Tài liệu Đề tài Tình hình triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam-Thực trạng và giải pháp: Phần mở đầu
Cùng với sự phát triển của kinh tế , khoa học và kỹ thuật thì các nhu cầu của con người được đáp ứng nhiều hơn đầy đủ hơn . cuộc sống của con người do đó cũng tốt hơn . tuy nhiên mặt trái của sự phát triển kinh tế , khoa học kỹ thuật lại làm cho cuộc sống của con người phải đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh đe doạ cuộc sống như ốm đau , bệnh tật , tai nạn ,… Đặc biệt khi kinh tế , khoa học kỹ thuật phát triển nhiều ngành kinh tế ra đời thu hút ngày càng nhiều người tham gia vào lực lượng lao động . Song song với nó vấn đề tai nạn lao động ,bệnh nghề nghiệp ngày một ra tăng . Điều này do nhiều nguyên nhân nhưng tựu lại do vấn đề lao động còn chưa được chú ý nhiều và các chế độ đảm bảo từ phía nhà nước và người sử dụng lao động còn chưa hoạt động một cách có hiệu quả . Nhất là đối với các nước đang phát triển trong đó có việt nam . Mà mục tiêu của chúng ta là tiến lên xã hội chủ nghĩa , một xã hội đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của con người . Để đạt được mục tiêu này chúng ta...
35 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam-Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu
Cùng với sự phát triển của kinh tế , khoa học và kỹ thuật thì các nhu cầu của con người được đáp ứng nhiều hơn đầy đủ hơn . cuộc sống của con người do đó cũng tốt hơn . tuy nhiên mặt trái của sự phát triển kinh tế , khoa học kỹ thuật lại làm cho cuộc sống của con người phải đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh đe doạ cuộc sống như ốm đau , bệnh tật , tai nạn ,… Đặc biệt khi kinh tế , khoa học kỹ thuật phát triển nhiều ngành kinh tế ra đời thu hút ngày càng nhiều người tham gia vào lực lượng lao động . Song song với nó vấn đề tai nạn lao động ,bệnh nghề nghiệp ngày một ra tăng . Điều này do nhiều nguyên nhân nhưng tựu lại do vấn đề lao động còn chưa được chú ý nhiều và các chế độ đảm bảo từ phía nhà nước và người sử dụng lao động còn chưa hoạt động một cách có hiệu quả . Nhất là đối với các nước đang phát triển trong đó có việt nam . Mà mục tiêu của chúng ta là tiến lên xã hội chủ nghĩa , một xã hội đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của con người . Để đạt được mục tiêu này chúng ta phải cân đối giữa phát triển kinh tế với phát triển các vấn đề phúc lợi cho mọi người .Chính vì vậy mà hiện nay khi toàn dân đang tập trung xây dựng kinh tế chúng ta cũng cần quan tâm phát triển và hoàn thiện chế độ đảm bảo xã hội . Trong đó phải kể đến chế độ đối với những người lao động bị tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp . Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Tình hình triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở việt nam-thực trạng và giải pháp ” với hy vọng cung cấp cho các bạn những thông tin về tình hình triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở việt nam cũng như một vài suy nghĩ của tôi nhằm hoàn thiện chế độ này .
Mặc dù đã cố gắng nhiều song đề tài của tôi chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót . Rất mong sự đóng góp ý kiến của các bạn cho để tài của tôi thêm hoàn thiện
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo của cô Nguyễn Ngọc Huyền và các thầy cô giáo bộ môn kinh tế bảo hiểm đã giúp tôi thực hiện đề tài này
I lý luận chung
1- Bảo hiểm xã hội (BHXH) và các chế độ bảo hiểm xã hội
bảo hiểm xã hội , ưu đãi xã hội và cứu trợ xã hội là ba phương pháp cơ bản trong hệ thống các phương pháp bảo đảm xã hội . Trong đó bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn trong việc thực hiện các chính sách đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội
Đối tượng được bảo đảm trong bảo hiểm xã hội rất rộng là người lao động . Mà người lao động lại là đại bộ phận dân cư. Trong khi cứu trợ xã hội , ưu đãi xã hội đối tượng được bảo đảm rất nhỏ bé :cứu trợ xã hội đó là người gặp phải hoàn cảnh khó khăn,còn ưu đãi xã hội là những người có cống hiến đặc biệt cho quê hương đất nước ,xã hội trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc hay xây dựng đất nước
với vai trò to lớn trong chính sách đảm bảo xã hội mà nó được ra đời từ rất lâu . Năm 1883 nước phổ (cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới , đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm xã hội . Ngày 4 tháng 6 năm1952, tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ký công ước Giơnevơ (công ước 102 ) về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động ” đã khẳng định tất yếu các nước phải triển khai bảo hiểm xã hội cho người lao động và gia đình họ . Tại việt nam , sau cách mạng tháng 8 năm 1945 có ban hành sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện bảo hiểm ốm đau , tai nạn lao động và hưu trí . Nhưng do chiến tranh và khả năng kinh tế nên chỉ một bộ phận người lao động được hưởng quyền lợi bảo hiểm . Sau ngày hoà bình lập lại nhà nước ban hành nghị định 128/CP của chính phủ về điều lệ tạm thời các chế độ . từ đó đến nay bảo hiểm xã hội đã dần được hoàn thiện .
Theo các quy định về bảo hiểm xã hội thì bảo hiểm xã hội được hiểu là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động , mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội
Đối tượng bảo hiểm xã hội chính là thu nhập của người lao động . Nó có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của người lao động và gia đình họ nên chính sách đảm bảo được thể hiện khá rõ
Chính sách bảo hiểm xã hội ngoài mục đích phân phối lại thu nhập còn mục đích đảm bảo công bằng cho người lao động . Thu nhập của người lao động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như : ốm đau, bệnh tật ,tai nạn hoặc bị mất việc… Các yếu tố này có thể do bản thân người lao động hoặc sự tác động từ phía người sử dụng lao động .Từ yếu tố này để đảm bảo quyền lợi cho người lao động , bảo hiểm xã hội quy định đối tượng tham gia là :
người sử dụng lao động
người lao động
Mức độ đóng góp của hai đối tượng này tuỳ theo quy định của từng nước mà khác nhau. Riêng với việt nam có quy định :
người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ lương người lao động tham gia bảo hiểm xã hội
người lao động đóng 5% tiền lương
Đầu năm 2003 khi bảo hiểm y tế sát nhập vào bảo hiểm xã hội thì người sử dụng lao động phải đóng 2% quỹ lương trên, còn người lao động đóng 1% tiền lương của họ vào quỹ BHXH
Theo quy định của bảo hiểm thì những người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là khi có rủi ro mất hoặc làm giảm thu nhập trên cơ sở bị suy giảm khả năng lao động và có đóng bảo hiểm xã hội
Theo công ước 102 tháng 6 năm1952 tổ chức lao động quốc tế cho triển khai 9 chế độ bảo hiểm xã hội . Bao gồm:
Chăm sóc y tế
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp tuổi già
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Trợ cấp gia đình
Trợ cấp sinh đẻ
Trợ cấp khi tàn phế
Trợ cấp trợ tuất
9 chế độ này hình thành nên hệ thống bảo hiểm xã hội . Tuy nhiên việc áp dụng những chế độ nào lại tuỳ thuộc vào điều kiện về kinh tế xã hội của từng nước . Hiện nay ở việt nam theo quy định của chính phủ về các chế độ bảo hiểm xã hội thì việt nam tiến hành 6 chế độ . Bao gồm :
Chăm sóc sức khoẻ ( bảo hiểm y tế )
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp hưu trí
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Trợ cấp thai sản
Trợ cấp tuất
Tuy ở việt nam đã triển khai 6 chế độ , mỗi chế độ có nội dung và chính sách khác nhau nhưng hiện nay chúng ta chưa có quỹ riêng cho từng chế độ . Đây chính là một hạn chế . Hơn nữa , với các lao động khác nhau chúng ta vẫn quy định một mức đóng như nhau cho người sử dụng lao động và người lao động ở các ngành nghề . Ngoài ra trong triển khai các chế độ cũng nảy sinh rất nhiều bất cập . Các vấn đề cũng dễ lý giải bởi chúng ta đang trong giai đoạn quá độ nên chủ nghĩa xã hội nên không tránh khỏi .Tuy nhiên đảng , chính phủ cùng cơ quan bảo hiểm xã hội đang cố gắng dần hoàn thiện . Để thấy rõ hơn về tình hình triển khai bảo hiểm xã hội tại việt nam chúng ta sẽ xem xét tình hình triển khai chế độ 5 theo công ước quốc tế tại việt nam.
2-Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
a-Sự cần thiết khách quan triển khai chế độ trợ cấp tai nạn lao động (TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp (BNN) ở việt nam
Trong mọi hoạt động của con người luôn tiềm ẩn các nguy cơ rủi ro đe doạ tới cuộc sống mặc cho chúng ta có cố gắng né tránh nó , nhưng nó vẫn luôn tồn tại . Trong quá trình sản xuất cũng vậy, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp luôn song hành . Mặc dù tới nay con người đã tìm mọi biện pháp cải thiện điều kiện lao động , nhưng chỉ có thể hạn chế được tai nạn lao động , giảm thiểu những hậu quả do tai nạn lao động gây ra chứ không thể ngăn chặn được tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp . Hay nói cách khác , còn hoạt động sản xuất kinh doanh thì còn tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Vì vậy tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được coi là một hiện tượng phổ biến chứ không phải là một hiện tượng cá biệt của một quốc gia nào và do đó ngăn chặn tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có tính toàn cầu. Để bảo vệ người lao động trước các rủi ro trong quá trình làm việc, các quốc gia đều có chính sách và các biện pháp khác nhau, nhiều công ước của tổ chức lao động quốc tế đã quy định các tiêu chuẩn , các biện pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế tình trạng trầm trọng của tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cũng như các biện pháp hỗ trợ giúp đỡ những người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp , trong đó có các trợ cấp bảo hiểm xã hội. Trong công ước 102 của tổ chức lao động quốc tế có quy định mọi nước thành viên chịu hiệu lực của công ước này phải áp dụng ít nhất là 3 trong số 9 nhánh chế độ và 3 trong số đó phải có ít nhất 1 trong các chế độ là :
-Trợ cấp thất nghiệp
-Trợ cấp tuổi già (hưu trí )
-Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
-Trợ cấp tàn tật
-Trợ cấp tuất
Điều này cho thấy tầm quan trọng của chế độ trợ cấp TNLĐ -BNN trong hệ thống các chế độ trợ cấp BHXH của mỗi quốc gia .
