Đề tài Tình hình triển khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới và trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba tại PTI Hải Phòng

Tài liệu Đề tài Tình hình triển khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới và trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba tại PTI Hải Phòng: Mục lục lời mở đầu Khi xã hội ngày càng phát triển, trình độ dân trí ngày càng cao thì nhu cầu được bảo vệ, nhu cầu được an toàn của con người là tất yếu. Chính vì thế, bảo hiểm ra đời là cần thiết khách quan. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn trong nền kinh tế mà quan trọng hơn nó còn góp phần đảm bảo cho những cá nhân, tổ chức tham gia có sự an toàn về mặt tài chính, và có khả năng khôi phục đời sống, hoạt động sản xuất kinh doanh ngay sau khi gặp những rủi ro. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường kéo theo sự gia tăng về số lượng xe cơ giới. Trong quá trình tham gia lưu thông đường bộ, xe cơ giới là phương tiện giao thông cơ động và tiện lợi nhất cho mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, tai nạn do xe cơ giới gây ra hậu quả thường rất khó kiểm soát. Để giảm bớt những thiệt hại do tai nạn gây ra đồng thời bảo vệ lợi ích kinh doanh cho các chủ xe thì việc tham gia bảo hiểm xe cơ giới là hết sức cần thiết và có ý nghĩa xã hội to lớn. Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện...

doc88 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình triển khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới và trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba tại PTI Hải Phòng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục lời mở đầu Khi xã hội ngày càng phát triển, trình độ dân trí ngày càng cao thì nhu cầu được bảo vệ, nhu cầu được an toàn của con người là tất yếu. Chính vì thế, bảo hiểm ra đời là cần thiết khách quan. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn trong nền kinh tế mà quan trọng hơn nó còn góp phần đảm bảo cho những cá nhân, tổ chức tham gia có sự an toàn về mặt tài chính, và có khả năng khôi phục đời sống, hoạt động sản xuất kinh doanh ngay sau khi gặp những rủi ro. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường kéo theo sự gia tăng về số lượng xe cơ giới. Trong quá trình tham gia lưu thông đường bộ, xe cơ giới là phương tiện giao thông cơ động và tiện lợi nhất cho mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, tai nạn do xe cơ giới gây ra hậu quả thường rất khó kiểm soát. Để giảm bớt những thiệt hại do tai nạn gây ra đồng thời bảo vệ lợi ích kinh doanh cho các chủ xe thì việc tham gia bảo hiểm xe cơ giới là hết sức cần thiết và có ý nghĩa xã hội to lớn. Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện Hải Phòng (PTI Hải Phòng) là một trong những chi nhánh của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI). Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển của kinh tế toàn thành phố, hoạt động kinh doanh của Công ty đã thu được những thành tích đáng khích lệ và đã có những đóng góp cho nền kinh tế của Thành phố cảng Hải Phòng nói chung và ngành Bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên, cũng như tất cả các công ty bảo hiểm khác, Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện Hải Phòng (PTI Hải Phòng) đang và sẽ phải đối diện với nhiều thách thức mới, cơ hội mới trong hoàn cảnh đất nước đang có những thay đổi quan trọng từng ngày, từng giờ. Qua thời gian tìm hiểu ở Công ty, tôi được biết nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ cơ bản . Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Tình hình triển khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới và TNDS của chủ xe đối với người thứ ba tại PTI Hải Phòng ” với mong muốn có thể hiểu hơn những vấn đề: Tình hình triển khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới và TNDS của chủ xe đối với người thứ ba tại Công ty. Những kết quả đạt được và những mặt còn tồn tại của Công ty trong thời gian vừa qua khi triển khai nghiệp vụ này. Hướng phát triển của nghiệp vụ này trong thời gian sắp tới… Ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận, Chuyên đề này bao gồm 3 phần: Phần I: Những nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới và TNDS của chủ xe đối với người thứ ba . Chương II: Thực trạng triển khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới và TNDS của chủ xe đối với người thứ ba tại PTI Hải Phòng. Chương III: Một số kiến nghị đối với việc triển khai nghiệp vụ tại PTI Hải Phòng. Mặc dù có nhiều cố gắng, song do kiến thức còn hạn chế về kinh nghiệm thực tế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, do đó tôi rất mong có được những ý kiến đóng góp, phê bình của các thầy cô và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Thị Định, giảng viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, người đã hướng dẫn để tôi hoàn thành chuyên đề này. Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ Phòng Bảo hiểm xe cơ giới - Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện Hải Phòng (PTI Hải Phòng) đã tận tình chỉ bảo và có những ý kiến đóng góp quí báu cho tôi trong thời gian thực tập tại quý Công ty. Hải Phòng, ngày 18 tháng 4 năm 2005. Sinh viên Phạm Thị Nga Phần I: Những nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới và tnds của chủ xe đối với người thứ ba I. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới và tnds của chủ xe đối với người thứ ba. 1. Sự cần thiết khách quan. Trước đây, khi nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn và lạc hậu thì ngành giao thông vận tải lúc này đã có một vai trò và nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó là phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Thời kì này, nước ta chỉ có khoảng 143.985 km đường bộ với khoảng 6-7% được rải nhựa, chủ yếu ở các thành phố lớn còn lại hầu hết các con đường ở các tỉnh thành thường rất ít, hoặc không được rải nhựa. Kể từ sau năm 1986, nền kinh tế của nước ta mới được mở cửa, thừa nhận sự kinh doanh cá thể với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Trước những nhu cầu ngày càng tăng về sự trao đổi hàng hoá, Nhà nước đã xây dựng nhiều con đường mới chất lượng tốt đồng thời cũng tu sửa lại những con đường đã quá xuống cấp. Đến năm 2004 nước ta có khoảng 368.529 km đường bộ trong đó có gần 50% đã rải nhựa, và gần 15.600 cầu cống các loại đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhìn vào tình hình đường xá, cầu cống hiện nay ta có thể thấy sự phát triển của giao thông đường bộ nước ta là khá nhanh (trung bình mỗi năm có khoảng 300-400 km đường được xây mới). Mặc dù, Đảng và Nhà nước đã có những sự đầu tư vào giao thông đường bộ như vậy nhưng vấn đề tai nạn giao thông vẫn là vấn đề gây nhức nhối không chỉ ở riêng Việt Nam mà còn ở trên toàn thế giới. Số liệu ở bảng 1 cho thấy, hiện nay tai nạn giao thông ở Việt Nam đang gia tăng rất đáng lo ngại, đây là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Ta có thể thấy qua bảng sau: Bảng 1: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2004 Năm Số vụ tai nạn (Vụ) Số người chết (người) Số người bị thương (người) 2000 22.486 7.500 25.400 2001 25.040 10.477 29.188 2002 27.134 12.800 30.733 2003 19.852 11.319 20.400 2004 21.019 12.193 22 .659 (Nguồn: Thông kê của cục cảnh sát giao thông) Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy tình trạng tai nạn giao thông đang gia tăng đến chóng mặt trong những năm 2000,2001 và 2002, trung bình mỗi năm số vụ tai nạn tăng lên khoảng trên 2.000 vụ, song đến năm 2003,2004 số vụ tại nạn giao thông có phần giảm đi đáng kể. Nhưng tính chất nghiêm trọng của các vụ tai nạn dường như ngày càng tăng dẫn theo số người chết tăng với tốc độ đáng báo động. Mặc dù, Nhà nước có đưa ra những biện pháp nhằm mục đích giảm thiểu tai nạn giao thông trên toàn quốc như: bắt buộc mọi người khi tham gia giao thông trên tuyến đường ngoài quốc lộ phải đội mũ bảo hiểm, tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng về mức độ nguy hiểm của tai nạn,…Song tình trạng tai nạn giao thông vẫn cư xảy ra. Qua tìm hiểu ta thấy do một số nguyên nhân sau: Nguyên nhân khách quan : Bản thân xe cơ giới là loại phương tiện có tính cơ động cao, linh hoạt nên nó thường tham gia triệt để vào quá trình vận chuyển. Điều này đã làm xác suất rủi ro của nó lớn hơn rất nhiều các loại phương tiện khác. Địa hình nước ta tương đối phức tạp với 3/4 diện tích là đồi núi và 108 đèo dốc hiểm trở. Đây là điều gây khó khăn cho việc xây dựng hệ thống giao thông đường bộ và quá trình vận chuyển. Chất luợng đường xá của Việt Nam còn thấp, nhiều đường ghồ ghề, khúc khuỷu, thiếu các biển báo cần thiết làm cho lái xe không thể chủ động, lường trước khó khăn nên dễ gây tai nạn. b. Nguyên nhân chủ quan : - ý thức của người tham gia giao thông còn rất kém. Đây là nguyên nhân cơ bản và chủ yếu dẫn đến số vụ tai nạn giao thông ngày càng gia tăng. Theo thống kê cho thấy nguyên nhân gây ra các vụ tai nạn trong các năm qua có tới 70 - 80% là do người tham gia giao thông không chấp hành đúng các qui định về an toàn giao thông (vi phạm tốc độ chiếm 30%, tránh vượt sai qui định 20%, say rượu bia 7%). Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải Lê Ngọc Hoàn tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X thì tổng số phương tiện cơ giới là 8.519.354 xe nhưng chỉ có 4.114.491 người có giấy phép lái xe, chiếm 47,9%. Điều đó cho thấy số người tham gia giao thông không có giấy phép lái xe hoặc chưa học luật mà vẫn sử dụng xe đang chiếm tỷ lệ rất cao. - Cơ sở hạ tầng phục vụ giao thông đường bộ chưa được tốt. Cho đến năm 2004, cả nước có khoảng 365.287 km đường bộ trong đó chỉ có gần 50% được rải nhựa, 15.600 cầu cống các loại trong đó 50 – 60% cần được sửa chữa và nâng cấp. Nhưng việc sửa chữa lại mang tính chắp vá thiếu tính liên tục, đồng bộ làm cho chất lượng của con đường xuống cấp rất nhanh. Ngoài ra biển báo giao thông, thiết bị an toàn giao thông còn thiếu, nhiều biển báo còn đặt ở chỗ khuất khiến người tham gia giao thông khó quan sát, dễ dẫn đến tai nạn. - Số lượng xe cơ giới tăng nhanh. Cùng với sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế nước nhà, nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá cũng ngày càng một tăng cao. Đồng thời giá thành xe cơ giới lại ngày càng có xu hướng hạ xuống, đặc biệt là thời gian khoảng vào năm 1999 – 2001, số lượng xe máy Trung Quốc, chất lượng kém nhưng giá rất rẻ đã làm số lượng xe cơ giới tham gia giao thông tăng đột biến. Điều này có thể nhìn thấy qua số liệu bảng 2 sau: Bảng 2: Số lượng xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2004 (đơn vị: xe) Năm Ô tô Mô tô Tổng số 2000 486.608 6.478.954 6.965.562 2001 557.092 8.859.042 9.416.134 2002 607.401 10.273.012 10.880.413 2003 675.358 11.379.034 12.054.392 2004 714.000 11.985.108 12.699.108 (Nguồn: Thông kê của Cục cảnh sát giao thông) Năm 2000 tổng số xe môtô và ôtô của nước ta là 6.965.562 xe thì tới năm 2004 con số đó đã tăng lên 12.699.108 xe. Như vậy là trong vòng 5 năm số lượng xe cơ giới của cả nước đã tăng gần gấp đôi, trong khi đó tốc độ tăng đường mới và sửa chữa đường cũ còn rất hạn chế. Đó là một điều không cân bằng và là một trong những nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông trong một số năm gần đây tăng nhanh và nghiêm trọng. Với các biện pháp như hạn chế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng xe và xe môtô, ôtô nguyên chiếc từ nước ngoài vào trong nước, hạn chế người đăng ký xe máy mới và tạm dừng đăng ký xe ở một số tỉnh, thành phố lớn trong cả nước là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…nhằm mục đích giảm số lượng xe cơ giới tham gia giao thông. Nhưng chính điều này cũng lại là một trong những nguyên nhân vô tình kích cầu tiêu dùng của người dân, làm cho số lượng xe cơ giới càng tăng nhanh. Trước tình hình tai nạn giao thông ngày càng gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng, Chính Phủ đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm giảm tình trạng vi phạm luật lệ an toàn giao thông như: tăng cường việc truy cứu trách nhiệm cá nhân, chống hữu khuynh trong điều tra xử lý vi phạm, xác định các đoạn đường thường xảy ra tai nạn để lập biển cảnh báo, qui định về đội mũ bảo hiểm, tăng cường tuyên truyền về an toàn giao thông. Chính Phủ đã lấy năm 2003 là năm an toàn giao thông với việc tăng cường cảnh sát giao thông trên các nút giao thông, xử lý nghiêm các vi phạm về luật lệ an toàn giao thông. Điều này thực sự đang đưa dần người dân sống và làm việc theo pháp luật. Tuy nhiên, với sự cố gắng của bản thân con người cũng như sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật, chúng ta vẫn chưa thể loại bỏ được các tai nạn giao thông xảy ra. Thậm chí tai nạn xảy ra ngày một tăng và đôi khi mang tính thảm hoạ. Khi tai nạn xảy ra, không chỉ có bản thân nạn nhân và gia đình họ bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và thu nhập mà xã hội cũng bị ảnh hưởng bởi lẽ những người tham gia giao thông phần lớn là người chủ, trụ cột của gia đình,là những người đảm