Tài liệu Đề tài Tổng quan về bán phá giá hàng hoá: Chương 1 : Tổng quan về bán phá giá hàng hoá
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Giá trị thông thường
Khái niệm
Giá trị thông thường là giá bán có lãi của sản phẩm tương tự được bán với số lượng thích đáng trên thị trường nội địa tới người tiêu dùng độc lập.
1.1.1.2. Điều kiện để xác định giá trị thông thường của hàng hoá
Sản phẩm tương tự
Số lượng thích đáng
Có lãi
Các khách hàng độc lập.
Sản phẩm tương tự là các sản phẩm giống nhau, hoặc nếu nó không giống nhau hoàn toàn thì nó phải gần như giống nhau.
Số lượng thích đáng là số lượng ít nhất phải bằng 5% khối lượng xuất khẩu được bán trong tiến trình buôn bán thông thường ở trong nước xuất khẩu.
Tiến trình buôn bán thông thường cần đáp ứng hai điều kiện: bán có lãi và khách hàng độc lập.
Ví dụ: nhà xuất khẩu xuất khẩu 60 chiếc xe máy giá 2000 USD/chiếc, bán nội địa 10 chiếc với giá 2100USD/chiếc. Trong trường hợp này do khối lượng bán nội địa nhỏ hơn 5% nên không sử dụng được giá bán nội địa 2100USD/chiếc.
Có lãi là giá bán tr...
48 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1080 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tổng quan về bán phá giá hàng hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1 : Tổng quan về bán phá giá hàng hoá
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Giá trị thông thường
Khái niệm
Giá trị thông thường là giá bán có lãi của sản phẩm tương tự được bán với số lượng thích đáng trên thị trường nội địa tới người tiêu dùng độc lập.
1.1.1.2. Điều kiện để xác định giá trị thông thường của hàng hoá
Sản phẩm tương tự
Số lượng thích đáng
Có lãi
Các khách hàng độc lập.
Sản phẩm tương tự là các sản phẩm giống nhau, hoặc nếu nó không giống nhau hoàn toàn thì nó phải gần như giống nhau.
Số lượng thích đáng là số lượng ít nhất phải bằng 5% khối lượng xuất khẩu được bán trong tiến trình buôn bán thông thường ở trong nước xuất khẩu.
Tiến trình buôn bán thông thường cần đáp ứng hai điều kiện: bán có lãi và khách hàng độc lập.
Ví dụ: nhà xuất khẩu xuất khẩu 60 chiếc xe máy giá 2000 USD/chiếc, bán nội địa 10 chiếc với giá 2100USD/chiếc. Trong trường hợp này do khối lượng bán nội địa nhỏ hơn 5% nên không sử dụng được giá bán nội địa 2100USD/chiếc.
Có lãi là giá bán trung bình cao hơn chi phí đơn vị sản phẩm.
Các khách hàng độc lập: là khách hàng chiếm giữ lớn hơn hoặc bằng 5% vốn của nhà xuất khẩu hoặc nhà xuất khẩu chiếm lớn hơn hoặc bằng 5% vốn của cả khách hàng và nhà xuất khẩu.
1.1.1.3. Các biện pháp xác định giá trị thông thường
Giá trị thông thường là mức gía mà ở đó hàng hoá được bán cho người tiêu dùng ở trong nước xuất khẩu.
Trong trường hợp người xuất sản phẩm ra nước ngoài và không bán sản phẩm đó ở trong nước thì giá trị thông thường có thể được xác định bằng mức giá xuất khẩu tới nước thứ ba.
Nếu nước xuất khẩu không phải là nước sản xuất hàng hoá mà do nhập từ nước sản xuất về rồi xuất khẩu đi thì giá trị thông thường được xác định trong nước sản xuất hàng hoá đó.
Trường hợp nước xuất khẩu là một nước thực hiện kế hoạch hoá tập trung thì được phép chỉ định một nước thay thế.
1.1.2. Giá xuất khẩu:
1.1.2.1. Khái niệm:
Giá xuất khẩu là giá đã trả thực sự hoặc có khả năng trả giá xuất khẩu tới cộng đồng, tới một khách hàng độc lập. Trong các trường hợp:
Nếu không có giá đã trả hoặc có khả năng trả tức là không có giá xuất khẩu thì phải sử dụng giá kiến tạo.
Nếu không có giá xuất khẩu tới cộng đồng thì không phải chịu sự điều tra.
Nếu không có khách hàng độc lập thì phải sử dụng giá kiến tạo.
Ví dụ: người xuất khẩu bán hàng cho người nhập khẩu mà người nhập khẩu đó có quan hệ họ hàng với người xuất khẩu, mức giá bán 1 là 90USD (là giá xuất khẩu không tin cậy).
Các chi phí: 20% , lãi thông thường: 10%.
Người nhập khẩu bán hàng cho người mua không có quan hệ họ hàng ở mức giá bán hai là 100USD.
Như vậy giá bán 1 là giá không tin cậy.
giá bán 2 là giá tin cậy thứ nhất
giá xuất khẩu kiến tạo sẽ là: 100 – ((20%+10%)*100)= 70 USD.
70USD là giá xuất khẩu kiến tạo.
1.1.2.2. Các biện pháp xác định giá xuất khẩu:
Nếu sản phẩm nhập khẩu có gía đã được chi trả trong thực tế hoặc có khả năng chi trả ( như giá trong hoá đơn) thì đó là mức gía xuất khẩu.
Nếu sản phẩm nhập khẩu không có giá trị chi trả trong thực tế hoặc không có khả năng chi trả ( như gía trong hoá đơn) hoặc không thể xác định được giá của nó thì lấy giá của sản phẩm nhập khẩu đó khi bán lại lần đầu tiên cho người mua độc lập làm “giá xuất khẩu”.
Hàng hóa tương tự:
Hàng hóa tương tự là hàng hoá đồng dạng về tất cả các khía cạnh hoặc hoặc các đặc tính lắp ráp gần gũi với mặt hàng so sánh.
1.1.2.3. Giá trị kiến tạo: Là sự thay thế cho một mức giá nội địa
Giá trị kiến tạo được sử dụngkhi:
Không có việc bán hàng nội điạ hoặc việc bán hàng nội địa là nhỏ hơn 5% khối lượng hàng xuất khẩu.
Giá trị kiến tạo gồm ba bộ phận:
Chi phí sản xuất ( bao gồm “lao động trực tiếp + các nguyên vật liệu trực tiếp + chi phí quản lý hành chính sản xuất”)
Các chi phí quản lý và bán hàng nội địa.
Một giới hạn lãi ( trên các lần bán hàng nội địa)
Ví dụ: Chi phí vật liệu trực tiếp: 100 USD
Lao động trực tiếp : 20 USD
Chi phí quản lý hành
chính sản xuất: 10 USD
Chi phí sản xuất : 130USD
Chi phí quản lý và bán hàng: 40 USD
Tổng chi phí 170 USD
Lãi (15%) 30 USD
Giá trị kiến tạo 200 USD
Chú ý: Lãi là ở mức bình thường trên doanh số.
1.2. Khái niệm về bán phá giá hàng hoá
1.2.1. Khái niệm
Theo điều VI của Hiệp định chung về buôn bán và thuế quan (GATT) năm 1947 xác định:
Bán phá giá là hành động mang sản phẩm của một nước sang bán thành hàng hoá ở một nước khác, với mức giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó khi bán ở trong nước.
Một sản phẩm được coi là bán phá giá khi nó được đưa vào hoạt động thương mại tại nước nhập khẩu với giá xuất khẩu thấp hơn giá có thể so sánh được trong tiến trình buôn bán thông thường đối với sản phẩm tương tự khi đưa tới người tiêu dùng ở trong nước xuất khẩu.
Như vậy, trung tâm của khái niệm bán phá giá là có sự tách biệt về giá, khi giá xuất khẩu thấp hơn gía trị thông thường của hàng hóa đó ở trong nước xuất khẩu.
Bán phá giá hàng hoá không đồng nghĩa với hàng hoá bán rẻ. Một nước có thể xuất khẩu hàng hoá đó sang nước khác, bán với giá rẻ hơn hàng hoá cùng loại đang bán trên thị trường nước nhập khẩu, nếu giá bán không thấp hơn gía bán của hàng hoá đó trên thị trường nước xuất khẩu thì hành động đó không phải là bán phá giá.
Ví dụ về việc bán phá giá hàng hoá như sau:
Một người sản xuất TV lâu năm bán mặt hàng tivi PANASONIC với giá 300USD/chiếc, nếu người đó xuất khẩu TV cùng loại PANASONIC tới nước khác và bán với giá 230USD /chiếc thì người đó đã thực hiện hành động bán phá giá.
Từ điển Tiếng Việt- do Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam- Bộ giáo dục và đào tạo phát hành năm 1999 quy định: “ Bán phá giá là bán với giá thấp hơn giá chung của thị trường để nhằm cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường”.
Theo điều 4 của “Pháp lệnh giá” của nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa:
“Bán phá giá là hành vi bán hàng hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường , hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và lợi ích của Nhà nước.”
Với định nghĩa này, Phạm vi điều chỉnh của nó chỉ đặt ra đối với việc chống phá giá trong quan hệ thương mại tại thị trường nội địa nhưng xét về bản chất không có gì trái, mâu thuẫn so với những giải thích mang tính chuẩn mực của Từ điển, với những quy định của GATT, WTO. Nó đã vận dụng và điều chỉnh một cách tương đối hợp lý vấn để chống bán phá giá trong quan hệ thương mại quốc tế vào quan hệ thương mại nội địa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Khái niệm trên đã làm sáng tỏ ba nội dung cơ bản để tiến hành các giải pháp chống bán phá giá phải chú ý, đó là:
Thứ nhất: Xác định hành vi (Bán phá giá là hành vi bán hàng hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường…).
Thứ hai: Xác định mục tiêu của hành vi ( …để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật).
Thứ ba: Xác định hệ quả xảy ra của hành vi và việc thực hiện mục tiêu của hành vi ( Gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức , cá nhân sản xuất kinh doanh khác và lợi ích Nhà nước).
Một khái niệm với ba nội dung nêu trên có liên quan mật thiết với nhau và nó là quan hệ nhân quả; nếu cắt bỏ bất kỳ vế nào củakhái niệm trên thì khái niệm sẽ mãi mãi không thể là một khái niệm hoàn chỉnh.
1.2.2. Điều kiện bán phá giá hàng hoá
Theo điều 23- “Pháp lệnh giá” của Việt Nam ngày 8/5/2002
Các hành vi sau không bị coi là hành vi bán phá giá:
Hạ giá bán hàng tươi sống
Hạ giá bán hàng tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình thức, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Hạ giá bán hàng hoá theo mùa vụ
Hạ giá bán hàng hoá để khuyến mại theo quy định của pháp luật
Hạ giá bán hàng hoá trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản xuất, kinh doanh.