Việt nam cũng như nhiều quốc gia khác đang trong giai đoạn phát triển kinh tế và mặc dù các nước đã có cố gắng nhiều trong việc ngăn chặn và hạn chế tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp song nó vẫn cứ sảy ra . Chính vì vậy một chính sách bảo đảm sẽ là hợp lý nhất . Chính sách này nhằm khắc phục và giúp người lao động ổn định cuộc sống sau tai nạn và bệnh nghề nghiệp .
Tại việt nam chế độ tai nạn lao động được đảng và nhà nước ta cho phép thực hiện trong sắc lệnh 29/CL ngày 12/3/1947 nhưng còn nhiều hạn chế . Từ đó đến nay chính phủ cho ban hành rất nhiều các sắc lệnh , nghị định , thông tư đã khắc phục rất nhiều những điểm còn hạn chế trong sắc lệnh 29/CL
b-Khái niệm chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
-Tai nạn lao động và Bệnh nghề nghiệp
*Tai nạn lao động :
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh người lao động phải kề cận với nhiều rủi ro như : bị thương, bị ngã, bỏng, nhiễm độc…những rủi ro này có thể làm cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động , bị tàn phế , có thể bị chết . Đây chính là tai nạn mà người lao động thường hay gặp phải . Những tai nạn này có thể do lỗi của người lao động cũng có thể do lỗi của chủ sử dụng lao động hoặc do không may sảy ra trong quá trình người lao động làm việc .Tuy nhiên , để có được các chính sách đối với người lao động thì mỗi quốc gia lại có cách tiếp cận riêng kể cả khái niệm và nội dung. Tại việt nam, theo các văn bản của chính phủ về chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thì tai nạn lao động được hiểu: là các tai nạn gây tổn thương bất kỳ một bộ phận hay chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong , sảy ra trong quá trình lao động , gắn với việc thực hiện công việc , nhiệm vụ lao động. Trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh vấn để tai nạn lao động thường rất phức tạp vì nó liên quan tới vấn đề bồi thường nên khái niệm này được mở rộng cho những loại tai nạn nào được coi là tai nạn lao động. Những tai nạn được coi là tai nạn lao động bao gồm:
+ Tai nạn sảy ra khi người lao động đang thực hiện công việc do người sử dụng lao động giao cho: tại nơi làm việc thường xuyên, sảy ra trên đường người lao động đi công tác hoặc sảy ra trong thời gian người lao động ở nơi công tác theo yêu cầu của chủ sử dụng lao động (trong thời gian làm việc ,chuẩn bị hoặc thu dọn sau thời gian làm việc)
+ Tai nạn trên đường đi . Đây là tai nạn sảy ra trên đường từ nơi cư trú đến nơi làm việc mà người lao động thường xuyên đi làm về ; tai nạn sảy ra từ nơi làm việc tới nơi người lao động thường ăn cơm theo ca…
+ Tai nạn khi người lao động thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cá nhân theo quy định của pháp luật hoặc theo quy định của doanh nghiệp.
*Bệnh nghề nghiệp :
Theo chế độ này thì bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động tới người lao động .
Trong hoạt động kinh tế có rất nhiều ngành nghề mà người lao động làm việc trong điều kiện có hại tới sức khoẻ như:
Người lao động làm việc trong các ngành nghề : hoá chất , xi măng, luyện kim, khai thác khoáng sản,sản xuất thuốc trừ sâu…thường xuyên phải tiếp với hoá chất độc hại nên rất dễ mắc các bệnh: nhiễm độc chì ,hoá chất …
Người lao động làm việc trong các ngành nghề thường xuyên tiếp xúc với bụi , tiếng ồn..
Tuy nói người lao động làm việc trong môi trường độc hại dễ mắc các bệnh nghề nghiệp ,nhưng để thực hiện được chế độ chính sách thì phải quy định danh mục bệnh nghề nghiệp .Tại việt nam, theo thông tư 08/TT-LB ngày 19/5/1976 của liên bộ y tế –tổng công đoàn và lao động –thương binh và xã hội có 8 loại hình .Qua mấy lần sửa đổi bổ sung tới năm 1997 đưa tổng số danh mục bệnh nghề nghiệp nên 21 bệnh và có thể phân thành 3 nhóm bệnh nghề nghiệp sau:
Bệnh do yếu tố vật lý
Do quang tuyến X và các chất phóng xạ
Điếc nghề nghiệp do tiếng ồn
loét da , rách ngăn mũi
rung chuyển
giảm áp
Bệnh do bụi , do tiếp xúc
Bụi phổi do nhiễm bụi silic
Bụi phổi do nhiễm bụi Amiăng
Bụi phổi bông
Lao
Viêm gan do vi rút
Do leptospira
Viêm phế quản mãn tính
Bệnh do hoá chất
Nhiễm độc chì , các hoá chất chì
Nhiễm độc Benzen và các hoá chất đồng đẳng
Nhiễm độc thuỷ ngân và các hợp chất
Nhiễm độc Mangan và các hợp chất
Bệnh xạm da
Nhiễm độc TNT(trinitrotoluene)
Nhiễm độc Asen và các hợp chất
Nhiễm độc Nicotin
Nhiễm độc hoá chất trừ sâu
Hiện nay danh mục bệnh đang tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện .
Tuy nhiên trong chế độ này lại không quy định rõ điều kiện lao động làm việc nào được coi là độc hại
Tóm lại tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp là hiện tượng luôn gắn với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và mức độ tần suất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện lao động. Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp đối với người lao động . Tại việt nam chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được thực hiện từ 2 hệ thống :
chủ sử dụng lao động
cơ quan BHXH
Việc thực hiện chế độ tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp này phần nào bảo vệ được quyền lợi của người lao động song cũng còn rất nhiều những vấn đề đang trong quá trình hoàn thiện , nhất là trong giai đoạn nền kinh tế nước ta đang có nhiều biến đổi .
-Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp là một chế độ thuộc hệ thống các chế độ của bảo hiểm xã hội . Tuỳ theo điều kiện kinh tế của mỗi nước mà việc thực hiện nó khác nhau . Tại việt nam chế độ tai nạn lao động là một chế độ bắt buộc theo quy định của nhà nước ,được hiểu là một chế độ bảo vệ cho người lao động khi không may gặp phải rủi ro là tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp do chủ sử dụng lao động có trách nhiệm đóng góp . Hiện nay chế độ này được thực hiện từ 2 hệ thống :
*Chủ sử dụng lao động có trách nhiệm đối với người lao động khi không may gặp phải rủi ro trên từ khi người lao động bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp tới khi người lao động được điều trị ổn định.
*Cơ quan BHXH có trách nhiệm đối với người lao động khi người lao động được xác định là có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động tại một mức nào đó .Tuy nhiên nguồn kinh phí chi cho các khoản do cơ quan BHXH chi cũng lấy từ sự đóng góp của người sử dụng lao động
c- Nguyên tắc thiết kế chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động , giúp họ ổn định cuộc sống khi bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đồng thời tạo điều kiện để người lao động nhanh chóng thích nghi với cuộc sống mới và tái hoà nhập với cộng đồng.
Để đạt được mục tiêu đã đề ra khi thiết kế chế độ này phải tuân thủ một số nguyên tắc sau:
- Khi người lao động gặp phải tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thì trách nhiệm chính khắc phục sự cố chủ yếu thuộc về người chủ sử dụng lao động mà không xét nguyên nhân tai nạn là do lỗi của người chủ sử dụng lao động hay của người lao động .
Vì suy cho cùng người lao động không thể tự cố ý gây ra tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho mình và rủi ro này người lao động chỉ gặp phải khi người lao động tiến hành một số công việc cho người sử dụng lao động. Hơn nữa với quy định này thì người sử dụng lao động sẽ có trách nhiệm hơn với vấn đề đảm bảo an toàn lao động cho người lao động.
Nguyên tắc này giúp bảo vệ người lao động và tạo ra mối quan hệ tốt đẹp có trách nhiệm của chủ sử dụng lao động với người lao động.
- Mức trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải căn cứ vào mức độ suy giảm lao động chung hoặc tỷ lệ thương tật . Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp là các rủi ro sảy ra đối với người lao động khi đang làm việc sẽ làm cho người lao động bị suy giảm về sức khoẻ . Do bị suy giảm về sức khoẻ mà người lao động sẽ không còn khả năng lao động như trước được nữa dẫn tới thu nhập của anh ta bị giảm, hơn nữa sau khi tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp anh ta còn gặp phải một số phiền phức phát sinh trong cuộc sống như thường xuyên đau đầu đau lưng khi thay đổi thời tiết , không thể tự đi lại , không nhìn được .. .Các phiền toái phát sinh này phụ thuộc rất nhiều vào mức độ suy giảm khả năng lao động . Do đó với mục tiêu là để ổn định cuộc sống cho người lao động thì phải trợ cấp căn cứ vào mức độ suy giảm sức khoẻ hay tỷ lệ thương tật. Mức độ suy giảm khả năng lao động phải được giám định tại cơ quan y tế có thẩm quyền .
