Đề tài Tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Tài liệu Đề tài Tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay: LỜI NÓI ĐẦU Theo quy định của pháp luật , một doang nghiệp muốn thành lập cần phải có một số vốn ban đầu tối thiểu bằng vốn pháp định . tiếp sau đó doanh nghiệp muốn tiến hành các hoạt động sản xuất –kinh doanh củng cần phỉa có vốn. Chỉ với đôi lời ngắn gọn trên chúng ta cũng có thể nhận thấy được vai trò vô cùng quan trọng của vốn đối với một doanh nghiệp. Nó là yếu tố không thể thiếu để một doanh nghiệp được hình thành , là điều kiện tiền đề của sản xuất kinh doanh, là yếu tố cơ bản để doanh nghiệp tồn tại, cạnh tranh Nhưng vấn đề đặt ra là vốn của doanh nghiệp từ đâu mà có ? Doanh nghiệp đã huy động từ những nguồn nào?Và doanh nghiệp nên sử dụng nguồn tài trợ nào là hiệu quả hơn ? Kết hợp sử dụng các nguồn với tỷ lệ như thế nào cho phù hợp ? Trong phạm vi bài viết này bằng việc liệt kê các phương pháp , phân tích các ưu nhược điểm , so sánh lợi ích khi sử dụng các nguồn tài trợ chúng ta sẽ lần lượt giải quyết các vấn đề trên, đồng thời trong tình trạng thiếu vốn của doanh nghi...

doc22 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Theo quy định của pháp luật , một doang nghiệp muốn thành lập cần phải có một số vốn ban đầu tối thiểu bằng vốn pháp định . tiếp sau đó doanh nghiệp muốn tiến hành các hoạt động sản xuất –kinh doanh củng cần phỉa có vốn. Chỉ với đôi lời ngắn gọn trên chúng ta cũng có thể nhận thấy được vai trò vô cùng quan trọng của vốn đối với một doanh nghiệp. Nó là yếu tố không thể thiếu để một doanh nghiệp được hình thành , là điều kiện tiền đề của sản xuất kinh doanh, là yếu tố cơ bản để doanh nghiệp tồn tại, cạnh tranh Nhưng vấn đề đặt ra là vốn của doanh nghiệp từ đâu mà có ? Doanh nghiệp đã huy động từ những nguồn nào?Và doanh nghiệp nên sử dụng nguồn tài trợ nào là hiệu quả hơn ? Kết hợp sử dụng các nguồn với tỷ lệ như thế nào cho phù hợp ? Trong phạm vi bài viết này bằng việc liệt kê các phương pháp , phân tích các ưu nhược điểm , so sánh lợi ích khi sử dụng các nguồn tài trợ chúng ta sẽ lần lượt giải quyết các vấn đề trên, đồng thời trong tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chúng ta cần phải đưa ra các biện pháp khơi thông nguồn vốn trong các doanh nghiệp . I.Nguồn vốn và vai trò của vốn đối với doanh nghiệp doanh nghiệp : Trong mọi doanh nghiệp ,vốn đều bao gồm 2 bộ phận : vốn chủ sở hữu và vốn nợ ,mỗi bộ phận này lại được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tùy theo tính chất của chúng . 1.Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp : Đối với mọi loại hình doanh nghiệp ,vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp gồm bộ phận sau : Vốn góp ban đầu Lợi nhuận không chia . Các quỹ của doanh nghiệp Tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới 1.1.Vốn góp ban đầu : Khi doanh nghiệp được thành lập thì bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có 1 số vốn ban đầu nhất định ,và vốn ban đầu này không được thấp hơn vốn pháp định đối với loại hình doanh nghiệp mà nhà nước quy định cụ thế : Đối với doanh nghiệp quốc daonh ,vốn pháp định là 1000 tỉ đồng . Đối với công ty cổ phần : nông thôn là 5 tỉ đồng Thành thị : 70% tỉ động Vốn góp ban đầu được hình thành thế nào là tùy thuộc vào tính chất sở hữu của loại hình doanh nghiệp : Đối với doanh nghiệp nhà nước vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước , đồng thời chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước chính là nhà nước .Trong công ty tư nhân thì vốn góp ban đầu do chính chủ công ty bỏ ra .Đối với các công ty cổ phần là do cổ đông đóng góp và mỗi cổ đông là 1 chủ sở hữu công ty , họ chỉ trịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ .Vốn góp ban đầu này được ghi trong điều lệ công ty do đó còn được gọi là vốn điều lệ .Thông thường vốn điều lệ lớn hơn vốn pháp định ,nó có thể tăng thêm trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp .Và 1 điều lưu ý là vốn điều lệ không nhất thiết phải góp đủ khi quyết định thành lập doanh nghiệp , mà có thể góp sau 1 thời gian .Nếu sau 1 thời gian mà không góp đủ thì phải ghi giảm vốn điều lệ hoặc thay đổi hình thức doanh nghiệp . 1.2.Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia : Quy mô vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là 1 yếu tố quan trọng , nó phản ánh tiềm lực ban đầu của doanh nghiệp .Tuy nhiên thông thường số vốn này cần được tăng cường theo quy mô .Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh ,nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn .Lợi nhuận sau thuế sẽ được chia làm 2 phần . Phần 1 : chia cho các cổ đông , trả lương cho nhân viên . Phần 2 : giữ lại để trích lập các quỹ và bổ sung vào vốn điều lệ 1.3.Các quỹ của doanh nghiệp : Doanh nghiệp có thể có 1 số quỹ : Qũy thặng dư vốn ,quỹ dự phòng tổn thất …khi các quỹ này nếu có thặng dư thì sẽ được tính bổ sung vào vốn chủ sở hữu 1.4.Phát hành cố phiếu : Trong quá trình hoạt động sản xuất –kinh doanh , công ti cổ phần có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phát hành cổ phiếu được coi là hoạt động tài trợ dài hạncủa doanh nghiệp . Công ti có thể phát hành các loại cổ phiếu sau:cổ phiếu thường và cổ phhiếu ưu tiên 2. Vốn nợ Để bổ sung vốn cho quá trìng sản xuất –kinh doanh , doanh nghiệp không thể chỉ sử dụng vốn chủ sở hữu mà còn có thể sử dụng vốn nợ thông qua các nguồn : tín dụng ngân hàng , tín dụng thương mại , vay thông qua phát hành trái phiếu. 2.1.Vốn từ tín dụng ngân hàng : Nguồn vốn vay từ ngân hàng là 1 trong những nguồn vốn quan trọng nhất ,không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân .Các ngân hàng thương mại cung cấp rất nhiều dịch vụ tài chính cho các doanh nghiệp ,trong có việc cung ứng các nguồn vốn . Không 1 doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương maịi nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị trường .Doanh nghiệp vay vôn của ngân hàng để đảm bảo cho hoạt đông sản xuất – kinh doanh ,để tài trợ cho các dự án của doanh nghiệp . Xét về mặt thời hạn ,vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay bao gồm : Vay dài hạn ( > 5 năm ) , vay trung hạn ( 1- 5 năm ) , vay ngắn hạn ( < 1 năm ) .Tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các nước và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương maị . Tùy theo tính chất và mục đích sử dụng ,ngân hàng cũng có thể phân loại cho vay thành các loại như : Cho vay đầu tư tài sản cố định ,cho vay tài sản lưu đông ,cho vay để thực hiện dự án ,cho vay để tiêu dùng …Cũng có những cách phân chia khác như : Cho vay theo ngành kinh tế ,theo lĩnh vực phục vụ ,hoặc hình thức bảo đảm tiền vay . 