Đề tài Tình hình huy động vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tình hình huy động vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam: Lời mở đầu Trong thời gian vừa qua Việt Nam đã có những bước phát triển khá thuyết phục. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt 7-8%/năm, tình hình chính trị ổn định và trong con mắt của các nhà đầu tư quốc tế, Việt Nam là một trong những môi trường đầu tư hấp dẫn, ẩn chứa nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, tiếp tục duy trì và hơn thế nữa là đẩy mạnh sự tăng trưởng này đang được xem là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu trong công cuộc Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, đưa Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Vấn đề mấu chốt, quyết định của mọi sự tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia là vấn đề đầu tư phát triển. Giải quyết các bài toán tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội suy cho cùng là giải quyết các vấn đề đầu tư như như : Lấy cái gì để đầu tư ? Lấy ở đâu ? Đầu tư ở đâu ? Đầu tư như thế nào ? Và quản lý đầu tư ra sao ? Giải quyết tốt những vấn đề trên cũng chính là lời giải của những bài toán đầu tư đặt ra cho nền kinh tế nói chung và nền kinh tế nước ta hiện nay nói riêng...

doc38 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình huy động vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong thời gian vừa qua Việt Nam đã có những bước phát triển khá thuyết phục. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt 7-8%/năm, tình hình chính trị ổn định và trong con mắt của các nhà đầu tư quốc tế, Việt Nam là một trong những môi trường đầu tư hấp dẫn, ẩn chứa nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, tiếp tục duy trì và hơn thế nữa là đẩy mạnh sự tăng trưởng này đang được xem là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu trong công cuộc Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, đưa Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Vấn đề mấu chốt, quyết định của mọi sự tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia là vấn đề đầu tư phát triển. Giải quyết các bài toán tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội suy cho cùng là giải quyết các vấn đề đầu tư như như : Lấy cái gì để đầu tư ? Lấy ở đâu ? Đầu tư ở đâu ? Đầu tư như thế nào ? Và quản lý đầu tư ra sao ? Giải quyết tốt những vấn đề trên cũng chính là lời giải của những bài toán đầu tư đặt ra cho nền kinh tế nói chung và nền kinh tế nước ta hiện nay nói riêng. Nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển, cộng với những diễn biến phức tạp của quá trình đầu tư hiện nay. Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ 4 đã đánh giá một cách kịp thời và chính xác những định hướng và nhiệm vụ của chính sách đầu tư hiện nay trên tinh thần khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, tích cực tranh thủ ngoại lực. Vấn đề huy động hiệu quả nguồn vốn cho đầu tư phát triển luôn mang theo nó tính chất thời sự, chính vì vậy, đề tài : “ Tình hình huy động vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam ” mong muốn đem lại một cái nhìn tổng thể về nền kinh tế Việt Nam trên góc độ đầu tư trong giai đoạn vừa qua cũng như một số giải pháp tăng cường trong vài năm tới. Chắc chắn đề tài còn chứa đựng nhiều sai sót, rất mong được sự góp ý từ phía các thầy cô và bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Nguyễn Bạch Nguyệt đã giúp em hoàn thành đề án này. Hà Nội 11 /2003 Phần I một số vấn đề lý luận chung I. một số vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển 1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển Cùng với xu hướng phát triển chung của xã hội, hoạt động đầu tư trở thành một nhân tố không thể thiếu cho sản xuất, cho việc gia tăng nguồn lực cho nền kinh tế. Nhiều nhà kinh tế học đã dưa ra những quan niệm khác nhau khi nhìn nhận vấn đề đầu tư; nhưng trước hết đầu tư được hiểu là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiếm hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất, tài sản trí tuệ… Hoạt động đầu tư trực tiếp tái sản xuất các cơ sở vật chất kỹ thuật gọi là đầu tư phát triển. Đó là một quá trình có thời gian kéo dài trong nhiều năm với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công cuộc đầu tư khá lớn. Đối với từng cá nhân, đơn vị đầu tư là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển mọi hoật động sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đối với nền kinh tế, đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản xuất xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng. 2. Vai trò của đầu tư phát triển Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, hoạt động đầu tư không ngừng được mở rộng và chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong các quan hệ kinh tế. Vai trò của đầu tư phát triển được thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau đây: 2.1 Đầu tư tác động đến tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, từ đó tác động đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Về mặt cầu: đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư chiếm từ 24% đến 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng. Về mặt cung: khi thành quả phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng, giá cả sản phẩm giảm, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản của tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Mối quan hệ của đầu tư đối với tổng cầu được thể hiện qua đồ thị sau : P S P1 Po D S’ P2 D’ O Q0 Q1 Q2 Q Cho đến những năm đầu của thập kỷ 50 thế kỷ XX, Nurkse đã nhấn mạnh hơn đến vai trò của đầu tư và vốn đầu tư đến sự phát triển cảu nền kinh tế. Nurkse cho rằng việc thiếu vốn đầu tư là một nguyên nhân gây ra tình trang nghèo đói. Ông đã chỉ ra cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói (vicious circle of poverty): Về phía cung: Một quốc gia có thu nhập thấp sẽ có khả năng tích tuỹ thấp, tích luỹ thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư, thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng lực sản xuất bị hạn chế và năng suất lao động cũng không thể tăng cao, năng lực sản xuất thấp sẽ dẫn đến thu nhập thấp. Về phía cầu : Thu nhập thấp làm cho sức mua thấp, sức mua thấp làm cho động lực tăng đầu tư bị hạn chế, đầu tư bị hạn chế dẫn đến năng lực sản xuất thấp và từ đó cũng sẽ lại dẫn đến thu nhập thấp. Thực tế cho thấy, các nước nghèo hiện nay trên thế giới hầu hết chịu cảnh nghèo đói một phần do những nguyên nhân trên. Tức là sự nghèo đói tại các quốc gia này một phần là do thiếu vốn đầu tư và sự đầu tư thích đáng, có hiệu quả. Nguyên nhân của tình trạng đầu tư hạn chế tại các nước này là do hoặc vì thiếu động lực thúc đẩy đầu tư hoặc là khả năng tích luỹ của nền kinh tế quá nhỏ. Điều này cho thấy rằng, để phát triển và thực hiện xoá đói giảm nghèo thành công thì phải làm sao phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn trên. Một trong những biện pháp để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn đó là xuất phát từ khía cạnh đầu tư. Nền kinh tế phải tạo được sự chuyển biến, tăng mức tích luỹ từ mức thấp lên mức trung bình và mức cao để tăng quy mô đầu tư từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là gia tăng thu nhập. 2.2 Đầu tư tác động đến tốc tăng trưởng và phát triển kinh tế Thứ nhất: đầu tư tác động đến tốc độ phát triển của nền kinh tế. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của cá nhân tố bên ngoài, tận dụng lợi thế so sánh bên trong thì quốc gia đó tạo ra tốc độ tăng trưởng cao. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy ; muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15% đến 25% so với thu nhập quốc dân, tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước: ICOR = Vốn đầu tư /Mức tăng GDP Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường, ICOR trong công nghiệp cao hơn trong nông nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. Thứ hai : đầu tư tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực tế cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học nên để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát ra khỏi tình trang đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh vế tài nguên, địa thế, kinh tế của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy ngững vùng khác cùng phát triển. 2.3 Đầu tư tác động tới việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước Xuất phát từ nền công nghiệp lạc hậu, nền kinh tế kém phát triển, công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ của thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở giai đoạn 1 và 2. Với trình độ công nghệ hiện nay, quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá cảu Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cũng cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Một phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không khả thi. 2.4 Đầu tư tác động tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Đầu tư mà cụ thể là đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực đối với quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Thông qua các hình thức đầu tư gián tiếp ODA, NGO, Việt Nam tạo ra mối quan hệ mật thiết với các nước và các tổ chức đầu tư. Đầu tư nước ngoài cũng là tiền đề cho nền kinh tế mở đưa Việt Nam tham gia vào các khu vực kinh tế như APEC hay gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. II. nguồn huy động vốn đầu tư và mối quan hệ giữa chúng 1. Khái niệm và phân loại nguồn vốn đầu tư Đứng trên góc độ nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng, ta có thể đưa ra định nghĩa về vốn đầu tư như sau: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Từ đây, người ta phân loại vốn đầu tư ra thành 2 nguồn : Vốn trong nước Vốn nước ngoài 2. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài Với cách chia như trên, ta cần xem xét mối quan hệ giữa 2 nguồn vốn này đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với các nước nghèo, để phát triển kinh tế, và từ đó để thoát ra khỏi khó khăn thì một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt và từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng… Do đó, trong những bước đi ban đầu, để tạo được cú “hích” đầu tiên cho sự phát triển, để có được tích luỹ ban đầu từ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế, không thể không huy động vốn từ nước ngoài. Không có một nước chậm phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong diều kiện nền kinh tế mở. Tuy nhiên, cở sở vật chất kỹ thuật để có thể tiếp thu và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước lại chính là khối lượng vốn đầu tư trong nước. Tỷ lệ giữa vốn huy động được ở trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài tuỳ thuộc vào đặc điểm và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. ở trung Quốc, tỷ lệ này là 5:1, một số nước khác là 3:1, Việt Nam, theo các nhà kinh tế, tỷ lệ này phải là 2:1. Nói như vậy để thấy một điều là : Nguồn vốn huy động trong nước và nguồn vốn huy động từ nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thông qua nhiều cơ chế tác động, cả trực tiếp và gián tiếp, nguồn vốn nước ngoài có tác dụng rất lớn làm cho nguồn vốn trong nước tăng lên cả về quy mô và hiệu quả sử dụng. Đồng thời, các nguồn vốn trong nước cũng tác động tích cực trở lại đối với nguồn vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hai nguồn vốn này cũng gây ra những tác động tiêu cực cho nhau và ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư. Trước hết, ta hãy cùng xem xét tác dộng của nguồn vốn trong nước đối với vốn nước ngoài. Có thể nói, nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phần vinh một cách chắc chắn và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư huy động được ở trong nước. Quy mô của nguồn vốn trong nước là nhân tố cơ bản cho phát triển kinh tế. Thực tế là trong một khoảng thời gian tương đối dài, nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, sản xuất không phát triển. Nguyên nhân sâu xa và khách quan là nền kinh tế xuất phát ở trình độ thấp kém, xản xuất nhỏ là phổ biến lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề và hậu quả chiến tranh để lại khá nghiêm trọng. Nhưng nguyên nhân quyết định là do chúng ta đã duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, đóng cửa nền kinh tế cả bên trong và bên ngoài. Hệ quả là chúng ta đã kìm hãm các nguồn lực (bao gồm cả nguồn vốn) trong nước, mặt khác, những nguồn vốn đã được sử dụng lại không đem lại hiệu quả cao. Từ năm 1986, Đảng đã chủ trương chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường, thực hiện nhất quán nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát huy tiềm năng của toàn xã hội. Kể từ mốc thời gian này, với sự năng động của các thành phần kinh tế, một khối lượng vốn lớn đã được huy động. Tuy chưa ở mực triệt để nhưng lượng vốn này đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng, góp phần quyết định trong việc cải thiện đời sống kinh tế ở nước ta. Đạt được những thành quả như vậy, một phần quyết định là do nguồn vốn trong nước đã tăng đáng kể. Như vậy, quy mô và hiệu quả sử dụng vốn trong nước là động lực cho tăng trưởng kinh tế và qua đó thể hiện tiềm năng phát triển kinh tế của một quốc gia. Đối với các định chế tài chính và các nhà đầu tư nước ngoài, đây là tiêu chí hàng đầu để cho vay vốn hoặc đầu tư trực tiếp. ở nước ta, cùng với việc khai thông nguồn vốn trong nước, từ năm 1998, nguồn vốn nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế đã không ngừng gia tăng. Vào những năm 1997-1998, khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra làm cho tốc độ nền tăng trưởng kinh tế bị sụt giảm mạnh, kéo theo sự suy giảm của khối lượng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, vốn trong nước vẫn tiếp tục gia tăng. Nhờ những nỗ lực trên, trong năm 2000 chúng ta đã ngăn chặn được sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng và làm cho nguồn vốn nước ngoài gia tăng trở lại với sức hút của một thị trường ổn định và an toàn cho hoạt động đầu tư. Như vậy, sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam với nguồn gốc là sự gia tăng lượng vốn trong nước đã tạo uy tín cho thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế và qua đó nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam đã tăng đáng kể. Sự tác động của vốn đầu tư trong nước đối với sự tăng hay giảm của đầu tư nước ngoài còn thể hiện ở chỗ : Các nguồn vốn trong nước, đăc biệt là nguồn vốn của ngân sách nhà nước được sử dụng để xây cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng càng hiện đại, càng đồng bộ thì hoạt động đầu tư càng thuận lợi và khi đó dòng vốn chảy vào càng nhiều. Theo những phân tích trên, nguồn vốn trong nước có ảnh hưởng rất lớn đến các nguồn vốn nước ngoài. Đến lượt mình, nguồn vốn huy động từ nước ngoài đã tạc dộng trở lại đối với nền kinh tế Việt Nam một cách tích cực và tác động không nhỏ tới nguồn vốn trong nước. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tốc độ tăng GDP của nước ta năm 1995 là 9,5% nhưng nếu không có đầu tư trực tiếp nước ngoài thì mức tăng trưởng chỉ đạt được 5,2%, tức là đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra tốc độ tăng trưởng GDP là 4,3%. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn tạo ra một khối lượng lớn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đây chính là nguồn gốc của tích luỹ để tăng vốn cho đầu tư. Mặt khác, đời sống của người lao động được cải thiện, những nhu cầu thiết yếu được đáp ứng tốt hơn, các nhu cầu cao hơn nảy sinh, mở ra những cơ hội lớn đối với các nhà sản xuất. Nói một cách khác, nó góp phần kích thích các nhà cung ứng tăng tích luỹ để mở rộng quy mô sản xuất nhằm mục tiêu lợi nhuận. Thực tế là cùng với chính sách mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài, tiết kiệm trong nước đã tăng liên tục cả về quy mô tuyệt đối và tỷ lệ so với GDP. Khi nền kinh tế của đất nước có sự tham gia của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với ưu điểm về công nghệ, kinh nghiệm quản lý… sẽ làm tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước do yêu cầu phải sản xuất có hiệu quả. ở khía cạnh khác, thông qua các nguồn vốn nước ngoài, thông qua hợp tác đầu tư với nước ngoài, những nguồn lực của nền kinh tế mà trước đây chưa được sử dụng hết (do không đủ vốn, do thiếu công nghệ kỹ thuật, do không có thị trường) nay được đưa vào sản xuất bằng cách hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Cùng với quá trình hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp liên doanh, phần vốn góp của phía Việt Nam trong các doanh nghiệp đó cũng tăng lên, có nghĩa là quy mô vốn trong nước tăng lên. Như vậy, vai trò của vốn đầu tư nước ngoài thể hiện ở chỗ: với sự có mặt của nguồn vốn nước ngoài, tính hiệu quả trong hoạt động thị trường Việt Nam được cải thiện và qua đó tác động tích cực đến nguồn vốn trong nước. Vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài có mối quan hệ khăng khít với nhau, hỗ trợ nhau cùng gia tăng về số lượng và hiệu quả sử dụng. Kinh nghiệm thực tế của các nước trong khu vực đã cho thấy, những năm khởi đầu của quá trình phát triển kinh tế đều phải dựa vào vốn nước ngoài. Nguồn vốn này đã đóng góp một phần đáng kể (đối với một số nước góp phần quyết định như Hàn Quốc, Philipin…) tạo nên sự phát triển nhanh của các nước này đồng thời đưa đến sự lệ thuộc nhiều mặt của nước đó vào nước ngoài. Mặt khác, do mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài là lợ nhuận nên việc họ đầu tư vào các lõnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao là điều tất yếu. Tuy nhiên, một khối lượng vốn lớn từ nước ngoài đầu tư vào, trong nhiều trường hợp, cũng khiến các nguồn vốn trong nước phải chuyển sang những hướng đầu tư khác không thuận lợi. ở nước ta, tuy sự tiêu cực này chưa được thể hiện rõ nét nhưng đó là bài học để chúng ta có những biện pháp nhằm hạn chế những tác động không tốt của vốn nước ngoài. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải nhận thức được vốn đầu tư chủ yếu phải dựa vào tích luỹ trong nước và do đó phải thực hiện các chính sách và giải pháp để phát triển kinh tế nhằm tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, khuyến khích tiết kiệm. III. nội dung của vốn đầu tư phát triển 1. Nguồn vốn trong nước Đứng trên góc độ vi mô của nền kinh tế, chúng ta phân chia nguồn vốn trong nước theo các nguồn hình thành sau: Vốn của Doanh nghiệp quốc doanh Nguồn vốn trong nước Vốn của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Vốn của các tổ chức phi lợi nhuận Đứng trên góc độ vĩ mô, chúng ta lại chia nguồn vốn trong nước theo các nguồn sau: Tiết kiệm của Chính phủ Nguồn vốn trong nước Tiết kiệm của doanh nghiệp Tiết kiệm của dân cư Trong bài này chúng ta sẽ nhất quán phân tích nguồn vốn trong nước trên quan điểm kinh tế vĩ mô. 1.1 Tiết kiệm của Chính phủ (nguồn vốn Nhà nước) Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của Ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc nhà nước quản lý…). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể, tăng từ mức 2,3% GDP năm 1991 lên 6,1% GDP năm 1996. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991-2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Theo báo cáo tổng kết công tác tổng kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm 1/1/2000, tổng nguồn vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước là 173.857 tỷ đồng. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của các doang nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. DNNN vẫn đóng góp một lượng lớn vào GDP của nền kinh tế, nộp ngân sách chiếm 40% tổng thu của ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho trên 1,9 triệu người. Một số sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước có đóng góp chủ yếu vào cân bằng hàng hoá của nền kinh tế như: xi măng, dầu khí, bưu chính viễn thông… Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội. 1.2 Tiết kiệm của doanh nghiệp Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các HTX) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế mở cửa nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoạt động đầu tư từ khu vực này gia tăng mạnh mẽ. Hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn hàng chục tỉ đồng (chỉ riêng 8 tháng đầu năm 2001, có khoảng 11 ngàn doanh nghiệp mới được thành lập với số vốn 13.000 tỉ đồng). Nhà nước cũng có những hỗ trợ thiết thực nhằm tăng cường thêm sức mạnh cho các doanh nghiệp tư nhân. Các cuộc hội thảo liên tiếp được mở ra, mục đích là lắng nghe, tiếp nhận ý kiến của các doanh nghiệp, từ đó tiến hành điều chỉnh luật cũng như ban hành các chính sách mới tạo diều kiện hơn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh khi hội nhập quốc tế và khu vực. Đặc biệt là với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, các dự án hỗ trợ về luật, nghiệp vụ, việc thành lập các tổ chức, hiệp hội theo ngành nghề, lĩnh vực đang là những hoạt động có ý nghĩa được Đảng và Nhà nước quan tâm kịp thời, đúng mức. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân đã có thêm những sức mạnh mới, Việt Nam đã được bạn bè trên thế giới biết đến qua nhiều thương hiệu nổi tiếng, điều này càng khẳng định vai trò không nhỏ của doanh nghiệp tư nhân cũng như số lượng vốn huy động được từ khu vực này. Dự báo trong thời gian tới, các doanh nghiệp sẽ còn tăng thêm cả về số lượng, quy mô vốn cũng như chất lượng hoạt động. Đây sẽ là câu hỏi đặt ra cho các nhà kinh tế trong việc quản lý hoạt động và cũng sẽ là bài toán có nhiều lời giải cho việc huy động vốn đầu tư từ khu vực được đánh giá là còn chứa ẩn nhiều tiềm năng này. 1.3 Tiết kiệm của khu vực dân cư Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống, nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt… Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỉ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư. Với khoảng 15 triệu hộ gia đình đóng góp khoảng 1/3 GDP, trong giai đoạn 1996-2000 tiết kiệm của khu vực dân cư chiếm khoảng 15% GDP. Nhiều hộ gia đình đã thực sự trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp). Tập quán tiêu dùng của dân cư. Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội. 2. Vốn nước ngoài 2.1 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đây là vốn của các doanh nghiệp và các nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra. Vốn nay thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế-xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, với vốn đầu tư trực tiếp, nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ (do nguời đầu tư đem vào góp vốn và sử dụng), trong đó có cả công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương, vì lý do cạnh tranh hay cấm vận nước nhận đầu tư; học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Nước nhận đầu tư trực tiếp phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư theo mức độ góp vốn của họ. Vì vậy có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiêp sẽ làm cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư. Tùy theo điều kiện cụ thể của mình các nước ASEAN và NICs Đông á, có nước dựa chủ yếu vào vốn đầu tư gián tiếp (Hàn Quốc, Philipin, Thái Lan, Inđônêsia, Malaixia), có nhiều nước lại chủ trọng vốn đầu tư trực tiếp (Singapo, Hông Kông). Để thu hút nhanh các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, các nước ASEAN và NICs Đông á đã tạo môi trường thuận lợi cho nàh đầu tư như cung cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ, có luật đầu tư ưu đãi, luật các khu chế xuất. Hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN là kỹ thuật cao, ở các nước NICs là phục vụ xuất khẩu. 2.2 Vốn đầu tư gián tiếp Đây là nguồn vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA-Viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn, cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Vai trò đầu tư gián tiếp được thể hiện ở những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Hàn Quốc, Philipin những năm sau giải phóng và đối với Việt Nam những năm chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay. Các nước Đông Nam á và Nics Đông á đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngán hạn rất hạn chế và đặc biệt không vay thương mại. Vay dài hạn lãi suất thấp, việc trả nợ không khó khăn vì có thời gian hoạt động đủ để thu hồi vốn. Thực chất nguồn vốn ODA đã được phân bổ theo các nguồn khác như vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển… Tuy nhiên, ở đề án này đề cập đến với vai trò như là một nguồn vốn nước ngoài, không nằm trong cơ cấu của tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chỉ đưa ra để so sánh và đánh giá nhằm tăng cường khả năng thu hút nguồn vốn này ngày càng lớn hơn. 2.3 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thụ trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế. 2.4 Vốn đầu tư gián tiếp của tư nhân nước ngoài thông qua thị trường vốn quốc tế Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù trong vòng 30 năm qua tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác. Tính từ đầu những năm 70 đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX, vốn đầu tư trực tiếp cảu các nước thuộc nhóm G7 chỉ tăng 30 lần, trong khi đầu tư chứng khoán tăng khoảng 200 lần. Riêng trong thập kỷ 90, khối lượng cổ phiếu mà các nước công nghiệp phát triển đã phát hành trên thị trường vốn quốc tế đã tăng 6 lần, đạt khoảng 4 tỷ USD. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 90, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi vẫn rất đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu của Châu á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD. Đối với Việt Nam, để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, nhằm muc tiêu Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá. Nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn vốn huy dộng thông qua thị trường vốn cũng được Chính phủ quan tâm. Các dề án phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài cũng đã được xây dựng và xem xét. Tuy nhiên, đây là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ và còn phức tạp đối với Việt Nam. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hình thức huy động vốn này có những ưu điểm và nhược điểm sau: Về ưu điểm: Có thể huy động vốn với số lượng lớn trong thời gian dài đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng. Bên cho vay khó sử dụng quan hệ cho vay để gây sức ép với nước sử dụng trong các quan hệ khác. Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế. Với việc trực tiếp tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tôt để thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển trong tương lai. Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán, trao đổi trên thị trường thứ cấp, chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Lý do này cho phép người phát hành có thể có được mức lãi suất ưu đãi hơn so với các hình thức vay nợ khác. Đối với hình thức huy dộng này, người đi vay có thể tăng thêm tính hấp dẫn bằng cách đưa ra một số yếu tố kích thích như: cho phép chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu hoặc nếu mua đợt này sẽ được ưu tiên mua trong những đợt phát hành sau. Với những yếu tố kích thích như trên thì có thể khuyến khích nhiều người mua trái phiếu hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì hình thức phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế vẫn còn một số trở ngại đối với Việt Nam. Đó cũng là nhược điểm hay hạn chế của biện pháp huy động vốn này. Hệ số tín nhiệm của Việt Nam rất thấp, thậm chí Việt Nam chưa được các tổ chức quốc tế xếp hạng độ tín nhiệm. Chính vì vậy, nếu phát hành thì trái phiếu của Việt Nam sẽ phải chịu lãi suất ở mức cao. Việt Nam vẫn còn quá ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, so với một số hình thức huy động vốn khác thì thời gian chuẩn bị vẫn còn tương đối dài. Bởi vậy để phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, Việt Nam phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng, lựa chọn cẩn thận hình thức trái phiếu phát hành, thời gian đáo hạn, thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện của bên Việt Nam. Hơn nữa, cũng cần cân nhắc thận trọng giữa việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu với các hình thức huy động vốn khác, như đầu tư trực tiếp và vay nợ qua hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng dự án cho việc phát hành trái phiếu, Việt Nam cũng cần xây dựng một kế hoạch chi tiết cho việc sử dụng vốn có hiệu quả. Phần II thực trạng huy động vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua I. Tình hình huy động nguồn vốn trong nước 1. Tiết kiệm của Chính phủ Vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước (NSNN): Hiện nay chủ yếu tập trung đầu tư cho các dự án xây dung cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hoá, xã hội, an ning quốc phòng, đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, hỗ trợ cho nguồn vốn tín dụng Nhà nước và Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia…Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn NSNN chủ yếu là các dự án giao thông, thuỷ lợi, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, bảo tồn thiên nhiên, các công trình văn hoá, xã hội, giáo dục y tế, phúc lợi công cộng, nghiên cứu khoa học, quốc phòng an ninh. Nguồn vốn đầu tư từ NSNN nhìn chung là tăng dần trong các năm tiếp theo nhưng so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì tỷ trọng này lại giảm. Nếu như giai đoạn 1991-1995 nguồn vốn này trong GDP chiếm khoảng 6% thì giai đoạn 1996-1997 đạt 6,6%. Nếu so sánh nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội thì tỷ trọng này đạt 23,6% trong thời kỳ 1991-1995 (vốn NSNN là 54.830 tỷ đồng) và đạt 21,9% trong thời kỳ 1996-2000 (87.360 tỷ đồng), giảm so với thời kỳ 1986-1990, do trong cơ cấu tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội xuất hiện lượng vốn đầu tư nước ngoài tương đối lớn. Như vậy, tỷ trọng bình quân của nguồn vốn NSNN so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong thời kỳ 1991-2000 đạt 22,5% (vốn NSNN trong thời kỳ này đạt 142.194 tỷ đồng). Trong 2 năm 1996-1997 tỷ trọng nguồn vốn này có xu hướng tăng nhưng đến năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ, khả năng thực hiện tương đối thấp. Để tăng cường khả năng huy động vốn từ NSNN Cính phủ đã phát hành trái phiếu đầu tư phát triển. Trái phiếu đầu tư phát triển của Chính phủ góp phần huy động các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư. Mặt khác, nguồn vốn đầu tư phát triển này sẽ góp phần làm sôi động lại quá trình đầu tư, tăng “cầu”, tạo cơ hội đầu tư mới cho các thành phần kinh tế khác, khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế. Hơn nữa, nguồn vốn này góp phần giải quyết, khắc phục phần nào hậu quả chính sách đầu tư trong những năm qua (đầu tư dàn trải, tràn lan, hiệu quả thấp, các công trình dở dang nhiều…). Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước tăng trung bình 13,1% GDP trong thời kỳ 1986-1990 lên 20,5% GDP thời kỳ 1991-1995 và hiện nay khoảng 22% GDP. Thu ngân sách nhà nước có sự chuyển biến tích cực, nguồn thu trong nước tăng nhanh và chiếm phần chính trong tổng thu ngân sách nhà nước. Cụ thể là năm 1991 thu trong nước chiếm 76,7% thu ngân sách nhà nước đế 1998 chiếm 97,2%. Như vậy năm 1991 thu ngân sách nhà nước 13,5% GDP thì năm 1998 bằng 20% GDP. Chi ngân sách cả năm 1998 giảm còn 21,5% thấp hơn năm 1997. Do đó, việc điều hành ngân sách của nhà nước ta chủ động hơn không những đủ đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, mà còn để dành một tỷ lệ đáng kể cho chi đầu tư ohát triển. Tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển tăng lên từ mức 2,3% GDP năm 1991 lên mức 6,1% GDP năm 1996 (nếu kể cả mức khấu hao cơ bản là 7,9% GDP). Trong điều kiện nguồn vốn từ ngân sách nhà nước dành cho đầu tư xây dựng cơ bản còn hạn chế và phải tập trung cho các công trình trọng điểm phục vụ CNH-HĐH đất nước, song đầu tư cho nông nghiệp nông thôn vẫn ngày càng tăng. Số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước dành cho nông nghiệp (mở rộng) năm 1996 đạt 3.043 tỷ đồng chiếm 10% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Năm 1997 đạt 11,3% và năm 1998 khoảng 18.000 tỷ đồng, bằng 15,3%. Vốn đầu tư phát triển từ NSNN tham gia trực tiếp đồng thời hỗ trợ vốn, làm “mồi” để thu hút các nguồn vốn khác đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. Việc gia tăng nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN, thực hiện thâm hụt ngân sách không vượt chi cho đầu tư phát triển khẳng định xu hướng tiết kiệm trong các chi tiêu từ NSNN. Đây sẽ vẫn là nguồn vốn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề tăng trưởng kinh tế – xã hội cảu đất nước. Do vậy, mở rộng thái quá nguồn vốn đầu tư này sẽ hạn chế và làm thui chột các khả năng của các thành phần kinh tế khác. Mặt khác, nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN thường có hiệu quả kinh tế trực tiếp tương đối thấp, thường ít năng động nênviệc sử dung nguồn vốn này cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng, theo quan điểm chỉ đầu tư vào những công trình, dự án, lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa quốc gia, quốc tế, mang tính địnhhướng cho toàn bộ nền kinh tế, mà các thành phần kinh tế không đủ năng lực đầu tư, hoặc đầu tư không mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp cao. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là 14.279 tỷ đồng mới chiếm 6,13% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 1996-2000 đã là 62.210 tỷ đồng chiếm 15,57% và riêng năm 2000, nguồn vốn này đã đạt đến 19,92% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong 5 năm 1991-1995 vốn tín dụng đầu tư phát triển không tăng đáng kể, dao động trong giá trị trung bình 2.854 tỷ đồng. Tuy nhiên, chuyển sang giai đoạn 1996-2000 vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước đã có bước tăng trưởng đáng kể, năm 1996 là 7.640 tỷ đồng và đến năm 2000 con số này đã là 17.620 tỷ đồng. Vốn trung bình giai đoạn 1996-2000 là 12.442 tỷ đồng, tăng đến 4,4 lần so với thời kỳ 1991-1996. Cho đến nay, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đầu tư vào ngành công nghiệp trên 60% tổng vốn đầu tư (gần 55% số dự án) đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế. Vốn đầu tư từ Doanh nghiệp nhà nước (DNNN): Hiện nay ở nước ta có khoảng 35.000 doanh nghiệp hoạt động, trong đó có khoảng 5.740 DNNN, xét về mặt số lượng chỉ chiếm khoảng 17%, nhưng hàng năm đóng góp từ 40-46% GDP. Các DNNN nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng, 90% lao động được đào tạo có hệ thống và được nhận hầu hết các ưu đãi cảu nhà nước so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Song hiệu quả kinh doanh đạt thấp, nên mức tiết kiệm của DNNN còn hạn chế. Thể hiện: các chỉ số hiệu quả của khu vực DNNN có chiều hướng ngày càng giảm. tỷ suất lợi nhuận/vốn giảm từ 14,5% năm 1996 xuống 10,8% năm 1997; tỷ suất lợi nhuận/doanh thu giảm từ 6,9% xuống 4,8% năm 1997. Đặc biệt năm 1998, khu vực công nghiệp nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản xuất toàn ngành, nhưng chỉ góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. Vốn đầu tư từ DNNN có xu hướng tăng dần cả về tỷ trọng so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội cũng như quy mô. Lượng vốn bình quân thời kỳ 1991-1995 là 5.064 tỷ đồng chiếm 10,89% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giá trị này thời kỳ 1996-2000 là 12.906 tỷ đồng chiếm 16,15% tổng vốn toàn xã hội. Trong giai đoạn 1991-1995, tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp nhà nước là 11,7% gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Từ năm 1998 trở lại đây (2001), tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước chậm lại nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, đến năm 2003 nguồn vốn này đang có xu hướng gia tăng lại. Nguồn vốn này bao gồm khấu hao cơ bản để lại, một phần lợi nhuận sau thuế để tích luỹ. Việc quản lý nguồn vốn này sẽ dần được mở rộng và ít nhất là trong việc khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới các thiết bị, công nghệ, đầu tư chiều sâu. Việc đánh giá lại tài sản trong các doanh nghiệp để trích khấu hao cơ bản phải đảm bảo nguyên tắc tài sản khấu hao đúng, trong khuôn khổ “khung” đã được Bộ Tài chính quy định. Nguồn vốn khấu hao cơ bản phải được quản lý thống nhất theo hướng đảm bảo khấu hao nhanh, đảm bảo khấu hao đủ nguồn vốn để tái đầu tư khi tài sản đã được khấu hao hết. Việc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp phải trên cơ sở nguyên tắc bảo toàn vốn, tránh hiện tượng “lãi giả khấu lỗ thật”, ăn vào vốn và cuối cùng, nguồn vốn khấu hao cơ bản không đủ để tái đầu tư giản đơn, phục chế tài sản ban đầu. Cần có chính sách khuyến khích quá trình tái đầu tư từ lợi nhuận của doanh nghiệp. Đẩy mạnh cổ phần hoá, cơ cấu lại DNNN sẽ giúp các doanh nghiệp huy động được nguồn vốn nhàn rỗi, hoặc đang sử dụng kém hiệu quả trong xã hội. Nhà nước chỉ nên giữ lại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quan trọng, then chốt, quyết định, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. 2. Tiết kiệm của doanh nghiệp Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần trong cả nước có bước phát triển khá. Nhờ có quy mô lớn, sản xuất ổn định nên vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 9-10%/năm. Do đó, đã có những đóng góp không nhỏ trong việc huy động các khoản tiết kiệm từ hoạt động sản xuất kinh doanh cho phát triển kinh tế. Khối tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã tăng từ 5-6%; các tiểu chủ, hộ cá thể chiếm tỷ trọng hơn 70%, tăng 4-5%/năm trong 2 năm 1997 và 1998. Chúng ta có trên 3 vạn doanh nghiệp ngoài Nhà nước (bao gồm doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, HTX, công ty TNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) và khoảng 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp. Vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường nhỏ, từ 10.000 USD đến 100.000 USD, số doanh nghiệp có vốn trên 1 triệu USD rất ít. Vốn của hộ kinh doanh cá thể từ vài ngàn USD đến trên dưới 50.000 USD. Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ kinh doanh cá thể có vốn lớn chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn nhu Tp. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu hoạt động ở trình độ cơ khí và bán cơ khí với phần lớn máy móc có thời gian sử dụng từ 10 đến 20 năm. Như vậy, nhu cầu đổi mới trang thiết bị tiến lên bán tự động và tự động hoá của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn, trong 3 đến 5 năm tới đòi hỏi một lượng vốn đầu tư đáng kể, đặc biệt khi chúng ta phải nhanh chóng cải thiện và tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước để có thể đứng vững và phát triển trước những thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế. Luật doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2000 đã tiếp thêm động lực cho khu vực tư nhân phát triển, tuy nhiên, muốn phát triển mạnh hơn cả về số lượng và nhất là chất lượng thì môi trường kinh doanh cần phải được nâng lên một trình độ cao hơn nữa, tạo được niềm tin vững chắc và tinh thần phấn khởi của các nhà kinh doanh thông qua sự đánh giá đúng vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế quốc dân và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho khu vực này phát triển. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, vốn dư thừa của doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tới 1-2 tỷ USD dưới dạng tiền mặt (nội và ngoại tệ ngoài hệ thống ngân hàng), nhưng, chủ yếu là dưới dạng bất động sản không hoặc ít có khả năng sử dụng vào kinh doanh (do giá bất động sản sụt giảm từ 1996-1997, sau giai đoạn “sốt đất” 1991-1995) Thực trạng trên cho chúng ta thấy được sự nỗ lực chung của khu vực tư nhân nhưng để huy động được nguồn tiết kiệm của khu vực tư nhân có hiệu quả thì ngoài hệ thống ngân hàng chính quy, cần phải tổ chức thực hiện các hiệp hội hoặc các tổ chức huy động tiết kiệm phi chính thức như: hiệp hội tín dụng, tiết kiệm quay vòng… ở các vùng, đặc biệt là ở nông thôn bằng hệ thống các quỹ. Theo kết quả điều tra vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2000 của Tổng cục Thống kê, cho thấy, Luật Doanh nghiệp tuy mới ban hành đầu năm 2000 nhưng bước đầu đã phát huy được tác dụng tích cực. Ước tính năm 2000, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đầu tư XDCB và sửa chữa lớn tài sản cố định với số vốn 6,5 nghìn tỷ đồng, tăng 17,8% so với năm 1999 và là một trong những thành phần kinh tế có tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển vào loại cao trong năm 2000. Tuy nhiên, số vốn đầu tư như vậy vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của thành phần kinh tế này. 3. Tiết kiệm của khu vực dân cư Nguồn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Hiện nay Việt Nam có khoảng 15 triệu hộ gia đình với thu nhập bình quân 1.500-2000 USD/hộ/năm. Nhiều hộ gia đình là những đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp với những nguồn thu nhập mà Nhà nước khó có thể kiểm soát được, kể cả đối với hộ gia đình có đăng ký kinh doanh cũng như không có đăng ký kinh doanh. Vì vậy, cần căn cứ vào cơ cấu lứa tuổi của dân cư và tỷ lệ tăng trưởng của thu nhập để có chính sách ưu tiên thích hợp. Việc gia tăng thu nhập và gia tăng tỷ lệ lực lượng lao động (có việc làm)/tổng số dân cư có thể thúc đẩy gia tăng tiết kiệm. Theo điều tra và ước tính của Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Tổng cục Thống kê, nguồn vốn trong dân hiện có từ 6-8 tỷ USD, trong đó: 44% để dành của dân là mua vàng, ngoại tệ 20% để dành của dân là để mua nhà đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt 17% để dành của dân là gửi tiền tiết kiệm, chủ yếu là loại ngắn hạn 19% để dành của dân là dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, chủ yếu là ngắn hạn Như vậy, chỉ có khoảng 36% vốn hiện có trong dân được huy động cho đầu tư phát triển. Nếu tính theo hàng năm, mức huy động vốn trong dân năm sau luôn cao hơn năm trước, cụ thể : Năm Mức huy động (tỷ đồng) Mức tăng so với năm trước % 1991 6430 181,4 1992 10.864 170 1993 13000 120 1994 17000 130 1995 20000 117,7 1996 24000 120,6 1997 28000 116,7 Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Số 4/1999 trang 4. Tỷ lệ tiết kiệm trong dân cư là tương đối cao. Theo các nhà hoạch định chính sách thì giai đoạn 1996-2000, tỷ lệ tiết kiệm của dân cư đạt khoảng 15% GDP, song chỉ được 1/2 số đó được huy động cho đầu tư, trong khi đó, thời kỳ 1996-1997, chúng ta mới chỉ huy động được xấp xỉ 7,8% GDP cho đầu tư trực tiếp và gián tiếp, đạt 52% tổng số nguồn tiết kiệm. Tuy nhiên, giá trị huy động vốn thực tế so với lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư là rất thấp. Một cuộc điều tra cách đây chưa lâu cho thấy, đồng tiền tích luỹ của tư nhân nước ta được huy động thông qua các tổ chức tài chính chỉ chiếm 11,8%, còn lại là tích luỹ dưới dạng các loại tài sản khác. Đi sâu vào thì thấy, trong khi tầng lớp có thu nhập cao nhất của xã hội chỉ đưa được 12,3% khoản tích luỹ của mình vào các tổ chức tài chính thì lại giữ dưới dạng tiền mặt, vàng và mua sắm nhà cửa tới 82,1%. Với tầng lớp có thu nhập thấp nhất xã hội, khoản tiết kiệm của họ chủ yếu nằm dưới dạng thóc, gạo, hoa màu và các hình thức khác, còn gửi vào tiết kiệm chỉ được 9,3% khoản tích luỹ. Thực tế trên cho chúng ta thấy rõ được sự đóng góp của dân cư trong thời gian qua. Nhưng để huy động được nguồn vốn của dân cư có kết quả tốt thì nhà nước cần có chủ trương, chính sách, cơ chế đúng đắn, tổ chức thực hiện nghiêm túc, củng cố lòng tin của dân để nhân dân tin tưởng bỏ vốn đầu tư kinh doanh có hiệu quả. Việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn tiết kiệm của dân cư bằng cách khuyến khích tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các thành phần kinh tế, nhằm tăng tỷ lệ đầu tư trực tiếp và gián tiếp của dân cư sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn nói chung (người có vốn đầu tư có điều kiện thuận lợi và hiệu quả nhất “gặp gỡ” trực tiếp với người có nhu cầu đầu tư hoặc là một). Nếu chúng ta không có những chính sách đầu tư thoả đáng thì chỉ một phần tiết kiệm của dân cư sẽ được huy động vào tín dụng, còn một phần sẽ bị “đông cứng” dưới dạng “tiền trong hầu bao”, “tiền gối đầu giường” hoặc chủ yếu dùng để mua sắm những tài sản không có khả năng sinh lời hoặc sinh lời không đáng kể. Do đó, ngoài việc tạo điều kiện, hành lang pháp lý thuận lợi, Nhà nước cần tập trung đầu tư vào những dự án, công trình mang tính hướng dẫn, phụ trợ và hỗ trợ nguồn vốn trong trường hợp cần thiết, nhằm nâng dần tỷ lệ đầu tư trực tiếp và gián tiếp trong tổng nguồn tiết kiệm dân cư. II. Tình hình huy động nguồn vốn nước ngoài Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đi liền với chuyển giao vốn, công nghệ, thị trường và các kinh nghiệm quản lý. Đồng thời tạo công ăn việc làm cho người lao động; chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, trong thời gian từ 1991-2000, vốn FDI đã chiếm hkoảng 24,11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó thời kỳ 1991-1995 chiếm 24,44% và thời kỳ 1996-2000 chiếm khoảng 23,92%. Nguồn vốn FDI chủ yếu bao gồm tièn mặt (76,7%), phần còn lại bao gồm thiết bị (15,4%) và các dịch vụ khác.Nguồn vốn đã được thực hiện chiếm khoảng 39% tổng số vốn đăng ký. Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp ngày càng phát triển, trở thành bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào CNN-HĐH đất nước. Đặc biệt công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh, năm 1996 : 21,7%, 1997: 23,2%, 1998: 13,3%, 6 tháng đầu năm 1999: 22,6% và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong giá trị sản xuất toàn ngành tương ứng là: 24,1%, 28,7%, 31,8% và 35,2%. Năm 1998: công nghiệp có vốn FDI với 46,7% vốn, 8,2% lao động đã sản xuất ra 31,8% tổng giá trị sản xuất và đóng góp 56,8% tổng số nộp ngân sách của toàn ngành, góp phần giữ vững nhịp độ tăng trưởng trong ngành công nghiệp khá cao và ổn định. Cụ thể số lượng việc làm trong khu vực FDI ngày một tăng. Cuối năm 1993 số lao động trong khu vực này chỉ có 49.892 người, đến năm 1994 là 80.059 người tăng 1,76 lần, năm 1996: 172.928 người, 1997: 250.000 người và đến 1998 là 269.500 người. Doanh thu ở khu vực FDI trong toàn xã hội đã tăng từ 150 triệu USD năm 1991 lên 1558 triệu USD năm 1995 và 3271 triệu USD năm 1998. Do tăng trưởng nhanh, tỷ trọng doanh thu của khu vực này trong GDP đã tăng từ 6,3% năm 1995 lên 9,8% năm 1998. Đóng góp của khu vực này vào ngân sách nhà nước đã tăng từ 128 triệu USD năm 1994 lên 316 triệu USD năm 1998. Nguồn vốn FDI thật sự là cánh cửa cho nền kinh tế nước ta trong giai đoạn vừa qua. Những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp 43% GDP, tạo ra 25% giá trị sản lượng ngành công nghiệp, thu hút hơn 25 vạn lao động trực tiếp và hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau như khai thác dầu khí, ô tô xe máy, viễn thông, khách sạn, công nghiệp… Nguồn vốn FDI là rất quan rọng nhất là trong điều kiện ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ của cả nước trong khu vực vừa qua. Vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh trong các năm xảy ra khủng hoảng, năm 1998, đạt khoảng 19.280 nghìn tỷ đồng so với 26.150 nghìn tỷ năm 1997, năm 1999 và 200 con số này chỉ còn lần lượt là 14.170 và 15.100, kéo theo nó tỷ trọng so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội cũng giảm mạnh từ 31,27% năm 1997 còn 25,21% năm 1998, 18,19% năm 1999 và 17,07% năm 2000. Tính đến tháng 12/2000 Việt Nam đã thu hút được khoảng 37 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó vốn thực hiện là 17,6 tỷ USD, chiếm 47,6% vốn đăng ký. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2002 tính cho cả đăng ký cấp mới và bổ sung đạt gần 2,3 tỷ USD, so với năm 2001 giảm 23%, mặc dù số dự án tăng. Điều này phản ánh thực tế là nhiều dự án cần có quy mô vốn đầu tư lớn trong một số lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam như : sắt thép, xi măng, điện… hoặc nhu cầu tạm bão hoà, hoặc trong nước đầu tư nên khả năng cấp phép đầu tư nước ngoài bị hạn chế. Mặt khác, tuy môi trường đầu tư được cải thiện, kinh tế-xã hội được giữ vững (đứng đầu thế giới) nhưng chi phí đầu vào còn cao, luật pháp chưa hoàn thiện và đôi khi chưa nhất quán, thủ tục còn phiền hà, hoạt động hành chính công chưa hiệu quả. Ngoài ra, đây là hệ quả của tình hình cạnh tranh mạnh mẽ nhằm thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc sau khi ra nhập WTO. Bảng 3 : Nguồn vốn nước ngoài ODA & FDI Năm FDI ODA Cộng 1991 432 - 432 1992 478 - 478 1993 871 413 1.284 1994 1.936 752 2.661 1995 2.363 737 3.100 1996 2.447 900 3.347 1997 2.768 1.000 3.768 1998 2.062 1.242 3.304 1999 1.758 1.350 3.108 2000 1.900 1.650 3.550 Sơ bộ 2001 2.100 1.711 3.811 Uớc 8 tháng 2002 1.450 836 2.286 Tổng cộng 20.717 10.564 31.281 Nguồn : Tạp chí Kinh Tế và Dự báo 2/2003 Vốn đầu tư gián tiếp Trước thập kỷ 90, Việt Nam tiếp nhận ODA còn rất hạn chế, tổng số khoảng 12,6 tỷ Rúp chuyển nhượng và 1,6 tỷ USD (1976-1990). Sang thập kỷ 90, các nước lớn và các tổ chức quốc tế bình thường hoá quan hệ với Việt Nam , ODA tăng lên nhanh chóng. Qua 6 Hội nghị tài trợ bắt đầu từ năm 1994, ODA vào Việt Nam đã tăng nhanh qua các năm và đến hết năm 2000 tổng ODA đã đạt được khoảng 