Tài liệu Đề tài Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và các biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền
40 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1148 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và các biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực tập tốt nghiệp
Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và
các biện pháp nâng cao hiệu quả nhập
khẩu thép phế liệu của Công ty công
nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu của nền kinh tế Thế giới, các
nước chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác, quan hệ trên cơ sở hai bên cùng
có lợi, cùng nhau phát triển kinh tế. Xu thế này đã góp phần tích cực vào sự tăng
trưởng và phát triển của một số nước trên thế. Đặc biệt là đối với Việt Nam, thực
trạng nền kinh tế sau chiến tranh giành độc lập hoàn toàn, tiến tới xây dựng, ổn
định và từng bước phát triển kinh tế: Việt Nam là một nước có nền kinh tế nghèo
nàn, lạc hậu, đời sống nhân dân còn quá thấp so với các nước trên thế giới. Tình
hình đó đòi hỏi nước ta phải có sự đổi mới cho phù hợp với xu thế chung của thế
giới. Quan điểm mở rộng hợp tác kinh tế của Việt Nam được thể hiện rõ trong
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII: Thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại
theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước trên nguyên tắc bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế, phấn đấu thực hiện mục tiêu “ Dân giàu,nước mạnh, xã hội
công bằng và văn minh”.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước được thực hiện thông qua việc
mở rộng các hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, tín dụng nước
ngoài… Trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu có tầm quan trọng hơn cả, là yếu tố
quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh. Nhập khẩu là để bù đắp những
mặt hàng còn thiếu mà nền trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng
không đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước. Cơ cấu nhập khẩu củaViệt Nam chủ
yếu bao gồm những mặt hàng sau: máy móc thiết bị, khoa học kĩ thuật, công
nghệ mới và nguyên vật liệu phục vụ cho phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ
tầng ở nước ta.
Trong giai đoạn trước đây, thép là mặt hàng quan trọng trong cơ cấu nhập
khẩu của nước ta vì đây là mặt hàng cần thiết cho nhiều ngành công nghiệp, xây
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng phục vụ cho nhiều ngành sản xuất nói chung. Tuy
nhiên, việc nhập khẩu thép thành phẩm chỉ là biện pháp trước mắt và tình thế.
Do đó, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải đẩy
mạnh hoạt động sản xuất theo hướng ngày càng nâng cao chất lượng và sản
lượng thép. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp luyện kim nói chung
là nguồn nguyên liệu đầu vào cho luyện kim mà chủ yếu là thép phế liệu sẽ đuợc
lấy ở đâu khi mà tổng sản lượng thu gom được trong nước chỉ đáp ứng được
30% nhu cầu, vậy để đảm bảo sản xuất thép trong nước được ổn định thì 70%
nhu cầu thép phế này phải được nhập khẩu từ nước ngoài (theo thống kê của Bộ
Công nghiệp Việt Nam). Vì vậy, việc nhập khẩu thép phế liệu góp phần tích cực
vào sự ổn định và phát triển ngành luyện thép ở nước ta, từ đó thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là động lực tích cực để xây dựng và cải
tạo cơ sở của Việt Nam trong giai đoạn 2000- 2010.
Kết hợp giữa nhận thức nói trên và đợt thực tập tốt nghiệp vừa qua, em đã
chọn đề tài “Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và các biện pháp nâng cao hiệu
quả nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền” làm
đề tài cho bài thu hoạch thực tập tốt nghiệp.
Kết cấu của bài viết gồm có 2 chương:
Chương I. Thực trạng nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ
Ngô Quyền
Chương II. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép
phế liệu của Công ty.
Mặc dù bài viết chỉ đề cập tới tình hình riêng của Công ty công nghiệp tàu
thuỷ Ngô Quyền về hoạt động nhập khẩu thép phế liệu, nhưng em cũng hy vọng
độc giả qua bài viết này có thể hiểu thêm phần nào về hoạt động nhập khẩu thép
phế liệu nói chung của thị trường Việt Nam và từ đó có được sự quan tâm hơn
nữa đối với vấn đề này.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
Hoàn thành được bài báo thu hoạch này, em đã nhận được sự hướng dẫn và
giúp đỡ tận tình, đầy trách nhiệm của Thạc sỹ Phạm Thị Mai Khanh và các anh,
chị phòng kinh doanh tổng hợp cùng những cán bộ Công ty công nghiệp tàu thuỷ
Ngô Quyền. Nhưng vì thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp, tài liệu tham khảo còn
hạn chế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của các thầy, cô giáo và các
độc giả để giúp em hoàn thiện bài viết này.
CHƯƠNG I:
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU CỦA CÔNG
TY CÔNG NGHIỆP TÀU THỦY NGÔ QUYỀN
I.GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ NGÔ QUYỀN
1/Sự hình thành và phát triển của Công ty
Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền là đơn vị kinh doanh hạch toán
độc lập trực thuộc Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (một trong 17
Tổng Công ty lớn nhất của Nhà nước) được thành lập theo quyết định số 69/TTg
do Thủ tướng chính phủ ký và ban hành ngày 31/01/1996, trên cơ sở tổ chức lại
ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam). Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt
Nam (Viet Nam Shipbuilding Industry Corporation - Vinashin) được thành lập
theo quyết định số 69/TTg do Thủ tướng chính phủ ký và ban hành ngày
31/01/1996, trên cơ sở tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam.
Vinashin hiện có 40 đơn vị thành viên, gồm: 29 đơn vị hạch toán độc lập, 7 đơn
vị hạch toán phụ thuộc và 4 đơn vị liên doanh; tổng số công nhân viên lên tới
trên có khoảng 13000 cán bộ công nhân viên. Các đơn vị thành viên của
Vinashin nằm trên khắp đất nước trải dài từ Bắc tới Nam.
Tiền thân của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền là Xưởng phá dỡ
tàu cũ và sản xuất khí công nghiệp, hiện nay trụ sở chính của Công ty: số 234 -
Lê Thánh Tông - Ngô Quyền- Hải Phòng, với tổng số công nhân viên là gần 200
người có trình độ chuyên môn từ bậc trung học, đại học và một số đã tốt nghiệp
cao học, Công ty làm ăn rất có hiệu quả (doanh thu hàng năm đạt 30%/năm).
Hơn nữa, Công ty cũng được sự quan tâm và đầu tư đúng đắn từ các cấp có thẩm
quyền và ban lãnh đạo nên hiện giờ Công ty cũng đã có những dây truyền công
nghệ đáp ứng được nhu cầu sản xuất .
2)Cơ cấu tổ chức
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
Trong Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền, người có thẩm quyền cao
nhất là Giám đốc điều hành. Vì đây là một đơn vị hạch toán độc lập nên tùy
thuộc vào tình hình thực tế của Công ty mà Giám đốc đưa ra các quyết định cho
phù hợp. Giám đốc có toàn quyền chủ động quyết định mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của Công ty, với sự giúp việc của Phó giám đốc và bộ phận tham
mưu giúp việc trong 4 phòng hành chính nghiệp vụ. Giám đốc ra chỉ thị và
truyền đạt thông tin trực tiếp xuống các phòng ban tham mưu, và các phòng ban
tham mưu này lại xuống các xưởng trực thuộc mình quản lý (xem sơ đồ 1).
3/Chức năng, nhiệm vụ của Công ty
Như đã trình bày ở trên, trong giai đoạn trước khi chuyển thành Công ty,
với chức năng là một Xưởng sản xuất thuộc Tổng công ty Vinashin, Xưởng chủ
yếu tập trung vào 2 nhiệm vụ chính do Tổng công ty giao cho, đó là: phá dỡ tàu
cũ để lấy thép phế liệu và sản xuất khí công nghiệp. Sau quyết định 94/1996-
TCT của Vinashin về “Thành lập Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô quyền”
được Tổng giám đốc ký và ban hành ngày 20/2/1996, Công ty công nghiệp tàu
thuỷ Ngô Quyền đã và đang thực hiện tốt các chức năng sản xuất kinh doanh
theo ngành nghề được phép như sau:1. Đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ; 2.Sản
xuất khí công nghiệp để phục vụ công nghiệp trong tổng Công ty, trong ngành và
tiêu thụ sản phẩm cho nhu cầu thị trường; 3. Kinh doanh vật tư trang thiết bị cho
các phương tiện thuỷ; 4.Tổ chức thực hiện các dịch vụ hàng hải; 5.Nhập khẩu
thép phế liệu phục vụ cho ngành đóng tàu truyền thống của Tổng Công ty và đáp
ứng nhu cầu trong nước đối với mặt hàng này....
Trong đó, Công ty đặc biệt chú trọng tới 2 hoạt động chính phù hợp với
chức năng và chuyên môn của mình, đó là: Nhập khẩu thép phế liệu và sản xuất
khí công nghiệp. Doanh thu từ các hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
doanh thu của Công ty.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
SƠ ĐỒ 1: MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY CNTT NGÔ QUYỀN
GI M ĐỐC
Phó giám đốc sản
xuất
Kế toán trưởng, phòng
TK-TC, phòng KD
Phòng tổ chức h nh
chính
Phòng kế hoạch
sản xuất
Bộ phận KD-
Dịch vụ
Vật tư
Xưởng phá dỡ
t u cũ
Xưởng ôxy
Điều h nh mệnh lệnh
Thông tin
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
II. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU CỦA CÔNG TY CÔNG NGHIỆP
TÀU THỦY NGÔ QUYỀN
1) Quản lý Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu thép phế liệu
Phù hợp với tình hình thực tế nước ta đang trong giai đoạn cất cánh, trước
năm 1998 công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi số lượng thép lớn. Trong
giai đoạn này, thép là mặt hàng nhập khẩu quan trọng trong cơ cấu nhập khẩu
của nước ta vì đây là mặt hàng cần thiết cho nhiều ngành công nghiệp (đặc biệt
là ngành công nghiệp nặng), ngành xây dựng… Theo thống kê của Bộ công
nghiệp: để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thép trong nước thì cần phải nhập khẩu
70%.
