Đề tài Tình hình cổ phần hóa ở doanh nghiệp Viconship và bài học kinh nghiệm rút ra

Tài liệu Đề tài Tình hình cổ phần hóa ở doanh nghiệp Viconship và bài học kinh nghiệm rút ra: Lời mở đầu Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước nhằm chuyển một phần sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, huy động vốn nhàn rỗi của cán bộ, công nhân và dân cư, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện chủ trương trên, Bộ giao thông vận tải, Tổng công ty Hàng hải Việt nam đã tích cực tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực mình quản lý đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ vận tải. Công ty Container phía bắc tên viết tắt là Viconship Hải phòng được thành lập ngày 02/06/1993 với nhiệm vụ chính là Khai thác Container, đại lý tàu biển, môi giới hàng hải cho các hãng tàu trong và ngoài nước, khai thác vận chuyển hàng hoá bằng Container, sửa chữa đóng mới và cho thuê Container, kinh doanh kho, bến, bãi. Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, Công ty Container phía bắc là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực vận tải và dịch vụ vận tải một lĩnh vực có tính cạnh tranh cao đòi hỏi sự năng động và nhạy ...

doc74 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình cổ phần hóa ở doanh nghiệp Viconship và bài học kinh nghiệm rút ra, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước nhằm chuyển một phần sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, huy động vốn nhàn rỗi của cán bộ, công nhân và dân cư, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện chủ trương trên, Bộ giao thông vận tải, Tổng công ty Hàng hải Việt nam đã tích cực tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực mình quản lý đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ vận tải. Công ty Container phía bắc tên viết tắt là Viconship Hải phòng được thành lập ngày 02/06/1993 với nhiệm vụ chính là Khai thác Container, đại lý tàu biển, môi giới hàng hải cho các hãng tàu trong và ngoài nước, khai thác vận chuyển hàng hoá bằng Container, sửa chữa đóng mới và cho thuê Container, kinh doanh kho, bến, bãi. Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, Công ty Container phía bắc là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực vận tải và dịch vụ vận tải một lĩnh vực có tính cạnh tranh cao đòi hỏi sự năng động và nhạy bén với thị trường. Đồng thời với chủ trương của Đảng và chính phủ về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thì việc cổ phần hoá Công ty Container phía bắc là một đòi hỏi tất yếu hợp với xu thế hiện nay. Là một sinh viên chuyên nghành kinh tế ngoại thương, nhận thức được vai trò to lớn của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, bằng những kiến thức lý luận học tập tại trường Đại Học Ngoại Thương và thực tiễn đã lĩnh hội được trong thời gian thực tại công ty, em mạnh dạn chọn chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Tình hình CPH ở doanh nghiệp Viconship và bài học kinh nghiệm rút ra”. - Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu: Do thời gian hạn chế luận văn chỉ nghiên cứu việc thực hiện CPH ở công ty Viconship và đánh giá chung tình hình hoạt động của công ty từ sau khi CPH đến nay. - Phương pháp nghiên cứu: Dựa vào những kiến thức đã học và kinh nghiệm thực tế khi tham gia vào thực tập tại công ty Viconship, đề tài nghiên cứu theo hướng sử dụng lý luận kết hợp với những thực tế để phân tích (phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp phỏng vấn và quan sát) - Mục đích của đề tài: trên cơ sở phân tích tình hình CPH ở công ty và thực trạng hoạt động của công ty sau khi tiến hành CPH, luận văn đưa ra một số bài học nhằm góp phần thúc đẩy nhanh quá trình CPH của Việt Nam. Với nội dung trên, kết cấu luận văn bao gồm 3 chương ngoài phần mở đầu và kết luận: Chương I : Cổ phần hoá DNNN ở nước ta Chương II : Tình hình cổ phần hoá của công ty Viconship Chương III : Bài học kinh nghiệm rút ra qua quá trình cổ phần hoá của công ty Viconship. Chương I Cổ PHầN HóA doanh nghiệp nhà nước (dnnn) ở việt nam i. dnnn và đổi mới dnnn 1.Khái niệm Theo luật doanh nghiệp nhà nước thì DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội do Nhà nước giao. Như vậy DNNN thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, được Nhà nước cấp vốn và các nguồn khác cho hoạt động của mình. DNNN thực hiện các mục tiêu của Nhà nước trên cơ sở kinh doanh những ngành nghề phù hợp với nhu cầu thị trường và có thể mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của mình. DNNN cũng được sử dụng vốn và các quỹ theo nhu cầu kinh doanh, đồng thời tự huy động vốn hoạt động nhưng không làm thay đổi hình thức sở hữu. 2.Thực trạng và sự cần thiết phải đổi mới DNNN ở nước ta. 2.1 Thực trạng của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. 