2.2.Tín dụng thương mại : Các doanh nghiệp cũng thường xuyên khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp .Nguồn vốn này hình thành 1 cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu ,mua bán trả chậm hay trả góp .Trong 1 số doanh nghiệp ,nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn ,thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn . 2.3.Một số nguồn tài trợ ngắn hạn không do vay mượn khác như : Các khoản nợ tích lũy ,tiền đặt cọc của khách hàng . 2.3.1.Nợ tich lũy : Các loại nợ tích lũy chủ yếu có :nợ lương của công nhân và nợ thuế của chính phủ Lương của công nhân thường được trả hàng tháng theo chế độ tạm ứng vào giữa mỗi tháng và thanh toán váo đầu tháng sau .Giữa 2 kì trả lương sổ sách kế toán của doanh nghiệp cho thấy những khoản nợ lương trong kì . Doanh nghiệp nộp thuế doanh thu túy theo mức doanh thu hàng tháng và nộp thuế lợi tức năm truớc vào đầu năm sau sau khi đã được duyệt quyết toán . Các khoản nợ tích lũy này tự phát thay đổi cùng với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp .Khi doanh nghiệp mở rộng hoạt động ,các khoản nợ này cũng tự động tăng và khi thu hẹp sản xuất chúng cũng giảm theo . 2.3.2.Tiền đặt cọc của khách hàng : Đây cũng là 1 nguồn tài trợ ngắn hạn “ tự động ” khi doanh nghiệp mở rộng sản xuất, số lượng khách tăng ,làm tăng các khoản tiền đặtt cọc , và khi thu hẹp sản xuất thìh các khoản tiền này cũng giảm theo 2.4 Phát hành trái phiéu công ty Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn . Trái phiếu có thể do chính phủ hay công ty phát hành. Nếu do chính phủ phát hành thì gọi là trái phiếu chính phủ còn nếu do công ti phát hành thì gọi là trái phiếu công ti .Thời hạn phổ biến của các loại trái phiếu làcác loại 1năm , 3năm,5năm,10năm rất ít công ti phát hành trái phiếu có kì hạn tới 20 năm.Trong phần này chùng ta chỉ xem xét trái phiếu cua công ti trên một số khía cạnh cơ bản . Một trong những vấn đề cần được xem xét trước khi phàt hành làlựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp với điều kiện của công ti và tình hình trên thị trường tài chính.vd:sẽ phát hành trai phiếu với thời hạn và lãi suất bao nnhiêu cho thích hợp. Việc làm này rất quan trọng vì nó liên quan đến việc hấp dẫn của trái phiếu, khả năng lưu hành.Trước khi phát hành cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu .Trên thị trường nhiều nước hiện nay thường lưu hành nhiều loại trái phiếu công ti sau; 2.4.1Trái phiếu có lãi suất cố định Laọi trái phiều này thường được sử dụng phổ biến , cho nên khi nói đến trái phiếu công tin gười ta thường hiểu là trái có lãi suất cố định. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thăy đổi trong suốt kì hạn của nó . Như vậy cả công ti (người đi vay) và người sở hữu trái phiếu (người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của kghoản nợn trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu . Cách thức thanh toán lãi của trái phiếu cũng thường được quy định rõ . vd: trả 2 lần trên năm vào ngày 30/6 và 31/12 hoặc trả 1 năm một lần vào đầu năm hoặc cuối năm . Trái phiếu thường hấp dẫn người đầu tư không ưa mạo hiêm vì giá trái phiếu không biến động nên xuống nhiều như khi mua cổ phiếu . Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu . Tính hấp dẫn phụ thuộc vào các yếu tố sau: Thứ nhất :lãi suất của trái phiếu Nói đến vấn đề lãi suất thì có sự đối lập về lợi ích giữa công ty phát hành và công chúng đầu tư .Đương nhiên công chúng đầu tư muốn mua trái phiếu có lãi suất cao còn công ty phát hành thì lại ngược lại ,muốn phát hành trái phiếi có lãi suất thấp để giảm chi phí sử dụng vốn .Vì vậy để trung hòa 2 nhu cầu trên thì buộc công ty phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được đối với trái phiếu của họ chứ không thể trả quá cao hay quá thấp cho nhà đầu tư . Laĩ suất của trái phiếu phải được đặt ra trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn ,đặc biệt phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu của các công ty khác và trái phiếu chính phủ .Gỉa sử tại 1 thời điểm trái phiếu chính phủ kì hạn 10 năm có lãi suất 8% /năm ,trái phiếu trung bình của 1 số công ty khác có cùng kì hạn là 9% /năm .tuy nhiên 1 khía cạnh khác cần được quan tâm là công ty có gánh nổi chi phí lãi vay này hay không ? Ngoìa ra nếu đưa thêm yếu tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất . Thứ hai : Kì hạn của trái phiếu ; Đây cũng là 1 yếu tố quan trọng khi cân nhắc phát hành trái phiếu của công ty .Nếu thời hạn quá dài sẽ không hấp dẫn công chúng đầu tư vì thời hạn càng dài thì rủi ro càng cao .Mặt khác thời hạn càng dài thì lãi suất trái phiếu cũng càng cao . Thứ ba : Uy tín tài chính của của công ty và mức độ rủi ro : Mức độ thuận lợi và tính hấp dẫn của trái phiếu công ty luôn luôn phụ thuộc vào uy tín của công ty nhất là độ tin cậy về tài chính .Nếu công ty có uy tín lớn , tiềm lực tài chính mạnh thì tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường chứng khoán sẽ cao hơn do nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua .Các doanh nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng .VD :Khi các công ty lơn như công ty sữa Vinamilk ,công ty bánh Kinh Đô ,Hải Hà phát hành trái phiếu huy động vốn thì sẽ dề dàng hơn các công ty nhỏ vì đây là các công ty lớn , khi nhắc đến ai cũng biết do đó họ tin tưởng hơn vào khả năng trả nợ của công ty . Ngoài ra khi phát hành trái phiếu ,cũng cần chú ý đên mệnh giá của trái phiều vì nó liên quan đến sức mua của dân chúng đặc biệt ở Việt Nam khi phát hành trái phiếu ,doanh nghiệp cần xác điịnh 1 mức mệnh giá thích hợp để nhiều người có thể mua được ,tạo ra sự lưu thông dễ dàng của trái phiếu trên thị trường .Nếu mệnh giá quá lớn sẽ ít có công chúng có khả năng mua ,chỉ đa phần các nhà đầu tư lớn mua ,như vậy tính thanh khoản trên thị trường sẽ rất kém . 