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp từ cơ quan bảo hiểm y tế chỉ bắt đầu khi người lao động đã được điều trị ổn định , để lại di chứng hoặc chết . Còn giai đoạn trước người sử dụng lao động có trách nhiệm các khoản chi phí cấp cứu ,sơ cứu …Nguyên tắc này xuất phát từ :Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp sảy ra trách nhiệm chính khắc phục thuộc về người sử dụng lao động nên người sử dụng lao động có trách nhiệm cho các khoản điều trị để người lao động phục hồi sau tai nạn . Sau khi người lao động đã được điều trị ổn định cơ quan y tế xác định mức độ suy giảm khả năng lao động thì mới phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động khi tham gia vào quá trình lao động được hưởng lương nên mức lương làm căn cứ để tính trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của từng nước mà mức lương nào được tính làm căn cứ . Một số mức lương thường được tính làm căn cứ như:
Lương tối thiểu
Lương bình quân
Lương cao nhất
Lương cuối cùng
Lương thống nhất
- Do xuất phát từ tính bồi hoàn trong bảo hiểm xã hội mà khi người lao động tai nạn lao động bị chết BHXH phải cấp mai táng phí , trợ cấp một lần cho gia đình người lao động , trợ cấp tuất cho thân nhân. Người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm.
- Bảo hiểm xã hội phải có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động nhanh chóng thích nghi với điều kiện sống mới và tái hoà nhập cuộc sống . Đây là nguyên tắc rất quan trọng và không phải nước nào khi triển khai chế độ này đều có thể thực hiện được nó
- Người lao động dù mới tham gia lao động hay đã tham gia lao động một thời gian đều có nguy cơ gặp phải tai nạn lao động , và để đảm bảo công bằng giữa những người tham gia lao động do đó mà chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp không quy định thời gian người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Nguyên tắc này cũng xuất phát từ việc người sử dụng lao động có trách nhiệm chính đối với các tai nạn lao động sảy tới người lao động.
Đây là những nguyên tắc cơ bản để triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp . Tuy nhiên từ nguyên tắc để triển khai ra chế độ lại tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách của từng nước .
d- Nội dung chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở việt nam
Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi không may gặp phải tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp giúp họ ổn định cuộc sống . Xuất phát từ điều này mà bộ lao động-thương binh và xã hội phối hợp với một số bộ ngành có liên quan liên tục ban hành các văn bản , nghị định ,thông tư hướng dẫn thi hành chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nhờ đó mà quyền lợi của người lao động dần được chú ý nhiều hơn.
Hiện nay ở việt nam chế độ TNLĐ-BNN là chế độ bắt buộc trong hệ thống chế độ BHXH.
Sau đây là nội dung cơ bản của chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đang được thực hiện ở việt nam.
- Về đối tượng áp dụng chế độ bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Hiện nay tại việt nam đối tượng áp dụng chế độ này được mở rộng ra nhiều đối tượng hơn so với đối tượng được áp dụng tại nghị định NĐ 06/CP ngày 20/1/1995 của chính phủ.Ngày 28/4/2003 Bộ lao động thương binh và xã hội ban hành thông tư số 10/2003/TT-LĐTBXH hướng dẫn thực hiện nghị định số 110/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002 của chính phủ thì đối tượng áp dụng bao gồm:
Người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trong các doanh nghiệp thành lập , hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước , doanh nghiệp thành lập theo luật doanh nghiệp , doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài , các tổ chức chính trị xã hội ,hộ sản xuất , hợp tác xã, cơ quan sự nghiệp …Kể cả cơ quan ,tổ chức nước ngoài quốc tế tại việt nam trừ trường hợp điều ước quốc tế .
Cán bộ , công chức ,viên chức theo pháp lệnh cán bộ công chức ; Người lao động xã viên hưởng tiền công theo hợp đồng lao động trong các hợp tác xã thành lập , hoạt động theo luật hợp tác xã bao gồm cả người học nghề , tập nghề để làm việc tại doanh nghiệp , cơ quan , tổ chức .
- Về chế độ bồi thường :Theo quy định của bộ luật lao động kể từ ngày 1/1/1995 chế độ bồi thường đối với người lao động khi họ bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp được thực hiện từ 2 hệ thống :
Từ người sử dụng lao động
Từ cơ quan BHXH
*Từ người sử dụng lao động theo quy định của bộ luật lao động và các văn bản dưới luật như:
NĐ 06/CP ngày 20/1/1995
NĐ 12/CP ngày 26/1/1995
NĐ số 110/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002
Điều 107 bộ luật lao động đã sửa đổi bổ sung năm 2002
thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm về các khoản mục sau:
+Chi phí y tế : Tiền khám , chữa trị thương tật từ khi sơ cứu đến khi điều trị ổn đị
+ Trả tiền lương trong suốt thời gian chữa trị thương tật
+Chi giám định mức độ suy giảm khả năng sau khi thương tật đã ổn định
+Chi bồi thường 1 lần cho người lao động
+Có trách nhiệm xắp xếp công việc phù hợp cho người lao động sau khi bị tai nạn kể cả chi phí đào tạo lại nếu chuyển sang ngành khác
Riêng khoản chi bồi thường 1 lần cho người lao động theo nghị định mới nhất NĐ 110/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002 nêu rõ:
Nếu người lao động bị tai nạn lao động ,bệnh nghề nghiệp mà suy giảm khả năng lao động từ 5%-10% được người sử dụng lao động bồi thường ít nhất bằng 1.5 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) không do lỗi của người lao động
Nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 10%-81% thì cứ tăng 1% được cộng thêm 0.4 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) không do lỗi của người lao động
Nếu do lỗi của người lao động thì người sử dụng lao động sẽ trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức bồi thường đã quy định theo các tỷ lệ tương ứng nêu trên
Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương và phụ cấp (nếu có) cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động. Còn nếu do lỗi của người lao động thì người sử dụng lao động cũng phải bồi thường ít nhất bằng 12 tháng tiền lương và phụ cấp (nếu có )
*Từ hệ thống bảo hiểm xã hội có một số quy định sau:
Trách nhiệm của cơ quan BHXH sẽ phát sinh khi người lao động bị tai nạn lao động,bệnh nghề nghiệp đã được điều trị ổn định
Đối tượng được hưởng trợ cấp là những người có tham gia BHXH bị chết hoặc bị suy giảm khả năng lao động do tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có tỷ lệ thương tật từ 5% trở lên
Mức tiền lương tối thiểu được tính làm căn cứ tính trợ cấp cho các đối tượng được hưởng chế độ này
Mức hưởng : Tuỳ theo mức độ suy giảm khả năng lao động và tỷ lệ thương tật để xét mức hưởng và thời gian hưởng là 1 lần hay định kỳ hàng tháng. Các mức được hưởng theo chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có:
Nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 5%-30% được trợ cấp 1 lần có bảng sau:
Mức suy giảm khả năng lao động
Mức trợ cấp 1 lần
5%-10%
4 tháng tiền lương tối thiểu
11%-20%
8 tháng tiền lương tối thiểu
21%-30%
12 tháng tiền lương tối thiểu
Nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên được hưởng trợ cấp hàng tháng kể từ ngày ra viện
Mức suy giảm khả năng lao động
Mức trợ cấp hàng tháng
31%-40%
0.4 tháng tiền lương tối thiểu
41%-50%
0.6 tháng tiền lương tối thiểu
51%-60%
0.8 tháng tiền lương tối thiểu
61%-70%
1 tháng tiền lương tối thiểu
71%-80%
1.2 tháng tiền lương tối thiểu
81%-90%
1.4 tháng tiền lương tối thiểu
từ 91% trở lên
1.6 tháng tiền lương tối thiểu
Ngoài ra người bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn được hưởng một số quyền lợi khác như:
Người hưởng trợ cấp hàng tháng nếu nghỉ việc mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu sẽ được quỹ BHXH đài thọ về bảo hiểm y tế .
Người lao động bị tai nạn lao động tổn thương tới các chức năng hoạt động của chân , tay , tai , mắt , răng , cột sống thì được trang cấp phương tiện trợ giúp cho sinh hoạt phù hợp với các tổn thương chức năng theo niên hạn.
Người bị tai nạn lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống , mù hai mắt , cụt hai chi , tâm thần nặng ngoài trợ cấp hàng tháng còn được phụ cấp phục vụ (chi phí cho người phục vụ) bằng 80% mức tiền lương tối thiểu .
Người hưởng trợ cấp 1 lần hoặc hàng tháng khi vết thương tái phát được cơ quan BHXH giới thiệu đi giám định lại mức độ suy giảm khả năng lao động
Đối với trường hợp bị chết do tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp thì ngoài khoản mai táng phí 8 tháng tiền lương tối thiểu , thân nhân của người chết được hưởng trợ cấp 1 lần bằng 24 tháng tiền lương tối thiểu và trợ cấp cho thân nhân mà khi còn sống họ phải trực tiếp nuôi dướng sẽ được hưởng trợ cấp tiền tuất theo quy định của trợ cấp tuất .
Trong trường hợp người sử dụng lao động chưa đóng BHXH cho người lao động thì phải có trách nhiệm trợ cấp cho người lao động các khoản tương đương do cơ quan BHXH trợ cấp cho người lao động .
II-Thực trạng triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở việt nam
1-Thực trạng về Tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp
-về tai nạn lao động :
Theo thống kê của bộ lao động –thương binh và xã hội , tình hình tai nạn lao động trong những năm gần đây có xu hướng tăng cả về số vụ , số người bị tai nạn ,số người chết . Không chỉ có sự gia tăng mà tai nạn lao động trong những năm qua đã sảy ra ở mọi ngành nghề , mọi loại hình doanh nghiệp , trong tất cả các thành phần kinh tế . Mỗi năm nước ta có hàng ngàn người bị tai nạn lao động và hàng trăm người chết . Và các con số tăng lên liên tục qua các năm. Có thể nói xu hướng tăng nhanh nhất là từ năm 1995 tới nay.
Từ năm 1995 cho tới nay tai nạn lao động luôn gia tăng qua các năm. Từ 1995 đến năm 2000 số vụ tai nạn lao động sảy ra trong quá trình lao động sản xuất dao động từ 2500 đến 3000 vụ lớn nhỏ . Nhưng mới chỉ có 3 năm từ 2000 tới 2002 số vụ tai nạn lao động đã dao động trong khoảng lớn từ 3405 vụ năm 2000 tới 4298 vụ trong năm 2002. Đây thực sự là những con số đáng báo động .
