Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng

Tài liệu Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng: Lời nói đầu Sau hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội – khoa học kỹ thuật ... đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Cùng vơí chuyển biến trên, ngành bảo hiểm Việt Nam cũng không ngừng lớn mạnh và phát triển. Rất nhiều chế độ và nghiệp vụ bảo hiểm ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các thành viên trong xã hội. Chế độ bảo hiểm xã hội được Nhà nước triển khai từ khá lâu song phạm vi bảo hiểm và số người bảo hiểm xã hội rất hạn hẹp, chỉ có công chức nhà nước mới được tham gia bảo hiểm. Trong khi có một thực tế đang diễn ra là có một bộ phận dân cư có thu nhập thấp và không thuộc quyền lợi bảo hiểm như những người lao động làm công ăn lương. Họ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn khi gặp rủi ro tai nạn, ốm đau, bệnh tật. Bảo hiểm con người do Bảo Việt triển khai đã đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm cho các thành viên trong xã hội, đảm bảo tính ổn định của quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân....

doc76 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sau hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội – khoa học kỹ thuật ... đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Cùng vơí chuyển biến trên, ngành bảo hiểm Việt Nam cũng không ngừng lớn mạnh và phát triển. Rất nhiều chế độ và nghiệp vụ bảo hiểm ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các thành viên trong xã hội. Chế độ bảo hiểm xã hội được Nhà nước triển khai từ khá lâu song phạm vi bảo hiểm và số người bảo hiểm xã hội rất hạn hẹp, chỉ có công chức nhà nước mới được tham gia bảo hiểm. Trong khi có một thực tế đang diễn ra là có một bộ phận dân cư có thu nhập thấp và không thuộc quyền lợi bảo hiểm như những người lao động làm công ăn lương. Họ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn khi gặp rủi ro tai nạn, ốm đau, bệnh tật. Bảo hiểm con người do Bảo Việt triển khai đã đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm cho các thành viên trong xã hội, đảm bảo tính ổn định của quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Tuy vậy bảo hiểm con người vẫn chưa đến được với người nghèo, những người mà chính họ cần được bảo hiểm hơn ai hết..Trong quá trình triển khai với những đối tượng trên, chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn nhưng không phải là không làm được. Xuất phát từ những suy nghĩ trên và qua tìm hiểu thực tế về bảo hiểm con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng thuộc Bảo Việt Hà Nội, với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Hồ Sĩ Sà, em đã lựa chọn đề tài “Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng” giai đoạn 1996-2000 để viết chuyên đề thực tập. Nội dung chính của chuyên đề thực tập bao gồm: Phần 1: Một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm kết hợp con người . Phần 2: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng. Phần 3: Một số giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng. Phần 1 Một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm kết hợp con người I. sự cần thiết khách quan của bảo hiểm kết hợp con người 1.Sự cần thiết của bảo hiểm con người . ở mỗi quốc gia, trong mọi thời kỳ, con người luôn được coi là lực lưọng sản xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội. Con người là vốn quý cho sự phát triển xã hội. Một xã hội muốn phát triển thì đời sống của con người phải được đảm bảo về mọi mặt, vật chất cũng như văn hoá tinh thần.Đây chính là mục tiêu mà mỗi quốc gia cần vươn tới nhằm phát huy sức mạnh nhân tố con người .Trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong lao động sản xuất,dù con người có hết sức chú ý đề phòng nhưng rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra, gây thiệt hại lớn về tài sản và tính mạng. Những rủi ro này có thể do thiên nhiên, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, do tiến bộ khoa học kĩ thuật,do môi trường xã hội… Vì thế để đối phó với những rủi ro trên , con người cần phải có những sự chuẩn bị cần thiết về mặt tài chính nhằm trang trải những chí phí phát sinh khi có rủi ro bất ngờ xảy ra. Khi gặp rủi ro , bản thân người bị tai nạn về tính mạng hoặc thân thể , thậm chí là tính mạng thương tật suốt đời. Gia đình người bị nạn phải gánh chịu nỗi đau khi nhìn thấy con, em mình trở thành thương tật tàn phế … Đó là những mất mát không gì và không ai có thể bù đắp được. Nhưng ngoài những mất mát đó, người bị nạn và gia đình họ còn phải gặp những tổn thất về tài chính. Người bị nạn sẽ giảm thu nhập ( trong một thời gian hoặc thậm chí vĩnh viễn ),còn gia đình họ phải trang trải những chi phí nhằm phục hồi sức khoẻ cho người bị nạn như : tiền thuốc men ,viện phí, tiền phẫu thuật …hoặc các chí phí khác cho việc mai táng, tang lễ Những chí phí này dù lớn hay nhỏ song trong điều kiện thu nhập của đại đa số nhân dân lao động còn thấp, đã thực sự trở thành mối quan tâm lo lắng và gây ra những khó khăn nhất định đối với việc khắc phục hậu quả, phục hồi sức khoẻ cho nạn nhân . Vì vậy nhu cầu về tài chính dự trữ với mục đính đảm bảo ổn định cuộc sống là rất cần thiết cho mọi người.Để có được nguồn tài chính đó, họ có thể làm bằng hình thức tiết kiệm hoặc tham gia bảo hiểm .Mục đích của tiết kiệm là thu được một khoản tiền lớn hơn trong khoảng một thời gian nhất định so với số tiền ban đầu và dùng khoản tiền đó để bù đắp cho các chí phí phát sinh . Biện pháp này có yếu tố tích cực song còn tồn tại những những nhược điểm không đáp ứng được tính bất ngờ của sự cố, tức là trường hợp số tiền tiết kiệm chưa đủ lớn đã gặp phải rủi ro bất ngờ . Bảo hiểm ra đời có thể coi là biện pháp tối ưu để khắc phục hậu quả . Theo khái niệm chung nhất, ta có thể hiểu: “Bảo hiểm là hoạt động mà người bảo hiểm đứng ra cam kết bồi thường theo nguyên tắc số đông bù số ít cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro được bảo hiểm với điều kiện người được bảo hiểm phải nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc người thứ ba”.Như vậy thiệt của một người sẽ được phân tán cho nhiều người trong cộng đồng. Điều này dẫn tới việc một tổn thất tưởng như vượt qua sức chịu đựng của một người lại có thể được chia nhỏ ra, phù hợp với khả năng gánh vác của nhiều người. Tham gia bảo hiểm con người chính là người được bảo hiểm đánh đổi một phần tài chính nhỏ để lấy một sự an toàn trong cuộc sống . Họ sẽ giảm bớt được gánh nặng mà nếu không tham gia bảo hiểm , họ sẽ phải tự trang trải tất cả chi phí đó . Bảo hiểm con người là hợp đồng bảo hiểm rằng buộc trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm , người được bảo hiểm và người bảo hiểm nhằm đảm bảo ổn định đời sống con người được bảo hiểm trước rủi ro , tai nạn hoặc những sự cố bất ngờ xảy ra .Theo hợp đồng bảo hiểm ,người bảo hiểm cam kết trả cho người được bảo hiểm hoặc cá nhân những người khác như người được uỷ quyền ,người thừa kế hợp pháp theo pháp luật số tiền bảo hiểm đã được ấn định trước phù hợp với rủi ro ,tai nạn theo các điều kiện cam kết xảy ra. Số tiền bảo hiểm được chi trả không phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm xã hội và đảm bảo xã hội cũng như số tiền chi trả hợp đồng bảo hiểm khác cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm với cùng một rủi ro tai nạn xảy ra.Người tham gia cam kết đóng phí đầy đủ và đúng thời hạn quy định như đã ghi trong hợp đồng. Trong đại bộ phận các nghiệp vụ bảo hiểm con người, số tiền bảo hiểm, các khoản trợ cấp được ấn định trước trên hợp đồng bảo hiểm .Những khoản tiền này được xác định dựa trên sự lựa chọn của người tham gia bảo hiểm –người duy nhất có thể ước tính được số tiền mà anh ta hoặc những người thân thích của anh có nhu cầu. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, các khoản trợ cấp, số tiền bảo hiểm được người bảo hiểm thanh toán không nhằm mục đích bồi thường thiệt hại, đây là số tiền bảo hiểm mang tính chất khoán. Do không ai có thể định giá được con người và không có công ty bảo hiểm nào có thể cung cấp một con người “như cũ” khi anh ta đã thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi hay bất kỳ rủi ro gây thiệt hại khác, các công ty bảo hiểm chỉ có thể chi trả một lượng tiền không lớn hơn số tiền bảo hiểm mà người đó tham gia trong trường hợp anh ta gặp rủi ro . Việt Nam đã và đang xây dựng một nhà nước của dân do dân và vì dân. Đại hội VII đã khẳng định: “Chính sách xã hội nhằm phát huy mọi khả năng của con người và lấy phục vụ con người là cao nhất”.Để thực hiện mục tiêu này,Đảng và Nhà nước đã có những chính sách khác nhau nhằm bảo vệ con người không may rủi ro . Về bảo hiểm xã hội : Bảo hiểm xã hội Việt Nam được Nhà nước tổ chức quản lý và bảo hộ. Việc lập quỹ tiền tệ do sự đóng góp dần dần theo theo thời gian của người lao động dựa trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ xã hội để đảm bảo cho người lao động có phần thu nhập, trang trải cho nhu cầu thiết yếu khi bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động. Đối tượng của bảo hiểm xã hội là người lao động mà trước hết là công nhân viên làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước, người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có từ 10 lao động trở lên, lao động trong các lực lượng vũ trang do Nhà nước tổ chức.Quỹ bảo hiểm do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và một phần bù thiếu của Nhà nước. (Do đó phí bảo hiểm không dựa trên tỷ lệ phí với quyền lợi của họ được hưởng). Người tham gia bảo hiểm được hưởng quyền lợi trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí,tử tuất. Quyền lợi này phụ thuộc vào thời gian đóng góp bảo hiểm xã hội và mức đóng phí bảo hiểm xã hội.Tuy nhiên đối tượng của bảo hiểm xã hội không phải là toàn bộ người lao động cũng không phải là toàn bộ nhân dân. Bảo hiểm y tế: Mục đích của bảo hiểm y tế Việt Nam được Nhà nước tổ chức quản lý và bảo hộ, viêc lập quỹ là để có thêm nguồn tài chính tăng cường chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Đối tượng của bảo hiểm xã hội bao gồm cả bắt buộc và tự nguyện nhưng chủ yếu là chế độ quy định bắt buộc của Nhà nước đối với công nhân viên hành chính sự nghiệp, cán bộ hưởng lương làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có từ 10 lao động trở lên. Tuy nhiên với sự phát triển của xã hội, đối tượng tham gia bảo hiểm y tế ngày càng nhiều, phải kể đến đầu tiên là nông dân, đây là đối tượng chiếm tỷ lệ đông đảo trong toàn bộ dân số, kế tiếp là người buôn bán nhỏ ở nông thôn và thành thị. Phí bảo hiểm không thống nhất cho mọi đối tượng tuỳ thuộc vào mức lương và đối tượng tham gia( khối hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh doanh hoặc cá nhân). Quyền lợi mà người đóng bảo hiểm được hưởng là dich vụ y tế khám chữa bệnh trong bệnh viện theo phác đồ của Bộ y tế. Theo quyết định mới của bảo hiểm y tế Việt Nam thì người tham gia trả 20% chi phí điều trị còn 80% chi phí khám chữa bệnh do bảo hiểm trực tiếp trả cho bệnh viện. Trên đây là một số chính sách hỗ trợ của Nhà nước, xã hội cho con người. Song đối tượng của chính sách này cũng chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định, không đáp ứng được nhu cầu được bảo vệ của mọi thành viên trong xã hội, đòi hỏi mỗi thành viên tự tìm cho mình một hình thức bảo vệ mình khi gặp rủi ro gây thiệt hại xảy ra. Nhìn chung bản thân mỗi con người đều phải có những khoản dự trữ nhất định, không phải lúc nào các khoản dự trữ này cũng đảm bảo thoả mãn được nhu cầu khi bất trắc xảy ra. Vì vậy hình thức dự trữ có hiệu quả nhất và có tác dụng thiết thức nhất trong việc khắc phuc rủi ro là tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm con người là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm thương mại hay có thể gọi là bảo hiểm thương mại về con người. Hiện nay trên thế giới có 8 nghiệp vụ về bảo hiểm con người: Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Bảo hiểm tai nạn chết người và mất khả năng lao động. Bảo hiểm cá nhân do tai nạn bất ngờ. Bảo hiểm công nhân viên chức do cơ quan xí nghiệp đài thọ phí Bảo hiểm trẻ em. Bảo hiểm tai nạn hành khách. Bảo hiểm du du lịch. Bảo hiểm tiền hưu. Ngoài ra còn có bảo hiểm cưới xin và bảo hiểm cácbộ phận trên thân thể con người. Tuy nhiên ở Việt Nam, triển khai bảo hiểm thương mại về con người có các nghiệp vụ sau: Bảo hiểm hành khách, triển khai, năm 1981 Bảo hiểm tai nạn lao động năm, 1987 Bảo hiểm du lịch Bảo hiểm sinh mạng cá nhân, năm 1990 Bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật, năm 1994 Bảo hiểm kết hợp con người, năm 1994 Bảo hiểm tai nạn học sinh, năm 1985 Bảo hiểm nhân thọ, năm 1996 Mục đích: bảo hiểm toàn bộ thân thể người được bảo hiểm là một hình thức bổ sung cho bảo hiểm cho bảo hiểm xã hội nhằm ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những rủi ro về thân thể, tính mạng, giảm sút thu nhập. Tức là người bảo hiểm thanh toán những khoản tiền quy định trong trường hợp xảy ra những sự kiện tác động đến chính bản thân người được bảo hiểm. Đối tượng: Đối tượng