích cực đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng của các ngân hàng thương mại.
Dựa trên Quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước, VPBank đã ban hành “Quy chế cho vay đối với khách hàng” theo quyết định số 467-2002/QĐ-HĐQT ngày 06/06/2002 của Hội đồng quản trị VPBank làm cơ sở cụ thể cho hoạt động cho vay của ngân hàng. Quy chế cho vay này đã cụ thể hoá những điều khoản của Ngân hàng Nhà nước tại Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN theo những điều kiện thực tại của VPBank. Trong quyết định này, Hội đồng quản trị đã đưa ra “Quy trình nghiệp vụ tín dụng” áp dụng cho 2 phòng là Phòng phục vụ khách hàng cá nhân và Phòng phục vụ khách hàng doanh nghiệp. Quy trình nghiệp vụ trên đã hướng dẫn một cách chi tiết các bước mà các nhân viên tín dụng phải thực hiện cho vay đối với khách hàng.
2.2.2. Các sản phẩm cho vay trả góp chủ yếu
Đối tượng áp dụng cho các phương thức cho vay của VPBank là các cá nhân, hộ gia đình có hộ khẩu thường trú cùng địa bàn nơi VPBank đóng trụ sở; hoặc là các doanh nghiệp tổ chức có trụ sở cùng địa bàn với VPBank. Ngoài ra các trường hợp đặc biệt khác sẽ do Ban Tín dụng quyết định.
Các sản phẩm cho vay trả góp chủ yếu:
Cho vay mua nhà - xây dựng – sửa chữa nhà
Khi đến vay vốn, khách hàng cần phải thỏa mãn các điều kiện vay giống như bất kỳ một khoản vay nào, đó là:
Khách hàng phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đây là điều kiện tối thiểu mà ngân hàng quy định đối với khách hàng.
Khách hàng phải có bản giải trình mục đích vay vốn rõ ràng, có nguồn trả nợ chắc chắn.
Khách hàng phải có một phần vốn tự có tham gia vào phương án xin vay.
Có tài sản đảm bảo tiền vay hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản.
Chấp hành thể lệ cho vay của VPBank.
Phương thức cho vay trả góp mua nhà - xây dựng - sửa chữa nhà của VPBank sẽ cấp tín dụng cho khách hàng với các mục đích chi trả như:
Chi phí mua nhà, mua nền nhà, theo đất đã được quy hoạch để xây dựng nhà mới, mua căn hộ mới, xây dựng, sửa chữa hoặc nâng cấp nhà.
Chi phí mua sắm các trang thiết bị và các chi phí hợp lý khác trong quá trình sửa chữa xây dựng nhà.
Đây là món vay rất hữu hiệu cho những cá nhân có thu nhập cao song chưa có tiền ngay để thanh toán, giúp cho cá nhân có được tài sản mà không gây ra gánh nặng tài chính.
Cho vay mua ô tô của cá nhân hoặc tổ chức
Cho vay trả góp mua ô tô là sản phẩm thế mạnh của VPBank. ngay từ đấu với sản phẩm cho vay trả góp ô tô mới 100% thì nay, VPBank cũng đã đưa ra mảng dịch vụ cho vay mua ô tô cũ nhập khẩu.
Thời hạn cho vay trả góp mua xe cũng tuỳ vào kế hoạch trả nợ của khách hàng nhưng tối đa không quá 5 năm. Trường hợp xe ô tô mua để sử dụng vào mục đích kinh doanh vận tải, taxi, cho thuê, chở khách hoặc xe đã qua sử dụng… thì thời hạn tối đa không quá 4 năm.
Các sản phẩm khác
Các sản phẩm cho vay trả góp khác bao gồm có cho vay hỗ trợ tài chính du học, cho vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng hợp lý của khách hàng… Nhưng dù là phương thức cho vay như thế nào cũng đều phải tuân theo những quy định cụ thể của VPBank về điều kiện, nguyên tắc cho vay, thời hạn cho vay và đều phải được đảm bảo bằng tài sản.
Phương thức tính lãi
Tất cả các phương thức cho vay trả góp ở trên khách hàng đều có thể tự lựa chọn cho mình cách tính lãi suất thích hợp, áp dụng một trong hai phương thức tính lãi sau đây:
Lãi suất cho vay tính theo dư nợ thực tế
Lãi suất gộp tính theo dư nợ ban đầu trong suốt thời hạn vay cộng với nợ gốc và chia đều cho các kỳ trả nợ.
Công thức tính tiền trả góp hàng tháng trong trường hợp lãi gộp:
Tiền trả góp hàng tháng = Nợ gốc (1+Lãi suất gộp * Số tháng vay)/Số tháng vay
Các quy định đặc biệt trong phương thức cho vay trả góp của VPBank
Nếu khách hàng trả nợ trễ hạn:
Khách hàng không trả tiền lãi đúng hạn nhưng được gia hạn trả nợ lãi thì phải chịu phạt chậm trả lãi tinh trên số ngày vượt quá kỳ hạn trả lãi theo quy định do Chủ tịch HĐQT hoặc Tổng giám đốc VPBank ban hành.
Nếu khách hàng trả nợ trước hạn:
Trường hợp khách hàng trả nợ theo lãi gộp: Việc tính và thanh toán tiền lãi thực hiện theo thể lệ cho vay trả góp do VPBank ban hành.
Đối với các khoản vay tính lãi theo dư nợ thực tế: Khách hàng phải trả toàn bộ số tiền lãi theo dư nợ thực tế, ngoài ra khách hàng còn phải trả một khoản phí thanh toán nợ trước hạn theo quy định của VPBank công bố tại thời điểm cho vay (nếu có).
2.2.3. Quy trình cho vay trả góp
Quy trình cho vay trả góp tuân thủ theo các bước đã được quy định trong quyết định số 427/QĐ-HĐQT về Quy trình nghiệp vụ tín dụng của Hội đồng Quản trị Ngân hàng VPBank ban hành ngày 13/05/2002.
Quy trình này gồm 8 bước như sau:
Sơ đồ quy trình nghiệp vụ tín dụng
1. Ngân hàng
quảng cáo
3. Thẩm định
hồ sơ
2. Khách hàng đề xuất nhu cầu vay
Phòng TĐTS định giá TSĐB
4. Tập hợp hồ sơ trình BTD/HĐTD
5. Hoàn thiện
hồ sơ TD
6. Thực hiện quyết định cấp TD
7. Kiểm tra và xử lý nợ vay
8. Tất toán HĐTD
Bước 1: Quảng cáo tiếp thị
Ngân hàng thực hiện việc quảng cáo tiếp thị các sản phẩm dịch vụ cho vay trả góp với mục đích tiêu dùng hoặc kinh doanh trên các phương tiện thông tin đại chúng, các biển quảng cáo giới thiệu thủ tục và điều kiện cho vay.
Bước 2: Khách hàng đề xuất nhu cầu vay
Nhân viên phục vụ khách hàng tiếp xúc khách hàng
Tiếp xúc với khách hàng mới đến với ngân hàng, giới thiệu sản phẩm dịch vụ của VPBank và tìm hiểu các thông tin liên quan gồm: Tư cách pháp lý của người vay, lai lịch khách hàng, nhu cầu và điều kiện vay của khách hàng.