Điều kiện bán phá giá hàng hoá là phải lũng đoạn được mặt hàng đó ở thị trường trong nước để tránh nguồn hàng nhập khẩu trở lại.
Có thể nói bán phá giá hàng hoá là một trong những biểu hiện trực tiếp lớn nhất của sự can thiệp của Nhà nước trong lĩnh vực Ngoại thương, đồng thời là thủ đoạn quan trọng để mở rộng khả năng tiêu thụ hàng hoá trên thị trường ngoài nước. Đặc điểm của bán phá giá hiện nay là phần lớn do Nhà nước tiến hành và tổn thất do Ngân sách Nhà nước gánh chịu.
1.3. Mục tiêu của bán phá giá
Mục tiêu của bán phá giá hàng hoá là nhằm đánh bại đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và cuối cùng là đạt được lợi nhuận tối đa. Nhưng trong đó hai mục tiêu chủ yếu là mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu chính trị.
1.3.1. Mục tiêu chính trị
Bán phá giá là một trong những biểu hiện trực tiếp nhất của sự can thiệp của Nhà nước Đế quốc trong lĩnh vực ngoại thương. Ngoài mục tiêu chính là mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu chính trị và thao túng các nứơc khác cũng được coi là khá quan trọng trong hành động bán phá giá. Một số nước thực hiện bán phá gía để thao túng thị trường.
Đối với các hãng lớn ngoài việc thao túng thị trường còn có thể với mục đích khác như dành uy tín, hoặc để tăng sức ép với bạn hàng nhập khẩu về mặt nào đó.
Ví dụ: Mỹ đã sẵn sàng bỏ Ngân sách để mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá giá, điều này làm cho nhiều nước phải lao đao và phải chịu nhiều vòng phong toả của Mỹ. Chẳng hạn giá xuất khẩu gạo của Mỹ khoảng 400USD/tấn, thậm chí 800USD/tấn, họ cũng sẵn sàng bán ra thị trường thế giới với giá chỉ bằng 60%-70%, thậm chí 40% mức giá mua. Mức này thấp hơn nhiều so với gía thành của nông dân Mỹ sản xuất ra, do đó Mỹ phải trợ giá từ 700- 800 tr USD/năm để trợ giá xuất khẩu gạo, nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Tuy bị thâm hụt Ngân sách nhưng Mỹ đã thực hiện được mục tiêu chính trị của mình là thao túng giá gạo trên thế giới, để từ đó buộc các nước phải ràng buộc với mình trong những điều kiện nhất định.
1.3.2. Mục tiêu lợi nhuận
Thực tế quan sát ở Châu Âu đã chỉ ra rằng, khi mà các hãng cạnh tranh với nhau có mức chi phí bình quân xấp xỉ như nhau thì họ thường thoả thuận thủ tiêu cạnh tranh, giảm lượng bán và tăng giá bán. Khi tự do cạnh tranh, sau một khoảng thời gian không dài thị trường không cân bằng, lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm thoả thuận giảm sản lượng xuống tạo ra mức cân bằng mới của thị trường nhưng vẫn có lợi nhuận cao hơn cạnh tranh ngang.
Còn đối với các nước xuất khẩu, khi thực hiện hành động bán phá gía nhằm mục tiêu lợi nhuận, nước xuất khẩu phải hạn chế tối đa nhập khẩu, các doanh nghiệp trong nước thoả thuận với nhau về giá, nâng mức giá trong nước lên. Mặt khác, họ xuất khẩu với giá triệt tiêu đối thủ. Sau khi chiếm lĩnh thị trường nước nhập khẩu, họ sẽ tìm cách thao túng để thu lợi nhuận tối đa.
Nguyên nhân của việc tăng lợi nhuận khi bán phá giá:
Các doanh nghiệp trong nước đã thoả thuận với nhau để xác định mức sản lượng từng hãng và xác định mức giá chung trong nước. Khi đó họ sẽ thu được nhiều lãi trong việc nâng giá bán.
Tăng được số lượng hàng xuất khẩu do giá rẻ hơn tại nước nhập khẩu , tạo điều kiện cho các hãng này mở rộng sản xuất, tận dụng được hết công suất, máy móc thiết bị dẫn đến giảm chi phí, do đó mà bù lỗ cho việc bán phá giá ở nước ngoài.
Khi mọi đối thủ cạnh tranh đã bị đánh bại, họ sẽ lũng đoạn thị trưòng nước nhập khẩu về mặt hàng được đem bán phá giá và lợi nhuận sẽ lớn hơn gấp nhiều lần.
Một số ví dụ về việc bán phá giá mặt hàng tivi của Nhật tại thị trường Mỹ:
Từ những năm 1960, các công ty điện tử hàng đầu của Nhật Bản là HITACHI, SANYO, SHARP và TOSHIBA đã cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng ngày 10/09/1964, họ đã thoả thuận thống nhất nâng giá bán, quy định sản lượng của mỗi công ty.
Kết quả của việc thoả thuận nâng giá này là người Nhật phải trả giá 700USD cho 1 chiếc tivi màu trong khi ở Mỹ giá là 400USD/chiếc tivi cùng loại. Các công ty của Mỹ đã không chịu nổi sự cạnh tranh và đến năm 1989, sáu hãng lớn và nhiều hãng nhỏ của Mỹ bị phá sản, công nghiệp sản xuất bị suy yếu, ngược lại các hãng điện tử của Nhật đã thu được lợi nhuận lớn qua việc bán phá giá này.
1.4. Nguyên nhân của việc bán phá giá
Hành động bán phá giá xảy ra do nhiều nguyên nhân, có thể kể đến những nguyên nhân chính sau đây:
Do có các khoản tài trợ của Chính phủ hoặc cơ quan công cộng nước ngoài. Chính sách tài trợ nhằm đạt được hai mục đích chính sau đây:
+ Duy trì và tăng cường mức sản xuất xuất khẩu
+ Duy trì mức sử dụng nhất định với các yếu tố sản xuất như lao động và tiền vốn trong nền kinh tế. Các khoản tài trợ có thể được cấp cho người sản xuất cũng như cho người tiêu dùng, nhưng về mặt tác động kinh tế thì chúng đều như nhau và đều đưa đến những hệ quả kinh tế tương tự.
Các hình thức tài trợ chủ yếu là: trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng ưu đãi, sự tham gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như các hỗ trợ xuất khẩu.
Các khoản tài trợ giúp các ngành thực hiện công nghệ mới, trang bị máy và thiết bị hiện đại, nghĩa là giúp cho các ngành mới gia nhập thị trường và đẩy mạnh phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, tăng cường xuất khẩu. Do đó mà chi phí sản xuất giảm xuống dẫn đến việc hạ giá bán.
Do nhập siêu lớn, vẫn phải có ngoại tệ để bù đắp cho thiếu hụt này. Khi đó có thể áp dụng biện pháp bán phá giá để giải quyết cho vấn đề thiếu hụt ngoại tệ.
Do trong một nước có quá nhiều hàng tồn kho, không thể giải quyết theo cơ chế giá bình thường.
Bán phá giá được sử dụng như là công cụ cạnh tranh. Sau khi đã chiếm lĩnh được thị trường nội điạ của nước nhập khẩu, triệt tiêu được sự cạnh tranh của hàng nội địa thì các hãng sẽ tìm cách thao túng thị trường nội địa để thu được lợi nhuận tối đa.
Cũng có thể có một số nước làm ra sản phẩm với giá thành rất thấp do sử dụng lao động trẻ em, tiền lương thấp và sử dụng lao động của tù nhân làm hàng xuất khẩu. Việc sử dụng lao động trẻ em ngoài việc mang lại siêu lợi nhuận còn là cách để cạnh tranh với đối thủ cạnh tranh. Nhờ giá nhân công rẻ mạc, người ta có thể hạ giá thành sản phẩm , xuất khẩu hàng hoá bán phá giá ở nước ngoài.
Đối với mặt hàng ngoại nhập khẩu, do thu được lợi nhuận siêu ngạch có được từ trốn thuế nhập khẩu, hàng ngoại sẽ điều tiết và chiếm lĩnh được thị trường với giá cạnh tranh so với hàng hoá sản xuất trong nước. Ví dụ: hàng vải trên thị trường Việt Nam, thực tế hàng vải nội chỉ giữ 20% thị phần còn 80 % thị phần là hàng vải ngoại nắm giữ, trong đó hàng Trung Quốc chiếm 60% thị phần, phần lớn số vải từ Trung Quốc là do nhập lậu, trốn thuế nên được bán với giá dù chỉ bằng 1/3- 1/2 hàng sản xuất trong nước.
1.5. Những ảnh hưởng của việc bán phá giá hàng hoá
Hành động bán phá giá có thể có lợi trong một số trường hợp ,nhưng nếu lạm dụng quá thì sẽ gây nhiều tác hại đối với nước nhập khẩu cũng như nước xuất khẩu.
1.5.1. Đối với nước xuất khẩu
1.5.1.1. Mặt tích cực
Bán phá giá giúp cho các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng thu được ngoại tệ, giúp tiêu thụ được lượng hàng tồn kho, đặc biệt là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, quần áo lỗi mốt...Tiêu biểu như ở Pháp, ngay từ khi mới vào mùa đã có lượng hàng tồn đọng như: thực phẩm sắp hết thời hạn sử dụng, quần áo , giầy dép hết mốt...lên tới 50% số dự trữ bán ra. Hàng tồn kho này được mang bán với mức giá thấp hơn 30% giá thị trường. Đến cuối mùa, hàng tồn đọng chỉ còn vài phần trăm lại đựơc bán lại cho những người chuyên nghiệp với giá bằng 1/10 giá cũ, họ sẽ đẩy số hàng hoá này ra nước ngoài bán phá giá.
Ngoài ra biện pháp bán phá giá còn là công cụ quan trọng trong chính sách Ngoại thương của đất nước nhằm giúp cho việc thực hiện những mục tiêu cụ thể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước đó.
1.5.1.2. Mặt tiêu cực
Người tiêu dùng trong nước phải chịu thiệt do phải chịu giá cao hơn so với trước đây do có sự thoả thuận về giá giữa các doanh nghiệp.
Việc các doanh nghiệp bán phá giá, lượng hàng hoá đó lại được bán cho chính các doanh nghiệp trong nước mình, do đó lại quay lại lũng đoạn thị trường trong nước.