của bảo hiểm con người là tính mạng và tình trạng sức khỏe, khả năng lao động và tuổi thọ của con người. Hình thức tham gia: Chủ yếu dưới hình tự nguyện, không bắt buộc các đối tượng tham gia. Phí bảo hiểm: Mức đóng góp theo các quy định trong biểu phí của công ty bảo hiểm triển khai thực hiện trên cơ sở giám sát, không lớn hơn cũng không nhỏ hơn biểu phí quy định của Bộ Tài Chính. Quyền lợi: Là các chế độ bảo hiểm được quy định trong hợp đồng bảo hiểm mà theo đó người tham gia bảo hiểm hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm sẽ được nhận số tiền chi trả từ cơ quan bảo hiểm khi có rủi ro gây thiệt hại xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Cách chi trả: Công ty thanh toán tiền cho người được bảo hiểm theo sự thoả thuận giữa Công ty bảo hiểm và người tham gia ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Như vậy, nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu để bảo vệ con người bảo hiểm đã ra đời và đặt quyền lợi của con người lên trên hết luôn tạo cho con người sự tin tưởng, sự an tâm trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống của người dân được cải thiện, ngoài nhu cầu cho tồn tại, con người cần có nhu cầu về tinh thần. Sự an tâm về cuộc sống chính là nhu cầu không thể thiếu được, điều này dẫn đến nhu cầu bảo hiểm ngày càng được coi trọng, phát triển và đa dạng hoá. Chúng ta đã tiến hành bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật để đáp ứng nhu cầu đó và chính bản thân các nghiệp vụ này cũng đang được mở rộng về các mức phí khác nhau. Song ba quy tắc bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm sinh mạng cá nhân và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật, mỗi quy tắc có phạm vi bảo hiểm riêng, đáp ứng nhu cầu riêng của ngượi tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề còn bất cập, đồng thời cũng không phát huy được tác dụng nếu ba quy tắc này áp dụng tách rời nhau. Nếu một người tham gia bảo hiểm đồng thời cả ba loại hình bảo hiểm trên, chắc chắn sẽ gây ra sự trùng lặp, khó khăn trong việc quản lý, lãng phí giấy tờ không cần thiết. Vì vậy tạo điều kiện thuận lợi cho công ty bảo hiểm trong việc triển khai, thực hiện và quản lý hợp đồng cũng như đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm, ngày16/07/1994 Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đã ban hành điều khoản về bảo hiểm kết hợp con người số1085/PHH94 ngày16/06/1994. Công ty bảo hiểm Hà Nội trực tiếp triển khai bảo hiểm kết hợp sinh mạng cá nhân, tai nạn 24/24 và trợ cấp nằm viện phẫu thuật cho mọi người từ 1 tuổi (12 tháng tuổi) đến 65 tuổi ngày 01/08/1994. 2. Cơ sở triển khai bảo hiểm kết hợp con người ở Việt Nam Vài nét về thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam Với 80 triệu dân, Việt Nam là nước đông dân cư đứng hàng thứ 13 trên thế giới. Cơ cấu dân số trẻ, nguồn nhân lực dội dào đã trở thành một trong những điều kiện thuận lợi để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội trong những năm vừa qua ở Việt Nam, từ khi Bảo Việt triển khai bảo hiểm thương mại về con người đến nay đã có 12 nghiệp vụ bảo hiểm con người như:bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm du lịch ..... Từ sau nghị định 100 /CP ngày 18/12/1993 của chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, thị trường bảo hiểm Việt Nam sôi động hẳn lên bởi sự ra đời của hàng loạt các công ty bảo hiểm với loại hình rất đa dạng: công ty bảo hiểm cổ phần, công ty bảo hiểm Nhà nước, công ty bảo hiểm ngành, công ty liên doanh bảo hiểm .... cùng với 30 văn phòng đại diện của các công ty, tập đoàn bảo hiểm nước ngoài. Sự phát triển kịnh tế xã hội một mặt cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người dân, động thời cũng tăng thêm nhận thức của họ về vai trò và tác dụng bảo hiểm. Từ năm 1994 đến nay, sự ra đời và cạnh tranh ồ ạt của một số công ty bảo hiểm đã khiến cho thị phần của Bảo Việt giảm sút ít nhiều và doanh thu có phần chững lại. Nhưng năm 1999, nhóm bảo hiểm con người phi nhân thọ vẫn có mức tăng trưởng khoảng 4,8%, trong đó có một số nghiệp vụ tăng lên nhanh: bảo hiểm kết hợp con người (tăng 29%), bảo hiểm khách du lịch tăng(14,1%), bảo hiểm học sinh( tăng 13,9%)....ở hầu hết các công ty bảo hiểm , tỷ trọng nghiệp vụ bảo hiểm con người luôn chiếm tỷ trọng khoảng 30% doanh thu của toàn bộ công ty. Đặc biệt Công ty bảo hiểm Hà Nội là một trong số ít công ty có tỷ trọng này: năm 1998, doanh thu của nghiệp vụ này đạt 28 tỷ đồng chiếm 32,1% doanh thu phí bảo hiểm và năm 1999 là 23 tỷ đồng chiếm32,1% doanh thu phí bảo hiểm Với một thị trường gần 80 triệu dân trong đó khoảng 60% bộ phận dân cư từ 18 tuổi trỏ lên thì người tham gia bảo hiểm mà công ty khai thác được là còn quá nhỏ bé. Theo số liệu chưa đầy đủ, chỉ tính riêng ở Hà Nội trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước-tỷ lệ tham gia bảo hiểm con người trong dân cư chỉ chiếm khơảng 6,72%. Điều này đòi hỏi nhà bảo hiểm, các nhà làm luật phải xem xét lại, nghiên cứu lại chính sách, chiến lược, cũng như từng mặt công tác nghiệp vụ trong quá trình cung cấp sản phẩm “bảo hiểm” đến tận tay khách hàng, làm sao để nhà bảo hiểm và người tham bảo hiểm gặp nhau tại điểm có sản lượng tiềm năng lớn nhất. Cơ sở triển khai bảo hiểm kết hợp con người ở Việt Nam. ở Việt Nam,bảo hiểm tai nạn con người là nghiệp vụ bảo hiểm về con người đầu tiên được Bảo Việt triển khai từ năm 1986 dưới hình thức bảo hiểm tai nạn lao động.Ban đầu nghiệp vụ này có phạmvi bảo hiểm trong giờ hành chính là 8/24 giờ trong ngày. Sở dĩ Công ty tiến hành phạm vi đó vì do thực tế lúc đó:trình độ dân trí còn thấp, đại đa số Việt Nam còn chưa biết gì về bảo hiểm cũng như tính ưu việt của nó,đời sống nhân dân còn khó khăn, ở nhiều nơi nhu cầu vật chất có khi còn không được đảm, cho nên việc triển khai ở phạm vi rộng là rất khó khăn thực hiện. Mặt khác nếu công ty tiến hành bảo hiểm 24/24 giờ tại thời điểm đó thì sẽ không kiểm soát được rủi ro của nghiệp vụ và do đó không đảm bảo kinh doanh có lãi. Tuy nhiên, trong một số năm,triển khai nghiệp vụ,mặc dù có sự hưởng ứng của người tham gia bảo hiểm,song nảy sinh nhiều vấn đề, đó là: Tai nạn rủi ro đối với người lao động có thể xảy ra bất kỳ lúc nào nhưng phạm vi bảo hiểm chỉ là 8/24. Nếu người lao động gặp tai nạn ngoài giờ hành chính, hoặc trên đường đi làm từ công sở về nhà thì họ gặp rất nhiều khó khăn, cuộc sống không đảm bảo do thu nhập thấp, từ đó xuất hiện nhu cầu bảo hiểm ngoài giờ làm việc. Hơn nữa, khi thời gian bảo hiểm là 8/24 giờ trong ngày thì hiện tượng lập hồ sơ giả mạo khi tai nạn xảy ra không trong giờ làm việc gây khó khăn cho lớn cho công ty trong việc kiểm soát và bồi thường. Vì vậy, nhu cầu bảo hiểm với thời gian 24/24h là một thực tế đối với cả người được bảo hiểm và người bảo hiểm. Năm 1991,Bảo Việt đã mở rộng phạm vi từ 8/24 sang 24/24 h bao gồm những tai nạn gây thiệt hại đến thân thể người bảo hiểm .Đây là một bước tiến nhằm thích nghi với tình hình thực tế và đảm bảo cho người tham gia bảo hiểm yên tâm hơn trong sinh hoạt cũng như trong lao động sản xuất. Cùng với đó, Bảo Việt đã nghiên cứu và triển khai thêm một số loại hình:bảo hiểm tai nạn hành khách ,bảo hiểm học sinh, bảo hiểm khách du lịch ...Các loại hình bảo hiểm đang dần khẳng định được chỗ đứng của nó trên thị trường.Nhưng phạm vi trách nhiệm của các loại hình bảo hiểm trên còn hạn hẹp,chỉ bao gồm sự thiệt hại thân thể của người được bảo hiểm do hậu quả tai nạn. Trong cuộc sống con người ,ốm đau bệnh tật là điều không thể tránh khỏi. Điều cần thiết đặt ra cho bảo hiểm con người là mở rộng phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm cũng như đối tượng bảo hiểm ,làm cho bảo hiểm thực sự trở thành nhân tố góp phần ổn định đời sống nhân dân. ở Việt Nam, nhu cầu bảo hiểm sinh mạng đã có từ lâu, đó là việc hình thành các quỹ bảo thọ. Hình thức hoạt động các quỹ này khác nhau ở mỗi vùng tuỳ thuộc vào điều kiện của từng địa phương, từng người tổ chức nhưng nhìn chung chưa mang lại nhiều ý nghĩa về kinh tế mà chỉ mang nặng yếu tố tinh thần.Đây là nét truyền thống quý báu của người dân Việt Nam song cũng cần phải thấy được rằng các quỹ này nhiều khi phụ thuộc vào suy tính chủ quan của người đứng đầu, cơ chế quản lý không chặt chẽ, không theo một quy tắc nào,nếu không may người tổ chức không thể tiếp tục quản lý hội được thì hoạt đông của hội sẽ gặp khó khăn. Nắm bắt được đặc điểm này,để đáp ứng nhu cầu của nhân dân và từng bước hoàn thiện lĩnh vực bảo hiểm con người ,ngày 17/02/1990, Bộ tài chính đã ban hành quy tắc và biểu phí cho các loại hình bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tử vong trong trường hợp tai nạn,ốm đau hay bệnh tật. Ngày 10/08/1992 Bộ tài chính đã chính thức ban hành quy tắc và biểu phí cho các loại hình bảo hiểm này.Từ đó đến nay nghiệp vụ này đã được sự chấp thuận đông đảo quần chúng nhân dân và ngày càng phát huy được tác dụng. Đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới các quan hệ kinh tế ngoại giao, văn hoá xã hội với các nền kinh tế khác với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” đã mang lại cho Việt Nam về sự thay đổ nhiều mặt, người nước ngoài đến Việt Nam ngoài nhu cầu, thăm quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử còn nhu cầu đến Việt Nam để kinh doanh, đầu tư sản xuất,du lịch, thương mại....để thu lợi, họ cũng mang theo thói quen từ nước họ.Việc mua bảo hiểm nằm viện phẫu thuật đối với người nước ngoài cũng gần như trở thành thói quen, họ rất sợ phải vào nằm viện và phải bỏ tiền túi. Đây là một yếu tố làm cho bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật nhanh chóng được ra đời. Cũng như nguyên nhân của nó,loại hình này được áp dụng đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh và đối với người nước ngoài.Song mức sống của người dân Việt Nam cũng dần được nâng lên thì các nhu cầu mới lại phát sinh ngày càng phong phú và đa dạng.Khi gặp rủi ro tai nạn,người ta không chỉ muốn nhận một khoản tiền mà còn cần một sự chăm sóc y tế khi nằm viện phẫu thuật.Để đáp ứng nhu cầu này,ngày 02/07/1993 Bộ tài chính đã có quyết định số 466/TC-BH Ban hành quy tắcvà biểu phí trợ cấp nằm viên phẫu thuật :Bảo hiểm trợ cấp nằm viện, trợ cấp phẫu thuật và trợ cấp mai táng do ốm đau ,thai sản,tai nạn đối với người được bảo hiểm . Đây là một dich vụ mới của Bảo Việt, việc khai thác bước đầu đã mang lại kết quả tích cực, thực sự đã góp phần ổn định tài chính cho người tham gia bảo hiểm và gia đình họ không may phải nằm viện phẫu thuật trng điều kiện Nhà nước thực hiện thu một phần viện phí. Các nghiệp vụ trên được tiến hành riêng lẻ và luôn luôn được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và đáp ứng tốt nhu cầu bảo hiểm đông đảo của quần chúng nhân dân. Trong quá trình triển khai thực hiện 3 loại hình bảo hiểm :bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật được tiến hành riêng biệt đã thể hiện tính ưu việt của nó đó là: tham gia riêng lẻ thì mức phí thấp;từng nghiệp vụ có những tính chất và quy tắc riêng giúp cho người người tham gia bảo hiểm lựa chọn các loại hình phù hợp với mình, có những nghề chỉ có thể hoăc tốt nhất là bảo hiểm loại này mà không hiệu quả nếu lựa chọn các loại hình khác. Tuy nhiên phần đông thì ngược lại, nếu để 3 loại hình tồn tại riêng lẻ thì không tránh khỏi một số hạn chế sau: Thứ nhất về quản lý hồ sơ (khai thác và bồi thường):Mặc dù một khách hàng tham gia với 3 nghiệp vụ riêng biệt đòi hỏi phải có 3 tài liệu quản lý riêng biệt. Điều này dẫn đến tăng chí phí kinh doanh, chí phí quản lý(nhất là trong trường hợp 3 nghiệp vụ trên do 3 cán bộ bảo hiểm chịu hiểm trách nhiệm quản lý riêng). Mâu thuẫn giữa giảm phí để khuyến khích khách hàng tham gia(tăng tính chất phục vụ xã hội) nhưng chi phí thì không hề được tiết kiệm(không phù hợp với tính chất kinh doanh) làm ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh của nhà bảo hiểm.Bên cạnh đó, với 3 bộ hồ sơ cồng kềnh,rất dễ nhầm lẫn giữa các phạm vi, quyền lợi... thường tạo tâm lý không thoải mái cho người tham gia bảo hiểm. Đây chính là cơ sở nảy sinh ý tưởng gộp 3 nghiệp vụ trên vào một nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người để công tác quản lý hồ sơ đạt hiệu quả cao, nhanh gọn và tiết kiệm được chi phí kinh doanh, đồng thuyết phục khách hàng tham gia dễ dàng hơn. Thứ hai về nghiệp vụ: khác với bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm bảo hiểm con người có đăc trưng riêng là một đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời được bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng.Với một hoặc nhiều người bảo hiểm khác nhau với số tiền bảo hiểm bất kỳ(trong giới hạn trách nhiệm của nhà bảo hiểm ) bất kể hợp đồng đó trùng lặp về phạm vi, quyền lợi bảo hiểm ... Khi xảy ra sự cố bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm của nhiều hợp đồng thì viêc trả tiền bảo hiểm ở các hợp đồng đó hoàn toàn độc lập với nhau- độc lập trong việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền vàđộc lập trong cách thức trả tiền bảo hiểm. Ba nghiệp vụ:Bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật