Tài liệu Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua: MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT HAY SỬ DỤNG TRONG BÀI VIẾT
1. DNBH : Doanh nghiệp bảo hiểm
2. GTBH : Giá trị bảo hiểm
3. STBH : Số tiền bảo hiểm
4. HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm
5. TTC : Tổn thất chung
6. TTR : Tổn thất riêng
7. TTTB : Tổn thất toàn bộ
8. TTBP : Tổn thất bộ phận
9. XNK : Xuất nhập khẩu
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, trên thế giới hàng hoá xuất nhập khẩu (XNK) vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng gần 90% tổng khối lượng hàng hoá của thế giới. Do loại hình vận chuyển này có cước phí rẻ, lại vận chuyển được một khối lượng lớn với đủ mọi chủng loại hàng hoá. Tuy nhiên vận chuyển bằng đường biển thường gặp rất nhiều loại rủi ro gây nên tổn thất, cho nên đã từ lâu bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển trở thành tập quán thương mại quốc tế. Bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển ra đời không chỉ đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho các chủ hàng mà còn góp phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có tố...
59 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT HAY SỬ DỤNG TRONG BÀI VIẾT
1. DNBH : Doanh nghiệp bảo hiểm
2. GTBH : Giá trị bảo hiểm
3. STBH : Số tiền bảo hiểm
4. HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm
5. TTC : Tổn thất chung
6. TTR : Tổn thất riêng
7. TTTB : Tổn thất toàn bộ
8. TTBP : Tổn thất bộ phận
9. XNK : Xuất nhập khẩu
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, trên thế giới hàng hoá xuất nhập khẩu (XNK) vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng gần 90% tổng khối lượng hàng hoá của thế giới. Do loại hình vận chuyển này có cước phí rẻ, lại vận chuyển được một khối lượng lớn với đủ mọi chủng loại hàng hoá. Tuy nhiên vận chuyển bằng đường biển thường gặp rất nhiều loại rủi ro gây nên tổn thất, cho nên đã từ lâu bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển trở thành tập quán thương mại quốc tế. Bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển ra đời không chỉ đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho các chủ hàng mà còn góp phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có tốc độ tăng trưởng khá cao. Đóng góp vào thành công chung đó không thể không kể đến vai trò của hoạt động XNK hàng hóa. Với đặc điểm địa lý của nước ta có hơn 3.000 km bờ biển, lại nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Điều này rất thuận lợi cho hoạt động ngoại thương với các nước trên thế giới, nhất là hoạt động XNK hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung và Bảo Minh Hà Nội nói riêng phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển.
Với ý nghĩa đó, sau một thời gian thực tập ở Công ty Bảo Minh Hà Nội em đã chọn đề tài: "Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua".
Cấu trúc bài viết được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua.
Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội.
Do thời gian thực tập không nhiều và còn hạn chế trong lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được những đóng góp và ý kiến của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1. Vai trò của vận tải biển và sự cần thiết của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
1.1. Vai trò của vận chuyển bằng đường biển
Việc thông thưong buôn bán hàng hóa đóng vai trò quan trọng đối với mỗi quốc gia. Để vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu người ta sử dụng nhiều thông thươngphương thức khác nhau như: đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không… Nhưng đến nay, vận tải đường biển vẫn giữ một vị trí quan trọng trong các phương thức vận tải hàng hóa. Có được vai trò quan trọng như vậy là do vận tải biển có những ưu điểm vượt trội như:
- Chi phí cho việc xây dựng, cải tạo, bảo dưỡng các tuyến đường biển thấp vì hầu hết là những tuyến giao thông tự nhiên (trừ các cảng biển).
- Năng lực chuyên chở của phương tiện vận tải biển thường rất lớn: một tuyến có thể tổ chức chạy nhiều chuyến tàu trong cùng một thời gian cho cả hai chiều, đồng thời phương tiện vận tải biển có thể chở được hầu hết các loại hàng hóa với khối lượng lớn. Vận tải bằng đường biển còn tỏ ra đặc biệt có ưu thế trong việc vận chuyển nhiều loại hàng hóa khác nhau, đặc biệt là khả năng sử dụng để vận chuyển các container chuyên dụng.
- Cước phí vận chuyển thấp hơn so với các phương tiện vận tải khác, ví dụ: cước phí trung bình vận chuyển cùng một loại hàng hóa bằng đường hàng không là 7$/kg, trong khi vận chuyển bằng đường biển là 0,7$/kg.
- Vận chuyển bằng đường biển góp phần phát triển mối quan hệ kinh tế với các nước, thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại của Nhà nước, góp phần tăng thu ngoại tệ…
1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
- Vận tải biển chịu tác động của điều kiện thiên nhiên như: mưa, bão,lũ lụt…vì quãng đường di chuyển dài lại qua nhiều vùng khí hậu rất khác nhau. Các yếu tố thiên nhiên diễn ra không tuân theo một quy luật nhất định nào. Vì vậy, mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và có thể dự báo thời tiết nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra. Đặc biệt trong điều kiện thời tiết khí hậu hiện nay có nhiều biến đổi bất thường, các hiện tượng thiên nhiên xảy ra ngày càng nhiều, nhất là các cơn bão nên tổn thất hàng hải cũng dễ xảy ra hơn.
- Trong quá trình vận chuyển đôi khi rủi ro đâm ra và trục trặc kỹ thuật do sai sót trong việc thiết kế chế tạo, bảo dưỡng tàu cũng xảy ra. Các tàu biển hoạt động tương đối độc lập giữa vùng không gian rộng lớn, nếu xảy ra sự cố thì có thể việc cứu hộ, cứu nạn rất khó khăn. Mặt khác thị trường hàng hải thường rất lớn và nhất là hiện nay số lượng tàu đưa vào khai thác nhiều, trọng tải tàu ngày càng lớn và giá trị hàng hóa ngày càng cao, cho nên nếu rủi ro tổn thất là khôn lường.
- Đường dài vận tải dài nên các tàu phải dừng chân ở nhiều cảng khác nhau thuộc các quốc gia khác nhau, do đó bị ảnh hưởng bởi các chính sách pháp luật của quốc gia đó. Nhất là quốc gia có chiến tranh, đình công quan hệ ngoại giao không tốt đối với quốc gia sở hữu tàu hoặc hàng hóa chuyên chở trên tàu.
- Người chuyên chở cũng có thể gây ra tổn thất cho hàng hóa do sai sót. Tuyệt đại bộ phận các công ước về các loại hàng hóa vận chuyển bằng đường biển và luật hàng hải các quốc gia trên thế giới, luật hàng hải Việt Nam, đều cho phép người chuyên chở giới hạn trách nhiệm bồi thường. Vì vậy, các nhà xuất nhập khẩu không bù đắp được thiệt hại thực tế xảy ra.
Để kịp thời khắc phục những rủi ro, tổn thất, một mặt người ta ngày càng hiện đại hóa, nâng cao chất lượng các đội tàu, mặt khác phải tính đến một biện pháp hữu hiệu để giải quyết các thiệt hại bằng bù đắp kinh tế, đó là thông qua bảo hiểm - hình thức phân tán rủi ro theo nguyên tắc số đông bù số ít.
Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ra đời từ rất sớm, được thừa nhận, được ủng hộ và phát triển không ngừng. Đến nay, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã có bề dày lâu năm và đến nay đã trở thành tập quán thương mại quốc tế trong hoạt động ngoại thương.
2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
2.1. Các loại rủi ro
Rủi ro hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra làm hư hỏng hàng hóa và phương tiện chuyên chở.
Trong hoạt động hàng hải có nhiều loại rủi ro khác nhau làm thiệt hại đến hàng hóa và phương tiện vận chuyển. Người ta có thể phân loại rủi ro dựa trên các căn cứ khác nhau:
* Căn cứ vào nguyên nhân gây ra tổn thất, rủi ro được chia ra làm 3 loại:
- Rủi ro do thiên tai gây ra như biển động, bão lốc, sóng thần, thời tiết quá xấu.
- Rủi ro do tai nạn bất ngờ ngoài biển như: bao gồm rủi ro do mắc cạn, chìm đắm, mất tích, đam va với tàu khác.
- Rủi ro do con người gây ra: các rủi ro như ăn trộm, ăn cắp, chiến tranh, đình công, bắt giữ, tịch thu…
* Căn cứ vào nghiệp vụ bảo hiểm, rủi ro được chia làm 3 loại:
Loại 1: Những rủi ro thông thường được bảo hiểm, bao gồm:
- Rủi ro mắc cạn: Tàu bị chạm đáy vào chướng ngại vật nào đó mà không thể tiếp tục hành trình được nữa.
- Rủi ro chìm đắm: Do nguyên nhân nào đó mà tàu bị chìm xuống biển hoặc bị đắm do sóng thần, bão tố, không thể tiếp tục hành trình được nữa, hàng hóa trên tàu bị hư hại.
- Rủi ro đâm va: tàu vị đâm, va phải chướng ngại vật trên biển (đá ngầm, công trình xây dựng, tàu thuyền khác) dẫn đến hư hỏng, hành trình bị gián đoạn.
- Rủi ro cháy nổ
- Rủi ro do thiên tai: là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như biển động, bão, lốc, sét, thời tiết quá xấu… mà con người không chống lại được.
Cách phân loại này giúp cho các chủ hàng cũng như các công ty bảo hiểm dễ dàng nhận biết các loại rủi ro để đi đến ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Loại 2: Những rủi ro không được bảo hiểm: Loại này thường là rủi ro xảy ra do hành vi cố ý của thuyền trưởng, thủy thủ, bao bì không đúng quy cách và vi phạm thể lệ XNK…
Loại 3: Những rủi ro đặc biệt: chiến tranh, đình công, bạo loạn, cướp biển thường không được bảo hiểm, nhưng nếu chủ hàng có yêu cầu, sẽ được nhận bảo hiểm kèm theo rủi ro thông thường được bảo hiểm với điều kiện trả thêm phụ phí đặc biệt chứ không nhận bảo hiểm riêng cho các rủi ro đặc biệt.
Các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất. Việc phân biệt nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan trọng để xác định được rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay không. Những tổn thất nào có nguyên nhân trực tiếp là những rủi ro được bảo hiểm gây ra thì mới được bảo hiểm bồi thường.
2.2. Các loại tổn thất
Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là những thiệt hại hư hỏng của hàng hóa được bảo hiểm do rủi ro gây ra.
* Căn cứ vào quy mô và mức độ của tổn thất: người ta chia ra tổn thất bộ phận và tổn thất toàn bộ.
· Tổn thất bộ phận: là sự mất mát hoặc giảm giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa nhưng chưa ở mức độ mất hoặc giảm hoàn toàn. Tổn thất bộ phận được chia ra 4 trường hợp sau:
- Giảm về số lượng: Hàng hóa bị thiếu bao thiếu kiện.
- Giảm về trọng lượng: Hàng hóa còn nguyên bao nhưng bị mốc rách.
- Giảm về thể tích.
- Giảm về giá trị: Số lượng, trọng lượng của hàng hóa có thể còn nguyên nhưng giá trị thì không còn được như lúc đầu, ví dụ như trường hợp lương thực thực phẩm bị ngấm nước dẫn đến mốc, ẩm…
Có hai loại tổn thất toàn bộ là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước tính.