Do việc bán phá giá nhằm mục đích thu được siêu lợi nhuận nên một vài nước đã sử dụng lao động trẻ em, phụ nữ, lao động tù nhân với giá rẻ mạt. Hậu quả là người lao động bị ngược đãi nặng nề. Trung Quốc là một trong những nước tiêu biểu sử dụng lao động tù nhân.Theo số liệu mới đây của văn phòng Quốc tế về lao động trẻ em (BIT) thì trên toàn thế giới có trên 250 triệu trẻ em từ 5-14 tuổi đang tham gia hoạt động kinh tế.
1.5.2. Đối với nước nhập khẩu
1.5.2.1. Tác động tích cực
Người tiêu dùng có cơ hội để lựa chọn , tiêu dùng những mặt hàng mới, lạ giá cả dễ chấp nhận.
Đối mặt với những mặt hàng từ nước ngoài đưa vào với giá rẻ, buộc các dịch vụ trong nước phải tìm cách cải tiến mẫu mã hàng hóa, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tích cực áp dụng công nghệ tiên tiến, tận dụng nguồn nhân lực để hạ chi phí sản xuất nhằm giữ vững vị trí trên thị trường và thu được lợi nhuận tối ưu.
1.5.2.2. Tác động tiêu cực
Bán phá giá hàng hoá cũng gây ra không ít những khó khăn cho nước nhập khẩu, nhất là đỗi với các nước đang phát triển, có thị trường hẹp.
Trước hết với người tiêu dùng của nước nhập khẩu họ phải sử dụng những mặt hàng kém chất lượng, hàng giả, đôi khi cả hàng quá thời hạn sử dụng, không đảm bảo về an toàn về an toàn thực phẩm, vệ sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của người dân.
Các chủ doanh nghiệp, những người kinh doanh do hám lợi, thu được lợi nhuận cao, do đó tìm mọi cách nhập lậu hàng hoá, trốn thuế gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Hơn nữa do không thể cạnh tranh đựơc với hàng nước ngoài nên nhiều xí nghiệp trong nước bị đình trệ sản xuất, bị phá sản hoàn toàn. Khi đó nó là nguyên nhân quan trọng gây ra hiện tượng trì trệ, hạn chế tốc độ phát triển nền kinh tế của nước nhập khẩu.
Về mặt xã hội, việc các xí nghiệp bị đóng cửa sản xuất hoặc ở bên bờ của sự phá sản hoạt động cầm chừng đã làm cho nhiều công nhân không có việc làm, đời sống khó khăn, thất nghiệp tăng, kèm theo nó là các tệ nạn xã hội cũng gia tăng gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng bán phá giá hàng hoá ở Việt Nam
2.1. Thực trạng bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam
Việc nước ta tham gia vào ASEAN, APEC và xin gia nhập WTO sẽ dẫn đến việc xoá bỏ hàng rào thuế quan, hiện tượng bán phá giá hàng hoá nước ngoài chắc chắn ngày càng tăng trên thị trường nứơc ta. Các hãng nước ngoài tìm đủ mọi phương sách để chiếm đoạt thị phần, dồn ép các ngành sản xuất Việt Nam vào một góc thị phần nhỏ hẹp.
Theo kết quả điều tra xã hội học của hội người tiêu dùng Việt Nam tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: các nhóm hàng ôtô, xe máy, rượu bia, thuốc lá của Mỹ, Nhật, Pháp và các nước châu Âu khác chiếm ưu thế. Với nhóm mặt hàng gia dụng trước năm 1992 hàng Việt Nam chiếm 62%, hàng Mỹ chiếm 15%m các nước châu Âu chiếm 14%, và 11% là các nước còn lại thì từ năm 1992 trở lại đây hàng Trung Quốc đã từng bước chiếm chiếm lĩnh trận địa này. Các mặt hàng như đồ chơi trẻ em, hàng dân dụng, xe máy, xe đạp, các giống cây trồng, thuốc trừ sâu của Trung Quốc cũng xâm nhập mạnh vào thị trừơng nước ta trong thời gian gần đây.
Sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO sẽ làm cho Trung Quốc cạnh tranh mạnh hơn trong những ngành hiện nay. Trung Quốc họ đang có lợi thế so sánh, trong khi đó những mặt hàng thuộc nhóm A ( những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động giản đơn như vải vóc, quần áo giầy dép, dụng cụ lữ hành, dụng cụ du lịch..,) cũng là lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Do đó Việt Nam sẽ phải gặp nhiều khó khăn hơn trong cuộc cạnh tranh này, còn Trung Quốc sẽ tìm mọi biện pháp để thực hiện mục tiêu của mình.
Bên cạnh đó, tình trạng buôn lâụ, trốn thuế ở nước ta ngày càng gia tăng và càng phức tạp hơn. Buôn lậu làm cho hàng ế thừa, hàng kém phẩm chất ... được bày bán tràn lan trên thị trường, gây tổn thất nặng nề cho các nhà sản xuất trong nước, gây thiệt hại về kinh tế và sức khoẻ cho người tiêu dùng.
Xét về tổng thể, do sự cạnh tranh không lành mạnh của các hãng nước ngoài, nền công nghiệp nội địa nước ta đang trong thế suy yếu. Xét cụ thể trong một số ngành sau:
2.1.1. Ngành dệt may
Thực trạng
Cùng với sự phát triển của đất nước, ngành công nghiệp dệt may đã có sự phát triển vượt bậc, có vai trò quan trọng trong công cuộc Công nghiệp Hoá đất nước, có khối lượng sản phẩm và giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn. Theo thống kê, năm 1999 giá trị xuất khẩu đạt 1,73 tỷ USD. Giá trị sản lượng hàng hoá chiếm tỷ trọng trên 8% gía trị sản lượng toàn ngành công nghiệp và chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên một mảng thị trường rất quan trọng mà chưa được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm là thị trường nội địa.
Nghiên cứu các doanh nghiệp trên thế giới cho thấy bao giờ họ cũng luôn quan tâm đến thị trường nội địa, lấy thị trường nội địa làm gốc, làm nền tảng. Trong khi đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại bỏ ngỏ thị trường này. Trên thực tế có những doanh nghiệp trên 90% giá trị sản xuất là xuất khẩu, hầu như không thấy có sản phẩm bán trong nước như công ty may Chiến Thắng, công ty may Hưng Yên.. Một số công ty may có uy tín như công ty may 10, Thăng Long... thì dung lượng thị trường rất hẹp, chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu trong nước. Hiện nay, trên thực tế vải nội địa chỉ giữ được 20% thị phần, còn nhường 80% thị phần cho hàng vải ngoại nắm giữ, trong đó hàng Trung Quốc chiếm lĩnh khoảng 60% thị phần. Mặc dù tổng công ty dệt may Việt Nam đã được thành lập, nhưng ngay cả các xí nghiệp may trong tổng công ty cũng không sử dụng vải của các xí nghiệp trong nước, vải cho may mặc xuất khẩu đang phải nhập khẩu 80 - 90%.
Trên thị trường Việt Nam hiện nay có đủ các loại vải của các nước có danh tiếng về sản xuất vải trên thế giới. Hàng từ bình dân đến kha khá thì có sản phẩm của Trung Quốc, Thái Lan, Đài loan, Nhật, Singapor, Indonexia...hàng cao cấp thì có vải của Anh, Mỹ, Y,...Bằng nhiều con đường, các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần thông qua việc bán hạ gía các mặt hàng của mình, đặc biệt là mặt hàng vải Trung Quốc. Giá hàng vải Trung Quốc chỉ bằng 1/3- 1/2 hàng sản xuất trong nước. Một mét vải siu TrungQuốc giá 12.000- 15.000đ tuỳ theo khổ và màu, trong khi đó vải siu Long An là 21.000đ.
Loại vải Mousseline Trung Quốc (TQ) hoa màu đủ loại gía chỉ từ 16.000- 18.000đ. Các loại vải phin, thô, lanh,.. giá chưa đến 10.000đ/m. Quần áo TQ giá rất rẻ, lại thích hợp với tầm vóc người Việt Nam. Một bộ complet tương đối đẹp, nếu mua ở cửa hiệu sang trọng ở Bắc Kinh giá có thể đến 2triệu đồng, nhưng nếu mua bộ tương tự ở Việt Nam thì chỉ có vài trăm nghìn.
Hàng vải nhập ngoại đổ bộ vào thị trường Việt Nam qua nhiều con đường: tiều ngạch, chính ngạch,… Điển hình là nhập qua con biên giới phía bắc với Trung Quốc( đưa vào thị trường Việt Nam 50% tống số lượng vải nhập lậu)
Ngoài ra tình trạng buôn lậu vải bằng đường biển qua các tàu viễn dương, đặc biệt là qua đường bưu điện cũng đáng báo động.
Hiện nay, các cửa khẩu ở miền Trung và Tây Nam như Lao Bảo,Nội Bài, cũng là những ngõ vào lớn của vải ngoại.
Các biện pháp bảo vệ thị trường nội đia:
Để bảo vệ vững chắc thị trường nội địa cho mặt hàng dệt may, bảo hộ sản phẩm trong nước Nhà nước ta cần có các biện pháp:
+ Biện pháp khuyến khích ngưòi VN tiêu dùng hàng trong nước sản xuất.
+ Những chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành dệt và ngành sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành may. Đồng thời, Nhà nứơc cần tăng cường đầu tư vào các cơ sở sản xuất này, trang bị những công nghệ hiện đại, tạo ra sự gắn kết giữa dệt và may.
+ Đầu tư vào các cơ sở đào tạo đội ngũ cán bộ và công nhân dệt may, cần có sự quan tâm hơn nữa về vấn đề thời trang.
Về giá cả các doanh nghiệp cũng cần có các biện pháp bảo hộ sản xuất của mình: có thể thông qua giá tức là sản xuất sản phẩm với giá thấp để có thể phù hợp với sức mua va cạnh tranh được.
2.1.2. Mặt hàng xe đạp, xe máy
2.1.2.1. Xe đạp
Trước thập niên 80, mỗi năm nước ta sản xuất không ít hơn 500.000 chiếc xe đạp và khoảng 5.000 tấn phụ tùng. Đã hình thành 4 trung tâm sản xuất xe đạp với gần 100 doanh nghiệp có tên tuổi, phân bố đều trên các vùng đất nước như: Hà Nội, Hải phòng, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân quan trọng là hàng nhâp lậu trốn thuế bán với giá quá rẻ, khiến cho hàng xe đạp nội địa không cạnh tranh nổi, ngành sản xuất xe đạp bị tổn thương nặng. Bốn trung tâm sản xuất xe đạp lớn của cả nước nay chỉ còn hai trung tâm là Hà Nội và Hồ Chí Minh hoạt động cầm chừng, còn giữ lại tên gọi truyền thống, nhưng tồn tại nhờ vào việc sản xuất kinh doanh các mặt hàng khác không phải sản xuất bằng xe đạp. Từ việc sản xuất 500.000 xe/năm đến nay chỉ còn 150.000chiếc/năm. Hiệp hội xe đạp, xe máy Việt Nam ( VINACYCLE) thành lập năm 1991 có 96 thành viên, đến nay chỉ còn 43 thành viên.