Đối chiếu nhanh với các qui định hiện hành của VPBank và NHNN.
Thông báo về các điều kiện và thủ tục vay vốn.
Hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục và giấy tờ cần thiết..
Tiếp nhận hồ sơ vay vốn từ khách hàng
Hồ sơ vay vốn khách hàng cần cung cấp cho ngân hàng bao gồm:
Giấy tờ chứng nhận tư cách pháp lý(năng lực pháp luật dân sự, hành vi dân sự).
Hồ sơ về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các tài liệu liên quan đến mục đích sử dụng vốn.
Hố sơ về tài sản bảo đảm.
Bước 3: Thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng
Thẩm định về tư cách pháp lý của khách hàng, tổ chức, hoạt động: có thể hỏi thông tin trung tâm thông tin tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước hoặc đến tận nơi tìm hiểu thực trạng khách hàng.
Thẩm định về mục đích sử dụng tiền vay: Khách hàng lập bản giải trình mục đích vay vốn trong đó kê khai các nguồn thu nhập hoặc tình hình kinh doanh và cam kết kế hoạch trả nợ Ngân hàng.
Thẩm định về tài sản đảm bảo:
Nhân viên Tín dụng trực tiếp thẩm định trong trường hợp đó là các chứng từ có giá do VPBank, Chính phủ hay các Ngân hàng quốc doanh hay chính chiếc ô tô hình thành từ vốn vay (nếu cho vay mua ô tô).
Phòng tín dụng sẽ giao cho phòng thẩm định tài sản đảm bảo trong các trường hợp còn lại.
Bước 4: Tập hợp hồ sơ trình Ban tín dụng
Hồ sơ trình ban tín dụng do Phòng tín dụng cung cấp bao gồm:
Tờ trình thẩm định khách hàng (do cán bộ tín dụng lập) ghi rõ ngày nhận hồ sơ lần đầu và ngày nhận đủ hồ sơ.
Tờ trình đánh giá tài sản đảm bảo do phòng thẩm định lập (trừ trường hợp tài sản đảm bảo là giấy tờ có giá hoặc đảm bảo bằng chiếc xe hình thành từ vốn vay).
Hồ sơ vay của khách hàng cung cấp.
Bước 5: Hoàn thiện hồ sơ tín dụng
Phòng thẩm định tài sản bảo đảm lập hợp đồng bảo đảm tiền vay (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh), giấy đăng ký giao dịch bảo đảm… và thực hiện công chứng hợp đồng.
Phòng tín dụng nhận lại hồ sơ tài sản đảm bảo đã hoàn thiện, niêm phong và thực hiện nhập kho tài sản bảo đảm.
Lập và trình lãnh đạo phòng tín dụng ký duyệt hồ sơ tín dụng.
Bước 6: Thực hiện quyết định cấp tín dụng
Nhân viên A/O chuyển 01 bản chính Hợp đồng tín dụng + khế ước vay và các giấy tờ khác đến bộ phận giao dịch để thực hiện việc giải ngân.
Nhân viên giao dịch kiểm tra tính hợp lệ, hướng dẫn khách hàng viết uỷ nhiệm chi hoặc giấy lĩnh tiền mặt, tiến hành giải ngân và hạch toán nội, ngoại bảng, chuyển tiền…
Nhân viên A/O nhập hồ sơ tín dụng vào chương trình tin học.
Bước 7: Kiểm tra và xử lý nợ vay
Trong bước này nhân viên A/O phải thực hiện những việc sau:
Kiểm tra mục đích sử dụng vốn của khách hàng.
Thông báo và đôn đốc trả lãi hàng tháng.
Thông báo và đôn đốc khách hàng trả nợ gốc khi đến hạn.
Đề xuất gia hạn nợ gốc hoặc lãi (nếu có đơn đề nghị của khách hàng).
Bước 8: Thanh lý hợp đồng tín dụng
Khi khách hàng trả hết nợ, nhân viên A/O có văn bản báo cáo cho lãnh đạo và các bộ phận liên quan biết.
Nhân viên A/O lập Giấy đề nghị giải toả tài sản đảm bảo kèm tờ trình thanh lý đã được phê duyệt, 01 bản sao Hợp đồng bảo đảm tiền vay và đăng ký giao dịch bảo đảm chuyển Phòng thẩm định tài sản để làm thủ tục giải chấp.
Nhân viên A/O đóng lại từng tập Hồ sơ tín dụng, lập danh mục từng loại hồ sơ, chuyển Trưởng phòng ký xác nhận nhằm tránh thất lạc hồ sơ bên trong, bảo đảm tính pháp lý đầy đủ tại thời điểm giải ngân.
2.2.4. Thực trạng hoạt động cho vay trả góp tại VPBank
Cho vay trả góp là hoạt động chiếm tỉ trọng lớn trong VPBank, khách hàng chủ yều là các cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chủ yếu là cho vay ngắn và trung hạn. Các hoạt động cho vay trả góp gồm cho vay trả góp mua nhà, sửa nhà, cho vay mua ôtô trả góp, cho vay du học, cho vay tiêu dùng khác.
Như vậy, cùng với sự tăng trưởng trong hoạt động tín dụng, hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng cũng phát triển rất mạnh. Doanh số cho vay và doanh số thu nợ trả góp tăng liên tục qua các năm. Tốc độ tăng doanh số cho vay rất nhanh, năm 2007 tăng 136% so với năm 2006, một con số rất ấn tượng trong lịch sử ngành ngân hàng và bên cạnh đó dư nợ trong hoạt động cho vay trả góp cũng rất cao.
Hoạt động cho vay trả góp tại VPBank chủ yếu là hoạt động cho vay mua nhà và mua ô tô trả góp. Ta có thể thấy rõ hơn cơ cấu của hoạt động này qua bảng số liệu sau:
Bảng 4: Cơ cấu hoạt động cho vay trả góp tại VPBank năm 2007
(Đơn vị: Triệu đồng)
Chỉ tiêu
Nhà
Ô tô
Khác
Số lượng
Tỷ trọng
Số lượng
Tỷ trọng
Số lượng
Tỷ trọng
Doanh số cho vay
5.454.795
50%
4.699.012
43%
845.144
7%
Doanh số thu nợ
1.330.921
32%
2.597.014
63%
200.106
5%
Dư nợ
4.123.874
60%
2.101.998
31%
645.038
9%
Nợ quá hạn
30.182
56,16%
19.175
35,68%
4.407
8,2%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động của VPBank)
Hoạt động cho vay trả góp nhằm mục đích mua ô tô đối với các cá nhân và doanh nghiệp cũng tăng nhanh trong thời gian gần đây. Nguyên nhân là do nền kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng khá cao (tốc độ tăng GDP bình quân đạt khoảng 8%) trong 2-3 năm trở lại đây, chính trị ổn định, thu nhập của người dân cũng tăng lên, đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt. Nhiều người có thu nhập cao hơn, và nhu cầu sử dụng ôtô làm phương tiện đi lại đã trở nên phổ biến. Điều này khiến cho doanh số cho vay mua ô tô trong năm 2007 tăng lên gấp hơn 2 lần so với năm 2006. Ngoài ra, lý do mà ngân hàng rất quan tâm tới thị trường này đó là đối tượng khách hàng vay mua ôtô thường là những người có thu nhập cao và ổn định, những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có lãi. Do vậy, ngân hàng có thể yên tâm hơn về vấn đề rủi ro trong thu hồi nợ.