Tuy nhiên, nhập khẩu không phải là biện pháp hiệu quả và lâu dài cho các
nền kinh tế nói chung. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đã đẩy
mạnh hoạt động sản xuất theo hướng ngày càng nâng cao chất lượng và sản
lượng thép để đáp ứng nhu cầu trong nước thay cho nhập khẩu, và nguyên liệu
chính dùng cho luyện thép là thép phế liệu nhập khẩu chứ không phải là quặng
khai thác được ở trong nước. Theo thống kê của Bộ công nghiệp hơn nửa lượng
thép tiêu thụ trong nứoc là từ sản xuất trong nước, một nửa còn lại là nhập khẩu,
trong đó 80% thép sản xuất trong nứơc là từ nguồn phôi nhập khẩu, trong số
phôi thép sản xuất trong nước lại phụ thuộc tới 70% nguyên liệu nhập khẩu từ
ngoài vào. Như vậy, Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào thị trường bên ngoài từ
thép thành phẩm, bán thành phẩm cho tới nguyên liệu đầu vào cho sản xuất.
Sang năm 1998, nhà nước ta đã cho phép nhập khẩu thép phế liệu: Điều 3.5 của
Thông tư 01/1998- TM- XNK (ngày 4/2/1998 Thông tư về cơ chế điều hành xuất
nhập khẩu ) có quy định “ Thép phế liệu và thép phá dỡ tàu cũ khi nhập khẩu
phải có ý kiến của Bộ công nghiệp”. Việc cho phép nhập khẩu đã làm cho sản
lượng thép phế liệu nhập khẩu vào nước ta tăng mạnh ở giai đoạn sau: Theo
thống kê của Cục hải quan 1998 là: trên 50000 tấn, 2000 là: 170000 tấn, đến năm
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
2002 là: 261389 tấn, và theo dự báo: nếu các lò luyện kim cùng đưa vào hoạt
động và ngành thép đạt công suất 2 triệu tấn phôi thép/năm thì nhu cầu đối với
thép phế liệu để phục vụ ngành luyện kim là rất lớn. Thưc trạng này đã biến Việt
Nam từ một nước nhập khẩu phôi thép và thép thành phẩm trở thành một thị
trường nhập khẩu thép phế liệu để phục vụ cho sản xuất phôi thép. Chính vì vậy,
chỉ một trở ngại nhỏ cản trở thép phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam sẽ làm cho
các lò luyện thép bị đình trệ vì đói nguyên liệu. Để việc nhập khẩu thép phế được
tiến hành thuận lợi hơn , theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Sưa – Viện trưởng Viện luyện
kim đen: “ Nhà nước cần ban hành tiêu chuẩn về thép phế liệu cũng như các
văn bản pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất thép nhập
khẩu thép phế liệu” 1, theo ông Phạm Chí Cường- Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép
Việt Nam: “ Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cho
thép phế liệu nhập khẩu dựa trên tiêu chuẩn quốc tế thông dụng”2. Nhưng về
phía Bộ tài nguyên và môi trường, ông Nguyễn Khắc Kinh – Vụ trưởng Vụ thẩm
định và đánh giá tác động tài nguyên môi trường lại cho rằng: “Không thể cứ
nhập khẩu bừa thép phế liệu hoặc mua tàu cũ về phá dỡ tràn nan ở Việt Nam để
lấy thép phế. Việc thực hiện mục tiêu 1,5 triệu tấn phôi/ năm là cần thiết nhưng
không phải làm ra thép bằng mọi giá”3. Cũng theo ông Kinh: “ năng lực xủ lý
chất thải của Việt Nam hiện còn quá kém, nay lại để chất thải ngoại tràn vào thì
Việt Nam sớm trở thành bãi giác”4. Như vậy, nguy cơ đói nguyên liệu cho ngành
sản xuất thép đang dần lộ diện bởi sự khập khễnh giữa tiêu chuẩn thép phế liệu
của Việt Nam với tiêu chuẩn Thế giới. Trong khi đó, giá thép trên thị trường thế
giới có những biến động mạnh (giá các nguyên liệu cho luyện thép như: quặng,
gang, thép phế, than cốc...) giá phôi thép; giá thành phẩm thép xây dựng, thép
tấm, lá ...liên tục tăng.
1, 2, 3, 4: "Ng nh thép trước nguy cơ đói nguyên liệu" - VIETNAM NET ng y 22 /10/2003
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
Trước tình hình đó, các chuyên gia ngành thép cảnh báo sản lượng thép
toàn cầu sẽ sụt giảm hàng loạt sau những đợt nguyên liệu đầu vào tăng chóng
mặt. Cung- cầu thép đang rơi vào tình trạng hỗn loạn, không có đủ cung để đáp
ứng cầu đang tăng quá nhanh. Theo dự kiến, đến năm 2004, nhu cầu sẽ là
936triệu tấn, tăng 5% so với 2003 và sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Các chuyên
gia ngành thép còn cho biết nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do
Trung Quốc đang bước vào xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản làm cho nhu cầu về
thép tăng (2003 là 35 triệu tấn phôi, trong đó nhu cầu trong nước là trên 25 triệu
tấn). Ngoài ra, Mỹ đã xoá bỏ thuế nhập khẩu (thuế nhập khẩu= 0% ) đối với mặt
hàng thép làm cho nhu cầu thép của nước này cũng tăng mạnh. Đây là những
nguyên nhân chính gây lên sự biến động lớn cho thị trường thép trên thế giới, vì
Mỹ và Trung Quốc là 2 quốc gia lớn và có tầm ảnh hưởng lớn đối với thị trường
Thế giới.
Tình hình trong nước và thế giới như vậy đã gây nên sự biến động lớn về
giá thép ở Việt Nam: Đầu quý I/2004 là 6,4-6,5 triệu/tấn thép, vậy mà đến cuối
quý I- đầu quý II/2004 đã là 8,5- 9,3 triệu/tấn. Chỉ trong một thời gian ngắn giá
thép đã tăng chóng mặt. Để bình ổn lại thị trường, Hiệp hội thépViệt Nam, Tổng
Công ty thép, tổ điều hành thị trường trong nước đã họp và kiến nghị với chính
phủ 4 biện pháp: 1.Thúc đẩy sản xuất phôi thép trong nước; 2.Tháo gỡ vấn đề
nhập khẩu thép phế liệu để sản xuất phôi; 3.Kiểm tra mạng luới phân phối để
tránh đầu cơ; 4.Nhập khẩu thép thành phẩm khi nguồn cung trong nứơc chưa đủ
đáp ứng. Bộ công nghiệp cũng có kiến nghị chính phủ sớm điều chỉnh các quy
định về việc nhập khẩu thép phế liệu theo hướng coi thép phế liệu là nguyên liệu
cơ bản của ngành thép.
Vì thép phế liệu là mặt hàng phế liệu, có ảnh hưởng tới môi trường Việt
Nam, nên hoạt động nhập khẩu thép phế liệu vào nước ta sẽ do Bộ Tài nguyên –
Môi trường toàn quyền quản lý, trên cơ sở đó Bộ ra quyết định số 03/2004/QĐ-
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
BTN-MT ban hành ngày 02/04/2004 –“Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài nguyên
môi trường về việc ban hành quy định về bảo vệ môi trường đối với phế liệu
nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất”, theo Quyết định này: “Các cơ sở sản xuất
thuộc các ngành thép, giấy, thuỷ tinh và nhựa đều được nhập khẩu phế liệu về
làm nguyên liệu sản xuất”. Quy định này nhằm giúp các doanh nghiệp chủ động
có nguồn ngyên liệu giá rẻ hơn để phục vụ sản xuất thép làm giảm giá thành sản
phẩm. Tuy nhiên, không thể tiến hành nhập khẩu phế liệu bừa bãi, phế liệu nhập
về phải đảm bảo tiêu chuẩn sau: “không lẫn tạp chất nguy hại; không lẫn chất
thải, trừ tạp chất không nguy hại còn bám dính hoặc bị rời ra trong quá trình vạn
chuyển, bốc xếp”. Quyết định này cũng quy định một số điều kiện đối với các
doanh nghiệp được phép nhập khẩu - chỉ những tổ chức, cá nhân có kho, bãi
dành riêng cho việc tập kết phế liệu nhập khẩu đảm bảo các điều kiện về môi
trường trong quá trình lưu giữ phế liệu nhập khẩu; có đủ năng lực xử lý các tạp
chất đi kèm với phế liệu nhập khẩu mới được phép nhập khẩu phế liệu.
Như vậy, hoạt động nhập khẩu thép phế đã được các Bộ, Ngành có liên
quan quan tâm và tạo hành lang pháp lý thông thoáng nhằm giúp các doanh
nghiệp được thuận lợi hơn khi tiến hành hoạt động kinh doanh này. Sẽ không có
một trở ngại quá lớn nào về mặt pháp lý gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi
tiến hành nhập khẩu thép phế vào Việt Nam:
. Văn bản pháp lý điều chỉnh trực tiếp và hiện hành đối với nhập khẩu
thép phế liệu của Nhà nước ta là Quyết định số 03/ 2004/QĐ- BTN- MT của Bộ
tài nguyên môi trường ban hành ngày 02/04/2004
. Thép phế liệu nằm trong danh mục những mặt hàng được phép nhập
khẩu theo quy định của Nhà nước.
. Hiện nay Nhà nước không có quy định hạn ngạch nhập khẩu đối với
thép phế.