Tại Hà Nội, năm1996, liên hiệp các xí nghiệp xe đạp, xe máy (LIXEHA) có 13 công ty, xí nghiệp thành viên, chỉ sản xuất được 51.000 xe đạp và 1.500 tấn phụ tùng, chưa bằng ẵ so với năm có sản lượng cao nhất. Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà nổi tiếng về sản xuất xe đạp, nay lại nổi tiếng về mặt hàng bàn ghế và trang thiết bị nội thất. Công ty sản xuất và dịch vụ cơ điện- một thành viên của LIXEHA thì nay sản xuất trang thiết bị ytế. Trong thành phố chỉ còn lác đác vài cửa hàng Quốc doanh bày bán xe đạp nội địa nhãn hiệu VIFIA, LIXEHA, Xuân Hoà hay Thống Nhất nhưng rất ít người mua.
Trong khi nhu cầu xe đạp trong cả nước rất lớn khoảng 500.000- 600.000 xe/năm, khả năng sản xuất trong nước có thể đáp ứng được, nhưng chúng ta đã nhường 3/4thị phần cho xe đạp nhập từ các nước Nhật, Pháp, Singapor và chủ yếu nhất là hàng của Trung Quốc. Hàng Trung Quốc đa phần là nhập lậu, trốn thuế, mẫu mã đẹp và thay đổi liên tục, giá bán rẻ: xe đạp mini TQ giá từ 400-600.000 đ/chiếc, xe đạp địa hình TQ năm 1996: 1,3 triệu đồng/chiếc, sang năm 1997 chỉ có 800.000d/chiếc, chất lượng vẫn thế mà kiểu dáng đẹp hơn, các đại lý bán xe đạp TQ có thể chịu vốn, do đó bỏ xa hàng Việt Nam.
2.1.2.2. Xe máy
Việt Nam là một nước đang phát triển với thu nhập bình quân đầu người khoảng 400.000đ(năm 2001). Các thành phố lớn của Việt Nam đang trong quá trình phát triển trong đó các khu vực chính của các thành phố đều đang được xây dựng, hầu hết các đường phố ở các thành phố như Hà Nội, Hồ Chí Minh đều rất hẹp. Đó là lý do tại sao xe máy, xe đạp là những phương tiện phổ biến nhất ở Việt Nam kể từ những năm 70.
Năm 1999 lượng xe máy tiêu thụ trên thị trường Việt Nam khoảng nửa triệu chiếc, người ta cho rằng còn lâu nữa mới có thể đạt được một triệu chiếc/năm. Bất ngờ cuộc “đổ bộ” ào ạt của xe Trung quốc, đến năm 2000 con số này đã lên đến 1,8 chiếc. Năm 2001 lượng linh kiện xe máy nhập khẩu lên đến hơn hai triệu bộ.
Cuộc “đổ bộ” của xe Trung quốc giá rẻ từ năm 1999 đã buộc các hãng xe gắn máy lớn hạ giá- 51 doanh nghiệp lắp ráp xe Trung quốc dạng IKD đã tạo nên sức ép kinh tế đáng kể buộc các hãng xe máy liên doanh và 100% vốn nước ngoài phải hạ giá. Super Dream từ 26 triệu đồng hạ xuống dưới 20 triệu đồng (thời điểm 2001). Sirius từ trên dưới 24 triệu đồng xuống còn dưới 20 triệu đồng với phanh chống, 21 triệu với phanh đĩa. Viva 110 cũng tương tự.
VMEP là hãng có giá bán thấp nhất trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, giá Angel năm 1998 là 1.300 USD, đến năm 2002 chỉ còn dưới 1.000 USD, mặc dù xe đã cải tiến nhiều. Các thương hiệu xe khác của hãng như Magic, Magic star cũng phải giảm khoảng 1 triệu đồng/xe.
Để cạnh tranh với những hãng xe Trung quốc đang bán phá giá trên thị trường Việt Nam, hãng Honda Việt Nam- một thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam đã tung ra thị trường xe Honda Wave Alpha vào 19/01/2002. Xe Wave Alpha được thiết kế để đáp ứng nhu cầu xe của thị trường Việt Nam: phù hợp với địa hình Việt Nam, giá rẻ ( hơn 10 triệu đ) trong khi vẫn đảm bảo chất lượng và độ tin cậy cao thông qua việc sử dụng các cấu kiện sản xuất trong nước với giá thành thấp hơn cũng như những cấu kiện được mua qua hệ thống mua sắm toàn cầu của Honda. So với các loại xe máy Trung quốc đang hiện hành thì Wave Alpha có nhiều tính năng hơn hẳn.
Sau sự xuất hiện của Wave Alpha, người tiêu dùng đồng loạt mua loại xe mới này, thị trường loại xe đó trở nên sôi động, nhiều người đã phải đặt cọc tiền mua trước và sau một thời gian mới lấy được xe. Trong khi đó, nhiều cửa hàng bán xe Trung quốc ở thành phố Hồ Chí Minh đồng loạt giảm giá bán các loại xe động cơ Longcin và Lifan với mức 400- 600.000đ/xe.
Giá xe Trung quốc loại Dream cao còn 5,8- 6,5 triệuđồng/xe, Wave còn 6,2- 6,8triệu đồng/xe, . Nhưng dường như vẫn không cạnh tranh được với Wave Alpha của Honda.
Đến tháng 04/2002 đã xuất hiện loại xe Wave Alpha TQ với mẫu mã, màu sắc giống hệt của hãng Honda Việt Nam nhưng có giá bán rẻ hơn nhiều. Tại cửa hàng xe máy của công ty Đức Phương trên đường Lê Văn Việt (quận 9- TP Hồ Chí Minh), xe Wave Alpha Trung Quốc được bán với giá 7,5 triệu đồng/xe, chủ bán xe bao giấy tờ và có giấy hải quan chỉ sau 1 ngày.
Như vậy với việc bán phá giá xe máy của hãng xe nhập từ Trung quốc đã ảnh hưởng ít nhiều tới thị trường xe máy nội địa. Cuộc đổ bộ của xe Trung quốc với giá rẻ đã làm cho nhiều hãng xe của Việt Nam phải điêu đứng một thời gian để tìm cách trụ vững.
2.1.3. Hàng phân bón
Một tình trạng rất mới trong 5 tháng của năm 2002 trên thị trường Việt Nam là các doanh nghiệp sản xuất phân NPK , nhất là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đang đứng trước nguy cơ thua lỗ mà nguyên nhân chủ yếu là do phân NPK chủng loại 16:16:8(NPK16:16:8), nhập khẩu từ Hàn Quốc đang được bán với gía rất thấp trên thị trường Việt Nam.
Trong nước hiện nay có hai “đại gia” về sản xuất phân NPK 16:16:8 là Công ty liên doanh phân bón Việt- Nhật (JVF) , công suất thiết kế 350.000 tấn phân NPK trong một năm và công ty kiên doanh phân bón Baconco, cũng có công suất tương tự. Nhu cầu phân NPK trong nước hiện nay khoảng 1.5 triệu tấn/năm, trong đó có khoảng 300000- 400000 tấn là phân NPK 16:16:8.
Hơn ba năm trước, khi JVF và Baconco chưa thành lậ,phân NPK 16:16:8 chủ yếu nhập từ Philippin, khoảng 300000- 350000 tấn/năm. Gần đây do trong nước đã sản xuất được loại phân này nên lượng nhập khẩu giảm mạnh, chỉ còn 50000- 100000 tấn/năm.
Sau khi phân NPK 16:16:8 Philippine không còn nhập vào Việt Nam thì phân NPK của Hàn Quốc nhảy vào thế chỗ với lượng nhập khẩu vào năm 2001 là 20000 tấn. Đến năm 2002,lượng nhập này tăng đột biến và nhà nhập khẩu bán cho đại lý rẻ hơn phân cùng loại được sản xuất trong nước đến 500000 đồng/tấn. Hiện nay giá chào bán phân NPK 16:16:8 là 1700- 1800 đồng /kg.Nhà nhập khẩu Việt Nam bán cho đại lý là 2100- 2250đồng/kg, trong khi giá bán tại nhà máy trong nước là 2500-2600 đồng /kg. Để né tránh việc bị kiện bán phá gía, nhà nhập khẩu phân bón từ Hàn Quốc đã không nhập nguyên bao mà nhập hàng về Việt Nam rồi mới đóng bao.
Trước tình trạng bán phá giá này,các doanh nghiệp sản xuất phân bón Việt Nam đang đứng trước những khó khăn. Các doanh nghiệp Việt Nam đang khiếu nại với Hội phân bón Việt Nam và Chính phủ về vấn đề nay nhưng trên thực tế Việt Nam chưa có “luật chống bán phá giá”nên rất khó cho việc giải quyết thực trạng này.
2.1.4. Nước giải khát
Trong trận chiến giữa các hãng đồ uống có ga quốc tế như Coca- cola và Pepsi, các hãng sản xuất nước giải khát Việt Nam như Mekofood (sản xuất đồ uống có ga nhãn Festi). Công ty Tribeco đã nhìn thấy trước những khó khăn trong cuộc chiến này. Ngay khi vào cuộc, cảhai hãng tung ra những hình thức quảng cáo cùng với chiến thuật cạnh tranh quyết liệt và liên tục. Coca- cola hạ giá bằng cách nâng dung tích chai từ 207ml lên 300 ml nhưng vẫn giữ giá bán 1500đ. Còn Pepsi tung ra loại chai dung tích 500ml, bán giá 1600đ, như vậy giá thành hạ xuống còn 800đ/250ml. Trong khi đó sản phẩm của Tribeco là chai dung tích 207ml, giá bán 1100đ/chai, còn chai Festi 200ml giá bán là 2000đ/chai.
Tháng 1 năm 1996 thị trường lại chứng kiến cuộc bán phá giá quy mô lớn của Coca-cola. Công ty liên doanh Coca-cola Ngọc Hồi áp dụng chế độ khuyến mại đến hết tháng 1/1996. Theo đó cứ mua 3 két coca hoặc 3 két sprite được tăng thêm một két hay mua 5 thùng coca hoặc 5 thùng sprite thì tặng thêm 1 thùng. Nếu tính ra thì Coca-cola đã hạ giá đến 25%, với mức giá này thì Coca-cola đã làm một cuộc phá giá.Vì thuế doanh thu nước ngọt lúc bấy giờ là 8%, thuế nhập khẩu hương liệu là 30%, khó có một giá thành sản xuất rẻ hơn mức giá khuyến mại này.