Ngoài hai hoạt động chính này, ngân hàng còn cho vay trả góp nhằm hỗ trợ tài chính cho du học sinh và một số nhu cầu tiêu dùng khác. Tuy nhiên, những hoạt động này không mang lại nhiều hiệu quả cho ngân hàng, nó chỉ chiếm tỷ trọng dưới 10% trong tổng số dư nợ. Riêng sản phẩm cho vay hỗ trợ du học, do còn là một lĩnh vực khá mới mẻ không chỉ đối với VPBank mà còn đối với nhiều ngân hàng khác nữa. Do vậy, ngân hàng cần phải đầu tư nhiều hơn cho những sản phẩm dịch vụ mới này, bởi đây là một thị trường còn rất rộng và nhiều tiềm năng, đặc biệt là trong thời gian này khi mà nhu cầu đi du học đang tăng cao trong giới học sinh – sinh viên.
2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP TẠI VPBANK
2.3.1. Những kết quả đạt được
Hoạt động cho vay trả góp của VPBank trong những năm gần đây đã đạt được những kết quả rất khả quan, là mảng lợi nhuận lớn góp phần quan trọng trong việc thực hiện định hướng của ngân hàng là xây dựng ngân hàng trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu. Để hiểu rõ thêm về hoạt động này, ta có thể xem xét tỷ trọng của nó so với các hoạt động tín dụng khác qua bảng số liệu sau:
Bảng 5: Tỷ trọng hoạt động cho vay trả góp trong hoạt động tín dụng tại VPBank
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Doanh số CVTG
2.407
61,52%
5.641
70,41%
15.245
79,4%
Doanh số cho vay
3.913
100%
8.012
100%
19.201
100%
Dư nợ CVTG
2.083
69,1%
4.101
54,64%
14.216
82,39%
Tổng dư nợ
3.014
100%
7.506
100%
17.254
100%
(Nguồn: Báo cáo thường niên của VPBank các năm)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, hoạt động cho vay trả góp của VPBank tăng trưởng mạnh trong những năm gấn đây. Năm 2006 doanh số cho vay đạt 5.641 tỷ đồng, tăng 134% so với năm 2005, chiếm 70,41% trong tổng doanh số cho vay của ngân hàng. Đến năm 2007 con số này là 15.245 tỷ đồng, tăng gần gấp 2,7 lần so với năm 2006, một con số ấn tượng có sự tăng trưởng vượt bậc về doanh số. Năm 2007 là năm đánh dấu sự phát triển vượt bậc của ngân hang. Và số tiền giải ngân của hoạt động trả góp trong tổng số tiền giải ngân của hoạt động tín dụng cũng tăng chiếm 79,4%.
Với sự tăng trưởng tương đối mạnh, hoạt động cho vay trả góp đã góp phần không nhỏ trong việc đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho ngân hàng.
Bảng 6: Kết quả hoạt động kinh doanh của VPBank (tỷ đồng)
Kết quả kinh doanh (Trong năm)
2007
2006
2005
Tổng thu nhập hoạt động
1.327
995
470
Tổng chi phí hoạt động
(1.014)
(838)
(394)
Lợi nhuận trước thuế
313
157
76
Năm 2005, ngân hang đạt lợi nhuận trước thuế là 76 tỷ đồng, tổng thu nhập từ hoạt động đạt 470 tỷ, sang đến năm 2006 đã có sự tăng vượt bậc cùng trên 2 chỉ tiêu, với mức tăng gấp đôi lợi nhuận trước thuế đã đạt tới 157 tỷ đồng và thu nhập từ hoạt động cũng lên tới 995 tỷ. Sang năm 2007 Lợi nhuận trước thuế vẫn giữ được mức tăng 100% song thu nhập từ hoạt động chỉ tăng hơn 33%, điều này cho thấy, ngân hàng đã chú trọng phát triển thêm các mạng dịch vụ khác thông qua việc mở ra 2 công ty là công ty chứng khoán vả công ty quản lý tài sản. Thu nhập từ công ty chứng khoán là 38,9 tỷ đồng và công ty quản lý tài sản AMC là 2 tỷ đồng, tạo them nguồn thu nhập cho VPBank.
Trong năm 2007 VPBank phát sinh rất nhiều khoản chi phí lớn nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho việc phát triển lâu dài như: duy trì hoạt đông của Ban dự án Corebanking T24; duy trì hoạt động cảu Trung tâm Thẻ; đầu tư vào hệ thống ATM, phát triển mạng lưới chi nhánh,… Nếu không có các khoản đầu tư đó, lợi nhuận năm 2007 có thể đạt mức cao hơn. Tuy nhiên việc đầu tư vào các yếu tố hạ tầng công nghệ và mạng lưới là rất cần thiết, bảo đảm duy trì một vị thế cạnh tranh tốt cho VPBank trong tương lai. Các tỷ lệ an toàn vốn được VPBank duy trì theo đúng quy định của Ngân hàngNhànước: + Tỷ lệ an toàn vốn là 21% (mức qui định của NHNN tối thiểu là 8%). + Tỷ lệ về khả năng chi trả là 126% (mức qui định tối thiểu là 25%); + Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn là 18,7% (mức tối đa được phép là 40%).
2.3.2. Những thuận lợi
VPBank đã thoát khỏi sự kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước
Từ năm 2004, VPBank thoát khỏi sự kiểm soát đặc biệt của ngân hàng nhà nước, một trang sử mới mở ra với VPBank. Đã chứng tỏ cho khách hàng thấy được sức mạnh vượt qua khó khăn, thử thách lớn nhất tạo cơ sở niềm tin vững chắc cho khách hàng.
Đường lối và chủ trương đúng đắn của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc
Trong xu thế hội nhập tạo nền kinh tế thị trường mở của cùng với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Ban lãnh đạo VPBank đã đặt mục tiêu “Xây dựng VPBank thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu khu vực phía Bắc và trong cả nước”. Phấn đấu đến năm 2010: Trở thành ngân hàng hàng đầu khu vực phía Bắc, Ngân hàng trong top 5 của cả nước, một ngân hàng có tầm cỡ của khu vực Đông Nam Á về chất lượng, hiệu quả, độ tin cậy.
Từ đó, ngân hàng đã tập trung vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng với tầng lớp trung lưu trong xã hội. Việc xây dựng mục tiêu chiến lược nói trên là một quyết định táo bạo và đúng đắn của Hội đồng Quản Trị đã giúp VPBank đứng vững trên thị trường tài chính đầy thách thức và biến động trong thời gian vừa qua.
Bên cạnh đó, việc tách biệt giữa phòng tín dụng cá nhân, phòng tín dụng doanh nghiệp và phòng thẩm định tài sản đảm bảo cũng là một quyết định hoàn toàn đúng đắn, đã tạo ra sự chuyên môn hoá trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đồng thời, hiệu quả của hoạt động thẩm định khách hàng cũng như thẩm định tài sản được nâng cao bởi những cán bộ thẩm định chuyên nghiệp.