2.1.1 Tài sản và công nghệ Nhìn chung, trình độ công nghệ, kỹ thuật của các DNNN còn lạc hậu. Tại nhiều DNNN trình độ công nghệ lạc hậu so với mặt bằng công nghệ thế giới là khoảng 20 năm. Các trang thiết bị công nghệ không đồng bộ, chắp vá và hầu như đã tính hết khấu hao. Hiện nay tại các DNNN có tới 76% thiết bị công nghệ thuộc thế hệ những năm 50-60, hao mòn hữu hình từ 30 - 50%; 38% số thiết bị công nghệ ở dạng phải thanh lý. Thêm vào đó trình độ công nghệ của DNNN còn yếu kém. Trong số các DNNN trung ương thì có tới 54,3% ở trình độ phổ thông, 41% ở trình độ cơ khí và chỉ có 4,7% ở trình độ tự động hoá. Vì vậy năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp, làm cho khả năng cạnh tranh của các DNNN bị ảnh hưởng rất lớn. 2.1.2 Vốn của DNNN. Các doanh nghiệp Nhà nước hiện đang ở tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Mặc dù theo số liệu thống kê đến đầu tháng 6 năm 2000 nước ta có khoảng 5280 DNNN với tổng số vốn là 116 ngàn tỉ đồng, tính trung bình mỗi doanh nghiệp Nhà nước có khoảng 21,97 tỉ đồng. Tuy nhiên số vốn này lại không được phân bố đều, số DNNN có số vốn dưới 5 tỷ VND là 65,45%, riêng DNNN có số vốn dưới 1 tỷ VND là 20%; DNNN có số vốn trên 10 tỷ VND là 20,89%. Như vậy ở đây có sự bất cập khi phân bố nguồn vốn, có những doanh nghiệp đang thiếu vốn hoạt động thì lại có những doanh nghiệp thừa vốn không biết dùng vào việc gì. 2.1.3. Hiệu quả kinh doanh DNNN là một thành phần quan trọng đóng góp phần lớn vào ngân sách Nhà nước và GDP hàng năm. Điều đó được thể hiện qua bảng 1. Bảng1. Đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế (Đơn vị: Tỷ VND) Khu vực Kinh tế (KT) Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Giá trị tuyệt đối (VND) Tỷ trọng (%) Giá trị tuyệt đối (VND) Tỷ trọng (%) Giá trị tuyệt đối (VND) Tỷ trọng (%) Giá trị tuyệt đối (VND) Tỷ trọng (%) KT nhà nước 126970 40,48 144406 40,00 154927 38,74 173118 38,98 KT tập thể 27946 8,91 32131 8,90 35347 8,84 37907 8,53 KT tư nhân 10590 3,38 12325 3,41 13461 3,37 14638 3,30 KT cá thể 107632 34,32 122138 33,83 131706 32,93 142279 32,03 KT khác 12035 3,84 13802 3,83 15543 3,89 17335 3,90 KT có vốn đầu tư nước ngoài 28450 9,07 36214 10,03 48958 12,24 58862 13,25 Nguồn: Niên giám thống kê 2000 nước CHXHCNVN-NXB thống kê Như vậy khu vực DNNN luôn đóng góp với tỉ trọng lớn vào GDP, trung bình khoảng 40% mỗi năm, nhưng trên thực tế các DNNN lại hoạt động chưa có hiệu quả.Vì thực chất đóng góp 40% vào ngân sách là đã tính không chỉ thuế thu nhập DN, thuế VAT (giống các loại hình khác) mà cả khấu hao, tiền sử dụng vốn.... cho nên khi trừ đi chỉ còn hơn 13%. Theo lời ông Phạm Viết Muôn, phó trưởng ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương, hiện có tới 40% trong gần 6000 DNNN làm ăn thua lỗ, 40% khác làm ăn bấp bênh, 20% còn lại hoạt động có hiệu quả (Trích từ Thời báo kinh tế Việt Nam- số 50 ngày 26/4/2000). Thực tế này cho thấy giá trị mà DNNN đóng góp vào GDP là do số đông chứ không phải do làm ăn có hiệu quả hơn các thành phần kinh tế khác. Chỉ tính riêng các DNNN hoạt động có hiệu quả đã đóng góp hơn 80% tổng số nộp ngân sách của tất cả các DNNN. Từ trên có thể nhận thấy rằng khi bước sang nền KTTT các doanh nghiệp nước ta nói chung và các DNNN nói riêng chưa thực sự hoà nhập được, chưa tìm ra hướng đi đúng đắn cho mình để phát huy hết nguồn lực và đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. 2.1.4. Vấn đề lao động trong DNNN Theo thống kê của Bộ lao động Thương binh xã hội thì tính đến đầu tháng 11/2000 tổng số lao động trong doanh nghiệp Nhà nước là 1,68 triệu người so với 38 triệu lao động của xã hội. Còn nếu tính riêng số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp thì cơ cấu lao động được phân bổ như sau: Lao động trong các DNNN 14,43% Lao động trong các DN tư nhân 10,31% Lao động trong các DN hộ sản xuất kinh doanh nhỏ 30,4% Lao động trong các DN liên doanh 6,76% Lao động trong các doanh nghiệp khác (hợp tác xã...) 38,1% Tuy nhiên cho đến nay, tại hầu hết các DNNN nói riêng và các doanh nghiệp nước ta nói chung đều có hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu lao động vì lượng lao động trong các DNNN đông nhưng chất lượng lại thấp. Số lao động dư bình quân tại các DNNN lên tới 6%, có nơi lên tới 20%, chỉ tính riêng số lao động mất việc trong các DNNN sẽ phải phá sản hoặc giải thể đã là 70.000 người, còn số lao động sẽ mất việc khi các DNNN còn lại phải chuyển đổi quyền sở hữu (cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê...) chỉ là hơn 30.000 người. Sở dĩ như vậy vì các doanh nghiệp sẽ bị phá sản hoặc giải thể và một số doanh nghiệp khác làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả nên số lao động làm việc cầm chừng hoặc không có việc để làm cao. Theo số liệu thống kê, đến đầu năm 1995, chỉ tính riêng các DNNN thương mại đã có 48.500 người phải chờ nghỉ việc, một phần lớn phải làm việc ít ngày hoặc nửa ca... trong tổng số 285.104 lao động của khu vực này. Còn theo số liệu gần đây lượng lao động dư thừa trên 100.000 người. Theo lộ trình đến năm 2003 việc sắp xếp lại các lao động trong các doanh nghiệp sẽ giảm thiểu số lao động dôi dư. Khi đó tổng số lao động trong các DNNN sẽ chỉ còn khoảng 1,1 triệu người, tức giảm 34% so với 1,68 triệu người như hiện nay. Lực lượng lao động trong các DNNN cũng ít được qua đào tạo cơ bản, số được đào tạo, CN kỹ thuật, có tay nghề đã bị thải loại theo QĐ 176/HĐBT (khoảng 720.000 người). Đến sau này các trường dạy nghề hoạt động kém