- Tổn thất toàn bộ thực tế: là toàn bộ đối tượng bảo hiểm theo một hợp đồng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn như lúc mới được bảo hiểm hay bị mất đi, bị tước đoạt không lấy lại được nữa. Chỉ có tổn thất toàn bộ thực tế trong 4 trường hợp sau đây:
+ Hàng hóa bị hủy hoại hoàn toàn
+ Hàng hóa bị tước đoạt không lấy lại được
+ Hàng hóa không còn là vật thể bảo hiểm
+ Hàng hóa ở trên tàu được tuyên bố là mất tích.
- Tổn thất toàn bộ ước tính: là trường hợp đối tượng bảo hiểm bị thiệt hại, mất mát chưa tới mức độ toàn bộ thực tế, nhưng không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế, hoặc nếu bỏ thêm chi phí cứu chữa thì chi phí cứu chữa có thể bằng hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm. Khi gặp trường hợp này tốt nhất chủ hàng sẽ thông báo từ bỏ lô hàng và bảo hiểm phải bồi thường tổn thất cho các bên và quyền sở hữu lô hàng này thuộc về bảo hiểm.
* Căn cứ vào quyền lợi bảo hiểm: Tổn thất được chia làm 2 loại:
· Tổn thất riêng: là loại tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc một số quyền lợi của chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu. Như vậy, tổn thất riêng, ngoài thiệt hại vật chất còn phát inh các chi phí liên quan đến tổn thất riêng nhằm hạn chế những hư hại khi tổn thất xảy ra. Những chi phí đó gọi là tổn thất chi phí riêng.
Nếu tổn thất riêng thuộc phạm vi bảo hiểm, người bảo hiểm có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho những tổn thất riêng này, đồng thời cũng phải chi trả những chi phí có liên quan đến tổn thất riêng. Những chi phí này bao gồm: chi phí xếp dỡ hàng, gửi hàng, phân loại hàng hóa, thay thế bao bì đối với những lô hàng bị tổn thất. Những chi phí tổn thất riêng này nhằm hạn chế và giảm bớt tổn thất riêng.
· Tổn thất chung: là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hóa chở tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm chung đối với chúng. Nói một cách khác, tổn thất chung là loại tổn thất liên quan đến tất cả các quyền lợi trên một con tàu và vì vậy nó phải được phân bổ một cách chính xác cho tất cả các quyền lợi trên con tàu đó. Để phân bổ được phải xác định chính xác giá trị tổn thất chung. Giá trị tổn thất chung bao gồm 2 bộ phận: giá trị hy sinh tổn thất chung và chi phí tổn thất chung.
- Hy sinh tổn thất chung: là sự hy sinh một phần tài sản để cứu những tài sản còn lại. Hy sinh tổn thất chung phải thỏa mãn đồng thời 3 điều kiện sau:
+ Tài sản hy sinh tổn thất chung phải mang tính cố ý (cố ý gây ra tổn thất nhưng vẫn được bảo hiểm).
+ Hậu quả phải vì sự an toàn chung của các quyền lợi trên tàu.
+ Hy sinh tổn thất chung phải trong trạng thái cấp bách.
- Chi phí tổn thất chung: là những chi phí phải trả cho người thứ ba trong việc cứu tàu và hàng hóa thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục hành trình. Chi phí tổn thất chung bao gồm: chi phí cứu nạn, chi phí làm nổi tầu khi bị mắc cạn, chi phí thuê kéo, lai, dắt tàu khi bị nạn.
3. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
3.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
a. Đối tượng bảo hiểm
Cũng như các nghiệp vụ khác, việc xác định đúng đối tượng bảo hiểm sẽ cho phép giải quyết bồi thường một cách thuận lợi, nhanh chóng. Trong hoạt động xuất nhập khẩu thì hàng hóa có nhiều khả năng gặp rủi ro cho nên các thương gia phải mua bảo hiểm cho hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Như vậy, đối tượng của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là các hàng hóa xuất nhập khẩu.
Ở Việt Nam, căn cứ vào Quyết định số 254/TCCDBN ngày 25/5/1990 của Bộ Tài chính, hàng hóa xuất nhập khẩu hoạt động trong vòng nội thủy và hàng hải Việt Nam không phân biệt thành phần kinh tế đều có thể tham gia bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm được Bộ Tài chính cấp giấy phép hoạt động.
b. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Hàng hóa được bảo hiểm theo điều kiện nào thì chỉ những rủi ro tổn thất qui định trong điều kiện đó mới được bồi thường. Phạm vi trách nhiệm càng rộng thì những rủi ro được bảo hiểm càng nhiều và kéo theo mức phí lớn.
3.2. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
a. Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm của hàng hóa là giá trị của hàng hóa tại cảng đi "C" cộng với bảo hiểm "I" và cước phí vận chuyển đến cảng "F" tức là bằng giá CIF. Ngoài ra để thỏa mãn nhu cầu của người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi của họ. Người được bảo hiểm có thể bảo hiểm thêm cả các khoản lãi dự tính do việc xuất, nhập khẩu mang lại.
Giá trị bảo hiểm lúc đó sẽ là CIF + 10% CIF
Công thức xác định giá giá trị theo giá CIF
Ta có: I = R . CIF
Trong đó
- I: là phí bảo hiểm
- R: là tỷ lệ phí
- CIF: giá trị của lô hàng được nhập về
Mà CIF = C + I + F = C + R . CIF + F =
Þ Giá trị bảo hiểm (V) = giá CIF =
Trong đó:
C (Cost): Giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi
F (Freight): Cước phí vận chuyển
Nếu bảo hiểm cả phần lãi dự tính thì:
V =
Trong đó: a là số % lãi dự tính
b. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số tiền đăng ký bảo hiểm được ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm là cơ sở của số tiền bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể mua bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm (bảo hiểm đúng giá trị) nhỏ hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc mua bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm trên giá trị).
Về nguyên tắc số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm, nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn thực chất chỉ là bảo hiểm phần lãi dự kiến. Ngược lại nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm tức là người được bảo hiểm tự bảo hiểm lấy một phần thì người bảo hiểm cũng chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm sẽ bồi thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.
Nếu đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm trùng nghĩa là cùng một rủi ro cùng một giá trị bảo hiểm nhưng lại bảo hiểm tại nhiều công ty thì trách nhiệm của các công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn trong số tiền bảo hiểm. Như vậy, số tiền bảo hiểm cùng với điều kiện bảo hiểm sẽ giới hạn trách nhiệm của các công ty bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm.
c. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm phải trả cho người bảo hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro được bảo hiểm gây ra.
Phí bảo hiểm thường được tính trên cơ sở xác xuất rủi ro gây ra tổn thất hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm đảm bảo trang rải bồi thường và đảm bảo có lãi. Căn cứ thứ hai rất quan trọng khi tính phí là giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm (P) được xác định như sau:
P = Sb x (a+1) x R
(nếu bảo hiểm có lãi dự tính)
P = Sb x R
Nếu không bảo hiểm lãi dự tính
Sb là số tiền bảo hiểm, R là tỷ lệ phí bảo hiểm
Tỉ lệ phí bảo hiểm được ghi trong hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận giữa người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm.
3.3. Điều kiện bảo hiểm
Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với tổn thất hàng hóa. Hàng được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm nào, chỉ những rủi ro tổn thất qui định trong điều kiện đó mới được bồi thường. Sau đây là các điều kiện bảo hiểm của Viện những người bảo hiểm Luân Đôn (Insltitute of London Underwriters - ILU).
a. Các điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1963
a1. Điều kiện bảo hiểm FPA (Free from Particularr Average) - (Điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng)
Trách nhiệm bảo hiểm của FPA bao gồm:
- Tổn thất toàn bộ do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại cảng lánh nạn do rủi ro chính đem lại.
- Mất nguyên liệu hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải.
- Bồi thường các chi phí sau:
+ Chi phí đóng góp tổn thất chung
+ Chi phí cứu nạn
+ Chi phí đề phòng, hạn chế tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm do người thứ ba không phải là người được bảo hiểm hay người làm công của họ gây nên.
+ Chi phí giám định tổn thất nếu tổn thất này do rủi ro được bảo hiểm gây ra.
+ Chi phí tố tụng khiếu nại
a1. Điều kiện bảo hiểm WA (With Particularr Average) - (Điều kiện bảo hiểm tổn thất riêng).
Theo điều kiện bảo hiểm này, công ty bảo hiểm đề ra mức miễn thường và giải quyết theo các nguyên tắc sau:
- Không đề cập mức miễn thường tổn thất do rủi ro chính, rủi do chiến tranh, đình công và các rủi ro phụ do con người gây ra.
- Không cộng tác chi phí để đạt mức miễn thường, chi tính tổn thất thực tế.
- Được tính các tổn thất liên tiếp xảy ra để đạt mức miễn thường.
- Mỗi sà lan được coi là một con tàu để tính mức miễn thường.
- Người được bảo hiểm có quyền chọn cách tính mức tiền thưởng có lợi nhất cho mình để được bồi thường nhiều hơn.
a3. Điều kiện bảo hiểm AR (All Ricks) - (Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro)
Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm AR ngoài các rủi ro tổn thất và chi phí của điều kiện bảo hiểm WA thì còn mở rộng thêm các rủi ro phụ. Người bảo hiểm không áp dụng mức miễn thường.
b. Các điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1982
b1: Điều kiện bảo hiểm C (Institute Cargo Clauses C - ICC-C)
Nhìn chung,điều kiện bảo hiểm này giống điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng (FPA) năm 1963. Những điều kiện bảo hiểm ICCC này không phải bồi thường tổn thất do mất nguyên kiện hàng và cũng không phân biệt TTTB hay TTBP.
b2. Điều kiện bảo hiểm B (ICC.B)
Theo điều kiện bảo hiểm này, ngoài các rủi ro được bảo hiểm theo điều kiện C, công ty bảo hiểm còn bồi thường tổn thất đối với hàng hóa được bảo hiểm do động đất, núi lửa, sét đánh, nước biển, nước sông, hồ xâm nhập vào hầm tàu, vào container hoặc nơi để hàng: tổn thất nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải.
b3. Điều kiện bảo hiểm A (ACC-A)
Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi rộng nhất, bảo hiểm tất cả những hư hỏng mất mát của hàng hóa. Kể cả rủi ro cướp biển, chỉ trừ những rủi ro loại trừ theo qui định và điều kiện bảo hiểm này không áp dụng mức miễn thường.
Ngoài những điều kiện bảo hiểm cơ bản nói trên còn một số điều kiện đặc biệt (các điều kiện bảo hiểm bổ sung) như điều kiện bảo hiểm chiến tranh, đình công…
3.4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
a. Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản, trong đó người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm các tổn thất của hàng hóa theo các điều kiện bảo hiểm đã ký kết, còn người được bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.
b. Các loại hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm có 2 loại: HĐBH chuyến và HĐBH bao.
* HĐBH chuyến: là HĐBH cho một chuyến hàng chuyên chở từ nơi này đến nơi khác ghi trong HĐBH. Công ty bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hóa trong phạm vi một chuyến.
* HĐBH bao (HĐBH mở) là HĐBH cho một khối lượng hàng vận chuyển trong nhiều chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định (thường là một năm) hoặc nhận bảo hiểm cho một lượng hàng vận chuyển nhất định (không kể đến thời gian). Đối với các chủ hàng có khối lượng hàng hóa XNK lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với công ty bảo hiểm một HĐBH bao.