. Thuế nhập khẩu thép phế liệu là 0%.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
2) Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu
thủy Ngô Quyền
2.1) Động cơ của hoạt động nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công
nghiệp tàu thủy Ngô Quyền
* Xuất phát từ nhu cầu thị trường:
Sắt thép được coi là một trong những mặt hàng có tầm quan trọng chiến
lược trong công cuộc xây dựng đất nước. Đặc biệt ở nước ta hiện nay, trong sự
nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nhu cầu ngày càng cao đối với mặt hàng
thép. Khi kinh tế – xã hội phát triển thì nhu cầu của con người đòi hỏi ngày càng
cao, có thể nói nhu cầu của con người là không giới hạn. Hiện nay, nước ta còn
lạc hậu, kém xa các nước trên thế giới (một phần là do bị chiến tranh tàn phá
trong một thời gian dài). Vì vậy, đất nước cần phải chuyển mình, đổi mới nền
kinh tế - xã hội để bắt kịp với xu thế phát triển của toàn thế giới. Nhưng để đạt
được mục tiêu đó, vấn đề cơ bản và cũng là nền tảng là phải xây dựng cơ sở hạ
tầng vững chắc để từ đó đặt nền móng cho đất nước đi lên (như một ngôi nhà
muốn vươn cao, vươn xa thì trước hết phải tạo được móng nhà vững chắc).
Trong đó sắt thép đóng vai trò quan trọng, chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
cải cách cơ cấu kinh tế - xã hội của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhu
cầu về thép ngày càng tăng, trong khi nền công nghiệp khai thác quặng ở nước ta
còn thấp kém chưa đủ để đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu của ngành luyện kim.
Hơn nữa, thị trường thép trên thế giới đang có sự biến động mạnh (giá cả tăng
chóng mặt) khiến cho giá nhập khẩu thép vào nước ta cao. Trước tình hình đó,
giải pháp trước mắt và cũng là lâu dài cho ngành thép ở nước ta là : nhập khẩu
thép phế liệu về để sản xuất phôi thép phục vụ cho ngành luyện thép đáp ứng
nhu cầu thép đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam.
*Đối với Công ty:
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
Hoạt động nhập khẩu thép phế liệu là phù hợp với đặc điểm kinh doanh
của Công ty- Ngành nghề truyền thống và cũng là xuất phát điểm của Công ty là
nhập khẩu tàu cũ về để đóng mới và sửa chữa phục vụ nhu cầu trong nước và
xuất khẩu sang nước ngoài. Cùng với việc nhập khẩu tàu cũ từ nước ngoài về,
thay vì vận chuyển tàu không, Công ty vận chuyển thêm sắt thép phế nhập khẩu
trên những con tàu nhập khẩu đó, tránh sự lãng phí và tiết kiệm được chi phí
nhập khẩu . Hơn nữa, hoạt động đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ của Công ty
cũng cần sử dụng lượng sắt thép phế liệu lớn, do đó thay vì mua lại ở thị trường
trong nước, Công ty nhập khẩu trực tiếp thì giá sẽ thấp hơn.
Như vậy, hoạt động nhập khẩu thép phế liệu không chỉ giúp cho Công ty
tăng doanh thu và lợi nhuận trong kinh doanh mà còn đáp ứng kịp thời nhu cầu
thị trường góp phần bình ổn lại thị trường thép trong nước và cũng không trái với
quy định pháp luật Việt Nam.
2.2 Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu
thủy Ngô Quyền
a) Giai đoạn 1996 –1999:
Như đã trình bày ở trên, tiền thân của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô
Quyền là Xưởng phá dỡ tàu cũ và sản xuất khí công nghiệp thuộc Tổng công ty
Vinashin, với chức năng đó thì mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của Xưởng
đều phải dựa trên chỉ tiêu, mệnh lệnh của Tông công ty, chưa thực sự tự ý thức
và phát huy tối đa mọi tiềm năng có được để đạt hiệu quả cao. Sau khi có quyết
định thành lập Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền và trở thành một trong
29 đơn vị hạch toán độc lập, Công ty đã chủ động trong kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh của mình. Công ty đã có nhiều đổi mới,
phát huy tối đa mọi nguồn lực có thể có để từng bước nâng cao chất lượng kinh
doanh nói chung và kinh doanh thép phế liệu nhập khẩu nói riêng.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
Bảng 1. Sản lượng và kim ngạch nhập khẩu (KNNK) thép phế liệu
của Công ty giai đoạn 1996 – 19995
STT Năm Sản
lượng(tấn)
KNNK
(USD)
1 1996 1130 63000
2 1997 1350 77000
3 1998 2300 138000
4 1999 3050 189100
Bảng 1 cho thấy sản lượng và kim ngạch nhập khẩu của Công ty nhìn
chung tăng từ năm 1996 đến năm 1999. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này là không
đều giữa các năm: giai đoạn 1996 – 1997 tăng thấp - sản lượng tăng 20%,
KNNK tăng 22%, 1997 – 1998 tăng mạnh - sản lượng tăng 70%, KNNK tăng
79%, 1998 – 1999 sản lượng tăng 33%, KNNK tăng 37%. Năm 1998 có sự tăng
trưởng mạnh như vậy là do Nhà nước đã cho phép nhập khẩu mặt hàng này và từ
năm nay sản lượng nhập khẩu vào Việt Nam nhìn chung tăng cao do nhu cầu
nguyên liệu cho ngành thép lớn. Qua phân tích cũng cho thấy mức độ tăng sản
lượng và KNNK không bằng nhau- KNNK thường tăng cao hơn sản lượng trong
cùng một thời kì, nguyên nhân chủ yếu là do giá thép phế liệu trên thị trường
trong nước và Thế giới đang biến động theo xu hướng ngày càng tăng.
Trong giai đoạn đầu thành lập, ngành kinh doanh “nhập khẩu thép phế liệu
của Công ty còn non trẻ, chủ yếu thực hiện theo phương thức “nhập khẩu tàu cũ
về phá dỡ để sản xuất sắt thép. Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh “ thép
phế liệu nhập khẩu” trong giai đoạn này chưa thực sự làm ăn có hiệu quả, doanh
thu thấp, hình9thức kinh doanh còn manh mún, nhỏ bé, phân tán. Doanh thu từ
hoạt động kinh doanh này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu của Công
5 Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty giai đoạn 1996 - 1999
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
ty, do đó chỉ có thể được tính gộp vào là doanh thu chung của ngành “ phá dỡ
tàu”.
* Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do:
1. Do mới thành lập nên vốn của Công ty còn hạn hẹp, nên không thể thực
hiện các hợp đồng lớn về nhập khẩu tàu cũ được, mà sản lượng thép phế liệu
hoàn toàn dựa vào số lương tàu cũ nhập về để phá dỡ. Điều này dẫn đến sản
lượng thép phế liệu của Công ty thấp. Ngoài ra, mới thành lập cũng là nguyên
nhân tạo ra sự bất lợi về thời gian và điều kiện gia nhập thị trường chưa đủ để
tạo lập cho mình một vị trí và chỗ đứng trên thị trường trong và ngoài nước. Vì
vậy Công ty chưa khẳng định được uy tín của mình, Điều này khiến cho công
việc kinh doanh của Công ty gặp rất nhiều khó khăn: khó khăn trong việc ký kết
các hợp đồng nhập khẩu tàu cũ (khó khăn trong khâu đầu vào), các doanh nghiệp
trong nước còn ít biết đến sự tồn tại của Công ty hoặc nếu có biết thì vẫn chưa có
cơ sở để họ đặt niềm tin để kí các hợp đồng mua sắt thép phế liệu của Công ty
(khó về đầu ra).
3. Nhiệm vụ đóng tàu gặp nhiều khó khăn, dẫn đến sản lượng thép phế
liệu thấp: Do từ sau khi Nhà nước cho phép các doanh nghiệp được phép phá dỡ
tàu cũ để lấy sắt thép phế liệu, khiến cho ngày càng có nhiều doanh nghiệp phá
dỡ tàu cũ nên việc mua tàu cũ bị căng giá.
4. Việc làm thủ tục mua bán còn nhiều phiền toái, phụ phí cao, nhất là đối
với tàu cũ của nước ngoài. Nhiều khi bế tắc sản xuất do khâu thủ tục phải “qua”
nhiều “ cửa”, nhiều “dấu”, đối tác mất niềm tin, Công ty mất nguồn cung.
5.Mặt khác, lúc bấy giờ quy trình công nghệ phá dỡ tàu để sản xuất sắt
thép phế liệu còn rất xa lạ đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp vừa tự sản xuất
vừa tự rút ra quy trình công nghệ sản xuất cho mình. Do vậy năng suất thấp, việc
quản lý lao động rất khó khăn, khó giao chỉ tiêu, khó đạt mức khoán, khó quản lý
sản phẩm và tài sản dễ dẫn đến lãng phí, hao hụt, mất mát...
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
6. Giá phế liệu không ổn, do việc cung cấp sản phẩm khi thì dồn dập, khi
thì khan hiếm
7.Chất lượng công nhân viên làm việc chưa có chuyên môn kĩ năng cao
dẫn đến năng suất lao động thấp, sản lượng thép phế liệu thấp.
Từ những nguyên nhân trên dẫn đến việc kinh doanh “ thép phế liệu nhập
khẩu” nói riêng và hiệu quả kinh doanh của cả Công ty nói chung chưa cao. Tính
cho tới cuối năm 1999, doanh thu của cả ngành “phá dỡ tàu cũ” ước tính đạt trên
20 tỷ VNĐ.
Thực trạng trên đòi hỏi Công ty phải có sự đổi mới từ công tác tổ chức,
quản lý, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ cho tới việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty.
* Giai đoạn 2000- 2004
Trước thực trạng làm ăn kém hiệu quả như vậy, Công ty đã phải sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau để góp phần cải thiện lại tình hình. Trước hết phải kể
đến sự đổi mới trong phương thức kinh doanh: thay vì nhập khẩu thép phế liệu
hoàn toàn dưới hình thức “ nhập khẩu tàu cũ về phá dỡ để sản xuất thép phế
liệu”, nay Công ty đã tiến hành nhập khẩu trực tiếp thông qua thu mua thép phế
liệu. Điều này giúp cho sản lượng thép phế liệu mà Công ty nhập khẩu tăng cao.
Bảng2.