Một hãng khổng lồ sản xuất ở vài chục nước khác nhau như Coca-cola và Pepsi chỉ cần mang ít hàng tồn kho tạm thời đưa vào Việt Nam cho không người tiêu dùng cũng không ảnh hưởng gì đến doanh thu của họ. Muốn đánh gục đối phương họ đã không làm như vậy vì của cho không sẽ mang tiếng là đồ bỏ đi. Họ đã bán dưới giá thành sản xuất của các công ty trong nước và mở rộng các đợt khuyến mại liên tục trị giá hàng tỷ đồng, họ không hề chịu lỗ bởi vì số hàng này chỉ là số hàng thừa theo kế hoạc sản xuất trên toàn thế giới mà họ đã thu đủ lợi nhuận.
Đối với các hãng liên doanh việc giảm gía bán sản phẩm đến mức thấp hơn giá thành dẫn đến doanh nghiệp bị lỗ, liên doanh không được chia lời, thực chất chỉ phía Việt Nam chịu thiệt còn phía nước ngoài vẫn có lãi thông qua việc cung cấp nguyên liêụ, công nghệ thiết bị với giá cao.
Không thể đứng vững nổi trong cuộc cạnh tranh khôngbình đẳng và không cân sức này, công ty Tribeco, “con chim đầu đàn” của ngành sản xuất nước ngọt Việt Nam đang lâm vào tình trạng “hấp hối’. Năng suất năm 1996 giảm 30% đến giữa năm 1997 thì sản lượng đã giảm đến 60% so với những năm trước.
2.2. Thực trạng bán phá giá hàng xuất khẩu của Việt Nam
Trong quan hệ thương mại Quốc tế, cho đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài đã bị các doanh nghiệp nước ngoài khởi kiện 8 vụ bởi họ cho là các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá hàng hoá trên thị trường.
- Trường hợp đầu tiên bị kiện bán phá giá là mặt hàng gạo, năm 1994, nước đâm đơn kiện là Colombia. Kết luận cuối cùng là gạo Việt Nam nhập khẩu vào Colombia không bị đánh thuế chống bán phá giá mặc dù bán ở mức thấp 9.07% song không gây tổn hại cho các nhà sản xuất lúa gạo ở nước sở tại.
Năm 1998 với mặt hàng mì chính xuất khẩu vào EU, Việt Nam đã bị EU quy vào nứơc có mặt hàng bị bán phá giá. Kết cục thì mì chính bị đánh thuế chống bán phá giá là 16.8%.
Cũng cùng năm này hàng giầy dép của Việt nam xuất khẩu vào EU cũng bị kiện bán phá giá nhưng vì thị phần quá nhỏ nên không bị đánh thuế chống bán phá giá.
Năm 2000: bật lửa ga của Việt Nam xuất khẩu sang Balan đã bị kiện bán phá gía và bị đánh thuế chống bán phá giá với mức 0.09euro/chiếc.
Năm 2001: mặt hàng tỏi của Việt Nam xuất khẩu sang Canada bị đưa vào vòng kiện tụng bán phá giá và bị đánh thuế chống bán phá giá 1,48 CAD/kg.
Năm 2002, từ tháng 6 đến nay, doanh nghiệp VN lại phải đối mặt với ba vụ kiện với các mặt hàng: đế giày, bật lửa ga vào Canada và cá da trơn vào Mỹ. Lý do mà Hiệp hội cá nheo Hoa kỳ (CFA) đưa ra là hàng thuỷ sản VN bán giá rẻ, phá giá thị trường. Nhưng trên thực tế, sau khi đi khảo sát vùng nuôi cá basa, cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long, tận mắt chứng kiến những bè cá lớn trên sông Tiền và sông Hậu thuộc vào loại lý tưởng nhất thế giới, gặp gỡ những nhà nuôi trồng thuỷ sản nơi đây cũng như khảo sát mặt bằng giá, phái đoàn của Bộ Nông nghiệp Hoa kỳ, của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam đã thừa nhận giá nhân công lao động ở một số nước có thu nhập bình quân đầu người khoảng 300USD/năm phải khác với 23.000USD/năm. Như vậy sức tiêu thụ cá Việt Nam không giảm trên thị trường Hoa kỳ là từ cuộc chiến thương hiệu CAFISH đã làm cho cái tên cá tra, cá basa nổi tiếng ở thị trường Mỹ. Nếu vụ kiện được xem xét trên dữ kiện VN thì Mỹ sẽ đưa ra mức thuế chống phá giá là 191%. Trường hợp VN được xem là nền kinh tế thị trường thì mức để tính thuế là 144%.
Một điều đáng lưu ý là: nếu coi VN là một nước có cơ chế thị trường, một nước nào đó có thể xem xét việc đánh thuế chống bán phá giá đối với hàng VN nếu xét thấy trị giá thông thường của hàng hoá cao hơn giá xuất khẩu bán cho người nhập khẩu hoặc hàng hoá được bán cho người nhập khẩu với giá thấp hơn tổng chi phí của hàng hoá. Riêng với trường hợp nhập khẩu từ nước không có nền kinh tế thị trường mở (kinh tế phi thị trường), nước xuất khẩu có thể lấy mức giá của nước thứ ba để so sánh khi xác định xem có đánh thuế chống bán phá giá hay không.
Đáng tiếc là cho đến nay, các nước khi tiến hành điều tra nhằm áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng VN thường dùng biện pháp so sánh giá xuất khẩu của VN với giá xuất khẩu của nước thứ ba. Ví dụ như Colombia khi điều tra đã lấy giá gạo của Việt nam so sánh với giá gạo xuất khẩu của Thái Lan. Điều này là không công bằng với VN.
Thực tế cho thấy, những mặt hàng xuất khẩu của VN bị kiện bán phá giá hầu như là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu không cao (trừ cá basa), hoặc không phải là mặt hàng xuất khẩu chiến lược nên các doanh nghiệp VN chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này.
2.3. Tác hại của việc bán phá giá hàng hoá đối với nền kinh tế nước ta
2.3.1. . Những thiệt hại về mặt kinh tế
Từ thực trạng đã phân tích ở trên ta thấy bán phá gía hàng nhập khẩu nước ngoài đã gây ra những hậu quả lớn đối với ngành sản xuất nội địa. Hầu hết những ngành công nghiệp đã từng có thế mạnh như: xe đạp, quạt điện, cơ khí, điện tử dân dụng, vải, may mặc, rượu, bia,.. nay đều bị suy yếu nghiêm trọng do không cạnh tranh nổi với các hàng ngoại bán phá giá.
Cụ thể những thiệt hại do bán phá giá gây ra đối với một số ngành công nghiệp nội địa như:
Ngành dệt hiện nay phải nhường 80% thị phần cho hàng nước ngoài, chỉ còn giữ lại được 20%, các xí nghiệp sản xuất đang ở trong tình trạng rất khó khăn.
Sản xuất xe đạp thị phần bị mất đi 75%, sản lượng chỉ đạt 25% so với năng lực sản xuất.
Ngành cơ khí, sản xuất máy nông nghiệp và phụ tùng thị phần giảm từ 60% xuống còn 20%, sản xuất động cơ nổ thị phần giảm từ 50% xuống còn 10%
Sản xuất quạt điện thị phần giảm từ 80xuống 20%. Sản lượng chỉ còn đạt 20% so với năng lực sản xuất. Giá bị giảm đi 150.000đ/chiếc.
Ngành sản xuất rượu bị mất 90% thị phần cho hàng ngoại. Hai nhà máy sản xuất rượu bia lớn nhất là rượu Bình Tây phải đóng cửa, còn rượu Hà Nội chỉ còn đạt khoảng 10% công suất.
Như vậy việc bán phá giá hàng nhập khẩu đã gây ra hiện tượng trì trệ, hạn chế tốc độ phát triển của nền kinh tế, cùng với nó là sự đình trệ, bên bờ vực phá sản hoặc giải thể của một số xí nghiệp không còn khả năng thanh toán.
2.3.2. Những thiệt hại về mặt xã hội
Sự đình trệ sản xuất của hàng loạt các xí nghiệp cùng với sự giải thể, bên bờ vực phá sản của một số xí nghiệp đã gây ra tình trạng thất nghiệp gia tăng dẫn đến thu nhập giảm, cùng với nó là các tệ nạn xã hội cũng gia tăng.
Người tiêu dùng phải sử dụng những loại hàng hoá kém phẩm chất, quá hạn, hàng giả, thậm chí hàng độc hại từ nước ngoài nhập vào gây nguy hại cho sức khoẻ của người tiêu dùng.
Bán phá giá, thu được lợi nhuận lớn, do đó mà tình trạng buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại ngày càng gia tăng. Một số cán bộ có chức có quyền do hám lơị đã tiếp tay cho bọn tội phạm làm tha hoá đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp, gây ra những thiệt hại lớn đối với xã hội. Tiêu biểu là vụ Tân Trường Sanh ở thành phố Hồ Chí Minh năm 1997 đã tiếp tay cho bọn buôn lậu, với trị giá hàng lên tới 25 tỷ đồng, bọn tội phạm đã sử dụng kho hàng của quân đội để cất giữ hàng hoá.
Đứng trước những thiệt hại này, một số câu hỏi cần thiết phải đằt ra là chúng ta phải có phương án “chiến đấu” như thế nào với việc hàng ngoại bán phá giá hay chỉ có một điệp khúc “đề nghị Nhà nứơc cấm nhập hàng ngoại”?. Trong khi đó đến năm 2006, thời hạn thực hiện giảm thuế theo Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) có hiệu lực chẳng còn xa.
Chương 3: Một số kiến nghị giải quyết tình trạng bán phá giá ở Việt Nam
Đứng trước thực tế bán phá giá đã xảy ra và nguy cơ hàng thừa ế từ nước ngoài sẽ tràn vào ngày càng nhiều hơn sau khi ta thực hiện việc cắt giảm tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có các giải pháp và xây dựng các chính sách để bảo vệ nền công nghiệp sản xuất nội địa bảo vệ thị trường cho hàng hoá của nước ta, chống lại việc buôn bán không trung thực của các công ty nước ngoài.
3.1. Tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh ngăn chặn tệ nạn buôn lậu, chống gian lận thương mại
Theo đánh giá của Bộ thương mại, Tổng cục Hải quan và các cơ quan chức năng khác, tình hình buôn lậu của nước ta trong những năm qua không giảm mà còn có chiều hướng gia tăng. Hàng buôn lậu vào nước ta gồm hàng trăm chủng loại, nhưng thường tập trung nhiều nhất vào những mặt hàng có giá trị kinh tế cao như thuốc lá, hàng điện tử, điện lạnh, xe đạp Trung quốc (300.000chiếc/năm), vải các loại khoảng 20triệu mét- trị giá hơn 500 tỷ đồng.