Thủ tục cho vay nhanh gọn, quy trình cho vay chặt chẽ
Sau khi thoát khỏi sự kiểm soát đặc biệt của ngân hàng nhà nước, Hội đồng quản trị đã thống nhất đưa ra một Quy trình nghiệp vụ tín dụng chặt chẽ, chuyên nghiệp, phân định rõ trách nhiệm của các cá nhân, phòng ban trong việc cấp hạn mức tín dụng. Giảm thiểu thời gian, đẩy nhanh quá trình giải ngân cho khách hàng.
Bên cạnh việc đưa ra được được quy trình thống nhất trong toàn hệ thống, VPBank cũng đã đưa ra thang điểm xếp hạng khách hàng đem lại sự an toàn giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Có hai loại mẫu phiếu xếp hạng khách hàng, mẫu cho khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp. Trong mẫu xếp hạng khách hàng cá nhân thể hiện rõ những thông tin về tư cách pháp lý, quan hệ gia đình xã hội, trình độ học vấn, quá trình công tác, các thông tin về tình hình tài chính( thu nhập, chi tiêu, lợi nhuận…), thông tin vế sử dụng vốn và kế hoạch trả nợ, tài sản đảm bảo. Sau khi thu thập đầy đủ thông tin cán bộ tín dụng tiến hành xếp hạng khách hàng, tùy vào thang điểm mà quyết định có cấp tín dụng hay không. Và cũng như mẫu xếp hạng khách hàng doanh nghiệp, cán bộ tín dụng có thể nhanh chóng đưa ra được quyết định chính xác mà vẫn đảm bảo độ an toàn cho ngân hàng.
Cùng với kết quả xếp hạng rủi ro thì VPBank còn căn cứ vào tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo cũng được xếp hạng căn cứ vào tính chất của tài sản và tỷ trọng vay của khách hàng trên giá trị tài sản do phòng thẩm định đánh giá. Kết quả xếp hạng rủi ro cùng xếp hạng tài sản bảo đảm là hai tiêu chí quan trọng kết hợp với nhau để quyết định liệu có cho một khách hàng vay hay không.
Với các chỉ tiêu đánh giá như trên, ngân hàng hoàn toàn có thể xác định chính xác về khách hàng ở các mặt tư cách, tài chính và tài sản đảm bảo. Chính quy trình cho vay mang tính chặt chẽ và khoa học như trên đã phần nào giúp cho VPBank không chịu tỷ lệ nợ quá hạn phát sinh đáng kể trong những năm vừa qua.
Công nghệ ngân hàng được đổi mới
Sau khi từ bỏ hệ thống phần mềm B2K Advance, VPBank đã tìm cho mình được một hệ thống phần mềm lõi Corebanking Temenos, được cung cấp từ Thụy Sỹ cực kỳ hiện đại. Đây là một hệ thống hiện đại, linh hoạt và tích hợp, có khả năng đáp ứng ngân hàng ở cấp độ mạng lưới, đáp ứng các nhu cầu trực tuyến và xử lý tức thì.
Kể từ ngày triển khai dự án, 16/5/2006, sau hơn một năm triển khai, ngày 1/10/2007, VPBank đã chính thức áp dụng T24 trên toàn hệ thống. Thời gian đầu, VPBank tiến hành chạy song song hai hệ thống cũ vốn đang hoạt động và hệ thống mới T24. Sau một tháng kiểm tra đối chiếu, ngay 3/11/2007, VPBank đã chính thức ngừng toàn bộ hệt hống cũ và ngày 5/11/2007, T24 trở thành hệ thống mới, duy nhất của ngân hàng phục vụ khách hàng. Nếu như trước khi áp dụng T24, VPBank chỉ có 30 chi nhánh phục vụ thì sau thời điểm triển khai hệ thống Corebanking mới, họ đã nâng lên tới 103 chi nhánh với hơn 2.000 cán bộ công nhân viên phục vụ 150.000 khách hàng, 500.000 tài khoản và hợp đồng, thực hiện 30.000 giao dịch/ngày.
Đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ, nhiệt tình và nhạy bén
Với một đội ngũ cán bộ trẻ trung, giàu nhiệt huyết, nhạy bén với những biến động. Đã đưa VPBank thành một thương hiệu lớn trong cả nước cũng như trên trường quốc tế cùng với những con số lợi nhuận ấn tượng. Trong toàn hệ thống, đội ngũ này chính là tiềm lực lớn để thúc đẩy VPBank tiến xa hơn. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn luôn mở ra các lớp đào tạo nâng cao tay nghề đội ngũ cán bộ. Trong năm 2007, tính trên phạm vi toàn hệ thống, phòng Nhân sự & Đào tạo đã tổ chức được 54 khóa đào tạo, với 2.108 lượt học viên và tổng chi phí đào tạo là 808.630.000 đồng. Trong đó, chủ yếu là đào tạo nhân viên tân tuyển do nhu cầu mở rộng mạng lưới và phát triển điểm giao dịch trong năm qua.
Công tác tiếp thị, xây dựng thương hiệu được chú trọng
Trong năm 2007, VPBank đã thực hiện việc thay đổi đồng bộ hệ thống nhận diện thương hiệu (biển hiệu, nội thất..) tại tất cả các điểm giao dịch trong hệ thống. Có thể nói đến nay hệ thống nhận diện mới đã phát huy hiệu quả rất lớn trong công tác xây dựng hình ảnh ngân hàng chuyên nghiệp cho VPBank.
Năm 2007 VPBank đã thực hiện tài trợ cho một số chương trình truyền hình lớn chuyên về lĩnh vực tài chính ngân hàng: chương trình “Doanh nghiệp 24H” trên VTC, chương trình game show “Nhà đầu tư tài ba” của Đài truyền hình Việt Nam và một số chương trình thời sự quốc tế,... Thương hiệu VPBank đến nay đã trở thành một trong những thương hiệu mạnh trong nước, góp phần quan trọng vào việc phát triển khách hàng, mở rộng thị phần và nâng cao hiệu quả hoạt động của VPBank.
Cơ hội khi Viêt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO
Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã tạo ra nhiều thuận lợi như ngân hàng có thể tiếp cận nhanh chóng với những công nghệ cũng như phương thức quản lý hiện đại của ngành ngân hàng trên thế giới. Đồng thời, việc mở cửa sẽ thu hút lượng lớn đầu tư nước ngoài vào, điều đó dẫn tới tăng nguồn thu cho ngân hàng nếu ngân hàng có những chiến lược sẵn sàng đối đầu với cạnh tranh.
2.3.3. Những hạn chế
Bên cạnh những thuận lợi đó không thể không nói tới những tồn tại làm cản trở quá trình cạnh tranh và phát triển của VPBank trong thời gian tới. Cụ thể là:
Cơ cấu sản phẩm còn chưa đa dạng
Ngân hàng còn chưa chú trọng phát triển sản phẩm mới, chưa có nhiều sản phẩm độc đáo, mang ấn tượng VPBank.