Sản lượng và kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp
tàu thuỷ Ngô Quyền6
TT NĂM SẢN LƯỢNG(TẤN) KNNK( USD) THỊ TRƯỜNG
1 2000 7.500 562.500 100%châu âu
2 2001 11.000 847.000 100%châu âu
6 Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty giai đoạn 2000 -
2004
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
3 2002 13.700 2.856.000 70%châu âu, 30%châu á
4 2003 16.000 4.080.000 90%châu á, 10%châu âu
5 2004 21.000 6.447.000 70%châu á,30%châu âu và mỹ
Từ bảng trên cho thấy, số lượng thép phế liệu Công ty nhập khẩu tăng
nhanh trong giai đoạn 2000- 2004, tuy nhiên sự tăng trưởng này không đồng đều
giữa các năm: 2000- 2001 tăng 3500 tấn (tăng trên 40%), 2001- 2002 tăng 2000
tấn( tăng 18%), 2002- 2003 tăng 3000 tấn (tăng 24%), 2003- 2004 tăng 5000 tấn
(tăng 30%). Mặc dù, sự tăng sản lượng thép phế nhập khẩu của Công ty trong
những năm qua là không đồng đều cả về số lượng và tỷ lệ tăng trưởng giữa các
năm, nhưng nhìn chung sản lượng thép phế nhập khẩu của Công ty đã tăng khá
cao từ năm đầu giai đoạn (năm2000) cho tới năm kết thúc giai đoạn (năm 2004)
từ 7.500tấn lên tới 21.000tấn ( tăng 180%). Cùng với sự tăng lên về số lượng thì
KNNK đối với mặt hàng này cũng tăng với mức tăng cao hơn. Đặc biệt là trong
giai đoạn 2001 – 2004, KNNK tăng tới mức chóng mặt (tăng 5.600.000 – tương
ứng trên 660%). Nguyên nhân chủ yếu là do giá thép trong giai đoạn này tăng
cao( tăng từ 77USD/tấn năm 2001 lên tới 307USD/tấn năm 2004),và một phần
cũng là do sản lượng tăng cao. Trong 6 tháng đầu năm 2005, sản lựong thép phế
liệu nhập khẩu của Công ty đạt 16.450tấn, đạt 57% kế hoạch năm, KNNK đạt
trên 5triệu USD. Mặc dù con số này còn rất nhỏ so với tổng KNNK của Việt
Nam nhưng nó cũng góp phần bình ổn lại thị trường đang trong tình trạng hỗn
loạn cung – cầu về thép. Nếu tiếp tục duy trì ở mức tăng trưởng như vậy việc
hoàn thành và vượt mức chỉ tiêu năm nay của Công ty sẽ là tất yếu.
Từ bảng 2 cũng cho ta thấy sự thay đổi đáng kể về thị trường nhập khẩu
của Công ty, chuyển dịch từ nhập khẩu thép phế liệu hoàn toàn từ Châu Âu (năm
2000, 2001 nhập khẩu 100%) dần sang nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Châu á (
hiện nay lượng thép phế nhập khẩu từ châu á chiếm trên 70%).
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi trên? Trước đây, bạn hàng
truyền thống của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền là các nước nằm
trong khu vực Châu Âu, Công ty chủ yếu tiến hành các hoạt động kinh doanh ở
khu vực thị trường này, do đó việc thép phế liệu được nhập khẩu 100% từ đây là
hoàn toàn phù hợp . Tuy nhiên đó chỉ mang tính tạm thời và tình thế. Xuất phát
từ mục tiêu tăng doanh thu và lợi nhuận, đòi hỏi Công ty phải chủ động tìm kiếm
những khu vực thị trường mới có giá rẻ hơn, có nhiều lợi thế đối với công việc
kinh doanh của mình. Thị trường Châu á bao gồm các nước nằm trong cùng khu
vực địa lý, có cùng chung đường bờ biển, hoặc là những nước có đường biên
giới giáp với Việt Nam, vì vậy thuận lợi rất nhiều cho các hoạt động giao lưu
kinh tế văn hoá giữa ta với các nước bạn nói chung và cho hoạt động nhập khẩu
của Công ty nói riêng. Điều này giúp cho Công ty tiết kiệm được chi phí và thời
gian từ khâu nghiên cứu thị trường, kí kết hợp đồng và cuối cùng là vận chuyển
thép phế liệu về nước. Khoảng cách giữa Việt Nam và các nước Châu á là tương
đối gần so với Châu âu, vì vậy ta có bắt thể nắm bắt tình hình thị trường và có
thông tin nhanh về sự thay đổi của thị trường này giúp ta có sự điều chỉnh nhanh,
chính xác và kịp thời. Ngoài ra, lợi thế có chung đường bờ biển sẽ tạo lợi thế cho
việc tiến hành mua bán ngoại thương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực,
do việc vận chuyển dễ dàng, mà thép phế liệu do Công ty tàu thuỷ Ngô Quyền
nhập khẩu được coi là mặt hàng cồng kềnh, có trọng tải lớn nên phương tiện vận
chuyển chủ yếu là bằng tàu thuỷ. Trên cơ sở đó cho thấy quyết định chuyển
hướng thị trường này của Công ty là đúng đắn, phù hợp với thực tế kinh doanh
của Công ty.
3. Cơ cấu, giá, chất lượng và thị trường nhập khẩu thép phế liệu của
Công ty
* Về cơ cấu nhập khẩu: Do chính sách bảo hộ ngành thép của Nhà nước
nên hoạt động nhập khẩu thép phế liệu có những bước phát triển đáng kể nhằm
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
đáp ứng thị trường về cơ cấu, chủng loại, chất lượng. Trong số các mặt hàng
được phép nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật, cơ cấu nhập
khẩu của Công ty chủ yếu tập trung vào 2 mặt hàng sau: Thép phế liệu dùng cho
cán kéo chiếm 48% tổng KNNK, thép phế liệu dùng cho nấu chảy chiếm 45%
tổng KNNK của Công ty.
* Về giá nhập khẩu: Cũng như hầu hết các đơn vị kinh doanh với mục tiêu
cuối cùng là lợi nhuận thì việc xem xét và lựa chọn giá trước khi kí hợp đồng
mua bán là rất cần thiết. Đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu, giá cả ở một
số thị trường lớn đóng vai trò quyết định và là cơ sở để người mua chấp nhận giá
từ phía chào hàng đưa ra. Đối với Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền cũn
vậy: Sau khi nhận được đơn chào hàng của nước ngoài chào bán, cơ sở để tính
giá nhập khẩu của Công ty là giá ở một số thị trường thép phế liệu lớn trên thế
giới, hoặc có thể tham khảo giá của bạn hàng truyền thống Châu Âu hay giá trên
các tạp chí , bản tin có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, Công ty không thể không
tính đến giá đầu ra cho mặt hàng này nhằm đảm bảo thu lợi nhuận và làm ăn có
hiệu quả. Để đi đến quyết định có chấp nhận giá của phía chào hàng đưa ra hay
không, Công ty phải tính toán phần chênh lệch giữa giá thép phế liệu nhập khẩu
và giá bán lại ở thị trường trong nước, sau khi trừ đi các khoản chi phí có liên
quan có thu được lợi nhuận không và khoản lợi nhuận thu được này có được coi
là hiệu quả kinh doanh hay không? Hiện nay, giá nhập khẩu và giá bán lại thép
phế trên thị trường Việt Nam của Công ty: Tuỳ từng chủng loại mà Công ty sẽ
nhập khẩu và bán lại với các mức giá khác nhau:
- Loại thép phế liệu dùng cho Cán kéo: Công ty nhập khẩu với giá là 270-
280 USD/ tấn giá CNF Cảng Hải Phòng (chưa có thuế VAT, bảo hiểm, phí mở
L/C, phí giao nhận bốc xếp Cảng, phí giám định...), giá bán loại này trên thị
trường hiện nay: từ 4.800.000đ/tấn đến 5.400.000đ/tấn tuỳ thuộc vào kích thước
và chủng loại cụ thể.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
- Loại thép phế liệu dùng cho nấu chảy: giá nhập khẩu là 225 USD/tấn giá
CNF Hải Phòng (chưa có thuế VAT, bảo hiểm, phí mở L/C...), giá bán
3.900.000đ/tấn- 4.100.000đ/tấn( chỉ bán cho các lò luyện phôi thép, như: Công
ty gang thép Thái nguyên, Thép Hoà Phát...).
Ngoài việc thụ động chờ phía chào hàng đưa ra đơn giá, sau đó so sánh và
đưa ra quyết định có chấp nhận giá đó hay không, Công ty cũng đẩy mạnh công
tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường để chuyển mình sang thế chủ động tìm đến
những thị trường mới có giá thấp và đảm bảo cung cấp ổn định, lâu dài cho Công
ty.
* Về chất lượng thép phế liệu nhập khẩu: Chất lượng là một trong những
điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Vì vậy, phải đề cập chi tiết, cụ thể về chất
lượng và quy cách phẩm chất của hàng hoá để tránh xảy ra sự tranh chấp giữa
người bán và người mua. Mỗi một mặt hàng có những quy định riêng về tiêu
chuẩn phẩm chất và ở mỗi nước lại có những quy định khác nhau về mặt hàng
đó, đối với thép phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam cũng vậy. Nhưng khi tham gia
vào buôn bán ngoại thương thì phải sử dụng những tiêu chuẩn mang tính quốc tế.
Đối với việc nhập khẩu thép phế liệu, Nhà nước ta vẫn chưa có văn bản
pháp lý cụ thể quy định về tiêu chuẩn đối với mặt hàng này. Vì vậy khi nhập
khẩu thép phế các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì họ chưa có một
tiêu chuẩn nào để dựa vào đó mà xem xét, xác định thép phế liệu do doanh
nghiệp mình nhập khẩu về có đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không. Do đó, đã có
nhiều ý kiến kiến nghị về vấn đề này, trong đó đáng kể nhất là ý kiến của Tiến sĩ
Nguyễn Văn Sưa - kiến nghị Nhà nước cần đưa ra các tiêu chuẩn về thép phế và
của ông Phạm Chí Cường- kiến nghị Nhà nước cần xây dựng các tiêu chuẩn chất
lượng cho sắt thép phế dựa trên tiêu chuẩn quốc tế. Những ý kiến này được đưa
ra đều nhằm giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc xác định tiêu chuẩn
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
chất lượng đối với thép phế nhập khẩu, khiến cho hoạt động nhập khẩu được dễ
dàng hơn.