17,5 tỉ USD vốn cam kết, trong đó đã giải ngân được gần 8 tỉ USD, chiếm 45,7% vốn cam kết. Tỉ lệ ODA viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15% tổng vốn cam kết. Tỉ trọng này tương đối thấp so với nhiều nước tiếp nhận ODA trong vùng. Số còn lại (khoảng 85%) là vốn vay ưu đãi. Sắp xếp theo giá trị ODA cam kết tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ năm 1999, hiện có 11 nhà tài trợ lớn, trong tổng số 45 nhà tài trợ song phương và 350 tổ chức phi chính phủ (NGO), xếp theo thứ tự: Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu á (Adb), các tổ chức Liên Hợp quốc, Pháp, Tây Ban Nha, Cộng hoà Liên bang Đức, Thụy Điển, úc, Đan Mạch và EC. Nhật Bản, WB, và ADB chiếm 76% tổng vốn ODA đã kí kết, trong đó Nhật Bản gần bằng WB và ADB cộng lại. Năm 2002, nguồn vốn ODA được hợp thức hoá bằng việc ký kết các hiệp định với nhà tài trợ đạt trị giá 1,574 tỷ USD, bằng 74% tổng giá trị hiệp định ký kết của cả năm 2001; Trong đó, bao gồm vốn vay là 1,33469 tỷ USD và viện trợ không hoàn lại là 239,41 triệu USD. Năm 2002, giá trị ODA đã ký kết tập trung chủ yếu vào 3 nhà tài trợ là Nhật bản (536,18 triệu USD), Ngân hàng thế giới WB (499,53 triệu USD) và Ngân hàng Phát triển Châu á- ADB (264,15 triệu USD), với tổng số vốn là 1.299,86 triệu USD, chiếm 83% tổng giá trị hiệp định. Về cơ cấu ngành, các chương trình, dự án ODA tập trung chủ yếu vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, tăng trưởng xoá đói giảm nghèo. Về tình hình giả ngân năm 2002 đạt khoảng 1.527 triệu USD, trong đó vốn vay khoảng 1.207 triệu USD (riêng vón vay của 3 nhà tài trợ – JBIC, WB, ADB khoảng 843 triệu USD, chiếm 85% tổng số giải ngân vốn vay ODA), viện trợ không hoàn lại khoảng 320 triệu USD. Mức giả ngân của cả năm 2002 đạt khoảng 85% so với kế hoạch cả năm. Việc thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA chưa đạt mục tiêu đề ra do những vướng mắc đã tồn tại trong thời gian dài chưa giải quyết dứt điểm, đó là : quy trình duyệt, thẩm định dự án, kế hoạch và kết quả đấu thầu còn chậm và qua nhiều cấp; Công tác giải phóng mặt bằng kéo dài do chính sách đền bù chưa phù hợp; Vốn đối ứng cho các dự án chưa đảm bảo cân đối và kịp thời; Năng lực thực hiện của các ban quản lý còn yếu. 3. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại Cùng với các chính sách, đinh chế đối với các nguồn vốn nước ngoài trên, trong thời gian gần đây có khá nhiều các quy định liên quan đến quản lý vay và trả nợ nước ngoài, trong đó có một số văn bản đáng chú ý là : Quy chế Quản lý và trả nợ nước ngoài (ban hành kèm theo Nghị định 90/1998/NĐ-CP); Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính số 72/1999/QĐ-BTC, ngày 9/7/1999 về việc ban hành Quy chế lập, sử dụng và quản lý quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 233/1999/QĐ-TTg, ngày 20/12/1999 ban hành Quy chế bảo lãnh của Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng; Thông tư số 3/1999/TT-NHNN, ngày 12/8/1999 về Hướng dẫn việc vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nhgiệp. Theo các chính sách, định chế trên, vay nước ngoài là các khoản vay ngắn hạn (thời hạn vay đến 1 năm) hoặc trung và dài hạn (có và không phải trả lãi) do Nhà Nước Việt Nam hoặc là doanh nghiệp là pháp nhân Việt Nam (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vay của tổ chức tài chính quốc tế, của chính phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức, cá nhân nước ngoài khác. vay nước ngoài của chính phủ là các khoản vay do cơ quan được uỷ quyền của nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam ký vay với bên cho vay nước ngoài dưới danh nghĩa Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm các khoản vay: ODA, tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ. Vay nước ngoài của các doanh nghiệp là các khoản vay do doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật pháp hiệnhành của Việt Nam (kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) trực tiếp với bên cho vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ hoặc vay thông qua phát hành trái phiếu ra nước ngoài. Các văn bản trên có những điểm tích cực là : hình thành được khung pháp lý cần thiết cho các hoạt động vay và trả nợ nước ngoài; đã có các quy định hướng dẫn chi tiết, khá rõ ràng của các bộ ngành hữu quan về thực hiện các quy chế vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thực hiện các văn bản cũng bộc lộ một số khó khăn hạn chế như kiểm soát quá chặt chẽ đối với các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân; thiếu các văn bản cần thiết để tăng cường tính trách nhiệm của các chủ nợ (nhất là các tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước); một số quy định giữa các văn bản còn chưa thống nhất với nhau. Đến cuối năm 2000, tổng nợ nước ngoài thực tế xử lý tại Câu lạc bộ Pari, Luân Đôn, và Nga ở mức 12,8 tỷ USD, trong đó nợ doanh nghiệp là hơn 4 tỷ USD (doanh nghiệp FDI gần 3 tỷ, doanh nghiệp quốc doanh và các thành phần khác hơn 1 tỷ), số còn lại là nợ Nhà nước. Mức nợ này chiếm 39% GDP, 105% giá trị xuất khẩu năm 2000. 4. Vốn đầu tư gián tiếp của tư nhân nước ngoài thông qua thị trường vốn quốc tế Trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, việc tham gia hoạt động trên thị trường vốn quốc tế thông qua phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế được nhiều nước thực hiện có hiệu quả. Đối với Việt Nam, do nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp, việc huy động vốn từ nước ngoài dưới hình thức ODA, FDI gặp nhiều khó khăn nên chúng ta đã sớm nghĩ đến việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu quốc tế và coi đó là nguồn vốn có tầm quan trọng và lâu dài. Nghị định 23/CP của Chính phủ ngày 23/03/1995 về việc phát hành trái phiếu quốc tế đã quy định trái phiếu quốc tế bao gồm 3 loại: trái phiếu chính phủ, trái phiếu ngân hàng thương mại quốc doanh và trái phiếu doanh nghiệp nhà nước. Điều kiện để doanh nghiệp, ngân hàng thương mại quốc doanh phát hành trái phiếu quốc tế theo Nghị định này gồm: Đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo các quy định của pháp luật về thành lập doanh nghiệp Nhà nước. Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi liên tiếp trong 3 năm trước khi phát hành trái phiếu, tình hình tài chính lành mạnh, và có triển vọng phát triển, không vi phạm pháp luật và kỷ luật tài chính, có chứng nhận của Công ty kiểm toán độc lập. Dự án đầu tư có hiệu quả được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Phương án phát hành trái phiếu quốc tế được Chính phủ cho phép. Tuy nhiên, trên trực tế chưa có doanh nghiệp Việt Nam nào phát hành trái phiếu quốc tế. Điều này là do bên Việt Nam có định mức tín nhiệm rất thấp trên thị trường vốn quốc tế (Nhà nước Việt Nam được đánh giá định mức tín nhiệm ở mức B1 theo Moddy’s và mức CCC theo Standart & Poor). Do đó, các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam muốn phát hành trái phiếu ra thị trường Eurobond hoặc thị trường Yankee bond thì sẽ phải chịu mức lãi suất cao, cộng thêm các chi phí phát hành khác thì tổng mức chi phí sẽ là rất cao (theo tính toán của các chuyên gia, nếu doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế thì lãi suất thấp nhất cũng khoảng 10%/năm. Trong khi đó, lãi suất huy động USD trong nước cùng thời điểm cũng chỉ khoảng 6,5%/năm. Điều này đã hạn chế các doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế. Đối với việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế, Việt Nam có các điều kiện thuận lợi như : ổn định về chính trị, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế khá cao, lạm phát đã được kiềm chế. Ngay từ đầu những năm 1990 Bộ Tài chính đã xúc tiến việc nghiên cứu xây dựng đề án phát hành trái phiếu Chính phủ Việt Nam ra thị trường vốn quốc tế (đã có đề án phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài vào năm 1995 với khối lượng từ 100 đến 150 triệu USD). Tuy nhiên, do những trở ngại về vấn đề nợ Chính phủ (việc đàm phán nợ tại Câu lạc bộ LonDon chưa dứt điểm), và do thời điểm chưa thuận lợi (theo các chuyên gia quốc tế, hiện tại Việt Nam không nên phát hành trái phiếu quốc tế mà nên triệt để sử dụng vốn vay ưu đãi ODA, hạn chế vay thương mại, giảm bớt gánh nặng trả nợ nước ngoài), việc phát hành trái phiếu quốc tế tạm thời chưa thực hiện được. Về lâu dài, khi điều kiện thuận lợi, chắc chắn Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tham gia vào thị trường vốn quốc tế, vì đây là nguồn vốn dồi dào và ít bị ràng buộc hơn rất nhiều so với các khoản vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và các khoản vay ODA. III. Nhận xét chung về tình hình huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội Xét về mặt định lượng : Tổng hợp tình hình qua bảng sau: 1990 1991 1992 1993 1994 1995 5 năm 91-95 Tổng số 18.090 22.720 34.030 51.470 56.130 68.100 232.450 Tỷ lệ (%) (100) (100) (100) (100) (100) (100) (100) 1 Vốn ngân sách nhà nước 4.700 4.220 10.850 16.860 9.300 13.600 54.830 (25,98) (18,57) (31,88) (32,76) (16,57) (19,97) (23,59) 2 Vốn tín dụng nhà nước - 2.320 1.160 3.480 4.210 3.100 14.270 (-) (10,21) (3,41) (6,76) (7,50) 4,55) (6,14) 3 Vốn các DNNN 2.055 3.300 1.760 3.860 7.000 9.400 25.320 (11,36) (14,52) (5,17) (7,50) (12,47) (13,80) (10,89) 4 Vốn của tư nhân và dân cư 8.86 10.68 15.17 16.25 19.12 20 81.22 (48,98) (47,01) (44,58) (31,57) (34,06) (29,37) (34,94) 5 Vốn đầu t trực tiêp nước ngoài 2.475 2.200 5.090 11.020 16.500 22.000 56.810 (13,68) (9,68) (14,96) (21,41) (29,40) (32,31) (24,44) Vốn đầu tư phát triển 1991-2000 phân theo nguồn vốn (mặt bằng giá năm 1995) 1996 1997 1998 1999 2000 5 năm 10 năm Tổng số Tỷ lệ (%) 73.05 83.63 76.48 77.92 88.45 399.53 631.98 (100) (100) (100) (100) (100) (100) (100) 1 Vốn ngân sách nhà nước 15.18 17.78 16.42 19.5 18.48 87.36 142.19 (20,78) (21,26) (21,47) (25,03) (20,89) (21,87) (22,50) 2 Vốn tín dụng nhà nước 7.64 10.96 11.74 14.25 17.62 62.21 76.48 (10,46) (13,11) (15,35) (18,29) (19,92) (15,57) (12,10) 3 Vốn các DNNN 10.21 11.48 12.77 14.25 15.82 64.53 89.85 (13,98) (13,73) (16,71) (18,29) (17,89) (16,15) (14,22) 4 Vốn của tư nhân và dân cư 19.14 17.26 16.27 15.75 21.43 89.85 171.07 (26,20) (20,64) (21,27) (20,21) (24,23) (22,49) (27,07) 5 Vốn đầu tư trực tiêp nước ngoài 20.880 26.150 19.280 14.170 15.100 95.580 152.390 (28,58) (31,27) (25,21) (18,19) (17,07) (23,92) (24,11) Xét về mặt định tính : với tất cả những hạn chế của công tác thống kê, khảo sát, phân tích và dự báo kinh tế - tài chính ở nước ta, vẫn có thể đưa ra một số nhận xét về thực tế và tiềm năng huy động các nguồn vốn cho tăng truởng kinh tế và công bằng xã hội như sau: Thứ nhất, về đặc điểm, tính chất : các nguồn vốn có thể huy động cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước mới chỉ được khai thác không đáng kể, mà chủ yếu còn ở dạng tiềm năng và chưa được đánh giá đầy đủ và chính xác. Hơn nữa, chúng tồn tại và được huy động với quy mô nhỏ bé, trong tình trạng chia cắt, manh mún, rời rạc và nặng tính tự phát, thiếu sự hợp tác và gắn bó hỗ trợ nhau trong một kế hoạch có mục tiêu nhất quán và đồng bộ như một chỉnh thể, nếu không muốn nói là đôi khi còn chèn ép và làm giảm tác động tích cực của nhau đến mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng, tiến bộ và công bằng xã hội. Thứ hai, đến nay vẫn còn khá đậm nét sự lúng túng, phân biệt đối xử và “sự nghi kỵ” lẫn nhau giữa các nguồn vốn khác nhau, mà sự tồn tại của quá nhiều các đạo luật khác nhau điều chỉnh các nguồn vốn khác nhau cho thấy điều đó (hiện có tới hơn 5 đạo luật điều chỉnh vốn đầu tư xã hội: Luật Doanh nghiêp tư nhân, Luật Công ty, Luật DNNN, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Phá sản…). Vẫn còn sự thiếu công bằng trong quyền lợi và nghĩa vụ mà các chủ sở hữu các nguồn vốn này nhận được, rõ nét nhất là giữa DNNN – Doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giữa nông thôn và thành thị. Thậm chí sự thiếu công bằng còn tồn tại cả trong cơ cấu chi NSNN cho đầu tư phát triển, cho tiến bộ và công bằng xã hội. Nhìn chung, hệ thống pháp lý và cơ sở hạ tầng cùng dịch vụ nhằm khuyến khích, hỗ trợ và định hướng đầu tư phát triển vẫn còn chưa phát triển, thậm chí nhiều bất cập. Thứ ba, hậu quả chung là vốn xã hội bị chi tiêu dùng nhiều hơn chi đầu tư phát triển. Hơn nữa đang có xu hướng sụt giảm dần chỉ số hiệu quả đầu tư xã hội K= ∆GDP (năm sau)/tổng đầu tư xã hội (năm trước). Cụ thể: trong khi các hình thức huy động vốn đầu tư phát triển ngày càng đa dạng và hiệu quả hơn, khiến tổng đầu tư và chỉ số đầu tư/GDP tăng liên tục từ năm 1991-1997 thì K vận động theo hướng ngược lại. Nghĩa là, nếu như 1 USD đầu tư năm 1992 làm tăng 1,47 USD GDP năm 1993 thì 1 USD đầu tư năm 1996 sẽ chỉ còn làm tăng 0,29 USD GDP năm 1997. Ngoài ra, còn phải kể đến sự gia tăng tình trạng vốn đầu tư xã hội “bị đóng băng” trong bất động sản và nằm ứ đọng trong ngân hàng vì không cho vay được, hoặc hao hụt dưới nhiều dạng thất thu, thất thoát chi NSNN, nợ đọng khó đòi (lên tới từ 9-10% tổng dư nợ ngân hàng)… Tình trạng nhập hàng xa xỉ (xe máy, ôtô du lịch, rượu, bia…) và tiêu dùng vượt quá khả năng cho phép ở bộ phận dân thành thị vẫn không giảm. tình trạng nằm im hoặc rút vốn đầu tư, kể cả chuyển đổi sở hữu từ dạng doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, tình trạng nhập khẩu công nghệ và thiết bị lạc hậu hoặc bị đội giá đang ngày càng phổ biến cũng là những tín hiệu thiếu lành mạnh trong hoạt động của ĐTNN những năm gần đay nói riêng, trong bức tranh toàn cảnh về huy động vốn đầu tư nói chung ở Việt Nam. Thứ tư, về triển vọng vận động, trong số các nguồn vốn nêu trên thì lượng ODA và kiều hối có xu hướng giảm dần do xu hướng giảm ODA trên thế giới, đi đôi với sự phát triển của đất nước sẽ giảm bớt “tính ưu tiên” của Việt Nam trong danh sách các nước nhận ODA thế giới. Còn sự giảm sút kiều hối là do sự “nhạt dần” các quan hệ thân hữu giữa lượng người Việt ở nước ngoài với người thân trong nước. Chỉ có kênh kiều hối của việc xuất khẩu lao động của Việt Nam đi các nước và kênh FDI có nguồn gốc từ người Việt Nam sống ở nước ngoài có thể tăng lên. Lượng vốn đầu tư cho phát triển từ NSNN và vốn vay thương mại cũng có giới hạn do sự quy định nghiêm ngặt của giới hạn động viên GDP vào NSNN và sự an toàn tín dụng quốc tế (mà chúng ta đang sắp đạt tới “ngưỡng” của các giới hạn này). Có thể có sự gia tăng vốn đầu tư cho phát triển từ bộ phận tài sản công và tài sản quốc gia vẫn còn nằm ở dạng tiềm năng hoặc ít được khai thác. Rút cục, sự linh dộng, tiềm tàng và triển vọng dồi dào nhất của nguồn vốn cho đầu tư phát triển chính là FDI và vốn trong dân cư (mà vốn trong dân cư sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng) nếu được nuôi dưỡng và động viên thích hợp bằng môi trường kinh doanh ngày càng được hoàn thiện và có tính cạnh tranh quốc tế cao. Tóm lại, suốt 10 năm đổi mới đến nay, chúng ta đã thu được nhiều thành tích không thể phủ nhận và kinh nghiệm quý báu trong huy động các nguồn vốn cho phát trển kinh tế và công bằng xã hội. Song về cơ bản, nền kinh tế mới tăng trưởng dựa trên việc khai thác các nhân tố phát triển bề rộng và đang cạn dần (xuất khẩu tài nguyên, nông phẩm, vốn nước ngoài và năng suất gia tăng do tình thần làm chủ của người lao động được nâng lên nhờ thay đổi sở hữu…) mà chưa coi trọng các nhân tố phát triển bề sâu (năng suất, hiệu quả nhờ phát triển khoa học-kỹ thuật, nguồn tiết kiệm trong nước…). Tư tưởng “ăn xổi”, kinh doanh chụp giật vẫn đè năng lên đa số các nhà đầu tư trong nước lẫn một bộ phận ngoài nước, thậm chí cả trong dân chúng, lẫn một bộ phận các nhà quản lý. Cơ chế chung của nền kinh tế vẫn còn đậm nét cơ chế hao phí: hao phí lao động, hao phí nguyên vật liệu, hao phí tín dụng, chất xám, hao phí tài sản công và tài nguyên quốc gia. Tiêu dùng vẫn được đặt cao hơn tích luỹ phát triển sản xuất… Phần III Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư phát triển nguồn vốn trong nước Tiếp tục quản lý tốt nguồn thu của NSNN từ thuế, phí, lệ phí…mà đặc biệt là các khoản thu từ thuế. Hàng năm, thu từ thuế chiếm tới khoảng 94% thu ngân sách nhà nước. Đây là lượng vốn lớn để phân phối cho các hoạt động đầu tư của Nhà nước, tuy nhiên, nguồn thu này vẫn đang trong tình trạng thất thu lớn do các hoạt động trốn lậu thuế diễn ra ngày càng mạnh mẽ và tinh vi hơn. Vì vậy, cần tăng cường kiểm soát, phát hiện những hành vi gian lận trong thương mại, tiếp tục sửa đổi các luật về thuế Tiêu thụ đặc biệt, VAT, thuế Nhập khẩu… để tránh bị lợi dụng các khe hở nhằm lách luật, trốn lậu thuế. Tiết kiệm trong chi NSNN, chi của doanh nghiệp và dân cư. ở đây, tiết kiệm không có nghĩa là keo kiệt, bủn xỉn, không dám tiêu dùng mà thực chất, tiết kiệm là nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, kết hợp tốt và hợp lý các đàu vào để đem lại kết quả cao nhất. Đối với khu vực tư nhân-khu vực có tiềm năng rất lớn, cần tạo điều kiện cho khu vực này tiếp cận với thị trường tài chính, các tổ chức trung gian như ngân hàng, các công ty bảo hiểm… Tuy nhiên, cần thống nhất quan điểm, không phải mọi nguồn vốn trong xã hội cứ phải tập trung vào các Ngân hàng thương mại (NHTM), mà phải khuyến khích người dân tự đầu tư, bỏ vốn ra kinh doanh, mở ra nhiều hình thức đầu tư khác nhau. Nhà nước cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi, rõ ràng và nhất quán để cho mọi người dân an tâm đầu tư, kinh doanh, ngăn chặn các trường hợp hụi họ có động cơ xấu, nghiêm trị những kẻ lừa đảo vốn vay trong dân cư, có chính sách thuế và tổ chức thu thuế nhất quán… Để huy động nguồn vốn trong dân có hiệu quả đòi hỏi một số yêu cầu đối với hệ thống ngân hàng như: Ngân hàng Nhà nước tiến tới đổi mới thêm một bước cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá, để lãi suất thực sự là công cụ điều tiết cung cầu vốn trên thị trường. Đồng thời sớm khắc phục một số bất hợp lý về các mức trần lãi suất cho vay hiện nay. Các ngân hàng thương mại (NHTM) khẩn trương ứng dụng rộng rãi dich vụ ngân hàng, trước hết thực hiện nối mạng với các Tổng cong ty 90, 91 nhất là các ngành xi măng, xăng dầu, bưu điện… để giúp cho hội sở các Tổng công ty có thể điều hành nguồn vốn tiền gửi, thanh toán, tiền vay linhhoạt giữa các đơn vị thành viên thông qua hệtống tài khoản trong các ngân hàng. Các NHTM cần linh hoạt hơn trong việc điều hoà vốn giữa các chi nhánh trong toàn hệ thống,không nên điều hành theo hình thức giao chỉ tiêu huy động vốn tại chỗ, hay kế hoạch điều hoà vốn cho từng chi nhánh một cách cứng nhắc. Cần có chiến lược tiếp cận nhanh với nghiệp vụ tiền gửi ngắn hạn với các ngân hang nước ngoài trên thị trường tiền tệ quốc tế. Có giải pháp cụ thể để đảm bảo tính hiệu quả và tính linh hoạt của thị trường trái phiếu Kho bạc nhà nước, mua bán lại công trái, thị trường liên ngân hàng và giao dịch chu chuyển vốn thanh toán trực tiếp giữa các NHTM. Đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hoá các DNNN, khuyến khích việc phát hành trái phiếu: chính phủ, doanh nghiệp, xây dựng kênh huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, phát triển thị trường cổ phiếu, trái phiếu nhằm thay đổi cách tích trữ vốn nhàn rỗi trong dân cư. nguồn vốn nước ngoài Thứ nhất: Tiếp tục ổn định chính trị- kinh tế- xã hội Đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu và lầ cơ sở của sự tăng trưởng, là cơ sở để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài . bởi vì khi nhà đầu tư quyết đinh bỏ vốn đầu tư dài hạn thì vấn đề ổn định chính trị- kinh tế- xã hội Việt Nam cần tiến hành đổi mới trên tất cả các lĩnh vực cho phù hợp với thực tiễn, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, coi đây là nhân tố cốt lõi. Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng trong suốt 7 thập kỷ qua là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ khi Việt Nam thực hiện sự nghiệp đổi mới thì ổn định chính trị- kinh tế- xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, tình hình xã hội còn nhièu tiêu cựcvà nhiều vấn đề cần phải tiếp giải quyết như: tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, thất nghiệp gia tăng, phân hoá giàu nghèo… đang là những yếu tố tác động mạnh tới sự ổn định. Đây là những vấn đề cần giải quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời ở mọi cấp, mọi nơi, mọi cương vị. Cần thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, kinh tế hành chính và pháp luật để đảy lùi những tiêu cực về mặt xã hội, góp phần làm trong sạch môi trường đầu tư. đặc biệt chú trọng cải thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện thông thoáng về pháp lý cho hoạt động đầu tư phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế ở mọi giai đoạn phát triển. Xây dựng hệ thống luật thống nhất và hoàn chỉnh, sớm ban hành những luật còn thiếu như luật kinh doanh bất động sản, luật thương mại, luật cạnh tranh và độc quyền. Môi trường chính trị- kinh tế- xã hội ổn định đang trơe thành nhân tố cớ bản đem lại lợi thế cho Việt Nam , lôi kéo ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào hạot động, tạo cho chúng ta có cơi hội để lựa chọn đối tác, mạng lại hiệu quả trong kinh doanh cần tiếp tục củng cố. Thứ hai: Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng Đây là một nỗ lực tạo môi trường đầu tư và kinh doanh hấp dẫn. Điều này hết sức quan trọngkhi các nhà đầu tư quyết định đưa vốn của mình vào hoạt động. Cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi sẽ thúc đẩy và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thực hiện dự án đạt hiệu quả. Ngược lại, cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ làm giảm hiệu lực thu hút các nhà đầu tư. Hiện nay, hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn nhiều yếu kém như: đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay, thông tin liên lạc… chưa đáp ứng được điều kiện sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Vì vậy, nhà nước cần đầu tư xây dựng phát triển bằng nhiều hình thức và có các ưu đãi về thuế so với các lĩnh vực khác. Chính phủ cần giành một khối lượng lớn tài chính để mở rộng hoặc nâng cấp các tuyến đường giao thông, đặc biệt là các thành phố lớn. Vì đây là lĩnh vực cần vốn đầu tư lớn mà thời gian thu hồi vốn lại dài, do đó tư nhân không thể làm được. Trước mắt cần tập trung các nguồn lực vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng, ngành trọng điểm, đầu mối giao thông quan trọng. Cụ thể, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng có tác dụng thúc đẩy nhanh sự tiến bộ của khoa học công nghệ, dảm bảo an ninhquốc phòng, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao, đem lại GDP và tích luỹ lớn, có tỷ trọng chi phối nền kinh tế quốc dân, đảm bảo cân đối chủ yếu về kinh tế xã hội của đất nước; những ngành, vùng tạo ra nhièu công ăn việc làm để tăng thu nhập cho người dân, từ đó có tác động thúc đẩy và tạo điều kiện cho các vùng, ngành khác phát triển. Thứ ba : Tiếp tục huy động triệt để các nguồn vốn đầu tư. Đặc biệt là nguồn vốn FDI, vốn trong dân và các doanh nghiệp. Khuyến khích thúc đẩy mọi thành phần kinh tế sản xuất, tăng thu cho ngân sách, huy động đến mức tối đa nguồn vốn trong nước, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng để huy động tốt hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Hai nguồn vốn này sẽ hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, tăng quy mô. Mặt khác cần nâng cao nhận thức cho tất cả mọi người ý thức được vai trò của việc huy động vốn đầu tư. Nhận thức được rõ ràng tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư để đảm bảo một sự phát triển nhanh, bền vững, đưa đất nước ngày càng phồn vinh. Cần quán triệt theo tinh thần Đại hội Đảng VIII đề ra là nhà nước hỗ trợ tất cả các thành phần kinh tế và khuyến khích nhân dân: Lấy mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là điểm tương đồng… Chấp nhận những điểm khác nhau, miễn là không trái với mục tiêu chung của dân tộc cùng hướng tới phát triển. Thứ tư: việc huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước phải đồng bộ, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, gắn bó, bổ sung, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Đồng thời quản lý và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả: Trong điều kiện cung về vốn có hạn, cầu về vốn lại lớn thì càn phân bổ vốn một cách hợ lý, đầu tư vào những ngành (lĩnh vực) then chốt, trọng điểm, vùa giải quyết những vấn đề trước mắt, vừa giải quyết những vấn đè lâu dài thiét thực như: xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, môi trường…Giải quyết nhanh mọi vướng mắc khó khăn, tăng cường sự giúp đỡ hỗ trợ cho dự án đang hoạt động, nhằm tăng cường tính thuyết phục, lôi cuốn, thu hút các nhà đầu tư mới, các dự án mới. Thứ năm: Phát triển những định chế tài chính trung gian, hoàn thiện cơ chế chính sách về ĐTNN Đây là việc làm cần thiết, đặc biệt ở nước ta việc xây dựng cơ chế tổ chức và hoạt động của các quỹ đầu tư phát triển quốc gia là quan trọng. Đây sẽ là trung tâm cung cấp vốn đầu tư phát triển cho tất cả cá dự án đầu tư của nhà nước, các dự án của doanh nghiệp nhà nước, các Tổng côngty, các công ty liên doanh, công ty cổ phần…Mặt khác, cần cải tiến các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá việc cấp giấy phép, đăng ký đầu tư , hoàn thiện cơ chế, chính sách theo chuẩn quốc tế Thứ sáu: Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế Cần tiếp tục đẩy mạnh và phát triển mối quan hệ với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế cũng như ngân hàng các nước nhằm tranh thủ nguồn tài trợ của các tổ chức. Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống tài chính-tiền tệ phù hợp. Thúc đẩynhnh sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán để nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Thứ bảy: Cần đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kiến thức cho dội ngũ cán bộ làm công tác hướng dẫn đầu tư Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh, kỹ thuật…phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyen môn, đạo đức tốt, giỏi ngoại ngữ, đủ mạnh để chuẩn bị tiếp nhận các dự án trong thời gian tới, tránh nguy cơ tụt hậu, nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên trường quốc tế. Kết luận Qua phân tích vai trò và thực trạng của vốn đầu tư phát triển phần nào cho thấy vai trò quan trọng của đầu tư đối với sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển như Việt Nam . Từ đó, ta có thể có một cái nhìn tổng quan trên phương diện vĩ mô về tình hình thu hút vốn đầu tư phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, so với tiềm năng và nhu cầu thì giá trị huy động được là chưa nhiều, nhất là trong tương lai, khi mà nhu cầu về vốn đầu tư phát triển tăng nhanh theo cấp số nhân. Đề án cũng đưa ra một số giải pháp tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư cho thời gian tới, nhằm cải thiện hoạt động huy động vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Tuy nhiên, các giải pháp chỉ xét trên phương diện vĩ mô ở thời điểm hiện tại, việc áp dụng trong thực tế cần phải linh hoạt và chủ động theo tình hình cụ thể từng thời kỳ đi kèm sự biến đổi không ngừng của kinh tế toàn cầu. Chắc chắn đề án này sẽ còn chứa đựng nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế Đầu tư 2. Giáo trình Lập dự án đầu tư Giáo trình Thị trường vốn Tạp chí Ngân hàng Tạp chí Cộng sản Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ Tạp chí Xây dựng Tạp chí Kinh tế và Dự báo Tạp chí Con số và Sự kiện Tạp chí Chứng khoán Việt Nam Tạp chí Thương Nghiệp và Thị trường Việt Nam Mục lục Tên đề mục số trang Lời mở đầu……………….…………………………………………………….. …1 Phần I : Một số vấn đề lý luận chung……………..….……………………. …..… 2 I.Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển……………………………….. 2 1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển…………………………………...2 2. Vai trò của đầu tư phát triển………………………………….……….... 2 2.1 Đầu tư tác động đến tổng cung, tổng cầu ……………………….……...2 Đầu tư tác động đến tốc tăng trưởng và phát triển kinh tế………….….4 2.3 Đầu tư tác động tới khoa học và công nghệ của đất nước………….…...4 2.4 Đầu tư tác động tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế…………….…..5 III. Nội dung của vốn đầu tư phát triển………………………………….…. 8 1. Nguồn vốn trong nước ……………………………………………….....8 1.1 Tiết kiệm của Chính phủ (nguồn vốn Nhà nước)…………………...…..9 Tiết kiệm của doanh nghiệp…………………………………………...11 1.3 Tiết kiệm của khu vực dân cư……………...……………………….…..11 2. Vốn nước ngoài……………………………………………………..… 12 2.1 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)……………………………..… 12 2.2 Vốn đầu tư gián tiếp ……………………………………………….…..13 2.3 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại …………….….…..13 2.4 Vốn đầu tư gián tiếp của tư nhân …………………………….…….….14 Phần II Thực trạng huy động vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam ………….….…16 I. Tình hình huy động nguồn vốn trong nước…………………………..…..16 Tiết kiệm của Chính phủ………………………………………….….…16 Tiết kiệm của doanh nghiệp …………………………………….….…..19 Tiết kiệm của khu vực dân cư………………………………….….…… 20 II. Tình hình huy động nguồn vốn nước ngoài ………………….…….….22 1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)……………………………...…. 22 2. Vốn đầu tư gián tiếp …………………………………………….…..….24 3. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại…………….…..….. 25 4. Vốn đầu tư gián tiếp của tư nhân…………………………………...…. 26 III. Nhận xét chung về tình hình huy động vốn đầu tư phát triển……...…. 27 Phần III: Một số giải pháp tăng cường khả năng huy động vốn……………....... 32 I. Nguồn vốn trong nước…………………………………………….….…32 Nguồn vốn nước ngoài …………………………………………..…..…33 Kết luận ………………………………………………………………….……...36 Tài liệu tham khảo………………………………………………………..….…. 37

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA123.doc
Tài liệu liên quan