Nhìn chung, trong HĐBH thường có những nội dung chủ yếu sau:
+ Ngày cấp đơn bảo hiểm
+ Tên và địa chỉ của người mua bảo hiểm
+ Tên hàng được bảo hiểm
+ Số lượng, trọng lượng của hàng
+ Tên tàu hoặc phương tiện vận chuyển
+ Cảng khởi hành, cảng chuyển tải và cảng cuối
+ Ngày khởi hành
+ Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
+ Điều kiện bảo hiểm
+ Phí bảo hiểm.
3.5. Giám định và bồi thường tổn thất
Giám định là việc làm của nhà bảo hiểm, nhà bảo hiểm có thể cử nhân viên của mình đi giám định hoặc ủy quyền cho người khác. Trong quá trình giám định phải làm rõ các vấn đề sau:
- Nguyên nhân gây ra tổn thất có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không?
- Quy mô và mức độ tổn thất
- Mức miễn thường (nếu có)
Đối với những hàng hóa đặc chủng việc giám định đôi khi khó khăn phức tạp. Vì vậy một số nhà bảo hiểm phải thuê giám định viên chuyên ngành.
Sau khi giám định xong, cán bộ giám định sẽ cấp giấy chứng nhận giám định cho chủ hàng, trong đó ghi đầy đủ những thông tin như thời gian, địa điểm giám định, mức độ tổn thất, người giám định…
Dựa vào biên bản và giấy chứng nhận giám định nhà bảo hiểm tiến hành bồi thường theo các nguyên tắc sau:
+ Số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm là giới hạn tối đa của số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên ngoài số tiền bảo hiểm tổn thất thực tế nhà bảo hiểm còn bồi thường các khoản chi phí như: chi phí cứu nạn, cứu vớt hàng hóa, ép giám định, bán đấu giá hàng hóa.
+ Bồi thường bằng tiền, không bồi thường bằng hiện vật, thông thường nộp phí bảo hiểm bằng tiền nào thì bồi thường bằng tiền đó.
+ Khi trả tiền bồi thường nhà bảo hiểm sẽ khấu trừ các khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm đã đòi được ở người thứ 3.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI
1. Vài nét về tổng Công ty Bảo Minh và Công ty Bảo Minh Hà Nội
Có thể nói lịch sử phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam được gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm nước ta. Kể từ khi bảo hiểm Việt Nam ra đời cho đến nay, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu luôn là một loại hình bảo hiểm chủ yếu và chiếm tỉ trọng cao trong tổng phí bảo hiểm toàn thị trường. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam có thể được nhìn nhận theo hai giai đoạn phát triển.
Thời kỳ bảo hiểm hoạt động theo cơ chế độc quyền Nhà nước. Giai đoạn này chỉ có một tổ chức bảo hiểm duy nhất là bảo hiểm hoạt động phục vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu theo nghị định thư. Qui mô và phạm vi bảo hiểm của thời kỳ này còn rất nhiều hạn chế, hoạt động của thị trường không có sự cạnh tranh.
Thời kỳ bảo hiểm hoạt động trong nền kinh tế thị trường: Vào những năm cuối thập niên 80, với chính sách kinh tế mở, cùng với nhịp độ phát triển của nền kinh tế, ngành bảo hiểm đã có những bước phát triển đáng kể. Đứng trước yêu cầu đa dạng hóa các loại hình kinh doanh bảo hiểm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định và nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng bảo hiểm trong nước để đầu tư lại phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành. Sau khi Nghị định này ra đời, hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo hướng thị trường mở trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu phát triển, nhiều công ty bảo hiểm mới ra đời trên thị trường đã có sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm để giành khách hàng và tăng doanh thu phí. Nhiều vấn đề mới nảy sinh và bất cập trong thời kỳ nảy đã ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty bảo hiểm. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức tham gia bảo hiểm, đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội. Luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2004. Sau khi Luật này được ban hành, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành những văn bản thi hành Luật nhằm phát huy tối đa hiệu quả của Luật kinh doanh bảo hiểm.
Bảo Minh là công ty bảo hiểm gốc của Nhà nước đầu tiên được thành lập sau Nghị định 100/CP. Ra đời trên cơ sở là một chi nhánh của Bảo Việt tạ thành phố Hồ Chí Minh, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Bảo Minh) đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995, được phép hoạt động trên phạm vi cả nước và quốc tế, đảm nhận kinh doanh mọi loại hình nghiệp vụ bảo hiểm.
Từ năm 1995 đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam có nhiều thay đổi khi có chính sách mở cửa hoàn toàn, đặc biệt là thị trường bảo hiểm. Thách thức lớn đối với các công ty bảo hiểm trong nước là phải có đủ khả năng cạnh tranh quốc tế. Nhằm mục tiêu tạo ra một tổng công ty bảo hiểm phi nhân thọ mạnh nhất thị trường có đủ khả năng đó, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) đã chính thức chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước thành Tổng công ty Bảo Minh theo Giấy phép thành lập và hoạt động số 27 GP/KDBH ngày 08/9/2007 của Bộ Tài chính. Đây là một công ty cổ phần gồm 11 cổ đông sáng lập gồm các Tổng Công ty lớn của Nhà nước như: Tổng Công ty Hàng không, Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam v.v.. Tiếp đó, Hội đồng Quản trị của Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh đã ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Bảo Minh Hà Nội (gọi tắt là Bảo Minh Hà Nội) là công ty thành viên của Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh (gọi tắt là Tổng Công ty) theo số 1063/2007-BM/HĐQT ngày 01/10/2007.
Công ty Bảo Minh Hà Nội trong quá trình hoạt động đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của Tổng Công ty. Hiệu quả hoạt động của Công ty được thể hiện bằng sự đóng góp doanh thu phí vào tổng doanh thu phí của toàn Tổng Công ty là 20 đến 21%. Hiện nay với hơn 60 cán bộ công nhân viên, cơ cấu tổ chức của Công ty được chia thành 6 phòng ban, 8 phòng khai thác và đảm nhận 21 loại hình nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau, trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu là nghiệp vụ truyền thống nhưng vẫn được Công ty quan tâm phát triển.
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng Phi hàng hải
Phòng Quản lý đại lý
Phòng Tài sản kỹ thuật
Phòng Hàng hải
Phòng
Tổ chức hành chính
Phòng
Kế toán thống kê
Phòng khai thác 1
Phòng khai thác 2
Phòng khai thác 3
Phòng khai thác 8
Phòng khai thác 9
Phòng khai thác 10
…
Đứng đầu Công ty là Giám đốc (do Tổng giám đốc bổ nhiệm), chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động kinh doanh, tổ chức quản lý. Hai phó giám đốc quản lý từng phần nghiệp vụ của các phòng ban, giúp đỡ Giám đốc giải quyết các vụ việc liên quan từng phần nghiệp vụ.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập vận chuyển bằng đường biển ở Bảo hiểm Hà Nội do phòng Hàng hóa đảm nhiệm.
* Phòng Hàng hải có các nhiệm vụ sau:
- Hướng dẫn và chỉ đạo khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải nói trên cho các phòng thuộc Tổng Công ty theo phân cấp của Tổng Giám đốc.
- Kiểm tra quản lý toàn bộ đơn bảo hiểm hàng hải do tất cả các phòng, cấp gửi đến.
- Tổng hợp, báo cáo tổng kết công tác bảo hiểm hàng hải toàn Tổng Công ty hàng năm.
- Thông qua công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, phát hiện những yếu kém, sơ hở, vi phạm trong kinh doanh, kiến nghị với Giám đốc biện pháp xử lý, cải tiến doanh nghiệp.
- Thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, quản lý rủi ro bảo hiểm hàng hải.
- Tham mưu cho Giám đốc xây dựng kế hoạch doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải.
2. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua
2.1. Công tác khai thác bảo hiểm
Khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên của quy trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và từng nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng, đặc biệt là những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai, những sản phẩm mới tung ra thị trường. Xuất phát từ nguyên tắc chung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là "lấy số đông bù số ít" nhằm tạo lập nguồn quỹ bảo hiểm đủ lớn để dễ dàng san sẻ rủi ro, doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức tốt khâu khai thác (khâu bán hàng). Kết quả khâu này thể hiện chủ yếu ở các chỉ tiêu như: số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm (số HĐBH đã được ký kết, số đơn bảo hiểm đã cấp), số phí bảo hiểm thu được… Nếu công ty làm tốt khâu này thì công ty sẽ có nhiều khách hàng, mang lại doanh thu phí bảo hiểm cao. Đây là cơ sở để tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị phần, nâng cao vị thế của mình trên thị trường bảo hiểm. Chính vì tính chất quan trọng của khâu này mà hầu hết các công ty bảo hiểm phải lập ra các chiến lược khai thác. Công việc khai thác càng trở nên khó khăn hơn trong điều kiện thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trước tình hình đó đòi hỏi các công ty phải thực hiện tốt khâu khai thác. Đối với Bảo Minh Hà Nội mục tiêu và cũng là thước đo hiệu quả của khâu khai thác là xây dựng và phát triển một thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ổn định lâu dài và tăng trưởng cao.
Để thực hiện tốt khâu khai thác Bảo Minh Hà Nội thường tiến hành theo các bước: lập kế hoạch, xác định các biện pháp khai thác, tổ chức khai thác, đánh giá rút kinh nghiệm.
Trước hết, vào đầu năm phòng hàng hải tiến hành thu thập thông tin về kim ngạch XNK như chủng loại hàng hóa, số lượng hàng hóa của từng công ty XNK tại Hà Nội. Từ đó sẽ tập hợp số liệu để lập kế hoạch khai thác và định mức thu phí trong năm cho từng đối tượng.
- Khách hàng là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của công ty bảo hiểm. Khách hàng của công ty thường có 2 loại: Khách hàng cũ và khách hàng mới.
Đối với khách hàng cũ, các khách hàng truyền thống, các nhân viên phải thuyết phục được họ tiếp tục hợp đồng một cách tự nguyện, lượng khách hàng truyền thống này sẽ đảm bảo cho công ty một doanh thu ổn định. Một công ty bảo hiểm có lượng khách hàng truyền thống chiếm tỷ lệ cao chứng tỏ chất lượng dịch vụ của công ty là rất tốt và biểu phí phù hợp.
Đối với khách hàng mới thì các cán bộ phải tìm cách tiếp cận để tìm hiểu về loại hàng và nhu cầu tham gia bảo hiểm của họ, giúp họ hiểu hơn về sản phẩm mà công ty có thể cung cấp. Từ đó thuyết họ tham gia bảo hiểm cho những hàng hóa XNK đó, những khách hàng mới này sẽ giúp công ty tăng doanh thu, từng thị phần trên thị trường bảo hiểm.
Khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm của khách hàng. Việc cấp đơn bảo hiểm được tiến hành theo trình tự sau:
a. Kiểm tra chứng từ và đánh giá rủi ro
- Đánh giá rủi ro là bước nghiên cứu để dự kiến mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với lô hàng và tàu trong suốt hành trình. Đối với tàu chở hàng, các cán bộ khai thác của công ty phải xem xét kỹ các yếu tố sau:
+ Quốc tịch của tàu và chủ tàu: Vì đội tàu của mỗi nước có độ an toàn là khác nhau.