Tuy nhiên, việc nhập khẩu thép phế nói riêng và nhập khẩu các phế phẩm
vào Việt Nam nói chung luôn phải đảm bảo quy định của Bộ Tài nguyên - môi
trường, đó là: “không biến Việt Nam thành bãi giác của thế giới”.
Hiện nay, chất lượng thép phế do Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô
Quyền nhập khẩu không chỉ đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn
của Việt Nam theo quy định pháp luật (Quyết định số 03/QD- BTNMT của Bộ
tài nguyên môi trường) đối với mặt hàng này mà còn phù hợp và có thể phục vụ
cho công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ của Tổng Công ty, các loại thép
có khả năng tái chế được để phục vụ cho sản xuất.
* Về thị trường nhập khẩu: Xây dựng thị trường nhập khẩu ổn định vững
chắc và lâu dài có ý nghĩa to lớn trong quá trình nhập khẩu trước mắt cũng như
lâu dài. Làm tốt phương châm này là góp phần tích cực vào sự phát triển của
Công ty nói riêng và của Tổng Công ty Vinashin nói chung. Do vậy mà Công ty
luôn duy trì những thị trường nhập khẩu ổn định để tạo điều kiện thuận lợi cho
công việc kinh doanh của mình.
Trong giai đoạn đầu của công cuộc xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế của ta
vận hành theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp thì bạn hàng chủ yếu là Liên
Xô cũ và các nước thuộc khối SEV. Trong đó tổng sản lượng thép nhập khẩu từ
các nước này chiếm 90 - 95%. Sau một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, nền kinh tế của ta còn nghèo nàn, lạc hậu - cơ sở hạ tầng còn thấp kém, công
nghệ kĩ thuật chưa phát triển khiến cho nền sản xuất của ta còn yếu kém, chưa
thể tự mình đáp ứng được những nhu cầu trong nước, do đó việc nhập khẩu thép
thành phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước là phù hợp và không thể tránh khỏi.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
Từ năm 1986 trở lại đây, Việt Nam thực hiện cơ chế đổi mới, từng bước
tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá, ngành sản xuất thép trong nước đã có
sự chuyển mình. Thay cho nhập khẩu thép thành phẩm , Việt Nam nhập khẩu
phôi thép và thép phế liệu về để phục vụ cho ngành luyện kim, từ đó tự mình sản
xuất thép và từng bước đáp ứng nhu cầu trong nước. Đây là kết quả đáng mừng
cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và cho sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá ở nước ta nói riêng- Việt Nam từ chỗ là một nước nhập khẩu thành
phẩm là chính nay đã trở thành một thị trường nhập khẩu nguyên liệu về để tự
mình sản xuất
Cơ chế mở cửa đã giúp Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ kinh tế với
các nước trên thế giới, thực hiện phương châm của Đảng “ Việt Nam muốn trở
thành bạn của tất cả các nước trên thế giới”. Trên cơ sở đó, bạn hàng của Việt
Nam không còn chỉ hạn chế là Liên Xô cũ và các nước thuộc khối SEV mà đã
mở rộng ra ở tất cả các nước trong khu vực và thế giới. Điều này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho Công ty có nhiều cơ hội để lựa chọn và xác định bạn hàng cho phù
hợp với nhu cầu và ngành nghề kinh doanh của mình, hơn nữa còn giúp cho
Công ty có điều kiện tiến hành phân tích kỹ lưỡng và phân loại thị trường nào sẽ
mang lại hiệu quả kinh tế cao cho mình.
Phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, Công ty nhập khẩu thép phế liệu
chủ yếu từ thị trường Châu á và các nước thuộc khu vực Châu Âu và một số
lượng nhỏ từ các nước khác (Nhập khẩu từ Châu á chiếm 70%, Châu Âu và các
nước khác chiếm trên 30% tổng sản lượng thép phế liệu nhập khẩu của Công ty).
Các yếu tố dẫn tới việc quyết định lựa chọn thị trường của Công ty: giá cả, chất
lượng, số lượng và một vài yếu tố khác.
4. Tình hình tiêu thụ thép phế liệu nhập khẩu của Công ty
Thị trường trong nước hiện nay, cầu luôn luôn lớn hơn cung, vì vậy mà số
lượng thép phế Công ty nhập về luôn được tiêu thụ hết, Công ty bán lại sản
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
phẩm này với mức giá vừa phải, phù hợp với giá bán trên thị trường và đảm bảo
Công ty làm ăn có lãi. Tuỳ thuộc vào từng loại mà giá bán chúng có sự khác
nhau, ví dụ: thép dùng cho cán kéo giá bán là 4.800.000đ/tấn- 5.400.000đ/tấn,
thép phế liệu dùng cho nấu chảy từ 3.900.000đ đến 4.100.000đ/tấn
4.1. Thị trường tiêu thụ thép phế của Công ty:
- Các Công ty có chức năng kinh doanh sắt thép phế liệu ở Hải Phòng.
- Làng cán kéo thép Đa hội- Bắc Ninh.
- Làng nghề Nam Định.
- Một số cơ sở cán kéo thép ở Hải Phòng, Hà Nội.
- Công ty gang thép Thái Nguyên.
- Công ty cổ phần thép Hoà Phát....
4.2. Hình thức tiêu thụ
- Bán cả lô cho một đơn vị hoặc nhà máy.
- Bán chọn lọc từng phần nhỏ trong lô hàng nhập khẩu về cho các đơn vị
cá nhân, làng nghề theo nhu cầu người mua hàng.
- Bán hàng trên Bill khi hàng đang trên đường về.
4.3 Phương thức tiêu thụ:
- Bán thanh toán 100% tiền mặt hoặc chuyển khoản.
- Bán giao hàng và thu tiền dần, người mua phải chịu lãi suất của số tiền
chậm trả theo mức lãi suất của ngân hàng.
- Bán theo bảo lãnh ngân hàng của người mua ( nếu người mua là lần đầu
hoặc chưa có uy tín trên thị trường).
Như vậy, Công ty đã tận dụng mọi hình thức và phương thức bán hàng để
tiêu thụ hàng với số lượng lớn nhất có thể, và chúng phải đảm bảo khả năng an
toàn cho công tác bán hàng của Công ty tránh những rủi ro có thể xảy ra gây thất
thoát và thiệt hại cho Công ty.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
5. Kết quả kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công
nghiệp tàu thủy Ngô Quyền
Trong 5 năm gần đây, nhìn chung tình hình sản xuất của Công ty ổn định
và phát triển, doanh thu năm sau tăng 30% so với năm trước. Hoạt động nhập
khẩu thép phế liệu của Công ty đã hỗ trợ rất nhiều cho các đơn vị luyện thép
trong nước, cung cấp đầu vào cho sản xuất, góp phần tạo môi trường cạnh tranh
làng mạnh trong nước. Hàng năm đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng tỷ
đồng thông qua việc đóng thuế (thuế doanh thu, thuế VAT…). Trong đó chủ yếu
là 2 ngành kinh doanh chính là : sản xuất khí công nghiệp; phá dỡ tàu cũ và nhập
khẩu thép phế liệu. Trong đó, đóng góp của hoạt động “ phá dỡ tàu cũ và nhập
khẩu thép phế liệu là rất lớn trong tổng doanh thu của cả Công ty. Để minh
chứnh cho điều này, ta có thể làm một phép so sánh đơn giản giữa doanh thu từ
hoạt động kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu với doanh thu từ sản xuất khí
công nghiệp trong cùng kì: Năm 2000 doanh thu từ nhập khẩu thép phế liệu là
17,75 tỷ VNĐ, trong khi đó sản xuất khí công nghiệp chỉ đạt doanh thu 2,7 tỷ
(gấp 7 lần); so sánh tương tự, trong năm 2004 nhập khẩu thép phế liệu đạt 84 tỷ
VNĐ - gấp 14 lần sản xuất khí công nghiệp (5,85 tỷ VNĐ). Sở dĩ có sự chênh
lệch như vậy là do: hoạt đông sản xuất khí công nghiệp chủ yếu phục vụ cho
công nghiệp phá dỡ trong Công ty và Tổng công ty, chỉ phần nhỏ còn lại là đem
ra tiêu thụ trên thị trường.
Bảng 3
Bảng doanh thu và lợi nhuận từ “nhập khẩu thép phế liệu”
của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô quyền7
7 Báo cáo tổng kết tình hình kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty giai đoạn 2000 - 2004
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
TT NĂM ĐƠN VỊ TÍNH DOANH THU LỢI NHUẬN
1 2000 1000đ 18.750.000 562.500
2 2001 1000đ 29.700.000 891.000
3 2002 1000đ 43.840.000 1.096.000
4 2003 1000đ 56.000.000 1.120.000
5 2004 1000đ 84.000.000 1.680.000
Từ bảng 3 cho ta thấy: doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động “nhập khẩu
thép phế liệu” của Công ty tăng tỷ lệ thuận với mức tăng sản lượng thép phế
nhập khẩu. Do nhu cầu đối với thép phế liệu ở thị trường trong nước ngày càng
tăng, cung không đủ đáp ứng cầu nên lượng thép phế do Công ty nhập về không
bị tồn kho, nhập về bao nhiêu lại xuất ra hết bấy nhiêu. Thông thường, giá tăng
sẽ dẫn đến cầu giảm, nhưng vì trong giai đoạn hiện nay, sắt thép được coi là mặt
hàng thiết yếu đối với người dân nên nhu cầu tiêu dùng sắt thép là cần thiết, mà
nguyên liệu chính cho công nghiệp luyện thép lại là thép phế liệu. Do đó, cầu đối
với mặt hàng này không còn phụ thuộc nhiều vào giá cả nữa (mặc dù giá thép
phế liệu tăng cao - trong vòng 3 năm tính từ đầu năm 2001 đã tăng lên gấp 3 lần
từ 77USD/tấn lên đến 307USD/tấn). Giá thép phế liệu tăng cao là một trong
những nhân tố tạo lên sự tăng nhanh cả về doanh thu và lợi nhuân của Công ty.