cũng vậy, khách hàng hoàn toàn có quyền tham gia cả 3 nghiệp vụ trên,tuy nhiên giữa chúng có sự trùng lặp nhau không cần thiết về phạm vi cũng như quyền lợi bảo hiểm ,dễ dẫn đến nhầm lẫnvà kích thích tính trục lợi của người tham gia. Để thấy được sự trùng lặp đó , trước hết cần điểm qua phạm vi bảo hiểm và quyền lợi của người được bảo hiểm khi tham gia cả 3 nghiệp vụ trên: *Bảo hiểm sinh mạng cá nhân -Phạm vi bảo hiểm :Thiệt mạng do mọi nguyên nhân kể cả tuổ già,bệnh tật(ngoại trừ trường hợp có bệnh trước khi mua bảo hiểm ),tai nạn trên toàn lãnh thổ Việt Nam. -Quyền lợi của người đươc bảo hiểm : Những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm trả 100% số tiền bảo hiểm. *Bảo hiểm tai nạn 24/24 -Phạm vi bảo hiểm :Tai nạn bất ngờ làm người được bảo hiểm bị thương hay thiệt mạng trong bất cứ thời gian nào thuộc thời hạn bảo hiểm . -Quyền lợi của người được bảo hiểm : +Trường hợp thiệt mạng do tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, trả 100% số tiền bảo hiểm . +Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn: Trả tiền bảo hiểm theo tỉ lệ thương tật. +Thương tật tạm thời do tai nạn: Nếu tham gia với số tiền bảo hiểm từ 1 đến 20 triệu đồng thì trả tiền theo tỷ lệ thương tật. *Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu -Phạm vi bảo hiểm : Người được bảo hiểm bị ốm đau, bệnh tật,thai sản hoặc thương tật thân thể do tai nạn phải nằm viện phẫu thuật. -Quyền lợi của người được bảo hiểm: +Nếu số tiền bảo hiểm từ 1 đến 10 triệu đồng /người /vụ thì trợ cấp 60 ngày nằm viện trong 1 năm bảo hiểm theo quyết định446/TCBH ngày 02/07/93 phần trợ cấp này được tính là 0,3% số tiền bảo hiểm trên 1 ngày 02/07/93 phần trợ cấp này được tính là 0,3% số tiền bảo hiểm trên ngày.Nhưng được phép của Bộ Tài Chính ngày 23/11/97, Bảo Việt đã có quyết định sokó 2963/PHH2-97 ban hành quy tắc bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật với sự thay đổi về cách tính trợ cấp này như sau: 10 ngày đầu :trả 0.3% số tiền bảo hiểm / ngày 20 ngày tiếp theo :trả 0,2% số tiền bảo hiểm / ngày 30 ngày tiếp theo : trả 0,15% số tiền bảo hiểm / ngày Trường hợp phẫu thuật thuộc phạm vi bảo hiểm :trả tiền bảo hiểm theo bảng tỷ lệ trả tiền phẫu thuật. Trợ cấp mai táng phí 500.000 đồng / người trong trường hợp chết khi đang nằm viện, trong hoặc sau khi phẫu thuật do căn bệnh đã được phẫu thuật. +Nếu số tiền bảo hiểm từ trên 10 triệu đến 100 triệu đồng/người/vụ Nằm viên: Trả toàn bộ chi phí y tế thực tế hợp lý liên quan đến việc điều trị, song tối đa mỗi ngày nằm viện không quá 0,3% số tiền bảo hiểm và không quá 60 ngày/năm bảo hiểm . Phuật thuật: trả toàn bộ chí phí y tế thực tế hợp lý liên quan đến việc điều trị,song tối đa không quá định mức trong bảng tỷ lệ trả tiền phẫu thuật . Trợ cấp mai táng phí 1.000.000 đồng/người trong trường hợp chết trong khi đang nằm viện, trong hoặc sau khi phẫu thuật do căn bệnh đã được phẫu thuật. Như vậy có thể thấy ngay nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật đều bảo hiểm cho rủi ro thương tật thân thể do tai nạn(phải nằm viện hoặc phẫu thuật) và với cùng với một thương do rủi ro đó. Để chứng minh cho những điều,ta xét ví dụ sau đây : Ví dụ1: Ông Nguyễn Văn A tham gia đồng thời cả 3 nghiệp vụ: Bảo hiểm sinh mạng,bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật với số tiền bảo hiểm lần lượt là : 10.000.000 đồng, 15.000.000 đồng và 10.000.000 đồng trong thời hạn từ 01/ 01/1998 đến 01/01/1999.Ngày 26/07/1998, ông A bị tai nạn giao thông gây phù não phải điều trị nội trú30 ngày . Số tiền bồi thường cho ông A được tính như sau: -Theo điều kiện bảo hiểm tai nạn 24/24 : 15.000.000 x40% = 6.000.000 đ ( Tỷ lệ thương tật trong trường hợp này xác định là 40%) -Theo điều kiện bảo hiểm tai nạn 24/24: 15.000.000 x40% =6.000.000đ -Theo điều kiện bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật : (10 ngày x 0,3% x10.000.000đ/ ngày ) +( 20 ngày x0.2% 10.000.000đ/ ngày) =300.000+400.000=700.000đ Tổng số tiền ông A nhận được là : 6.000.000 +700.000 =6.700.000đ Như vậy số tiền là quá cao so vết thương ông A gặp phải và khi đó nó không mang tính chất khắc phục hậu quả tổn thất do rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm gây ra nữa mà nó mang tính chất làm giàu từ hoạt động bảo hiểm nhiều hơn. Ngoài ra, sự trùng lặp trong quyền lợi của người được bảo hiểm bị thiệt mạng do tai nạn. Giả sử trong ví dụ trên, sau 30 ngày nằm viện ông A chết thì khi đó ngoài số tiền bảo hiểm 6.700.000 đồng trên, người thừa kế hợp pháp của ông sẽ được nhận thêm số tiền bồi thường như sau : Theo điều kiện bảo hiểm tai nạn 24/24 : 15.000.000 –6.000.000 = 9.000.000đ Trợ cấp mai táng phí theo điều kiện bảo hiểm sinh mạng cá nhân :10.000.000đ Tức là người thừa kế hợp pháp của ông A còn nhận được thêm : 9.000.000đ +500.000đ +10.000.000đ =19.500.000đ Với số tiền bảo hiểm lớn như vậy : (6.700.000đ +19.500.000đ =26.200.000đ) dễ dẫn đến hành động trục lợi của người được bảo hiểm cũng như người thừa kế bất hợp pháp của họ.Tính nhân đạo của hợp đồng bảo hiểm lúc này sẽ bị lu mờ,thậm chí trước món lợi đó,con người ta dễ đánh mất tính nhân đạo của chính mình như cố tình không cứu chữa kịp thời cho người được bảo hiểm.Chính vì những tồn tại nói trên mà nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người ( kết hợp BHSMCN,BHTN24/24 và BHTCNVPT ) với những quy định cụ thể, không trùng lặp về phạm vi quyền lợi của người được bảo hiểm đã trở thành một tất yếu khách quan. Qua 5 năm thực hiện, nhìn chung điều khoản bảo hiểm kết hợp con người đã đáp ứng được nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Hàng năm số người tham gia bảo hiểm cũng như số phí của nghiệp vụ này đều tăng lên đáng kể và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu phí bảo hiểm các nghiêp vụ bảo hiểm con người . Song cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường,thị trường bảo hiểm cũng biến động không ngừng:nhiều công ty bảo hiểm ra đời, các văn phòng đại diện tại Việt Nam tạo ra một sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường bảo hiểm .Do đó việc đổi mới và hoàn thiện sản phẩm của mình để phục vụ và lôi kéo khách hàng là một điều tất yếu đắt ra cho Bảo Việt.Bên cạnh đó,điều khoản bảo hiểm kết hợp con người có nội dung, chưa phù hợp,chưa tính toán dủ các chi phí cần thiết và các khía cạnh của vấn đề, có những rằng buộc gây khó khăn cho việc triển khai ... mặc dù trong quá trình triển khai ,Tổng công ty đã thường xuyên bổ sung và hoàn thiện điều khoản đó nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng và triền khai nghiệp vụ được thuận lợi. Để khắc phục những hạn chế đó và tào sức mạnh trong cạnh tranh,ngày 23/12/1997 Tổng công ty đã có quyết định số 2962/PHH2-1997 ban hành điều khoản kết hợp về bảo hiểm con người ( KHCN-BV98) thay thế cho điều khoản ban kèm theo quyết định số 1085 /PHH-94. Điều khoản này được xây dựng trên 3 điều kiện bảo hiểm :sinh mạng(A), tai nạn 24/24(B), và trợ cấp nằm viền phẫu thuật(C), hoàn toàn độc lập về phạm vi cũng như quyền lợi bảo hiểm . -Điều kiện A (sinh mạng):Bảo hiểm trường hợp chết do ốm đau bệnh tật. -Điều kiện B(tai nạn):Bảo hiểm trong trường hợp chết hoặc thương tật thân thân thể do tai nạn. -Điều kiện C(trợ cấp nằm viện phẫu thuật):Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật do ốm đau, bệnh tật. Do vậy,tuỳ theo khách hàng có thể áp dụng một hoặc nhiều điều khoản kết hợp tương ứng với tỷ lệ phí cho từng điều kiện. Tuy nhiên,về độ tuổi người được bảo hiểm chỉ hạn chế từ 16-60 tuổi, đối với nhóm tuổi dưới 16 nếu có nhu cầu có thể áp dụng theo loại hình bảo hiểm học sinh và đối tượng trên 60 tuổi (chủ yếu là hưu trí,mất sức) sẽ nhận bảo hiểm theo những điều kiện bảo hiểm riêng. Đối với những hợp đồng có số lượng lớn người tham gia thì không cần thiết phải kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm .Đây là một bước quan trọng của nghiệp vụ và nó đang phát huy tác dụng trên thị trường bảo hiểm hiện nay. 3.ý nghĩa và tác dụng của bảo hiểm kết hợp con người Đến nay, tất cả những gì mà ngành bảo hiểm đã làm được cho xã hội là rất to lớn và không thể phủ nhận được. Bảo hiểm ra đời là một yếu tố khách quan của cuộc sống. Xuất phát từ khái niệm chung về bảo hiểm : “Bảo hiểm là hợp đồng trong đó một bên cam kết bồi thường theo luật thống kê cho người được bảo hiểm trong trường hợp rủi ro xảy ra trong phạm vi ghi trong hợp đồng bảo hiểm với điều kiện bên kia phải nộp một khoản chi phí cho chính anh ta hoặc người thứ ba”. Như vậy bảo hiểm thực chất là một phạm trù tài chính,là tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội của người tham gia vầ người bảo hiểm nhằm mục đích ổn định cuộc sống cho người tham gia khi họ gặp những rủi ro bất ngờ gây thiệt hại và đáp ứng một số nhu cầu khác của họ trong cuộc sống. Hơn nữa, ở nước ta bảo hiểm cũng không còn là một phạm trù mới mẻ nữa đi vào cuộc sống xã hội và nó trở nên thân thiết với mọi người. Bảo hiểm kết hợp con người cũng vậy, ngay từ khi ra đời bảo hiểm kết hợp con người xuất phát từ thực tế triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm con người riêng lẻ nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu con người về bảo hiểm nên đã khẳng đinh được ngay vị thế trên thị trường . Bảo hiểm kết hợp con người ngày càng trở nên thân thiết đối với người dân Việt Nam , đó cũng chính là phạm vi bảo hiểm được bao trùm rộng rãi hơn các nghiệp vụ bảo hiểm riêng lẻ, nó không tạo ra cảm giác hẫng hụt cho người tham gia khi không may khi họ gặp tai nạn. Nếu thuộc phạm vi bảo hiểm của các loại hình này thì chắc chắn họ sẽ được một khoản tiền tương ứng với số thiệt hại của họ đã thoả thuận trên hợp đồng. Từ sự chặt chẽ của hợp đồng bảo hiểm , con người ta có thói quen chính xác trong hành động, hoạt động cũng như trong lời nói của mình trong đời sống hằng ngày,trong kinh doanh ,giao dịch và ký kết. Đồng thời nếu người tham gia bảo hiểm không may gặp rủi ro gây tổn thất sẽ nhận khoản tiền bù đắp thoả đáng, khắc phục những khó khăn về tài chính, về sức khoẻ cho người tham gia bảo hiểm. Giúp họ có thể nhanh chóng gượng dậy sau những rủi ro khủng khiếp, giúp họ thoát khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. Không những đảm bảo ổn định đời sống của người tham gia tại thời điểm hiện tại mà còn tạo điều kiện giúp đỡ gia đình họ vượt qua khó khăn,con cái vẫn được tiếp tục đi học. Điều này mang ý nghĩa xã hội và nhân văn cao cả. Từ công tác giám đình bồi thường sau mỗi rủi ro thiệt hại, công ty bảo hiểm sẽ thống kê được các rủi ro và nguyên nhân gây ra rủi ro để từ đó có biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất một cách có hiệu quả, giảm bớt những rủi ro bất trắc gây thiệt hại cho toàn xã hội. Đây là một hoạt động thể hiện phương châm: “phòng bệnh hơn chữa bệnh” của bảo hiểm kết hợp con người nói riêng và bảo hiểm nói chung. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất được tiến hành do công ty bảo hiểm kết hợp với các ngành có liên quan như giao thông vận tải,công an,bệnh viện.... đã góp phần làm cho đời sống xã hội bình an hơn ,tươi đẹp hơn. Bên cạnh đó, nghiệp vụ này góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân. Đây là một tác dụng rất đáng kể của nghiệp bảo hiểm con người nói riêng và toàn ngành bảo hiểm nói chung.Xuất phát từ nguồn quỹ thu được của người tham gia, hằng năm công ty bảo hiểm đóng góp vào ngân sách Nhà nước thông qua các loại thuế,nguồn vốn nhàn rỗi sẽ đem đầu tư phát triển kinh tế,tạo công ăn việc làm cho người lao động. Như được biết, chắc chắn sẽ không tạo ra một xã hội phát triển, công bằng văn minh nếu như bản thân các thành viên trong xã hội không ý thức được mình nên hay không nên làm gì, cái được và cái mất của các quyết định đó ra sao, điều phụ thuộc phần lớn vào trình độ nhận thức và trình độ học vấn của họ . Hơn nữa trong cuộc sống hiện đại, con người luôn hối hả để theo kịp guồng quay chung xã hội, ai lơ là sẽ bị loại ra, bắt buộc con người phải dồn hết tâm trí sao cho công việc mình đạt kết quả cao nhất, sẽ khó có thể đạt được điều này nếu họ không an tâm về tính mạng của họ và những hậu quả không tốt sẽ xảy ra đối với gia đình họ. Điều này đã có các công ty bảo hiểm giúp họ, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người . Như vậy không những về trước mắt là ổn định cuộc sống của người tham gia mà về lâu dài đây cũng là một động lực gián tiếp thúc đẩy được tăng năng suất lao động xã hội và thúc đẩy nền kinh tế. Các nhà hoạch định chính sách xã hội ở tầm vĩ mô ( phạm vi quốc gia) và vi mô ( phạm vi đơn vị kinh tế) cần quan tâm xem xét. II.Nội dung của nghiêp vụ bảo hiểm kết hợp con người 1.Đối tượng bảo hiểm Bảo hiểm kết hợp con người có đối tượng là tính mạng và tình trạng sức khoẻ con người .Đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ này có đặc điểm nổi bật là không xác định được “ giá trị” vì tình trạng sức khoẻ con người là vô giá. Do đó, trong nghiệp vụ kết hợp con người không tồn tại thuật ngữ “ giá trị bảo hiểm” Xuất phát từ đặc đIểm trên của đối tượng bảo hiểm nên bảo hiểm con người nói chung và bảo hiểm kết hợp con người nói riêng phần lớn sử dụng nguyên tắc “ khoán” làm nguyên tắc trả tiền cơ bản. Lý do vì trong bảo hiểm con người rất khó xác định giá trị thiệt hại. Đối với đối tượng của các nghiệp vụ bảo hiểm phi con người như bảo hiểm tài sản,bảo hiểm hàng hoá... việc mất cắp một lô hàng, cháy một ngôi nhà hay vỡ kính ô tô ... đều có thể tính ngay giá trị thiệt hại vật chất của chúng.Nhưng đối với con người, việc gãy một cánh tay hay phải cắt một phần nào đó của bộ phận cơ thể thì lại hoàn toàn không thể xác định mức bồi thường là bao nhiêu, càng không thể xác định được mức bồi thường bao nhiêu cho thoả đáng. Chính vì vậy việc trả tiền của công ty bảo hiểm là không nhằm bồi thường cho thiệt hại mà đơn thuần chỉ là thực hiện cam kết giữa hai bên theo hợp đồng. Trường hợp người bảo hiểm bị tử vong,công ty sẽ chi trả toàn bộ số tiền bảo hiểm ấn định trước trong hợp đồng cho thân nhân người hợp pháp của người được bảo hiểm. Số tiền chi trả trong trường hợp này không gọi là cái giá của sự tử vong mà chỉ là số tiền mà người được bảo hiểm “ đã khoán” cho công ty bảo hiểm trước đó. Tuy nhiên,trong trường hợp bảo hiểm cho các chi phí y tế đối với rủi ro bệnh tật thì có thể áp dụng nguyên tắc “ bồi thường”. Lúc này việc chi trả của công ty bảo hiểm nhằm bồi thường cho cái giá của sự chăm sóc thuộc phạm vi được hưởng bảo hiểm của người bị nạn. Số tiền bồi thường sẽ được dựa trên những chi phí thực tế mà người được bảo hiểm bỏ tiền để khắc phục những hậu quả của rủi ro và tỷ lệ thương tật của người được bảo hiểm . Xuất từ mục tiêu phục vụ tối đa mọi thành viên trong xã hội và nguyên tắc “số đông” và theo điều khoản kết hợp về bảo hiểm con người ban hành theo quyết định số 1085/PHH94 nhóm khách hàng mục tiêu của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người bao gồm mọi công dân Việt Nam từ 12 tháng tuổi đến 65 tuổi. Qua những năm triển khai cho thấy, nhóm khách hàng là học sinh dưới 16 tuổi có số lượng rất nhỏ do chủ yếu tham gia bảo hiểm học sinh. Còn nhóm khách hàng từ 60 tuổi trở lên có xác xuất rủi ro cao thường bảo hiểm theo những điều kiện riêng. Do đó ngày 23/12/1997, Bảo Việt có quyết định số 2962/PHH1297 ban hành điều khoản kết hợp về bảo hiểm kết hợp con người (KHCN-BH98) quy đinh đối tượng của nghiệp vụ này là những người trong độ tuổi từ 16 đến 60 tuổi nhằm giới hạn chỉ nhận bảo hiểm cho những người trong độ tuổi lao động.Nếu các công ty có các nhu cầu bảo hiểm cho đối tượng trên 60 tuổi phải có phương án triển khai cụ thể đăng ký tại Tổng công ty sau khi có ý kiến của Bảo Việt mới được triển khai. Hoạt động bảo hiểm được từ nhu cầu giảm các hậu quả của rủi ro gắn liền với các tổn thất về tài chính.Khái niệm “rủi ro” được hiểu các sự việc ngoài ý muốn mà gây nên mất mát thiệt hại đối với con người . Chính vì vậy,đối với người thiệt hại mà rủi ro trở thành hiện thực quá lớn,con người không thể tránh khỏi thì sẽ không được coi là “rủi ro” được bảo hiểm . Do đó,theo nguyên tắc sàng lọc,người bảo hiểm không bảo hiểm cho các đối tượng sau: -Người bị bệnh thần kinh, tâm thần, phong,ung thư. -Người bị tàn phế hoặc thương tật vĩnh viễn từ 50% trở lên. -Người đang trong thời gian điều trị bệnh tật,thương tật. 2.Phạm vi bảo hiểm a) Thuộc phạm vi bảo hiểm Ta biết rằng trong cuộc sống có 2 loại rủi ro cơ bản, đó là rủi ro đầu cơ và rủi ro thuần tuý. Rủi ro đầu cơ là những rủi ro có thể “được” hoặc “mất”, ví dụ rủi ro của hoạt động đầu tư trên thị trường tài chứng khoán, rủi ro của hoạt động cá cược trong các cuộc đua... Còn rủi ro thuần tuý là rủi ro chỉ có “ mất” mà không có “được”,ví dụ rủi ro thương tật, rủi ro thiệt mạng trong tai nạn... nguyên tắccơ bản của hoạt động bảo hiểm là những rủi ro thuần tuý mới được bảo hiểm còn những rủi ro mang tính chất đầu cơ thì không được bảo hiểm. Vì vậy, những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người gồm có: -Chết do mọi nguyên nhân(điều kiện bảo hiểm A). -Chết hoặc thương tật thân thể do tai nạn( điều kiện bảo hiểm B). -Nằm viện hoặc phẫu thuật do ốm đau, bệnh tật, thai sản(điều kiện bảo hiểm C). Thực chất các điều kiện bảo hiểm A, B, C là sự tổng hợp một cách thống nhất ba phạm vi bảo hiểm của đơn vị bảo hiểm: bảo hiểm sinh mạng cá nhân,bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật. Cả ba điều kiện bảo hiểm A, B, C đều loại trừ những điểm được quy định tại mục (b) dưới đây. b)Không thuộc vi bảo hiểm Rủi ro là một trong những yếu tố cơ bản của hợp đồng bảo hiểm. Như trên đã đề cập, rủi ro là sự cố mà khả năng xảy ra của nó là không chắc chắn và nó thường để lại những hậu quả xấu như tổn thất, mất mát cho đối tượng bảo hiểm. Có nhiều rủi ro phát sinh, tuy nhiên các nhà bảo hiểm không thể chấp bảo hiểm cho tất cả rủi ro Chính vì vậy mà cả 3 điều kiện bảo hiểm A, B, C của các điều khoản bảo hiểm kết hợp con người . Bảo Việt đều không chịu trách nhiệm đối những rủi ro xảy ra đối người được bảo hiểm do những nguyên nhân sau: -Hành động cố ý của người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp( ví dụ như cố ý bị thương để đòi tiền bồi thường ...) -Người được bảo hiểm vi phạm nghiêm trọng pháp luật ,nội quy, quy đinh của chính quyền địa phương hoặc các tổ chức xã hội, vi phạm nghiêm trọng luật lệ an toàn giao thông ( tai nạn khi săn bắn trái phép, đi vào đường một chiều, vượt đèn đỏ...) -Người được bảo hiểm bị ảnh hưởng bởi rượu bia,ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác ( như uống nhiều rượu quá không làm chủ tốc độ gây tai nạn). -Người được bảo hiểm bị tham gia các hoạt động hàng không( trừ khi với tư cách là khách hàng), tham gia các cuôc diễn tập, huấn luyện quân sự, tham gia chiến đấu của các lực lược vũ trang( vì đây là các hoạt động mang tính chất chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp, có xác xuất rủi ro cao, chỉ có thể tham gia bảo hiểm theo những điều kiện riêng biệt...). -Động đất, núi lửa, nhiễm phóng xạ, chiến tranh, nội chiến,đình công... Ngoài những điểm loại trừ chung trên, đối với điều kiện bảo hiểm C Bảo Việt không chịu trách nhiệm trong những trường hợp sau: -Người được bảo hiểm nằm viện điều trị những bếnh suy nhược thần kinh suy nhược cơ thể, thoái hoá cột sống... hoặc điều trị tại các viện điều dưỡng, an dưỡng. -Nằm vện để kiểm tra sức khoẻ hoặc giám định y khoa mà không liên quan đến việc điều trị bệnh tật. -Điều trị hoặc phẫu thuật các bệnh bẩm sịnh, những chỉ định phẫu thuật có từ trước ngày tham gia bảo hiểm. -Tạo hình thẩm mỹ, chỉnh hình, phục hồi chức năng, làm giả các bộ phận cơ thể -Thực hiện các biện pháp kế hoặc hoá sinh đẻ. -Những bệnh đặc biệt và bệnh có sẵn trong năm đầu tiên được bảo hiểm -Người được bảo hiểm mắc các bệnh giăng mai, lậu, HIV,AIDS, sốt rét, lao và bệnh nghề nghiệp. Những điểm loại trừ đối với điều kiện bảo hiểm C không được coi là các rủi ro bất ngờ vì chúng đều bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan của người được bảo hiểm , từ hành động có chủ đích của người được bảo hiểm hoặc chúng là những sự cố mà người tham gia đã biết trước khi mua bảo hiểm . 3.Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. a. Số tiền bảo hiểm ( STBH). Trong nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người, việc xác định STBH phải căn cứ theo sự thoả thuận giữa hai bên và phần nhiều phụ thuộc vào khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm. STBH đó không chịu tác động bởi tuổi tác, năng lực, trình độ sức khoẻ.... của người được bảo hiểm cũng như không phụ thuộc vào chi phí thiệt hại có thể xảy ra trong sự cố bảo hiểm, bởi vì không thể xác định được chi phí đó tại thời điểm ký kết hợp đồng. Số tiền bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm tối đa của nhà bảo hiểm đối với người được bảo hiểm trong những điều kiện nhất định đã được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.Theo điều khoản kết hợp về bảo hiểm kết hợp con người ban hành theo Quyết định số 2962/PHH-97, khách hàng có thể đăng ký tham gia với STBH như sau: - Điều kiện bảo hiểm A: Từ 1.000.000đ/ người/vụ đến 10.000.000đ/người/vụ. - Điều kiện bảo hiểm B: Từ 1.000.000đ/ người/vụ đến 20.000.000đ/người/vụ. - Điều kiện bảo hiểm C: Từ 1.000.000đ/ người/vụ đến 10.000.000đ/người/vụ. Theo điều 2 điểm 3 của điều khoản này,trường hợp người được bảo hiểm nhiều giấy chứng nhận hoặc hợp đồng bảo hiểm khác nhau theo điều khoản bảo hiểm này với tổng số tiền bảo hiểm cho điều kiện đó thì Bảo Việt chỉ chịu trách nhiệm thanh toán theo STBH tối đa quy định cho từng điều kiện bảo hiểm . Ví dụ 2: Khi xét trả tiền bảo hiểm, phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng phát hiện ông Trần văn A tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt theo điều khoản kết hợp về con người đồng thời hai giấy chứng nhận bảo hiểm với số tiền bảo hiểm như sau: Giấy chứng nhận bảo hiểm 1 Giấy chứng nhận bảo hiểm 2 -ĐK A: 4.000.000đ 2.000.000đ -ĐK B: 12.000.000đ 10.000.000đ -ĐK C: 1.000.000đ 80.000.000đ Trong trường hợp này, số tiền bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm B theo hai giấy chứng nhận trên là 22.000.000đ vượt quá mức tối đa (20.000.000đ) là 2.000.000đ, như vậy theo quyết định Bảo Việt chỉ chịu trách nhiệm bồi thường trên cơ sở số tiền bảo hiểm tối đa theo các điều kiện là: -Điều kiện A : 6.000.000đ -Điều kiện B : 20.000.000đ -Điều kiện C : 1.800.000đ b).Phí bảo hiểm *Khái niệm: Một cách đơn giản có thể hiểu phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm bảo hiểm. Đây là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm phải nộp theo hợp đồng để nhận được sự bảo đảm trước các rủi ro mà người bảo hiểm đã chấp nhận. *Kết cấu phí: Phí bảo hiểm gồm hai phần chính là phí thuần và phụ phí. -Phí thuần là phần phí thu cho phép người bảo hiểm chi trả tiền bồi thường khi có sự bảo hiểm xảy ra cho người được bảo hiểm . -Phí thuần được xác định bởi hai yếu tố chính:Tần suất xuất hiện tổn thất và chi phí trung bình về bồi thường của người bảo hiểm / một tổn thất.Những yếu tố trên chỉ đúng đắn khi chúng là kết quả thu được từ việc thống kê một số lường lớn các rủi ro cùng loại. Đây chính là sự kết hợp khéo léo giữa nguyên tắc số đông và nguyên tắc sàng lọc trong hoạt động bảo hiểm . -Phụ phí là khoản phí thu cho phép người bảo hiểm bảo đảm các phí cần thiết trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm .Đó là các chi phí như: +Chi phí đề phòng hạn chế tổn thất +Chi lương +Chi thuế +Chi tuyên truyền quảng cáo +Chi khấu hao tài sản cố định +Chi lập quỹ dự trữ *Một nhóm khách hàng khác nhau, ở độ tuổi khác nhau, tham gia những điều kiện bảo hiểm khác nhau thì có xác suất rủi ro khác nhau, do đó mức phí đóng góp cũng khác nhau.Trong bảo hiểm kết hợp con người ,biểu phí được quy định theo từng điều kiện bảo hiểm, từng nhóm tuổi cụ thể và được tính theo tỷ lệ phần trăm của số tiền bảo hiểm .Đối với hợp đồng tập thể, nhóm tuổi làm cơ sở tính phí được lấy theo tuổi bình quân của các thành viên trong tập thể đó. Bảng 1: Bảng phí bảo hiểm Đơn vị tính: % Tuổi ĐKBH 16-40 tuổi 41-50 tuổi 51-60 tuổi A 0,29 0,85 1,35 B 0,28 0,28 0,28 C 0,40 0,54 0,72 A+B+C 0,97 1,67 2,35 (Nguồn văn phòng bảo hiểm HBT) Ghi chú: Phí bảo hiểm tính cho một người / năm theo tỷ lệ% trên STBH Trường hợp khách hàng có yêu cầu tham gia bảo hiểm kết hợp con người ngắn hạn thì áp dụng biểu phí ngắn hạn như sau: Bảng 2 Bảng phí bảo hiểm ngắn hạn Đơn vị tính:% Thời hạn bảo hiểm Đến 3 tháng Từ 3-6 tháng Từ 6-9 tháng Trên 9 tháng Phí bảo hiểm (Tỷ lệ trên bảo hiểm năm 40 60 80 100 (Nguồn : Văn phòng bảo hiểm HBT) * Để khuyến khích khách hàng tham gia với số lượng lớn, Bảo Việt quy định giảm phí đối với những hợp đồng tập thể lớn, cụ thể: -Hợp đồng tập thể từ 100-500 thành viên thì giảm10% tổng số phí. -Hợp đồng tập thể từ trên 500 thành viên thì giảm15 % tổng số phí Ví dụ 3:Giả sử công ty A có 400 thành viên tuổi trung bình là 38 tuổi, có nhu cầu tham gia bảo hiểm theo điều khoản bảo hiểm kết hợp con người với số tiền bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm A là:5.000.000đ, điều kiện bảo hiểm B là:10.000.000đ và điều kiện bảo hiểm C là: 5.000.000đ từ ngày 01/01/2000 đến ngày 01/01/20001. Phí bảo hiểm công ty A phải đóng trong 1 năm là: =400 người x {( 0.29% x5.000.000đ/ người) + (0,28 x 10.000.000đ/ người) +(0,4% x 5.000.000đ/người) } =400 x (14.500đ/ người +28.000đ/người +20.000 đ/người) = 25.000.000đ. Do hợp đồng có số lớn (300 thành viên) được giảm 10% phí nên phí bảo hiểm thực tế công ty A phải đóng trong 1 năm là: 25.000.000 – 10% 25.000.000 = 22.500.000đ *Nếu người tham gia bảo hiểm có yêu cầu nộp phí bảo hiểm nhiều kỳ thì việc tính phí áp dụng theo bảo hiểm ngắn hạn, khi đó các bên cần thoả thuận và quy định rõ thời gian và số phí phải nộp trong từng thời kỳ của hợp đồng bảo hiểm . Ví dụ 4:Trở lại ví dụ 3, nếu công ty X yêu cầu đóng phí bảo hiểm làm 2 kỳ thì: -Số phí công ty A phải đóng kỳ 1 vào ngày 01/01/2000 là: F1 = 22.500.000đ x 60% =13.500.000đ -Số phí công ty A phải đóng kỳ 2 vào ngày 01/7/2000 là : F2 =22.500.000đ x 40% = 9.000.000đ 4.Hợp đồng và hiệu lực bảo hiểm a)Hợp đồng bảo hiểm Cũng như mọi hợp đồng bảo hiểm thông thường khác, hợp đồng bảo hiểm kết hợp