Gần đây gian lận thương mại trong xuất khẩu phát triển nhanh và nghiêm trọng nhằm mục đích trốn lậu thuế xuất nhập khẩu. Bằng các thủ đoạn như: khai báo không đúng số lượng chủng loại hàng hoá nhập khẩu, khai báo giá hàng nhập khẩu thấp hơn nhiều so với gía trị thực tế nhập khẩu để giảm mức thuế phải nộp, khai báo không đúng xuất xứ của hàng hoá...
Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị cho các cấp chính quyền và các ngành trong các nước phải tập trung lực lượng để chống lại các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, nhất là các hoạt động buôn lậu có tổ chức, coi đó là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài.
Tổng cục Hải quan, Bộ Nội vụ, bộ Thương mại và Bộ Tài chính đang phối hợp triển khai đồng bộ nhiều biện pháp để cùng với các địa phương và các ngành hữu quan khác trong cả nước đồng thời cùng thực hiện các phương án đấu tranh chống buôn lậu có hiệu quả, xử lý nghiêm các vụ buôn lậu. gian lận thương mại để răn đe và giáo dục chung. Cụ thể các giải pháp chính là:
Các cơ quan Nhà nước cần có biện pháp kiểm soát chặt chẽ hàng nhập khẩu, đặc biệt là đối với hàng nhập lậu. Những hàng tiêu dùng sản xuất trong nước có khả năng đáp ứng về chất lượng và số lượng thì kiên quyết không cho nhập hoặc hạn chế số lượng nhập để bảo hộ sản xuất trong nước.
Ban hành quy chế buôn bán biên giới, xác định rõ đối tượng mặt hàng được phép buôn bán ở biên giới.
Các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng ngoại nhập nếu không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc hợp pháp sẽ bị tịch thu.
Việc thanh toán đối với hàng hoá buôn bán phải thông qua Ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước giao trách nhiệm phụ trách buôn bán qua biên giới.
Ngành y tế và thương mại phối hợp chặt chẽ trong việc khảo sát, kiểm tra cấp giấy phép chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cho các loại thực phẩm nhập khẩu.
Củng cố lại các tổ chức chống buôn lậu trên từng địa ban, quyết định cơ chế phối hợp giữa các lực lượng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.
3.2. Bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước
Việc bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các Hiệp định Quốc tế mà Chính phủ đã ký kết. Cần quán triệt các nguyên tắc sau:
Có sự thống nhất giữa tự do hoá thương mại với bảo hộ mậu dịch. Bảo hộ mậu dịch phải tiến hành trên nền tự do hoá thương mại, phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại của Việt Nam và xu hướng tự do hoá thương mại trên thế giới.
Bảo hộ có chọn lọc, có thời điểm. Tức là không bảo hộ tràn lan, không bảo hộ vĩnh viễn. Nhà nước sẽ chỉ bảo hộ những hàng hoá mà sản xuất trong nước có lợi thế đem lại hiệu quả kinh tế cao, có tiềm năng phát triển về sau.
Bình đẳng, không phân biệt thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khi cùng sản xuất kinh doanh một loại hàng thuộc diện bảo hộ của Nhà nước, thì đều được hưởng mức bảo hộ của Nhà nước như nhau.
Phải đạt đựơc hiệu quả kinh tế khi thực hiện chính sách bảo hộ. Việc bảo hộ không được dẫn đến tình trạng trì trệ sản xuất, đóng cửa nền kinh tế, phá vỡ tiến trình tự do hoá thương mại. Qua đó góp phần nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế.
Có hai công cụ bảo hộ là:
3.2.1. Hạn ngạch
Hạn ngạch là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất của mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép.
Hạn ngạch nhập khẩu dẫn tới sự hạn chế số lượng nhập khẩu, đồng thời gây ảnh hưởng tới giá nội địa của hàng hoá. Hạn ngạch nhập khẩu làm tăng giá hàng nội địa và nó cho phép các nhà sản xuất trong nước thực hiện một quy mô sản xuất với hiệu quả thấp hơn so với điều kiện thương mại tự do. Cho nên, hạn ngạch nhập khẩu là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu, bảo hộ nền sản xuất nội địa.
Tuy nhiên trong xu thế hiện nay, công cụ này càng bị hạn chế bởi sự tự do hoá thương mại.
3.2.2. Thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Đây là một công cụ hết sức quan trọng trong chính sách ngoại thương của các nước, đảm nhận hai chức năng: bảo hộ sản xuất trong nước và tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Thuế quan nhập khẩu tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
Hiện nay thuế nhập khẩu của ta còn nặng về thu mà chưa chú ý đúng mức đến mục tiêu khuyến khích và quản lý xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp liên doanh thì được phép nhập khẩu máy móc thiết bị miễn thuế trong khi các doanh nghiệp trong nước thì không được miễn thuế. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước vốn đã yếu kém về kỹ thuật quản lý.
Để hạn chế bán phá giá ta có thể tăng thuế nhập khẩu, khi đó tất cả các hàng hoá nhập khẩu sang Việt Nam đều phải chịu mức thuế này. Điều này không thể hiện chính sách của chúng ta với những hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.
Do vậy có thể phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô trên nhằm ngăn chặn bán phá giá hàng hoá. Nhưng như vậy chưa đủ để ngăn chặn tình trạng bán phá giá một cách có hiệu quả.
3.3. Thực hiện tổ chức thi hành “pháp lệnh giá”
Năm 2002 đánh dấu mốc quan trọng trong công tác quản lý giá cả của nước ta là Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành “pháp lệnh giá và Chủ tịch nước lệnh công bố có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2002: Đây là đạo luật cao nhất về công tác quản lý, điều hành giá cả từ trước đến nay.
Sau khi pháp lệnh giá được thi hành, Ban vật giá Chính phủ, Uỷ ban nhân dân, Sở Tài chính vật giá các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương đã tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Tổ chức hội nghị toàn ngành để quán triệt nội dung Pháp lệnh Giá và trao đổi kế hoạch tổ chức thực hiện Pháp lệnh Giá, góp ý vào dự thảo nghị định của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Giá. Ban Vật giá Chính phủ đã có công văn số 473BVG CP-TH ngày 19/06/2002 gửi Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo tổ chức thực hiện Pháp lệnh Giá.
Hoàn chỉnh dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp lệnh giá gửi xin ý kiến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và một số Tổng công ty Nhà nước tổ chức chính trị xã hội có liên quan. Đến cuối tháng 07/2002 đã có 28 Bộ, 8 Tổng công ty Nhà nước và 10 Sở Tài chính Vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương góp ý kiến bằng văn bản gửi ban vật giá Chính phủ xem xét hoàn chỉnh trình Chính phủ. Nhiều ý kiến góp ý mong muốn rằng nghị định của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp lệnh giá phải quy định cụ thể để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện, đặc biệt lưu ý là những vấn đề về thẩm định giá, kiểm soát giá độc quyền, chống bán phá giá là những hình thức quản lý giá mới được thể chế hoá bằng pháp luật ở nứơc ta.
Ban vật giá chính phủ đã phối hợp với Bộ Tư pháp (CLB pháp chế) phối hợp với phòng công nghiệp thương mại Việt Nam tổ chức Hội nghị tại hai miền với các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp để giới thiệu quán triệt nội dung Pháp lệnh Giá và xin ý kiến về những nội dung cần quy định, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Giá; phối hợp với đài truyền hình Việt Nam, đài tiếng nói Việt Nam và các cơ quan báo chí tuyên truyền, giải thích nội dung Pháp lệnh Giá. Nhìn chung ý kiến của các đại biểu dự Hội nghị nói trên mong muốn Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Giá phải quy định cụ thể, đặc biệt là những nội dung quy định trong Pháp lệnh Giá mà ý kiến hiểu khác nhau chưa thống nhất như vấn đề chống bán phá giá.
Uỷ ban nhân dân, Sở Tài chính vật giá thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, các tỉnh Lai Châu, Hà Tây, Đồng Nai, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai, Tuyên Quang, Thái Bình, Bình Phước, Đồng Tháp, Cao Bằng, Hưng Yên, Quảng Trị, Phú Thọ …. đã ban hành văn bản chỉ đạo hoặc tổ chức hội nghị quán triệt nội dung Pháp lệnh Giá và thực hiện Pháp lệnh Giá .
Sau khi có ý kiến của Ban Tổ chức cán bộ chính phủ và để phù hợp với Pháp lệnh Giá Ban Vật giá chính phủ đã ban hành quyết định đổi tên Trung tâm thông tin và kiểm định giá miền Nam thành trung tâm thông tin và thẩm định giá miền Nam; đổi tên trung tâm tư vấn, dịch vụ kiểm định giá thành trung tâm Thẩm định giá; thành lập ban vận động, thành lập Hiệp hội Thẩm định giá Việt Nam.
Ban Vật giá Chính phủ và Sở Tài chính vật giá các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá đã ban hành để kiến nghị bổ xung, sửa đổi hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới cho phù hợp với nội dung Pháp lệnh Giá.
Xây dựng chương trình đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá ngắn hạn cho cán bộ làm công tác giá tại các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp để tạo điều kiện cho việc xem xét cấp thẻ thẩm định viên về giá theo điều 16 Pháp lệnh Giá.
Trong thời gian tới, Ban Vật giá Chính phủ và sở tài chính vật giá Chính phủ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền quấn triệt nội dung Pháp lệnh Giá, soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Giá . Ngoài Nghị đinh Chính phủ quy định chi tiết , hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Giá, Nghị định của Chính phủ bổ sung sửa đổi Nghị định số 44/2000/NĐCP, ngày 1/9/00 của CHính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá cả, dự kiến còn soạn thảo văn bản quy định và tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, quy chế tính giá và có thể còn Nghị định của Chính phủ về thẩm định giá, kiểm soat giá độc quyền, chống bán phá giá, nghị định của Chính phủ quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước về giá…Đồng thời, tổ chức chỉ đạo việc thực hiện niêm yết giá tại các trung tâm thương mại, tổ chức diều tra chi phí sản xuất, theo dõi dự báo giá cả thị trường những hàng hoá quan trọng để kiến nghị các chính sách,biện pháp bình ổn giá.
Kết luận
.