. Năm 2000-2001: doanh thu và lợi nhuận tăng 58,4%
. Năm 2001-2002: doanh thu và lợi nhuận tăng 47,6%
. Năm 2002-2003: doanh thu và lợi nhuận tăng 27,8%
. Năm 2003-2004: doanh thu và lợi nhuận tăng 50%
Nhìn chung, doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động “nhập khẩu thép phế
liệu“ của Công ty đều tăng ở năm sau so với cùng kì năm trước, xét trong cả giai
đoạn, doanh thu và lợi nhuận tăng mạnh( doanh thu từ 18,75 tỷ đồng năm 2000
lên tới 84 tỷ đ vào năm 2004 – tức là tăng 65,25tỷ, lợi nhuận từ 562 triệu đ lên
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
tới 1680 triệu đ)- tăng 348% doanh thu và 200% lợi nhuận.Tuy nhiên, tỷ suất
tăng trưởng không đều giữa các năm, giai đoạn từ 2000 đến 2003 lại có xu thế
giảm (từ 58,4% xuống 47,6% và cuối cùng là giảm xuống 27,8%), bước sang
năm 2004 nó lại tăng mạnh (từ 27,8% lên đến 50%).
Trong 5 năm qua chức năng này được Công ty thực hiện và phát huy
tương đối tốt, dựa trên các lợi thế sau:
+ Đội ngũ cán bộ công nhân viên được đào tạo và sát hạch với tình hình
thực tế nhiều. Công tác này được tiến hành bằng việc mở các lớp, khoá học định
kì để đạo tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với ngành
nghề kinh doanh của Công ty, hướng dẫn cho công nhân viên xuống thị trường
để tìm hiểu và bám sát thị trường từ đó nâng cao hiệu quả công việc
+ Lợi thế về vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong việc vay vốn của
các tổ chức tín dụng. Công ty được thành lập với vai trò là một đơn vị kinh
doanh Nhà nước, do Nhà nước quản lý. Chính vì vậy mà đối với các tổ chức tín
dụng, Công ty thuộc diện được ưu tiên khi xét duyệt việc cấp vốn. Hơn nữa,
Công ty Nhà nước được coi là chứa đựng ít rủi ro nhất, vì vậy việc vay vốn của
Công ty thuận lợi hơn.
+ Lợi thế về mặt bằng và công nghệ phá dỡ. Công ty có mặt bằng rộng lớn
dành cho việc phá dỡ, mấy năm gần đây Công ty đã đầu tư 1 dây truyền hiện đại
dành cho phá dỡ tàu, do đó công tác phá dỡ được tiến hành nhanh gọn, an toàn
và dễ dàng...giúp nâng cao hiệu quả
+ Uy tín với ngân hàng và các khách hàng trong và ngoài nước: Uy tín với
ngân hàng và khách hàng nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi trong khâu nhập
khẩu của Công ty, các hợp đồng mua bán, thanh toán và mở L/C được thực hiện
nhanh.Tạo lập được uy tín với khách hàng trong nứơc giúp Công ty có được
thêm nhiều hợp đồng bán sản phẩm của mình và ngày càng mở rộng thị trường.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
+ Ngoài ra, thị trường đầu ra của chủng loại hàng hoá này là rất lớn( cầu
luôn lớn hơn cung), như đã được phân tích ở trên đối với nhu cầu này là rất lớn –
cầu luôn lớn hơn cung (như đã phân tích ở trên).
Việc đổi mới, cải tiến hoạt động kinh doanh “nhập khẩu thép phế liệu”
theo hướng ngày càng nâng cao năng lực và chất lượng kinh doanh góp phần làm
tăng doanh thu và lợi nhuận , từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công
ty. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, hoạt động kinh doanh nhập
khẩu thép phế liệu còn một số vấn đề từ phía Nhà nước và cả phía công ty:
+ Trước hết cần phải kể đến sự cạnh tranh của các đơn vị ngoài
ngànhtham gia nhập khẩu thép phế liệu: Trong cơ chế thị trường, hệ thống các
công ty tư nhân rất phát triển. Do cơ chế thoáng, họ đã nhập ủy thác, nhập trực
tiếp, lậu thuế… tạo thành sự cạnh tranh gay gắt về giá và một sự cạnh tranh gay
gắt đáng sợ hơn cả là cơ chế thưởng, gửi giá …bất chấp mọi quy chế tài chính
mà Công ty phải chấp hành đầy đủ. Trong khi đó, hệ thống phân phối của Công
ty này vẫn trông mong vào sự mua lại của các công ty luyện thép và các làng
nghề thủ công.
+ Nhà nước chưa có văn bản pháp lý cụ thể quy định chi tiết về quy cách
phẩm chất đối với thép phế liệu nhập khẩu.
+ Thủ tục Hải quan phải qua nhiều khâu, nhiều cửa gây nên nhiều khó
khăn cho các đơn vị kinh doanh nhập khẩu trong khâu làm thủ tục nhập khẩu.
+ Tồn tại cần được đề cập ở đây là sự yếu kém của một số đơn vị thuộc
khối lưu thông, đầu mối tiêu thụ thép phế liệu nhập khẩu của Công ty. Khối lưu
thông này nay rơi vào tình trạng kém năng động nhường hầu hết thị trường bán
lẻ cho các công ty tư nhân.
+ Thị trường nhập khẩu chủ yếu của Công ty là Châu á luôn có những
biến động khó khăn về kinh tế, chính trị khiến cho công tác nhập khẩu của Công
ty gặp nhiều khó khăn, không ổn định.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
+Tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam không ổn định, luôn luôn biến động gây ra
nhiều khó khăn trong công tác nhập khẩu.
+ Hệ thống thông tin tìm hiểu thị trường, bạn hàng, tình hình kinh doanh
nhập khẩu của các đơn vị ngoài ngành… còn chưa đáp ứng được.
+ Đội ngũ cán bộ công nhân viên của Công ty còn yếu kém về năng lực
trong công tác nhập khẩu.
+ Một tồn tại nữa là vốn của Công ty còn hạn hẹp, chưa đủ khả năng thực
hiện các hợp đồng nhập khẩu lớn ; diện tích mặt bằng dành cho phá dỡ tàu còn
hạn chế; công nghệ phá dỡ còn lạc hậu…
CHƯƠNG II
KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
1) Căn cứ vào các chỉ tiêu phát triển ngành thép
Thực tế cho thấy mức tiêu thụ thép phụ thuộc vào mức tăng GDP, mức tăng dân
số, số vốn đầu tư chính phủ phân bổ cho các dự án phát triển kinh tế trong nước.
Chính vì vậy, việc dự đoán được các chỉ tiêu trên là cơ sở để đưa ra dự đoán về
nhu cầu tiêu thụ thép trong tương lai. Tuy nhiên để có thể dự đoán được các chỉ
tiêu đó thì các con số trong quá khứ và thực tế lại rất cần thiết. Năm 1999 –
2000, mức tăng trưởng GDP là 6 – 7%, thì dự kiến giai đoạn 2001 – 2010 GDP
sẽ tăng 10 – 12%. Bên cạnh những chỉ tiêu đó thì, thực tế tiêu thụ thép trong
nước trong những giai đoạn trước cũng góp phần giúp các Bộ, Ngành đưa ra
những dự đoán chính xác hơn.
Trên cơ sở dự đoán mức tăng GDP giai đoạn 2001 – 2010 và thống kê của
một số hãng kinh doanh lớn (Nippon steel, Nippon kokan, BHP, Posco…) và
mức tiêu thụ thép thực tế của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, Bộ công nghiệp
dự báo nhu cầu tiêu thụ thép năm 2010 sẽ là 7,7 triệu tấn.
Qua đó ta thấy, đối với nước ta đang ở thời kì cất cánh thì nhu cầu tiêu thụ
thép giai đoạn 2000- 2005 là 13%, 2005- 2010 là 7% là tương đối phù hợp với sự
tăng trưởng các nứơc trong khu vực. Nhưng vấn đề đặt ra với Việt Nam là: ta sẽ
lấy thép ở đâu để phục vụ cho nhu cầu về thép đang ngày càng tăng như vậy?
Hiện nay, ngành luyện kim của ta mới chỉ đáp ứng được trên 50% nhu cầu
tiêu thụ thép trong nước, số còn lại là từ nguồn thép nhập khẩu. Trong đó,
nguyên liệu chính phục vụ cho ngành luyện kim không phải là quặng khai thác
được trong nước mà là thép phế nhập khẩu từ nước ngoài là chủ yếu.
Theo tính toán cho thấy: Nếu một máy công suất 200.000tấn phôi/năm thì
thép phế thu gom được trong nước ước tính nhiều nhất chỉ được 80.000tấn, phần
còn lại là nhập khẩu. Hiệp hội thép Việt Nam cho biết: mỗi năm ngành thép cần
1,5- 2triệu tấn thép phế liệu phục vụ cho sản xuất và lượng thép phế này chủ yếu
có được từ nguồn nhập khẩu.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
Từ phân tích nhu cầu đối với thép phế liệu ở trên cho ta thấy được tầm
quan trọng của nhập khẩu thép phế đối với ngành thép nói riêng và nền kinh tế
quốc dân của Việt Nam nói chung.