Để thấy rõ hơn tình hình tai nạn lao động tại việt nam những năm gần đây ta xem bảng số liệu sau:
Tình hình tai nạn lao động giai đoạn 1995-1999
năm
số vụ TNLĐ
số người bị TNLĐ
Tổng số (vụ)
(vụ)
Sốvụ chết người
(vụ)
Tổng số
(Người )
Số người chết
(Người )
1995
2127
230
2195
264
1996
1853
249
1927
285
1997
1996
347
2166
429
1998
2945
315
3142
365
1999
2609
337
2806
401
(Nguồn : Số liệu thống kê về tai nạn lao động .MOLISA)
Tuy nhiên của bộ lao động –thương binh và xã hội có một chút sự sai khác về tình hình tai nạn lao động so với số liệu trên như : năm 1998 số vụ tai nạn là 2727, số vụ gây chết người là 312. năm 1999 số vụ gây chết người là 335, số người chết là 399.
Theo bộ lao động thương binh và xã hội tình hình tai nạn lao động từ năm 2000-2002 được thể hiện qua bảng sau:
năm
Số vụ tai nạn
Số vụ chết người
Số người bị TN
Số người chết
(vụ)
(vụ)
(Người )
(Người )
2000
3405
368
3530
403
2001
3601
362
3748
395
2002
4298
449
4521
514
Rõ ràng với các số liệu này chúng ta thấy rất rõ số vụ tai nạn lao động tăng liên tục qua các năm nhất là trong năm 2002 số vụ tai nạn lao động đã tăng lên con số cao 4298 ,trong khi năm 2001 số vụ tai nạn là 3601. Như vậy , năm 2002 đã tăng 19.36% số vụ tai nạn lao động so với năm 2001 và với số tuyệt đối khá lớn là 697 vụ.
Còn về số người chết nhìn chung tăng qua các năm riêng tới năm 2001 số người chết là 395 giảm 8 người so với năm 2000. Nhưng tới năm 2002 con số người chết lại tăng đột biến 514 người .
Tuy nhiên đây mới chỉ là con số thống kê được , con số thực tế có thể còn lớn hơn và còn chưa tính tới số người lao động bị tai nạn giao thông trong thời gian đi và về từ nơi làm việc về nhà . Chỉ tính riêng trong tổng số người tham gia BHXH số người bị tai nạn trên đường năm 2000 là 466 người có 98 người chết , 190 người bị thương nặng ,tàn phế suốt đời.
Một nét nổi lên đó là tai nạn lao động mặc dù sảy ra ở hầu hết các ngành nghề song mật độ sảy ra là khác nhau . Điều này có thể lý giải bởi điều kiện làm việc ở các ngành nghề là khác nhau . Một số ngành có số vụ tai nạn lao động , số người chết do tai nạn lao động lớn hơn so với các ngành khác như: ngành xây dựng , ngành điện , khai thác khoáng sản , lĩnh vực có các thiết bị yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động …Sau đây là bảng thống kê về tình hình tai nạn lao động sảy ra ở một số ngành sảy ra nhiều tai nạn:
ngành
tiêu thức
xây dựng
Điện
khoáng sản
T/B an toàn
2001
2002
2001
2002
2001
2002
2001
2002
số vụ tai nạn
208
222
95
135
166
105
80
61
số người chết
51
69
60
75
36
48
33
24
sốngười th/nặng
128
128
19
25
43
55
11
22
Để thấy rõ hơn mức độ sảy ra tai nạn lao động ở các ngành nghề này ta phân tích số liệu trên theo một số tiêu thức như : tỷ lệ số vụ tai nạn lao động , số người chết của các ngành trên so với cả nước qua hai năm:
2001 2002
Tỷ lệ về số vụ tai nạn lao động : 15.24% 12.17%
Tỷ lệ về số người chết : 45.57% 42.02%
Tỷ lệ người bị thương nặng : 17.3% 19.07%
Với bốn ngành nhưng số người chết từ các ngành này về tai nạn lao động đã chiếm một nửa trong tổng số người chết vì tai nạn lao động . Các nguyên nhân thì có nhiều song có thể nói các ngành này người lao động thường xuyên tiếp xúc với các mối nguy hiểm như: ngã ,điện giật , sập hầm…Điều này chứng tỏ mức độ đặc biệt nguy hiểm của các ngành này . Hơn nữa số vụ tai nạn lao động , số người bị thương nặng cũng chiếm tỷ lệ đáng kể . Do đó với các ngành này cần phải đặc biệt chú ý an toàn lao động cho người lao động.
Tai nạn lao động cũng không sảy ra đồng đều giữa các khu vực trong phạm vi cả nước . Do các nhà máy ,xí nghiệp , tổ sản xuất …thường tập chung tại các thành phố lớn . Theo số liệu điều tra của bộ lao động thương bình và xã hội thì tai nạn nước ta tập chung chủ yêú tại 6 tỉnh thành phố lớn như: Hà nội , Hải phòng ,Quảng ninh,thành phố HCM, Đồng nai , thái nguyên. Với số liệu điều tra thì năm 2000 số người tai nạn lao động tại các khu vực này chiếm 65.6% trong tổng số người lao động bị tai nạn lao động trong cả nước .Số vụ tai nạn gây chết người chiếm 34%, số người chết chiếm 36.5% so với cả nước .Sang năm 2001 số liệu thống kê 6 tỉnh thành phố có nhiều tai nạn là: thành phố HCM; Hà nội ; Quảng ninh; Bà rịa –vũng tàu ; khánh hoà ; đồng nai . Có số liệu thống kê như sau:
tiêu thức
thành phố
Số vụ tai nạn lao động
(vụ)
Số người chết
(Người )
Thành phố HCM
601
30
Hà nội
364
36
Quảng ning
296
25
Bà rịa-vũng tàu
60
10
khánh hoà
108
15
Đồng nai
676
8
tổng
2105
124
6 tỉnh thành phố trên có tổng số vụ tai nạn lao động là 2105 vụ chiếm 58.46% so với cả nước .
Tóm lại mấy năm gần đây tình hình tai nạn lao động đang có xu hướng gia tăng ,sảy ra mọi lĩnh vực mọi khu vực song chủ yếu tập chung tại các khu công nghiệp , các thành phố lớn và diễn ra ở một số ngành yêu cầu đòi hỏi kỹ thuật. Tình hình trên cũng một phần do trong giai đoạn gần đây nhiều ngành nghề kinh tế đã ra đời thu hút ngày càng nhiều người vào hoạt động sản xuất mà phần lớn lại là lao động chưa được đào tạo sâu về kỹ thuật và an toàn lao động .
Do tình hình tai nạn lao động tăng liên tục qua các năm mà số tiền chi trả cho chế độ tai nạn lao động cũng gia tăng qua các năm . Sau đây là thống kê không đầy đủ của vụ BHXH về tình hình chi bồi thường được thực hiện từ cơ quan BHXH Q4 từ năm 1995-1999
năm
Số người hưởng (người )
Số tiền trợ cấp (triệu đồng)
Tổng số
t/c hàng tháng
t/c 1 lần
Tổng số
t/c hàng tháng
t/c 1 lần
Q4-1995
5767
4670
1097
2209
1567
1996
11642
8330
3312
13021
9257
1997
13915
9870
4045
17706
14486
1998
16385
10469
5916
20914
16949
1999
18326
12228
6098
23219
18817
Theo thống kê của bộ lao động thương binh và xã hội thì từ năm 2000-2002 các chi phí thiệt hại do tai nạn lao động là:
năm
tiêu thức
2000
2001
2002
thiệt hại
16 tỷ đồng
42296 ngày công
12 tỷ đồng
87139 ngày công
17.8 tỷ đồng
196504ngày công
Có thể nói đây mới chỉ là những số liệu thống kê không đầy đủ song có thể dễ nhận thấy thiệt hại to lớn do tai nạn lao động cho xã hội và cho ngành BHXH nói riêng
Bệnh nghề nghiệp
Theo số liệu thống kê của vụ y tế dự phòng bộ y tế thì hàng năm số người đi khám bệnh để phát hiện bệnh nghề nghiệp nước ta có khoảng 20000 người chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ 1.2% tổng số lao động trong các doanh nghiệp . Đây là con số quá ít , do đó có thể có người mắc bệnh nghề nghiệp mà chưa đi khám. Còn trong tổng số người đi khám thì số người phát hiện bệnh nghề nghiệp khoảng 14%.
Theo số liệu cộng tích luỹ ở việt nam tới thời điểm 12/2002 có 17416 trường hợp được giám định bệnh nghề nghiệp. Theo tổng kết công tác y tế trong năm 2002 tình hình bệnh nghề nghiệp tiếp tục có xu hướng gia tăng.
Trong tổng số 21bệnh nghề nghiệp thì ở việt nam các bệnh được phát hiện nhiều nhất là : Bệnh bụi phổi ,tính tới thời điểm 12/2002 số trường hợp bị mắc bệnh bụi phổi silic là 14075 trường hợp chiếm 80.8%. Sau bệnh bụi phổi là bệnh về da , nhiễm độc chì , bệnh điếc .
Riêng đối với bệnh bụi phổi silic ở việt nam chiếm tỷ lệ lớn . Tỷ lệ trung bình trong công nhân tiếp xúc với bụi silic trong giai đoạn 1999-2002 là 9.16%. Trong đó một số ngành có tỷ lệ mắc bệnh cao như: ngành đúc và cơ khí luyện kim có tỷ lệ từ 13-22%; công nhân khai thác và chế biến thancó tỷ lệ mắc là 9.5-13.4%; công nhân sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến có tỷ lệ mắclà 6.5%.
Như vậy bệnh nghề nghiệp –bụi phổi silic đang là vấn đề bức xúc và đáng báo động hiện nay ở việt nam.