“Phá giá” là biện pháp “kinh điển” và trở nên “ lỗi thời” ở các có nền kinh tế phát triển nhưng đối với nền kinh tế thị truờng non trẻ của Việt Nam, biện pháp phá giá đang trở thành một công cụ hữu hiệu của các hãng nước ngoài sử dụng để thâu tóm thị phần của các hãng đối thủ cạnh tranh. Với thế mạnh về tài chính, kinh nghiệm, các doanh nghiệp nước ngoài đang tiến hành những cuộc phá giá thực sự “ngoạn mục” và giành được những thắng lợi hết sức vang dội trước sự bất lực của các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Trong cạnh tranh thị trường thì cạnh tranh về giá cả là một trong những phương thức cạnh tranh chủ yếu. Tuy nhiên, cho đến nay một sự điều chỉnh chung thống nhất các hành vi canh tranh bất chính về giá vẫn chưa tìm thấy trong luật. Nói đúng ra, các hành vi cạnh tranh bất chính về giá chỉ được đề cập một cách gián tiếp trong các quy định có liên quan đến quản lý giá của Nhà nước hoặc qua các quy định về xử phạt hành chính trong một số lĩnh vực. Vì vậy ,các ngành có chức năng quản lý kinh tế cần phải phát huy tác dụng, phát hiện mọi sự cạnh tranh không lành mạnh để kịp thời xử lý.
Việt Nam đang trên đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thể hiện qua việc gia nhập ASEAN, AFTA ,và sắp tới là APEC. Mục tiêu chính của tổ chức thương mại thế giới WTO là tháo gỡ mọi rào cản mậu dịch quốc tế, do đó bảo hộ mậu dịch không còn là biện pháp có hiệu quả. Chúng ta phải hoàn chỉnh khung pháp luật của nước ta, nghiên cứu sớm ban hành “Luật chống bán phá giá”, đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu và quan tâm hơn nữa đến vấn đề bán phá giá để tránh tình trạng bị kiện phá giá khi xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.Làm việc đó chính là bảo vệ công nghiệp nội địa trong thời kỳ khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ và trở thành xu thế chính của thời đại, giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện hội nhập vào hoạt động kinh tế khu vực, và vươn ra thế giới từ thị trường nội địa. Đồng thời , là bước chuẩn bị cần thiết và tích cực để nước ta trở thành hội viên chính thức của WTO.
Phụ lục
Pháp lệnh giá
Để góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình ổn giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước;
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Căn cứ vào Nghị quyết số 52/2001/NQ-QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2002;
Pháp lệnh này quy định về giá.
Chương I
Những quy định chung
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
1.Pháp lệnh này quy định quản lý nhà nước về giá và hoạt động về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh.
2. Pháp lệnh này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động xản xuất, kinh doanh tại Việt Nam.
2.Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định về giá khác với pháp lệnh này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Điều 2. Nguyên tắc quản lý giá
1. Nhà nước tôn trọng quyền tự định giá và cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh theo đúng pháp luật.
2.Nhà nước sử dụng các biện pháp cần thiết để bình ổn giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.
Điều 3. Giám sát thi hành pháp luật về giá
1. Các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thi hành pháp luật về giá.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận động viên nhân dân thực hiện các quy định của pháp luật về giá, giám sát việc thi hành pháp luật về giá.
Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Gíá bao gồm giá do Nhà nước quyết định, và giá thị trường.
2. Thẩm định giá là việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thông lệ quốc tế.
3. Bán phá giá là hành vi bán hành hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật. Gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước.
4. Liên kết độc quyền về giá là thoả thuận giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh ấn định một mức giá để chiếm lĩnh thị trường, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.
5. Gíá độc quyền là giá hàng hóa, dịch vụ chỉ do một tổ chức, cá nhân bán, mua trên thị trường hoặc là giá hành hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân liên kết độc quyền chiếm phần lớn thị phần, có sức mạnh chi phối giá thị trường.
6. Gíá biến động bất thường là giá tăng hoặc giảm trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch hoạ hoặc trong trường hợp bất thường khác.
Chương II
Điều hành giá của nhà nước
Mục 1:
Bình ổn giá thị trường
Điều 5. Mục tiêu bình ổn giá
Nhà nước thực hiện các chính sách, biện pháp cần thiết tác động vào quan hệ cung cầu để bình ổn giá thị trường đối với những hàng hoá, dịch vụ quan trọng, thiết yếu, kiểm soát lạm phát, ổn định tình hình kinh tế- xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước, góp phần khuyến khích đầu tư, phát triển.
Điều 6. Biện pháp bình ổn giá
1.Trường hợp giá thị trường của hàng hoá, dichvụ quan trọng, thiết yếu có biến động bất thường thì Nhà nước sử dụng những biện pháp sau đây để bình ổn giá:
a) Điều chỉnh cung cầu hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; hàng hoá giữa các vùng, các điạ phương trong nước.
b) Mua vào hoặc bán ra hàng hoá dự trữ
c) Kiểm soát hàng hoá tồn kho
d) Quy định giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá
đ) Kiểm soát các yếu tố hình thành giá
e) Trợ giá nông sản khi giá thị trường xuống quá thấp gây thiệt hại cho người sản xuất; trợ giá hàng hoá, dịch vụ được áp dụng các biện pháp quy định tại khoản 1 điều này do Chính phủ quy định.
3. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ quan trọng, thiết yếu có trách nhiệm thực hiện các biện pháp có liên quan quy định tại khoản 1 điều này để góp phần bình ổn giá.
Mục 2
Định giá, hiệp thương giá
Điều 7. Tài sản, hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá
Các loại tài sản, hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá bao gồm:
Đất đai, mặt nước,tài nguyên quan trọng
b) Tài sản của Nhà nước được bán, cho thuê
c) Hàng hoá, dịch vụ dộc quyền
d) Hàng hoá, dịch vụ quan trọng đối với quốc tế dân sinh
2. Nhà nước định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ quy định tại khoản 1 Điều này bằng các hình thức sau dây
a) Mức giá cụ thể
b) Mức giá chuẩn
c) Khung giá
d) Gía giới hạn tối đa, tối thiểu.
2.Chính phủ quy định cụ thể danh mục tài sản, hàng hoá dịch vụ do Nhà nước định giá quy định tại khoản 1 Điều này và việc áp dụng các hình thức định giá quy định tại khoản 2 Điều này trong từng thời kỳ.
Điều 8. Căn cứ định giá
Nhà nước định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ quy định tại Điều 7 của Pháp lệnh này căn cứ vào chi phí sản xuất, lưu thông, quan hệ cung cầu; sức mua của đồng tiền Việt Nam; giá thị trường trong nước và thế giới và chính sách phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ.
Điều 9. Thẩm quyền định giá
Thẩm quyền định giá được quy định như sau:
a) Chính phủ quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ đặc biệt quan trọng có tác động đến phát triển kinh tế-xã hội của cả nước;
b) Thủ tướng Chính phủ quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ quan trọng có tác động đến phát triển kinh tế- xã hội của nhiều ngành;
c) Bộ trưởng, thu trưởng cơ quan ngang bộ quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ có tác động nhiều đến phát triển kinh tế của ngành mình;
d) Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ có tác động nhiều dến phát triển kinh tế- xã hội tại địa phương.
2. Chính phủ quy định cụ thể thẩm quyền định giá quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 10. Điều chỉnh mức giá do Nhà nước định giá
1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền định giá phải kịp thời điều chỉnh giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá khi các yếu tố hình thành giá trong nước và thế giới có biến động ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống.
2.Tổ chức, cá nhân có quyền kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền định giá điều chỉnh giá theo quy định của pháp luật.
Điều 11. Hiệp thương giá
Cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá tổ chức hiệp thương giá giữa bên mua, bên bán đối với hàng hoá, dịch vụ quan trọng có tính chất độc quyền mua, độc quyền bán không thuộc phạm vi định giá của Nhà nước quy định tại Điều 7 của Pháp lệnh này theo đề nghị của bên mua, bên bán hoặc theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Điều 12. Kết quả hiệp thương giá
1. Kết quả hiệp thương giá do các bên thoả thuận được cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá ban hành để thi hành.
2. Trường hợp đã tổ chức hiệp thương giá mà các bên vẫn chưa thoả thuận được mức giá thì cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá quyết định giá tạm thời để các bên thi hành cho đến khi các bên thoả thuận được mức giá nhằm kịp thời phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Mục 3
Thẩm định giá
Điều 13. Tài sản của Nhà nước phải thẩm định giá
1. Tài sản của Nhà nước phải thẩm định giá bao gồm:
a) Tài sản được mua bằng toàn bộ hoặc một phần từ nguồn ngân sách nhà nước;
b) Tài sản của Nhà nước cho thuê, chuyển nhượng, bán, góp vốn và các hình thức chuyển quyền khác;
c) Tài sản của doanh nghiệp nhà nước cho thuê, chuyển nhượng, bán, góp vốn, cổ phần hoá, giải thể và các hình thức chuyển đổi khác;
d) Tài sản khác của Nhà nước theo quy định của pháp luật phải thẩm định giá:
Chính phủ quy định mức giá trị tài sản của Nhà nước thuộc khoản 1 Điều này đã qua đấu thầu hoặc qua Hội đồng xác định giá thì không nhất thiết phải thẩm định giá.
Điều 14. Doanh nghiệp thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá bao gồm doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Chính phủ quy định hình thức tổ chức và điều kiện thành lập doanh nghiệp thẩm định giá.
2. Tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy dịnh của Chính phủ được thành lập doanh nghiệp thẩm định giá.
Điều 15. Hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá thức hiện thẩm định giá tài sản trong các trường hợp quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh này và tài sản khác theo yêu cầu của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân.
2. Hoạt động thẩm định giá của doanh nghiệp được thực hiện theo hợp đồng với cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định giá.
Điều 16. Tiêu chuẩn thẩm định viên về giá
1. Người được công nhận là thẩm định viên về giá phải có đủ các tiêu chẩn sau đây:
a) Là công dân Việt Nam;
b) Có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành liên quan đến nghiệp vụ thẩm định giá;
c) Có chứng chỉ đã qua đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành về thẩm định giá do cơ quan có thẩm quyền cấp;
d) Có thời gian làm việc liên tục từ 3 năm trở lên theo chuyên ngành được đào tạo.
2. Người có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1
Điều này được cơ quan quản lý nhà nước về giá trung ương xem xét cấp thẻ Thẩm định viên về giá.
Điều 17. Kết quả thẩm định giá
Kết quả thẩm định giá được lập thành văn bản và chỉ sử dụng vào mục đích đã ghi trong hợp đồng. Kết quả thẩm định giá có thể sử dụng là một trong những căn cứ để xem xét phê duyệt chi từ ngân sách nhà nước, tính thuế, xác định giá trị tài sản bảo đảm vay vốn ngân hàng, mua bảo hiểm, cho thuê, chuyển nhượng, bán, góp vốn, cổ phần hoá, giải thể doanh nghiệp và sử dụng vào các mục đích khác đã được ghi trong hợp đồng thẩm định giá.