con người là một bản cam kết trách nhiệm giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm,trong đó bao gồm các điều khoản mà 2 bên đã thoả thuận cùng với văn bản pháp lý trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm . Nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm là những thông tin về người tham gia, người được bảo hiểm, những thoả thuận về số tiền bảo hiểm , phí bảo hiểm , điều kiện bảo hiểm và thời hạn bảo hiểm cùng quy định về trách nhiệm của các bên có liên quan. b) Thủ tục ký kết hợp đồng: Khi có nhu cầu tham gia bảo hiểm kết hợp con người, các cá nhân hoặc tập thể phải điền vào giấy yêu cầu bảo hiểm( theo mẫu có sẵn của Bảo Việt) . Một trong những tính chất của bảo hiểm là tính trung thực, do đó trong giấy yêu cầu tham gia bảo hiểm kết hợp con người khách hàng phải kê khai một cách chính xác và trung thực những thông tin cần thiết về người tham gia, người được bảo hiểm ( như họ tên,tuổi, địa chỉ,thể trạng sức khoẻ, tiền sử bệnh án đã tham gia bảo hiểm kết hợp con người chưa và số tiền bảo hiểm cho mỗi điều kiện là bao nhiêu?...) cũng như yêu cầu về thời hạn bảo hiểm ,phạm vi và mức trách nhiệm giới hạn cho mỗi điều kiện bảo hiểm . Bảo Việt sẽ ký hợp đồng bảo hiểm với các cá nhân,tập thể đó ( trường hợp là tập thể thì kèm theo danh sách cá nhân được bảo hiểm và Bảo Việt sẽ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho từng cá nhân ). Sau khi nhận giấy yêu cầu của khách hàng, công ty bảo hiểm phải xem xét các yêu cầu của khách hàng một cách kỹ lưỡng cả về khía cạnh kinh tế và pháp lý. Thông thường trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm, nhà bảo hiểm phải trực tiếp tiến hành giám định đối tượng bảo hiểm và đánh gía rủi ro trước khi nhận bảo hiểm .Nhưng trong bảo hiểm con người ,công tác giám định và đánh già rủi ro rất khó thực hiện.Nhà bảo hiểm hầu như tin tưởng tuyệt đối vào sự trung thực và sự tự giác của người tham gia bảo hiểm. Sau khi tiến hành bàn bạc và thoả thuận với khách hàng, nhà bảo hiểm sẽ quyết định từ chối hay ký kết hợp đồng bảo hiểm . Sau khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết, người tham gia phải tôn trọng và tuân thủ theo những điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng( nhất là về thời hạn nộp phí). c)Hiệu lực bảo hiểm *Điều kiện bảo hiểm A:Hợp đồng có hiệu lực sau 30 ngày từ ngày đóng phí bảo hiểm *Điều kiện bảo hiểm B: Hợp đồng bảo hiểm có hiệu ngay sau khi người tham gia đóng phí bảo hiểm theo quy định. *Điều kiên bảo hiểm C:Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực ngay sau thời gian chờ dưới đây: -30 ngày đối với trường hợp ốm đau, bệnh tật. -90 ngày đối với trường hợp sảy thai, cần thiết phải nạo thai chỉ định của bác sỹ, lấy u nang buồng trứng, điều trị thai sản. -270 ngày đối với trường hợp sinh đẻ (không áp dụng đối hợp đồng bảo hiểm có từ 100 thành viên trở lên) *Các hợp đồng tái tục thì mặc nhiên có hiệu lực ngay sau khi người tham gia bảo hiểm đóng phí cho thời gian tiếp theo. *Ngoài điều kiện bảo hiểm B, sở dĩ các điều kiện bảo hiểm A, điều kiện bảo hiểm C đều yêu cầu thời gian chờ nhất định nào đó đối từng loại sự cố bảo hiểm là để tránh người tham gía bảo trục lợi bảo hiểm nhất là trong trường hợp họ thấy những dấu hiệu của khả năng ốm đau, bệnh tật, mang thai.... thì họ mới tham gia bảo hiểm, chuyển toàn bộ những thiệt hại chắc chắn xảy ra cho bảo hiểm . Khi đó nguyên tắc sàng lọc trong bảo hiểm sẽ bị vi phạm. Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm phải từ chối những trường hợp mà khả nảng rủi ro trở thành hiện thực quá lớn, khách hàng đưa đến những rủi ro quá xấu. Điều đó dẫn đến chi phí trung bình của người được bảo hiểm / một tổn thất sẽ bị đẩy lên cao sẽ ảnh hưởng không chỉ quyền lợi của người bảo hiểm mà cả quyền lợi số đông người được bảo hiểm do họ phải nộp phí cao hơn chỉ vì một số ít khách hàng “không bình thường” đã lẫn vào số họ. d) Sửa đổi bổ sung Trong quá trình hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực nếu khách hàng có yêu cầu sửa đổi bổ sung như thêm bớt số người được bảo hiểm, mở rộng hoặc thu hẹp điều kiện bảo hiểm, thì phải thông báo cụ thể bằng văn bản cho người bảo hiểm. Công ty sẽ điều chỉnh phí và tính toán phần phí phải thu thêm hoặc phải trả lại khách hàng. e) Huỷ bỏ hợp đồng Trong quá trình hợp đồng có hiệu lực, nếu 1 trong 2 bên muốn bỏ hợp đồng do những lý do nào đó như: không thoả mãn điều kiện phía bên kia đưa ra, bớt số thành viên trong công ty (đối hợp đồng bảo hiểm tập thể) thì phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết trước 30 ngày kể từ ngày định huỷ bỏ. Nếu hợp đồng được thoả thuận huỷ bỏ, Bảo Việt sẽ hoàn trả 80% phí bảo hiểm của thời gian còn lại với điều kiện tới thời điểm đó, hợp đồng bảo hiểm đó chưa có lần nào được Bảo Việt chấp nhận trả tiền. Sở dĩ chỉ trả lại 80%phí vì trong quá trình chuẩn bị và ký kết hợp đồng bảo hiểm. Bảo Việt phải tốn kém một chi phí nhất định (chi quản lý, chi hành chính...) 5. Quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm Quyền lợi của người được bảo hiểm Khách hàng tham gia bảo hiểm kết hợp con người với mục đích sẽ nhận được sự bảo đảm về tài chính khi gặp rủi ro gây tổn thất đến sinh mạng, sức khoẻ và khả năng hoạt động của họ. Đó chính là quyền lợi của người được bảo hiểm, quyền lợi đó được quy định cụ thể theo từng điều kiện bảo hiểm như sau: * Điều kiện bảo hiểm A: Trường hợp người được bảo hiểm chết do ốm đau, bệnh tật, Bảo Việt sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm *Điều kiện bảo hiểm B: -Trường hợp người được bảo hiểm chết thuộc phạm vi bảo hiểm (do tai nạn), Bảo Viết sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm. -Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật thân thể do tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, Bảo Việt trả tiền bảo hiểm theo bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm thường tật ban hành kèm theo Quyết định số 05/ TCBH ngày 02/01/1993 của bộ tài chính. Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật thân thể do tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, trong vòng 1 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn, người được bảo hiểm chết do hậu quả tai nạn đó, Bảo Việt sẽ trả phần chênh lệch giữa số tiền bảo hiểm ghi trong hợp động hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm với số tiền đã trả trước đó. *Điều kiện bảo hiểm C: Trường hợp người được bảo hiểm phải nằm viện thuộc phạm vi bảo hiểm,BảoViệt trả tiền trợ cấp cho người được bảo hiểm trong thời gian nằm điều trị như sau: 10 ngày đầu tiên: trả 0,3% số tiền bảo hiểm / ngày. 20 ngày tiếp theo :trả 0,2% số tiền bảo hiểm / ngày. 30 ngày tiếp theo: trả 0,15% số tiền bảo hiểm / ngày. Số ngày trợ cấp nằm viện trong năm được tính liên tục không phụ thuộc số lần nằm viện và không quá 60 ngày/năm bảo hiểm . Trường hợp tham gia bảo hiểm ngắn hạn( dưới 1 năm) quyền lợi bảo hiểm nói trên sẽ được tính theo tỷ lệ giữa số tháng tham gia bảo hiểm 12 tháng. Ví dụ : Chị A tham gia bảo hiểm kết hợp con người với số tiền bảo hiểm cho điều kiện C là 10.000.000đ,thời hạn từ 01/01/2000 đến 01/10/2000 (9 tháng). Trong thời hạn hiệu lực bảo hiểm , chị B ốm đau phải nằm viện điều trị 2 lần với thời gian nằm viện lần 1 là 12 ngày và lần 2 là 50 ngày.Số tiền trợ cấp chị A nhận là: Lần 1: {(10 ngày x 0,3% x 10.000.000đ/ ngày) + (2 ngày x0,2 % x 10.000.000đ/ ngày)} x 9/12 =255.000đ Lần 2: {(18 ngày x0,2% x10.000.000đ/ ngày) +(30 ngày x 0,15% x10.000.000đ/ ngày)} x 9/12 tháng = 607.500đ (Số ngày nằm viện tối đa không quá 60 ngày/ năm bảo hiểm ) Trường hợp người được bảo hiểm phải phẫu thuật thuộc phạm vi bảo hiểm . Bảo Việt trả tiền trợ cấp theo bảng tỷ lệ trả tiền phẫu thuật như sau: +Trường hợp tiến hành phẫu thuật bình thường vết mổ không bị nhiễm trùng, không để lại di chứng sau mổ sẽ được trả tương ứng với mức thấp nhất của thang tỷ lệ trả tiền bảo hiểm quy định cho loại phẫu thuật này. +Trường hợp tiến hành phẫu thuật phức tạp, vết mổ bị nhiễm trùng hoặc sau khi phẫu thuật còn để lại di chứng tuỳ theo mức độ nặng nhẹ được trả cao dần tới mức tối đa của thang tỷ lệ trả tiền bảo hiểm quy định cho loại phẫu thuật này. Quyền lợi của nhà bảo hiểm Đặc trưng của bảo hiểm thương mại là mang tính kinh doanh trên nguyên tắc lấy thu bù chi và có lãi. Do đó quyền lợi của người bảo hiểm được hưởng là phần chênh lệch giữa tổng thu( thu từ phí và thu khác) với tổng chi ( chi bồi thường, chi quản lý, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi thuế...) Ngoài ra, các công ty bảo hiểm còn được hưởng phần lợi nhuận do đầu tư các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi(chưa chi đến) vào các hoạt động kinh doanh khác như :gửi ngân hàng, đầu tư mua trái phiếu, chứng khoán, đầu tư bất động sản... 6.Thủ tục trả tiền bồi thường Khi xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc thân nhân của họ phải kịp thời áp dụng những biện pháp cần thiết và có thể thực hiện được để cứu chữa nạn nhân, hạn chế bớt tổn thất đồng thời gửi cho Bảo Việt các chứng từ sau đây trong vòng 30 ngày kể từ ngày được bảo hiểm điều trị khỏi hoặc chết: Giấy đề nghị trả tiền bảo hiểm Giấy chứng nhận hoặc bản sao(trích) danh sách người tham gia bảo hiểm Biên bản tai nạn có xác nhận của cơ quan, chính quyền địa phương hoặc công an nơi người được bảo hiểm bị tai nạn( trường hợp bị tai nạn). Các chứng từ y tế: giấy ra vào viện, phiếu điều trị(trường hợp điều trị nội trú), phiếu mổ(trường hợp phẫu thuật).... Giấy chứng tử và giấy xác nhận quyền thừa kế hợp pháp(trường hợp người được bảo hiểm chết). Trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, khi nhận thông báo về người được bảo hiểm gặp rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm.Công ty bảo hiểm sẽ xem xét các chứng từ của người được bảo hiểm và sẽ thanh toán bồi thường theo đúng những điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm trong vòng 14 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ. 7. Khiếu nại và giải quyết tranh chấp *Khiếu nại Nếu người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp thấy có điều chưa hợp lý hoặc không thoả đáng trong việc Bảo Việt giải quyết trả tiền bảo hiểm , thì họ chỉ có thể tiến hành các hoạt động khiếu nại trong vòng 6 tháng kể từ ngày nhận tiền bảo hiểm hoặc nhận được thông báo kết quả của Bảo Việt. Đây là khoảng thời gian tối đa cần thiết để người tham gia và thân nhân của họ có thể xem xét, phát hiện những khúc mắc và chuyển bị hồ sơ khiếu nại. Về phía nhà bảo hiểm trên nguyên tắc mọi hồ sơ khai thác và bồi thường đều phải được lưu trữ trong một thời gian dài nhất định. Nhưng trong vòng 6 tháng từ ngày phát sinh trách nhiệm bồi thường là khoảng thời gian tối đa để nhà bảo hiểm có thể tìm lại hồ sơ cùng tài liệu chung liên quan để chứng minh tính đúng đắn trong công tác bồi thường của mình. Vì vậy quá thời hạn trên mọi khiếu nại đều không có giá trị. *Giải quyết tranh chấp Mọi tranh chấp liên quan bảo hiểm kết hợp con người nếu không giải quyết được bằng thương lượng thì có quyền đưa ra toà án để giải quyết theo pháp luật hiện hành. pHầN II Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm hai bà trưng i. khái quát về phòng bảo hiểm quận hai bà trưng- hà nội Phòng bảo hiểm Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội được thành lập năm 1993 theo quyết định số 52/ QĐ ngày 15/9/1993 của công ty bảo hiểm Hà Nội Hiện nay, văn phòng có các nghiệp vụ chính như:Bảo hiểm học sinh, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm sinh mạng,bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm hành khách trên xe, bảo hiểm vật chất ô tô, nhưng chú trọng nhất là bảo hiểm con người. Trong 8 năm qua, phòng bảo hiểm Quận Hai Bà Trưng đã đại diện cho công ty bảo hiểm Hà Nội mở ra nhiều nghiệp vụ bảo hiểm nhằm phục tốt quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân trong Quận, đóng góp đáng kể về doanh thu phí bảo hiểm cho công ty.Cụ thể năm 2000 vừa qua, doanh thu của phòng đạt 6.887.550.000đồng. Để có những kết quả to lớn đó các cán bộ công nhân viên trong phòng đã hết sức bắng nhiệt tình tự giác và sáng tạo của mình. Mặt khác trong những năm qua văn phòng được sự ủng hộ và giúp đỡ của các bộ,các ngành trong thành phố Hà Nội nói chung và các cấp các ngành quản lý quận Hai Bà Trưng nói riêng, đặc biệt là giám đốc các cơ quan, đoàn thể và và xí nghiệp. Do đó mà tỷ lệ người tham gia bảo hiểm ngày càng cao, công tác bảo hiểm đã phát huy tác dụng tích cực trong hoạt động của các cấp, các ngành và các cơ quan xí nghiệp. Trong bối cảnh phức tạp của thị trường bảo hiểm đã có thêm nhiều đối thủ cạnh tranh không lành mạnh do luật bảo hiểm chưa được ban hành, Bảo Việt nói chung và văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng nói riêng đã không ít gặp khó khăn. Nhưng do bám sát thị trường, nhạy bén, linh hoạt, không ngừng tự hoàn thiện, khắc phục những tồn tại, nâng cao chất lượng nghiệp vụ, mở rộng địa bàn, phát triển thêm nhiều nghiệp vụ. Năm 2000, văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng không những giữ vững thị trường mà còn những bước tăng trưởng mạnh mẽ và xứng đáng là một phòng đại diện mạnh của công ty bảo hiểm Hà Nội, đáp ứng được cơ bản nhu cầu bảo hiểm của các tổ chức kinh tế Nhà nước, tư nhân, người lao động trong Quận, góp phần vào phát triển kinh tế, đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong Quận. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người mặc dù mới triển khai năm 1994 nhưng doanh thu hằng năm vẫn đạt mức cao nhất bởi sự nhạy bén biết phát huy ưu thế của từng cán bộ phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng. II. Một số thuận lợi và khó khăn Văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng có địa bàn hoạt động chủ yếu trong phạm vi quận Hai Bà Trưng thuộc thành phố Hà Nội – trung tâm chính trị, kinh tế,văn hoá của cả nước. Do đó trong quá trình triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và bảo hiểm kết hợp con người nói riêng, lãnh đạo văn phòng luôn chú trọng bám sát địa bàn, mở rộng phạm vi quản lý, chú trọng với việc phân tích, xem xét sự tác động theo các chiều hướng khác nhau của các nhân tố trong khu vực. Đó là cơ sở để văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng xây dựng một chiến lược, kế hoạch phát triển kinh doanh, đề ra các giải pháp nhằm phát huy nhân tố và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực để nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ. 1. Thuận lợi: Một là: nền kinh tế của đất nước đang có những biến đổi to lớn, việc mở rộng và phát triển hợp tác các nước trên thị trường trên thế giới đã tạo ra đã tạo ra một thị trường bảo hiểm mới phong phú và đa dạng. Lĩnh vực bảo hiểm trong nước có sự xuất hiện của nhiều công ty cổ phần, công ty liên doanh...làm cho tình hình cạnh tranh trong bảo hiểm ngày càng gay gắt. Quận Hai Bà Trưng lại hoạt động ở địa bàn Thủ đô, là một nơi rất nhanh nhạy với sự thay đổi nói trên. Vì vậy, nó đã tạo một động lực vô hình thúc đẩy phòng bảo hiểm quận Hai Bà Trưng mạnh dạn và quyết đoán trong mở rộng mối quan hệ hợp tác học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ và năng động trong tất cả các khâu, các quy trinh của bảo hiểm kết hợp con người. Chủ trương của phòng là xoá bỏ mọi sự quan liêu trì trệ, thiếu trách nhiệm trong công tác. Hai là, cùng với sự phát triển các hoạt động kinh tế, đời sống nhân dân thủ đô ngày càng được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Công tác thông tin đại chúng phát triển mạnh mẽ và đa dạng đã làm cho trình độ dân trí của người dân không ngừng tăng lên, nhận thức của dân chúng về mục đích và ý nghĩa bảo hiểm kết hợp con người cũng ngày càng hoàn thiện hơn vì thế công tác triển khai nghiệp vụ này tất nhiên là có nhiều thuận lợi. Ba là, Văn phòng được sự chỉ đạo, theo dõi sát sao đặc biệt là sự hỗ trợ về mặt tài chính của công ty bảo hiểm Hà Nội và các cơ quan đoàn thể trong địa bàn quận trong việc tăng cường vật chất,trang thiết bị làm việc hiện đại nên công tác quản lý và nắm bắt thông tin được kịp thời, giúp cho việc triển khai nghiệp vụ được triển khai nhanh chóng. Bốn là,Văn phòng cũng nhận được sự quan tâm của chính quyền địa phương và ban lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trên địa bàn Quận – Thành phố. Bên cạnh đó còn có sự cộng tác, phối hợp và giúp đỡ của các ngành hữu quan như cảnh sát giao thông, cơ quan thông tấn, báo chí, truyền hình... Trong công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia bảo hiểm và đề phòng hạn chế tai nạn, phối hợp cùng giải quyết hậu qủa rủi ro và phân chia trách nhiệm giữa các bên. 2.Khó khăn -Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế thị trường tuy có tác động tích cực nhưng lại tạo ra sự phân hoá sâu sắc giữa các tầng lớp nhân dân, để lại khoảng cách giàu nghèo khá lớn. Một bộ phận dân chúng nhất là tầng lớp nông dân, cán bộ nhân viên chức thu nhập còn thấp nên cuộc sống chưa hết khó khăn dẫn tới việc nhiều gia đình do điều kiện tài chính hạn hẹp nên chưa tham gia bảo hiểm. Lượng người từ các tỉnh đổ về thành phố ngày càng đông, đây là gánh nặng không chỉ riêng ngành bảo hiểm (về khả năng kiểm soát rủi ro ) mà còn liên quan đến toàn xã hội. -Nước ta do điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, do mức sống và điều kiện sinh hoạt của nhân dân còn thấp, ô nhiễm môi trường nên tình trạng ốm đau, bệnh tật phải nằm viện phẫu thuật là khả năng phổ biến. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém thiếu đồng bộ, mặc dù mạng lưới giao thông đã có sự nâng cấp nhưng mật độ các phương tiện giao thông tăng rất nhanh, ý thức chấp hành luật lệ giao thông của nhiều chủ phương tiện còn yếu nên khả năng xảy ra tai nạn là rất cao. - Sau nghị đinh 100/ CP của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm ban hành ngày18/12/1993, trên địa bàn thành phố xuất hiện thêm gần 30 văn phòng đại diện của công ty bảo hiểm và môi giới bảo hiểm nước ngoài như: Amerian International Group –ATG (Mỹ), Manulip Financial (Canada), Gras Vavoge (Pháp)... và các văn phòng đại diện của Bảo Minh, PJICO, PVIC... Hiện tượng này tất yếu dẫn tới sự canh tranh gay gắt để chiếm lĩnh thị trường, phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt trước đây. Để đứng vững và phát triển, phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng cần phải nỗ lực lớn để khắc phục những khó khăn trên đồng thời phát huy được thế mạnh của mình để hoàn thiện công việc một cách có hiệu qủa, góp phần xây dựng nền kinh tế thủ đô ngày một phát triển, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước. III. Thực tế triển khai bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm hai bà trưng Công tác khai thác *Khai thác là một trong ba công đoạn quan trọng khi thực hiện môĩ nghiệp vụ bảo hiểm: Khai thác, giám định, bồi thường. Khai thác là công đoạn đầu tiên của toàn bộ hoạt động bảo hiểm, nó quyết định đến doanh thu và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm. Làm tốt công tác khai thác có nghĩa là công ty sẽ thu hút được nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm, đảm bảo được nguyên tắc bảo hiểm là “số đông bù số ít”. Các biện pháp khai thác Nhận thức được tầm quan trọng của công tác khai thác Bảo Việt Hà Nội nói chung và văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng nói riềng đã tiến hành các biện pháp để triển khai công tác này, không ngừng nâng cao hiệu quả khai thác. Một trong những biện pháp mà văn phòng tiến hành là phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng làm tốt công tác tuyên truyền quảng cáo, giải thích quyền lợi và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm trong bảo hiểm kết hợp con người . Văn phòng thường xuyên cử nhân viên xuống cơ sở, trực tiếp làm việc với các cơ quan ban ngành để chào bán bảo hiểm, hướng dẫn cho người tham gia tiềm năng thấy được lợi ích cũng như tác dụng của bảo hiểm. Nếu có sự thoả thuận đồng ý của các bên, văn phòng sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng, thường xuyên có mối quan hệ tốt với khách hàng để vừa giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài vửa có điều kiện đi sâu sát tình hình nhằm kiểm soát, quản lý và thống kê rủi ro. Đây cũng là một công việc quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tính phí.Trong cơ chế canh tranh gay gắt của thị trường bảo hiểm Việt Nam, ngay cả trên địa bàn Hà Nội với sự xuất hiện của hàng loạt các công ty, văn phòng bảo hiểm ....Văn phòng đã nghiên cứu và đưa ra biện pháp tích cực để lôi kéo và duy trì khách hàng. Một mặt văn phòng đối xử với khách hàng hết sức khéo léo làm cho họ thấy rằng bảo hiểm thực sự là bạn, tạo cho họ ý thức về bảo hiểm và thấy bảo hiểm con người là cần thiết và lợi ích thiết thực cho họ. Mặt khác, văn phòng phân loại khách hàng theo thứ tự ưu tiên để có đối sách thích hợp. Thống kê các đơn vị tham gia bảo hiểm để từ đó lập kế hoạch khai thác đồng thời phân tích việc thực hiện kế hoạch dựa trên các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đạt được, nhằm mục đích xây dựng một kế hoạch sát với nhu cầu thị trường năm sau. Như vậy việc phân chia các đối tượng tham gia bảo hiểm theo các nhóm phụ thuộc vào các mức trách nhiệm, lứa tuổi, điều kiện nghề nghiệp, kinh tế xã hội... Để xây dựng được các kế hoạch bộ phận cho các mức trách nhiệm khác nhau bằng việc so sánh số người tiềm năng và người thực tế khai thác được sau đó tổng hợp các năm. Sau khi xem xét kiểm tra đối tượng tham gia bảo hiểm có đầy đủ điều kiện, tức là hướng dẫn người tham gia làm các thủ tục nhanh gọn, đầy đủ và kiểm tra các yếu tố tính phí cho khớp với mức trách nhiệm và điều kiện bảo hiểm. Đối với một cơ quan hay một xí nghiệp có số lượng người đáng kể( 30 người) văn phòng cũng dành cho họ một khoản hoa hồng cho người tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng và người đó có trách nhiệm cả 2 bên nhằm thông báo, giám sát( những người này gọi là cộng tác viên). Trong trường hợp người bảo hiểm có yêu cầu điều chỉnh số lượng người tham gia bảo hiểm thì phải điều chỉnh số phí cho phù hợp và thông báo cho khách hàng biết, đồng thời thanh toán dứt điểm phí thu. Nếu khách hàng có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng thì phải thông báo cho thủ trưởng cơ quan để kịp thời bãi bỏ hợp đồng và hoàn phí theo quy định Tình hình khai thác Với cố gắng của cán bộ nhân viên văn phòng và đội ngũ cộng tác viên ở khắp địa bàn trong Quận, Văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng đã tiến hành bảo hiểm cho một số lượng lớn người dân trong thành phố và được biểu hiện qua bảng sau: Bảng 3 Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người Năm Số người tham gia(Người) Số phí bảo hiểm Phí bảo hiểm Năm sau so với năm trước(%) (1.000đ) (1.000đ/người) Số người tham gia Số phí bảo hiểm 1996 27.750 1.803.750 65 - - 1997 29.160 2.008.135 69 105,08 111,33 1998 37.102 2.653.572 71 127,23 132,14 1999 37.756 2.759.423 73 101,76 103,99 2000 37.700 2.710.560 72 98,82 98,23 (Nguồn: Văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng) Số liệu bảng 3 cho thấy: Thứ nhất: tốc độ doanh thu luôn lớn tốc độ tăng khách hàng. Bởi vì, điều kiện sống ngày càng cao, thể hiện phí bình quân: nếu năm 1996, phí bảo hiểm bình quân cho một khách hàng tham gia là 65.000 đồng, đến năm 2.000 là 74.000 đồng (Ngoài ra còn cần loại trừ ảnh hưởng của độ tuổi cao thì nhu cầu tham gia bảo hiểm ở mức trách nhiệm cao ngày càng nhiều). Trong năm 2000, tỷ lệ tham gia bảo hiểm kết hợp con người ở mức trách nhiệm từ 6 đến 10 triệu đồng chiếm 53,71% doanh thu. Thứ hai: Doanh thu qua các năm của nghiệp vụ này đều tăng, ngoại trừ năm 2000 có giảm.Doanh thu năm 1996 mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của sự biến đổi phân chia thị trường nhưng doanh thu của vẫn đạt kết quả khả quan 1.803.750 đồng. Năm 1997, doanh thu phí của nghiệp vụ này đạt 2.008.135.000 động, tăng 11.33% so với cùng kỳ năm 1996. Năm 1997 là năm chịu ảnh hưởng lớn của sự biến đổi phân chia thị trường năm1996 để lại nên nhiều khách hàng bị mua chuộc bởi giá rẻ hơn và hoa hồng cao hơn, do cạnh tranh không lành mạnh của các cơ quan bảo hiểm khác nên công tác khai thác của văn phòng bị chững lại. Năm 1998, mặc dù nền kinh tế thủ đô chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng châu á nhưng văn phòng vẫn hoàn thành xuất sắc kế hoạch của công ty đề ra, doanh thu phí tăng nhanh, đạt2.653.572 đồng, tăng 32,14% so với năm 1997, năm 1999 doanh thu có tăng nhưng tốc độ đã giảm đi so với các năm trước (doanh thu phí năm 1999 tăng 3,99% so với năm 1998 và năm 2000 doanh thu đã giảm chỉ băng 98,23% so với năm 1999). Tình hình này có thể là do 2 nguyên nhân chủ yếu sau: *Từ trước năm 2000, văn phòng đã khai thác được hầu hết các địa bàn trong quận, việc tìm ra được những địa bàn mới là rất khó khăn. *Tình hình cạnh tranh giữa công ty bảo hiểm Hà Nội với công ty bảo hiểm khác như PJICO, Bảo Minh... diễn ra một gay gắt hơn. Trong thời gian này công ty đã mất thế độc quyền trước đây. Các công ty đã có đủ một khoảng thời gian cần thiết để trưởng thành. Thứ ba: Số khách hàng tham gia bảo hiểm qua các năm đều tăng trừ năm 2000có giảm chút ít so vơí năm 1999. Năm 1997, lượng tuyết đối có tăng lên so với năm 1996 nhưng lượng khách hàng chỉ tăng 5,08% so với năm 1996 vì nghiệp vụ này mới được triển khai được vài năm còn khá mới mẻ với người dân. Năm 1998, lượng khách hàng tăng nhanh so với năm trước. Cụ thể: số người tham gia là 37.102 người, tăng 27,23% so với năm 1997. Những con số này cho thấy công tác khai thác được văn phòng làm rất tốt mặc dù phải hoạt động trontình hình cạnh tranh gay gắt của thị trường bảo hiểm và khó khăn của nền kinh tế thủ đô. Năm 1999 văn phòng thu hút đươc 37.756 người tham gia, tăng 1,76% so với năm 1998, năm 2000 được 37.700 người tham gia, giảmchút ít chỉ bằng 98,82% so với năm 1999 những con số chưa hẳn nói lên công tác khai thác của phòng đạt hiệu quả thấp mà do mà do những nguyên nhân như đã đề cập ở phần nhận xét thứ hai. Trong thời gian tới, công tác khai thác cần chú trọng hơn nữa, nhằm thu hút nhiều khách hàng đến văn phòng. Như trên đã đề cập thì điều kiện sống ngày càng cao, nhu