Sản phẩm tín dụng trả góp chưa thể hiện được bản sắc riêng của ngân hàng. Sản phẩm còn chung chung như cho vay trả góp mua ô tô, cho vay trả góp mua nhà… khiến khách hàng không ấn tượng với sản phẩm - điều mà các ngân hàng làm được do có sự khác biệt hoá rất tốt. Hiện tại ngân hàng còn bỏ qua một thị trường có tiềm năng rất lớn đó là thực hiện cho vay trả góp gián tiếp thông qua các đại lý cung cấp sản phẩm hàng hoá – một dạng của thuê mua hiện đại. Chính vì vậy mà số khách hàng đến giao dịch sử dụng dịch vụ này của VPBank còn hạn chế.
Quy mô cho vay còn khá khiêm tốn
Mặc dù những con số ở trên đã nói lên tốc độ tăng trưởng về hoạt động cho vay, song nguồn vốn cho vay ra lại còn rất thấp, điều này chưa tương xứng với tiềm năng của ngân hàng. Một phần do dịch vụ ngân hàng còn nghèo nàn, không tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng vẫn chưa có chiến lược lien kết với các đối tác nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như nâng cao doanh số cho nhà cung cấp và cho chính bản thân ngân hàng.
Thị phần chưa mở rộng
Hoạt động cho vay trả góp của VPBank còn khá bó hẹp, chủ yếu là các khách hàng truyền thống đã có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Chiến lược khách hàng còn rất hạn chế, hiện nay VPBank chủ yếu tiếp cận khách hàng một cách thụ động. Thực tế, các nhân viên ngân hàng chưa nhận thức được vai trò của mình trong chiến lược khách hàng nên không chủ động tìm kiếm khách hàng mới cho ngân hàng. Việc thực hiện các biện pháp marketing thu hút thêm khách hàng mới, thực tế chủ yếu được thực hiện tại các chi nhánh và phòng giao dịch nhỏ nên khối lượng khách hàng tăng chậm.
2.3.4. Nguyên nhân hạn chế
2.3.4.1. Nguyên nhân khách quan
Môi trường kinh tế xã hội chưa thực sự ổn định
Trong những năm qua, mặc dù kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ rất cao (mức tăng trưởng GDP đạt 7-8%) song còn ẩn chứa nhiều bất ổn. Tuy rằng Nhà nước đã có sự quản lý hết sức chặt chẽ nhưng môi trường kinh tế vĩ mô vẫn còn nhiều biến động, do những diễn biến bất thường của giá vàng và giá dầu trên thị trường thế giới.
Năm 2007, Việt Nam vẫn tiếp tục phải đương đầu với những khó khăn và thách thức lớn. Giá cả biến động mạnh với mức tăng tới 12.63% so với năm 2006, thiên tai dịch bệnh (cúm gà, tiêu chảy cấp, lở núi…) vẫn tiếp tục hoành hành. Chỉ số giá tiêu dùng tăng mạnh như vậy kèm theo giá của một số hàng hoá thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện nước có mức tăng rất cao khiến cho mức lương của dân cư dù có tăng nhưng cũng không bù đắp nổi mức độ tăng giá, từ đó mà thu nhập của dân cư không được cải thiện nhiều, lòng tin vào tương lai bị giảm sút làm cho mức cầu không tăng. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến việc cung ứng dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay trả góp, một sản phẩm dịch vụ chịu ảnh hưởng rất lớn từ tiền lương của các cá nhân cũng như thu nhập ổn định của các tổ chức.
Môi trường pháp lý ở nước ta còn chưa thực sự hoàn thiện
Cho vay trả góp là một hoạt động dịch vụ còn khá mới mẻ và khó tách bạch cụ thể về nhu cầu vay, do vậy điều kiện pháp lý quy định cho hoạt động này còn chung chung, chưa cụ thể rõ ràng. Hiện tại các ngân hàng mới chỉ dựa vào các luật, quyết định, hướng dẫn chung, rồi tự ban hành các quy chế cho vay của riêng mình. Do đó, chưa có sự thống nhất giữa các quy chế cho vay trả góp của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, các văn bản luật ban hành hưóng dẫn nghiệp vụ các ngân hàng thương mại còn chồng chéo, phủ định lẫn nhau khiến cho các ngân hàng còn khá lúng túng, hạn chế sự chủ động trong kinh doanh.
Khách hàng của ngân hàng
Thu nhập của đa số các tầng lớp dân cư đã được tăng lên rõ rệt trong những năm gần đây, tuy nhiên, do yếu tố tâm lý và thói quen mua sắm tiết kiệm đã ảnh hưởng khá nhiều đến việc phát triển các hoạt động dịch vụ của ngân hàng. Nhìn chung người dân Việt Nam thường ngại mang tiếng đi vay, nhất là vay nợ ngân hàng, điều này đã gây hạn chế các hoạt động cho vay trả góp phát triển. Mức chênh lệch, phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, miền, giữa nông thôn và thành thị khá sâu sắc cũng khiến cho việc mở rộng thị trường của ngân hàng về các thị trường nông thôn gặp khó khăn.
Đối thủ cạnh tranh của ngân hàng
Hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tài chính đã khiến cho thị phần của các ngân hàng ngày càng bị thu hẹp. Không chỉ kể đến các ngân hàng trong nước, nay trước xu thế hội nhập và đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới, việc mở của là không thể tránh. Các ngân hàng nước ngoài sẽ tham gia vào hệ thống cùng với nguồn vốn mạnh, công nghệ hiện đại cùng với trình độ quản lý hiệu quả. Hiện nay, hoạt động cho vay trả góp đã được rất nhiều các ngân hàng cung ứng như ngân hàng Quân đội, ACB, Đông Nam Á… Các ngân hàng quốc doanh cũng đang tích cực thâm nhập vào thị trường này với sản phẩm cho vay trả góp tín chấp đối với cán bộ công nhân viên chức. Tới thời điểm này đã có 2 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài và 3 ngân hàng liên doanh cùng các tổ chức tài chính và tín dụng khác. Tiến tới, năm 2010 là mốc thời điểm mà Việt Nam phải mở của hoàn toàn. Đây quả thực là khó khăn và thách thức rất lớn cho toàn ngành ngân hàng cũng như với VPBank.
2.3.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Quy mô vốn và hoạt động còn nhỏ bé
Nguồn vốn của VPBank còn quá thấp đến thời điểm này chỉ có 2000 tỷ đồng, đối với các ngân hàng trong nước đã còn là nhỏ(VPBank hiện đang đứng thứ 7 trong hệ thống ngân hàng thương mại trong nước về vốn điều lệ ) còn chưa so sánh với các ngân hàng nước ngoài với quy mô gấp hàng chục hàng trăm lần. Mặc dù ngân hàng đã bán 10% vốn cổ phần cho một đối tác chiến lược nước ngoài là ngân hàng OCBC của Singapo song theo quy định từ phía ngân hàng nhà nước, quy định các ngân hàng thương mại sẽ bị quy định tối đa lượng tiền cho vay trên vốn tự có nhằm đảm bảo an toàn hệ thống
Mạng lưới hoạt động còn quá ít
Mặc dù trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008, VPBank đã mở liên tiếp các chi nhánh và phòng giao dịch, song so với các ngân hàng khác là còn thấp. Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn thương tín tới thời điểm này đã có trên 210 điểm giao dịch vượt xa so với VPBank là 133. Việc mở rộng mạng lưới mới chỉ thực hiện ở những thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mà chưa được chú trọng mở tại các tỉnh thành phố giàu tiềm năng hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao. Đây là một trong những hạn chế cần phải khắc phục nhanh.