bảo cuộc sống cho gia đình họ và góp phần tạo nên sự phát triển cho xã hội. Mặc dù pháp luật đã quy định rõ: khi xảy ra tai nạn giao thông, chủ phương tiện phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản nếu họ có lỗi dù vô tình hay cố ý, tuy nhiên trên thực tế, việc giải quyết hậu quả của các tai nạn giao thông thường phức tạp và mất nhiều thời gian bởi lẽ : - Nhiều trường hợp lái xe cũng bị chết do tai nạn nên việc giải quyết bồi thường cho người thiệt hại trở nên khó khăn và đôi khi không thực hiện được. - Khi xảy ra tai nạn một số lái xe do thiếu ý thức đã chạy chốn trách nhiệm bỏ mặc nạn nhân tự gánh chịu hậu quả của tai nạn. - Khả năng tài chính của chủ xe không cho phép họ có thể bồi thường đầy đủ cho nạn nhân. Với tất cả lý do trên, khi tai nạn xảy ra quyền lợi của người bị thiệt hại khó có thể được đảm bảo đồng thời nó cũng gây nhiều khó khăn cho chủ xe, làm cho kinh doanh của họ bị đình trệ, tài chính bị khủng hoảng. Để khắc phục tình trạng này chỉ có một biện pháp là phải tập trung một quỹ tiền tệ đủ lớn từ các chủ xe, lấy số đông bù số ít nhằm giải quyết kịp thời hậu quả khi có tai nạn nhằm đảm bảo quyền lợi, giảm bớt khó khăn cho tất cả các bên bị thiệt hại. Đó cũng chính là lý do cho sự ra đời của bảo hiểm xe cơ giới. 2. Tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới. Khi chủ xe đã đóng bảo hiểm tại một công ty bảo hiểm bất kì nào đó, khi có rủi ro xảy ra mà các rủi ro này thuộc các điều khoản trách nhiệm của công ty bảo hiểm đã ký kết với khách hàng thì công ty bảo hiểm đó sẽ phải đền bù hoàn toàn thiệt hại cho chủ xe. Chính vì vậy, bảo hiểm cho xe cơ giới có những tác dụng sau: - ổn định tài chính cho chủ xe Khi xảy ra tai nạn thuộc trách nhiệm của chủ xe, chủ xe không phải bỏ ra một khoản tiền lớn, đột xuất có thể ảnh hưởng đến gia đình sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Nhà bảo hiểm sẽ thanh toán những chi phí mà người tham gia bảo hiểm( chủ xe) gặp phải. Ngoài ra, bảo hiểm cũng góp phần xoa dịu bớt căng thẳng giữa chủ xe và gia đình nạn nhân. - Ngăn ngừa đề phòng hạn chế tổn thất Thông qua công tác bồi thường thiệt hại cho các chủ xe, công ty bảo hiểm thống kê được rủi ro, các nguyên nhân gây ra tai nạn từ đó đề ra các biện pháp hữu hiệu quỹ bảo hiểm được sử dụng chủ yếu cho việc bồi thường những thiệt hại do tai nạn gây ra, đồng thời nó cũng được sử dụng một phần để chi cho việc xây dựng, áp dụng các biện pháp an toàn giao thông, phối hợp với cảnh sát giao thông, bộ giao thông triển khai các biện pháp nhằm hạn chế các tổn thất ( như làm đường lánh nạn, biển báo...). - Đóng góp cho ngân sách Nhà nước Nhà nước Bảo hiểm xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ chủ chốt của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Thông qua thuế , nghiệp vụ này đóng một phần không nhỏ trong nguồn thu của nhà nước. Quỹ bảo hiểm trong lúc nhàn rỗi còn được sử dụng đầu tư cho các ngành sản xuất vật chất khác, phát huy hiệu quả đồng vốn phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng. - Góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp Doanh nghiệp bảo hiểm có những đặc thù khác với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành khác, trong đó phải kể đến số lượng nhân viên rất đông, phần lớn là đại lý bảo hiểm. - Tăng sự gắn bó giữa các thành viên trong xã hội Điều này có thể thấy thông qua nguyên tắc “Số đông bù số ít” trong Bảo hiểm. Nguyên tắc này khiến mọi người tham gia san sẻ rủi ro cho nhau. Họ sẽ thấy được vị trí và tầm quan trọng của họ trong xã hội. Họ là một nhân tố trong xã hội và họ sẽ liên kết với các thành viên khác để làm xã hội phát triển. II. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. ở hầu hết các nước trên thế giới , bảo hiểm xe cơ giới được triển khai với 5 nghiệp vụ dưới 2 hình thức : Bắt buộc và tự nguyện. Các loại hình bảo hiểm xe cơ giới bắt buộc : - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của các chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe. Các loại hình bảo hiểm xe cơ giới tự nguyện : - Bảo hiểm vật chất xe. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá vận chuyển trên xe. - Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe và lái phụ xe. Do thời gian nghiên cứu tại Công ty còn hạn chế, cho nên tôi chỉ tìm hiểu 2 loại hình bảo hiểm sau: Bảo hiểm vật chất xe cơ giới, và bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với người thứ ba. 1. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 1.1.Đối tượng bảo hiểm Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là phần trách nhiệm được xác định bằng tiền theo quy định của pháp luật và sự phán quyết của toà án quyết định chủ xe phải gánh chịu do sự lưu hành xe của mình gây tai nạn cho người thứ ba. Người thứ ba là những người bị thiệt hại về thân thể và tài sản do xe cơ giới gây ra loại trừ người trên xe, lái phụ xe và hành khách trên chính chiếc xe đó. Đối tượng được bảo hiểm ở đây là trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe cơ giới cho người thứ ba do việc lưu hành xe của mình gây tai nạn. Đối tượng bảo hiểm không được xác định trước chỉ khi nào việc lưu hành xe gây tai nạn mới phát sinh TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. 1.2. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm : - Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba. - Thiệt hại về tài sản, hàng hoá ... của bên thứ ba. - Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc thu nhập của bên thứ ba. - Các chi phí cần thiết để hạn chế và ngăn ngừa thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm ( kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả). - Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu người, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân. Các điều khoản loại trừ : Các điều khoản loại trừ chung : Nhà bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại, tổn thất xảy ra do: - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe. - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định. - Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ như: + Xe không có giấy phép lưu hành. + Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ. + Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe. + Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép. + Xe chở quá trọng tải hoặc quá số khách quy định. + Xe đi vào đường cấm. + Xe đi đêm không đèn hoặc chỉ có đèn bên phải. + Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa. - Những thiệt hại như : Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất, kinh doanh. - Thiệt hại do chiến tranh. - Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các điều khoản loại trừ riêng : - Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép ( không có giấy phép vận chuyển hoặc vận chuyển trái với các qui định trong giấy phép vận chuyển ). - Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn. 1.3. Số tiền bảo hiểm Việc xác định chính xác phí bảo hiểm là yêu cầu tối cần thiết bởi lẽ số tiền bảo hiểm tỷ lệ thuận với phí bảo hiểm. Mà phí bảo hiểm lại ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm. Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên 4 yếu tố: - Điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ. - Tình hình kinh tế xã hội của từng địa phương. - Kinh nghiệm của từng công ty bảo hiểm. - Khả năng tài chính của chủ xe. 1.4. Phí bảo hiểm Trên cơ sở số tiền bảo hiểm người ta có thể xác định phí bảo hiểm. Đối với mỗi nghiệp vụ khác nhau, phí bảo hiểm có thể xác định theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, chúng có cùng điểm chung là cơ cấu phí bảo hiểm trên mỗi đầu phương tiện bao giờ cũng gồm hai phần là Phí cơ bản ( hay còn gọi là phí thuần ) và Phụ phí. Phí cơ bản là phí dùng để bồi thường còn phụ phí gồm các chi phí như đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý... Ta có công thức : P = f + d Trong đó: P: Phí bảo hiểm trên mỗi đầu phương tiện f: Phí thuần d: Phụ phí Trong nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với người thứ ba, phí thuần được tính theo công thức: ( i=1,2...n ) Trong đó: Si- Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i Ti- Thiệt hại bình quân trung bình trong năm thứ i Ci- Số xe hoạt động trong năm thứ i Đây là cách tính bảo hiểm cho các phương tiện thông dụng trên cơ sở quy luật số đông. Đối với các phương tiện không thông dụng, mức độ rủi ro lớn hơn như xe kéo rơmoóc, xe chở hàng nặng... thì tính thêm tỷ lệ phụ phí theo mức phí cơ bản. ở Việt Nam hiện nay thường cộng thêm 30% mức phí cơ bản. 2. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới 2.1. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm là xe cơ giới . Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra với xe mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Thông thường các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm vật chất xe theo một trong hai hình thức là bảo hiểm toàn bộ xe hay bảo hiểm thân vỏ xe. 2.2. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm : - Tai nạn do đâm va, lật đổ. - Cháy, bão, lũ lụt,sét đánh, động đất, mưa đá. - Mất cắp toàn bộ xe ( đối với xe mô tô chỉ bảo hiểm khi có thoả thuận riêng). - Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên. Ngoài ra công ty bảo hiểm còn thanh toán những chi phí hợp lý và cần thiết nhằm: + Ngăn ngừa, hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các nguyên nhân trên. + Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất. + Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Các điều khoản loại trừ : Ngoài các điều khoản loại trừ chung giống như bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm vật chất thân xe còn có các điều khoản loại trừ riêng: - Hào mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên thường được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng. - Hư hỏng về điện, hoặc bộ phận máy móc, thiết bị ( kể cả máy thu thanh, điều hoà nhiệt độ ), săm lốp bị hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. - Mất cắp bộ phận của xe. 2.3. Số tiền bảo hiểm Đối với bảo hiểm vật chất thân xe, số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên giá trị bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thường dựa vào các yếu tố sau để xác định giá trị xe : - Loại xe. - Năm sản xuất. - Mức độ cũ, mới của xe. - Thể tích làm việc của xi lanh. Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao, cụ thể: Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu - Khấu hao 2.4. Phí bảo hiểm Đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân xe, phí bảo hiểm được tính theo công thức: P = S * R Trong đó: P-phí bảo hiểm mỗi xe. S- Số tiền bảo hiểm. R-tỷ lệ phí bảo hiểm. Tỷ lệ phí bảo hiểm R được xác định căn cứ vào: - Xác suất rủi ro đối với những vụ tai nạn giao thông phát sinh nói chung tính cho từng loại xe. - Điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình của từng vùng, từng miền mà phạm vi chiếc xe đó hoạt động chủ yếu. - Tình trạng thực tế của chiếc xe. - Luật thuế của nhà nước. - Chi phí quản lý và lãi dự kiến của công ty. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới phí bảo hiểm Khi xác định tỷ lệ phí bảo hiểm, những nhân tố nhất định ảnh hưởng tới phí bảo hiểm bao gồm: - Tuổi tác, kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường xuyên lái chiếc xe được bảo hiểm. - Loại xe. - Khu vực giữ xe và để xe. - Mục đích sử dụng xe. - Phạm vi bảo hiểm yêu cầu. 3.1. Tuổi tác và kinh nghiệm của lái xe Số liệu thống kê đã cho thấy những người lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với những người lái xe trung tuổi. Để hạn chế tai nạn không đáng có, các công ty bảo hiểm thường yêu cầu người được bao rhiểm chịu một phần tổn thất đối với thiệt hại gây ra cho xe. Đó được gọi là mức miễn thường. Khái niệm lái xe trẻ tuổi và mức miễn thường được thay đổi tuỳ theo từng công ty bảo hiểm. Bởi vì, thống kê về số vụ tai nạn do người lái xe trẻ tuổi gây ra của từng công ty là không giống nhau, kèm theo là hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa công ty bảo hiểm và khách hàng xe quyết định mức miễn thường cho từng đơn bảo hiểm. Những mức miễn thường này không phải lúc nào cũng căn cứ vào kinh nghiệm của lái xe. Người ta sẽ áp dụng một mức miễn thường bổ sung cho những lái xe thiếu kinh nghiệm. Những lái xe thiếu kinh nghiệm trên 30 tuổi (hoặc 25 tuổi trong một số trường hợp) cũng bắt buộc phải chấp nhận mức miễn thường bổ sung. Nếu một người được bảo hiểm lựa chọn một mực miễn thường tự nguyện để được giảm phí bảo hiểm, mức miễn thường đó sẽ được bổ sung thêm vào mức miễn thường áp dụng cho lái xe thiếu kinh nghiệm hoặc trẻ tuổi. Một công ty bảo hiểm quyết định giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 tuổi hoặc 55 tuổi là vì họ thấy những người này là những người có kinh nghiệm lái xe, họ ít gây tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi khác. Nhiều công ty bảo hiểm yêu cầu những lái xe lớn tuổi phải xuất trình giấy khám sức khoẻ phù hợp để có thể lái xe sau khi đã đạt tới một độ tuổi nhất định. 3.2. Loại xe