hiệu quả, số lao động mới vào DN (nói chung) hiện nay chỉ 10% là được đào tạo, 90% là lao động phổ thông, chủ yếu làm việc theo kinh nghiệm, vì vậy khi bước sang cơ chế mới những người lao động này chưa thích ứng được và họ trở thành lực lượng lao động dư thừa trong doanh nghiệp. Thêm vào đó, do việc bổ nhiệm các giám đốc hoặc chủ tịch HĐQT trong các DNNN theo nhiệm kỳ, ngắn hạn là 2-5 năm, vì vậy tâm lý của những người lãnh đạo chỉ muốn đưa ra những kế hoạch ngắn hạn nhằm thu được lợi nhuận tức thời để chứng tỏ khả năng quản lý của mình làm ảnh hưởng lớn đến chiến lược kinh doanh lâu dài. Từ đó các doanh nghiệp chưa chú trọng đến việc đào tạo cán bộ quản lý và công nhân có tay nghề phù hợp với tình hình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó năng suất lao động tại các DNNN chưa cao, dẫn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh kém. 2.2. Nguyên nhân của trực trạng DNNN hiện nay: Sự ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện cạnh tranh kéo dài sự tư duy không đúng trong một mô hình xã hội trước đây. Tư duy đó đã chi phối đường lối xây dựng đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa với cơ cấu chỉ có hai thành phần (quốc doanh và tập thể). Tư tưởng muốn xoá bỏ nền kinh tế tư nhân và nền kinh tế cá thể đồng nhất với mục tiêu phương hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trước đây người ta thường xem thường các quy luật kinh tế khách quan của thị trường, coi thị trường là vốn có của chủ nghĩa tư bản. Từ đó dẫn đến hậu quả là việc hạch toán kinh tế ở các doanh nghiệp chỉ mang tính hình thức. Các doanh nghiệp thực chất chỉ là người sản xuất, gia công cho nhà nước chứ không phải là một cơ sở kinh doanh. Như vậy rõ ràng DNNN trong điều kiện đó rất xa lạ với mô hình doanh nghiệp theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Sự yếu kém của nền kinh tế là lực lượng sản xuất, nói chung các nguồn lực để phát triển sản xuất và kinh tế của ta tuy phong phú song chủ yếu mới ở dạng tiềm năng. Để biến chúng thành hiện thực và có hiệu quả cần phải có một lượng vốn lớn, kĩ thuật công nghệ đồng bộ, hiện đại, đội ngũ công nhân, cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lí có năng lực, đồng thời phải có trình độ tổ chức và quản lí thích hợp của nhà nước cũng như của doanh nghiệp . Sự yếu kém của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay biểu hiện rõ nhất là sự thấp kém của kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế, cũng như mỗi doanh nghiệp. Trình độ kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế nước ta chỉ ở dưới mức trung bình so với các nước đang phát triển. Nền kinh tế của nước ta còn biểu hiện chưa có tích luỹ nội bộ, chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn. Khả năng vay vốn nước ngoài cũng không phải là thuận lợi, bởi lẽ ta còn thiếu nợ nước ngoài chưa có khả năng trả nợ trong một thời gian nhất định. Mặt khác hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp còn thấp, lãi suất tiền vay còn cao. Trong khi khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và kinh nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu kém . Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung, đối với doanh nghiệp nói riêng nhìn chung còn yếu kém, hệ thống pháp luật, chính sách quản lí chưa hoàn chỉnh, phần lớn các văn bản pháp quy dưới luật có nhiều quy định mâu thuẫn với nhau, hệ thống toà án chưa tổ chức kịp thời nhằm bảo đảm việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật kinh tế. Trong hoạt động quản lý nhà nước, tệ quan liêu cửa quyền, thủ tục hành chính quá phiền hà đối với doanh nghiệp và công dân còn khá phổ biến . Trong quá trình chuyển cơ chế quản lí, nhiều văn bản quản lí cũ đã lỗi thời, song chưa được huỷ bỏ. Những văn bản mới có nhiều sơ hở, nhưng không kịp thời sửa đổi nên bị lợi dung phục vụ lợi ích trước mắt, cục bộ của cơ sở, nghành, gây nhiều tiêu cực, vô hiệu hoá những quy định mới đúng đắn của nước. Một số công tác đặc biệt quan trọng về quản lí đối với doanh nghiệp như quản lí tài chính, kế toán, kiểm toán, thanh tra, giám sát thi hành pháp luật chưa chuyển biến kịp thời trong mọi trường kinh doanh mới có lúc buông lỏng. Ngược lại có lúc, có nơi lại quá nhiều thanh tra kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp một cách tuỳ tiện. Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, nước ta vấp phải một số hạn chế trong việc cải cách chế độ sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước. Về mặt pháp lí, tài sản tiền vốn trong các doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu toàn dân, nhưng trên thực tế tính chất toàn dân của cơ sở bị bào mòn một cách nghiêm trọng. Do các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về kinh tế không được xác định nên hầu hết những người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước thờ ơ và xa cách với sở hữu toàn dân. Đó là nguyên nhân của tham nhũng, thiếu trách nhiệm, thiếu kỉ cương và kỉ luật của người lao động, của sự giảm sút về năng suất, chất lượng hiệu quả, thiếu sự minh bạch trong phân phối thu nhập ở các doanh nghiệp nhà nước, đã có thời gian dài, Việt Nam có sai