Về nguồn nhân lực
Do phần lớn nhân viên VPBank có tuổi đời trẻ nên dẫn đến một số hạn chế như thiếu kinh nghiệm công tác, đôi lúc chưa biết cách cư xử mềm mỏng, linh hoạt với những khách hàng khó tính, dễ mất bình tĩnh… Nhân lực chưa chuyên nghiệp, còn mang nặng thói quen truyền thống. Cán bộ ngân hàng thường xác định rằng họ hoàn thành nhiệm vụ khi đã "đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng và làm khách hàng hài lòng". Việc đánh giá phân loại khách hàng cũng chủ yếu nhằm mục đích đánh giá rủi ro và chất lượng dịch vụ, chứ chưa quan tâm đến việc xác định rõ đâu là khách hàng tiềm năng để có thể đầu tư, hoặc tư vấn các dịch vụ đầu tư khác ngoài nhu cầu của họ. Nhân viên các quầy giao dịch cũng chưa được quan tâm và đầu tư nhiều. Họ là bộ mặt của ngân hàng, chính vì vậy cần phải được uốn nắn và kiểm soát nghiêm ngặt, thường xuyên cả về kỹ năng giao tiếp và phong cách phục vụ.
Chưa có một bộ phận chuyên trách về Marketing
Mặc dù trong thời gian qua, công tác quảng cáo, xây dựng thương hiệu và tiếp thị sản phẩm tới từng khách hàng đã được ngân hàng chú trọng. Tuy nhiên, việc đảm nhiệm các công việc này vẫn chưa có sự phân công rõ ràng, bộ phận nào đảm nhiệm công tác marketing của bộ phận ấy. Dẫn tới các cán bộ tín dụng ôm đồm nhiều loại hình công việc, không tập trung, chuyên sâu vào lĩnh vực chuyên môn nhất định, hiệu quả công việc marketing không cao. Chính vì vậy, khách hàng sử dụng dịch vụ cho vay trả góp của ngân hàng chủ yếu là các khách hàng truyền thống hoặc được khách hàng cũ giới thiệu đến, chứ các hoạt động quảng cáo, tiếp thị chưa phát huy được hiệu quả.
Chính sách khách hàng chưa đúng đắn
Chính sách khách hàng còn chưa nhất quán trên toàn bộ hệ thống. Do vậy, việc phân đoạn quản lý khách hàng và phát triển các sản phẩm bán lẻ cũng như các sản phẩm cho vay trả góp còn phân tán và đa dạng. ở VPBank hiện nay, nhất là các chi nhánh cấp II, phòng tín dụng vẫn chưa được chia ra phục vụ các đối tượng khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp riêng biệt. Điều này sẽ gây trở ngại cho chính chi nhánh đó trong việc tiếp thị khách hàng vì một nhân viên không thể đồng thời phụ trách 2 đối tượng khách hàng với hiệu quả cao nhất.
Như vậy, trong những năm vừa qua, VPBank đã có những thành tích xuất sắc có thị phần khách hàng riêng biệt, đó là các cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mang lợi nguồn thu lớn cho ngân hàng. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đã giành được, VPBank còn rất nhiều hạn chế. Trước sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trong hệ thống và tiến tới là khó khăn và thách thức khi hàng loạt các tổ chức tín dụng trên thế giới thâm nhập. VPBank cần có những giải pháp thích hợp khắc phục hạn chế đủ tiềm lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính đảm bảo thực hiện muc tiêu là ngân hàng hàng đầu trong khu vực.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP TẠI NGÂN HÀNG NGOÀI QUỐC DOANH
VIỆT NAM (VPBANK)
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VPBANK TRONG THỜI GIAN TỚI
VPBank tiếp tục duy trì chiến lược ngân hàng bán lẻ, tập trung vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ gia đình và các cá nhân. Để xây dựng VPBank trở thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu ở khu vực phía Bắc và tiến tới là ngân hàng thuộc nhóm dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng TMCP trong cả nước theo định hướng chiến lược của HĐQT, trong năm 2008 VPBank sẽ tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau: - Đẩy mạnh phát triển Thẻ cũng như hệ thống ATM trên toàn quốc, phấn đấu đến hết năm 2008 VPBank vươn lên thuộc top 5 ngân hàng có dịch vụ thẻ phát triển nhất tại Việt Nam; Tập trung vào sản phẩm bán lẻ, cho vay tiêu dùng, các sản phẩm phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Triển khai tổ chức hoạt động ngân hàng theo sơ đồ khối đã được HĐQT phê duyệt trong năm 2007 (mô hình kinh doanh của ngân hàng hiện đại). - Khai thác các tính năng của phần mềm mới (T24) để phát triển các sản phẩm dịch vụ hiện đại như SMS Banking và MMS banking cùng một số dịch vụ khác.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các chi nhánh, phòng giao dịch để đảm bảo hoạt động an toàn -Hoàn thành việc bán thêm 5% cổ phần cho ngân hàng OCBC trong quý I/2008. Tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ OCBC để nâng cao năng lực cạnh tranh của VPBank. Đẩy mạnh việc hợp tác đào tạo tại Việt Nam và tại Singapor cho đội ngũ CBNV để tạo nguồn cán bộ lâu dài cho VPBank. - Xây dựng hình ảnh của VPBank gần gũi, thân thiện với công chúng, kháchhàngtrêntoànquốc. - Đưa cổ phiếu VPBank lên niêm yết và giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (hoặc Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh) vào thời điểm thích hợp trong quý I hoặc đầu quý II/2008/
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP
Qua những con số cũng như những phân tích cụ thể trên đây. Mặc dù hoạt động cho vay trả góp trong những năm vừa qua tăng trưởng nhanh, song VPBank vẫn có nhiều hạn chế , áp lực cạnh tranh là rất lớn. Vì vậy, xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất để phát triển dịch vụ cho vay trả góp của ngân hàng:
Mở rộng nguồn vốn
Đối với bất kỳ ngân hàng hay tổ chức tín dụng nào khác, nguồn vốn là khoản không thể thiếu, là cơ sở để ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận. Huy động được vốn có lớn thì mới có nguồn cho vay, công việc đầu tiên trước khi cho vay của bất cứ ngân hàng nào đó là huy động vốn. Đó có thể là huy động vốn từ dân cư, tổ chức( thị trường I), huy động từ thị trường liên ngân hàng ( thị trường II). Hiên tại, với mạng lưới rộng phân bố các tỉnh thành, các ngân hàng như ACB, Sacombank… là những đối thủ cạnh tranh chính của VPBank.
Trước hết, để tăng nguồn vốn ngân hàng cần phải tăng vốn điều lệ. Bởi trước hết, đây là lá chắn giúp ngân hàng chống đỡ lại những rủi ro có thể gặp phải trong hoạt động cho vay. Bên cạnh đó, nguồn vốn tự có còn quyết định quy mô cho vay tối đa của ngân hàng. Hơn nữa, nguồn vốn tự có này còn khẳng định uy tín của ngân hàng trên thị trường và đối với khách hàng. Trong thời gian vừa qua, mặc dù vốn điều lệ của VPBank đã được tăng lên khá nhiều, song quy mô vốn vẫn còn khá nhỏ bé.