Các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các xe thông dụng. Thông thường có khoảng 20 nhóm, ngoài ra những tỷ lệ phí đặc biệt có thể được áp dụng cho một số loại xe nhất định. Các nhóm được xác định căn cứ vào tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa hợac tìm mua phụ tùng. Nhiều công ty bảo hiểm giảm phí cho những xe cũ tuỳ theo tuổi của xe, và mức phí được giảm cũng tuỳ thuộc vào quyết định của từng công ty. Kinh nghiệm cho thấy chủ sở hữu đối với xe cũ ít khiếu nại hơn, và chi phí cho loại xe này khi cá khiếu nại cũng thấp hơn so với những xe mới. 3.3. Khu vực giữ và để xe Đây có thể không phải là cách tốt nhất để định phí . Bởi vì, nó không cho các công ty bảo hiểm biết xe thường được sử dụng tại đâu. Tuy nhiên, một số công ty bảo hiểm vẫn có các cách xác định tỷ lệ phí dựa theo khu vực giữ và để xe. Đối với những xe được trông giữ tại chỗ có an ninh đảm bảo thì mức phí sẽ thấp hơn so với nơi trong giữ xe không có an ninh đảm bảo, là do nơi có an ninh đảm bảo thì khả năng xe của khách hàng bị mất cắp thấp hơn. 3.4. Mục đích sử dụng xe Đây là một trong số những nhân tố ảnh hưởng quan trọng tới phí bảo hiểm của xe cơ giới đó chính là yếu tố mức độ rủi ro. Xe do một người về hưu sử dụng cho mục đích lưu hành ở địa phương trên đường ít hơn so với xe do một người chuyên làm vận tải sử dụng để đi lại trong một khu vực rộng lớn hơn. Xe càng lưu hành trên đường nhiều thì rủi ro tai nạn càng lớn. Một số công ty bảo hiểm sử dụng những nhóm truyền thống sau: Sử dụng xe loại A dành cho mục đích xã hội, nội bộ và giải trí và do đích thân người được bảo hiểm sử dụng, có liên quan đến nghề nghiệp của người đó ngoại trừ sử dụng với mục đích cho thuê, vận chuyển thương mại, hay bất cứ một mục đích nào có liên quan đến kinh doanh xe cơ giới, và sử dụng để đua xe, thi tài hoặc thử xe. Một số công ty bảo hiểm đồng ý giảm phí bảo hiểm nếu mục đích của người sử dụng là dành riêng cho xã hội và nội bộ. Nội dung đơn tiêu chuẩn loại A yêu cầu người được bảo hiểm phải ở trong xe khi xe đang được sử dụng cho mục đích công việc, cho dù người được bảo hiẻm không lái xe. Công việc nói trên phải là công việc của người được bảo hiểm. Sử dụng xe loại B1 dành cho mục đích xã hội, nội bộ hoặc giải trí và sử dụng cho công việc của người được bảo hiểm, và chủ lao động của người được bảo hiểm hay các cộng sự ngoài trừ việc cho thuê, vận chuyển cho mục đích thương mại hay bất cứ một mục đích nào có liên quan đến kinh doanh xe cơ giới, đua xe, thi tài hoặc thử xe. Đây là loại xe sử dụng hoàn toàn cho công việc ngoại trừ vận chuyển cho mục đích thương mại. Sử dụng xe loại B2 tương tự như loại B1. Tuy nhiên, phần loại trừ có khác ở chỗ loại trừ để sử dụng vận chuyển hành khách, sử dụng cho thuê, hay để đua xe, thi xe hoặc thử xe. Không loại trừ vận chuyển cho mục đích thương mại. Việc chia loại A thành 2 loại như trên có nghĩa là có 4 loại xe có mục đích sử dụng khác nhau. Các công ty bảo hiểm dường như thôi không dung cách phân chia xe theo loại A,B1,B2 đã quá cũ và sử dụng một cách xác định đơn giản hơn là phân loại xe là 1,2,3,4. Phương thức xác định rõ ràng không quan trọng bằng những phân biệt trong thực tế về các mức độ rủi ro. 3.5. Phạm vi bảo hiểm yêu cầu Nhân tố này tác động trực tiếp tới phí bảo hiểm của khách hàng phải nộp cho nhà bảo hiểm. Đối với những trường hợp người mua bảo hiểm yêu cầu phạm vi bảo hiểm rộng, ở đây đó là mức đền bù khi xảy ra rủi ro là lớn hoặc nhà bảo hiểm phải đền bù trong nhiều trường hợp tai nạn xảy ra thì mức phí tương ứng sẽ phải lớn. Ngược lại, khi người được bảo hiểm lại yêu cầu phạm vi bảo hiểm hẹp thì mức phí bảo hiểm cũng phải thấp theo. iii. hợp đồng bảo hiểm. 1. Khái niệm về hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm: Là một thoả thuận giữa nhà bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Theo đó người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm còn bên bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường và trả tiền bảo hiểm cho người tham gia khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm gây tổn thất đối với xe của người tham gia. Giấy chứng nhận bảo hiểm: Là bằng chứng ký kết hợp đồng bảo hiểm giữa chủ xe cơ giới và Công ty bảo hiểm do Công ty bảo hiểm cấp theo yêu cầu của người được bảo hiểm. 2. Hợp đồng bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới Một hợp đồng được gọi là có giá trị pháp lý khi thoả mãn các điều kiện sau: - Mục đích của các bên là thiết lập mối quan hệ pháp lý. - Lời đề nghị của một bên và việc chấp nhận của bên kia. - Khả năng pháp lý của các bên để thực hiện hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới cũng phải tuân theo những điều kiện trên, thiếu bất kỳ một chi tiết nào hợp đồng coi như không có hiệu lực, bị mất hiệu lực hoặc không thể thi hành được. Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới cũng phải đảm bảo đúng nguyên tắc của một hợp đồng bảo hiểm bao gồm: - Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm. - Nguyên tắc trung thực tuyệt đối. - Nguyên tắc bồi thường: Số tiền bồi thường không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế. - Nguyên tắc thế quyền. Hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới thông thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau: - Tiêu đề. - Tên, địa chỉ của Công ty bảo hiểm. - Tên, địa chỉ của người tham gia. - Chủ thể bảo hiểm(đối tượng bảo hiểm). - Phạm vi bảo hiểm. - Số tiền bảo hiểm, mức phí, cách thức nộp phí. - Các điều khoản về giải quyết bồi thường. - Các quy định về giải quyết tranh chấp(nếu có). - Thời hạn bảo hiểm. - Chữ ký của hai bên. Trong thời gian hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực nếu có một bên muốn sửa đổi hay bổ sung một số điều khoản thì phải thông báo cho bên kia trước 30 ngày, mọi điều khoản sửa đổi bổ sung đều phải được thoả thuận bằng văn bản, nó cùng với hợp đồng bảo hiểm sẽ là căn cứ để xem xét phạm vi bồi thường thiệt hại cho người thứ ba. Hiệu lực của hợp đồng: Bắt đầu và kết thúc theo quy định ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Chỉ những tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra trong thời hạn ghi trên giấy chứng nhận hoặc thời gian gia hạn thì nhà bảo hiểm mới có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại phát sinh. Chuyển quyền sở hữu: Trong thời gian còn hiệu lực, có sự chuyển quyền sở hữu xe mà chủ xe không có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm thì mọi quyền lợi bảo hiểm liên quan đến chiếc xe đó vẫn còn hiệu lực đối với chủ sở hữu mới. Huỷ bỏ hợp đồng: Trường hợp có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp biết trước 15 ngày. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo huỷ bỏ, nếu doanh nghiệp bảo hiểm không có ý kiến thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên được huỷ bỏ, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian huỷ bỏ, trừ trường hợp trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực đã xảy ra sự kiện bảo hiểm liên quan đến chiếc xe có yêu cầu huỷ bỏ bảo hiểm. iv. giám định và bồi thường tổn thất. 1. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1.1 Tai nạn và giám định Giám định tai nạn là khâu trung gian quan trọng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, là cơ sở để thực hiện công tác bồi thường. Việc bồi thường có đầy đủ, chính xác và kịp thời hay không phần lớn phụ thuộc vào kết quả giám định. Do vậy, công tác giám định đòi hỏi phải có thời gian và trình độ chuyên môn, đặc biệt là trong bảo hiểm xe cơ giới. a. Thông báo tai nạn Khi có tai nạn xảy ra người bảo hiểm yêu cầu chủ xe hoặc lái xe phải thông báo ngay cho mình bằng một số các loại đơn. Xe bị tai nạn một mặt phải tìm cách cứu chữa, hạn chế tổn thất, mặt khác cần báo ngay cho công ty bảo hiểm biết. Chủ xe không được di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa xe khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm, trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền. b. Giám định tổn thất Thông thường đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, việc giám định tổn thất được công ty bảo hiểm tiến hành với sự có mặt của chủ xe, lái xe hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Chỉ trong trường hợp hai bên không đạt được sự thoả thuận thống nhất thì lúc này mới chỉ định giám định viên chuyên môn làm trung gian. Khi nhận được khai báo của các chủ xe hoặc những người khác, công ty bảo hiểm tiến hành giám định nguyên nhân và hậu quả của vụ tai nạn. Nếu vụ tai nạn không thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm thì công ty bảo hiểm thông báo ngay cho chủ xe biết đồng thời trách nhiệm bảo hiểm kết thúc luôn tại đó. Nếu qua xác minh ban đầu thấy vụ tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, công ty bảo hiểm xúc tiến các công việc sau: - Phối hợp với công an, cảnh sát giao thông giám sát và giám định hiện trường sau khi xảy ra tai nạn. Kết luận chính xác nguyên nhân xảy ra tai nạn, mức độ lỗi của các bên liên quan trong vụ tai nạn. - Tranh thủ ý kiến của chủ xe và lời khai báo của nhân chứng qua các tờ khai tai nạn, kết hợp với hiện trường, nghiên cứu kỹ lưỡng các tài liệu cần thiết và xét lại một lần nữa để đi đến kết luận cuối cùng nguyên nhân cụ thể tai nạn. - Đối chiếu thực tế vụ tai nạn đã được xác minh với quy tắc và điều khoản bảo hiểm, có kết luận chung sơ bộ để đi đến giải quyết bồi thường. - Nếu vụ tai nạn phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba thì tiến hành xác minh thiệt hại đối với người thứ ba, những thiệt hại không thuộc bên thứ ba thì không cần giám định. - Tận dụng mọi khả năng hiện có để hạn chế kịp thời, bảo quản khắc phục tài sản bị hư hỏng. Yêu cầu cuối cùng của khâu giám định là kết luận vụ tai nạn đó có thuộc phạm vi bồi thường hay không. Nếu có thì hoàn tất thủ tục hồ sơ để chuẩn bị bồi thường tai nạn. 1.2. Hồ sơ bồi thường Khi yêu cầu cơ quan bảo hiểm bồi thường thiệt hại, chủ xe phải cung cấp những tài liệu, chứng từ sau: - Tờ khai báo tai nạn của chủ xe. - Bản sao của giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe. - Kết luận điều tra của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: Biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, biên bản giải quyết tai nạn. - Bản án hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà án. - Các biên bản tài liệu xác định trách nhiệm của người thứ ba. - Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn. Ví dụ: chứng từ xác định chi phí sửa chữa xe, thuê cẩu kéo…. 1.3. Nguyên tắc bồi thường tổn thất a. Trường hợp xe tham gia bảo hiểm dưới hoặc bằng giá trị thực tế Sụ́ tiờ̀n bảo hiờ̉m Giá trị thực tờ́ của xe Sụ́ tiờ̀n bụ̀i thường = Thiợ̀t hại thực tờ́ ì b. Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế Theo nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, để tránh việc “lợi dụng” bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu người tham gia bảo hiểm cố tình hoặc vô tình tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm, trong trường hợp này số tiền bồi thường cũng chỉ bằng thiệt hại thực tế và luôn luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe. Ví dụ: Một chiếc xe ôtô có giá trị thực tế là 450 triệu đồng nhưng chủ xe lại tham gia bảo hiểm với số tiền là 500 triệu đồng. Khi có một tổn thất bộ phận xảy ra, giả sử thiệt hại là 40 triệu đồng thì số tiền bồi thường ở đây là 40 triệu đồng. Hoặc nếu tổn thất toàn bộ xảy ra, số tiền bồi thường chỉ là 450 triệu đồng. Trường hợp công ty bảo hiểm chấp nhận bồi thường trên giá trị thực tế, ví dụ theo “giá trị thay thế mới”. Trở lại ví dụ trên, giá trị thực tế của chiếc ôtô là 450 triệu đồng nhưng chủ xe muốn tham gia bảo hiểm với số tiền là 500 triệu đồng, để khi có tổn thất toàn bộ xảy ra ông ta sẽ nhận được số tiền bồi thường là 500 triệu đồng để mua chiếc xe ôtô mới với giá thị trường là 500 triệu đồng. Trường hợp này được gọi là bảo hiểm theo “giá trị thay thế mới”. Chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao theo các điều kiện bảo hiểm rất nghiêm ngặt. c. Trường hợp tổn thất bộ phận Khi tổn thất bộ phận xảy ra, chủ xe sẽ được giải quyết bồi thường theo một trong hai nguyên tắc trên. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe. Theo bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe, công ty bảo hiểm thường quy định: Tỷ lệ tổng thành thân vỏ là 53,5%, tỷ lệ tổng thành động cơ là 15,5%... d. Trường hợp tổn thất toàn bộ Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, mất tích hoặc xe bị thiệt hại nặng đến mức không thể sửa chữa phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Nếu tổn thất toàn bộ, chủ xe sẽ được bồi thường theo giá trị ghi trên đơn bảo hiểm nếu tham gia bảo hiểm bằng hoặc nhỏ hơn giá trị thực tế, hoặc được bồi thường theo giá trị thực tế nếu tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế. Các công ty bảo hiểm thường quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị thực tế của xe bằng hoặc lớn hơn một tỷ lệ nhất định nào đó thì được xem là tổn thất toàn bộ ước tính, tuy nhiên lại bị giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành xe. Ngoài ra, khi tính toán số tiền bồi thường còn phải tuân theo những nguyên tắc sau: - Những bộ phận thay thế mới khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chi phí tính giá trị tương đương với giá trị của bộ phận được thay thế ngay trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu tổn thất xảy ra trước ngày 16 của tháng, thì tháng đó không phải tính khấu hao. Còn nếu tổn thất xảy ra từ ngày 16 trở đi thì phải tính khấu hao cho tháng đó. - Công ty bảo hiểm sẽ thu hồi những bộ phận được thay thế hoặc đã được bồi thường toàn bộ giá trị. - Trường hợp thiệt hại xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba, công ty bảo hiểm bồi thường cho chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho công ty bảo hiểm kèm theo toàn bộ hồ sơ, chứng từ có liên quan. Cụ thể, nếu xe có tham gia bảo hiểm vật chất bị một xe khác có tham gia bảo hiểm TNDS đâm va gây thiệt hại thì bồi thường thiệt hại vật chất trước. Đối với TNDS chỉ bồi thường phần chênh lệch giữa số tiền bồi thường TNDS và số tiền thiệt hại vật chất xe. 2. Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với người thứ ba 2.1. Giám định tổn thất Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với người thứ ba đang phát triển mạnh mẽ cả về số lượng cũng như chất lượng, đòi hỏi công tác giám định phải được củng cố và nâmg cao. Nguyên tắc chung: Việc giám định phải được thực hiện ngay khi có thông báo tai nạn (theo quy định chung là 5 ngày) - Tất cả các thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm về vật chất và tài sản đều phải được tiến hành giám định. - Trong trường hợp đặc biệt nếu tổ chức bảo hiểm không thực hiện được lập biên bản giám định thì có thể căn cứ vào biên bản của cơ quan chức năng, ảnh chụp, hiện vật thu được, khai báo của chủ xe và kết quả điều tra. - Quá trình giám định phải có mặt và ký xác nhận của chủ xe, chủ tài sản bị thiệt hại hoặc người có trách nhiệm được uỷ quyền quản lý sử dụng. - Mục tiêu của giám định là để xác định nguyên nhân tai nạn từ đó xác định trách nhiệm của bảo hiểm, đánh giá xác định thiệt hại cho việc bồi thường được nhanh chóng, giúp việc tổng hợp nguyên nhân gây tai nạn để có biện pháp phòng ngừa. - Yêu cầu của biên bản giám định phải khách quan, tỉ mỉ thể hiện đầy đủ chi tiết những thiệt hại do tai nạn, đồng thời đề xuất phương án khắc phục thiệt hại hợp lý và kinh tế nhất. Nhiệm vụ của giám định viên: - Trong trường hợp có cảnh sát giao thông đến giám định tai nạn thì giám định viên phải phối hợp với cơ quan điều tra và chủ xe, thu thập tài liệu cùng kết luận điều tra để xác định phạm vi và trách nhiệm của bảo hiểm, nếu không có cảnh sát đến điều tra thì giám định viên phải tự điều tra lập biên bản phản ánh đầy đủ, trung thực, khách quan thiệt hại. - Nhận định sơ bộ nguyên nhân tai nạn và đề xuất phương án khắc phục. - Hướng dẫn chủ xe khắc phục hậu quả tai nạn và thu thập hồ sơ khiếu nại bồi thường. Khi xe bị tai nạn chủ xe phải kịp thời báo cho công an và Công ty bảo hiểm biết để kịp thời giám định. Công tác giám định cần chú ý những vấn đề sau: - Phối hợp với công an, cảnh sát giao thông tiến hành giám định hiện trường sau khi xảy ra tai nạn. Kết luận chính xác nguyên nhân xảy ra tai nạn, mức độ lỗi của các bên liên quan trong vụ tai nạn. - Tranh thủ ý kiến của chủ xe và lời khai báo của nhân chứng qua tờ khai tai nạn kết hợp với thực tế hiện trường, nghiên cứu kỹ lưỡng những tài liệu cần thiết và xét lại 1 lần nữa để đi đến kết luận cuối cùng nguyên nhân của tai nạn. - Đối chiếu thực tế vụ tai nạn đã được xác minh với quy tắc và điều khoản bảo hiểm, có kết luận chung sơ bộ để đi đến giải quyết bồi thường. - Tiến hành xác minh thiệt hại đối với người thứ ba, những thiệt hại không thuộc bên thứ ba thì không cần thiết phải giám định. - Tận dụng các khả năng hiện có để hạn chế mức thấp nhất hậu quả của tai nạn như: cấp cứu nạn nhân kịp thời, bảo quản, khắc phục tài sản bị hư hỏng. Yêu cầu cuối cùng của khâu giám định là kết luận xem vụ tai nạn có thuộc phạm vi bồi thường hay không. Nếu có thì hoàn tất hồ sơ để chuẩn bị bồi thường. 2.2. Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm Bồi thường là khâu cuối cùng hoàn thiện sản phẩm bảo hiểm, đây là khâu có ảnh hưởng rất lớn đến tính hấp dẫn của sản phẩm cũng như uy tín của Công ty. Nếu công tác này được thực hiện tốt sẽ góp phần tuyên truyền, quảng cáo cho Công ty. Kết quả bồi thường là cơ sở để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Khi tai nạn xảy ra có phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ ba và trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm thì chủ xe phải gửi hồ sơ khiếu nại bồi thường cho Công ty bảo hiểm, hồ sơ phải đầy đủ, rõ ràng. Bao gồm những giấy tờ sau: - Khiếu nại của bên thứ ba. - Giấy chứng nhận bảo hiểm. - Tờ khai tai nạn của bên thứ ba. - Bản kết luận điều tra tai nạn. - Biên bản hoà giải (nếu có). - Quyết định của toà án (nếu có). - Bản sao bằng lái xe và tờ khai tai nạn của chủ xe. - Các chứng từ hoá đơn làm cơ sở cho việc bồi thường như: Viện phí, mai táng phí, hay giấy chứng nhận thu nhập…. Sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại bồi thường, Công ty bảo hiểm sẽ tiến hành giám định, xác nhận thiệt hại thực tế của bên thứ ba và bồi thường. Tuỳ theo thiệt hại của bên thứ ba là thiệt hại về tài sản hay con người mà việc tính toán dựa theo những căn cứ khác nhau. Thiệt hại của bên thứ ba thường bao gồm: Thiệt hại về tài sản Tài sản bị hư hỏng, bị mất, hoặc bị huỷ hoại, thiệt hại có liên quan đến việc sử dụng tài sản và các chi phí hợp lý để sửa chữa, khôi phục đưa tài sản về trạng thái ban đầu. Tất cả các trường hợp đều phải tính khấu hao theo thời gian sử dụng: Giá trị thiệt hại = Giá mua mới – Mức khấu hao (nguyên giá) Giá trị thiệt hại phải tương đối lớn thì bảo hiểm sẽ tiến hành giám định với sự có mặt của chủ xe để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại của tài sản, hoặc chọn giám định viên chuyên nghiệp để giám định. Với những vụ thiệt hại nhỏ bảo hiểm có thể căn cứ vào các giấy tờ từ phía chủ xe để xét bồi thường. Giá trị thiệt hại được tính theo giá cả trên thị trường tại thời điểm tổn thất. Thiệt hại về con người. Bao gồm: sức khoẻ và tính mạng. Đây là thiệt hại có ảnh hưởng lớn đến gia đình và bản thân nạn nhân. Nạn nhân bị thương có thể dẫn đến thương tật suốt đời, mất khả năng lao động, hoặc bị tử vong…Điều này ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của nạn nhân, thậm chí là gây mất thu nhập. Thiệt hại về tính mạng và sức khoẻ là rất khó lượng hoá được một cách chính xác tuyệt đối vì sức khoẻ của con người là thứ vô giá. Do đó, chúng ta cần phải căn cứ vào những thiệt hại do thu nhập giảm sút hoặc bị mất hay những chi phí bỏ ra về phía nạn nhân. - Những thiệt hại về sức khoẻ bao gồm: + Các chi phí hợp lý cho công việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ và các chức năng bị mất hoặc giảm sút như: chi phí cấp cứu, tiền hao phí vật chất và các chi phí y tế khác (thuốc men, dịch truyền, chi phí chiếu chụp X quang…) + Chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc bệnh nhân (nếu có theo yêu cầu của bác sĩ trong trường hợp bệnh nhân bị nguy kịch) và khoản tiền cấp dưỡng cho người nhà bệnh nhân có nghĩa vụ nuôi dưỡng. + Khoản thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút của người đó. Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa mức thu nhập trước và sau khi điều trị do tai nạn của người thứ ba. Thu nhập bị mất được xác định trong trường hợp bệnh nhân điều trị nội trú do hậu qủa của tai nạn. Nếu khoản thu nhập này không xác định được thì sẽ căn cứ vào mức lương tối thiểu hiện hành (khoản thiệt hại này không bao gồm những thu nhập do làm ăn phi pháp mà có). + Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. - Những thiệt hại về tính mạng của người thứ ba bao gồm: + Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc, cứu chữa người thứ ba trước khi chết. + Chi phí hợp lý cho việc mai táng người thứ ba (những chi phí do hủ tục sẽ không được thanh toán). + Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải nuôi dưỡng (vợ, chồng, con cái, bố mẹ…đặc biệt trong trường hợp người thứ ba là lao động chính trong gia đình). Khoản tiền trợ cấp này được xác định tuỳ theo quy định của mỗi quốc gia, tuy nhiên sẽ được tăng thêm nếu hoàn cảnh gia đình thực sự khó khăn. Như vậy, toàn bộ thiệt hại của bên thứ ba sẽ được xác định: Thiệt hại thực tế = Thiệt hại về + Thiệt hại của bên thứ ba tài sản về người Việc xác định số tiền bồi thường dựa trên 2 yếu tố là: + Thiệt hại thực tế của bên thư ba. + Mức độ lỗi của chủ xe trong vụ tai nạn. Số tiền bồi thường được xác định: Số tiền bồi thường = Lỗi của chủ xe x Thiệt hại bên thứ ba Có nhiều trường hợp người thứ ba là người lao động không có thu nhập (trẻ em chưa đến tuổi lao động, người tàn tật…) hoặc người thứ ba là người có thu nhập thấp, là những người thuộc đối tượng chính sách của Nhà nước… nếu người thứ ba bị chết thì gia đình của họ cũng không được hưởng các khoản mất, giảm thu nhập do khi còn sống người này không phải nuôi dưỡng người khác. Trong trường hợp này thì một khoản trợ cấp mang tính chất nhân đạo sẽ được trả. Khi nguyên nhân xảy ra tai nạn có cả lỗi của người khác gây thiệt hại cho bên thứ ba thì: Số tiền bồi thường = (Lỗi của chủ xe + Lỗi khác) x Thiệt hại của bên thứ ba Sau đó Công ty bảo hiểm có quyền đòi lại người khác số thiệt hại do họ gây ra theo mức độ lỗi của họ. Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường theo thiệt hại thực tế nhưng số tiền bảo hiểm tối đa không vượt quá mức giới hạn trách nhiệm của bảo hiểm. Trong quá trình bồi thường khó tránh khỏi những trở ngại dẫn đến những sai sót, đó là hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm, khi đó Công ty bảo hiểm có quyền đòi lại số tiền đã bồi thường nếu phát hiện thấy sự gian lận, bằng cách phối hợp với các cơ quan chức năng, thành lập các bộ phận theo dõi, kiểm tra và giám sát để phát hiện kịp thời. Nhìn chung, trong khâu giám định và bồi thường trách nhiệm của các Công ty bảo hiểm là giúp đỡ kịp thời các đơn vị chủ xe khi có tai nạn xảy đến, trợ giúp các đơn vị này các thiết bị phòng tránh rủi ro, tư vấn các biện pháp hạn chế rủi ro. Có sự khen thưởng, khích lệ đối với các đơn vị thực hiện tốt biện pháp phòng ngừa. Đồng thời để hạn chế rủi ro, các Công ty bảo hiểm cũng phải có sự phân tích thống kê một cách chính xác, tỉ mỉ những nguyên nhân dẫn đến tai nạn từ đó rút kinh nghiệm và khuyến cáo người tham gia chấp hành nghiêm chỉnh Luật lệ giao thông. Việc thanh toán bồi thường phải được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác ngay sau khi chủ xe có đày đủ các chứng từ. Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm được xác định trước pháp luật Nhà nước là bồi thường cho chủ xe khi có tai nạn xảy ra, kể cả trường hợp chủ xe đã thanh toán bồi thường cho nạn nhân hay chưa thanh toán. Thanh toán trách nhiệm hợp đồng của bảo hiểm với chủ xe luôn được gọi là thanh toán bồi thường của bảo hiểm. Phần II Thực trạng triển khai bảo hiểm vật chất xe và tnds của chủ xe đối với người thứ ba tại công ty PTI hải phòng. i. Một vài nét về công ty pti hải phòng. 1. Quá trình hình thành và phát triển. 1.1. Năm thành lập Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI) thành lập cuối năm 1998. Vốn điều lệ là 30 tỷ đồng (trong đó các cổ đông là doanh nghiệp nhà nước đóng góp). Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện Hải Phòng (PTI Hải Phòng) là một chi nhánh của tổng công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện, được thành lập năm 2001. Địa bàn hoạt động chính của Công ty là các tỉnh, thành phố thuộc khu vực phía đông bắc như: Hải Phòng, Quảng Ninh, HảI Dương, Hưng Yên… Kể từ năm thành lập đến nay Công ty đã có rất nhiều cố gắng trong hoạt động kinh doanh nhằm chiếm lĩnh thị trường bảo hiểm tại khu vực, song do trên địa bàn từ trước đã có một số Công ty bảo hiểm lớn ra đời như: Bảo Việt, PJCO, Bảo Minh,… cho nên PTI Hải Phòng gặp rất nhiều khó khăn. Trong thời gian sắp tới, Công ty cần nỗ lực phấn đấu hơn nữa để đạt được những mục tiêu mà Tổng Công ty giao phó. - Tên công ty: Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện Hải Phòng - Tên kinh doanh : PTI Hải Phòng - Giám đốc hiên nay: Bùi Xuân Thu 1.2. Mô hình tổ chức của công ty Doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều loại, mỗi loại có đặc điểm riêng, do đó không nhất thiết có mô hình giống nhau. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đều có các trụ sở chính đặt tại các thành phố là địa bàn chính của doanh nghiệp và các văn phòng chi nhánh ở các địa phương khác trong nước, hoặc nước ngoài. Trụ sở chính hay văn phòng chính của doanh nghiệp là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và điều hành các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như các hoạt động đối ngoại của doanh nghiệp. Văn phòng chi nhánh (hoặc văn phòng đại diện) có trách nhiệm thực hiện các hoạt động kinh doanh theo phân cấp của quản lý doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có quy mô khác nhau thì mô hình tổ chức cũng có nét khác nhau. Mô hình tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm gắn liên với đặc trưng kinh doanh của doanh nghiệp đó, và đồng thời phụ thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Đối với PTI Hải Phòng thì mô hình tổ chức gắn liền với các cổ đông, hội đồng quản trị. Được thể hiện qua sơ đồ 1 sau: Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức công ty bảo hiểm cổ phần Đại hội cổ đông Hội đồng quản trị Phó TGĐ (hoặc phó GĐ) Tổng giám đốc (hoặc giám đốc) Phó TGĐ (hoặc phó GĐ) P. Tài sản Chi nhánh A P. Phi hàng hải Chi nhánh B VP. Khu vực 1 Chi nhánh C Tổng đại lý, đại lý BH VP. Khu vực 2 Chi nhánh D P. Tổng hợp Chi nhánh E P. QL Nghiệp vụ Chi nhánh F P. BH Hàng hải Chi nhánh G P. TBH Chi nhánh H P. Đầu tư tín dụng P. Thanh tra pháp chế P. Kế toán Phòng TCCB 1.3. Cơ cấu phòng bảo hiểm xe cơ giới Bao gồm: - Trưởng phòng - Phó phòng - 4 nhân viên 2. Đánh giá hoạt động kinh doanh năm 2004 2.1. Đánh giá tổng quan a. Khách quan Nhìn chung, thị trường bảo hiểm khu vực có tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình. Địa bàn chi nhánh quản lý có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm mạnh và chiếm thị phần lớn từ nhiều năm nay và các nghiệp vụ bảo hiểm cũng đa dang, phong phú hơn, nhiều hơn, đồng thời có mối quan hệ gắn bó hơn với các doanh nghiệp. Hầu hết các đơn vị kinh doanh lớn, đã hoạt động lâu năm đều đang tham gia bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm ra đời trước. Do vậy, trong năm 2004 tuy giá trị doanh thu ngoài ngành có tăng đáng kể, nhưng chủ yếu là doanh thu từ các khách hàng nhỏ , lẻ. Tỷ trong của PTI trên thị trường còn thấp. b. Chủ quan - Sự phối hợp giữa công ty, các phòng ban nghiệp vụ với chi nhánh tương đối tốt. - Bộ máy tổ chức chi nhánh đã được điều chỉnh nên hoạt động có hiệu quả hơn, các bộ phận cũng được cải tiến phù hợp với điều kiện quản lý và kinh doanh với tình hình thực tế như: phòng qiản lý và khai thác trong cổ đông, phòng quản lý và khai thác ngoài cổ đông, nên không bị chồng chéo trong khai thác và quản lý. - Lao động sắp xếp tương đối hợp lý, bổ sung CBCNV giữa các bộ phận phù hợp với từng thời ký của kinh doanh, phù hợp với khả năng của mỗi CBCNV, đã có sự phối hợp giữa các bộ phận. Năm 2004, chi nhánh đã áp dụng một số cơ chế để tăng hiệu quả lao động, làm đòn bẩy gắn nhiệm vụ cũng như quyền lợi, trách nhiệm của CBCNV nên đã phát huy được thế mạnh. - Tận dụng mọi mối quan hệ sẵn có cũng như tạo dựng và thiết lập các mối quan hệ qua môi giới, bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm thu hút khách hàng, chú trọng các khách hàng tiềm năng và cũng không bỏ qua các khách hàng nhỏ lẻ. Đặc biệt, chi nhánh thể hiện chất lượng dịch vụ trong công tác phục vụ tận tình, chu đáo, giải quyết bồi thường các tổn thất một cách nhanh chóng, chính xác, thuận lợi. Do đó, đã đạt được tỷ lệ mức tăng trưởng khá. - Thường xuyên điều tra khách hàng tiềm năng để khai thác có hiệu quả, đánh giá rủi ro, phân loại khách hàng, nhằn hạn chế những cá nhân, đơn vị khách hàng tham gia bảo hiểm với mục đích cơ hội trục lợi. - Tăng cường giao lưu với khách hàng, khách hàng trong và ngoài ngành bưu chính viễn thông bằng nhiều hình thức. - Thực hiện công tác đề phòng hạn chế tổn thất tập trung có trọng điểm đối với các đơn vị tham gia bảo hiểm có doanh thu lớn, để vừa đảm bảo được mục tiêu kinh doanh cũng như hạn chế được tổn thất. - Tăng cường công tác bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cho CBCNV. - Công tác tuyên truyền quảng cáo: được triển khai bằng nhiều hình thức như in ấn tài liệu, báo chí … 2.2. Kết quả kinh doanh bảo hiểm a. Về doanh thu phí: 12.695 triệu đồng đạt 111% kế hoạch giao, tăng so với năm 2003. Trong đó: - Trong cổ đông: 9.983 triệu đồng chiếm 78,64% tổng doanh thu thực thu - Ngoài cổ đông: 2.712 triệu đồng chiếm 21,36% tổng doanh thu thực thu Trong năm 2004, chi nhánh được công ty phân thêm cho 4 tỉnh để quản lý và khai thác, chi nhánh đã quản lý và khai thác tốt, doanh thu hầu hết đều tăng so với năm 2003. Nhưng thực tế doanh thu của 4 bưu điện tỉnh công ty giao cho chi nhánh quản lý khai thác được doanh thu phát sinh trên 1,7 tỷ đồng trong năm 2004 thực thu được 1.542 triệu đồng, chiếm 12,25% tổng doanh thu. 4 bưu điện tỉnh được giao thêm và bưu điện Thái Bình chủ yếu mới khai thác được một phần nhỏ thiết bị điện tử và ô tô còn bảo hiểm con người chưa khai thác được. Riêng bưu điện Thanh Hoá, bưu điện Thái Bình thì ô tô mua bảo hiểm tại địa phương. Phần lớn doanh thu trong ngành là có sự đóng góp lớn của bưu điện hải Phòng, Quảng Ninh. Phân tích theo từng nghiệp vụ Bảo hiểm thiết bị điện tử Đây là loại bảo hiểm chiếm tỷ lệ doanh thu lớn chiếm 62,74% tổng doanh thu, 100% là khách hàng trong ngành bưu chính viễn thông, bưu điện Hải Phòng, bưu điện Quảng Ninh là những đơn vị tăng và phát triển tốt, tăng gần như ở mức tối đa. Còn lại 7 bưu điện tỉnh tham gia ở mức độ hạn chế, hoặc không đáng kể, nên tỷ lệ tăng chung trong nghiệp vụ này so với kế hoạch chỉ tăng ở mức 6%. Với nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT được xác định, đây là nghiệp vụ chủ yếu, quan trọng nhất, hiệu quả kinh doanh cao, tỷ lệ phí cao, ổn định, tổn thấ ở mức thấp. Năm 2005, cần chú trọng bám sát, chăm sóc khách hàng, chú trọng bóc tách đơn vị rủi ro, bồi thường kịp thời, nắm chắc các diễn biến về tăng, giảm tài sản cũng như số thiết bị các đơn vị hiện có nhưng chưa tham gia bảo hiểm, hoặc số tài sản mới đã đưa vào sử dụng nhưng chưa tham gia bảo hiểm. Vận động các đơn vị tham gia giá trị bảo hiểm theo nguyên giá, những thiết bị có thể tham gia thêm loại hình bảo hiểm để đảm bảo an toàn cho thiết bị. Tích cực đầu tư đề phòng hạn chế tổn thất có trọng điểm cho các đơn vị có doanh thu cao, để hạn chế tổn thất, có như vậy sẽ đảm bảo được mục tiêu kinh doanh của chi nhánh. Bảo hiểm xây dựng lặp đặt Đây là loại hình bảo hiểm khó tăng trưởng đều trong năm kế hoạch. Năm 2004, chi nhánh đã tích cực triển khai bám sát các dự án, nhưng thực tế trong ngành các bưu điện thuộc địa bàn quản lý đầu tư xây dựng ít. Khai tách ngoài ngành gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên doanh thu nghiệp vụ này so với kế hoạch cũng đạt được 125%. Thành phố Hải Phòng được công nhận là đô thị loại I cấp quốc gia, nên năm 2005 dự kiến xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ phát triển mạnh. Do vậy, chi nhánh chú trọng khai thác các dự án đầu tư đưa mức tăng trưởng về nghiệp vụ này tăng cao để hỗ trợ các nghiệp vụ khác. Bảo hiểm hoả hoạn Chỉ tiêu này đạt 173% so với kế hoạch và so với năm 2003 đạt 391%. Mức tăng trưởng này là do bóc tách một số tài sản trước đây để chung với bảo hiểm TBĐT nay chuyển sang bảo hiểm cháy, nổ của các bưu điện Hải Phòng, Quảng Ninh, viện điều dưỡng Đồ Sơn. Những đơn vị ngoài ngành chỉ tham gia nhỏ, lẻ. Mặt khác, trên địa bàn bảo hiểm PJICO có uy tín chuyên ngành bảo hiểm hoả hoạn từ lâu, hầu hết các đơn vị có tham gia bảo hiểm cháy, nổ tại Hải Phòng hoặc các đơn vị trong ngành xăng dầu đều là bạn hàng lâu năm của công ty này. Do đó, việc triển khai bảo hiểm hoả hoạn với khách hàng ngoài ngành gặp nhiều khó khăn. Năm 2005, chi nhánh tiếp tục bóc tách những tài sản trước đây nằm trong bảo hiểm TBĐT để chuyển sang bảo hiểm cháy, nổ theo đúng nghiệp vụ bảo hiểm đồng thời cần duy trì các hợp đồng đang thực hiện và khai thác thêm các hợp đồng mới, tiếp tục xem xét, khuyến khích các khách hàng ngoài cổ đông tham gia bảo hiểm cháy, nổ. Bảo hiểm hàng hoá Tuy Hải Phòng là cảng biển lớn nhưng chi nhánh lại chưa phát huy mạnh được nghiệp vụ bảo hiểm này vì các doanh nghiệp có kim ngạch xuất, nhập khẩu lớn lại có trụ sở chính tại Hà Nội, nên việc tiếp cận khai thác khó khăn. Trong năm, khai thác chỉ đạt 71% so với kế hoạch. Loại hình bảo hiểm này mang tính rủi ro cao, nhưng PTI Hải Phòng chưa có tổn thất. Năm 2005, chi nhánh sẽ tăng cường tiếp cận khai thác để nghiệp vụ này có mức tăng trưởng cao hơn. Bảo hiểm xe cơ giới Nhìn chung, chi nhánh triển khai tốt đối với cả khách hàng trong và ngoài cổ đông. Mức tham gia trong cổ đông cao, chủ yếu là các bưu điện như: Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, Nam Định, Nam Hà (100% số xe hiện có tham gia). Bưu điện Thái Bình, Thanh Hoá tham gia bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm địa phương từ trớc để giữ mối quan hệ nên chi nhánh không khai thác được. Khách hàng ngoài cổ đông tham gia tăng, tuy nhiên mới chỉ tăng ở mức 20,43 % so với kế hoạch. Việc kiểm soát rủi ro của khách hàng ở ngoài cổ đông rất phức tạp, đặc biệt những công ty TNHH hoặc xe tư nhân thường có tổn thất cao. Năm 2005, phải giữ được mức doanh thu khách hàng trong ngành BCVT. Mặt khác, tăng cường khai thác ngoài ngành hơn nữa, chú trọng các đơn vị thuộc khối hành chính sự nghiệp, văn phòng, doanh nghiệp nhà nước, liên doanh, vì các đơn vị này có độ rủi ro thấp. Chú trọng khâu kiểm tra đánh giá rủi ro, loại trừ những khách hàng tham gia bảo hiểm có xu hướng trục lợi, hoặc số tai nạn nhỏ nhưng số lượng thường xuyên. Đồng thời tăng cường công tác điều tra, giám định, quản lý chặt chẽ hơn, nahwmf hạn chế tổn thất ở mức có thể chấp nhận được để đảm bảo được hiệu quả kinh doanh. Bảo hiểm con người Năm 2004 chi nhánh đã khai thác được triệt để số lượng CBCNV của 4 bưu điện thành là Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên với mức phí 125.000 đ/1 người/1 năm; còn 5 bưu điện tỉnh vẫn chưa khai thác được. Ngoài cổ đông: đã có nhiều biện pháp để thúc đẩy phát triển mạnh nghiệp vụ này. Tuy chưa đạt được mong muốn nhưng khai thác được những hợp đồng bảo hiểm tai nạn con người có doanh thu trên chục triệu đồng của một số doanh nghiệp như: công ty đường bộ Hải Phòng, nhà máy đóng tàu Sông Cấm, Cty cổ phần giầy Long Sơn. Nghiệp vụ bảo hiểm toàn bộ học sinh chi nhánh triển khai được 2 năm nay, tuy khai thác khó khăn, chi phí lớn nhưng đã thu hút được trên 50 trường học tham gia với số lượng gần 10.000 học sinh tham gia, có trường tham gia với mức phí cao từ 30.000 đ - 40.000 đ/ 1 học sinh/ năm và có doanh thu 220 triệu đồng chiểm tỷ trọng 16,28% doanh thu bảo hiểm con người. Về nghiệp vụ này, năm 2005 phải giữ nguyên mức phí như năm 2004 đỗi với khách hàng trong cổ đông, đồng thời tăng cường tiếp cận triển khai hơn nữa đối với khách hàng ngoài cổ đông, giữ vững khách hàng hiện có và phát triển thêm nhiều khách hàng mới, nhất là tập trung vào các cơ quan xí nghiệp và các trường học tại nội thành. Tóm lại, năm 2004 chi nhánh Hải Phòng đã có cố gắng để khẳng định vị trí của mình. Phần lớn các hợp đồng ngoài ngành năm 2004 chi nhánh có được chủ yếu là do thu hút một phần thị phần của các cty bảo hiểm khác trên địa bàn. Từ đó, từng bước tăng dần thị phần tại địa bàn khu vực, khẳng định uy tín của PTI đối với khách hàng cũng như với doanh nghiệp BH khác. b. Loại hình bảo hiểm: - Bảo hiểm tài sản thiết bị điện tử: 7.903 triệu đồng đạt 106% so với kế hoạch, chiếm tỷ trọng 62,74% so với doanh thu và tăng 94% so với năm 2003. - Bảo hiểm XD-LĐ: 283 triệu đồng đạt 125% so với kế hoạch chiếm tỷ trọng 2,25% với tổng doanh thu và tăng 65% so với năm 2003. - Bảo hiểm cháy: 569 triệu đồng đạt 173% so với kế hoạch, chiếm tỷ trọng 4,51% so với tổng doanh thu và tăng 291% so với năm 2003 chủ yếu là do bóc tách chuyển từ bảo hiểm TBĐT tại các bưu điện. - Bảo hiểm hàng hoá: 251,6 triệu đồng đạt 72,77% so với kế hoạch, chiếm tỷ trọng 1,98% so với tổng doanh thu và đạt 68,36% so với năm 2003. - Bảo hiểm xe cơ giới: 2.620 triệu đồng đạt 129,5% so với kế hoạch, chiếm tỷ trọng 18,24% so với tổng doanh thu và tăng 65% so với năm 2003 + Trong cổ đông: 759,6 triệu đồng chiếm tỷ trọng 32,8% so với tổng doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới + Ngoài cổ đông: 1.556,4 triệu đồng chiếm tỷ trọng 67,2% so với tổng doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới - Bảo hiểm con người: 1.372 triệu đồng đạt 103,15% so với kế hoạch, chiếm tỷ trọng 10,73% so với tổng doanh thu và tăng 29,9% so với năm 2003 + Trong cổ đông: 672 triệu đồng chiếm tỷ trọng 48,98% so với tổng doanh thu phí bảo hiểm con người + Ngoài cổ đông: 700 triệu đồng chiếm tỷ trọng 51,02% so với tổng doanh thu phí bảo hiểm con người Nhìn chung, khai thác các loại nghiệp vụ bảo hiểm đều tăng so với năm 2003, riêng bảo hiểm hàng hoá còn quá ít. 2.3. Về chi bồi thường Năm 2004, tổng số vụ tổn thất đã bối thường 833 vụ với số tiền bồi thường 2,4 tỷ đồng, chiếm 18,9% doanh thu trong đó: - Tổn thất tài sản kỹ thuật: phát sinh 2004 là 32 vụ đã bồi thường 19 vụ, số tiền bồi thường 444 triệu đồng. - Xe cơ giới: bồi thường 167 vụ, số tiền bồi thường 1.384 triệu đồng - Con người: bồi thường 666 vụ với số tiền 584,5 triệu đồng Trong đó bồi thường toàn diện học sinh 243 vụ với số tiền là 75 triệu đồng. Những vụ chưa bồi thường được là do khách hàng chưa hoàn tất được thủ tục hoặc các vấn đề liên quan đến dân sự và các cơ quan chức năng giải quyết. 