2.4.2.Trái phiếu có lãi suất thay đổi : Loại trái phiếu này không phải là phổ biến đối với trái phiếu .Gọi là trái phiếu có lãi suất thay đổi là do lãi suất của nó phụ thuộc vào 1 số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế .VD :Lãi suất LIRBOR ( London Interbank Offered Rate ) hoặc lãi suất cơ bản do ngân hàng TW quy định .Có trường hợp lãi suất thông báo của 1 trái phiếu được ấn định như sau : i = LIBOR + 1%/năm . Một vấn đề đặt ra là đối với trái phiếu thả nổi thì sao ? Khi nào thì doanh nghiệp nên phát hành loại trái phiếu này ? Trong diều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định ,doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này .Do các biến động của lạm phát kéo theo sự giao động của lãi suất thực ,các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một mức lãi suất thỏa đáng khi so sánh với tình hình thị trường . VD : Khi mức lạm phát tăng nhanh và ở mức cao ,nếu lãi suất trái phiếu giữ ở mức cố định thì lãi suất thực tế của trái phiếu giảm xuống do đó giảm hấp dẫn .Vì vậy mà một số người ưa thích trài phiếu thả nổi .Tuy nhiên loại trái phiếu này có một vài nhược điểm ,đó là : Doanh nghiệp không biết trước được về chi phí lãi vay của trái phiếu ,điều này gây khó khăn 1 phần cho việc lập kế hoạch tài chính của công ty . Thứ hai:việc quản lí trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn và phức tạp hơn do phải theo dõi và thông báo cáclần điều chỉnh lãi suất cho người mua cổ phiếu . 2.4.3 Trái phiếu có thể thu hồi Một số doanh nghiệp lựa chọn việc phát hành các trái phiếu có thể thu hồi , tức là doanh nghiệp có thể thu hồi vào một thời điểm nào đó . Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành trái phiếu để người mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ thời hạn thu hồi và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu . Thông thường người ta quy định thời gian tối thiểu mà trái phiếu sẽ bị thu hồi , vd trong thời gian 36 tháng Loại trai phiếu này có những ưu điểm là : Thứ nhất : có thể sử dụng như một cách điều chỉnh vốn sử dụng . Khi không cần thiết , công ti có thể mua lại các trai phiếu , tức là giảm số vốn vay . Thứ hai : công ti có thể thay trái phiếu loại này bằng nguồng tài chính khác bằng cách mua lại các trái phiếu đó . Tuy nhiên nếu không có những hấp dẫn nào đó thì loại trái phiếu này sẽ không được ưu thích vì số vốn của họ sẽ bị biến động , họ sẽ phải chuyển hướng đầu tư khi mà bỗng nhiên doanh nghiệp mua lại trái phiếu 2.4.4 .Chứng khoán có thể chuyển đổi : Các doanh nghiệp đặc biệt là các công ti mỹ , thường phát hành những chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được . Nói chung , sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên (doanh nghiệp , người đầu tư )có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp . Có một số hình thức chuyển đổi , ở đây chỉ đề cập hai loại phổ biến : Giấy bảo đảm :người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu thường , được quy định với giá cả và thời gian xác định Trái phiếu chuyuển đổi : là loại trái phiếu cho phép sau một thời gian nhất định có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định cổ phiếu thường . Nếu thị giá cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơmay nhận được lợi nhuận cao do đó loại trái phiếu này có thể hấp dẫn 2.5 Vốn vay của nước ngoài hay hình thành liên doanh với nước ngoài Khhi một doanh nghiệp cần vốn thì một biện pháp có thể thực hiện là liên doanh với nước ngoài . Khi đó doanh nghiệp sẽ nhận được vốn và kĩ thuật từ phía nước ngoài . Bên chúng ta đa phần là góp quyền sử dụng đất , lựng vốn bỏ ra thường là ít . Hoặc là có thể vay của các tổ chức quốc tế , các nguồn như ODA, FDI…. II/ Ưu điểm và nhược điểm khi sử dụng các nguồn vồn nói trên Nguồn vốn chủ sở hữu Vốn tự có của doanh nghiệp Đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn góp ban đầu do nhà nước cấp từ ngân sách nhà nước , được cấp đất xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh . Tuy nhiên phải nhình nhận thực tế Việt Nam là ngân sách rất hạn chế . Thường xuyên bị thâm hụt ngan sách , do đó việc doanh nghiệp chờ được cấp vốn là rất khó khăn , số lượng hạn chế . HiỆN tại doanh nghiệp nhà nước đang dần được cổ phần hóa , số lượng doanh nghiệp nhà nước còn lại không nhiều và thực tế việc sử dụng vốn của nhà nước của các doanh nghiệp này là không hiệu quả . Lợi nhuận các doanh nghiệp này là không cao , thậm chí còn bị thua lỗ trong thời gian dài . Trong giai đoạn hiện nay thì nguồn tài trợ này là khkông hiệu quả, do đó đây không phải là nguồn tài trợ tối ưu , nguồn này chỉ có hiệu quả trong cơ chế bao cấp trước đây Với công ti tư nhân thì vốn góp ban đầu do chủ công ti bỏ ra . Do đó lượng vốn này thường không lớn lắm . Nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận không chia Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là con đường tốt nhất và khá hấp dẫn của doanh nghiệp . Vì doanh ngghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài . Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại , họ đặt ra phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng . Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận , đuợc phép đầu tư . Đối với doanh nghiệp nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của nhà nước Tuy nhiên , đối với các công ti cổ phần thì việc để lại lợi nhuận còn liên quan đến một số yếy tố rất nhạy cảm . Khi công ty quyết định để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư , tức là không dùng đến số lợi nhuận đó , không dùng để chia lãi cổ phần (lợi tức) hoặc mức cổ tức bị giảm , như vậy ảnh hưởng đến quyền lợi hiện tại của cổ đông do đó cần phải giữ một tỉ lệ thích hợp . Nhưng bù lại họ lại có quyên sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ti mà họ không cần phải góp thêm Như vậy giá tự ghi dổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cung với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ . Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài , nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời ki trước mắt (ngắn hạn)do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỉ lệ chi trả cổ tức thấp , hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư , chính sách phân phối của công ti cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như: tổng số lợi nhuận ròng trong kì mức chia lãi trên một cổ phiếu các năm trước sự xếp hạng của cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ti , tâm lí va đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó hiệu quả của việc tái đầu tư Tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới(cổ phần hóa) Để huy động vốn kinh doanh có thể bán số lượng cổ phiếu cho người mua (cổ đông)tùy theo số vốn cần có . Nếu chỉ bán cho vài người thi thủ tục đơn giản dễ dàng , không phải đăng kí cổ phiếú . Có hai loại cổ phiếu :cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nố có ưu thế trong việc phát hành ra công chúng .và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được lưu hành trên thị trường chứng khoán , điều đó cũng đủ minh chứng sự quan trong của nó so vói các công cụ tài chính khác . Việc chuyển nhượng cổ phiếu dễ dàng là một cách thu hút người mua , thu hút các nhà đầu tư trước các hình thức đầu tư rất khó chuyển nhượng vốn đầu tư Việc huy động vốn theo hình thức phát hành cổ phiếu đang được ưa chuộng nhất hiện nay , và đây cũng là phương thức huy động vốn tối ưu nhất . Chúng ta nên chọn nguồn này . Chúng ta thấy các luồng truyền thông đại chúng không ngừng ca ngợi tán dương tác dụng việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu trong việc khởi sự kinh doanh cũng như lúc cân tăng cường vốn để đẩy mạnh hoạt động nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Vậy tại sao nguồn vốn cổ phần lại có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư như vậy ? Lí do chính là nó khiến cho doanh nghiệp có cảm giác “thoải mái” được sử dụng một lượng vốn “miễn phí”. Bởi vì doanh nghiệp không có trách nhiệm phải hoàn lại tiền vốn gốc và khoản lãi suất cho người đầu tưmua cổ phiếu . Lợi tức cổ phiếu (cổ tức )chỉ phải chi trả khi công ti làm ăn có lãi . Ngược lại nếu công ti làm ăn thua lỗ hoặc chưa có lãi công ti không có trách nhiệm hoàn trả ( đương nhiên , việc làm ăn của doanh nghiệp phải minh bạch , công khai ) Việc thiết lập doanh nghiệp theo mô hình công ti cổ phần hoặc chuyỷen đổi hình thành doanh nghiệp sang loại hình công ti cổ phần là việc làm được nhà nước khuyến khích . Vì đây là một loại hình doanh nghiệp có tổ chhức quản trị hệ thống và hiệu quả và các nhà đầu tư kinh doanh trên thế giới rất ưa chuộng công ti cổ phần có điều kiện tham gia thị trường chứng khoán do đó góp phần phát triển thị trường vốn . Tuy nhiên vẫn có những doanh nghiệp chưa hoàn toàn thích thú với loại công ti cổ phần do việc huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu vẫn còn có những hạn chế và các dàng buộc cần được doanh nghiệp cân nhắc kĩ lưỡng . Giới hạn phát hành quy định dàng buộc có tính chất pháp lí . Lượng cổ phiếu tối đa mà công ti được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép . Đây là một trong nhhững quy định của ủy ban chứng khoán nhà nước nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát và giao dịch chứng khoán . Tại nhiều nước , số cổ phiếu dược phép phát hành dược ghi trong điều lệ của công ti , tuy nhiên một số nước khác không quy định ghi số lượng đó trong điều lệ công ti . Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết phải được đại đa số cổ đông cho phép , sau đó phải hoàn tất những thủ tục quy định khác Hầu hết các nước đều sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan trọng để kiểm soát và hạn chế các rủi do cho công chúng . Thông thường một công ti có thể phát hành một lần hay một số lần trong giới hạn số cổ phiếu đã được cấp phép phát hành . VD: công ti X được phép phát hành 100 triệu cổ phiếu giả sử năm nay đã phát hết 40 triệu cổ phiếu thì đương nhiên công ti còn được phép phát hành 60 triệu cổ phiếu Tuy nhiên , trên thực tế việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành chứng khoán tùy thuộc vào chính sách cụ thể của nhà nước . Ở Việt Nam hiện nay , hệ thống văn bản pháp quy về chứng khoán mới được xây dựng và đang trong quá trình hoàn thhiện đẻ tạo điều kiện tốt hơn cho việc hoạt động huy động vốn của doanh nghgiệp và lưu chuyển vốn trong nền kinh tế Sau khi phát hành phần lớn cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu tư –các cổ đông . Những cổ phiếu này được gọi là những cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường . Tuy nhiên , có thể chính công ti phát hành mua lại một số cổ phiếu của mình nhằm mục đích nào đó . Những cổ phiếu được công ti mua lại như vậy gọi là cổ phiếu quỹ . Những cổ phiếu này được tạm thời coi như không lưu hành . Việc mua lại hoặc bán ra các cổ phiếu này phụ thuộc một số yếu tố như: tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trường chính sách đối với việc sáp nhập hay thôn tính công ty tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của ủy ban chứng khoán nhà nuớc mệnh giá và thị giá Gía trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá , giá cả của cổ phiếu trên thị trường gọi là thị giá . Gía trị cổ phiếu được ghih trong sổ sách của công ty gọi là giá trị ghi sổ , đó cũng chính là mệnh giá của các cổ phiếu đã phát hành Mệnh giá không chỉ được ghi trên mặt cổ phiếu mà còn được ghi rõ trong giấy phép phát hành và trên sổ sách kế toán của công ty . Tuy nhiên , mệnh giá chỉ có ý ngghĩa khi phát hành cổ phiếu và sau thời gian ngắn sau khi cổ phiếu được phát hành . Thị giá phản ánh sự đánh giá của thị trường đối với cổ phiếu , phản ánh lòng tin của các nhà đầu tư đối với công ty Vậy cổ đông có quền hạn gì ?Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chính là những người sở hữu công ty , do đó họ có quyền trước hết với tài sản và sự phân chia tài sản hay thu nhập của công ty . Cổ đông có quyền tham gia vào kiểm soát và điều khiển các công việc của công ty . Tuy nhiên thông thường có một lượng cổ đông của công ty, nên mỗi cổ đông chỉ có một quyền lực giới hạn nhất định trong việc bỏ phiếu hay chỉ định thành viên của ban giám đốc . Một số công nhân viên hay một số vấn đề đặc biệt cần có sự nhất chí của đa số cổ đông Tùy theo việc quy định trong điều lệ công ty có thể hình thành các phương thức bỏ phiếu khác nhau . Hai phương pháp được sử dụng rộng dãi nhất là bỏ phiếu theo đa số và bỏ phiếu gộp Bỏ phiếu theo đa số là việc cổ đông có thể dùng mỗi lá phiếu đẻ bầu một người quản lý , các chức danh sẽ được bầu riêng rẽ . Điều này rõ ràng có lợi cho những người đang nắm đa số cổ phiếu của công ty vì: họ có thể tạo áp lực mạnh hơn bằng đa số cổ phiếu nắm giữ Cơ chế bỏ phiếu gộp cho phép cùng bỏ phiếu cho một số ứng cử viên nào đó , tức là một cổ đông có thể dồn toàn bộ số phiếu có trong tay cho một ứng cử viên được ưa chuộng . Đây là lý do tại sao một số các cổ đông thiểu số ủng hộ cơ chế bỏ phiếu gộp Trong điều lệ công ty , có quy định rõ về phạm vi những sự vụ cần đa số (trên 50%trở lên ) cổ đông tán thành và những vấn đề cần được đa số (trên 75%) cổ đông tán thành Vấn đề chống thôn tính , bảo vệ công ty trước sự xâm thực bằng cổ phiếu của các công ty khác là một khía cạnh đặc biệt . Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu phải xét đến nguy cơ bị thôn tính . Do đó phải xét đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu cần duy trì quyền kiểm soát của công ty Cổ phiếu ưu tiên Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành . Tuy nhiên , trong một số trường hợp , việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp . Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định . Người chủ cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường . Nếu số lãi chỉ đủ để trả cho số cổ tức cho các cổ đôngưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó . Việc giải quyết chính sách được ghi rõ trong điều lệ công ty. Phần lớn cá công ty cổ phần quy định rõ :công ty có nghĩa vụ trả hết số lợi tức chưa thanh toán của các kì trước cho cổ đông ưu tiên , sau đó mới thanh toán cho các cổ đông thường . Các cổ phiếu ưu đãi cố thể được chính công ty phát hành thu hồi lại (chuộc lại ) khi công ty cần thiết . Những trường hợp nhưvậy cần quy định rõ những điểm sau : trường hợp nào thì công ty có thể mua lại cổ phiếu giá cả khi công ty mua cổ phiêu thời hạn tối thiểu được phép mua lại cổ phiếu (VD5 năm ) Trong thực tế ở một số nước như Mỹ chẳng hạn , rất hiếm khi cổ đông ưu tiên có quyền bỏ phiếu một cách đầy đủ . Tuy nhiên nếu có ít nhất 2/3 cổ đông ưu tiên nhất trí về một vấn đề nào đó thì ban lãnh đạo công ty phải xem xét ý kiến của họ . Nếu cá cổ phiếu ưu tiên không được trả cổ tức thì các cổ đông của những cổ phiếu đó có thể được quyền bỏ phiếu Một vấn đề rấ quan trọng khi phát hành cổ phiêu ưu tiên đó là thuế . Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty , cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế . Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên . Mặc dù vậy như đã đề cập cổ phiếu ưu tiên vẫn cố những ưu điểm với công ty phát hành và cả nhà đầu tư . Khi nào các hãng phát hành và thu hồi cổ phiếu ?Để trả lời câu hỏi này cần xem xét những khía cạnh sau: Các hãng thường cố cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu , để giữ vững khả năng thanh toán , củng cố uy tín tài chính . Khi tỉ lệ nợ ở mức thấp , nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ (mà không tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu). Nếu tỉ lệ nợ ở mức cao công ty phải tránh tăng tỷ lệ nợ và chon cách phát hành cổ phiêu Tuy nhiên , thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến giữ một mức cânn bằng chính xác . Việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và vốn nợ thường ngẫu hứng và theo kiểu linh hoạt” tùy cơ ứng biến” Sự phản ứng trước các biến động của thị trường chứng khoán là một yếu tố đáng chú ý . Một số nhà phân tích tài chính doanh nghiệp đả dưa ra một số nhận xét sau : Phần lớn các cổ phiếu được phát hành bổ xung sau khi thị giá của cổ phiếu của công ty đó tăng lên trên thị trường chứng khoán Giá cổ phiếu tăng lên là một cơ hội có nhiều cơ hội đầu tư mở rộng vào những dự án có triển vọng trong doanh nghiệp Tuy nhiên , người ta chưa lí giải được một cách tường tận vì sao trên thực tế các công ty thường chọn việc phát hành cổ phiếu sau khi giá cổ phiếu tăng . Một số nguyên nhân có thể là những yếu tố sau đây : do đòi hỏi cân bằng tỉ lệ nợ (như nói ở trên ) do tỷ lệ P/E ở mức cao , tức là thị giá cổ phiêu tăng mạnh hơn tốc độ tăng của tỉ suất lợi nhuận ròng do yếu tố tâm lý của công chúng và các nhà đầu tư trên thị trường Ngoài ra , vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể được bổ xung từ phần chênh lệch giá lại TSCĐ , chênh lệch tỉ giá 2 Vốn nợ 2.1 Nguuồn vốn tín dụng ngân hàng Nguồn vốn tín dụng ngân hàng luôn chiếm tỉ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp . Nó có rất nhiều ưu điểm . Khi có đủ điều kiện để vay thì doanh nghiệp sẽ được cấp ngay tín dụng đêt đáp ứng nhu cầu với nhiều hình thức như :cho vay ngắn hạn , dài hạn , trung hạn, với nhiều mức lãi suất và cách thức thanh toán khác nhau . Tuy nhiên , bản thân việc vay vốn không phải lúc nào cũng là thượng sách . Do khi vay ngân hàng doanh nghiệp phải chịu chi phí sử dụng vốn (lãi suất )và các hạn chế về điều kiện tín dụng , kiểm soát của ngân hàng Điều kiện tín dụng : Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đảm bảo các yêu câu bảo đảm an toàn tín dụng của ngân hàng . Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và các thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu . Trước tiên ngân hàng phải phân tích hồ sơ vay vốn , đánh giá các thông tin liên quan đén dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuât- kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn Điêu kiện bảo đảm tiền vay : Khi doanh nghgiệp vay vốn nói chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tiền vay, phổ biến nhất là tài sản thuế chấp . Việc yêu cầu người vay có tài sản thuế châp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay , kể cả những thủ tục pháp lí về giấy tờ …Đây là một dào cản vì rất nhiều trường hợp doanh nghiệp có dự án sản xuất- kinh doanh rất khả thi , khả năng thành công mang lại lợi nhuận là rất lớn nhưng hiện tai doanh nghiệp không đủ tài sản đẻ thuế chấp vay ngân hàng . Đây là vấn đề doanh nghiệp cần tính đến khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng Sự kiểm soát của ngân hàng : Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay . Nói chung sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp , tuy nhiên trong một số trường hợp cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát” Lãi suất vay vốn : Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn . Lãi suất vay vốn tùy thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kì . nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp sẽ phai chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp . Có thời kì lãi suất vay vốn ở nước ta khá cao và thiếu tính cạnh trannh do đó không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất-kinh doanh Mặt khác lãi suất vay vốn được tính vào chi phí tài chính do đó ảnh hưởng tới lợi nhuận trước thuế . Do đó tiết kiệm được thuế. Đây là một ưu điểm so vơi việc sử dụng vốn chủ sở hữu được tính vào lợi nhuận sau thuế 3.Nguồn vốn tín dụng thương mại Đối với doanh nghiệp được tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức rẻ , linh hoạt và tiện dụng trong kinh doanh . Hơn nữa nó còn tạo ra khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền . Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên kí hợp đồng kinh doanh hay hợp đồng kinh tế nói chung . Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn quan trọng đối với hầu như tâts cả các doanh nghiệp và đối với các công ty thương mại , nó là nguồn tài trợ ngắn hạn lớn nhất Tuy nhiên cần nhận thấy tính chất rủi do của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn Mức độ sử dụng tín dụng thương mại của một doanh nghiệp tùy vào chi phí của khoản tín dụng đó . Trong nhiều trường hợp chi phí sử dụng khá caoVDmột dao dịch tín dụng thương mại quy định hình thức thanh toán “2/10net30”tức là nhà thanh toán ssẽ triết khấu 2% trên giá trị của hóa đơn mua hàng nếu người mua trả tiền trong 10 ngày kể từ ngày giao hàng . Nếu người mua trả tiền trong khoảng thời gian 20 ngày , tức là từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 30kể từ ngày giao hàng thì phải thanh toán toàn bộ hóa đơn . Trong trường hợp này người mua đã mất khoản chiết khấu mà có thể coi mhư là chi phí cơ hội mà doanh nghiệp phải trả để được sử dụng khoản tiền hàng trong thời gian 20 ngày Chẳng hạn , với giá trị mua hàng là 100 ÚD thì với những điều kiện như trên người mua hàng chỉ phải trả 98 ÚD nếu trả trong thời hạn 10 ngày và trả 100ÚD nêu trả trong thời hạn từ 20-30 ngày .Tỉ lệ chiết khấu sẽ là 2/98=0,204 hay 2,04%tiền lãi trong thời gian 20 ngày . Do đó chúng ta có thể tính được lãi suất đơn trobg thời hạn một năm như sau :2,04%x360/20=36,7% Và nếu tính theo lãi suất kép thì còn cao hơn : (1+0,204)^18-1=48,3% Tóm lại , chi phhí của tín dụng thương mại là chi phí mà khi người mua không thanh toán được tiền trong thời hạn được hưởng triết khấu và có thể tính chi phí của nó như sau: Tỉ lệ chi phí =(tỉ lệ chiết khấu / (100-tỉ lệ chiết khấu))x(360 / (số ngày thu mua –thời gian được hưởng triết khấu)) Trong những điều kiện này nếu doanh nghiệp muốn hưởng chiết khấu thì nên thanh toán vào ngày thứ 10 , và nếu không đủ khả năng thì nên để hết hạn của hóa đơn mới thanh toán là có lợi nhât . Bởi trong thời gian từ ngày thứ 11 đền ngày thứ 30 doanh nghiệp không phải trả thêm bất cứ khoản chi phí nào . Một trường hợp khác nữa có thể xảy ra là doanh nghiệp chủ động không thanh toán đúng hạn thì chi phí sẽ thế nào ? Nhà quản trị tài chính có thể” tận dụng” tín dụng thương mại bằng cách trì hoãn việc thanh toán các khoản tiền mua trả chậm vượt quá thời hạn phải trả . Khi điều đó được áp dụng trong thực tế thì chi phí của tín dụng thương mại giảm , thực tế náy được minh họa trong bảng sau : Số ngày từ khi có hóa đơn cho đến khi trả tiền Số ngày từ hoãn thanh toán Điều kiện tín dụng 1/10 net 30 2/10 net 30 3/10 net 30 30 45 60 90 0 15 30 60 18,2% 10,4% 7,3% 4,5% 36,7% 21% 14,7% 9,2% 55,7% 31,8% 22,3% 13,9% Nguyên nhân làm giảm chi phí là do doanh nghiệp từ bỏ khoản tiền chiết khấu để trả cho việc sử dụng nguồn ngân quỹ đó trong khoảng thời gian dài hơn những điều kiện tín dụng đã được quy định trong thỏa thuận mua bán . Không có nhà cung cấp nào lại áp dụng những biện pháp xiết chặt hay phạt vạ khách hàng trong trường hợp đôi khi khách hàng chậm thanh toán một vài ngày so với thời gian quy định trong hợp đồng . Mức độ rộng lượng đó tùy vào nhà cung cấp và các điều kiện kinh tế , cạnh tranh tại thời điểm diễn ra giao dịch . Tuy nhiên khi áp dụng sách lược thanh toán này , doanh nghiệp có thể chịu một số tổn hại đến vị thế tín dụng và danh tiến của công ty . Vì người ta sẽ đặt ra câu hỏi doanh nghiệp hoạt động như thế nào mà thường xuyên thanh toán không đúng hạn ? Một là khả năng trả nợ của doanh nghiệp có vấn đề . Hai là doanh nghiệp là cơ sở không giữ chữ tín , có nhưng không trả . Hậu quả là doang nghiệp phải chịu những chi phí tín dụng coa hơn trong những giao dịch sau , bởi các nhà cung cấp có thể quy định thêm một số loai chi phí tài chính khách trong hợp đồng . 4 . Một số nguồn tài trợ không do vay ngắn hạn như nợ tích lũy và tiền đặt cọc của khách hàng Các nguồn kinh phí này là hình thức tai trợ “miễn phí” bởi lẽ doanh nghiệp có thể sử dụng tiền mà không phải trả lãi cho đến ngày phải thanh toán Tuy nhiên phạm vi ứng dụng của khoản nợ tích lũy là có giới hạn . Bởi lẽ doanh nghiệp chỉ có thể trì hoãn việc nộp thuế trong điều kiện cực kì khó khăn về tài chính và phải chịu phạt . Hoặc nếu doanh nghiệp chậm trả lương sẽ làm giảm tinh thần làm việc của công nhân , do đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty 5. Vay vốn từ dân cư và các tổ chức kinh doanh khác thông qua phát hành trái phiếu Sử dụng nguồn tài trợ này doanh nghiệp phải trả lãi và lãi suất phải hấp dẫn thì mới có thể thu hút được các nhà đầu tư . Sử dụng nguồn vốn này nếu doanh nghiệp là tổ chức có tiến thì việc huy động mới dễ dàng , có thể huy động được lượng vốn lớn , tuy nhiên nếu là doanh nghiệp nhỏ thì vô cùng khó khăn , vì công ty nhỏ ít người biết nên không biết tình hình tài chính của công ty thế nào trả nợ ra sao nên họ không dám mạo hiểm mua nhiều . Thực tế ở nước ta thị trường trái phiếu còn trong giai đoạn rất sơ khai . Cho đến nay trái phiếu của công ty được phát hành trên thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất ít . Thực tế thì một số tổ chức đã tổ chức phát hành trái phiếu ra công chúng như công ty Tài chính quốc tế Việt Nam (VILC )PHÁT HÀNH 20 tỷ VNĐ thông qua ngân hàng Công thương Việt Nam làm đại lí phát hành thời hạn 2năm (2000 ) . Tuy vậy kĩ thuật phát hành còn hạn chế nên các trái phiếu này không được chuẩn hóa , chỉ giống như kì phiếu có thời hạn và không được dao dịch trên thị trường chứng khoán . Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN ) mặc dù có nhu cầu lớn về vốn song ít phát hành trái phiếu để huy động vốn dài hạn . Ngoài ra có một vài công ty tư nhân và DNNN phát hành trái phiếu . Chẳng hạn trái phiếu công ty thép Miền Nam phát hành thời hạn 20-30 năm và lãi suất được công bố hàng năm . Ban cổ phần hóa và công ty điện lực Việt Nam (EVN )cho biết ngày 17/11/06 thông qua ngân hàng An Bình làm bảo lãnh , EVN sẽ phát hành thêm 100 tỷ đồng trái phiếu . Đây là lần phát hành thứ 7 trong năm 2006 nâng tổng vốn huy động lên tới 5000 tỷ đồng . trái phiếu điện lực phát hành lần này có mệnh giá 100.000đồng / trái phiếu , kỳ hạn là 10 năm , lãi suất năm đầu là 9,6 %/ năm , từ năm thứ hai là 9,95 %/ năm . Như vậy đây là trai phiếu lãi suất thay đổi . Đợt phát hành trái phiếu này chủ yếu cho nhà đầu tư nước ngoài . Nhìn chung một thị trường trái phiếu công ty có ý nghĩa đối với việc huy động vốn dài hạn khó có thể hình thành trong tương lai gần . Hiện tại ViệtNam còn thiếu nhiều diều kiện để phát hành thị trường trái phiếu công ty (ngay ở nhiều nước ASEAN thị trường này vẫn còn nhỏ bé và có nhiều khiếm khuyết ). Do vậy đây không phải là một cách huy động vốn tối ưu cho doanh nghiệp 6. Vốn vay của nước ngoài hay hinh thành liên doanh với nước ngoài . Doanh nghiệp có thể đi vay của các tổ chức quốc tế hay chính phủ nước ngoài . Hoặc tiền hành liên doanh với nước ngoài để