2) Xuất phát từ lợi ích của Công ty:
Hoạt động nhập khẩu thép phế liệu suy cho cùng cũng là nhằm mục đích
tăng doanh thu và lợi nhuận cho Công ty. Như trên đã phân tích, mức tăng
trưởng của Công ty hàng năm đạt tới 30%/năm. Trong đó doanh thu từ hoạt động
kinh doanh thép phế liệu nhập khẩu đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng
trưởng đó ( chiếm trên 60% ). Để có được kết quả đó, tất cả các hoạt động kinh
doanh của Công ty nói chung và kinh doanh thép phế liệu nói riêng phải đạt
được hiểu quả. Ngoài chức năng thu lợi nhuận cho Công ty, việc nhập khẩu thép
phế còn có một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, đó là góp phần
bình ổn lại thị trường thép ở trong nước- nhập khẩu thép phế liệu giúp các doanh
nghiệp sản xuất thép ổn định về nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, từ đó
giúp giảm bớt sự biến động của thị trường thép trong nước do nhu cầu đối với
mặt hàng này đang tăng mạnh.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu là rất cần thiết
đối với Công ty, cũng như đối với nền kinh tế nước ta.
II. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU THÉP
PHẾ LIỆU
1. Kiến nghị đối với nhà nước
Như trên đã trình bày, còn khá nhiều vấn đề tồn tại trong công tác quản lý
Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu thép phế liệu gây khó khăn cho các
doanh nghiệp nhập khẩu. Trong khi đó, công tác quản lý nhập khẩu của nhà
nước đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nhập khẩu thép phế
liệu. Vì vậy, trên cơ sở phân tích những tồn tại ở trên, để nâng cao chất lượng
nhập khẩu thép phế liệu, người viết đưa ra những kiên nghị sau:
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
+ Hiện nay, nước ta đã có thể sản xuất ra một số mặt hàng thép để phục vụ
nhu cầu trong nước. Đối với những mặt hàng này, Nhà nước nên áp dụng các
biện pháp là rất cần thiết, như: chính sách thuế nhập khẩu (biểu thuế nhập khẩu
có hiệu lực 01/01/1999) và chính sách quản lý nhập khẩu. Thực chất, Nhà nước
cấm nhập những mặt hàng này, nhưng khi tham gia vào hiệp hội: AFTA, WTO...
Nhà nước ta không thể cấm nhập mà chỉ có thể hạn chế nhập thông qua biểu thuế
nhập khẩu( thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng này rất cao- khoảng 40%).
Như vậy, các biện pháp bảo hộ ngành thép mà Nhà nước ta sử dụng đã
góp phần giúp cho ngành luyện thép trong nước ngày một phát triển, từ đó dẫn
tới nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất tăng cao (như thép phế liệu, quặng...) tạo
điều kiện cho các đơn vị nhập khẩu kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, công tác
bảo hộ này vẫn chưa triệt để và thực sự có hiệu quả. Do việc quản lý nhập khẩu
của nước ta chưa chặt chẽ: các cơ quan quản lý nhập khẩu còn tạo ra khá nhiều
kẽ hở cho các đơn vị, cá nhân tiến hành nhập khẩu lậu, chốn thuế gây nên sự
cạnh tranh gay gắt về giá với các doanh nghiệp sản xuất trong nước, do đó gặp
nhiều khó khăn và kinh doanh kém hiệu quả, một số bị phá sản do không có khả
năng cạnh tranh trong môi trường đó. Chính vì vậy, Nhà nước cần sớm có sự
điều chỉnh trong quản lý nhập khẩu thép theo hướng chặt chẽ hơn và xử ly
nghiêm minh đối với các đơn vị, cá nhân cố tình vi phạm.
+ Nhà nước cần phải quản lý tốt hơn hoạt động nhập khẩu thép phế của
các Công ty tư nhân ngoài ngành, tránh tình trạng buôn lậu, trốn thuế... nhờ đó
hàng nhập khẩu của họ bán ra với giá rẻ hơn, gây nên sự cạnh tranh gay gắt về
giá trên thị trường; áp dụng các biện pháp cưỡng chế, bắt buộc họ phải chấp
hành nghiêm chỉnh, đầy đủ mọi quy chế tài chính. Nhờ đó, tạo ra môi trường
cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các đơn vị kinh doanh thép phế liệu
nhập khẩu ở thụ trường trong nước.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
+ Các đơn vị sản xuất thép trong nước đang gặp khó khăn do thiếu nguyên
liệu đàu vào - “Nguy cơ đói nguyên liệu cho ngành sản xuất thép đang dần lộ
diện bởi sự khập khễnh giữa tiêu chuẩn thép phế liệu của Việt Nam với tiêu
chuẩn Thế giới”8. Bộ công nghiệp còn cho biết “theo cân đối thị trường mặt hàng
thép xây dựng, trong năm 2006 các doanh nghiệp sẽ phải nhập khẩu 2triệu tấn
thép phế phục vụ cho nhu cầu của các nhà máy sản xuất thép”9 .Như vậy, nhu
cầu nhập khẩu thép phế liệu của nước ta sẽ là rất lớn. Trong khi đó, các doanh
nghiệp nhập khẩu thép phế liệu đang gặp rất nhiều khó khăn do chưa có tiêu
chuẩn cụ thể đối với thép phế nhập khẩu - Theo Quyết định số 03/QD-BTNMT
của Bộ tài nguyên môi trường, chỉ quy định một số tiêu chuẩn chung chung đối
với phế liệu nhập khẩu nói chung. Vì vậy, việc ban hành các văn bản pháp lý quy
định chi tiết về quy cách phẩm chất đối với thép phế liệu nhập khẩu là rất cần
thiết và phải được tiến hành càng sớm càng tốt. Khi ban hành các quyết định,
thông tư, nghị định...Nhà nước , các Bộ, các Ngành cần đưa ra các văn bản
hướng dẫn chi tiết và thống nhất các cơ quan chức năng thực hiện tốt các quyết
định, thông tư đó...
+ Mặc dù hiện nay Nhà nước ta quy định thuế nhập khẩu đối với thép phế
là 0%, nhưng đây vẫn là mặt hàng nằm trong diện chịu thuế, phải thực hiện kê
khai thuế. Như vậy sẽ gây khó khăn hơn cho các doanh nghiệp khi tiến hành làm
các thủ tục nhập khẩu, mà pháp luật Việt Nam được coi là rườm rà, nhiều khâu
và nhiều cấp quản lý. Vì vậy, nước ta nên tiến hành cải tiến lại bộ máy quản lý
theo hướng ngày càng nâng cao năng lực cán bộ quản lý và tinh giản hoá các thủ
tục pháp lý, giảm bớt sự cồng kềnh trong các khâu pháp lý.
+ Tỷ giá ngoại tệ ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động nhập khẩu, việc tăng giá
đồng ngoại tệ sẽ gây thiệt hại cho các đơn vị nhập khẩu. Trong khi đó, ở Việt
8 "Ng nh thép trước nguy cơ đói nguyên liệu" - VIETNAM NET - 22/10/2003
9 "Năm 2006 Việt Nam nhập khẩu khoảng 2triệu tấn thép phế liệu" - Tổng cục hải quan - 13/10/2005
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
Nam giá ngoại tệ thường xuyên biến động là vấn đề đáng lo ngại cho các doanh
nghiệp nhập khẩu. Chính vì vậy, Nhà nước ta cần phải có chính sách quản lý
ngoại tệ để hạn chế sự biến động về giá ngoại tệ, giúp các doanh nghiệp an tâm
nhập khẩu và từng bước nâng cao chất lượng nhập khẩu của đơn vị mình, trong
đó bao gồm cả đơn vị nhập khẩu thép phế liệu.
2. Kiến nghị đối với Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền
+ Trước hết cần giải quyết những khó khăn về vốn: Mặc dù, hiện nay
Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền đã là một trong 29 đơn vị hạch toán
độc lập của tổng công ty VINASHIN, nhưng Công ty vẫn chưa thực sự chủ
động về nguồn vốn kinh doanh của mình, vốn chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn
cấp của Tổng công ty (Tổng công ty cấp vốn dựa trên quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, vì đây là Tổng công ty của nhà nước), do vậy hoạt động kinh doanh
của Công ty kém hiệu quả. Vì vậy, muốn Công ty làm ăn có hiệu quả hơn thì
Công ty cần chủ động về vốn và chủ động trong kinh doanh. Để làm được điều
này, cổ phần hoá Công ty là vô cùng cần thiết, Nhà nước nên giữ ở vai trò điều
tiết vĩ mô mà thôi. Tiến hành cổ phần hoá sẽ giúp Công ty làm ăn có hiệu quả
hơn, do có thể huy động tối đa mọi nguồn lực trong Công ty (đặc biệt là huy
động vốn từ các thành viên trong Công ty) các thành viên sẽ tự ý thức, tự chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của chính mình, tránh tình trạng
“cha chung không ai khóc” như đã từng xảy ra với nền kinh tế nước ta. Hơn nữa,
cổ phần hoá còn góp phần tăng khả năng sáng tạo, kích thích tư duy của tất cả
công nhân viên trong Công ty.
+ Ngày càng nâng cao chất lượng cán bộ, công nhân viên làm việc cho
Công ty. Đặc biệt là đối với hoạt động nhập khẩu, Công ty đã biết tận dụng và sử
dụng nhiều cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ cao về nhập khẩu để hoạt động này
đạt hiệu quả cao. Việc tuyển công nhân viên được tiến hành hàng năm theo định
kì nhằm giúp Công ty ngày càng đổi mới đội ngũ cán bộ nhân viên theo hướng
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
nâng cao chất lượng. Ngoài ra, Công ty nên mở các khóa đào tạo chuyên môn
cho đội ngũ nhân viên theo chức năng nhiệm vụ của các cá nhân và các phòng
ban, hoặc tạo điều kiện cho các nhân viên đi học để nâng cao nghiệp vụ, chuyên
môn, trong đó cần chú trọng tới công tác nhập khẩu.