+ Nếu tàu chở hàng tham gia cả bảo hiểm vật chất thân tàu tại Bảo Minh thì kiểm tra xem tổng giá trị của tàu và hàng tham gia bảo hiểm có vượt quá phân cấp 11 triệu USD hay không? Nếu vượt quá phải thông báo cho phòng tái bảo hiểm để thu xếp nhượng tái.
+ Khả năng tài chính của chủ tàu, tuổi của tàu, cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải…
- Kiểm tra chứng từ: Trước hết cán bộ bảo hiểm phải kiểm tra tính hợp lý của người yêu cầu bảo hiểm, chi khi người được bảo hiểm khai báo rõ các thông tin trong giấy yêu cầu bảo hiểm mới được coi là hợp lệ. Nếu khách hàng khai thiếu các thông tin cơ bản sau: Tên mặt hàng, giá trị bảohiểm, tuyến hành trình, điều kiện bảo hiểm thì cán bộ bảo hiểm phải yêu cầu khách hàng bổ sung ngay.
b. Xem xét chấp nhận, từ chối bảo hiểm
- Từ chối bảo hiểm: Sau khi kiểm tra nếu thấy chứng từ không hợp lệ và không thể căn cứ vào đó để cấp đơn bảo hiểm, khai thác viên bảo hiểm sẽ từ chối ngay bằng cách lập công văn từ chối và gửi bằng fax hay qua đường bưu điện kèm theo các tài liệu giải thích cho khách hàng hiểu.
- Chấp nhận bảo hiểm: Sau khi kiểm tra hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, phân tích số liệu thống kê, phân tích khả năng tài chính của khách hàng, đánh giá rủi ro nếu thấy đạt yêu cầu thì Công ty quyết định bảo hiểm, đồng thời thỏa thuận thời gian giao kết hợp đồng chính thức.
c. Cấp đơn bảo hiểm
Khi đã đồng ý bảo hiểm, khai thác viên vào sổ cấp đơn, số đơn bảo hiểm được lấy theo số thứ tự trong sổ. Tiếp theo tiến hành tính số tiền bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể yêu cầu bảo hiểm theo một trong các giá trị: FOB, CF, CIF và thêm vào đó tỷ lệ lãi ước tính.
Công ty Bảo Minh Hà Nội được phép chủ dộng nhận bảo hiểm cho những hàng hóa xuất nhập khẩu có số tiền bảo hiểm dưới 6 triệu USD. Khi áp dụng các điều khoản biểu phí, quy định, hướng dẫn hiện hành của Tổng Công ty, nếu thấy cần điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế công ty sẽ trình đơn xin ý kiến chỉ đạo của Tổng Công ty và chỉ được thực hiện khi Tổng Công ty chấp nhận
Việc xác định tỷ lệ phí không chỉ dựa vào kết quả của tính toán, thống kê hay các quy định phổ biến trên thế giới, mà để đáp ứng được yêu cầu của tình hình thực tế, chi nhánh còn thường xuyên theo dõi sự biến động của thị trường, khách hàng nhằm đưa ra mức phí cạnh tranh hợp lý. Việc điều chỉnh này không những đảm bảo được lợi ích kinh doanh của công ty mà còn nâng cao ý thức trách nhiệm cũng như hiệu suất công việc của cán bộ làm công tác bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Mặt khác đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Có thể thấy sự thay đổi linh hoạt của tỷ lệ phí thông qua bảng sau:
Bảng 1: Doanh thu phí bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội
Chỉ tiêu
Năm
Đơn vị
2004
2005
2006
2007
2008
Số tiền bảo hiểm
Triệu đồng
1.480.789
1.661.052
1.925.945
2.393.611
2.118.000
Doanh thu phí
Triệu đồng
5.627
6.312
7.126
8.617
7.413
Tỷ lệ phí bình quân
%
0,38
0,38
0,37
0,36
0,35
(Nguồn: Số liệu thống kế của Bảo Minh Hà Nội)
Qua bảng trên cho thấy doanh thu và số tiền bảo hiểm tăng liên tục trung bình của doanh thu phí là 15% , năm 2007 là năm trong đó tốc độ tăng cao nhất là 21% so với năm 2006. Nhưng đến năm 2008 thì doanh thu phí 2008 chỉ bằng 86% so với năm 2007. Sự giảm sút về doanh thu phí năm 2008 là do những nguyên nhân sau đây:
- Mặc dù tỷ lệ phí năm 2008 là thấp nhất nhưng do sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm khác trên thị trường, đã làm giảm doanh thu phí của công ty.
- Mặc dù kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tăng cao nhưng tình hình thực sự không mấy khả quan đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Kim ngạch hàng xuất tăng vẫn chủ yếu tập trung vào các mặt hàng chiến lược của n như dầu thô, thủy sản, dệt may… mà tất cả các mặt hàng này hầu hết phía người mua đều là người quyết định đối với các dịch vụ về vận tải và bảo hiểm.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng nhập vẫn đạt thấp so với kế hoạch đề ra cho phòng Hàng Hải chưa có sự nỗ lực đầu tư, quan tâm thích đáng vào việc mở rộng quan hệ tìm kiếm những khách hàng nhập khẩu mới .
- Phí thu bảo hiểm của phòng Hàng Hải tập trung chủ yếu vào các khách hàng cũ truyền thống mà các khách hàng này trong năm 2008 khó khăn trong việc xuất nhập khẩu. Trong khi đó doanh thu phí của nghiệp vụ này ở các phòng khai thác khu vực chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với doanh thu của phòng Hàng Hải. Điều này được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 2: Doanh thu phí bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu tính theo các phòng tại Bảo Minh Hà Nội
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Phòng
Doanh thu phí
Tỷ lệ % năm 2008 so với năm 2007
2007
2008
1
Phòng Hàng Hải
7.678
4.789
62%
2
Phòng TS và KT
0,489
0,860
292%
3
Phòng phi HH
0,011
0.026
236%
4
Phòng khai thác 3
0
0,436
-
5
Phòng khai thác 4
0
0,083
-
6
Phòng khai thác 5
0,063
0,234
371%
7
Phòng khai thác 6
0,353
0,160
45%
8
Phòng khai thác 7
0,033
0,150
454%
9
Phòng khai thác 8
0
0,657
-
10
Phòng khai thác 9
0
0,018
-
11
Tổng cộng
8.627
7.413
86%
(Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2008 của Bảo Minh Hà Nội)
Qua bảng trên cho thấy doanh thu phí của nghiệp vụ này chủ yếu là do phòng Hàng Hải khai thác. Năm 2007 phòng Hàng hải chiếm 80% doanh thu phí của nghiệp vụ này, năm 2008 là 65%. cho nên, mặc dù năm 2008 doanh thu phí của nghiệp vụ này ở phòng TS và KT; phòng phi Hàng hải và các phòng khai thác đều tăng cao nhưng do sự giảm sút mạnh về doanh thu phí của phòng Hàng hải đã làm cho doanh thu của nghiệp vụ này ở công ty năm 2008 chỉ bằng 86% so với năm 2007.
d. Thu phí và theo dõi sau khi cấp đơn bảo hiểm
Đây có thể coi là một trong các khâu quan trọng nhất của quy trình khai thác có tác động trực tiếp đến việc hoàn thành kế hoạch thu phí và tiến độ thu phí, doanh số thu. Đồng thời nó cũng phụ thuộc nhiều vào khả năng tài chính của khách hàng cũng như mức độ khéo léo của cán bộ bảo hiểm khi giao kết hợp đồng và trong quá trình thu phí. Hiện nay hình thức thu phí của chi nhánh rất linh hoạt, có thể thu trực tiếp bằng hóa đơn hoặc thu qua chuyển khoản bằng giấy báo nợ. Thời gian thu phí là từ khi ký hợp đồng cho tới khi kết thúc hành trình. Việc quy định thời hạn kéo dài như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi và có tác dụng khuyến khích khách hàng. Riêng đối với hợp đồng bảo hiểm bao khách hàng có thể thanh toán phí theo kỳ, do hợp đồng có hiệu lực trong một thời gian dài (thường là 1 năm), sử dụng cho khách hàng lớn, xuất nhập khẩu thường xuyên và có uy tín, thông thường số phí bảo hiểm đã đóng thành 3 hoặc 4 lần trong năm (với điều kiện khi vận chuyển từng chuyến thì phải báo cho công ty biết). Hình thức thu phí của Bảo Minh cũng theo hai cách thu tiền mặt hoặc chuyển khoản.
2.2. Công tác giám định hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm Bảo Minh
Giám định hàng hóa nói chung và hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng là một khâu được Bảo Minh quy định chặt chẽ theo một trình tự nhất định nhằm tiến hành đánh giá, giám định tổn thất xảy ra một cách chính xác, hiệu quả và tiết kiệm, bảo đảm quyền lợi của cả hai bên: bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm.
Trước hết, khi có tổn thất xảy ra, Bảo Minh (cụ thể ở đây là Công ty Bảo Minh Hà Nội) sẽ xem xét tổn thất là bao nhiêu? Nguyên tắc chung của Công ty khi tiến hành giám định lại:
- Bảo đảm kịp thời, đầy đủ, trung thực và khách quan, bảo đảm phục vụ tốt nhất cho việc bồi thường của Công ty.
- Bảo Minh Hà Nội có thể trực tiếp giám định hoặc có thể nhờ các Bảo Minh ở các khu vực khác giám định hộ hoặc chỉ định đại lý của mình ở trong và ngoài nước.
Xuất phát từ những nguyên tắc này, quy trình giám định của Công ty được giám định như sau:
a. Nhận yêu cầu giám định
Khi phát hiện có tổn thất hoặc nghi ngờ có tổn thất người được bảo hiểm phải gửi ngay yêu cầu giám định đến Bảo Minh Hà Nội, yêu cầu ban đầu có thể bằng điện thoại nhưng sau đó phải bổ sung ngay bằng giấy yêu cầu chính thức có thể lưu trong tập hồ sơ giám định.
Tiếp theo, cán bộ giám định sẽ đề nghị có sự phối hợp, giúp đỡ của người yêu cầu giám định trong suốt quá trình giám định, đồng thời yêu cầu họ cung cấp các giấy tờ cần thiết sau:
+ Hợp đồng bảo hiểm
+ Vận đơn đường biển
+ Hóa đơn thương mại
+ Quy cách đóng gói
+ Các chứng từ nhận hàng hóa giữ tàu và cảng.
b. Tiến hành thực hiện việc giám định
Công việc này được thực hiện tại nơi xảy ra tai nạn. Cán bộ giám định của Công ty sẽ thực hiện các công việc sau:
+ Giám định bên ngoài kiện hàng, so sánh đối chiếu với sự miêu tả trong chứng từ vận chuyển.
+ Giám định bên trong kiện hàng.
+ Xác định mức độ tổn thất.
Trong quá trình giám định, cán bộ giám định luôn chú ý rõ số lượng hàng bị thiếu, số lượng từng loại bị hư hỏng và mức độ hư hỏng. Đồng thời ước tính các khoản chi phí khắc phục, sửa chữa, tỷ lệ giảm gía và gía trị còn lại của hàng hóa để có thể xác định mức độ tổn thất hợp lý.
+ Xác định nguyên nhân tổn thất.
Để có thể tìm ra nguyên nhân, đòi hỏi các cán bộ giám định phải có khả năng quan sát và phán đoán hết sức nhạy bén cũng như trình độ chuyên môn cao, phải hiểu rõ đặc tính của hàng hóa bảo hiểm, đặc biệt của tuyến hành trình, điều kiện khí hậu thủy văn, trạng thái kỹ thuật của con tàu, ý thức và trình độ của sỹ quan thủy thủ, thuyền viên.