Điều 18. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá
Doanh nghiệp thẩm định giá có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
1.Yêu cầu cơ quan. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định giá cung cấp tài liệu, số liệu có liên quan đến thẩm định giá
2. Thu tiền dịch vụ thẩm định giá theo thoả thuận trong hợp đồng
3. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thẩm định giá của mình. Trong trường hợp kết quả thẩm định giá không đúng, gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
4. Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Mục 4
Kiểm soát giá độc quyền
Điều 19. Nhà nước kiểm soát giá độc quyền
Trong trường hợp cần thiết, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá tiến hành việc kiểm soát chi phí sản xuất, lưu thông, giá hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân khi phát hiện có dấu hiệu liên kết độc quyền về giá hoặc khi cần phải xem xét việc hình thành giá độc quyền.
Điều 20. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khi nhận được yêu cầu kiểm soát giá độc quyền
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khi nhận được yêu cầu kiểm soát giá độc quyền có trách nhiệm báo cáo đầy đủ, chính xác, kịp thời số liệu, tài liệu có liên quan đến chi phí sản xuất, lưu thông, giá hàng hoá, dịch vụ độc quyền theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá.
Điều 21. Quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá
Trong việc kiểm soát giá độc quyên, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá có quyền hạn và trách nhiệm sau đây:
1. Đình chỉ việc thực hiện giá hàng hoá, dịch vụ do tổ chức, cá nhân liên kết độc quyền về giá quyết định.
2. Yêu cầu tổ chức, cá nhân liên kết độc quyền phải mua, bán theo đúng giá mua, gía bán trước khi liên kết độc quyền về giá. Trường hợp cần phải điều chỉnh giá bán, giá mua thì tổ chức, cá nhân phải lập phương án giá trình cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá xem xét, quyết định.
3. Quyết định giá đúng thời hạn quy định trên cơ sở phương án giá do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trình hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giá cho phù hợp.
4. Xử lý vi phạm pháp luật về giá theo quy định của pháp luật.
Mục 5
Chống bán phá giá
Điều 22. Cấm bán phá giá
Nhgiêm cấm tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có hành vi bán phá giá.
Điều 23. Các hành vi không bị coi là hành vi bán phá giá
1. Các hành vi sau đây không bị coi là hành vi bán phá giá:
a) Hạ giá bán hàng tươi sống;
b) Hạ giá bán hàng hoá tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình thức, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng;
c) Hạ giá bán hàng hoá theo mùa vụ;
d) Hạ giá bán hàng hoá để khuyến mại theo quy định của pháp luật;
đ) Hạ giá bán hàng hoá trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản xuất, kinh doanh.
2. Các trường hợp hạ giá bán quy định tại khoản 1 Điều này phải được niêm yết công khai, rõ ràng tại cửa hàng, nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời gian hạ giá.
Điều 24. Khiếu nại, tố cáo hành vi bán phá giá
Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật đối với các hành vi bán phá gía.
Điều 25. Điều tra, xử lý hành vi bán phá giá
1. Khi nhận được đơn thư khiếu nại, tố cáo về hành vi bán phá giá hoặc phát hiện được hành vi bán phá giá, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá phải tổ chức điều tra hành bi bán phá giá.
2. Nội dung điều tra hành vi bán phá giá:
a) Xác minh hành vi bán phá giá
b) Xác định thiệt hại do hành vi bán phá giá gây ra đối với lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước.
3. Căn cứ vào kết quả điều tra, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá có quyền xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với hành vi bán phá giá.
Điều 26. Biện pháp xử lý hành vi bán phá giá
1. Quyết định giá bán tối thiểu nhưng không làm hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.
2. Xử lý vi phạm hành chính.
3. Buộc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh bán phá giá phải bồi thường thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh bị tổn thất do hành vi bán phá giá gây ra.
4. Người có hành vi bán phá giá có dấu hiệu phạm tội thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Chương III
Hoạt động về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
Điều 27. Định giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh định giá hàng hoá, dịch vụ của mình theo quy định của pháp lệnh này và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Điều 28. Các hành vi bị cấm
Cấm các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh tiến hành các hành vi sau đây:
1. Cấu kết với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác để liên kết độc quyền về giá, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.
2. Bán phá giá hàng hoá, dịch vụ.
3. Bịa đặt, loan tin không có căn cứ về việc tăng giá hoặc hạ giá gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác, của người tiêu dùng lợi ích của nhà nước.
4. Định giá sai để lừa dối người tiêu dùng hoặc tổ chức, cá nhân hợp tác sản xuất, kinh doanh với mình.
5. Tăng hoặc giảm giá giả tạo bằng cách thay đổi số lượng, chất lượng, địa điểm giao nhận hàng hoá, dịch vụ.
6. Lợi dụng thiên tai, dịch hoạ và diễn biến bất thường khác để đầu cơ tăng giá, ép giá.
7. Các hành vi khác do pháp luật quy định.
Điều 29. Niêm yết giá
1. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ tại cửa hàng, nơi giao dịch mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ; việc niêm yết giá phải rõ ràng, không gây nhầm lẫn cho khách hàng,
2. Đối với hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá thì tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải niêm yết đúng giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định mua bán đúng giá đã niêm yết.
Đối với hàng hoá, dịch vụ không thuộc danh mục Nhà nước định giá thì niêm yết theo giá do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quyết định.
Điều 30. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức,cá nhân sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực giá
1.Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có các quyền sau đây:
a) Quyết định gía mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ, trừ những hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá.
b) Quyết định giá hàng hoá, dịch vụ trong khung giám, giới hạn giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết đinh.
c) Khiếu nại quyết định về giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của mình.
d) Khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về giá.
đ) Yêu cầu tổ chức, cá nhân bồi thường thiêtj hại theo quy định của pháp luật.
e) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2.Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có các nghĩa vụ sau đây:
a) Lập phương án giá hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và chấp hành đúng mức giá đó.
b) Cung cấp thông tin về giá, các quyết định giá hàng hoá, dịch vụ do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quyết định theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về giá.
c) Chấp hành cá biện pháp của nhà nước nhằm bình ổn giá thị trường quy định tại pháp lệnh này.
d) Bồi thường thiêt hại do hành vi vi phạm pháp luật về giá theo quy định của pháp luật.
đ) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Chương IV
Quản lý nhà nước về giá
Mục 1.
Nội dung và thẩm quyền quản lý nhà nước về giá
Điều 31. Nội dung quản lý nhà nước về giá
1. Nghiên cứu, xây dựng, tổ chức thực hiện các chính sách, biện pháp về giá phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ.
2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giá.
3. Quyết định giá hàng hoá, dịch vụ quan trọng, độc quyền.
4. Quy định tiêu chuẩn thẩm định viên về giá; tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và nghiệp vụ thẩm định giá; cấp và thu hồi thẻ thẩm định viên về giá.
5. Kiểm soát giá độc quyền và chống bán phá giá.
6. Thu thập, phân tích và thông báo thông tin, dự báo giá thị trường trong nước và thế giới.
7. Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực giá.
8. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá.
Điều 32. Thẩm quyền quản lý nhà nước về giá.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giá trong phạm vi cả nước.
Cơ quan quản lý nhà nước về giá chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giá.
Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về giá trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá thuộc ngành mình theo phân cấp quản lý giá của Chính phủ.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá tại địa phương theo phân cấp quản lý giá của Chính phủ.
Điều 33. Tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về giá.
Hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giá do Chính phủ quy định.
Mục 2.
Kiểm tra, thanh tra chuyên ngành về giá
Điều 34. Thanh tra chuyên ngành về giá.
Cơ quan quản lý nhà nước về giá thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về giá.
Thanh tra chuyên ngành về giá thực hiện kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân chấp hành các quy định pháp luật về giá và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 35. Quyền hạn và trách nhiệm của thanh tra chuyên ngành về giá
Thanh tra chuyên ngành về giá có quyền:
Yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh báo cáo kịp thời, chính xác, trung thực những số liệu tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm tra, thanh tra giá phù hợp với pháp luật;
Yêu cầu cơ quan có liên quan cử người tham gia và cung cấp các số liệu, tài liệu có liên quan trực tiếp đến kiên tra, thanh tra giá;
Xử lý hành vi vi phạm pháp luật về giá theo quy định của pháp luật.
Thanh tra chuyên ngành về giá có trách nhiệm:
Không được sử dụng các số liệu, tài liệu, thông tin thu thập được vào mục đích khác ngoài mục đích quản lý nhà nước về giá;
Không được tiết lộ những thông tin bí mật có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh;
Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kiểm tra, thanh tra giá của mình.
Điều 36. Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân khi được kiểm tra, thanh tra giá.
Tổ chức, cá nhân nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra giá phải báo cáo kịp thời, chính xác, trung thực những số liệu, tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm tra, thanh tra giá.
Tổ chức, cá nhân phải chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định xử lý của cơ quan quản lý nhà nước về giá. Trong trường hợp không nhất trí với quyết định đó thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật; trong thời gian khiếu nại, vẫn phải chấp hành quyết định đó.
Tổ chức, cá nhân có quyền từ chối các yêu cầu kiểm tra, thanh tra không đúng quy định của pháp luật.
Mục 3
Khen thưởng và xử lý vi phạm
Điều 37. Khen thưởng
Tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc thực hiện pháp luật về giá được khen thưởng theo quy định của Nhà nước.
Điều 38. Xử lý vi phạm pháp luật về giá
Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về giá thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định về giá; nhận hối lộ, bo che cho người vi phạm pháp luật về giá; thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái quy định của Nhà nước trong việc quản lý nhà nước về giá hoặc có hành vi khác vi phạm pháp luật về giá thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Chương V
Điều khoản thi hành
Điều 39. Hiệu lực thi hành
Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2002.
Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.
Điều 40. Hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.
T/M Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Chủ tịch
Nguyễn Văn An
Tài liệu tham khảo
GS- PTS Tô Xuân Dân, PTS Vũ Chí Lộc; Quan hệ kinh tế quốc tế; Nhà xuất bản Hà Nội.
Đoàn Văn Trường, Bán phá giá hàng hoá; Nhà xuất bản thống kê.1998.
Tạp chí “Doanh nghiệp thương mại” các số: 161/2002; 160/2002; 159/2002.
Tạp chí “ Thương mại” ,các số: 25/2002; 8/2002; 21/2002; 163/2002; 22/2002.
Báo “Diễn đàn doanh nghiệp” số 41/2002.
Tạp chí “Thị trường giá cả” số9/2002.
Tạp chí “ Nhà quản trị doanh nghiệp” số7/2002; 9/2002.
Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật; Cạnh tranh và xây dựng cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay; Nhà xuất bản Công an nhân dân-2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA300.doc