lầm là trao cho người lao động và đại hội công nhân viên chức những thẩm quyền của người chủ sở hữu. 2.3. Sự cần thiết phải đổi mới DNNN 2.3.1. Cơ sở lý luận Trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã hình thành một hệ thống các xí nghiệp quốc doanh hoạt động sản xuất theo đơn đặt hàng của Nhà nước, thiếu năng động trong sản xuất kinh doanh, ỷ lại vào Nhà nước và không có động lực phát triển sản xuất kinh doanh. Nhưng khi bước sang nền KTTT, Nhà nước mở rộng quyền tự chủ cho DNNN và ban hành chế độ tự chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất kinh doanh, chế độ bao cấp bị bãi bỏ; thêm vào đó với nền kinh tế mở cạnh tranh ngày càng gay gắt, yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao; Vì vậy các DNNN cần có sự đổi mới để phù hợp với cơ chế mới. Các DNNN ở nước ta hoạt động trong nền KTTT theo định hướng XHCN nên nó phải là lực lượng chủ đạo có chức năng điều tiết và định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng điều tiết được thể hiện ở chỗ khi có sự bất ổn xảy ra, DNNN dùng lượng dự trữ hàng hoá của mình để bán kìm giá, chống đầu cơ... và DNNN chịu trách nhiệm cung cấp hàng hoá thiết yếu phục vụ nhân dân, thực hiện sản xuất hàng hoá mà doanh nghiệp tư nhân không muốn làm, sản xuất kinh doanh ở lĩnh vực bảo đảm an toàn, an ninh quốc gia. Chức năng định hướng thể hiện ở chỗ DNNN phải đi tiên phong ở các lĩnh vực chiến lược, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia. Vì vậy việc cải cách DNNN nhằm khẳng định vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế là đúng đắn. 2.3.2. Cơ sở thực tiễn Trước hết là do tay nghề của người lao động và trình độ quản lý của cán bộ cấp cao chưa theo kịp quá trình chuyển đổi của nền kinh tế. Kỹ năng làm việc của người lao động chủ yếu dựa vào sự tích luỹ kinh nghiệm từ trước, nhưng với thời đại phát triển của khoa học kỹ thuật thì kinh nghiệm đó không thể áp dụng trong sản xuất được, tình trạng này dẫn đến sự dư thừa một số lượng lao động đáng kể trong các DNNN đồng thời cũng lại xảy ra tình trạng thiếu lao động có chuyên môn và tay nghề cao. Đây là nghịch lý ở nhiều DNNN hiện nay. Trình độ quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp còn yếu kém, chủ yếu do họ quen hoạt động theo mệnh lệnh của Nhà nước, quen ỷ lại, kém năng động; với cách quản lý đó thì hầu như ai cũng có thể làm cán bộ quản lý trong doanh nghiệp được. Sang cơ chế mới đòi hỏi tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các DNNN thì họ đã không đáp ứng được nhu cầu đó, có nhiều người không được đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ quản lý nên rất lúng túng trước tình trạng này. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các DNNN là phải cơ cấu lại tổ chức trong doanh nghiệp và đào tạo lại người lao động và cán bộ quản lý. Thứ hai là do sự hoạt động kém hiệu quả của các DNNN. Đây là lý do chủ yếu và quan trọng nhất. Sự làm ăn kém hiệu quả xuất phát từ trình độ khoa học công nghệ của các DNNN còn lạc hậu. Nhiều nơi máy móc thiết bị được sản xuất từ những năm 50-60 vì vậy không thể đảm bảo chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, nhiều sản phẩm làm ra có mức giá cao hơn các mặt hàng cùng loại nhập khẩu 20-40%. Việc sử dụng đồng vốn kém do đầu tư vào ngành có mức tăng trưởng thấp, khó tiêu thụ sản phẩm cũng làm giảm hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp; Thêm vào đó các DNNN lại thường vay vốn ngắn hạn ngân hàng với lãi suất cao để đầu tư cho dự án trung và dài hạn dẫn tới lợi nhuận giảm rõ rệt, nhiều khi phải trả những khoản thanh toán không cần thiết cho nợ quá hạn ngân hàng. Vấn đề lao động và quản lý trong doanh nghiệp như đã nói ở trên làm cho năng suất lao động rất thấp, ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy do 3 vấn đề chủ yếu trên mà các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút. Ví dụ như các chỉ tiêu về năng suất lao động, tỷ suất sinh lợi trên một đồng vốn, khả năng thanh toán nợ... Từ đó việc cải cách toàn diện DNNN nhằm mục đích chính là nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN, giảm bớt gánh nặng ngân sách cho Nhà nước. 3. Các phương hướng đổi mới DNNN ở Việt Nam. 3.1. Chính sách từ phía Nhà nước 3.1.1.Đổi mới chính sách vĩ mô hỗ trợ sự phát triển DNNN Để các DNNN phát huy được vai trò của mình đòi hỏi Nhà nước tạo ra một môi trường kinh doanh hợp lý, công bằng, thuận lợi, tôn trọng quy luật vận động của thị trường, tạo điều kiện để cho doanh nghiệp nắm bắt thông tin đầy đủ về thị trường, chính sách kinh tế của Nhà nước giúp doanh nghiệp hoạt động nhạy bén với cơ chế thị trường có nhiều biến động như hiện nay. Để làm được điều này, cơ quan quản lý nhà nước cần dà soát, loại bỏ những văn bản pháp quy đã cũ, lỗi thời hoặc chồng chéo gây phiền hà cho doanh nghiệp, gần đây Bộ Tài chính đã xoá bỏ 700 văn bản; Bộ thương mại đã xoá bỏ 300 văn bản thuộc loại này. Đồng thời chính phủ và bộ hữu quan ban hành kịp thời những văn bản hướng dẫn, cụ thể hoá việc thi hành pháp luật, pháp lệnh đặc biệt là luật doanh nghiệp mới đây. Nhà nước cần đổi mới các chính sách, tiền tệ nhằm thu hút vốn đáp ứng nhu cầu cho doanh nghiệp. Tích