+ Phân định dạng tổn thất: Hàng hóa vận chuyển bằng đường biển có thể gặp phải các tổn thất như: mất mát hao hụt, hỏng do nước ngấm, bị cong, bẹp, méo, xước, vỡ gẫy, bao kiện bị mốc rách, hàng bị ô nhiễm mùi vị hoặc bị lấm bẩn, bị mốc, ôi thiu, bị cháy, han rỉ…
+ Mỗi dạng tổn thất có thể phát sinh do nhiều nguyên nhân có xuất xứ khác nhau, vì thế đã tìm ra nguyên nhân gây ra tổn thất thì cần phải xác định rõ cả nguồn gốc phát sinh ra nguyên nhân.
Chẳng hạn khi xác định nguyên nhân tổn thất là do cháy thì cần phải phân tích xem cháy là do đặc tính của hàng hóa tự bốc cháy hay do hành vi sơ suất của thuyền viên. Hoặc khi xác định nguyên nhân tổn thất là do va đạp thì phải xem xét rằng va đập là do hàng hóa bị rơi từ trên cao xuống, bị đè nặng, chèn ép hay do sóng lớn gây ra chấn động đổ vỡ…
c. Lập biên bản giám định
Sau khi hoàn tất việc giám định, giám định viên chọn lọc các chi tiết cơ bản để phản ánh những gì đã chứng kiến tại hiện trường vào một văn bản gọi là "biên bản giám định". Đây là kết quả của quá trình giám định và cũng là cơ sở pháp lý để khiếu nại người có trách nhiệm với vụ tổn thất đó.
Nội dung của biên bản giám định phải đảm bảo các yêu cầu trung thực, chính xác, rõ ràng, cụ thể, các số liệu trên biên bản phải phù hợp với thực tế tổn thất và thống nhất với các tài liệu liên quan đến chuyến hành trình. Điểm quan trọng nhất, cũng là nội dung chính của biên bản giám định là phải ghi rõ mức độ và nguyên nhân gây ra tổn thất đó.
d. Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định
Sau khi lên biên bản giám định, cán bộ giám định của Bảo Minh sẽ cung cấp cho người hoặc tổ chức yêu cầu giám định. Việc cấp thêm biên bản cho bất cứ người nào khác được sự đồng ý của người yêu cầu giám định bằng văn bản và phải tính thêm chi phí nếu cần.
Đối với các chi phí và công lao động đã thực hiện trong quá trình giám định theo yêu cầu của người nhận hàng, giám định viên có thể ghi thêm vào biên bản giám định và phải ghi thêm vào chứng từ, hóa đơn đầy đủ về các chi phí đó.
Về nguyên tắc, chi phí giám định chỉ được thu trực tiếp từ người yêu cầu giám định nếu lô hàng không tham gia. Nếu bảo hiểm tại Bảo Minh thì phí giảm định được tính vào số tiền hàng bồi thường hoặc Bảo Minh tự chịu trong trường hợp tổn thất không thuộc trách nhiệm của mình.
Ngoài ra trong trường hợp Bảo Minh Hà Nội giám định hộ các đơn vị khác trong công ty thì giám định được tính vào số tiền bồi thường, số tiền này đơn vị nhờ giám định sẽ phải trả cho Bảo Minh Hà Nội.
Quy trình trên không chỉ được áp dụng ở Công ty Bảo Minh Hà Nội mà còn ở tất cả các đơn vị khác trong Tổng công ty. Trong một số trường hợp, tùy theo điều kiện đã thỏa thuận trong đơn bảo hiểm thì khi xảy ra tổn thất, Bảo Minh Hà Nội có thể phối hợp với một tổ chức giám định khác đã được chỉ định trong đơn để cùng tham gia giám định. Do giám định là một công việc rất khó khăn phức tạp, đòi hỏi giám định viên phải có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao, am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực như vật lý, hóa học, sinh học, tâm lý học, cơ khí nên để đảm bảo tính chính xác và công bằng trong khâu giám định, hiện nay công ty thường thuê các chuyên viên giám định về tổn thất hàng hóa có uy tín như: Công ty giám định Nhà nước (Vinacontrol) hay Công ty liên doanh giám định là Công ty Davidcontrol và FCC. Căn cứ vào biên bản mà các chuyên gia cung cấp, Công ty sẽ lên biên bản chính thức và từ đó làm căn cứ giải quyết bồi thường cho những hàng hóa được bảo hiểm.
Bảng 3: Chi giám định và chi bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Năm
Chi phí giám định ngoài trách nhiệm bồi thường
Chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường
Thực thi bồi thường
Tổng chi bồi thường
1
2
3
4
5=3+4
2004
31
210
2.363
2.573
2005
42
247
2.714
2.941
2006
48
269
2.992
3.251
2007
52
288
3.364
3.632
2008
63
275
2.742
2.988
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội)
Qua bảng trên cho thấy, chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường tăng qua các năm. Điều này là do số vụ tổn thất cần giám định tăng về số lượng và quy mô. Mặt khác, tính chất các vụ tổn thất ngày một phức tạp đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian, tiền của hơn, phải bỏ thêm chi phí để thuê các chuyên gia giám định tổn thất nên chi phí thuộc trách nhiệm bồi thường tăng lên. Đối với các khoản chi ngoài trách nhiệm bồi thường, đây là khoản chi chi cho các vụ tổn thất có nguyên nhân là các rủi ro loại trừ. Các khoản chi này là không lớn so với tổng chi bồi thường và tương đối ổn định.
Do thực tế ở Công ty, số tiền giám định các vụ tổn thất thuộc trách nhiệm bồi thường được tính gộp vào tiền bồi thường nên có sự phân biệt giữa chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường và chi phí giám định không thuộc trách nhiệm bồi thường cũng như giữa chi phí thực bồi thường và tổng chi bồi thường.
2.3. Công tác giải quyết khiếu nại bồi thường
Trên tinh thần nguyên tắc tăng cường quyền hạn và ý thức trách nhiệm của công ty khu vực cũng như nhằm phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất, tổng công ty Bảo Minh đã quy định phân cấp bồi thường cho các công ty. Bảo Minh Hà Nội là công ty cấp I và cũng là công ty lớn nhất miền Bắc nên được Tổng công ty quy định hạn mức phân cấp bồi thường đối với nghiệp vụ này là 15.000 USD/vụ (tương đương 230 Tr.đ). Trong trường hợp có những hồ sơ vượt phân cấp, công ty phải thu nhập đầy đủ hồ sơ bồi thường theo quy định khẩn trương làm báo cáo có ý kiến của đơn vị gửi về tổng công ty để xem xét bồi thường.
Quy trình giải quyết bồi thường ở Bảo Minh Hà Nội cũng được tiến hành theo các bước sau:
a. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại:
Bộ hồ sơ khiếu nại đối với tổn thất hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển có:
+ Hợp đồng bảo hiểm và giấy sửa đổi bổ sung (nếu có)
+ Vận đơn đường biển (bản gốc)
+ Phiếu đóng gói (bản gốc)
+ Biên bản giám định (bản gốc)
+ Các chứng từ giao nhận hàng của cảng hoặc cơ quan chức năng
+ Thông báo tổn thất.
+ Hợp đồng vận chuyển
+ Hóa đơn biên lai các chi phí khác
+ Các chứng từ liên quan (nếu tổn thất phát sinh do lỗi của người thứ ba).
b. Kiểm tra chứng từ
Khi tiếp nhận, cán bộ làm công tác giải quyết bồi thường của chi nhánh sẽ kiểm tra cẩn thận tính đầy đủ và hợp pháp của bộ chứng từ. Nếu có thiếu sót, nhầm lẫn thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung hoặc hiệu đính lại.
c. Xác minh phí:
Kiểm tra xem người được bảo hiểm có thực hiện và thực hiện đúng nghĩa vụ đóng phí của mình không, đây là một trong các biện pháp ngăn ngừa tình trạng gian lận trong bảo hiểm có ý đồ trục lợi cho riêng mình.
d. Giám định tổn thất.
Lúc này cán bộ làm công tác bồi thường làm rõ những vấn đề sau:
+ Người khiếu nại có quyền lợi bảo hiểm không?
+ Tổn thất xảy ra có trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm không?
+ Tổn thất có phải do những rủi ro loại trừ gây ra không?
+ Tổn thất có được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm như đã thỏa thuận không?
Chỉ cần không đáp ứng được một trong các câu hỏi trên thì có nghĩa là nó đã nằm ngoài phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Khi đó chi nhánh sẽ lập công văn gửi người khiếu nại (bằng fax hoặc gửi qua bưu điện) để từ chối việc bồi thường tổn thất mà anh ta yêu cầu. Trong công văn phải nêu tóm tắt sự việc và lý do khước từ trách nhiệm bảo hiểm sao cho có tình có lý nhất.
Nếu tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì cán bộ xét bồi thường lúc này phải tính đến số tiền dự tính bồi thường, rồi làm tờ trình để trình lãnh đạo theo phân cấp bồi thường xem xét và cho ý kiến về việc bồi thường.
e. Thanh toán bồi thường.
Giai đoạn cuối cùng trong quá trình giải quyết bồi thường là việc thanh toán bồi thường. Sau khi lãnh đạo xem xét và đồng ý phê duyệt bồi thường, cán bộ xét bồi thường phải gửi thông báo số tiền bồi thường để lấy ý kiến chấp nhận từ phía khách hàng đồng thời chuẩn bị hồ sơ để đòi người nhận tái bảo hiểm hay đòi hỏi người thứ ba nếu có. Khi nhận được ý kiến chấp nhận của khách hàng số tiền bồi thường sẽ được chuyển khoản theo số tài khoản của khách hàng.
Bên cạnh hoạt động khai thác, thu phí thì xét giải quyết bồi thường cũng là một khâu then chốt tác động đến số lãi thực thu của chi nhánh nói chung và trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng, nếu hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại bồi thường nâng lên thì góp phần giảm khoản chi, từ đó tăng lợi nhuận và cũng là hiệu quả kinh doanh.