nhận được sự đầu tư về vốn , kĩ thuuật , còn phía chúng ta chủ yếu góp quyền sử dụng đất và lao động . Trên thế giới có nhiều tổ chức tài chính chuyên hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân , trong đó công ty tài chính quốc tế ( IFC ) là tổ chức phi chính phủ thuộc ngân hàng thế giới (WB ) được thành lập với chức năng hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp ở các nước qua các dự án đầu tư kinh doanh . Hoạt động tài trợ vốn của IFC đã thực hiện nhiều nơi trên thế giới như Mỹ Nhật và các nước đang phát triển như Trung Quốc , thái Lan Dô vốn đầu tư đồ sộ nên tới hàng trăm tỷ ÚSD nên IFC đã hỗ trợ đầu tư cho nhiều dự án trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau như : xi măng , sắt thép , nông nghiệp , công nghiệp …. Nhiều công ty kinh doanh của nhiều nước đã vượt qua sự khó khăn do thiếu vốn nhờ sự giúp đỡ của IFC Vì vậy người ta nói IFC đóng vai trò khá quan trọng cho việc hỗ trợ phát triển của các công ty tạo cơ sở hình thành nhiều khu vực kinh tế tư nhân năng động trên thế giới . Như vậy đây có thể coi là nguồn tài trợ vốn cho các doanh nghiệ Việt Nam . Nếu doanh nghiệp của bạn thiếu vốn bạn có thể liên hệ thẳng với IFC hoặc chi nhánh của IFC tại Việt Nam . Một VDcụ thê là hai nhà đầu tư tài chính lớn của Mỹ là quỹ đầu tư Texas Pacific Group (TBG )và Intel Capital (thuộc tập đoàn Intel ) vừa quyết định đầu tư 36,5 triệu USD vào công ty FPT thông qua việc mua cổ phiếu của công ty này . Họ đầu tư vào FPT vì mức tăng trưởng của công ty này luôn ở mức cao : 70%/ năm trong nhiều năm qua . Trong 10 tháng qua , khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã nộp ngân sách nhà nước 1,011 tỉ USD , tăng 13 % so với cùng kì năm ngoái (không kể các nguồn thu từ dầu thô và thuế nhập khẩu )đóng góp trên 10% tổng thu ngân sách nhà nước . Số liệu trên cho thấy khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang là khu vực kinh tế phát triển năng động , đạt hiệu quả cao trong nền kinh tế . Đó là các số liệu cụ thể về vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .Như vậy nguồn vốn đầu tư nước ngoài , đặc biệt là đầu tư trực tiếp (FDI ) có tác động rất tích cực trong phát triển kinh tế . Sử dụng FDI giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam ( đặc biệt doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp vừa và nhỏ ) tăng vốn đầu tư tạo cơ hội mở rộng quy mô sản xuất , nâng cấp trang thiết bị , tiếp cận công nghệ hiện đại qua chuyển giao công nghệ đầu tư từ phía nước ngoài . Thứ hai khi hợp tác kinh doanh với nhà tư bản nước ngoài (NTBNN ) các doanh nghiệp tư nhân (DNTN ) Việt Nam sẽ có thêm những kinh nghiệm quản lí kinh doanh mới tiên tiến trong kinh tế thị trường , có mặt bằng sản xuất quy mô lớn , có cơ hội đào tạo nguồn nhân lực vừa có tay nghề cao , vừa co tác phong công nghiệp , thêm những cơ hội mở rộng thị trường xuất nhập khẩu , giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Việt Nam đi dần vào quỹ đạo của kinh tế thị trường và hội nhập cùng với khu vực Chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn hiện nay nhưng chúng ta cũng cần nhìn nhận những tiêu cực của nó : Cơ cấu vốn đầu tư còn bất hợp lý so với định hướng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước .Trong thời gian qua ,hoạt động FDI mới chỉ tập trung đầu tư vào các ngành dễ thu lợi nhuận ,thời gian thu hồi vốn ngắn ,một số lĩnh vực trong các ngành nông ,lâm nghiệp ,công nghiệp và dịch vụ có giá trị lớn như GTVT ,BCVT ,ngân hàng ,tài chính …chiếm tỉ lệ thấp về số lượng dự án và số vốn đầu tư .Một số dự án kinh doanh kém hiệu quả buộc phải phá sản do thua lỗ kéo dài .Đã có nhiều doanh nghiệp liên quan phải chuyển sang công ty 100% vốn nước ngoài để cải thiện tình hình hoạt động sản xuất ,kinh doanh .Nhiều công ty liên doanh với nước ngoài có giá trị góp vốn của Việt Nam thấp ,chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất và công nghệ cũ và lạc hậu gây ô nhiễm môi trường . Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia chi phối cho nên nếu nền kinh tế nước ta không phát triển nhanh và bền vững thì dễ dẫn đến sự lệ thuộc vào vốn ,kỹ thuật ,thị trường và mạng lưới tiêu thụ ,phân phối của nước ngoài làm ảnh hưởng đến kinh tế xã hội của đất nước ,tăng xu hướng phân hóa giàu nghèo trong xã hội . Khi đi vay của các tổ chức tài chính nước ngoài thì chúng ta đã hình thành nên các khoan nợ nước ngoài .Nếu sử dụng không hiệu quả ,quản lí khôngtốt có thể làm cho các khoản nợ này ngày càng lớn và có thể khủng hoảng nợ xảy ra .Vấn đề này tác động rất nhiều đến nền kinh tế và an ninh chính trị quốc gia . Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy việc chấp nhận vốn nước ngoài có vai trò quan trọng đặc biệt (chiếm tỉ trọng áp đảo trong tổng lượng đầu tư ) ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa như là một tiền đề để nâng cao nhanh chóng năng lực tích lũy trong nước từ đó đảo ngược lại tương quan là một sách lược có thể rất khôn ngoan . Như vậy ta có thể kết luận là việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài là nhằm để tận dụng tối đa các lợi thế của doanh nghiệp , của đất nước . Nhưng phải duy trì ở một tỷ lệ tương ứng với năng lực trả nợ của doanh nghiệp . NGUỒN NÀO LÀ TỐI ƯU DOANH NGHIỆP Qua việc phân tích ưu điểm và nhươc điểm của các phương thức tài trợ vốn cho doanh nghiệp trên đây thì câu hỏi đặt ra với chúng ta là : doanh nghiệp nên chọn nguồn tài trợ nào là có lợi nhất ?nguồn nào là tối ưu nhất ? Theo quan điểm của cá nhân người viết em nghĩ rằng nguồn vốn tối ưu cho các doanh nghiệp là cổ phần hóa thông qua phát hành cổ phiếu , tức là huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán . III. Cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp : Phát hành cổ phiếu là phương thức tối ưu nhưng trong điều kiện hạn hẹp vốn như ở nước ta vấn đề huy động và sử dụng vốn có hiệ quả là công việc cần thiết đối với doanh nghiệp . Để thực hiện được điều đó các doanh nghiệp phải tính toánh và xây dựng cho mình một cơ cấu vốn tối ưu . Cơ cấu vốn là thuật ngữ dùng để chỉ tỉ trọng các nguồn vốn trong tổng số tiền dược sử dụng để tài trợ cho tổng tài sản của nó chẳng hạn một công ty có tổng tài sản là 100 đơn vị tiền trong đó 70 đơn vị là do các cổ đông đóng góp , 30 đơn vị là nợ vay cũng có nghĩa là cơ cấu vốn của công ty trên là 70% vốn vhủ sở hữu và 30% là nợ vay . Nhưng do mỗi nguồn vốn huy động có chi phí khác nhau nên với cùng một lượng vốn huy động nhưng tỉ lệ của các nguồn vốn khác nhau thì cũng khác nhau . Do vậy khi