cực hình thành thị trường chứng khoán để tạo điều kiện cho thị trường vốn trung và dài hạn hoạt động, đồng thời có những chính sách quản lý và kiểm soát phù hợp đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng huy động vốn. Đối với điều kiện sản xuất còn nhiều yếu kém như ở Việt Nam hiện nay thì việc hoà nhập với các nước sẽ tạo một áp lực rất lớn cho các DNNN vì thế Nhà nước cần có các chính sách thương mại duy trì bảo hộ có thời hạn những mặt hàng sản xuất trong nước; dùng công cụ tín dụng, thuế để khuyến khích hàng xuất khẩu, tạo tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới. Chính sách thuế cũng cần được điều chỉnh thực hiện theo hướng khuyến khích phát triển sản xuất, bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm nguồn thu ngân sách. Chính sách giải quyết lao động trong các DNNN cần triển khai tốt hơn nữa nhằm giải quyết lao động dôi dư trong khu vực DNNN giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tuy nhiên cũng phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động và đảm bảo ổn định chính trị-xã hội. Ngoài ra một số chính sách tăng cường tổ chức lưu thông, phân phối, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng dịch vụ, mở cửa từng bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới cần phải tăng cường hoàn thiện nhằm giúp doanh nghiệp nhà nước phát huy và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình không những ở thị trường trong nước mà còn ở thị trường thế giới. 3.1.2. Thực hiện sắp xếp lại các DNNN và các Tổng công ty Việc sắp xếp lại các DNNN cần dựa trên quy hoạch phát triển toàn diện nền kinh tế nhằm giảm các doanh nghiệp thua lỗ, hình thành các doanh nghiệp lớn, các Tổng công ty, các tập đoàn kinh tế mạnh làm xương sống cho nền kinh tế. Các DNNN hoạt động kinh doanh sẽ lấy hiệu quả kinh doanh, các DNNN hoạt động công ích lấy hiệu quả phục vụ chính trị xã hội làm thước đo chính để sắp xếp. Các DNNN hoạt động kinh doanh được chia làm 3 loại: Loại 1: Những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề quan trọng, mũi nhọn, ngành mà khu vực kinh tế khác không thể hoặc không muốn đầu tư thì Nhà nước nắm giữ 100% vốn và có sự hỗ trợ thích hợp cho từng lĩnh vực hoạt động. Loại 2: Những doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh thì nhà nước giữ cổ phần chi phối nhằm thu hút các nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác. Loại 3: Các doanh nghiệp còn lại, Nhà nước sẽ đẩy nhanh cổ phần hoá, bán khoán, cho thuê... để khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia vào đầu tư sản xuất. Thực hiện sắp xếp lại các Tổng công ty theo ngành, theo lãnh thổ kết hợp với sắp xếp lại các thành viên doanh nghiệp trong nội bộ Tổng công ty. Phấn đấu trong 3 năm tới, đại bộ phận các Tổng công ty hoạt động có hiệu quả, là những doanh nghiệp nòng cốt, vững mạnh đủ điều kiện hội nhập vào năm 2006 trong khuôn khổ AFTA. 3.1.3. Tăng cường tính tự chủ cho doanh nghiệp Trước hết cần phải phân biệt rõ quyền của chủ sở hữu Nhà nước và quyền của pháp nhân doanh nghiệp; không được lẫn lộn giữa quyền của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp và với tư cách là chủ thể quản lý kinh tế-xã hội. Nhà nước không trực tiếp quản lý doanh nghiệp mà thông qua đại diện của mình trong bộ máy quản lý để điều hành doanh nghiệp theo luật pháp. Thứ hai, để cho các DNNN có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Nhà nước không cần can thiệp quá sâu vào các hoạt động của doanh nghiệp, chỉ nên tác động đến doanh nghiệp ở góc độ chủ sở hữu trừ những trường hợp cần phải điều tiết nền kinh tế đi theo quỹ đạo đúng đắn thì nhà nước mới phải tác động đến doanh nghiệp nhà nước như một chủ thể quản lý về kinh tế. Thứ ba, Nhà nước cần chuyển đổi cơ chế kiểm tra hoạt động doanh nghiệp từ cơ chế kiểm soát quá trình ra quyết định sang cơ chế kiểm tra hướng vào việc đánh gía kết quả thực hiện các mục tiêu mà doanh nghiệp và nhà nước đã đề ra. 3.1.4. Thành lập các công ty đầu tư tài chính nhà nước. Nhà nước đầu tư vốn và các nguồn lực như đất đai, tài sản, tư liệu lao động cho các DNNN với tư cách là một chủ sở hữu, vì vậy Nhà nước đòi hỏi các DNNN phải hoạt động có hiệu quả, bảo toàn và tăng vốn cho Nhà nước. Tuy nhiên với cách tổ chức DNNN thuộc một Bộ chủ quản nào đó dẫn tới sự dàn trải trong việc đánh giá năng lực hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các DNNN nên việc đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhiều khi không đem lại lợi ích. Vấn đề này đặt ra cho Nhà nước là phải nghiên cứu thành lập các công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Các công ty này hoạt động như những doanh nghiệp khác có trách nhiệm nhận vốn của Nhà nước làm nhiệm vụ đầu tư vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhằm mục đích bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước tại các DNNN. 3.2. Các phương hướng đổi mới DNNN 3.2.1. Giao doanh nghiệp nhà nước cho tập thể người lao động (giao doanh nghiệp ) * Định nghĩa: Theo điều 3 NĐ số 103/1999/NĐ-CP thì : - Giao DNNN: là việc chuyển DNNN và tài sản DNNN tại doanh nghiệp thành sở hữu của tập thể người lao động có điều kiện