Bảng 4: Tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển Bảo Minh Hà Nội
Năm
Tổng doanh thu phí
(triệu đồng)
Chi bồi thường (triệu đồng)
Tỷ lệ bồi thường (%)
2004
5.627
2.363
45
2005
6.312
2.714
43
2006
7.126
2.992
42
2007
8.627
3.364
39
2008
7.413
2.742
37
(Nguồn: Số liệu thống kê của Bảo Minh Hà Nội)
Qua số liệu trên cho thấy số tiền chi bồi thường tăng lên qua các năm nhưng tốc độ tăng nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu phí bảo hiểm và tỷ lệ chi bồi thường có xu hướng giảm qua các năm, từ 45% năm 2004 xuống còn 37% năm 2008. Điều này cho thấy công tác đề phòng hạn chế của công ty đã thực hiện ngày càng tốt, đồng thời các công đoạn từ khai thác giám định bồi thường được nâng cao, nó đảm bảo hợp lý quyền lợi của người được bảo hiểm. Từ đó nâng cao uy tín cho công ty cũng như tổng công ty thu hút thêm khách hàng đến với công ty ngày càng nhiều
3. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty Bảo Minh Hà Nội
3.1. Kết quả kinh doanh
Sau 10 năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trên địa bàn Hà Nội. Nghiệp vụ này đã thu được nhiều kết quả, doanh thu phí tăng liên tục qua các năm. Doanh thu phí từ nghiệp vụ này hàng năm chiếm khoảng 40% doanh thu phí nhóm nghiệp vụ Hàng Hải và chiếm 10% tổng doanh thu phí toàn công ty, góp phần không nhỏ vào việc tăng lợi nhuận của công ty trong các năm qua. Lợi nhuận từ nghiệp vụ này mang lại tăng liên tục qua các năm từ 2004 -> 2008. Điều này được thể hiện rất rõ trong bảng sau:
Bảng 5: Kết quả kinh doanh nghiệp vụ hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội
Đơn vị:Triệu đồng
Năm
Doanh thu phí
Chi bồi thường
Chi hoa hồng
Chi đề phòng hạn chế tổn thất
Chi giám định
Chi quản lý
Chi khác
Tổng chi
Lợi nhuận trước thuế
Thuế thu nhập
Lợi nhuận sau thuế
0
1
2
3
4
5
6
7
8 =2+3+7
9=8-1
10
11=9-10
2004
5.627
2.363
587
613
210
926
308
5.007
620
124
496
2005
6.312
2.714
645
658
247
965
345
5.574
738
147
591
2006
7.126
2.992
791
694
269
1.218
322
6.286
840
168
672
2007
8.627
3.364
864
722
288
1.985
537
7.760
867
173
694
2008
7.413
2.741
756
723
276
1.634
352
6.482
931
186
745
(Nguồn: Số liệu thống kê của Bảo Minh Hà Nội)
Một điều kiện quan trọng hơn nữa để đạt được kết quả tăng trưởng cao như hiện nay là dựa vào chất lượng và thái độ phục vụ khách hàng chu đáo nhiệt tình của Công ty, từ đó tạo được lòng tin của khách hàng đối với công ty và Tổng công ty. Việc giải quyết khiếu nại đòi bồi thường tổn thất cho khách hàng cũng ngày một đơn giản và nhanh chóng. Những cố gắng này không chỉ thúc đẩy việc tái tục hợp đồng với các khách hàng cũ mà còn thu hút các khách hàng mới đến với Công ty. Điều này làm giảm các khoản chi và làm tăng lợi nhuận cho công ty, tạo những bước phát triển nhanh và vững chắc, dần dần khẳng định vị thế của công ty trên thị trường bảo hiểm trong nước.
3.2. Những thuận lợi và khó khăn của Bảo Minh Hà Nội khi triển khai nghiệp vụ này
a. Những thuận lợi
- Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao trong các năm qua, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Năm 2008 km ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội tăng 23,8%, trong đó xuất khẩu địa phương tăng 37% chia theo thành phần kinh tế Nhà nước tăng 14%, kinh tế ngoài Nhà nước tăng 17,6% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 48,9%. Một số ngành hàng xuất khẩu tăng là: máy in phun (công ty Canon Việt Nam) tăng 104,7%, hàng xăng dầu (tạm nhập, tái xuất , tăng 51,8%, hàng điện tử tăng 23,1%… kim ngạch nhập khẩu trên địa bàn năm 2008 tăng 21% so với năm trước, trong đó nhập khẩu địa phương tăng 26,4%. Chia theo thành phần kinh tế thì kinh tế Nhà nước tăng 18,4%, kinh tế ngoài Nhà nước tăng 17,2%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 40,7%. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và Bảo Minh Hà Nội nói riêng để phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
- Khung pháp lý về bảo hiểm ngày càng hoàn thiện và cơ chế thông thoáng hứa hẹn sự phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam
b. Những khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên thì khi triển khai nghiệp vụ này Bảo Minh Hà Nội gặp một số khó khăn sau:
- Trên thị trường có sự cạnh tranh gay gắt của nhiều công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài như Bảo Việt, Pjico, PVIC, Alliaze…
- Tỷ lệ hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm trong nước còn thấp. Đối với hàng nhập khẩu là khoảng 45% và chỉ khoảng 7% đối với hàng xuất khẩu. Các khách hàng của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thường mua bảo hiểm tại công ty bảo hiểm n nước họ hoặc các công ty bảo hiểm được xếp hạng tốt trên thế giới. Đây cũng là khó khăn chung của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam.
- Nguồn nhân lực của phòng hàng hóa còn thiếu chưa được bổ sung kịp thời. Phòng chưa định hướng tìm ra được kế hoạch phát triển và tăng doanh thu.
CHƯƠNG III
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI
1. Phương hướng, mục tiêu của Bảo Minh Hà Nội trong thời gian tới
- Phấn đấu đạt kế hoạch về doanh thu năm 2006 là 100,5 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng trên 20%, lợi nhuận kinh doanh đạt 15 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu phí năm 2006 của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là 8,5 tỷ đồng.
- Mở rộng và phủ kín địa bàn 14 quận huyện của Hà Nội. Phát triển hệ thống đại lý đa dạng và rộng khắp. Ban hành các chính sách tài chính hỗ trợ đại lý khai thác. Đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ khai thác viên và đại lý.
- Khắc phục những mặt tồn tại của công ty: đồng thời củng cố và hoàn thiện bộ máy tổ chức. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng với phương châm "Bảo minh tận tình phục vụ". Áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý và phục vụ kinh doanh.
Bảng 6: Kế hoạch kinh doanh theo nhóm nghiệp vụ của
Bảo Minh Hà Nội năm 2006
Đơn vị: Tỷ đồng
STT
Nghiệp vụ
Kế hoạch 2008
Thực hiện 2008
Kế hoạch 2006
1
Hàng hải
23
17,866
20
2
TS-KT
35
34,539
40
3
Xe cơ giới
28
23,021
30
4
Con người
9
4,362
10,5
Tổng cộng
95
82,788
100,5
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Bảo Minh Hà Nội năm 2008)
2. Kiến nghị
Việc luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/2000 là một thành công cua các nhà luật pháp. Tiếp theo đó là nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Tài chính thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý đầy đủ cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động cũng như tạo sự bình đẳng, đảm bảo lợi ích chính đáng và hợp pháp giữa những người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, các văn bản pháp quy này phải đưa vào thực hiện một cách hoàn chỉnh.
2.1. Đối với Nhà nước
Cùng với việc mở cửa của thị trường bảo hiểm, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy không dài nhưng mức độ và tính chất đã diễn ra rất gay gắt thậm chí nhiều lúc mang tính tiêu cực. Vì thế sự can thiệp của Nhà nước nhằm định hướng cho ngành bảo hiểm nước ta liên tục phát triển một cách bền vững và lành mạnh để có thể đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết.
- Để tránh tình trạng hạ phí làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của thị trường, Nhà nước (cụ thể là Bộ Tài chính) cần đưa ra mức phí sàn đối với từng sản phẩm bảo hiểm.
Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường Việt Nam, đồng thời khuyến khích các công ty tái bảo hiểm ở trong nước trước khi tái ra nước ngoài. Một thực tế hiện nay là tỷ lệ tái bảo hiểm cho các công ty nước ngoài rất cao, phần tái bảo hiểm cho VINARARE hầu như chỉ vừa đủ theo quy định của Nhà nước. Thực trạng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến:
- Khi tái bảo hiểm ra nước ngoài, do tiềm lực tài chính của các công ty tái bảo hiểm nước ngoài rất mạnh nên các công ty bảo hiểm của Việt Nam tỏ ra yên tâm hơn, đồng thời khi tái bảo hiểm ra nước ngoài thì hoa hồng công ty nhận được thông thường lớn hơn so với khi tái bảo hiểm trong nước.
- Khi tái bảo hiểm ra nước ngoài, các công ty bảo hiểm còn có thể tranh thủ được công nghệ, kỹ thuật cao của các công ty đó. Đặc biệt những trường hợp xảy ra tổn thất có tính chất phức tạp hoặc tranh chấp liên quan đến phạm vi quốc tế thì việc giải quyết thông qua các công ty tái bảo hiểm đó thường hiệu quả hơn.
Vì những lý do trên nên hiện nay tỷ lệ tái bảo hiểm ra nước ngoài trong nghiệp vụ xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở nước ta là rất cao, giải quyết vấn đề này cần có sự định hướng phát triển đúng đắn cũng như những chính sách nhất quán từ phía Nhà nước.
So với các luật khác, luật bảo hiểm vẫn còn chưa hoàn chỉnh. Mặc dù luật kinh doanh bảo hiểm ra đời là bước ngoặt quan trọng trong ngành bảo hiểm Việt Nam nhưng nó chỉ là điều chỉnh về mặt kinh doanh thành lập và kiểm tra của Nhà nước. Việc giải quyết các tố tụng trong bảo hiểm vẫn chưa được xét đến.
- Pháp luật cần xác định rõ Tòa án nào có thẩm quyền xét xử các vụ kiện trong bảo hiểm.
Việc bắt giữ tàu nước ngoài gây thiệt hại cho hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển tham gia tại công ty quá khó khăn, làm cho doanh nghiệp bảo hiểm không đòi lại được số tiền đã bồi thường.
Do đó, Nhà nước cần xem xét bổ sung luật tố tụng trong bảo hiểm và có các chương trình đào tạo kiến thức về bảo hiểm cho quan tòa.
2.2. Đối với Bảo Minh Hà Nội và Tổng công ty
a. Về mặt nghiệp vụ:
(*) Công tác khai thác và dịch vụ chăm sóc khách hàng
Trước sức ép cạnh tranh từ phía các công ty bảo hiểm khác, thị phần của toàn Tổng công ty Bảo Minh sẽ bị san sẻ, nên Tổng công ty cần phải tìm kiếm thêm khách hàng cho mình. Sự an toàn trong hoạt động bảo hiểm phụ thuộc vào phí thu được, mà số phí thu được lại phụ thuộc vào khả năng khai thác của các đại lý và các chính sách khách hàng. Chính sách khách hàng tại tổng công ty Bảo Minh nói chung và Công ty Bảo Minh Hà Nội nói riêng được thực hiện như sau:
- Hằng năng, hàng quý công ty có thể tổ chức hội nghị khách hàng. Đây là dịp tốt để công ty tạo nên ấn tượng của mình với khách hàng. Ngoài ra còn giúp góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
- Phân loại khách hàng thường xuyên để có những chính sách thích hợp, khuyến khích, ưu đãi khách hàng về phía có ưu tiên đối với những khách hàng lớn và khách hàng truyền thống của công ty.
- Tuyên truyền phổ biến chính sách khách hàng đến tất cả các nhân viên trong công ty, có quy trình về trách nhiệm, có sơ kết, có đề xuất với lãnh đạo, để đưa công tác khách hàng không ngừng phát triển về chất lượng phục vụ.