Nếu ngân hàng có nguồn vốn chủ sở hữu lớn, nó sẽ có uy tín cao hơn trên thị trường liên ngân hàng, cũng như dễ dàng huy động vốn của dân chúng hơn do được người dân tin tưởng hơn bởi gửi tiền ở một ngân hàng lớn sẽ ít rủi ro hơn một ngân hàng nhỏ. Mặt khác, tăng vốn điều lệ còn giúp cho cổ phiếu của ngân hàng có thể giao dịch trên thị trường chứng khoán, đem lại một nguồn vốn rất lớn cho ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng có thể tăng thêm nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội bằng cách đa dạng hoá các hình thức huy động, ngoài tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, ngân hàng có thể huy động bằng các kỳ phiếu tiết kiệm tại nhà, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng và hạn chế được tâm lý e ngại của người gửi khi đến giao dịch với ngân hàng. Thực hiện các chính sách huy động vốn với lãi suất linh hoạt, hợp lý, có nhiều kỳ hạn hơn phù hợp với từng đối tượng khách hàng để khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn.
Xác định mục tiêu cụ thể và hợp lý
Cần xác định rõ đối tượng phục vụ và nhu cầu vay của khách hàng. Do nhu cầu vay trả góp trong sản xuất kinh doanh là không lớn, nên để mở rộng hoạt động cho vay trả góp cần hướng sản phẩm dịch vụ vào đối tượng là người tiêu dùng. Hiện nay, cuộc sống đang phát triển rất nhanh, người dân đã đạt được rất nhiều mục tiêu trong cuộc sống và đang trên đà vươn tới những mục tiêu mới. Nhu cầu vay trả góp để mua ô tô, xây dựng sửa chữa nhà hay phục vụ bất kỳ một mong muốn nào đó… đã không đơn thuần chỉ là nhu cầu thiết yếu của người dân mà nó còn có một giá trị vô hình trong việc nâng cao vị thế và giá trị của khách hàng trong xã hội. Các sản phẩm dịch vụ cho vay trả góp của ngân hàng còn giúp người dân biến ước mơ trở thành sự thật khi thu nhập của họ ngay lập tức không thể đáp ứng được nhu cầu.
Với tiềm năng rất lớn như vậy, thị trường này chính là những điều kiện hết sức thuận lợi để VPBank phát triển hoạt động tín dụng trả góp nói riêng và các sản phẩm ngân hàng bán lẻ nói chung. Ngân hàng cần nghiên cứu thật chi tiết và chính xác về nhu cầu của thị trường để có những định hướng phù hợp, điều chỉnh hợp lý về cơ cấu vốn dành cho hoạt động này.
Mở rộng thêm các sản phẩm dịch vụ cho vay trả góp
Trước hết là tiếp tục duy trì và phát triển các sản phẩm cho vay trả góp đã có, nâng cao chất lượng tín dụng cũng như tăng cường công tác tiếp thị đến khách hàng, cung cấp những gì mà khách hàng cần.
Không chỉ dừng lại ở hai sản phẩm chính là cho vay mua ô tô và cho vay mua nhà - xây dựng – sửa chữa nhà, ngân hàng cần mở rộng thêm các sản phẩm dịch vụ cho vay trả góp để đáp ứng một cách toàn diện nhất nhu cầu vay của khách hàng. Chẳng hạn như ngân hàng có thể áp dụng các sản phẩm mà hiện nay một số các ngân hàng khác đã triển khai. Cụ thể như: cho vay mua xe máy với thời hạn 24 tháng, cho vay 70% giá trị xe nhưng không quá 18 triệu, hay cho vay tổ chức đám cưới, cho vay mua sắm các tài sản có giá trị tương đối lớn với thu nhập của người dân, với đối tượng là các cá nhân có hộ khẩu ở nơi VPBank đóng trụ sở và phải có việc làm ổn định.
Một sản phẩm cho vay trả góp nữa mà VPBank cũng có thể áp dụng đó là cho vay tín chấp, không chỉ cho vay tín chấp đối với cán bộ nhân viên của VPBank, ngoài ra áp dụng cho vay tín chấp với những đối tượng có thu nhập cao, ổn định. Tùy từng trường hợp và đối tượng cụ thể mà đưa ra thời hạn và mức lãi suất thích hợp.
Ngoài ra, ngân hàng cũng nên chú ý tiếp tục phát triển hoạt động cho vay trả góp du học, bởi đây là thị trường có rất nhiều tiềm năng, việc du học đối với học sinh – sinh viên hiện nay đang trở thành nhu cầu khá phổ biến. Ngân hàng có thể áp dụng những chế độ ưu đãi nhất định đối với khách hàng có nhu cầu vay tiền VPBank nhằm mục đích chứng minh tài chính du học hoặc trả học phí cho con em, chẳng hạn như: lãi suất thấp hơn, thủ tục cho vay đơn giản hơn, quy chế cho vay được nới lỏng hơn. Bên cạnh đó, ngân hàng cần xem xét việc mở rộng đối tượng cho vay đến các vùng lân cận, chứ không chỉ giới hạn trong địa bàn nơi VPBank đóng trụ sở.
Đa dạng hoá các loại tài sản đảm bảo
Hiện nay, VPBank quy định các loại tài sản đảm bảo cho các khoản vay với phạm vi tương đối hẹp. Chủ yếu là bất động sản, ô tô, các chứng từ có giá theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Việc lựa chọn như vậy một phần đảm bảo tính an toàn cho ngân hàng, mặt khác cũng để cho ngân hàng dễ quản lý. Tuy nhiên, nó cũng gây ảnh hưởng khá lớn gây hạn chế cho ngân hàng trong việc mở rộng hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng. Ngân hàng có thể đa dạng hơn các loại tài sản đảm bảo cho các khoản vay như hàng hoá, máy móc thiết bị, các khoản phải thu, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thuộc sở hữu của khách hàng… Việc đa dạng hoá các loại tài sản đảm bảo như vậy sẽ giúp ngân hàng có nhiều cơ hội thu hút khách hàng hơn. Đi đôi với việc này, ngân hàng cũng phải không ngừng nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài sản đảm bảo, công tác quản lý trước trong và sau khi cho vay.
Mở rộng mạng lưới chi nhánh
Trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 vừa qua, VPBank đã mở thêm rất nhiều chi nhánh, nâng tổng số địa điểm giao dịch lên 133. Nhưng đây vẫn còn là một con số quá nhỏ bé so với các ngân hàng cổ phần bạn đang hoạt động trên thị trường. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng dịch vụ của các cá nhân tổ chức trên thị trường là rất lớn. Mục tiêu của ngân hàng là phát triển các dịch vụ bán lẻ, do vậy ngân hàng cung cấp các dịch vụ đến càng gần khách hàng càng tốt.