Cũng theo số liệu của vụ y tế dự phòng bộ y tế thì số người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp tập trung chủ yếu trong các ngành công nghiệp chiếm 60%số người mắc bệnh trong cả nước với các bệnh buị phổi ,sạm da, nhiễm độc chì, bệnh rung nghề nghiệp. Sau ngành công nghiệp là ngành đường sắt chiếm tỷ lệ 12% số người mắc bệnh nghề nghiệp.
Tuy nhiên do công tác thống kê còn hạn chế ,hơn nữa do sợ mất việc làm hoặc bị chuyển việc làm có thu nhập thấp nên người lao động ngại đi khám để phát hiện bệnh nghề nghiệp. Còn chủ sử dụng lao động do nhiệm vụ và vấn đề tài chính nên chưa tổ chức thường xuyên việc khám bệnh theo quy định để phát hiện bệnh nghề nghiệp.
Hiện nay bệnh nghề nghiệp đang có xu hướng gia tăng so với những năm trước . Theo số liệu thống kê được thì chỉ tính riêng trong năm 2002 quỹ BHXH đã chi trả trên 4500 trường hợp hưởng trợ cấp hàng tháng và một lần về TNLĐ-BNN với tổng số tiền trên 5 tỷ 500 triệu trong đó chỉ riêng cho BNN gần 1tỷ 400 triệu đồng . Và riêng trong quỹ 1 năm 2003, BHXH việt nam đã giải quyết cho 75 người được hưởng trợ cấp hàng tháng với tổng số tiền trên 7 triệu đồng và 100 người hưởng trợ cấp một lần với tổng số tiền gần 180 triệu đồng do bị mắc bệnh nghề nghiệp đã góp phần chăm lo đời sống cho người lao động .
Điều kiện lao động
Điều kiện lao động trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay nhìn chung chưa tốt. Với điều kiện lao động như hiện nay đang làm cho Tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp có xu hướng gia tăng.
Theo số liệu điều tra của viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội, trong năm 1999 có tới 30% số doanh nghiệp có tình trạng nhà xưởng không phù hợp với công nghệ sản xuất . Người lao động phải làm việc trong điều kiện nhà xưởng tạm bợ.
Tình trạng lao động thủ công trong các doanh nghiệp còn phổ biến , tỷ lệ người lao động phải làm việc với các công cụ thủ công chiếm 49.78% tổng số lao động,chỉ có 45.7% làm việc với công cụ cơ khí và nửa cơ khí ,chỉ có 4.5% làm việc với thiết bị tự động hoá . Ngành có lao động thủ công cao nhất là trồng trọt , chăn nuôi(94.57%) và hầu hết các nhóm ngành , các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều có tỷ lệ lao động thủ công nhiều hơn so với các doanh nghiệp quốc doanh.
Tình trạng nguyên ,nhiên,vật liệu:
Theo số liệu điều tra của vụ y tế dự phòng-bộ y tế thì số người lao động phải tiếp xúc với nguyên,vật liệu không đảm bảo an toàn vệ sinh lao động chiếm tới 32.3% tổng số lao động trong các doanh nghiệp sản xuất .Đây là nguyên nhân phát sinh ra bụi , chứa hoá chất độc,chứa vi sinh vật gây hại, dễ gây chấn thương do va đập,dễ gây cháy nổ, dễ gây bỏng…
Môi trường làm việc là nơi mà con người trực tiếp làm việc.Các yếu tố về môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình Tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp gồm: Hơi khí độc, bụi ,tiếng ồn, độ rung và phóng xạ, điện từ trường, nhiệt độ , ánh sáng …
Qua khảo sát 642 nghề thì có tới 35% có nồng độ hơi khí độc tại nơi làm việc vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép từ 1 đến hàng trăm lần, có gần 39% số nghề có hàm lượng bụi đo được vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến trên 50 lần, 284 trong tổng số đó có mức độ tiếng ồn tại nơi làm việc vượt tiêu chuẩn cho phép…
Công tác an toàn lao động:
Theo kết quả điều tra của bộ lao động thương binh và xã hội trên 625 doanh nghiệp quốc doanh, 986 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 120 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì có tới 53.29% số doanh nghiệp làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 29.25% số lao động làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh khi làm việc không có đầy đủ các phương tiện bảo hộ cá nhân. Hàng năm chỉ có 50% các doanh nghiệp trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước được tổ chức học về luật và 80% doanh nghiệp có huấn luyện về kỹ thuật an toàn và nội quy an toàn lao động. ở khu vực doanh nghiệp nhà nước việc huấn luyện kỹ thuật an toàn và nội quy an toàn hiện nay đã trở thành nề nếp ,ngoài ra còn tập trung tuyên truyền bằng nhiều hình thức . Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay công tác này còn nhiều hạn chế với lý do chủ yếu là tài chính .
Công tác thanh tra, kiểm tra an toàn , vệ sinh lao động hiện nay giao cho ngành lao động –thương binh và xã hội thực hiện và có sự phối hợp của một số ngành chức năng khác .Trong những năm qua ngành lao động –thương binh và xã hội đã thường xuyên tổ chức kiểm tra các đơn vị doanh nghiệp nhất là với các doanh nghiệp có khả năng sảy ra tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp cao và đã phát hiện kịp thời nhiều đơn vị , cá nhân người lao động chưa chấp hành nghiêm công tác an toàn vệ sinh lao động ,yêu cầu thực hiện đúng quy định ngừng hoạt động với các máy móc ,thiết bị không đảm bảo … Tuy nhiên,việc thanh tra ,kiểm tra chưa được tiến hành kịp thời ,đầy đủ trong diện rộng do số lượng cán bộ làm công tác này chưa đáp ứng với khối lượng công việc nên còn nhiều vụ tai nạn lao động lớn làm chết và bị thương nhiều người ,tổn thất tài sản lớn ,làm ngừng chệ sản xuất .
2-Thực trạng về chế độ chính sách tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp và việc thực hiện chế độ này
Chế độ chính sách tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp đã được nước ta thực hiện từ lâu , ngay từ ngày đầu dành lại được độc lập đảng và nhà nước ta đã cho tiến hành . Chế độ này trong giai đoạn phát triển kinh tế đã thể hiện rõ vai trò to lớn trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững : Đi đôi giữa phát triển kinh tế với đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội . Hơn nữa, đây cũng là một trong số chính sách xã hội đảm bảo quyền lợi cho các thành viên của đảng và nhà nước ta mà chỉ có thực hiện tốt chính sách này thì mới có thể đảm bảo cho nước ta đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa . Chính vì vậy mà đảng mà nhà nước ta có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan cùng xây dựng và hoàn thiện chính sách này . Có rất nhiều văn bản và nghị định được đưa ra nhằm mở rộng không chỉ đối tượng áp dụng ,phạm vi áp dụng , mức trợ cấp , điều kiện hưởng trợ cấp và các quyền lợi khác cho người lao động chẳng may gặp phải tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp mà các văn bản này còn sửa đổi bổ sung một số hạn chế ở các văn bản nghị định trước . Cho tới nay chính sách đối với chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn đang trong quá trình sửa đổi và hoàn thiện nhất là trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều biến đổi này . Sau đây là một số điểm chính trong chế độ chính sách tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp:
-Đối tượng áp dụng :
Đối tượng áp dụng chế độ trợ cấp này đã được quy định trong nghị định NĐ12/CP ngày 26/1/1995 của chính phủ .Nghị định này đối tượng áp dụng còn nhiều hạn chế . Nhưng đến nghị định 110/2002 của chính phủ ngày 27/12/2002 thì đối tượng áp dụng đã được mở rộng ra nhiều .Trong nghị định 110 đã được giới thiệu từ trên , đối tượng đã mở rộng ra bao gồm cả những người : là cán bộ công chức ,viên chức làm việc theo chế độ hợp đồng trong pháp lệnh cán bộ công chức ,người lao động xã viên làm việc và hưởng lương theo hợp đồng lao động và các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật hợp tác xã; Người học nghề ,tập nghề để làm việc tại doanh nghiệp ,cơ quan ,tổ chức áp dụng với doanh nghiệp có thuê từ 1 lao động trở lên trong khi năm 1995 đòi hỏi có thuê từ 10 lao động trở lên. Cùng với nghị định 110 thì có thông tư số 10/2003 của bộ lao động thương binh và xã hội có hướng dẫn cụ thể việc thi hành nghị định 110 . Do đó đối tượng áp dụng đã được áp dụng mở rộng và cụ thể hơn rất nhiều . Theo đó nhiều lao động sẽ được hưởng sự bảo đảm từ chế độ này , sẽ tạo sự công bằng cho các lao động hơn. Tuy đã có quy định rất cụ thể về các đối tượng áp dụng song rất nhiều người lao động mặc dù nằm trong các đối tượng trên nhưng vẫn không được hưởng quyền lợi này .Thực trạng này do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu vẫn là do trách nhiệm của người chủ sử dụng lao động : Không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động , hoặc không ký các hợp đồng lao động với người lao động để tránh phải nộp BHXH cho họ . Mà thực tế hiện nay các ngành người chủ sử dụng lao động thường không thu xếp hợp đồng với người lao động lại rơi vào những ngành có tỷ lệ tai nạn lao động cao như xây dựng ,giao thông ,điện … Nguyên nhân của tình trạng này một mặt do vấn đề tài chính của doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh , nhưng mặt khác cũng phải kể tới đó là họ chưa có ý thức cao đối với vấn đề an toàn cho người lao động .Vì vậy việc mở rộng đối tượng áp dụng vẫn chỉ là những quy định còn việc thực hiện nó còn phụ thuộc nhiều vào pháp luật và ý thức của mọi người .