* Củng cố và phát triển đại lý, cộng tác viên
Hệ thống đại lý, cộng tác viên của Tổng công ty có đảm bảo thì Tổng công ty mới hoàn thành tốt được kế hoạch đề ra. Tổng công ty và công ty Bảo Minh Hà Nội nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống đại lý, cộng tác viên trong việc kinh doanh bảo hiểm nên đã không ngừng phát triển và mở rộng hệ thống đại lý, đồng thời nâng cao trình độ của các đại lý. Tổng công ty, công ty Bảo Minh Hà Nội đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo các đại lý. Song cần tập trung vào việc xây dựng quy trình phát triển hệ thống đại lý mới. Các đơn vị trong toàn Tổng công ty cần phải thấy được tầm quan trọng của đại lý và thực sự quan tâm đến hoạt động của đại lý, cộng tác viên. Thực hiện tốt các quy định về quản lý tài chính đối với đại lý, cộng tác viên: ấn chỉ, hóa đơn, thu nộp phí…
* Chương trình tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm cũng là một công việc quan trọng trong các nghiệp vụ bảo hiểm, nếu các công ty bảo hiểm tính toán đúng các phương thức và tỷ lệ tái không những sẽ giúp cho Tổng công ty tránh được phá sản khi có tổn thất quá lớn xảy ra mà còn giúp Tổng công ty tăng lợi nhuận. Đối với Bảo Minh và công ty Bảo Minh Hà Nội các chương trình tái cũng đã được Tổng công ty quan tâm đáng kể nhưng cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề sau:
- Tập trung hướng dẫn giúp đỡ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ kế toán thống kê của các địa phương nắm vững nội dung các chương trình tái, tỷ lệ nhượng tái, thu hoa hồng nhượng tái…
- Thông báo kịp thời tình hình tái cho các đơn vị để làm cơ sở tính toán hiệu quả.
- Tăng cường trách nhiệm của phòng tái về đòi bồi thường, hoa hồng từ tái bảo hiểm.
b.về mặt quản lý:
(*) Công tác kế hoạch thống kê:
Thực hiện triệt để định hướng kinh doanh: hiệu quả là mục tiêu hàng đầu, xây dựng chỉ tiêu doanh thu thuần và khoản định mức theo chỉ tiêu này.
Tăng cường kiểm tra theo dõi công tác thực hiện kế hoạch và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời.
(*) Công tác tài chính kế toán:
- Nhanh chóng hoàn chỉnh và triển khai phần mềm quản lý tài chính kế toán FAST. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình quyết toán tài chính cho các đơn vị quyết toán nhanh các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành.
- Tăng cường công tác kiểm tra quản lý tài chính, hướng dẫn chi tiêu phù hợp với sự đổi mới của Tổng công ty. Hưỡng dẫn các biện pháp tiết kiệm chi phí quản lý.
(*) Phát triển bộ máy nhân sự:
Sự thành công của việc kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc phần lớn vào trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong Tổng công ty nói chung và trong từng đơn vị nói riêng. Các cán bộ trong từng công ty cần phải am hiểm tường tận các nghiệp vụ bảo hiểm, các điều luật liên quan và có khả năng phân tích mọi điều khoản của các bộ luật, các văn bản chuyên ngành và các văn bản liên quan phục vụ cho công việc như: phân tích cho khách hàng những thắc mắc của họ, giải quyết các yêu cầu của khách hàng đúng luật, tạo nên uy tín trong khách hàng về đội ngũ nhân viên am hiểu về nghiệp vụ và các vấn đề có liên quan.
- Bổ sung thêm kiến thức cho nhân viên trong toàn công ty về các lĩnh vực như: tin học, ngoại ngữ, công nghệ mới trong các ngành. Công ty cần kiểm tra định kỳ các nhân viên của mình về kỹ năng nghiệp vụ của họ nhằm sắp xếp công việc phù hợp cho nhân viên của mình tạo năng suất và hiệu quả làm việc cao nhất.
- Công ty nên có chế độ khen thưởng hợp lý đối với những nhân viên có thành tích tốt trong công tác, phải phê bình nghiêm khắc đối với các nhân viên vi phạm các quy chế của công ty, của Tổng công ty. công ty có thể tổ chức một buổi họp khen thưởng và phê bình, điều này là rất tốt vì như thế sẽ thúc đẩy các nhân viên làm việc tốt hơn để đạt được những thành tích tốt trong công việc.
- Tổng công ty và Công ty cần đặt ra chế độ thi tuyển nhân viên rộng rãi khắp toàn quốc nhằm thu hút người tài, có năng lực về làm việc trong Tổng công ty, công ty.
- Công ty cần tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cập nhật thường xuyên các kiến thức thông tin cho cán bộ. Tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ cho nhân viên theo kịp yêu cầu của công tác mới.
3. Giải pháp
3.1. Về công tác khách hàng
Đây là khâu quan trọng trong chiến lược Marketing của doanh nghiệp nói riêng và trong cơ chế thị trường khi mà cung luôn vượt quá cầu. Mục tiêu thu hút khách hàng luôn đặt ra đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.
Trước hết phải kể đến việc nghiên cứu thị trường và khách hàng. Đây là công việc cần làm trước khi hoạch định các chiến lược chính sách và đề ra kế hoạch cho năm nghiệp vụ, nhằm xác định được những bộ phận thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp có thể hoạt động với nhiều lợi thế nhất, mặt khách giúp doanh nghiệp hiểu rõ về khách hàng, đối thủ cạnh tranh, tình hình thị trường. Để làm được điều này hàng năm công ty cần phải có kế hoạch thu nhập các thông tin về hạn ngạch xuất nhập khẩu cho từng mặt hàng nắm được định hướng xuất nhập khẩu trong năm. Công ty cần cử các nhân viên xuống gặp gỡ với các công ty xuất nhập khẩu để có thể tư vấn cho họ về việc mua bảo hiểm của công ty mình. Mặt khác cũng thông qua tiếp cận với khách hàng tìm hiểu nhu cầu xuất nhập khẩu của từng đơn vị để phân chia khách hàng thành từng nhóm: nhóm khách hàng có nhu cầu thường xuyên, nhóm có nhu cầu không thường xuyên hay nhóm các khách hàng chuyên xuất mặt hàng gạo, nông thủy sản hoa quả, hàng thủ công mỹ nghệ… nhóm khách hàng chuyên nhập các mặt hàng phục vụ cho sản xuất như xi măng, sắt thép, phân bón… đồng thời căn cứ vào nhu cầu thực tế của từng đơn vị để có thể thành lập một bảng kế hoạch chi tiết trong đó có sự phân nhóm rõ ràng và kế hoạch tiếp cận, khai thác đối với từng đối tượng. Công ty có thể phân chia khách hàng theo nhóm khách hàng truyền thống và nhóm khách hàng mới để có thể có những chính sách ưu đãi phù hợp.
Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường, khách hàng thì vấn đề cao chất lượng cũng là một điều cần bàn. Như chúng ta đã biết sản phẩm bảo hiểm là một dịch vụ tài chính vô hình khách hàng rất khó cảm nhận được lợi ích của nó thông qua các giác quan. Chính vì vậy mà chúng ta phải nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để tăng tính hữu hình của sản phẩm. Cụ thể là công ty cần phải có những nội quy rõ ràng để hướng dẫn các nhân viên trong việc tiếp xúc khách hàng, giải quyết khiếu nại, thu phí. Mấy năm vừa qua vấn đề này được Bảo Minh Hà Nội quan tâm giải quyết, cho đến nay kết quả đã thấy rõ rệt.
Một thực trạng trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa ở nước ta hiện nay chính là việc các doanh nghiệp tiến hành xuất nhập khẩu hàng hóa theo điều kiện CIF. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta giành quyền vận chuyển và bảo hiểm hàng hóa cho phía đối tác nước ngoài. Đây chính là nguyên nhân khiến cho hàng năm chúng ta làm thất thoát một khối lượng lớn ngoại tệ ra nước ngoài. Nhiệm vụ của doanh nghiệp bảo hiểm ở đây là tạo dựng cho khách hàng sự tin tưởng vào chất lượng phục vụ của tổng công ty, căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp để tư vấn cho doanh nghiệp về các điều kiện xuất và nhập hàng, khuyến khích họ xuất khẩu theo giá CIF và nhập theo giá được đặt ra đối với FOB.Tất nhiên, trong tình hình thực tế của cá doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, đây là một vấn đề khó khăn nhưng nếu không làm được như vậy thì hàng năm chúng ta vẫn phải chấp nhận một khối lượng khổng lồ hàng hóa xuất nhập khẩu của chúng ta tham gia bảo hiểm ở các công ty nước ngoài.
Mặt khác, hàng luôn mong muốn được bồi thường khi tổn thất xảy ra đối với phí bảo hiểm thấp nhất. Vì vậy đôi khi họ mua bảo hiểm không phù hợp với hàng hóa. Bảo Minh Hà Nội cần tránh những vụ từ chối bồi thường đáng tiếc để đảm bảo lợi ích và tạo tin tưởng cho khách hàng.
Thứ nhất: Lúc ký hợp đồng, cán bộ khai thác cần phải dựa trên tính chất, đặc điểm của hàng, cách đóng gói bao bì, cách thức xếp hàng trên tàu, khả năng xảy ra các rủi ro để tư vấn điều kiện thích hợp cho khách hàng. Ví dụ:
- Các mặt hàng như quặng, gỗ, sắt, thép, xăng dầu chỉ cần bảo hiểm theo điều kiện C.
- Loại hàng được vận chuyển trên boong tàu và loại hàng cồng kềnh như sắt thanh, gỗ tròn, than đá, bột và bắp nên được bảo hiểm theo điều kiện B.
- Các mặt hàng quý có giá trị cao, dễ vỡ, như hàng điện tử, hàng dễ hư thiếu hụt thuốc men, gạo, lúa mỳ, đường, hóa chất, phân bón phải bảo hiểm theo điều kiện A.
Ngoài ra một số loại hàng không nhất thiết phải mua bảo hiểm theo điều kiện A mà có thể mua ban hành theo điều kiện C hay B rồi mua bảo hiểm thêm một số rủi ro phụ hay xảy ra đối với hàng đó. Ví dụ:
- Bông thô: điều kiện A cộng với điều khoản hư hỏng từ nơi xuất xứ như hư hỏng gây ra do mưa, bùn trước khi giữ hàng.
- Than: do đặc tính dễ bắt lửa và tự bốc cháy, người được bảo hiểm nên mua điều kiện bảo hiểm C và cộng thêm điều kiện bảo hiểm nóng.
Nếu trộm cắp hay xảy ra trên hành trình, khách hàng có thể mua thêm rủi ro trộm cắp, không giao hàng.
Thứ hai: cần hướng dẫn khách hàng lập những chứng từ cần thiết chứng minh tổn thất và khiếu nại người thứ ba để đảm bảo quyền được bồi thường của khách hàng.
3.2. Mức phí bảo hiểm
Như chúng ta đã biết sản phẩm bảo hiểm là một loại hình dịch vụ đặc biệt đó là một cơ chế chuyển giao rủi ro với đặc tính là có hiệu quả rê dịch và có chu trình kinh tế đảo ngược. Vì thế người mua khó nhận biết về lợi ích kinh doanh của nó, họ thường quan tâm tới mức phí (giá cả của sản phẩm bảo hiểm). Phí bảo hiểm không thể quá cao làm cho khách hàng tham gia bảo hiểm ở công ty khác, nhưng cũng không được quá thấp vì phải còn đủ để bồi thường các khiếu nại dự tính trong suốt thời gian bảo hiểm và trang trải các chi phí như: hoa hồng, chi phí quản lý, trích lập dự phòng nghiệp vụ, Tổng công ty cần phải có những chính sách giảm phí cho những khách hàng truyền thống, có số tiền bảo hiểm lớn. Phí bảo hiểm cần phải được xây dựng trên cơ sở thống kê rủi ro, tổn thất qua các năm từ đó xác định được phí thuần, sau khi cộng thêm một số chi phí như: chi phí ký kết hợp đồng, chi phí quản lý… Ta sẽ được phí thương mại. Để có mức phí hợp lý công ty phải căn cứ vào một số yếu tố… thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh… rồi sau đó mới đưa ra được biểu phí cho khách hàng. Ngoài ra công ty cần phải thường xuyên theo dõi ảnh hưởng của mức phí đến tâm lý khách hàng cũng như sự tương quan với mức phí của các công ty khác để có sự điều chỉnh kịp thời.