ràng buộc. - Người nhận giao: là đại diện cuả pháp nhân, tập thể, nhóm người hoặc cá nhân nhận giao . - Người giao: là đại diện cơ quan, doanh nghiệp thực hiện giao doanh nghiệp. * Điều kiện giao doanh nghiệp cho người lao động : -Tập thể người lao động trong doanh nghiệp do ban chấp hành công đoàn đại diện hoặc người được đại hội toàn thể công nhân viên chức trong doanh nghiệp bầu làm đại diện tự nguyện đăng ký nhận giao doanh nghiệp . - Cam kết đầu tư thêm để phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm tối thiểu từ 3 năm trở lên, đóng đầy đủ bảo hiểm cho người lao động trong doanh nghiệp ( trừ những người tự nguyện chấm dứt hợp đồng lao động ). -Kế thừa phần công nợ luân chuyển ( trừ nợ khó đòi) của doanh nghiệp theo thoả thuận giữa bên giao và bên nhận doanh nghiệp ; - Cam kết không cho thuê, chuyển nhượng, tự giải thể doanh nghiệp trong thời hạn tối thiểu là 3 năm sau khi giao ; - Khi đủ điều kiện chuyển nhượng phải thanh toán lại cho nhà nước 30% giá trị cổ phần tại thời điểm được giao doanh nghiệp. 3.2.2. Bán doanh nghiệp nhà nứơc. Bán doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển đổi sở hữu có thu tiền toàn bộ tài sản của doanh nghiệp nhà nước sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân khác . - Căn cứ vào quyết định phê duyệt bán doanh nghiệp của cấp có thẩm quyền, giám đốc doanh nghiệp thông báo cho toàn thể người lao động trong doanh nghiệp và trên phương tiện thông tin đại chúng; Tổ chức đăng ký danh sách người mua doanh nghiệp trong thời hạn 30 ngày . -Bán doanh nghiệp nhà nước có thể thực hiện bằng môt trong phương thức sau: +Tổ chức bán doanh nghiệp theo phương thức trực tiếp: Hình thức này được thực hiện khi chỉ có một người đăng ký mua. +Tổ chức bán doanh nghiệp theo phương thức đấu thầu: Hình thức này được tổ chức khi có từ hai người đăng ký mua doanh nghiệp trở lên . 3.2.3. Khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà nước : a) Khoán kinh doanh đối với một doanh nghiệp nhà nước là phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước mà bên nhận khoán được giao quyền quản lý doanh nghiệp, có nghĩa vụ thực hiện một số chi tiêu, bảo đảm có điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng khoán. Căn cứ vào đặc điểm của từng ngành, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, người ra quyết định khoán kinh doanh theo nội dung, chỉ tiêu và điều kiện khoán kinh doanh nhưng phải xem xét các yêu cầu sau: +Bảo toàn vốn nhà nước +Giải quyết việc làm và đóng đủ bảo hiểm cho người lao động +Tăng lợi nhuận hoặc giảm lỗ cho doanh nghiệp + Thực hiện các chính sách của nhà nước và các hợp đồng đã ký b) Cho thuê doanh nghiệp nhà nước là hình thức chuyển giao cho người nhận thuê quyền sử dụng tài sản và lao động trong doanh nghiệp theo các điều kiện ghi trong hợp đồng thuê. -Phương thức cho thuê doanh nghiệp là theo phương thức đấu thầu hoặc theo phương thức trực tiếp tuỳ theo số lượng người đăng ký thuê doanh nghiệp -Hình thức thuê doanh nghiệp có thể là: +Thuê tài sản doanh nghiệp : Người thuê nhận thuê toàn bộ các tài sản hợp thành cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kèm theo thuê lao động của doanh nghiệp, nhưng không kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cho thuê. +Thuê doanh nghiệp hoạt động : Người thuê thực hiện thuê tài sản hợp thành cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có kèm theo thuê lao động của doanh nghiệp đồng thời kế thừa các khoản vay nợ, các hợp đồng kinh tế, các quyền và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp theo thoả thuận của các bên có liên quan. 3.2.4. Cổ phần hoá DNNN. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn kinh doanh, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ và rủi ro tương ứng với phần vốn góp. Đồng thời chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cần phải khẳng định rằng việc thực hiện cổ phần hoá DNNN là một biện pháp quan trọng, chủ yếu và cấp bách đối với nước ta hiện nay. Điều này được thể hiện rõ qua mục tiêu của cổ phần hoá: *. Mục tiêu của cổ phần hoá Thứ nhất: Huy động vốn của toàn xã hội, các cá nhân, các tổ chức kinh tế-xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai: Tạo điều kiện để những người lao động trong DNNN có cổ phần, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế. *. Một số bước và giải pháp cho cổ phần hoá: Trước hết là việc xác đinh giá trị doanh nghiệp để thực hiện cổ phần hoá. Cách tính giá trị doanh nghiệp dựa vào giá trị còn lại của tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật được kiểm kê theo công thức sau: n G = S Gi G: Tổng giá trị nội tại của doanh nghiệp. i=1 Gi: Gía trị thị trường từng loại tài sản. n: Số tài sản còn lại của doanh nghiệp Thứ hai là tính giá trị sử dụng đất để cổ phần hoá DNNN. Việc tính giá trị đất được xác định theo giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá. Gía trị đất có thể được tính vào giá trị doanh nghiệp coi như vốn góp của Nhà nước vào công ty cổ phần, giá trị này được điều chỉnh theo thời giá 5 năm một lần hoặc nếu không góp vào giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá thì coi như Nhà nước cho thuê