-Chế độ chính sách tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp
chính sách tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp theo quy định của nước ta được thực hiện từ hai hệ thống là người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Xuất phát từ nguyên tắc khi người lao động bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp thì trách nhiệm chính khắc phục sự cố thuộc về chủ sử dụng lao động ,chúng ta quy định chủ sử dụng lao động có trách nhiệm với người lao động từ khi bị tai nạn lao động tới khi người lao động được điều trị ổn định , còn BHXH chỉ can thiệt sau khi người lao động được điều trị ổn định và có tỷ lệ suy giảm sức khoẻ hay tỷ lệ thương tật từ 5% trở lên.
do đó trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay bên cạnh ưu điểm của nó là
+Buộc người sử dụng lao động có trách nhiệm đối với vấn đề an toàn lao động
+ Đảm bảo công bằng cho các đơn vị áp dụng an toàn lao động
thì chính sách này lại không đạt hiệu quả tối ưu cho người lao động và cho xã hội . với chính sách này người lao động khi gặp phải tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp để được giải quyết hưởng trợ cấp trải qua nhiều giai đoạn rất phiền phức về thủ tục , trình tự xét duyệt .Thậm chí việc triển khai từ hai hệ thống này cũng dẫn tới việc không rõ ràng từ hai phía trong việc giúp người lao động tái hoà nhập cuộc sống và thích nghi với cuộc sống mới .
-Mức trợ cấp từ cơ quan BHXH:
Đối với chế độ tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp tuỳ theo tỷ lệ thương tật mà xác định loại trợ cấp và tương ứng với mỗi loại sẽ có những mức trợ cấp tương ứng .Với tỷ lệ thương tật là từ 5%-30% thì trợ cấp 1 lần từ 4 đến 12 tháng lương tối thiểu. Tỷ lệ thương tật trên 30% thì được hưởng trợ cấp định kỳ hàng tháng từ 0.4 đến 1.6 tháng tiền lương tối thiểu .Với việc quy định mức trợ cấp như vậy đã đảm bảo nguyên tắc trợ cấp dựa vào tỷ lệ thương tật ,nhưng vẫn tồn tại một số điểm sau:
Mức trợ cấp còn rất thấp :
tiền lương làm cơ sở tính là tiền lương tối thiểu đang ở mức thấp 290000 đồng
hệ số trên tiền lương còn thấp
Mức trợ cấp trên khoảng tỷ lệ thương tật còn chưa đảm bảo công bằng . Ví dụ những người có tỷ lệ thương tật là 31% thì cũng được hưởng mức trợ cấp định kỳ 0.4 tháng tiền lương tối thiểu như những người có tỷ lệ thương tật là 40%.
Điều kiện hưởng :
Trong chế độ tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp có quy định rất rõ
Đối với tai nạn lao động thì người lao động gặp phải tai nạn thuộc các trường hợp tai nạn lao động như trong quy định mới được coi là tai nạn lao động . Tuy nhiên có một số điểm chưa rõ như các tai nạn sảy ra trên đường từ nơi làm việc về nhà còn chưa cụ thể . Chính điều này mà có nhiều người đã lạm dụng và truộc lợi gây ra sự mất công bằng .
Hơn nữa , để được hưởng trợ cấp BHXH tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp thì người lao động phải có giấy giám định y khoa về tỷ lệ thương tật hay mức độ suy giảm khả năng lao động . Thực chất điều này hết sức quan trọng mà nước nào cũng phải tiến hành . Giấy giám định này được bộ y tế có thẩm quyền xác nhận về mức độ suy giảm khả năng sức khoẻ . Nếu công việc này được làm tốt sẽ đảm bảo sự công bằng cho người lao động . Nhưng hiện nay có hiện tượng đó là có sự gian nạn trong xác định tỷ lệ thương tật : có sự móc nối giữa cơ quan thẩm định và một số ít người lao động bị tai nạn lao động. Nó làm mất công bằng .
Quỹ BHXH chi trả cho chế độ tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp :
Hiện nay ở nước ta thực hiện BHXH chung cho các chế độ , tức là đồng loạt tất cả người sử dụng lao động và người lao động đều đóng tỷ lệ là 17% quỹ lương người sử dụng đóng và 6% tiền lương người lao động đóng . Quỹ này dùng để chi cho tất cả các chế độ của BHXH và do một cơ quan quản lý . Mặc dù triển khai điều này thì bộ máy quản lý BHXH được giảm nhẹ song tính hiệu quả của nó không cao . Hơn nữa trong hệ thống BHXH việt nam thuộc các chế độ ngắn hạn với mức đóng góp chung là như nhau với tất cả các loại doanh nghiệp , không khuyến khích các doanh nghiệp cải thiện điều kiện lao động , thực hiện các quy định về bảo hộ và an toàn lao động .
Cơ chế bồi thường từ người sử dụng lao động :
Người lao động gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận được tiền bồi thường từ người sử dụng lao động . Trong khi người lao động cần có tiền ngay để khắc phục sự cố tai nạn lao động thì gặp phải vấn đề phiền phức về thủ tục để được nhận tiền bồi thường do đòi hỏi có biên bản điều tra về TNLĐ, trong khi đó để có được biên bản phải mất đến 10 ngày thậm chí có những vụ nghiêm trọng phải kéo dài tới 5-6 tháng . Đấy là vấn đề về thủ tục còn nếu doanh nghiệp đang trong giai đoạn khó khăn về tài chính thì cơ chế này tỏ ra không hiệu quả .
Quy trình thủ tục hồ sơ và quy trình giải quyết chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN:
Để có được khoản trợ cấp từ cơ quan BHXH đối với trường hợp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì đòi hỏi người lao động phải có thủ tục bắt buộc như
Biên bản điều tra về tai nạn lao động
Biên bản giám định về tỷ lệ thương tật
Xác nhận của người sử dụng lao động về môi trường lao động độc hại
Đây là các giấy tờ cơ bản , ngoài ra còn một số giấy tờ khác . Các giấy tờ này theo thông tư số 10/2003/TT-BLĐTBXH thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm lập hồ sơ đối với trường hợp người lao động gặp phải tai nạn lao động , bị bệnh nghề nghiệp . Đây là nguyên tắc bắt buộc phải có mới có cơ sở để bồi thường trợ cấp . So với thông tư số 19/TT-BLĐTBXH ngày 2/8/1997 không có gì khác , mà còn quy định rõ hơn , cụ thể hơn và yêu cầu người sử dụng lao động phải ra quyết định bồi thường trợ cấp trong khoảng thời gian là 5 ngày kể từ ngày có biên bản giám định của hội động giám định y khoa hoặc của cơ quan pháp y .Tiền trợ cấp phải thanh toán 1 lần cho người lao động bị tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày ra quyết định của người sử dụng lao động .
Với những quy định cụ thể này quyền lợi của người lao động khi bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp được đảm bảo hơn rất nhiều so với các quy định trước .
III-Các giải pháp và kiến nghị
Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ , chính sách BHXH TNLĐ-BNN
Với thực trạng triển khai chế độ BHXH TNLĐ-BNN như hiện nay ở việt nam còn rất nhiều vấn đề còn đang trong giai đoạn tranh cãi . Song với phạm vi nghiêm cứu của đề tài này tôi xin đề nghị một vài giải pháp cho các vấn đề sau:
*Về quản lý thực hiện chế độ BHXH TNLĐ-BNN :
Hiện nay , việc giải quyết các chế độ cho người lao động bị TNLĐ-BNN có tham gia BHXH được thực hiện theo 2 bước cơ bản sau:
+Đơn vị lao động có trách nhiệm chi trả các khoản chi phí y tế khi sơ cứu , cấp cứu đến khi điều trị ổn định thương tật , chi giám định khả năng lao động , trả tiền lương theo thời gian điều trị và các quy định khác theo quy định tại điều 107 của bộ luật lao động .
+Khi người lao động đã được điều trị ổn định tỷ lệ thương tật , cơ quan BHXH có trách nhiệm giải quyết các chế độ BHXH theo quy định của nhà nước .
Quy định này có ưu điểm là gắn trách nhiệm của chủ sử dụng lao động với người lao động , nhưng ảnh hưởng tới hoạt động của đơn vị sử dụng lao động . Do vậy nên hình thành 2 phương án thực hiện như sau:
Phương án 1: Thành lập quỹ đền bù TNLĐ-BNN của ngành hay địa phương để chi trả các khoản chi phí ban đầu khi người lao động bị TNLĐ-BNN . Sau đó cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định .
Phương án 2: Hình thành quỹ đền bù TNLĐ-BNN tập trung do bảo hiểm xã hội việt nam quản lý và thực hiện chi trả tất cả các khoản chi phí cần thiết khi người lao động bị TNLĐ-BNN
Như vậy việc thực hiện quản lý và thực hiện chế độ chính sách BHXH TNLĐ-BNN cần được tập trung thống nhất về một mối là hệ thống BHXH việt nam . Hệ thống bảo hiểm xã hội việt nam sẽ thực hiện các khoản chi sau:
-Chi trả các khoản về y tế trong thời gian sơ cứu , cấp cứu và điều trị ;
-Chi lương trong thời gian nghỉ việc để chữa trị bệnh , vết thương;
-Chi lệ phí cho giám định khả năng lao động theo quy định của hội đồng giám định y khoa.
-Chi trợ cấp một lần , hàng tháng ,tử tuất và trang cấp dụng cụ sinh hoạt để phục hồi chức năng;
Riêng vấn đề chi phí đào tạo lại ,đầu tư cải thiện phòng ngừa TNLĐ-BNN thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm thực hiện .
Nếu chế độ tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp được thực hiện thống nhất theo phương án trên thì quyền lợi của người lao động được đảm bảo hơn, các giấy tờ thủ tục sẽ giảm, việc chi trả sẽ nhanh gọn hơn, đặc biệt đơn vị sử dụng lao động sẽ ít chịu ảnh hưởng do tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên thực hiện vấn đề này là hết sức khó khăn nhất là trong giai đoạn nền kinh tế nước ta hiện nay, chủ sử dụng lao động có thể lơ là đối với vấn đề an toàn lao động cho người lao động hoặc trốn đóng bảo hiểm xã hội . Do vậy , các vấn đề cần thực hiện khi triển khai phương án này : Hệ thống luật pháp phải được xây dựng hoàn chỉnh có chế tài đủ mạnh , Bộ phận thanh tra kiểm tra về an toàn lao động phải hoạt động một cách có hiệu quả và thường xuyên.