3.3. Về công tác đề phòng, hạn chế tổn thất
Với những đặc điểm của mình, vận tải đường biển thường gặp phải rất nhiều rủi ro bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế, để công tác đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả thì công tác này cần được thực hiện nay từ khi xấp hàng lên tàu và tiếp tục duy trì trong suốt hành trình cho đến khi dỡ hàng tại cảng đến.
Hiện nay việc đề phòng hạn chế tổn thất đang được công ty thực hiện bằng cách chỉ định một công ty khác của bảo hiểm tại bến cảng hoặc thuộc đơn vị chuyên trách tiến hành quá trình bốc xếp hàng hoá lên, xuống tàu nhằm ngăn chặn những công nhân bốc xếp không làm đúng theo quy cách hoặc dùng phương tiện không thích hợp trong việc bốc xếp hàng hóa.
Từ những biện pháp này, công ty đã hạn chế số vụ tổn thất bồi thường của công ty trong thời gian qua. Công ty đã tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất qua việc tăng chi cho công tác này. Năm 2005, công ty đã tăng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất 1,53% trong tổng chi nghiệp vụ. Hiệu quả được thể hiện là trong năm 2006 và năm 2007, thực chi bồi thường của Tổng công ty đã giảm rõ rệt. Công ty nên tiếp tục phát huy và làm tốt hơn một số vấn đề như:
Đối với luồng vận chuyển, từng chuyến hành trình công ty vấn nghiên cứu kỹ những đặc điểm của cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải, cảng lánh nạn (nếu có), những rủi ro có thể xảy ra… Đồng thời với các con tàu vận chuyển cho từng chuyến hàng, công ty cũng cần xem xét,tìm hiểu các đặc tính như cấp hạn tàu, tuổi tàu cỡ hạn tàu, chủ tàu… Trên cơ sở đó phòng hàng hảng sẽ lập ra bản hướng dẫn đối với khách hàng mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu bao gồm: Một bản chung áp dụng cho tất cả những khách hàng trong đó ghi thông tin về tất cả các đặc điểm của từng vận chuyển, từng nhóm tàu kèm theo là lời khuyên nên chọn nhóm tàu nào và biện pháp cho việc phòng tránh rủi ro. Một bản khác sẽ được sử dụng trong từng trường hợp cụ thể đối với từng khách hàng và hợp đồng cụ thể trên đó phân tích các đặc tính của tàu, của lô hàng tham gia bảo hiểm và kèm theo các khuyến cáo về phòng tránh rủi ro, tổn thất.
Đối với khách hàng tham gia hợp đồng bảo hiểm Bảo Minh Hà Nội nên đề nghị khách hàng thông báo gửi về cho công ty trước mỗi chuyến hành trình, phải ghi thật đầy đủ, cụ thể các đặc điểm của chuyến theo đó công ty sẽ thông báo lại cho khách hàng về con tàu nên thuê cách thức đóng gói, bốc, dỡ, chất xếp hàng cần làm….
Bên cạnh đó công ty cũng lên tham mưu cho khách hàng về các mặt: điều kiện bảo hiểm tốt nhất, chất lượng hàng, bao bì đóng gói, điều kiện bốc dỡ, đóng gói, tình trạng tàu, tình trạng tài chính của tàu.
Nếu như lô hàng có giá trị lớn, số lượng tiền nhiều, chiếm một khoảng không gian đáng kể trong hầm tàu thì chủ hàng nên đề nghị chủ tàu tiến hành việc nâng hàng và chăm sóc hàng ngay từ đầu.
Trong trường hợp khách hàng lớn, thường xuyên tiến hành hàng xuất nhập khẩu và hay bốc dỡ tại một cảng nào đó thì công ty cũng nên để khuyến cáo khách hàng cần có đề xuất với cảng chấp nhận phương án sau. Nếu trong một thời gian nhất định (có thể là một quý hoặc một năm). Các lô hàng hóa xuất nhập khẩu trong quá trình bốc xếp không may xảy ra mất mát, hao hụt, trả lại hoặc xảy ra nhưng với điều kiện nhỏ hơn mức độ ấn định thì cũng sẽ được thưởng một khoản tiền tương xứng. Còn nếu ngược lại thì các giá trị tổn thất xảy ra vượt mức cho phép thì cảng phải trả cho chủ hàng một số tiền tỷ lệ với giá trị tổn thất. Bằng cách này sẽ nâng cao đượtổn thấtnhiệm của cảng đối với hàng hóa, qua đó có thể giảm được đáng kể các tổn thất khi bốc dỡ và xếp hàng.
3.4. Về công tác giám định
Qua số liệu tổng kết của công ty trong thời gian gầ đây ta thấy khoản chi cho giám định hàng hóa tăng lên. Điều này có thể lý giải là do những năm đầu số vụ tổn thất còn ít nên hầu hết các vụ đều do cán bộ của công ty hoặc Tổng công ty giám định.Song càng về sau số vụ tổn thất càng tăng lên theo số lượng hợp đồng trong khi đó số lượng cán bộ phòng hàng hải của Bảo Minh là quá mỏng, lại phải đảm đương tất cả các khâu từ khai thác đến bồi thường nhiều nghiệp vụ: bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm tàu phà sóng biển, đồng thời tính chất phức tạp của tổn thất cũng tăng lên vì thế công ty phải thuê các chuyên gia giám định có uy tín để thực hiện. Do đó đã làm chi phí giám định tăng lên.
Để tăng cường chất lượng công tác giám định đồng thời đảm bảo tiết kiệm chi phí, một mặt công ty cần phải không ngừng đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ giám định, mặt khác nên để chuyên món hóa khâu giám định bằng cách mỗi cán bộ phòng hàng hải chịu trách nhiệm giám định cho một số mặt hàng cụ thể nào đó. Có như vậy thí mới có thể đi sâu nghiên cứu và chuyên môn hóa trong lĩnh vực của mình để nhằm hạn chế bớt các chi phí phát sinh và nâng cao hiệu suất của công việc.
3.5. Công tác bồi thường:
Hiệu quả công tác bồi thường phụ thuộc rất lớn vào việc triển khai biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất và đơn giản hóa các thủ tục trong quá trình xét giải quyết khiếu nại, đòi bồi thường. Vì thế, để nâng cao chất lượng công tác này, Tổng công ty và Công ty không chỉ cần làm tốt các yếu tố trên mà còn phải có những biện pháp ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra trong quá trình khiếu nại đòi bồi thường.
Để ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra tổn thất khi xem xét khiếu nại đòi bồi thường tổn thất, công ty cần tìm hiểu và xác định rõ các tổn thất kinh nghiệm thực tế và trình độ chuyên môn của các cán bộ của công ty nên đề ra những chuẩn mực và các điểm chú ý cần thiết trong quá trình giải quyết khiếu nại cho tất cả các cán bộ phòng hàng hải của công ty. Mặt khác, công ty cần đề ra những yêu cầu đối với khách hàng về tinh thần trung thực cũng như thiện chí khi ký kết hợp đồng, đặc biệt là đối với những khách hàng mới. Nếu họ vi phạm những thỏa thuận đó thì công ty xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ. Có thực hiện được như trên thì mới tạo được những hiệu quả thiết thực trong việc ngăn ngừa gian lận trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại bồi thường đường biển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại bồi thường của công ty cũng như Tổng công ty.
3.6. Về công tác cán bộ
Hiện nay ở công ty Bảo Minh Hà Nội, đội ngũ cán bộ công tác trong phòng hàng hải đều rấ tâm huyết với công việc và có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Những cán bộ này được đào tạo các kiến thức về chuyên ngành bảo hiểm, hàng hải, ngoại thương, luật trong các trường đại học có uy tín. Ngoài ra hàng năm các cán bộ này còn tham gia nhiều khóa huấn luyện hội thảo trong nước cũng như ngoài nước (Anh, Mỹ, Hàn Quốc). Mặt khác, đa phần trong số họ đều làm việc cho công ty ngay từ đầu thành lập nên rất am hiểu thực trạng của công ty, vị thế của công ty trên thị trường, khách hàng truyền thống… đây có thể nói là những thuận lợi của công ty về mặt nhân sự, có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của công ty trong thời gian qua.
Tuy nhiên hiện nay cán bộ trong phòng hàng hải của công ty còn ít so với khối lượng đồ sộ của công việc và thường xuyên phải thực hiện những chuyến công tác dài ngày để giám định bồi thường tổn thất . Vì vậy xin đề nghị với Tổng công ty cũng như công ty lưu tâm hơn đến chế độ đãi ngộ cũng như lương, thưởng đối với cán bộ phòng bảo hiểm để khuyến khích họ ngày càng làm việc tốt hơn và hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với kinh tế trong khu vực cũng như nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy, hoạt động thông thương buôn bán quốc tế đang diễn ra nhộn nhịp góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của nền kinh tế nước ta.
Với vai trò là tấm lá chắn cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo hiểm hàng hóa nói chung và bảo hiểm hàng vận chuyển bằng đường biển nói riêng đã không ngừng phát triển và góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường Việt Nam. Bảo Minh Hà Nội cũng đã và đang triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển và đã nắm giữ một thị phần không nhỏ đối với nghiệp vụ này, đóng góp chung vào kết quả của cả Tổng công ty. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các công ty bảo hiểm trong nước cũng như Bảo Minh là phải tự hoàn thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, cải tiến các sản phẩm cho phù hợp hơn với các yêu cầu của khách hàng. Về phía Nhà nước cũng cần có những biện pháp hỗ trợ để hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được bảo hiểm tại thị trường trong nước nhằm thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển cũng như tiết kiệm ngoại tệ phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Sau một thời gian thực tập ở công ty Bảo Minh Hà Nội, với sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị phòng Bảo hiểm Hàng hải, sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Hà Văn Sỹ em đã hoàn thành chuyên đề của mình, với hy vọng góp phần phần nhỏ vào việc hoàn thiện nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, trong thời gian tới đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của chủ hàng khi tham gia bảo hiểm và góp phần vào sự phát triển chung của công ty. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn những người đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm, TS. Nguyễn Văn Định, NXB Thống kê - 2007.
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh Bảo hiểm, TS. Nguyễn Văn Định, NXB Thống kê - 2007.
3. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành (Insurance Principle and Practice) - Học viện Hoàng Gia Anh.
4. Các tạp chí thông tin thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm, VINARE.
5. Tạp chí bảo hiểm
6. Tạp chí của phòng bảo hiểm Hàng hải - Công ty Bảo Minh Hà Nội
7. Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh của Bảo Minh Hà Nội các năm 1998 - 2007.
8. Báo cáo năng lực của Bảo Minh (12/2007)
9. Website: www.baominh.com.vn
10. Báo cáo hoạt động kinh doanh của Bảo Minh Hà Nội năm 2008
MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BH03.docx