đất, giá đất được tính vào chi phí sản xuất-kinh doanh và doanh nghiệp phải trích khấu hao trả dần hàng năm; Thứ ba là tính giá trị lợi thế kinh doanh vào gía trị doanh nghiệp + GTLT = VNN3 x TSLNSN x 30% +TSLNSN= TSLNBQ3 - TSLNBQnđ TLN3 +TSLNBQ3 = TSVNN3 GTDNb +MGCP = CP Trong đó: GTLT: Giá trị lợi thế VNN3: Vốn nhà nước theo sổ kế toán 3 năm liền kề TSLNSN:Tỷ suất lợi nhuận siêu nghạch TSLNBQ3:Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của DNNN TSLNBQnđ:Tỷ suất lợi nhuận bình quân của ngành tại địa bàn TLN3: Tổng số lợi nhuận thực hiện 3 năm liền kề TSVNN3: Tổng số vốn nhà nước 3 năm liền kề MGCP: Mệnh giá cổ phiếu GTDNb:Giá trị doanh nghiệp đem bán CP: Số cổ phiếu phát hành Mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành phải chiếu cố đến quyền lợi của người bán (Nhà nước) và người mua (các cổ đông) và phải hấp dẫn với cổ đông, đồng thời không gây thiệt hại cho phía doanh nghiệp. Đây là bài toán khá tế nhị và phức tạp. Việc bán cổ phiếu cần ưu tiên cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp; mỗi người ít nhất phải có một cổ phiếu. II. Thành lập công ty cổ phần-một phương hướng chủ đạo để đổi mới DNNN ở việt nam. 1.Khái niệm 1.1. Công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp trong đó các thành viên (cổ đông) cùng góp vốn (cổ phần), cùng nhau tiến hành sản xuất kinh doanh theo mục đích đã định trên cơ sở pháp luật hiện hành, cùng nhau chia lợi nhuận (cổ tức), cùng chịu rủi ro trong kinh doanh và chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi cổ phần đóng góp. Như vậy, cổ đông ở đây là công dân Việt Nam, có thể liên doanh người trong nước với người nước ngoài (pháp nhân) với tư nhân (thể nhân) và với người nước ngoài (công ty tư nhân, cá nhân, hay các tập đoàn xuyên quốc gia vv...).Thực chất doanh nghiệp cổ phần là doanh nghiệp đa sở hữu. 1.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 1.2.1. Khái niệm Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là quá trình chuyển từ loại hình doanh nghiệp Nhà nước sang loại hình công ty cổ phần. Trong đó, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp sẽ được định giá và chia nhỏ thành các cổ phiếu. Nhà nước sẽ quyết định lượng cổ phiếu mà Nhà nước cần nắm giữ, phần còn lại sẽ được bán lại cho các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và bán ra ngoài. Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là bước đầu để xây dựng thị trường chứng khoán Việt nam. Thị trường sơ cấp các cổ phiếu được tạo ra thông qua cổ phần hoá. Sau đó, thị trường thứ cấp sẽ hoạt động trên cơ sở mua bán lại hàng hoá chứng khoán đã được trao đổi trên thị trường sơ cấp. 1.2.2. ý nghĩa của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước Ngay từ quyết định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), Nhà nước đã có chủ trương cổ phần hóa thí điểm một số doanh nghiệp Nhà nước. Mặc dầu thời điểm đó xem ra còn quá sớm, cản trở của tư tưởng bao cấp còn nặng, song chủ trương đã khẳng định hướng đi đúng của quá trình đổi mới nền kinh tế. Ngày 7/5/1996 Chính phủ có Nghị định 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần; trong đó nghị định khẳng định lại việc cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau: - Huy động vốn của công nhân viên chức trong doanh nghiệp; cá nhân, các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. - Tạo điều kiện để những người góp vốn và công nhân viên chức trong doanh nghiệp có cổ phần, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, xét về tình hình đổi mới kinh tế nước ta hiện nay, cổ phần hoá còn là một bước đi tất yếu, vì: Thứ nhất, trong khi doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, cổ phần hoá là một phương pháp nâng cao tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo báo cáo của bộ Tài Chính, những năm đầu thập niên 90, các DNNN Việt Nam (chiếm vị trí chủ đạo, hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế ) chủ yếu trong tình trạng thiết bị lạc hậu từ 3-5 thế hệ. Cơ cấu kinh tế chưa phù hợp, chủ yếu là nghành nông nghiệp chiếm 27%, thương mại 43%, công nghiệp và xây dựng chiếm 30% ( trong khi các nước phát triển là 70%-80%); cơ cấu vốn chưa hợp lý ( 81% cố định, 19% lưu động). Quy mô của các DNNN nhỏ (dưới 1 tỷ đồng) chiếm 68%. Thực tế trên đã khiến hiệu quả sử dụng vốn của DNNN rất thấp. Mỗi đồng vốn chỉ tạo được 2,3 đồng doanh thu và 0,1 đồng lợi nhuận.Tài sản cố định trong các DNNN chiếm 70%-80% nhưng chỉ cung cấp được 44% tổng sản phẩm xã hội . Theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam và thế giới, với thực trạng đáng buồn này, các DNNN Việt Nam không đủ sức cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và thế giới. Vì vậy, để tạo chỗ đứng trên thương trường, Việt Nam cần phải cải cách DNNN để tìm ra con đường mới để phát triển. Nhiều giải pháp đã được đưa ra như: cơ cấu lại vốn và lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp; sáp nhập các doanh nghiệp có vốn nhỏ, hoạt động trong các lĩnh vực tương đối giống nhau; liên doanh, liên kết với nước ngoài để tận dụng nguồn vốn nước ngoài nâng cấp các trang thiết bị lạc hậu, tiếp cận phương thức quản lý tiên tiến. Song