*chế tài thực hiện :
theo quy định hiện nay thì vấn đề chế tài xử phạt về trách nhiệm hành chính đối với các trường hợp vi phạm trong việc thực hiện BHXH chưa đầy đủ , chưa cụ thể và mức quá thấp ,chưa đủ ràng buộc về trách nhiệm vật chất dẫn tới người chủ sử dụng lao động chưa nghiêm chỉnh chấp hành . Để thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ TNLĐ-BNN nói riêng, cần phải có chế tài quy định cụ thể , thích hợp về mức phạt hành chính , trách nhiệm hành chính , mức phạt này đủ có tác dụng răn đe , phòng ngừa đối với hành vi trốn tránh tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động ,chầy ỳ nộp bảo hiểm xã hội , thiếu trung thực trong quá trình lập hồ sơ giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động và người lao động.
*Kết cấu chế độ :
TNLĐ và BNN tuy có những điểm giống nhau nhưng là 2 chế độ có nội dung cơ bản khác nhau, phạm vi và điều kiện cũng như tính chất đều không giống nhau , nhưng hiện nay 2 chế độ này vẫn được thiết kế chung trong cùng một chế độ bảo hiểm xã hội cả về điều kiện hưởng , thời điểm được hưởng . Do đó có nhiều vấn đề chưa được công bằng trong đãi ngộ nhất là về mức hưởng chế độ trợ cấp 1 lần , hàng tháng cho người lao động bị BNN. Sở dĩ điều này do bệnh nghề nghiệp có thời gian nhiễm bệnh dài , sau khi điều trị ổn định bệnh ngày càng có xu hướng nặng dần lên, tuổi đời bình quân mắc bệnh nghề nghiệp cao hơn, tuổi thọ bình quân thấp hơn, thời gian hưởng trợ cấp ngắn hơn. Xuất phát từ điều này đề tài kiến nghị nên:
Tách chế độ TNLĐ-BNN thành 2 nhánh chế độ riêng .Nếu vẫn để chung thì cần phải có quy định riêng về điều kiện hưởng , mức hưởng , thời điểm được hưởng trong đó người bị mắc bệnh nghề nghiệp phải được xây dựng cao hơn so với người bị TNLĐ.
Riêng đối với người bị mắc BNN có mức suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mới được hưởng trợ cấp người phục vụ . Theo tôi mức này là quá cao vì trên thực tế hiện nay không có ai được hưởng quyền lợi này .Nên chăng giảm mức này xuống thấp hơn có như vậy mới đảm bảo công bằng.
*Đối tượng tham gia :
Đối tượng tham gia đã được mở rộng theo nghị định12/CP. Tuy nhiên , những đối tượng làm các công việc thủ công, bán thủ công phần lớn chưa được tham gia bảo hiểm xã hội, đề tài kiến nghị nên sớm bổ sung đối tượng để các đối tượng nêu trên có điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội và trong tương lai tất cả những người làm công ăn lương đều tham gia bảo hiểm xã hội và hưởng chế độ TNLĐ-BNN.
Ngoài ra, còn có rất nhiều chủ sử dụng lao động không ký hợp động lao động với người lao động (chủ yếu là những ngành có thời gian lao động thường không ổn định , sảy ra tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh) theo tôi nhà nước ta nên sớm có một bộ phận quản lý người lao động : tức là người lao động muốn làm việc phải đăng ký với bộ phận này và người sử dụng lao động muốn thuê lao động cũng phải từ bộ phận này .Đặc biệt điều này rất có ý nghĩa không chỉ đối với chế độ này mà trong thời gian tới chúng ta triển khai bảo hiểm thất nghiệp không thể không tổ chức bộ phận quản lý người lao động .
*Điều kiện hưởng trợ cấp TNLĐ-BNN:
Theo quy định hiện hành thì người bị TNLĐ-BNN có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 5% sẽ được hưởng trợ cấp từ chế độ này. Tuy nhiên trong chế độ này chưa quy định rõ những trường hợp nào không được coi là TNLĐ. Điều này gây khó khăn trong vấn đề giải quyết chế độ TNLĐ. Để khắc phục những tồn tại này ,cần phải có quy định cụ thể và chặt chẽ hơn về hoàn cảnh sảy ra TNLĐ và điều kiện hưởng chế độ này.
Do trong quá trình thực hiện chế độ này có rất nhiều tai nạn sảy ra trên đường đi làm mặc dù không thuộc là tai nạn lao động nhưng vẫn được coi là tai nạn lao động . Vì vậy để đảm bảo quyền lợi cho mọi người thì nên bỏ quy định khi bị tai nạn lao động trên đường đi và về từ nơi ở tới nơi làm việc được xác định là tai nạn lao động ,vì vấn đề này chưa được xác định rõ ràng hơn nữa chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay không còn giới hạn trong cán bộ , công chức , viên chức nhà nước mà đã được mở rộng đến người lao động làm việc có tham gia bảo hiểm xã hội ở các thành phần kinh tế , đồng thời loại bỏ kẽ hở dễ lợi dụng.
*Mức đóng và mức hưởng trợ cấp :
Mức đóng : Theo quy định hiện nay thì mức đóng cho chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN được tính chung với chế độ ốm đau thai sản ,không quy định cụ thể mức đóng riêng.
Cần nghiêm cứu tính toán để xác định tỷ lệ % mức đóng bảo hiểm xã hội so với tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trong tổng số % đóng bảo hiểm xã hội quy định hiện nay nhằm đảm bảo cho việc thực hiện chế độ trợ cấp và phương án quản lý quỹ bảo hiểm xã hội về TNLĐ-BNN ở các cơ quan đơn vị , doanh nghiệp hiện nay tập trung thống nhất vào cơ quan BHXH.
Hiện nay mặc dù chưa có quỹ riêng cho chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN đã là một hạn chế ,nhưng vấn đề tồn tại chính lại là vấn đề chốn tránh đóng BHXH từ cả hai phiá nên có ảnh hưởng rất lớn tới thực hiện chế độ này. Vì vậy việc quản lý sự đóng góp có ý nghĩa rất quan trọng . Để thực hiện tốt vấn đề này nên chăng nhà nước có chính sách quản lý qua hệ thống tài khoản ,đặc biệt là của người sử dụng lao động
Mức hưởng : Theo quy định hiện nay thì mức trợ cấp căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng lao động ảnh hưởng tới yếu tố nghề nghiệp và căn cứ vào tiền lương đóng bảo hiểm xã hội. Mức hưởng được quy định theo khung tỷ lệ ,mức quy định này không những thiếu công bằng trong thụ hưởng mà còn tạo nên sự thiếu vô tư trong việc quyết định kết quả giám định khả năng lao động của hội đồng giám định y khoa.
Để đảm bảo công bằng cho những người lao động thì nên tính mức hưởng theo từng tỷ lệ suy giảm khả năng lao động chứ không tính theo khung tỷ lệ như hiện nay . Tức là thay đổi lại quy định trợ cấp , theo hướng cứ mất 1% sức lao động do thương tật thì được trợ cấp một mức tương ứng . Thay cho quy định : mất sức lao động từ 31% tới 40% được trợ cấp như nhau, bằng 0.4 tháng tiền lương tối thiểu.
Mức trợ cấp TNLĐ-BNN được xác định trên cơ sở tiền lương tối thiểu ,không cần quy định về thời gian tham gia bảo hiểm xã hội dài hay ngắn, đóng bảo hiểm xã hội nhiều hay ít , tuổi đời cao hay thấp . Cần xác định mức trợ cấp để đảm bảo bù đắp tương đối mức giảm thu nhập tương ứng với từng mức suy giảm khả năng lao động . Hiện nay mức trợ cấp 1 lần và định kỳ hàng tháng chưa đủ để đảm bảo bù đắp thu nhập , nên lấy 2 lần mức lương tối thiểu làm căn cứ tính mức trợ cấp hàng tháng , những người bị suy giảm khả năng lao động từ 50% trở lên và những người bị tàn tật nặng được tính thêm một hệ số so với mức tính quy định chung .
Đối với trợ cấp một lần hiện nay mức hưởng còn rất thấp theo tôi nên tính bằng 50 tháng lương tối thiểu nhân với tỷ lệ % suy giảm khả năng lao động. Ngoài ra , người lao động bị TNLĐ-BNN vẫn được hưởng toàn bộ hưu trí 1 lần hoặc hàng tháng tính theo thời gian tham gia và mức lương đóng bảo hiểm xã hội.
*Chăm sóc y tế :
các cơ quan chức năng cần sớm nghiêm cứu ban hành văn bản quy định tiêu chuẩn chung về chăm sóc y tế đối với người tàn tật do TNLĐ-BNN khi mới bị từ khâu khám ,chữa điều trị , đến khi đã điều trị ổn định hoặc khi tái phát .
Bệnh nghề nghiệp là bệnh ấp ủ từ lâu nên quy định buộc tất cả những người lao động hàng năm phải đi khám định kỳ tại cơ sở y tế để sớm phát hiện bệnh , và người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm về điều này .
Cũng cần cụ thể hoá các tiêu chuẩn xét nghiệm, điều trị và lập hồ sơ bệnh án để xác định là bệnh nghề nghiệp
*Phạm vi hưởng chế độ
Theo tôi hiện nay tuy đã mở rộng hơn so với trước song để đáp ứng kịp với phát triển kinh tế thì chúng ta nên mở rộng danh mục bệnh nghề nghiệp .
* Các vấn đề khác :
-Cần có những quy định cụ thể thống nhất về chế độ trang cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt phù hợp với mức độ tàn tật của từng bộ phận cơ thể ; quy định cụ thể về thời hạn sử dụng của các trang thiết bị này .