2.4. Công tác tổ chức và quản lý a. Công tác quản lý cán bộ và nghiệp vụ Căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh, cũng như khả năng của từng CBCNV để giao nhiệm vụ nên đã đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của chi nhánh. Đồng thời, giao nhiệm vụ cho phòng tài sản quản lý và khái tách tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm của khách hàng trong cổ đông, không còn sự bất hợp lý như trước đây là phân quản lý và khai tách theo nghiệp vụ, tránh được tình trạng một Bưu điện tỉnh cả 2 phòng đều đến khai thác. b. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Thường xuyên tổ chức tốt công tác đào tạo bổ sung các khâu nghiệp vụ dưới hình thức toạ đàm hoặc giao lưu, học nghiệp vụ, phổ biến các quy tắc, các văn bản dưới luật tại chi nhánh, các lớp bổ túc tại địa phương và các lớp do cty tổ chức. Trong năm đã tổ chức tốt việc đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo cho 11 đại lý bảo hiểm của chi nhánh. c. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm Chi nhánh đảm bảo các mục chi phí theo đúng quy định của cty. Tổng chi phí quản lý năm 2004: 2.319.954.540 đồng so với doanh thu đạt tỷ lệ 18,11%. Nộp thuế nhà nước: 968.185.651 đồng. Tuy nhiên về tỷ lệ chi phí cũng rất khó khăn chưa đáp ứng được nhu cầu khai thác bởi vì do tính chất cạnh tranh để thu hút thị phần. Chi nhánh tiếp cận triển khai bảo hiểm toàn diện học sinh, loại bảo hiểm này có sự cạnh tranh rất mạnh vì hiện tại trường học nào cũng có từ 2-3 doanh nghiệp BH đang quản lý, nên để thu hút được dịch vụ chi phí rất lớn. d. Trang bị phục vụ sản xuất Chi nhánh đã tiến hành mua sắm tài sản theo kế hoạch đã được cty duyệt, chi không vượt mức quy định, đã mua sắm tài sản phù hợp với nhu cầu sử dụng của người lao động phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. e. Các công tác khác - Chi bộ, chuyên môn, công đoàn, Đoàn thanh niên luôn phối hợp trong mọi lĩnh vực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh cũng như đảm bảo được quyền lợi của người lao động về điều kiện công tác và thu nhập của CBCNV năm sau cao hơn năm trước. - Đoàn thanh niên thường xuyên kết hợp chặt chẽ với công đoàn tổ chức giao lưu nhiều hoạt động thể thao, văn nghệ với khách hàng tạo tiền đề cho công tác khai thác nghiệp vụ BH được thuận lợi. - Tổ chức cho toàn thể CBCNV được học an toàn lao động và phòng cháy chữa cháy, trang bị PCCC đầy đủ. 100% CBCNV được cấp chứng chỉ về PCCC. - Đảm bảo tốt quyền lợi của CBCNV như: bảo hiểm sức khoẻ, BHXH, BHYT … - Phối hợp với công đoàn tổ chức sinh nhật, lễ tết, tham quan nghỉ mát … 2.5. Những kết quả đạt được và tồn tại cần khắc phục Trên cơ sở phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2004, chi nhánh đã rút ra được những điểm mạnh để tiếp tục phát huy, những điểm yếu cần được bổ khuyết trong năm 2005. a. Kết quả - Có nhiều cố gắng trong công tác tiếp cận khách hàng nên đến nay chi nhánh nhận được sự ủng hộ của rất nhiều khách hàng, đặc biệt là khách hàng trong cổ đông tham gia bảo hiểm tài sản với giá trị rất lớn, tăng thêm loại hình bảo hiểm như bưu điện Hải Phòng, Quảng Ninh. - Tích cực thâm nhập thị trường bảo hiểm, triển khai thử nghiệm một số loại hình bảo hiểm mới như bảo hiểm khách du lịch, bảo hiểm toàn diện học sinh, đến nay đã tăng trưởng khá; ngoài ra, chi nhánh cũng đã tạo được thế đứng tại khu vực bằng việc tham gia bảo hiểm một số dự án với các doanh nghiệp BH khác. - Nghiêm chỉnh thực hiện các nhiệm vụ chức năng công ty giao, tìm tòi áp dụng những biện pháp quản lý nhằm thúc đẩy tiến độ công việc theo chiều hướng tốt hơn. b. Tồn tại và nguyên nhân - Chưa khai thác được triệt để các loại hình BH trong cổ đông và giá trị tham gia bảo hiểm còn thấp ở 7 bưu điện tỉnh thuộc địa bàn quản lý. - Chưa phát triển được nhiều khách hàng ngoài cổ đông có tiềm năng lớn mà chủ yếu là các đơn vị nhỏ. Hiện nay mới chỉ khai thác được một số khách hàng tại địa bàn tại Hải Phòng, các tỉnh khác còn hạn chế. - Trình độ quản lý, khai thác của CBCNV chưa đồng đều. ii. thực trạng triển khai bảo hiểm xe cơ giới tại công ty PTI HảI PHòNG 1. Công tác khai thác. Nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới được Công ty PTI Hải Phòng triển khai từ năm 2001. Khi mới triển khai nghiệp vụ gặp rất nhiều khó khăn do: - Là nghiệp vụ mới, kinh nghiệm quản lý, triển khai còn hạn chế. - Khách hàng chưa có thói quen trong việc sử dụng dịch vụ bảo hiểm và không quan tâm tới những tổn thất do tai nạn gây ra. - Mạng lưới khai thác, đại lý còn nhỏ hẹp. Theo thời gian, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới đã đứng vững và trở thành nghiệp vụ chủ đạo của Công ty. Đặc biệt trong những năm gần đây, sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần đã làm bùng nổ các phương tiện cơ giới vận tải chuyên dụng. Đây là điều kiện cần cho quy luật “ Số đông bù số ít ” trong kinh doanh bảo hiểm. Do vậy, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới có nhiều thuận lợi trong việc phát triển và mở rộng. Hiện nay, Công ty PTI Hải Phòng đang triển khai tất cả các loại hình của bảo hiểm xe cơ giới, bao gồm: - Các loại hình bảo hiểm xe cơ giới bắt buộc: Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba: Ngày 10/03/1998, Hội đồng Bộ trưởng ( Nay là Chính Phủ ) đã ban hành Nghị định 30/HĐBT quy định về chế độ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba dưới hình thức bắt buộc. Tại Việt Nam, nghiệp vụ này bao gồm: BH TNDS của chủ xe ô tô đối với người thứ ba. BH TNDS của chủ xe mô tô đối với người thứ ba. Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hành khách trên xe: Theo Nghị định 115/NĐCP ra ngày 17/12/1997 thì chủ xe bắt buộc phải tham gia BH TNDS của chủ xe cơ giới đối với hành khách theo hợp đồng vận chuyển hành khách. - Các loại hình bảo hiểm xe cơ giới tự nguyện: Bảo hiểm vật chất xe: Bảo hiểm vật chất ô tô. Bảo hiểm vật chất mô tô. BH TNDS của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá vận chuyển trên xe. Bảo hiểm tai nạn lái, phụ xe và người ngồi trên xe. Trong tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm, khai thác là khâu đầu tiên và hết sức quan trọng của một chu kì kinh doanh, có ý nghĩa quyết định đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới đây là khâu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì đây là nghiệp vụ bảo hiểm có rất nhiều tiềm năng cần được khai thác triệt để, khai thác tốt sẽ góp phần tăng số lượng phương tiện giao thông tham gia bảo hiểm, tuyên truyền, khuyến khích, vận động mọi người tham gia vì bảo hiểm suy cho cùng là để bảo vệ quyền lợi cho người tham gia. Việc khai thác được thực hiện có hiệu quả sẽ góp phần tăng phí thu để hình thành nên quỹ bảo hiểm dùng để chi trả, bồi thường, thanh toán cho các chi phí khác, tạo lợi nhuận cho Công ty. 1.1. Quy trình khai thác Lưu đồ quy trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới được thể hiện ở Phụ lục 1, bao gồm các bước sau: Bước 1: Tiếp thị, nhận đề nghị bảo hiểm. - Khai thác viên có nhiệm vụ thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, gửi hoặc trao đổi các thông tin nhằm giới thiệu về công ty, về các nghiệp vụ bảo hiểm và đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của khách hàng. - Khai thác viên chủ động khai thác nguồn tin từ khách hàng ( hoặc qua các cơ quan quản lý, đại lý, môi giới, cơ quan thông tin đại chúng), tìm cách gặp gỡ trực tiếp với những người chịu trách nhiệm chính trong doanh nghiệp về việc thu xếp bảo hiểm xe cơ giới để tư vấn cho khách hàng lựa chọn loại hình bảo hiểm phù hợp. - Nhận đề nghị bảo hiểm trực tiếp từ khách hàng, thông qua đại lý hoặc môi giới. Đề nghị này có thể bằng văn bản hoặc bằng các hình thức khác. Bước 2: Thu nhập, phân tích thông tin, điều tra rủi ro. Sau khi thu thập được các thông tin về khách hàng, khai thác viên cần: - Phân tích các thông tin: + Ngành nghề và lĩnh vực hoạt động, kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình trạng nợ phí của khách hàng. + Yêu cầu của khách hàngvề dịch vụ đang khai thác (số xe tham gia bảo hiểm, mục đích sử dụng, chủng loại, tình trạng xe, phạm vi vận chuyển, phạm vi bảo hiểm, điều kiện điều khoản, mức trách nhiệm bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phương thức thanh toán, phương thức bồi thường…). + Trước đây đã tham gia bảo hiểm chưa? Nếu có, đã tham gia bảo hiểm với công ty bảo hiểm nào? lý do tham gia tại PTI. + Tình hình tổn thất trước đây. Kết quả của các phân tích này sẽ là cơ sở để quyết định triển khai các bước tiếp theo. - Điều tra rủi ro: Khai thác viên đánh giá, điều tra rủi ro trên cơ sở xem xét. + Thời gian sử dụng của xe. + Tần suất và thời gian hoạt động của xe. + Phạm vi hoạt động của xe. + Chủng loại hàng hoá, cách thức vận chuyển hàng hoá(nếu có)… - Trong trường hợp cần thiết, đối với các đối tượng bảo hiểm phức tạp hoặc có khả năng xảy ra tổn thất lớn thì phải tổ chức giám định đánh giá, điều tra rủi ro hoặc thuê các cơ quan chức năng chuyên môn giám định. Bước 3: Xem xét phân cấp. Trên cơ sở kết quả phân tích các thông tin có liên quan ở bước 2, khai thác viên và lãnh đạo Đơn vị đánh giá quy mô và mức độ phức tạp của dịch vụ, đối chiếu với quy định về phân cấp khai thác để xác định các bước tiến hành tiếp theo. - Trường hợp dịch vụ bảo hiểm thuộc quyền phân cấp, đơn vị thực hiện bước tiếp theo như bước 4. - Trường hợp dịch vụ bảo hiểm không thuộc quyền phân cấp, đơn vị thực hiện bước tiếp theo như bước 2. Bước 4: Chào phí bảo hiểm. - Lên phương án chào phí bảo hiểm. + Khai thác viên lập phương án căn cứ vào: Nhu cầu bảo hiểm của khách hàng. Lịch sử tổn thất. Tình hình cạnh tranh và xu hướng của thị trường. Kết quả điều tra, đánh giá rủi ro và biên bản giám định điều tra rủi ro. + Để có phương án bảo hiểm gửi cho khách hàng, khai thác viên cần: Bàn bạc thảo luận với khách hàng để đưa ra các ý kiến tư vấn về quản lý rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất trong trường hợp cần thiêt. Lựa chọn điều kiện, điều khoản bảo hiểm thích. Nên đưa ra nhiều phương án để khách hàng lựa chọn và tư vấn hướng dẫn khách hàng thực hiện. Tính phí theo các điều kiện, điều khoản tương ứng. - Chào phí và đàm phán. + Khai thác viên thực hiện chào phí bảo hiểm với khách hàng. Việc chào phí bảo hiểm có thể thông qua từng bước tuỳ theo tình huống khai thác hoặc yêu cầu của khách hàng: Chào phí qua điện thoại. Gặp gỡ chào trực tiếp. Bằng văn bản: Fax, email, hoặc chuyển văn bản bằng các phương tiện khác. + Nội dung chính của bản chào phí: Tên, địa chỉ của người được bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, điều kiện thanh toán phí. Các quy tắc, điều kiện, điều khoản bảo hiểm dự kiến sẽ áp dụng… Thời hạn hiệu lực của bản chào phí. … + Đàm phán: việc đàm phán có thể được thực hiện trước, cùng lúc hoặc sau khi chào bảo hiểm cho khách hàng. Quá trình này có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi khách hàng xem xét chấp thuận hoặc từ chối. Bước 5: Theo dõi sự chấp nhận của khách hàng. - Tiếp tục bám sát khách hàng để nhận được các thông tin phản hồi về bản chào phí. - Nếu khách hàng cần thêm thông tin và có yêu cầu khác, khai thác viên xem xét khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Trong trường hợp đon vị khai thác không đủ thẩm quyền giải quyết các yêu cầu của khách hàng thì báo cáo Công ty để có phương án trả lời cho khách hàng. Bước 6: Tiếp nhận yêu cầu bảo hiểm chính thức từ khách hàng. - Khi khách hàng chấp thuận một phương án đã đàm phán, khai thác viên nhận yêu cầu bảo hiểm chính thức từ khách hàng. Yêu cầu bảo hiểm này có thể là giấy yêu cầu bảo hiểm theo mẫu của PTI hoặc các hình thức khác được quy định cụ thể theo hướng dẫn khai thác của từng nghiệp vụ. - Khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm của khách hàng, khai thác viên cần kiểm tra lại các nội dung trên giấy yêu cầu bảo hiểm. Nếu phát hiện còn sai sót hoặc chưa phù hợp, khai thác viên đề nghị khách hàng tự sửa và hoàn chỉnh lại. Giấy yêu cầu bảo hiểm phải có chữ ký của người có thẩm quyền, trường hợp pháp nhân phải có thêm con dấu. Bước 7: Phát hành hợp đồng bảo hiểm, chuyển giao cho khách hàng và lập hồ sơ lưu. - Khai thác viên tiến hành soạn thảo, trình ký hợp đồng bảo hiểm. Nội dung hợp đồng phải tuân thủ theo nội dung bản chào phí và các thoả thuận đã đàm phán. - Phát hành hợp đồng bảo hiểm theo hướng dẫn khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. - Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng và các bộ phận liên quan theo quy định của công ty. - Lưu hồ sơ: lưu bộ hồ sơ khai thác đầy đủ. Bước 8: Theo dõi việc thực hiện hợp đồng. - Thu phí và theo dõi thu phí. + Thu phí: Yêu cầu khách hàng thanh toán phí bảo hiểm đồng thời với việc chuyển giao hợp đồngbảo hiểm cho khách hàng. Phí bảo hiểm có thể trả theo các hình thức: Tiền mặt, séc. Chuyển khoản. Đối trừ. … Việc thu phí phải được thực hiện theo quy định thu chi tài chính của công ty. + Theo dõi thu phí và tình hình nợ đọng phí của khách hàng. Khai thác viên phải theo dõi chặt chẽ tình hình thanh toán phí bảo hiểm. Việc gia hạn thanh toán phí bảo hiểm và chấp nhận nợ phí được thực hiện