+ Mở rộng và nâng cao công tác marketing, các chuyên gia nghiên cứu thị
trường cần phải làm việc nỗ lực hết mình để tìm hiểu và nghiên cứu tìm ra những
khu vực thị trường mới có giá thấp, chất lượng tốt và số lượng phong phú phù
hợp với nhu cầu của Công ty. Công ty cần phải có các chuyên gia marketing phụ
trách một khu vực thị trường nhất định để bám sát tình hình và sự thay đổi của
thị trường đó, trên cơ sở đó Công ty có thể ra các quyết định kịp thời và đúng
đắn.
+Về mặt bằng dành cho phá dỡ: hiện nay, diện tích mặt bằng dành cho phá
dỡ của Công ty còn hạn hẹp – Tổng diện tích Xưởng phá dỡ của Công ty là
1000ha. Diện tích này còn nhỏ so với các đơn vị khác cùng ngành và so với nhu
cầu chung của ngành . Chính vì vậy, việc mở rộng diện tích mặt bằng phá dỡ nói
riêng và diện tích nhà xưởng của Công ty nói chung là rất cần thiết. Công ty nên
đầu tư vốn để mua thêm mặt bằng, xây dựng nhà xưởng. Việc xây dựng hạ tầng
cơ sở này là yếu tố quyết định tới hiệu quả kinh doanh của Công ty sau này, vì
vậy Công ty nên xúc tiến thực hiện càng sớm càng tốt.
+ Về công nghệ phá dỡ: Trước đây, việc phá dỡ tàu cũ của Công ty chủ
yếu thực hiện bằng các phương pháp thủ công nên hiệu quả chưa cao, sản lượng
thép phế liệu thấp. Mặc dù, Công ty đã thay thế các biện pháp thủ công bằng
những dây truyền máy móc, thiết bị, từng bước công nghệ hóa, nhưng so với mặt
bằng chung của Thế giới thì dây truyền công nghệ hiện có của Công ty còn lạc
hậu rất nhiều. Tháng 9 vừa qua, Xưởng phá dỡ đã đệ trình lên Giám đốc Công ty
dự án nhập khẩu dây truyền phá dỡ tàu hiện đại của Nhật trị giá trên 20 tỷ VNĐ
và kế hoạch đó đang trong giai đoạn chờ được phê duyệt. Việc nhập khẩu dây
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
truyền phá dỡ này giúp cho hoạt động phá dỡ được tiến hành nhanh, dễ dàng, từ
đó tăng sản lượng thép phế liệu góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Dự án này nên sớm được phê duyệt và đi vào thực hiện vì lợi ích chung của
Công ty.
+ Thực trạng kinh doanh của khối lưu thông trong nhiều năm qua cho thấy
giữa các Công ty cùng ngành thiếu nhiều thông tin có liên quan trong thị trường
và khách hàng của mình. Bởi vậy cần xây dựng hệ thống thông báo cho toàn
ngành về thị trường, xu hướng thị trường, xây dựng kế hoạch nối mạng máy tính
trong toàn Tổng Công ty, trước mắt là trong khối văn phòng Công ty và đề nghị
sử dụng mạng Internet cho phòng nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ đó
tạo điều kiện cho cán bộ của phòng nắm bắt được toàn bộ tình hình thị trường
nhập khẩu, sự cạnh tranh của các đơn vị ngoài ngành, nhờ đó có thể đưa ra được
các quyết định đúng đắn và kịp thời.
+ Phân chia thị trường kinh doanh các sản phẩm thép phế liệu nhập khẩu
phải hết sức rõ ràng. Kiên quyết ngăn chặn các hình thức tranh dành thị trường
giữa các Công ty thành viên. Là một Tổng công ty lớn, có nhiều đơn vị thành
viên, vì vậy tình trạng không thống nhất giữa các đơn vị là không thể tránh khỏi.
Đặc biệt là các đơn vị thường xảy ra tình trạng tranh dành thị trường vì mục tiêu
của đơn vị mình. Để hạn chế điều này, Tổng công ty VINASHIN cần có chính
sách phân định thị trường cụ thể, rõ ràng cho từng đơn vị.
+ Tổng Công ty đã xây dựng cơ chế thưởng phạt cho các đơn vị, cá nhân
có thành tích, kỷ luật nghiêm minh những giám đốc có cơ sở kinh doanh thua lỗ
kéo dài, cố tình không chấp hành các chỉ thị, quy định của Tổng Công ty. Trong
Công ty cũng vậy, xây dựng quy chế phạt rõ ràng, nghiêm túc góp phần hạn chế,
ngăn chặn những sai lầm của các đơn vị, cá nhân có thể gây thiệt hại đến lợi ích
của Công ty (với những vi phạm nhỏ có thể cảnh cáo hoặc kiểm điểm, nặng thì
phạt hành chính hoặc cắt chức), bên cạnh đó cũng cần xây dựng cơ chế thưởng
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
khi họ đạt được những thành tích cao (tương tự như phạt thì cũng co thưởng
bằng các bằng khen, tiền, thăng chức).
Như vậy, nâng cao chất lượng nhập khẩu thép phế liệu là rất cần thiết trong tình
hình hiện nay. Tuy nhiên, để làm được điều này thì cần phải có sự phối hợp chặt
chẽ giữa Nhà nước và Công ty. Trong đó, các biện pháp của Nhà nước được xây
dựng dựa trên tình hình thực tế của toàn ngành, hỗ trợ, tạo điều kiên thuận lợi và
là định hướng cho các đơn vị kinh doanh; các biện pháp của Công ty phải phù
hợp với chính sách , chỉ tiêu của nhà nước, với tình hình kinh doanh của mình và
phát huy tối đa nhưng lợi thế mà Nha nước tạo ra.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
KẾT LUẬN
Nhập khẩu thép phế liệu là nhu cầu cần thiết và phù hợp đối với sự nghiệp
xây dựng và kiến tạo đất nước ở các quốc gia và đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay.
Đối với nền kinh tế nước ta, nhập khẩu thép phế liệu là để bổ xung nguồn đầu
vào cho các đơn vị sản xuất thép tránh khỏi tình trạng sản xuất bị đình trệ do
thiếu nguyên liệu đầu vào, góp phần bù đắp những mặt hàng thép mà trong nước
chưa sản xuất được.
Còn đối với Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền, nhập khẩu thép phế
liệu là một mặt hàng cần thiết để mở rộng và ổn định mặt hàng nhằm đa dạng
hoá các mặt hàng và góp phần tăng trưởng và phát triển Công ty. Xét trong tình
hình thực tế hiện nay, nhập khẩu thép phế liệu là mặt hàng lớn về kim ngạch cho
nên việc kinh doanh cũng có nhiều thuận lợi để tạo ra lợi nhuận. Do đó đòi hỏi
Công ty phải có sự đầu tư lớn về vốn và nhân lực nhằm giúp lợi nhuận đạt ngày
càng tăng.
Tuy nhiên, nhập khẩu thép phế liệu trong điều kiện có nhiều biến động lớn
của nền kinh tế - xã hội như hiện nay ở nước ta (như biến động về giá, biến động
về ngoại tệ, chính sách của Nhà nước có sự thay đổi ...) thì việc tổn thất là không
thể tránh khỏi. Chính vì vậy mà cần có điều chỉnh thích hợp và có sự quan tâm
đún mức của Công ty nói riêng và của Nhà nước ta nói chung để góp phần hạn
chế những tổn thất có thể xảy ra và giúp tăng hiệu quả kinh doanh.
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kĩ thuật nghiệp vụ ngoại thương – PGS Vũ Xuân Tửu - ĐH Ngoại thương
2. Ngoại thương Việt Nam – PGS-PTS Bùi Xuân Lưu- ĐH Ngoại thương
3. Phòng tổ chức lao động ( cơ cấu tổ chức của Công ty, tài liệu về Công ty)
4. Phòng kinh doanh tổng hợp (các báo cáo tình hình kinh doanh nhập khẩu
của Công ty
5. Các văn bản pháp lý về quản lý hoạt động nhập khẩu thép phế liệu của
Nhà nước
6. Phương hướng phát triển ngành thép đến năm 2010
7. Các tạp chí báo điện tử ( VIET NAM NET, TỔNG CỤC HẢI QUAN...)
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
ChươngI THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU CỦA CÔNG
TY CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ NGÔ QUYỀN .......................................... 4
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ NGÔ QUYỀN ..4
1) Sự hình thành và phát triển của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô
Quyền................................................................................................................ 4
2)Cơ cấu tổ chức..................................................................................... 5
3)Chức năng, nhiệm vụ của Công ty ..................................................... 5
II. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU CỦA CÔNG TY CÔNG NGHIỆP
TÀU THỦY NGÔ QUYỀN..................................................................................................7
1)Quản lý Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu thép phế liệu. ....... 7
2) Thực trạng nhập khẩu thép phế liệu của Công ty. ......................... 10
2.1. Động cơ kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty........... 10
2.2. Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty .......................... 12
3) Cơ cấu, giá, chất lượng, thị trường thép phế liệu nhập khẩu của
Công ty ............................................................................................................ 17
4)Tình hình tiêu thụ thép phế liệu nhập khẩu của Công ty ............... 21
4.1. Thị trường tiêu thụ ......................................................................... 21
4.2. Hình thức tiêu thụ .......................................................................... 21
4.3. Phương thức tiêu thụ ..................................................................... 21
5) Kết quả kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty............ 22
Chương II: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
NHẬP KHẨU THÉP. PHẾ LIỆU CỦA CÔNG TY CÔNG NGHIỆP TÀU
THUỶ NGÔ QUYỀN. .................................................................................... 27
I.SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU THÉP PHẾ LIỆU. .. 27
Thu ho¹ch thùc tËp tèt nghiÖp
1) Căn cứ vào các chỉ tiêu.............................................................................. 27
2) Xuất phát từ lợi ích của Công ty............................................................... 28
II. KIẾN NGHỊ CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU THÉP PHẾ
LIỆU ................................................................................................................................... 28
1) Kiến nghị đối với Nhà nước ...................................................................... 28
2) Kiến nghị đối với Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền................ 31
KẾT LUẬN..................................................................................................... 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và các biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền.pdf