huy động vốn phục vụ kinh doanh người quản lí tài chính của doanh nghiệp phải tính toán một cơ cấu vốn hợp lí là một việc làm cần thiết . Chúng ta có thể xem xét ảnh hưởng của việc sử dụng các cơ cấu vốn khác nhau qua ví dụ : giả sử doanh nghiệp A cần một lượng vốn hoạt động là 200 triệu ÚD . Số vốn này có thể huy động theo cơ cấu 10% nợ 90% vốn chủ sở hữu , cũng có thể huy động 30% là nợ và 70% vốn chủ sở hữu , hoặc 50% nợ và 50% vốn chủ sở hữu . Gỉa sử thêm rănghf chi phí cố định là 40 triệu ÚSD chi phí biêns đỏi tính bằng 60% doanh số bán hàng . Lãi suất đối với vốn vay là 10% ( tương ứng với mức vay bằng 10% so với tổng tài sản ) và bằng 12% ( tương ứng với mức vay bằng 50% tài sản ) , thếu suất thếu TNDN là 40% và doanh thu mỗi năm là 300 triệu USD với các mức nợ khác nhau ta có bảng sau : Thu nhập trên VCSH ứng với các mức nợ vay khác nhau Đơn vị tiền : 1000USD Chỉ tiêu Tiền 1.Tính thu nhập trước lãi vay và thuế Doanh thu Chi phí cố định Chi phí biến đổi Tổng chi phí ( chưa kể lãi vay ) Thu nhập trước lãi vay và thuế 2.Khi sử dụng 10% nợ vay ( D/A = 10% ) Thu nhập trước lãi vay và thuế Lãi vay Thu nhập trước thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp Thu nhập ròng Thu nhập trên vốn chủ sở hữu ( EPS ) 3.Khi sử dụng 50% nợ ( D/A = 50% ) Thu nhập trước lãi vay và thuế Lãi vay Thu nhập trước thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp Thu nhập ròng Thu nhập trên vốn chủ sở hữu ( EPS ) 300,000 40,000 180,000 220,000 80,000 80,000 2,000 78,000 31,200 46,800 0,26 80,000 12,000 68,000 27,200 40,800 0,41 Số liệu ở bảng trên cho thấy với tỷ lệ là 10% sẽ đưa lại thu nhập trên vốn CSH là 26% ,nhưng khi tỉ lệ nợ là 50% thì tỷ lệ này là 41% .Như vậy ,sử dụng càng nhiều nợ vay càng có tác dụng phóng đại thu nhập trên VCSH .Ngoài tác dụng này khi sử dụng nợ để tài trợ cho các tài sản của doanh nghiệp thì chủ sở hữu chỉ cần 1 lượng vốn hạn chế cũng có thể nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp .Tuy nhiên ,cũng cần phải thấy rằng khi tỉ lệ nợ vay so với tổng tài sản ( D/A ) tăng lên thì rủi ro tài chính đối với chủ doanh nghiệp cũng tăng lên .Vì thế người cho vay cũng như chủ doanh nghiệp sẽ yêu cầu lãi suất cao tương xứng với rủi ro mà họ dự kiến gánh chịu .Chúng ta có thể quan sát điều này qua bảng trên .Khi tỉ lệ nợ vay là 10% nếu rủi ro xảy ra sẽ dàn trải đều cho 180,000 USD VCSH nhưng trong trường hợp 2 rủi ro xảy ra chỉ chia cho 100,000 USD VCSH mà thôi .Nếu giả sử mỗi một cổ đông sở hữu 1000 USD cổ phiếu thì ở trường hợp 1 rủi ro được dàn trải đều cho 180 người còn trong trường hợp 2 rủi ro chỉ chia cho có 100 người mà thôi .Khi đó rủi ro dành cho họ sẽ tăng lên ,đổi lại họ phải kỳ vọng một lãi suất cao tương xứng . Sự phân tích trên cho thấy khi tỉ lệ D/A tăng lên vừa chứa đựng những nhân tố có lợi cho doanh nghiệp vừa chứa đựng những nhân tố bất lợi cho doanh nghiệp . Từ đó người quản lí tài chính phải tìm được một mức nợ vay hợp lí phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp mới tiến hành huy động vốn . Cơ cấu vốn của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào phong cách và thái độ của ban quản lí công ty .Thực tế cho thấy có những người quản lí thích sử dụng nợ nhiều hơn những người khác .Trong trường hợp như vậy ,cơ cấu vốn của công ty sẽ thiên về việc sử dụng nợ . IV.Các biện pháp khơi tăng nguồn vốn cho doanh nghiệp Việt Nam : Tìm ra được nguồn tối ưu coi như đã tìm ra được phương hướng để giải bài toán về vốn .Nhưng còn thực hiện giải bài toán đó như thế nào ? Chúng ta cần đề ra được các biện pháp để khơi tăng nguồn vốn đó . Từ thực tế trên Việt Nam cần có các biện pháp sau đây cần lưu ý : Thứ nhất : Cổ phần hóa nền kinh tế .Biến các doanh nghiệp quốc doanh thành các công ty cổ phần .Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa . Thứ hai : Phát hành trái phiếu và cổ phiếu thu hút vốn từ công chúng .Để trái phiếu ,cổ phiếu của doanh nghiệp hấp dẫn thì doanh nghiệp phải bảo đảm kinh doanh có lãi ,tiềm lực tài chính ngày càng lớn mạnh . Thứ ba : Để trái phiếu ,cổ phiếu của doanh nghiệp hấp dẫn các nhà đầu tư ,ngoài yếu tố từ bản thân doanh nghiệp thì việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán trong nước là rất quan trọng .Nó tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán .Hiện tại ở Việt Nam đến nay tháng 7/06 đã có 56 loại cổ phiếu được niêm yết và đăng kí giao dịch tại 2 trung tâm giao dịch chứng khoán ( TTGDCK ) : TTGDCK TP Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội ,với tổng giá trị trên thị trường 56,000 tỷ đồng (6,2% GDP ) Từ nay đến năm 2007 , chúng ta sẽ hoàn tất thủ tục để chuyển TTGDCK TP Hồ Chí Minh thành sở giao dịch .Đây là một bước đi quan trọng để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam . Thứ tư : Tăng cường sử dụng vốn sẵn có .Nguồn vốn tự lực của doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp tự chủ hơn .Vì không phải trả lãi cho việc sử dụng vốn ,không phải chịu sức ép chia lãi cổ phần .Tuy nhiên cũng cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vì nguồn vốn này đang rất có hiệu quả ở nước ta . KẾT LUẬN Mỗi một doanh nghiệp là một tế bào tạo nên một tổng thể nền kinh tế. Không thể nói một nền kinh tế phát triển ,vững mạnh khi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trì trệ ,làm ăn thua lỗ .Các doanh nghiệp muốn kinh doanh lại cần có vốn .Bất cứ hoạt động nào cũng đều cần có vốn .Vốn có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại ,phát triển của doanh nghiệp .Do vậy việc tìm ra nguồn huy động vốn cho doanh nghiệp là vô cùng cần thiết và quan trọng . Trong điều kiện vốn hạn hẹp như hiện nay ,các doanh nghiệp cần có chính sách sử dụng vốn một cách hiệu quả để tránh việc lãng phí vốn ,thất thóat vốn . Vấn đề vốn ,sử dụng vốn ,khơi tăng vốn cho doanh nghiệp sẽ còn được đề cập nhiều vì nhu cầu vốn của doanh nghiệp không biết bao nhiêu là đủ .Bài viết trên đây chỉ đề cập đến một số vấn đề nhỏ .Hy vọng rằng trong tương lai không xa các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có bước đột phá ,sẽ lớn mạnh xứng tầm với các công ty ,doanh nghiệp trên thế giới . Danh mục tài liệu tham khảo 1.Giáo trình tài chính doanh nghiệp ( NXB Thống Kê ) 2.Giáo trình Lý thuyết tài chính – tiền tệ ( NXB Thống kê Hà Nội – 2002 ) 3.Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp 4.Tạp chí kinh tế và dự báo 5.Tạp chí tài chính 6.Tạp chí phát triển kinh tế 7.ATạp chí Kinh tế và phát triển MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc62761.DOC
Tài liệu liên quan