theo quy định của công ty. - Theo dõi thực hiện hợp đồng. Sau khi phát hành và chuyển giao hợp đồng cho khách hàng, khai thác viên tiếp tục theo dõi tình hình thực hiện hợp đồng. + Quản lý hợp đồng: Đối với hợp đồng bảo hiểm dưới phân cấp: Khai thác viên lưu 1 bộ hồ sơ khai thác đầy đủ tai đơn vị. Đối với hợp đồng bảo hiểm trên phân cấp: Các đơn vị gửi về phòng Quản lý nghiệp vụ công ty 1 bộ hồ sơ khai thách đầy đủ (bản sao). + Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm phát sinh có sai xót hoặc khi khách hàng có những thay đổi hợp lý, cần phải tiến hành sửa đổi bổ sung hợp dồng bảo hiểm bằng giâý sửa đổi bổ sung. Việc phát hành văn bản sửa đổi bổ sung được tiến hành như phát hành hợp đồng bảo hiểm. + Trường hợp khách hàng yêu cầu hoàn phí hoặc trong 2 bên yêu cầu huỷ đơn, khai thác viên thực hiện theo đúng quy định của công ty. + Quản lý rủi ro và đề phòng hạn chế tổn thất: tiếp tục theo dõi quản lý hợp đồng, rủi ro nhận bảo hiểm. Tiến hành thực hiện đề phòng hạn chế tổn thất theo các quy định của công ty. + Theo dõi để bổ sung các thông tin có liên quan vào lý lịch khách hàng. 1.2. Kết quả khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới và TNDS của chủ xe đối với người thứ ba Khác với các loại sản phẩm khác, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm dịch vụ đặc biệt bởi nó chỉ là sự cam kết của Công ty PTI Hải Phòng với người tham gia(người mua) về việc bồi thường hay trả tiền bảo hiểm cho những tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm. Như vậy, bảo hiểm là sản phẩm vô hình mà cả người bán và người mua không thể cảm nhận được hình dáng, kích thước, màu sắc,... Hơn nữa sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không mong đợi bởi Công ty PTI Hải Phòng không mong đợi sự kiện bảo hiểm xảy ra để phải bồi thường và người tham gia bảo hiểm cũng không mong đợi sự kiện bảo hiểm xảy ra với mình để được nhận tiền bảo hiểm, họ mua bảo hiểm chỉ mong có một tấm lá chắn cho mình trong lúc không may gặp phải rủi ro. Bởi vậy, việc khai thác bảo hiểm rất khác so với việc khai thác các sản phẩm thông thường khác. Trước hết, cần nghiên cứu thị trường nhằm mục đích xác định nhu cầu trên thực tế của thị trường, khả năng của khách hàng, xu hướng của thị trường trong thời gian tới cũng như các đối thủ đang cạnh tranh với Công ty PTI Hải Phòng trên thị trường để có biện pháp thích hợp cho việc khai thác vừa đảm bảo hiệu quả cao và với chi phí thấp. Việc nghiên cứu thị trường bao gồm: - Xác định số lượng xe cơ giới trên địa bàn Hải Phòng, và một số tỉnh lân cận như Hải Dương, Quảng Ninh… cùng số xe đã tham gia bảo hiểm nhằm xem xét tiềm năng của Công ty mình có thể khai thác được bao nhiêu. - Xác định mức sống của dân cư trong khu vực là cao hay thấp để xác định mức trách nhiệm bảo hiểm nhằm đưa ra biểu phí phù hợp với khả năng tài chính của khách hàng cũng như đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. - Xác định mức độ nhận thức của dân cư về bảo hiểm để có kế hoạch tuyên truyền quảng cáo, một mặt đưa các thông tin cần thiết về sản phẩm đến cho khách hàng, mặt khác nâng cao nhận thức, tầm quan trọngcủa việc tham gia bảo hiểm xe cơ giới cho người dân. - Xem xét trên thị trường hiện có bao nhiêu Công ty bảo hiểm ?,cùng chiến lược khuyếch trương của họ để đưa ra đối sách thích hợp nhằm đảm bảo chiếm được thị phần lớn và kinh doanh có hiệu quả. Để tiến hành khai thác có 2 cách chủ yếu: - Trực tiếp: Người bảo hiểm trực tiếp đưa sản phẩm đến tay người mua thông qua cán bộ trực tiếp làm việc tại Công ty PTI Hải Phòng. Theo cách này, khách hàng có nhu cầu tham gia bảo hiểm sẽ đến trực tiếp Công ty PTI Hải Phòng để mua bảo hiểm. Như vậy Công ty có thể trực tiếp tìm hiểu nhu cầu của khách hàng cũng như mức phí ưa chuộng, mặt khác cung cấp các thông tin cần thiết cho khách hàng. Tuy nhiên cách khai thác này trên thực tế thường chỉ được số lượng nhỏ. Do đó người ta thường sử dụng cách thứ 2. - Gián tiếp: Thông qua môi giới hoặc đại lý. Môi giới bảo hiểm là một cá nhân hay tổ chức thực hiện hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn cho bên mua bảo hiểm về sản phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và các công việc liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới hiện nay ở PTI Hải Phòng chủ yếu thông qua mạng lưới đại lý. Đại lý bảo hiểm là một cá nhân hay tổ chức được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý để tiến hành mời chào, bán bảo hiểm, thu xếp ký kết hợp đồng bảo hiểm, thu phí bảo hiểm nhân danh doanh nghiệp bảo hiểm. Với mạng lưới chân rết, đại lý có thể đem sản phẩm tới tận tay khách hàng tại các cơ quan, doanh nghiệp hay có thể là tại gia đình tạo nên sự thuận tiện cho khách hàng khi muốn tham gia bảo hiểm. Qua các năm hoạt động, hiện nay Công ty đã có một đội ngũ đại lý có trình độ, thủ tục tham gia bảo hiểm ngày càng được đơn giản hoá, tạo điều kiên thuận lợi cho khách hàng. Một điểm đáng quan tâm khi khai thác bảo hiểm xe cơ giới khác với các loại hình bảo hiểm khác đó là: Trên cùng một xe cơ giới có thể triển khai cùng một lúc các nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng cũng như đạt hiệu quả khai thác cao, các khai thác viên của PTI Hải Phòng cần thuyết phục khách hàng tham gia nhiều nghiệp vụ bảo hiểm. Làm như vậy một mặt giảm được các chi phí khai thác trên một đầu xe, mặt khác công tác giải quyết bồi thường về sau cũng được dễ dàng hơn, tránh việc tổn thất do tai nạn của khách hàng nằm ngoài phạm vi bảo hiểm. Muốn vậy, các khai thác viên của PTI Hải Phòng cần giải thích cho khách hàng về phạm vi, trách nhiệm của nhà bảo hiểm trong mỗi nghiệp vụ, qua đó nêu ra các lợi ích khác nhau của việc tham gia bảo hiểm trong từng nghiệp vụ. Từ đó tự bản thân khách hàng thấy được quyền lợi của mình và sẽ nảy sinh nhu cầu tham gia tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới đang từng bước đạt được những kết quả đáng khích lệ. Số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm cũng như doanh thu phí bảo hiểm không ngừng gia tăng trong các năm. Điều đó được thể hiện qua số liệu bảng 3: Bảng 3: Tình hình khai thác bảo hiểm xe cơ giới tại PTI Hải Phòng giai đoạn 2001-2004 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số xe thực tế lưu hành Chiếc 121. 056 162.852 195.249 213.738 - xe máy Chiếc 110.651 151.815 183.357 201.182 - ôtô Chiếc 10.405 11.037 11.892 12.556 Số xe tham gia bảo hiểm Chiếc 982 2.313 5.275 8.055 - xe máy Chiếc - 108 2.174 3.892 - ôtô Chiếc 982 2.205 3.101 4.163 Doanh thu phí bảo hiểm Tr.đồng 757 1.411 2.620 3.980 - xe máy Tr.đồng - 12 182 314 - ôtô Tr.đồng 757 1.399 2.438 3.666 Tỷ lệ xe tham gia BH % 0,81 1,42 2,70 3,77 - xe máy % - 0,07 1,18 1,93 - ôtô % 9,44 19,98 26,08 33,15 Tốc độ tăng xe tham gia % - 135,53 128,06 52,70 - xe máy % - - 1912,96 79,02 - ôtô % - 124,54 40,63 34,25 Tốc độ tăng doanh thu % - 86,39 85,68 51,90 - xe máy % - - 1416,67 72,53 - ôtô % - 84,81 74,27 50,37 (Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm Công ty PTI Hải Phòng) Qua bảng ta thấy tỷ lệ tham gia bảo hiểm tăng dần qua các năm, đối với xe ôtô, trong năm 2001 tỷ lệ xe ôtô tham gia bảo hiểm là 9,44%, sang đến năm 2002 tỷ lệ này tăng lên là 19,98% đến năm 2003 tỷ lệ xe ôtô tham gia bảo hiểm lại tăng lên 26,08% và năm 2004 tăng là 33,15%. Trong năm 2005, PTI Hải Phòng cần phải có các biện pháp hiệu quả để thu hút thêm số lượng xe tham gia bảo hiểm cả ở trong ngành lẫn ngoài ngành. Riêng đối với xe máy, trong năm 2002, tỷ lệ xe máy tham gia bảo hiểm đạt 0,07%. Sang năm 2003, tỷ lệ xe máy tham gia bảo hiểm đạt 1,18% và năm 2004 tỷ lệ này đạt 1,93%. Tuy đây là nghiệp vụ bảo hiểm quan trọng nhưng số lượng xe máy tham gia còn rất thấp do trên địa bàn Hải Phòng các Công ty bảo hiểm ra đời sớm hơn đã chiếm thị phần quá lớn như Bảo Việt, PJICO,… Cho nên, trong năm 2005 PTI Hải Phòng cần phải tích cực hơn trong công tác khai thác và đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an để kiểm soát tốt số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm. Trong năm 2003, tốc độ tăng trưởng của xe máy tham gia bảo hiểm đạt 1912,96% so với năm 2002, điều này cho thấy tốc độ tăng là rất cao nhưng thực chất nó chỉ khẳng định bắt đầu từ năm 2003 mọi người mới biết đến PTI Hải Phòng và lúc này PTI Hải Phòng mới thực sự chiếm thị phần trong việc bán bảo hiểm cho xe máy. Sang năm 2004, tốc độ tăng trưởng đạt thêm 79,02% đây là kết quả đáng khích lệ vì năm 2004 là năm trên địa bàn Hải Phòng các Công ty bảo hiểm cạnh tranh với PTI Hải Phòng tập trung khai thác bảo hiểm TNDS của xe máy rất mạnh. Mục tiêu của PTI Hải Phòng trong năm 2005 này sẽ phải cố gắng nhiều hơn nữa nhằm chiếm được thị phần khả quan trong khai thác bảo hiểm TNDS đối với xe máy trên địa bàn Công ty hoạt động. Đối với xe ôtô trong năm 2002, tốc độ tăng trưởng của xe ôtô tham gia bảo hiểm đạt 124,54% so với năm 2001. Sang năm 2003, tốc độ tăng trưởng đạt 40,63%, tới năm 2004 tốc độ này là 34,25% đây là tốc độ chưa được khả quan. Cũng có thể nhận thấy tốc độ tăng trưởng của xe ôtô tham gia bảo hiểm qua các năm bao giờ cũng nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng của xe máy, điều này là do số lượng xe ôtô lưu hành có tốc độ tăng chậm hơn nhiều so với xe máy. Ta thấy tốc độ tăng trưởng xe ôtô tại PTI Hải Phòng ngày càng giảm, điều này chứng tỏ số lượng xe ôtô trong ngành đã tham gia bảo hiểm gần hết còn số lượng xe ôtô ngoài ngành tham gia bảo hiểm còn hạn chế. Thị trường bảo hiểm ôtô còn rất lớn, trong năm 2005 PTI Hải Phòng sẽ cần tăng cường công tác khai thác hơn nữa để đạt mức tăng trưởng khả quan hơn. Doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới qua các năm cũng có tăng đáng kể. Đối với xe máy, doanh thu năm 2002 là 12 triệu đồng, năm 2003 doanh thu đạt 182 triệu đồng tăng 1416,67% so với năm 2002, đến năm 2004 tăng lên 314 triệu đồng, tăng 72,53% so với năm 2003. Đối với xe ôtô, năm 2001 doanh thu đạt 757 triệu đồng, sang năm 2002 đạt 1.399 triệu đồng, tăng 84,81% so với năm 2001. Năm 2003 đạt 2.438 triệu đồng, tăng 74,27% so với năm 2002. Năm 2004 đạt 3.666 triệu đồng, tăng 50,37% so với năm 2003. Doanh thu phí bảo hiểm gốc của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới đã góp phần không nhỏ vào việc tăng tổng doanh thu của Công ty, tuy tốc độ tăng doanh thu qua các năm có phần giảm sút song đó là thực tế khi mà thị trường bảo hiểm xe cơ giới tại Hải Phòng ngày càng phát triển nhưng cạnh tranh giữa các Công ty bảo hiểm lại quá khắc nghiệt, trên địa bàn trước đã có các Công ty bảo hiểm lớn đã và đang hoạt động, đồng thời chiếm thị phần lớn từ lâu . Điều khích lệ đối với PTI Hải Phòng, một Công ty mới tham gia vào thị trường bảo hiểm nhưng doanh thu cũng đã có tăng qua các năm. 1.3. Công tác thu phí bảo hiểm Khai thác và thu phí là hai công việc gắn liền với nhau. Nếu như khai thác là khâu đầu tiên và đóng vai trò quan trọng khi triển khai bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào thì thu phí là công việc cuối cùng và góp phần hoàn tất khâu khai thác. Khi tham gia bảo hiểm thì người tham gia phải có nghĩa vụ nộp phí, còn nhà bảo hiểm thì có trách nhiệm cung cấp hợp đồng bảo hiểm và thực hiện theo những cam kết đã ghi khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Về phía Công ty bảo hiểm có làm tốt công tác thu phí thì mới có đủ nguồn để thực hiện tốt các chế độ bảo hiểm và đảm bảo thanh toán các chi phí. Có rất hiều cách thu phí khác nhau, song để đạt được hiểu quả cao trong khâu này PTI Hải Phòng thực hiên thu phí theo 2 cách: - Cách thứ nhất, đó là các cá nhân hoặc đơn vị tự đến Công ty để nộp phí bảo hiểm, tuy nhiên cách này hiện nay thường chỉ áp dụng đối với các cá nhân có nhu cầu mua với số lượng ít. - Cách thứ hai, Công ty sẽ cử cán bộ khai thác đến từng đơn vị kinh doanh để thu phí, cách này thường được áp dụng nhiều hơn bởi vì làm như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm. Kết quả khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới và TNDS của chủ xe đối với người thứ ba được thể hiện qua bảng 3, số phí thu được cũng được thể hiện rất rõ ràng thông qua chỉ tiêu doanh thu phí bảo hiểm. Như chúng ta phân tích ở phần trước, doanh thu phí bảo hiểm tăng lên qua các năm và chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng doanh thu của Công ty những năm qua. Phí bảo hiểm thu được ngày càng tăng là do: - Công tác khai thác ngày càng được thực hiện tốt, Công ty có chính sách khách hàng hấp dẫn. - Số lượng xe cơ giới, đặc biệt là xe máy ngày càng tăng nhanh. Bảng 4: Tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới so với tổng doanh thu phí của PTI Hải Phòng giai đoạn 2001-2004 Năm Doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới (Tr.đ) Tổng doanh thu phí bảo hiểm (Tr.đ) Phí bảo hiểm xe cơ giới / tổng doanh thu (%) 2001 757 4.731 16.00 2002 1.411 7.459 18,92 2003 2.620 12.694 20,64 2004 3.980 14.679 27,11 (Nguồn: Báo cáo tổng kết của PTI Hải Phòng) Qua bảng 4 ta thấy doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới đóng góp một phần không nhỏ vào tổng doanh thu của Công ty. Điều này đã nói lên được phần nào vị trí quan trọng của công tác thu phí. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc khai thác đã khó, việc thu phí sao cho đúng, cho đủ còn khó hơn. Do đó để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi cần phải có sự cố gắng phấn đấu hơn nữa của đội ngũ cán bộ toàn Công ty nói chung cũng như đội ngũ cán bộ khâu khai thác và thu phí nói riêng. 2. Công tác giám định và bồi thường 2.1. Tình hình phát sinh tai nạn Do đặc điểm địa hình nước ta tương đối phức tạp, mạng lưới giao thông lại hết sức đa dạng mà đặc biệt là giao thông đường bộ. ở Việt Nam, mọi phương tiện và con người đi lại trên đường bộ là chủ yếu nhưng chúng ta chưa có một hệ thống giao thông văn minh, hiện đại có chất lượng cao, đa số các con đường đều đã xuống cấp nghiêm trọng và không an toàn cho các phương tiện đi lại, ngay cả các công trình mới cũng bị nhanh chóng xuống cấp do trình độ xây dựng của chúng ta còn kém. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề an toàn giao thông cho con người cũng như của cải vật chất của họ, có rất nhiều vụ tai nạn xảy ra dẫn đến những hậu quả đáng tiếc do nguyên nhân này. Mặt khác do ý thức chấp hành Luật lệ giao thông của người dân còn kém, chưa chấp hành nghiêm chỉnh các yêu cầu về an toàn giao thông... dẫn đến số lượng các vụ tai nạn giao thông ngày càng gia tăng một cách chóng mặt. Theo nguồn từ Công ty PTI Hải Phòng, ta thấy tình hình tai nạn của xe cơ giới như sau: Bảng 5: Tình hình tai nạn xe cơ giới tham gia bảo hiểm tại PTI Hải Phòng giai đoạn 2001-2004 Năm Số xe ôtô tham gia bảo hiểm (xe) Số vụ tai nạn ôtô (vụ) Tỷ lệ tai nạn (%) Số xe máy tham gia bảo hiểm (xe) Số vụ tai nạn xe máy (vụ) Tỷ lệ tai nạn (%) 2001 982 58 5,91 - - - 2002 2.205 112 5,08 108 2 1,85 2003 3.101 181 5,84 2.174 22 1,01 2004 4.163 260 6,24 3.892 30 0,77 (Nguồn: PTI Hải Phòng) Theo bảng thống kê ta thấy, số vụ tai nạn cả ôtô và xe máy đều đang tăng lên qua các năm, điều này rất đáng lo ngại bởi nếu chúng ta không nhanh chóng tìm ra những biện pháp hữu hiệu để kịp thời hạn chế sẽ rất nguy hiểm. Ngày nay, số lượng xe cơ giới tham gia giao thông là quá tải đối với hệ thống mạng lưới giao thông của nước ta dẫn đến số vụ tai nạn giao thông vẫn đang tăng không ngừng và đã có lúc ở mức báo động gây ra những thiệt hại đang tiếc cả về người và của. Do số lượng xe máy tham gia bảo hiểm tại PTI Hải Phòng chưa cao cho nên ta chưa thể nhìn thấy hết được tỷ lệ tai nạn đối với xe gắn máy, ngoài ra cũng một phần là do người dân cũng ngày càng có ý thức hơn về tính nghiêm trọng và nguy hiểm của tai nạn giao thông nên đã có các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất như đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông tại những con đường có quy định phải đội mũ, đi đúng tốc độ cho phép dành cho làn đường của mình… 2.2. Công tác giám định và bồi thường tổn thất a. Công tác giám định Công tác giám định là công việc thuộc dịch vụ sau bán hàng có tác động lớn đến uy tín của Công ty, là khâu trung gian quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.Giám định là cơ sở để bồi thường, do đó công tác giám định có được thực hiện tốt thì công tác bồi thường mới chính xác và đạt hiệu quả kinh doanh. Do tầm quan trọng của công tác này nên việc giám định bồi thường luôn được Ban Giám đốc đặc biệt quan tâm chỉ đạo. Sở dĩ tất cả các tai nạn có phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm đều phải được giám định là vì: - Giám định giúp xác định nguyên nhân của tai nạn từ đó xác định trách nhiệm của bảo hiểm. - Bồi thường chủ yếu dựa vào mức độ lỗi của các bên và hạn mức trách nhiệm nên công tác giám định, đánh giá thiệt hại giúp cho việc bồi thường nhanh chóng chính xác. - Mặt khác, giám định còn giúp tìm ra nguyên nhân của các vụ tai nạn, từ đó tổng hợp các nguyên nhân này và đề ra các giải pháp phòng ngừa, hạn chế. Trong điều kiện kinh tế-xã hội ngày nay, nhu cầu của con người về các loại hình bảo hiểm này càng cao, vì bảo hiểm có thể coi như là giá đỡ hỗ trợ cho khách hàng tham gia khi không may họ gặp phải những rủi ro, sự cố trong cuộc sống. Nắm bắt được tình hình này các Công ty bảo hiểm không ngừng thực hiện những chính sách nhằm thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm, ngoài những chính sách marketting, quảng cáo, chăm sóc khách hàng, chính sách phí bảo hiểm, hạn mức trách nhiệm hấp dẫn…thì công tác giám định chính xác cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Có thể thấy những năm gần đây, sản phẩm về bảo hiểm xe cơ giới phát triển mạnh cả về số lượng cũng như chất lượng, do đó đòi hỏi công tác giám định xe cơ giới phải được củng cố và nâng cao. Trước yêu cầu này, PTI Hải Phòng cần phải củng cố chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ giám định về trình tự tổ chức thực hiện giám định, đảm bảo cho công tác bồi thường sát với thực tế thiệt hại, đúng phạm vi trách nhiệm và nhanh chóng giúp cho chủ xe khắc phục hậu quả tai nạn. Công tác giám định phải do một bộ phận chuyên trách đảm nhiệm thì mới có thể đảm bảo giám định chính xác, chuyên nghiệp. Trong các nghiệp vụ mà Công ty đang triển khai thì việc giám định thiệt hại bảo hiểm xe cơ giới là hết sức đa dạng và phức tạp, đòi hỏi thời gian và chuyên môn sâu, cộng với tinh thần công bằng, khách quan của cán bộ giám định. Đối với những vụ tai nạn do xe tham gia bảo hiểm tại Công ty xảy ra trên địa bàn Thành phố, thì Công ty sẽ trực tiếp giám định ngay sau khi có thông báo của chủ xe, hoặc cảnh sát giao thông,...Khi nhận được thông báo yêu cầu giám định, Công ty sẽ cử giám định viên đến hiện trường của vụ tai nạn để chụp ảnh các tài sản bị thiệt hại (chụp biển số xe, nhãn hiệu xe, các vết va chạm, hư hỏng, vị trí xe bị tai nạn...). Với phương châm "Trả nhanh, trả đủ và trả chính xác", tất cả các sự cố bảo hiểm đều được giám định kịp thời, và đa số được giải quyết bồi thường nhanh chóng theo qui trình nhưng vẫn đảm bảo tính thông thoáng, hỗ trợ tốt cho kinh doanh. Tuy nhiên, đối với các vụ tai nạn xảy ra ở tỉnh khác như Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh...mà vẫn thuộc trách nhiệm của bảo hiểm, PTI Hải Phòng đã chủ động phối hợp, uỷ quyền cho các Công ty bảo hiểm của tỉnh đó và lực lượng cảnh sát giao thông trên địa bàn xảy ra tai nạn giám định hộ. Không chỉ thực hiện giám định những tai nạn thuộc trách nhiệm của Công ty mình, PTI Hải Phòng còn tổ chức giám định hộ những tai nạn do xe tham gia bảo hiểm của Tổng Công ty PTI, hoặc các Công ty chi nhánh của Tổng Công ty PTI, và các Công ty bảo hiểm khác gây ra trên địa bàn Thành phố Hải Phòng. Trong thực tế, có rất nhiều vụ tai nạn cùng xảy ra một lúc, hoặc xảy ra trong thời gian ngắn, tuy nhiên các cán bộ giám định của Công ty cũng đã có mặt kịp thời cùng lực lượng cảnh sát giao thông phối hợp giải quyết, giám định hiện trường, xác định thiệt hại, giúp chủ xe thấy yên tâm hơn và tin tưởng hơn vào Công ty. Với tinh thần làm việc hết mình, công bằng trong giám định các vụ tai nạn, cán bộ giám định đã phát hiện ra những gian lận, trục lợi bảo hiểm của khách hàng, tất cả những vụ này đều bị từ chối bồi thường và xử lý ngay, qua đó cho thấy chất lượng của nghiệp vụ này ngày càng được nâng cao. Hiện nay, công tác giám định của PTI Hải Phòng cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ và bước đầu có được sự tin tưởng của khách hàng, nhưng vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục như: - Có những vụ tai nạn thuộc trách nhiệm giám định của Công ty, nhưng Công ty không trực tiếp xuống được hiện trường mà chỉ thông qua những bản tường trình của chủ xe cũng như biên bản, hồ sơ do lực lượng cảnh sát giao thông cung cấp. Điều này dẫn đến việc giám định, xác định lỗi và thiệt hại của các bên thiếu chính xác dễ nảy sinh ra hiện tượng gian lận, từ đó kéo theo việc bồi thường không chính xác, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của toàn Công ty. - Do không giám định kịp thời nên một số vụ tai nạn hiện trường đã bị thay đổi, ảnh hưởng đến chất lượng của việc giám định. Tình trạng trên đã làm ảnh hưởng không chỉ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh, uy tín của Công ty. Do đó, PTI Hải Phòng cần phải sớm tìm ra những nguyên nhân để từ đó đề ra giải pháp khắc phục. Thông qua các tham kiến trong các cuộc họp toàn Công ty, những cuộc tiếp xúc gặp gỡ với khách hàng, cuộc họp tổng kết cuối năm…có thể thấy nguyên nhân chính của hiện tượng trên là: Nguyên nhân khách quan. - Do hệ thống thông tin không được liền mạch, dẫn đến việc liên hệ giữa Công ty với cảnh sát giao thông cũng như chủ xe còn hạn chế. Nhiều trường hợp tai nạn xảy ra thì phải mấy ngày sau Công ty mới nhận được tin báo về, gây khó khăn cho việc tổ chức giám định. - Công tác quản lý giao thông chưa toàn diện. Nguyên nhân chủ quan. - Thông tin liên lạc giữa các bộ phận trong Công ty, liên lạc giữa Công ty với các cơ quan hữu quan là chưa được tốt. - Trình độ giám định của một số cán bộ là chưa được tốt, chuyên môn chưa được chắc chắn và còn có những hạn chế nhất định. Những thiếu sót trong việc giải quyết giám định của cán bộ bảo hiểm không phải là chưa có cách giải quyết, tuy nhiên nếu như phía chủ xe không đồng ý với kết quả giám định của cán bộ bảo hiểm thì Công ty sẽ mời một giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp khác hoặc để chủ xe tự lựa chọn. Nếu kết quả giám định hoàn toàn trùng với kết quả mà cán bộ giám định của Công ty đưa ra thì toàn bộ chi phí thuê giám định viên bên ngoài là do chủ xe gánh chịu và ngược lại. Hiện nay, công tác giám định đã được Công ty sắp xếp theo một trình tự khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế. Cụ thể là: Ngay sau khi tiếp nhận khai báo tai nạn, Công ty sẽ mở hồ sơ giải quyết tai nạn và cử giám định viên xuống ngay hiện trường để tham gia xủ lý tai nạn. Giám định viên có trách nhiệm: - Xin ý kiến lãnh đạo của Giám đốc, hoặc phòng Công ty để chỉ thị cho chủ xe hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng để ngăn ngừa, hạn chế tổn thất. - Yêu cầu chủ xe, lái xe đưa nạn nhân đi cấp cứu tại bệnh viện gần nhất. - Ghi nhận tình huống tai nạn, giám định sơ bộ tổn thất, mức độ thiệt hại về người và tài sản, chụp ảnh hiện trường và những tổn thất, ghi lại địa chỉ bệnh viện, trung tâm y tế nơi các nạn nhân được đưa đến cấp cứu. - Phối hợp với các bên trong công tác bảo vệ hiện trường, xác định tai nạn (tìm nhân chứng, tung tích nạn nhân, người có lỗi…) - Kiểm tra số sườn, số máy để đảm bảo xe bị tai nạn là xe tham gia bảo hiểm. - Giám định viên phải liên hệ ngay với cơ quan công an, cảnh sát gia thông để nhanh chóng giải quyết vụ việc, tìm hiểu về tình hình tai nạn, mức độ lỗi dự kiến cũng như thông báo hướng dẫn cho khách hàng các thủ tục trong việc giải quyết tai nạn, thu thập hồ sơ, chứng từ đầy đủ để đòi bồi thường. - Trong trường hợp cơ quan công an thụ lý tai nạn có yêu cầu thương lượng ngay, giám định viên phải báo trung thực với lãnh đạo các cấp (theo phân cấp) để chỉ đạo trong việc thương lượng về mức độ lỗi hoặc mức độ bồi thường. b. Công tác bồi thường tổn thất Bồi thường là khâu cuối cùng trong hoàn thiện sản phẩm bảo hiểm. Quản lý tốt việc bồi thường sẽ giúp cho việc giảm những thất thoát trong qúa trình kinh doanh, nâng cao chất lượng của sản phẩm, tạo uy tín cho PTI Hải Phòng, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của Công ty trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Như chúng ta đã biết, bảo hiểm là ngành dich vụ mà chất lượng của nó chỉ được biết đến ở giai đoạn cuối cùng sau khi có sự kiện không mong đợi đó là tổn thất, tai nạn xảy ra. Do đó công tác bồi thường của các loại hình bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới nói riêng thể hiện chất lượng của sản phẩm bảo hiểm, quyết định tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của toàn Công ty. Rõ ràng công tác này đóng vai trò vô cùng quan trọng, trong thời gian qua PTI Hải Phòng đã không ngừng nâng cao chất lượng của công tác bồi thường, tích cực đấu tranh, phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực. Để gắn bó chặt chẽ hơn với khách hàng, tạo điều kiện cho công tác khai thác có hiệu quả, bồi thường viên của Công ty đã chịu khó học hỏi, nâng cao trình độ, tu dưỡng bản thân để làm tốt nhiệm vụ được giao, củng cố và mở rộng thêm quan hệ với khách hàng, tạo dựng uy tín cho Công ty. Hàng năm số xe gặp tai nạn có tham gia bảo hiểm tại PTI Hải Phòng thường không bao giờ giống nhau, mức độ thiệt hại của từng vụ về cả tính nghiêm trọng và số tiền thiệt hại kéo theo mức độ bồi thường cũng vậy, đều khác nhau hoàn toàn đối với từng loại xe. Theo thời gian, số lượng xe cơ giới hoạt động trên địa bàn Hải Phòng ngày càng tăng, kéo theo số vụ tai nạn xe cơ giới cũng ngày càng nhiều, có những vụ tổn thất rất lớn, do đó số tiền bồi thường tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên, công tác bồi thường của Công ty vẫn đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của thực tế. Sau khi hoàn tất thủ tụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc101822.doc
Tài liệu liên quan