-Khi người lao động bị TNLĐ-BNN nghỉ hưu thì cần xác định lại mức trợ cấp theo một tỷ lệ nào đó mức hưởng khi đang đi làm , với mức này đảm bảo bù đắp phần thu nhập bị giảm trong quá trình làm việc dẫn tới lương hưu khi nghỉ không cao như người bình thường hoặc có tính tới độ dài thời gian làm việc tham gia BHXH bị ảnh hưởng do TNLĐ-BNN để quy định % trợ cấp hàng tháng so với mức hiện hưởng .
-Về quy định hồ sơ và quy trình giải quyết chế độ TNLĐ-BNN :
Hoàn chỉnh các quy định về thủ tục hồ sơ , quy trình tiến hành , thành phần các thành viên bắt buộc khi tiến hành lập biên bản cho từng loại TNLĐ-BNN.
Hoàn chỉnh các mẫu biên bản TNLĐ theo hướng đảm bảo đầy đủ các nội dung cần thiết , thêm các tiêu thức để tiện cho công tác thống kê như trình độ nghề nghiệp…và yêu cầu các chữ ký con dấu bắt buộc để thực hiện thống nhất trong cả nước .
-Cần xây dựng các biểu quy định mức độ tàn tật và lập danh sách các bệnh nghề nghiệp chính xác làm căn cứ cho việc đánh giá mức độ suy giảm khả năng lao động .
-Nghiêm cứu tổ chức riêng cho việc giám định khả năng lao động đối với đối tượng thuộc BHXH. Trong trường hợp vẫn giữ nguyên hội đồng giám định y khoa hiện nay thì cần có thêm hội đồng phúc thẩm y khoa độc lập . Hội đồng này có quyền kiểm tra lại kết quả do hội đồng giám định y khoa kết luận.
-Sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện quy định về thủ tục hồ sơ, quy trình giám định khả năng lao động đối với người bị TNLĐ-BNN.
-Quy định việc các cơ quan đơn vị tham gia BHXH hàng năm báo cáo về BHXH việt nam tình hình TNLĐ-BNN của đơn vị mình để tổng hợp , đánh giá phục vụ cho công tác nghiêm cứu để tham gia hoặch định chế độ chính sách BHXH TNLĐ-BNN.
Các biện pháp giảm thiểu TNLĐ-BNN
Chính sách của nhà nước đối với TNLĐ-BNN không chỉ dừng lại ở việc làm sao để đảm bảo quyền lợi của người lao động khi bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp mà nó còn thể hiện ở việc nhà nước sẽ làm gì để giảm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp. Có rất nhiều biện pháp để giảm thiểu tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp nhưng chủ yếu là xuất phát từ người sử dụng lao động . Nhà nước phải có biện pháp buộc chủ sử dụng lao động thực hiện các biện pháp an toàn lao động. Một số biện pháp được đề nghị như sau:
-Quan tâm hơn nữa tới công tác cải thiện điều kiện lao động nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Phải có biện pháp ràng buộc chủ sử dụng lao động quan tâm tới việc cải thiện điều kiện lao động : nhà xưởng , hệ thống chống bụi , khí độc , hệ thống thông gió , chống ẩm , chống ồn, chống rung… loại bỏ các máy móc thiết bị , công cụ quá cũ không an toàn ra khỏi dây chuyền sản xuất , hạn chế sử dụng các nguyên ,nhiên vật liệu không đảm bảo .Nhưng vấn đề biện pháp ràng buộc ở đây là gì ? theo tôi khi doanh nghiệp tiến hành đăng ký kinh doanh thì nên có quy định : chỉ những doanh nghiệp nào có bản tường trình về an toàn lao động và cam kết thực hiện , theo đó nếu trong quá trình sản xuất kinh doanh vi phạm cam kết trên sẽ chịu một mức hình phạt nặng nào đó , mới cho phép các doanh nghiệp đó thành lập . Để làm được điều này thì nhà nước cần có hệ thống thanh tra hoạt động có hiệu quả , nghiêm minh và chính sách nhập khẩu hợp lý đối với các loại máy móc giúp các doanh nghiệp có điều kiện để đổi mới máy móc.
-Thực hiện đầy đủ các quy định của nhà nước về an toàn lao động , vệ sinh lao động và các chế độ bảo hộ lao động : hướng dẫn người lao động thực hiện đúng các quy phạm , tiêu chuẩn bắt buộc khi thực hiện công việc ,nắm bắt các đặc điểm ,quy trình làm việc đảm bảo an toàn , có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động , vệ sinh lao động; hiểu rõ về cấu tạo ,tác dụng và cách sử dụng ,bảo quản các trang cấp, phương tiện bảo vệ cá nhân; các yếu tố nguy hiểm ,có hại , các sự cố sảy ra khi làm việc, cách đề phòng sử lý khi phát hiện có nguy cơ sảy ra sự cố …
-Tăng cường công tác huấn luyện về an toàn lao động , vệ sinh lao động theo các nội dung đối với người sử dụng lao động và người lao động theo thông tư số 08/TT-BLĐTBXH ngày 11/4/1995 và thông tư số 23/TT-BLĐTBXH ngày 19/9/1995 của bộ lao động thương binh và xã hội.
-Trang cấp và tuân thủ đầy đủ việc thực hiện trang bị bảo hộ lao động như : các bộ phận che chắn vùng nguy hiểm, các biển báo an toàn ,các trang bị và phương tiện bảo hộ lao động .
-Cần tập trung lưu ý phòng ngừa sảy ra tai nạn đối với nam giới ,chú ý biện pháp phòng ngừa tai nạn lao động tại công xưởng sản xuất công nghiệp , công trường xây dựng, khai thác , chú ý tới những người lao động có tuổi đời và tuổi nghề thấp thường ít kinh nghiệm và thường chủ quan trong lao động .
-Tăng cường công tác thanh tra ,kiểm tra việc thực hiện các quy định của nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động ở tất cả các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế trong đó lưu ý các lĩnh vực xây dựng , xây lắp , sửa chữa , sử dunngj điện , khai thác khoáng sản . Thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc các doanh nghiệp thực hiện công tác điều tra , thực hiện chế độ thống kê, báo cáo tình hình lao động , về huấn luyện an toàn lao động và công tác thực hiện an toàn lao động theo quy định tại thông tư liên tịch số 03/1998/TTLT/BLĐTBXH-BYT-TLĐVN ngày 26/3/1998.
-Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền , công tác thi đua, khen thưởng về an toàn lao động vệ sinh, bảo hộ lao động , chú ý phòng ngừa TNLĐ, tai nạn giao thông …
-Nghiêm cứu sửa đổi , bổ sung để hoàn thiện các quy định pháp lý trong các văn bản mà hiện còn chưa rõ ràng , cụ thể hoặc chưa đầy đủ về mọi mặt của vấn đề TNLĐ.
-Tăng cường cải thiện môi trường làm việc , quan tâm và đầu tư thoả đáng cho công việc vệ sinh môi trường lao động như làm sạch không khí môi trường bằng hệ thống thông hút gió , trồng cây xanh, bảo quản cẩn thận các hoá chất độc hại .
-Tập chung đầu tư sử dụng các công nghệ sạch , công nghệ tiên tiến , hạn chế sử dụng các nguyên , nhiên vật liệu không bảo đảm .
-Cần đặc biệt quan tâm đến công tác phòng ngừa và phát hiện loại bệnh phổi nghề nghiệp . Ngoài ra cần đầu tư vào công tác quản lý , chăm sóc sức khoẻ và phát hiện bệnh bụi phổi silic.
-Tăng cường công tác kiểm tra , đo đạc môi trường lao động .
-Thực hiện công tác khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động thường xuyên tiếp xúc với môi trường có khả năng gây bệnh nghề nghiệp theo quy định của nhà nước .
Phần kết
Với các phần trình bày trên đề tài đã khắc hoạ được đôi nét về chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp . Có thể thấy vai trò quan trọng của nó trong các chính sách bảo đảm xã hội của nhà nước ta . Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp mà chúng ta triển khai giai đoạn vừa qua mặc dù trong giai đoạn khó khăn về kinh tế song nó cũng có những thành công nhất định : Đó là chế độ bảo vệ quyền lợi của đại bộ phận người lao động ,giúp người lao động khắc phục được khó khăn trước mắt do rủi ro gây nên, nó còn giúp họ ổn định cuộc sống . Về phía người sử dụng lao động thì chính sách này buộc các chủ sử dụng lao động phải quan tâm tới vấn đề an toàn lao động . Tuy nhiên chính sách này cũng bảo vệ họ , giúp người sử dụng lao động giảm bớt các chi phí do tai nạn lao động sảy ra đối với người lao động của họ . Đồng thời khi thực hiện chính sách này người lao động cảm thấy an tâm và được bảo vệ từ người sử dụng lao động nên họ hăng hái làm việc hơn .Về phương diện xã hội đây là một chính sách không chỉ đảm bảo công bằng , phân phối lại thu nhập mà nó còn giúp ổn định về mặt xã hội thể hiện thái độ của nhà cầm quyền , khẳng định con đường đi đúng đắn của đảng và nhà nước ta.
Như vậy chính sách tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp là một chính sách quan trọng trong hệ thống bảo đảm xã hội . Nhất là trong giai đoạn hiện nay kinh tế đang trong giai đoạn phát triển , khoảng cách giàu nghèo đang gia tăng trong khi số lượng người lao động bước vào lĩnh vực hoạt động sản xuất đang tăng nhanh chóng , nên chế độ này càng đóng vai trò quan trọng để bảo vệ người lao động . Mặc dù trong giai đoạn vừa qua việc triển khai chế độ này gặp không ít khó khăn, song chính phủ cùng các cơ quan liên quan đã cố gắng rất nhiều nhằm hoàn thiện . Giai đoạn tới khi chúng ta hội nhập kinh tế sẽ xuất hiện rất nhiều ngành kinh tế , lao động thu hút vào lĩnh vực sản xuất còn ra tăng thì việc thực hiện chế độ này càng có ý nghiã . Vì vậy triển khai chế độ này là một việc làm đúng đắn của đảng và nhà nước ta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 63299.DOC