Hiện nay, mạng lưới các chi nhánh và phòng giao dịch của VPBank tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn của cả nước, nhiều nhất là ở Hà Nội, còn các tỉnh thành khác chưa có sự hiện diện của VPBank. Trong khi đó, hiện nay các tỉnh và các thành phố trực thuộc tỉnh đang có sự đầu tư và phát triển vượt bậc, nhu cầu của người dân đang ngày càng cao. Đây có thể coi là thị trường tiềm năng rất lớn với khá ít đối thủ cạnh tranh đối với ngân hàng để phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ theo như mục tiêu mà VPBank đã đặt ra.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng dịch vụ
Hầu hết các nhân viên ngân hàng hiện nay chỉ chú ý phục vụ đối tượng khách hàng hiện có mà quên đi các khách hàng tiềm năng, do đó không có thái độ chủ động tiếp thị ngân hàng mình với khách hàng mới, làm giảm ảnh hưởng hình ảnh của ngân hàng tới cộng đồng.
Việc đào tạo lại đội ngũ nhân viên, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, một mặt để nhân viên có thể làm chủ được những công nghệ hiện đại mà ngân hàng đang triển khai. Mặt khác, còn để nâng cao hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế, tạo dựng hình ảnh và niềm tin đối với công chúng. Đội ngũ nhân viên ngân hàng cần đảm bảo cả về số lượng lẫn trình độ, năng lực và phải được cử đi đào tạo thường xuyên về nghiệp vụ và chuyên môn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tín dụng để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngân hàng. Lực lượng nhân viên phải đồng đều và tương xứng với quy mô của ngân hàng
Chiến lược phát triển phù hợp trong tương lai gần
Với khả năng thực lực của VPBank như hiện nay, ngân hàng nên chọn phối hợp giữa hai chiến lược: chiến lược tạo sự khác biệt hóa và chiến lược tập trung để làm kim chỉ nam cho việc phát triển hoạt động cho vay trả góp cũng như phát triển các dịch vụ ngân hàng. Đây là một chiến lược hợp lý bởi trong ngành ngân hàng rất khó có thể lựa chọn chiến lược cạnh tranh về giá, đặc biệt trong một môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Ngân hàng bị ràng buộc phần lớn bởi lãi suất đầu vào trên thị trường, thêm vào đó, trước sức ép cạnh tranh ngày càng tăng, thị trường tài chính ngày càng khan vốn, thì việc giảm chi phí lãi suất cho ngân hàng là không thể. Do vậy, ngân hàng khó có thể phát triển bền vững được nếu chọn chiến lược cạnh tranh về giá.
Khi so sánh với các đối thủ trực tiếp của VPBank, về các mặt hoạt động khác VPBank không đứng ở vị trí đầu bảng để có ưu thế trong cạnh tranh hay để hấp dẫn khách hàng đến với ngân hàng. Tuy nhiên về mặt tín dụng, hoạt động cho vay trả góp và các dịch vụ chăm sóc khách hàng thì trong thời điểm hiện tại, các ngân hàng Việt Nam còn ở mức độ kém như nhau. Vì thế, VPBank nên định hướng phát triển trọng tâm và những mảng này để tạo sự nổi bật cũng như sự chú ý của khách hàng giữa một rừng các ngân hàng như hiện nay. Tất nhiên, song song với việc tập trung vào mảng tín dụng và chăm sóc khách hàng, VPBank vẫn phải duy trì và phát triển các sản phẩm dịch vụ khác.
Ngân hàng có thể tập trung các nguồn lực vào hoạt động cho vay trả góp như: đa dạng hoá sản phẩm, giản tiện quy trình cho vay, cơ chế lãi suất, các hoạt động khuyếch trương cho riêng sản phẩm cho vay trả góp… Riêng đối với khâu chăm sóc khách hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam còn chưa chú ý nhiều, VPBank có thể duy trì và phát triển các mối quan hệ trung thành của khách hàng tạo cơ hội cho VPBank bán chéo các sản phẩm, tạo điều kiện cho ngân hàng tăng mạnh được khả năng cạnh tranh trên thị trường tài chính để ổn định và phát triển bền vững.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng
Trên thực tế, không phải doanh nghiệp hay cá nhân nào cũng sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích nguồn vốn vay, đó là còn chưa kể đến thái độ không hợp tác, trì hoãn không muốn trả nợ ngân hàng. Còn có các trường hợp những kẻ giả danh, mạo nhận để vay vốn ngân hàng, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây tổn hại nghiêm trọng cho ngân hàng cả về kết quả hoạt động lẫn danh tiếng trên thị trường. Do vậy, việc xây dựng hệ thống thông tin hoàn chỉnh phục vụ cho hoạt động này là vô cùng cần thiết.
Ngân hàng cần xây dựng một trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro riêng biệt, với chức năng thu thập, lưu trữ, phân tích, tổng hợp thông tin, thường xuyên nắm bắt các thông tin về tình hình hoạt động của khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng, nhằm cung cấp một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác các thông tin làm cơ sở để lựa chọn khách hàng. Khi lựa chọn cần chú ý đến tư cách khách hàng, phải có tình hình tài chính lành mạnh, có nguồn thu nhập ổn định có thể trả nợ cho ngân hàng định kỳ. Việc lựa chọn khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó hạn chế rủi ro cho ngân hàng, đảm bảo vốn cho vay phải thu được đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Tăng cường công tác kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay
Đây là yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động tín dung nói chung cũng như hoạt động cho vay trả góp nói riêng của ngân hàng. Việc làm này sẽ giúp ngân hàng ngăn ngừa được các hành vi lừa đảo, sử dụng vốn vay sai mục đích, trái pháp luật… cũng là ngăn ngừa rủi ro hoạt động cho VPBank.
Đặc biệt là trong giai đoạn mở rộng cho vay, các cán bộ tín dụng sẽ rất dễ lơ là trong công tác kiểm soát sau cho vay, do khối lượng khách hàng tăng và phạm vi cho vay mở rộng mà quên kiểm tra và đôn đốc khách hàng trả nợ khi đến hạn. Điều này có thể khiến cho nợ quá hạn của ngân hàng tăng lên. Do vậy, không chỉ giám sát trước khi cho vay, trong khi cho vay, mà sau khi giải ngân tiền vay, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục kiểm tra khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay thông qua tình hình tài chính, tiêu thụ sản phẩm và đồng thời kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch trả nợ. Tránh tình trạng kẻ xấu lợi dụng sự lơ là của ngân hàng trong việc giám sát, sử dụng vốn vay trái phép gây tổn thất cho ngân hàng.
Tăng cường hoạt động marketing
Trước hết VPBank cần phải thành lập một bộ phận chuyên trách về marketing. Bởi có như vậy, ngân hàng mới có thể tập trung vào việc phân tích thị trường, đánh giá nguồn lực của ngân hàgn để từ đó có thể đưa ra những dự báo đồng thời xây dựng những chiến lược kinh doanh tổng hợp cho ngân hàng trong tương lai.
Như ta đã biết, marketing là một lĩnh vực vô cùng quan trọng không chỉ đối với các ngân hàng mà còn đối với tất cả các lĩnh vực hoạt động trong xã hội, đặc biệt là đối với các ngành dịch vụ. Trong thời gian qua, do sự hạn chế về quy mô và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH27.docx