cầu tham gia bảo hiểm ở các mức trách nhiệm cao ngày càng nhiều. Điều này được thể hiện rõ qua bảng sau: Bảng 4 Kết quả khai thác theo các mức trách nhiệm (năm 2000) Mức trách nhiệm Chỉ tiêu Đơn vị tính 1-5 triệu đồng 6-10 triệu đồng >10 triệu đồng Tổng Số người tham gia Người 11.794 21.536 4.370 37.700 Số phí bảo hiểm 1.000đ 800.330 1.456.000 454.230 2.710.560 Tỷ trọng phí bảo hiểm theo mức trách nhiệm % 29,52 53,71 16,77 100 (Nguồn văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng) Bảng 4 cho thấy, đại đa số khách hàng tham gia bảo hiểm ở mức 6-10 triệu đồng. Cụ thể, mức trách nhiệm từ 6-10 triệu đồng có 21.536 người tham gia với số phí thu được 1.456.000đồng chiếm 53,71% tổng doanh thu nghiệp vụ. Điều này cho thấy phần nào khách hàng đã hiểu biết được nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người . Hơn nữa từ khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường thì tình hình kinh tế xã hội ngày một phát triển và đời sống nhân dân ngày càng cao. Khi đã hiểu rõ về bảo hiểm và điều kiện kinh tế cho phép họ muốn tham gia bảo hiểm ở mức trách nhiệm cao hơn. Mặt khác khi người tham gia bảo hiểm gặp phải tai nạn rủi ro và được bảo hiểm trả tiền, nếu họ tham gia với mức trách nhiệm thấp thì số tiền nhận được chắc chắn sẽ không cao và khi đó việc khắc phục hậu quả tai nạn rủi ro tỏ ra kém hiệu quả. Sau những tình huống như vậy thì việc mời mua bảo hiểm ở mức trách nhiệm cao sẽ dễ dàng hơn. Còn mức trách nhiệm từ 1-5 triệu đồng thì số phí thu được chỉ chiếm 29,52% và mức trách nhiệm trên 10 triệu đồng là 16,77%. Số khách hàng tham gia ở mức trên 10 triệu đồng chưa nhiều, khách hàng chủ yếu là các văn phòng đại diện, công ty liên doanh ... Trong thời gian tới công tác khai thác của văn phòng cần chú trọng hơn tới những đối tượng này. Để thấy rõ hơn sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người qua một số năm trước ta xem bảng sau đây: Bảng 5 Cơ cấu doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người . Năm Tổng doanh thu phí bảo hiểm Doanh thu phí nghiệp vu BH kết hợp con người Cơ cấu doanh thu (%) (1.000đ) (1.000đ) 1996 6.149.530 1.803.750 29,33 1997 6.405.534 2.008.135 31,35 1998 6.853.233 2.653.572 38,72 1999 6.902.549 2.759.423 39,98 2000 6.887.550 2.710.560 39,35 (Nguồn: văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng) Qua bảng 5 cho thấy cơ cấu doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người so với tổng doanh thu của phòng hằng năm tăng lên khá nhanh. Ví dụ, năm 1996 doanh thu phí của nghiệp vụ này chiếm 29,33% tổng doanh thu phí của phòng thì đến năm 1999 chiếm tới 39,98% và năm 2000 doanh thu giảm chút ít chỉ chiếm 39,35%. Đây là nghiệp vụ mà phòng luôn khai thác có hiệu quả nhất và điều này được thể hiện qua bảng 6: Bảng 6 Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm (năm 2000) TT Nghiệp vụ Doanh thu (1.000đ) Tỷ trọng doanh thu (%) 1 TNDS ô tô 450.155 6,53 2 TNDS xe máy 215.116 3,12 3 Thân xe ô tô 1.223.000 17,76 4 Thân xe máy 310.000 4,50 5 TNCN theo chỗ ngồi trên xe 44.700 0,65 6 TN chủ phương tiện đối với người trên xe 11.000 0,16 7 TN chủ phương tiện đối với hàng hoá 14.000 0,2 8 TN hành khách 10.320 0,15 9 TN khách du lịch 9.000 0,14 10 Toàn diện học sinh 1.190.354 17,28 11 TNCN 24/24 17.895 2,5 12 Hỗn hợp con người 2.710.560 39,35 13 Sinh mạng cá nhân 16.000 0,23 14 Hoả hoạn 200.900 2,92 15 XD lắp đặt 301.200 4,37 16 Máy móc thiết bị 30.250 0,44 17 TN đối với người và tài sản 120.000 1,74 18 Trợ cấp nằm viện và phẫu thuật 14.000 0,20 19 Tổng 6.887.550 100 (Nguồn văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng) Số liệu bảng 6 cho thấy, bảo hiểm kết hợp con người là nghiệp vụ đứng đầu trong tất cả các nghiệp vụ mà văn phòng đang triển khai. Những nghiệp vụ bảo hiểm mà Bảo Việt Hà Nội có thế mạnh như: bảo hiểm vật chất xe ô tô và bảo hiểm học sinh chỉ chiếm 17,76% và 17,28% trong kết quả khai thác năm 2000 của phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng. Tuy nhiên nhìn vào bảng số liệu 3 ta thấy dường như con số tuyệt đối của năm 2000 so với năm 1999 có giảm chút ít. Số người tham gia bảo hiểm 1,18% và số phí bảo hiểm giảm 1,77% so với năm 1999. Phải chăng nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người sắp đến điểm dừng? Thực tế không phải như vậy.Trước những biến động và khủng hoảng của thị trường tài chính, kinh tế của các nước trong khu vực cũng như toàn thế giới, gây ảnh hưởng lớn đến đầu tư nước ngoài vào Việt Am cũng như tỷ lệ thất nghiệp không ngừng tăng lên. Đặc biệt ở thành phố lớn nơi thị trường chính cũng như thị trường tiềm năng mà công ty bảo hiểm tập trung vào Thêm vào đó là sự thành lập một số công ty bảo hiểm trong và ngoài ngành như công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện....đã gần như chia nhỏ tiếp mảnh đất màu mỡ của thị trường bảo hiểm Việt Nam , ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của Bảo Việt Hà Nội nói chung và phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng nói riêng. Đối với Bảo Việt Hà Nội chạy theo doanh thu không phải là mục tiêu đặt lên hàng đầu. Năm 2000 toàn thể cán bộ tập thể nhân viên của Bảo Việt Hà Nội trong đó có cán bộ nhân viên phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng lấy mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh và nâng cao chất lượng phục vụ xã hội góp phần ổn định cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội. Các bảng số liệu trên cho thấy công tác khai thác nghiệp vụ này của văn phòng tương đối tốt và nghiệp vụ này luôn được văn phòng đặt lên hàng đầu là mục tiêu phấn đấu để hoàn thành kế hoạch đặt ra của công ty Để có được kết quả đó là do: Quá trình khai thác bảo hiểm nói chung được coi trọng, cán bộ khai thác chấp hành nghiêm các quy định của văn phòng và công ty. Cán bộ khai thác chịu khó lăn lội, bám sát thị trường, bám sát khách hàng gây được quan hệ thân thiện với khách hàng Văn phòng có chính sách khách hàng hợp lý, đặc biệt là chính sách khách hàng lớn, thể hiện trên các mặt về phí bảo hiểm về tiền thưởng nếu không có tổn thất hoặc ít tổn thất Tuy nhiên trong thời gian tới, có sự cạnh tranh trong khai thác sẽ quyết liệt hơn nhiều hơn, công tác khai thác sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trước văn phòng phải có đối sách thích hợp để duy trì chiếm lĩnh thị trường. Nhận xét chung Nói chung nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người ra đời là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Qua hơn 5 năm hoạt động nghiệp vụ này đã có một chỗ đứng vững chắc và doanh thu ngày một tăng. Tuy nhiên vấn đề tồn tại của nghiệp vụ đó là số lượng khách hàng khại thác được trên tổng số khách hàng tiềm năng là một con số rất nhỏ, mặc dù số khách hàng tham gia ở mức trách nhiệm cao ngày một nhiều nhưng thu hút đông đảo ngày càng nhiều khách hàng tham gia mới là mục tiêu chính của hoạt động bảo hiểm. Đảm bảo nguyên tắc số đông bù số ít và khi đó hoạt động bảo hiểm mới thực sự mang tính xã hội và nhân đạo và nhân văn cao cả.Nguyên nhân vì: Về mặt chủ quan mặc dù đã triển khai được vài năm nhưng những khiếm khuyết của nghiệp vụ không thể một sớm một chiều mà thấy ngay được, điều này phải có thời gian cọ sát nhiều với thực tế để hoàn thiện công tác nghiệp vụ: Công tác tuyền truyền quảng cáo của Bảo Việt nói chung chưa phát huy hết tấc dụng. Bên cạnh đó phải nói đến đội ngũ cán bộ nhân viên mặc dù đại đa số là trình độ đại học song do đặc điểm của loại hình đào tạo trong nước mà kiến thức thực tế còn hạn chế ảnh hưởng đến công tác khai thác. Về mặt khách quan: Việc vận động được đông đảo khách hàng tham gia bảo hiểm còn gặp nhiều khó khăn vì trình độ dân trí còn thấp, họ chưa hiểu rõ về bảo hiểm nhiều khi chỉ mư hồ về một điều gì đó may mắn sẽ có người giúp đỡ nếu họ gặp rủi ro, đó là bảo hiểm mà không biết chi tiết từng loại hình và nguyên tắc hoạt động riêng của nó. Vì vậy việc triển khai gặp nhiều khó khăn, đôi khi có ngưòi ngĩ có bảo hiểm xã hội là đủ rồi, chính họ không hiểu được ý nghĩa kinh tế và xã hội của bảo hiểm kết hợp con người nên đã dẫn tới điều đó. Tiếp đến đời sống hằng ngày chưa cao thì việc tìm nguồn kinh phí tham gia bảo hiểm quả là không dễ dàng chút nào. Trong thời gian tới, sự cạnh tranh khai thác sẽ quyết liệt hơn nhiều, công tác khai thác sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trước. Văn phòng phải có đối sách chính hợp thích hợp để duy trì chiếm lĩnh thị trường. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất a. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Đề phòng hạn chế tổn thất là những hoạt động cụ thể của nhà bảo hiểm nhằm ngăn ngừa, hạn chế, giảm bớt sự xảy ra rủi ro có thể gây thiệt hại tới người được bảo hiểm. Đứng về phía người được bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm họ không muốn gặp rủi ro để nhận tiền chi trả của công ty bảo hiểm. Về công ty bảo hiểm bên cạnh mục tiêu chính sách nhân đạo cũng cần đảm bảo nguồn thu để duy trì và phát triển nghiệp vụ. Với bảo hiểm kết hợp con người, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cà về kinh tế-chính trị-xã hội. Do vậy nó thu hút sự quan tâm không chỉ riêng người bảo hiểm mà của toàn xã hội. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất trong bảo hiểm kết hợp con người giảm tối thiểu số vụ tai nạn xảy ra, từ đó giảm bớt các khoản chi trả tiền bảo hiểm và nâng cao hiệu quả kinh tế của nghiệp vụ. Bên cạnh đó, công ty này còn góp phần vào việc đảm bảo an toàn xã hội, thể hiện sự chăm sóc của toàn xã hội, cùng cố niềm tin vào quá trình đổi mới của đất nước. Bảng 7 Tình hình chi đề phòng hạn chế tổn thất của phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng (1996-2000) Năm Tuyên truyền quảng cáo Hỗ trợ các ngành Khen thưởng Hội nghị Tổng (1.000đ) Năm sau so với năm trước (%) Số tiền (1.000đ) Tỷ lệ (%) Số tiền (1.000đ) Tỷ lệ (%) Số tiền (1.000đ) Tỷ lệ (%) Số tiền (1.000đ) Tỷ lệ (%) 1996 44.242 35,04 46.868 37,12 2.752 2,18 32.400 25,66 126.262 - 1997 47.239 33,67 58.965 41,94 3.176 2,26 31.099 22,12 140.569 111,33 1998 64.232 34,58 65.216 35,11 4.588 2,47 51.714 27,84 185.750 132,14 1999 74.327 38,48 76.761 39,74 4.886 2,53 37.185 19,25 193.159 103,99 2000 75.450 38,61 77.732 39,78 4.936 2,53 35.280 18,05 195.398 101,16 Nguồn : Văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng Số liệu bảng 7 cho thấy: Mức chi phí đề phòng hạn chế tổn thất của phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng đều tăng qua các năm mặc dù mức chi phí hằng năm so với doanh thu phí bảo hiểm là cố định (khoảng 7%). Năm 1996, tổng chi phí cho công tác này là 126.262.000 đ. Do hoạt động về đề phòng hạn chế tổn thất của bảo hiểm có độ trễ về thời gian nên hiệu quả công tác đề phòng hạn chế tổn thất thường đánh giá ở năm sau. Năm 1997 chi đề phòng hạn chế tổn thất là140.569.000đ, tăng 11,33% so với năm 1996 tác dụng của nó được thể hiện công tác khai thác năm 1998. Số người tham gia bảo hiểm tăng 27.23% và phí bảo hiểm tăng 32,14%. Năm 1998, mức chi cho công tác này tăng nhanh, tăng 32,14% so với năm 1997 và năm 1999 chi 193.159.000đ tăng 3,99% so với năm 1998 nhưng hiệu quả của công tác này chưa cao, số người tham gia và doanh thu có tăng nhưng đã có sự giảm sút so với các năm trước. Vì vậy, văn phòng cần phải xem xét lại công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Năm 2000, số tiền chi đề phòng hạn chế tổn thất của văn phòng là 195.398.000đ tăng 1,16% so với năm 1999. Về tình hình chi cho từng hoạt động cho thấy: Khoản chi hỗ trợ ngành chiếm tỷ lệ cao nhất với mức trung bình 38,744%. Đây là một hướng đúng đắn của văn phòng bởi vì nó không có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn tạo điều kiện cho văn phòng nâng cao hiệu quả khai thác. Hằng năm văn phòng đều đề xuất xin công ty duyệt chi để hỗ trợ cùng các ngành cảnh sát giao thông và các cơ quan đơn vị tham gia bảo hiểm trong việc giảm nhẹ và hạn chế mức độ xảy ra tai nạn. Khoản chi tuyên truyền quảng cáo: Tuyên truyền tốt có tác dụng rất quan trọng trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất. Khoản chi này có tỷ lệ khá cao, năm 1996 chi cho tuyên truyền quảng cáo là 44.242.000đ sang năm 1997 chi 47.329.000đ tăng33,67% . Năm 2000, tỷ lệ chi là cao nhất trong các năm, đạt75.450.000đ chiếm 38,61%. Những năm qua, cùng với Bảo Việt Hà Nội, văn phòng đều chú trọng khoản chi phí này, hằng trăm nghìn tờ quảng cáo về nghiệp vụ bảo hiểm mà công ty đang tiến hành đã được tiến hành in hằng năm. Chi khen thưởng: Công tác khen thưởng chưa được văn phòng quan tâm đúng mức, mức chi cho công tác này chưa cao. Cụ thể, năm 1997 chi khen thưởng chiếm 2,26% , năm1998 chiếm 2,47%, năm 1999 và năm 2000 có tăng lên nhưng không đáng kể. Chi hội nghị: Hằng năm, văn phòng cùng với Bảo Việt Hà Nội đều tổ chức các buổi hội thảo trong và ngoài phạm vi công ty để đưa ra các phương hướng biện pháp nhằm việc đề phòng tai nạn. Tỷ lệ khoản chi này theo như số liệu bảng trên có thể coi là hợp lý. Từ thực tế tổ chức công tác đề phòng hạn chế tổn thất của Bảo Việt Hà Nội nói chung và văn phòng nói riêng, ta có thể nhận thấy sự thể hiện trách nhiệm cao, tinh thần nhân đạo cao đối với người dân, đồng thời là công tác tất yếu trong kinh doanh bảo hiểm. Đó cũng là hoạt động không chỉ đề phòng cho người tham gia bảo hiểm mà còn đề phòng chính ngay cho nhà bảo hiểm vì nó liên quan đến vấn đề bồi thường. Do vậy, trong thời gian tới văn phòng cần chú trọng hơn nữa đến công tác này, đặc biệt là đi sâu vào chất lượng hoạt động cụ thể, đặt công tác này vào một vị trí tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ của nhiệm vụ trên địa bàn thành phố. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm Công tác giám định: Trong các quá trình của một nghiệp vụ bảo hiểm,công tác giám định là một làm rất cần thiết, nhất là đối với việc trả tiền bảo hiểm. Số tiền chi trả của công ty bảo hiểm hằng năm phụ thuộc vào 2 yếu tố: Số vụ tai nạn và tiền chi trả cho mỗi vụ. Trong đó số tiền chi trả cho mỗi vụ có liên quan chặt chẽ đến kết quả công tác giám định. Mục đích của công tác giám định trong bảo hiểm kết hợp con người trước hết là xác định xem tai nạn đó có thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hay không, nếu có thì mới triển khai các bước tiếp theo. Mặt khác, qua công tác giám định, văn phòng có thể tìm ra được nguyên nhân xảy ra tai nạn nhằm đưa ra biện pháp đế phòng hạn chế tổn thất có tính khả thi cao. Nội dung chủ yếu trong công tác giám định cùa bảo hiểm kết hợp con người bao gồm: Xác định tình hình tai nạn thực tế. Tìm nguyên nhân xảy ra tai nạn để làm rõ trách nhiệm của bảo hiểm. Đánh giá mức độ thiệt hại của người được tham gia bảo hiểm. Công tác giám định tổn thất đòi hỏi phải đảm bảo yêu cầu kịp thời, chính xác, trung thực và khách quan. Trong công tác giám định là một việc làm rất khó khăn phức tạp bởi vì phạm vi bảo hiểm rộng, các rủi ro thường đa dạng. Do vậy từ năm 1994, công ty bảo hiểm Hà Nội đã giao cho văn phòng đại diện đảm nhận việc giám định. Phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng đã trực tiếp cử người của phòng mình làm nhiệm vụ giám định kịp thời, tạo thuận lợi cho khách hàng và đã thu thập được những thông tin cần thiết đầy đủ hơn tạo thuận lợi hơn cho việc giải quyết bồi thường. Khi tai nạn rủi ro các cán bộ phụ trách các địa bàn đều kết hợp với mạng lưới cộng tác viên tại cơ quan, trường học và lập hồ sơ tai nạn gửi về cấp trên trực tiếp quản lý. Mỗi tuần hai lần, các cán bộ phụ trách các địa bàn đều phải xuống các cơ sở để theo dõi tình hình và nhận hồ sơ thiệt hại. Số hồ sơ thiệt hại đều phải được phải được xem xét kịp thời, tránh tình hình tồn đọng. Vì vậy hầu hết các hồ sơ đều được giải quyết ngay trong tháng. Đây là điểm mạnh của văn phòng cần phát huy ưu điểm này trong thời gian tới. Việc khiếu nại trong khâu giám định xảy ra rất ít. Qua công tác giám định văn phòng đã phát hiện một số trường hợp kê khai không đúng độ tuổi, có bệnh trước khi tham gia bảo hiểm, bị tai nạn trước khi tham gia bảo hiểm nhờ vậy đã tránh lập được hồ sơ giả để đòi tiền bảo hiểm. Đạt được kết quả đó là do trong những năm qua cán bộ phòng đã không ngừng tập huấn nâng cao nghiệp vụ về giám định bồi thường, văn phòng đã không ngừng củng cố và chấn chỉnh quy trình giải quyết. Phương châm “giải quyết nhanh, kịp thời và chính xãc” đã và đang trở thành hiện thực. Công tác bồi thường: Trong kinh doanh bảo hiểm rủi ro xảy ra với khách hàng là điều không tránh khỏi. Bồi thường là trách của công ty bảo hiểm, khách hàng xem xét công tác này để đánh giá hoạt động của công ty. Công tác bồi thường là công đoạn cuối cùng trong 3 công đoạn bảo hiểm, công tác này phải đảm bảo nhanh chóng, kịp thời nhằm giúp người được bảo hiểm không may gặp rủi ro có thể ổn định được cuộc sống và sản xuất. Để đảm bảo được những điều đó, khi nhận được thông báo về tai nạn các cán bộ bảo hiểm phải nắm vững những thông tin sơ bộ về tai nạn, nguyên nhân gây ra tai nạn thời gian và địa điểm... sau đó tiến hành kiểm tra các thủ tục giấy tờ có liên quan đến rủi ro tai nạn và giúp hoàn thiện hồ sơ bồi thường. Trong những năm qua, phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng đặc biệt coi trọng công tác này một mặt đảm bảo quyền lợi cho người tham bảo hiểm mặt khác đây là biện pháp tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả nhất. Do vậy có thể khẳng định rằng, công tác bồi thường cũng là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy mở rộng và phát triển khai thác, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đền với văn phòng. Việc xác định số tiền chi trả phụ thuộc vào tổn thất mà người tham gia phải gánh chịu căn cứ vào “Bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm thương tật” nên bị tai nạn hoặc các quy định về mức bồi thường khác về bảo hiểm kết hợp con người do Bảo Việt quy định(dựa trên các quy định của Bộ tài chính). Khi tiến hành chi trả tiền bảo hiểm, văn phòng yêu cầu người tham gia bảo hiểm trong vòng 30 ngày kể từ khi người được bảo hiểm được điểu trị khỏi bệnh bị chết phải cung cấp cho văn phòng các chứng từ, giấy tờ có liên quan đã ghi trong hợp đồng sau đó văn phòng sẽ giải quyết bồi thường trong vòng 21 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Nhưng thực tế thì việc xét trả tiền bảo hiểm của văn phòng thường giải quyết rất nhanh chóng trong một, hai ngày nếu như hồ sơ hợp lệ. Đây là điểm mạnh của văn phòng tạo được uy tín với khách hàng đã và sắp tham gia bảo hiểm. Trong những năm qua, công tác bồi thường của văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng được tiến hành như sau: ` Bảng 8: Tình hình bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người Năm Bồi thường Tổng cộng Số tiền bồi thường BQ một vụ (1.000đ) Năm sau so với năm trước Doanh thu phí bảo hiểm (1.000đ) Tỷ lệ bồi thường (%) Chết Thương tật Nằm viện phẫu thuật Số vụ STBT (1.000đ) Số vụ STBT (1.000đ) Số vụ STBT (1.000đ) Số vụ STBT (1.000đ) Số vụ (%) STBT (1.000đ) STBTBQ một vụ (%) 1996 7 35.000 1.8.65 348.300 1.428 684.364 3.300 1.067.661 323 - - - 1.803.750 59,19 1997 4 20.000 1.935 406.350 1.530 641.824 3.469 1.068.174 308 105,12 100,05 95,36 2.008.135 53,19 1998 4 20.000 2.738 555.419 1.465 699.766 4.270 1.275.185 303 121,22 119,38 98,38 2.653.572 48,06 1999 5 25.000 2.894 645.820 1.489 709.456 4.388 1.380.276 314 104,3 108,24 103,63 2.759.423 50,02 2000 5 25.000 2.910 649.390 1.491 710.408 4.406 1.384.798 315 100,41 119,88 100,32 2.710.560 51,09 (Nguồn văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng) Qua bảng 8 cho thấy: Cùng với người tham gia bảo hiểm tăng, số vụ bồi thường cũng tăng lên tương ứng. Cụ thể: năm 1996 số vụ bồi thường3.300 vụ, năm 1997 là 3.469 vụ tăng5,12% so với năm 1996. Năm 1999 số vụ bồi thường tăng 4,3% so với năm 1998. Năm 2000 số vụ bồi thường tăng ít 0,41% so với năm 1999. Điều này dẫn đến số tiền bồi thường qua các năm tăng lêng không ngừng. Nếu năm 1996 số tiền bồi thường 1.067.661 đồng, số tiền bồi thường bình quân một vụ cao nhất là 323.000đ. Nguyên nhân do số vụ chết năm này nhiều nhất trong các năm. Số tiền bồi thường bình quân mỗi vụ giảm trong hai năm 1997 và 1998, điều này cho thấy mức độ thiệt hại của các vụ tai nạn rủi ro có giảm so với năm trước. Tuy vậy, năm 1999 số tiền bồi thường bình quân mỗi vụ lại tăng lên 314.000đ, tăng lên 3,63% so với năm 1998, tương ứng với tỷ lệ bồi thường 50,02%. Năm 2000 số tiền bồi thường bình quân mỗi vụ lại tăng lên một ít 315.000đ, tăng lên 0,32% so với năm 1999 tương ứng tỷ lệ bồi thường 51,09%. Chủ yếu là do nguyên nhân sau do điều kiện sống ngày càng cao, năm 1999, năm 2000 số người tham gia mức trách nhiệm cao từ 6–10 triệu đồng đã tăng nhiều so với các năm trước. Do đó trách nhiệm trả tiền bảo hiểm đối với những hợp đồng này sẽ lớn hơn nhiều so với hợp đồng có mức trách nhiệm thấp. Hơn nữa do Bảo Việt ngày càng đổi mới công tác tiếp nhận giấy tờ bồi thường người tham gia không còn ngần ngại phải làm thủ tục các giấy tờ để yêu cầu trả tiền bồi thường. Họ đã hiểu ra rằng bồi thường là quyền lợi chính đáng mà họ đã được nhận từ công ty bảo hiểm. Mặc dù tỷ lệ bồi thường trên doanh thu năm 2000 có tăng lên so với năm 1999 nhưng nếu vẫn giữ được ở mức này hoặc có thể tăng lên chút ít thì không có vấn đề gì đáng lo ngại cả, nó rất phù hợp với hoạt động vơí hoạt động bảo hiểm của nghiệp vụ này trong thực tế kinh doanh hiện nay. Để thấy rõ hơn tình hình chi trả bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng, chúng ta có thể phân tích tình hình chi trả tiền bảo hiểm đối với mức bảo hiểm khác nhau. Bảng 9 Tình hình chi trả nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người theo các mức trách nhiêm năm 2000. Mức trách nhiệm Chỉ tiêu đơn vị tính 1-5 triệu đồng 6-10 triệu đồng >10 triệu đồng Tổng Số người tham gia Người 11794 21.536 4.370 37.700 Số vu bồi thường Vụ 1910 1.812 684 4.406 Tỷ lệ rủi ro % 15,34 8,41 14,2 11,68 Doanh thu phí 1.000đ 800.330 1.456.000 566.770 2.710.560 Số tiền bồi thường 1.000đ 220.111 1.123.000 331.681 1.384.798 Tỷ lệ bồi thường % 27,5 77,13 68,60 51,09 Nguồn: văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng Năm 2000 tỷ lệ bồi thường bảo hiểm kết hợp con người 51,09%. Tuy nhiên, tỷ lệ ứng với các mức trách nhiệm khác nhau có sự khác biệt khá lớn. Mức trách nhiệm từ 1-5 triệu đồng có tỷ lệ chi trả thấp nhất chiếm 27,5% doanh thu và mức trách nhiệm 6-10 triệu đồng có tỷ lệ chi trả cao nhất, chiếm 77,13% doanh thu phí bảo hiểm. Điều này cho ta thấy mức trách nhiệm từ 1-5 triệu đồng đạt hiệu quả cao nhất. Tỷ lệ bồi thường ở mức trách nhiệm 6-10 triệu đồng là rất lớn mặc dù số phí thu được từ mức này là lớn nhất chiếm 53,71% doanh thu phí bảo hiểm và xác xuất xảy rủi ro là nhỏ nhất: 8,41%. Nguyên nhân chủ yếu là số người tham gia ở mức trách nhiệm 6-10 triệu đồng là đông đảo nhất trong khi đó số vụ tai nạn ngày càng tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Do vậy, trách nhiệm chi trả của bảo hiểm cho người tham gia khi không may họ gặp rủi ro tai nạn cũng không ngừng tăng lên. Tóm lại, công tác bồi thường của phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng đã được nâng cao chất lượng giải quyết bồi thường nhanh chóng đảm bảo quyền lợi của người tham gia tạo uy tín trên địa bàn thành phố. Kết quả và hiệu quả kinh doanh: Kết quả kinh doanh Kết quả kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tình thực hiện triển khai nghiệp vụ từ khâu khai thác đến khâu đề phòng hạn chế tổn thất đến khâu giám định, trả tiền bảo hiểm . Theo nguyên tắc chung, xác định kết quả kinh doanh là xác định phần chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi. Tuy nhiên trong phạm vi một văn phòng bảo hiểm, tổng thu là doanh thu phí bảo hiểm. Trong bảo hiểm kết hợp con người các yếu tố thành phần đó là: Doanh thu phí bảo hiểm Tổng chi gồm: Chi trả tiền bảo hiểm Chi đề phòng hạn chế tổn thất Chi lương Chi quản lý Chi hoa hồng Chi khác Trong đó chi đề phòng hạn chế tổn thất gồm: + Chi tuyên truyền quảng cáo + Chi hỗ trợ các ngành +Chi khen thưởng +Chi hội nghị Tình hình thực hiện chi của phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 10: Kết quả kinh doanh theo các năm của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người Năm Doanh thu phí 1.000đ Bồi thường Đề phòng hạn chế tổn thất Hoa hồng Quản lý Chi khác Tổng chi 1.000đ Kết quả (Chênh lệch thu chi) Số tiền 1.000đ Tỷ lệ % Số tiền 1.000đ Tỷ lệ % Số tiền 1.000đ Tỷ lệ % Số tiền 1.000đ Tỷ lệ % Số tiền 1.000đ Tỷ lệ % Số tuyệt đối 1.000đ Số tương đối % 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 = 3+5+7+9+11 14 15 1996 1.803.750 1.067.661 59,19 126.262 7 180.375 10 144.300 8,0 63.131 3,5 1.581.729 222.021 - 1997 2.008.135 1.068.174 53,19 140.569 7 200.813 10 160.550 8,0 70.285 3,5 1.640.491 367.644 165,59 1998 2.653.572 1.275.185 48,06 185.750 7 265.357 10 222.555 8,5 92.875 3,5 2.044.720 608.852 165,51 1999 2.759.423 1.380.276 50,02 193.159 7 275.942 10 244.555 8,5 96.579 3,5 2.180.507 578.916 95,08 2000 2.710.360 1.384.798 51,09 195.397 7 282.310 10 239.963 8,5 98.808 3,5 2.201.277 509.083 87,93 (Nguồn văn phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng) Bảng 10, cho biết kết quả kinh doanh qua các năm đều tăng khá nhanh. Năm 1996, doanh thu đạt 1,803 tỷ đồng, tổng chi phí 1,58 tỷ đồng lãi thuần đạt 222 triệu đồng. Năm 1997 lãi thuần đạt 367 triệu đồng bằng 165,59% so với năm 1996, năm1998 lãi thuần đạt 608 triệu đồng tăng 65,61% so với năm 1997. Năm 1999 lãi thuần đạt 578 triệu đồng đã là khá lớn nếu so với năm1998 có sự giảm sút tỷ lệ chỉ bằng95,08% so với năm 1998 và năm 2000 lãi thuần đạt 509.083 triệu đồng chỉ bằng 87,93% so với năm 1999. Nguyên nhân chính của tình trạng này là mức chi bồi thường chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong doanh thu (chiếm 51,09% tổng doanh thu 2000) đẩy tổng chi tăng lên.Trong khi tổng thu năm tuy 2000 có giảm chút ít chỉ bằng 98,23% năm 1999, Điều này dẫn đến kết quả kinh doanh năm 2000 có giảm sút so với năm 1999. Qua bảng số liệu trên, thấy rõ yếu tố quyết định đối với kết quả kinh doanh nghiệp vụ đó là: Doanh thu phí và chi bồi thườn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1648.doc
Tài liệu liên quan