những giải pháp này vẫn chưa tạo được sự thay đổi về chất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của đa số doanh nghiệp vẫn thấp, sức cạnh tranh còn yếu, chưa có sự thay đổi mang tính chất bước ngoặt. Trước thực trạng này, nghị quyết trung ương 2 khoá VII đã đưa ra một giải pháp quan trọng để cải cách DNNN. Theo đó “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần, phải chỉ đạo chặt chẽ quy mô, hình thức thí điểm, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp” Thứ hai, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo điều kiện cho một mô hình liên kết quyền lợi thông qua hệ thống cổ phiếu nắm giữ của các bên liên quan. Chẳng hạn, nhà cung cấp hoặc bạn hàng có thể nắm giữ một số lượng cổ phiếu nhất định, và nhờ đó có liên đới quyền lợi với doanh nghiệp phát hành cổ phiếu. Tóm lại, cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn của Chính phủ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và hoà nhập với các nước trong khu vực. 1.2.3. Tiến trình thực hiện a. Cơ sở pháp lý Chủ trương Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam lần đầu tiên được đề cập đến tại quyết định 217/HSSBT ngày 14-11-1987. Tuy nhiên, do còn nhiều khó khăn nên đến năm 1990, Chính phủ mới có Quyết định 143/HĐBT về việc thí điểm cổ phần hoá một số DNNN cùng với việc sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh. Năm 1988 cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước bị chững lại do có những vướng mắc ở tầm vĩ mô mà Nhà nước chưa đề cập đến. Từ khi chỉ thị 202/CT ngày 8/6/1992 và đặc biệt là chỉ thị 203/CT của Chính phủ về việc quyết định 8 doanh nghiệp Nhà nước làm thí điểm cổ phần hóa thu được kết quả bước đầu, Chính phủ đã khẳng định tiếp hướng đi trong việc sắp xếp lại các doanh nghiệp theo hướng cổ phần hóa. Trong những năm qua, chính phủ và các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều nghị định, văn bản thông tư hướng dẫn thực hiện chủ trương cổ phần hoá DNNN. Đặc biệt là từ khi có Nghị định 28/CP ngày 7-5-1996, việc cụ thể hoá chủ trương chính sách cổ phần hoá DNNN đã có chuyển biến bước đầu. Nghị định xác định rõ mục tiêu, đối tượng cổ phần hoá, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Ngoài ra, Nghị định cũng quy định việc thành lập Ban chỉ đạo trung ương Cổ phần hoá, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Sau đó, có Nghị định 25/CP ngày 26-3-1997 bổ xung sửa đổi một số điều của Nghị dịnh 28/CP. Trong quá trình triển khai cổ phần hóa, các doanh nghiệp đã bộc lộ một số tồn tại mà tại Nghị định 28/CP chưa đề cập hết; ngày 29/6/1998 Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP nhằm giải quyết những tồn tại này. Việc ra đời Nghị định 44/NĐ-CP của Chính phủ không những tiếp tục khẳng định mục tiêu về cổ phần hóa DNNN, mà chỉ rõ các loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư. Thủ tướng Chính Phủ đã giao nhiệm vụ cho tất cả các bộ ngành và các địa phương, hướng dẫn và tổ chức thực hiện chủ trương cổ phần hoá DNNN. Hiện nay dự thảo Nghị định của Chính phủ về việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần đã được Bộ Tài chính soạn thảo xong. Nếu được ban hành, nghị định này sẽ thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ- CP vẫn bị coi là có nhiều bất cập trong 3 năm triển khai thực hiện. Nghị định này sẽ tăng thêm ưu đãi cho người lao động như bỏ quy định mức khống chế tỷ lệ vốn Nhà nước dành cho việc bán cổ phần ưu đãi cho người lao động. Doanh nghiệp cổ phần hoá cũng sẽ được hưởng một số ưu đãi như miễn lệ phí cấp đăng ký kinh doanh khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần, được tiếp tục duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan Nhà nước hay DNNN khác hoặc được ưu tiên mua lại theo giá thị trường để ổn định sản xuất, kinh doanh. Việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá sẽ được chuyển giao cho các công ty kiểm toán hoặc những tổ chức kinh tế có chức năng định giá. b. Đối tượng cổ phần hoá Theo Nghị định 28/CP ngày 7-5-1996, đối tượng cổ phần hoá là các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn Nhà nước. Do đó các doanh nghiệp sẽ được chia làm 3 loại: Loại 1: DNNN không tiến hành cổ phần hoá gồm có: - Doanh nghiệp hoạt động công ích theo quy định tại điều 1 Nghị định 56/CP ngày 2-10-1996. Trường hợp cần cổ phần hóa loại này, thì phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép. - DNNN sản xuất sản phẩm cung ứng dịch vụ Nhà nước độc quyền kinh doanh: vật liệu nổ, hoá chất độc chất phóng xạ, in bạc và các chứng chỉ có giá. Loại 2: DNNN mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt khi tiến hành cổ phần hoá: - Nhà nước giữ trên 50% tổng số cổ phiếu của công ty - Cổ phần của Nhà nước ít nhất gấp 2 lần sổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong công ty. Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối nhưng có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng trong doanh nghiệp theo điều lệ trong thoả thuận công ty. Doanh nghiệp loại này là các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành sau : + Khai thác quặng quý hiếm + Khai thác khoáng sản quy mô lớn + Các hoạt động dịch vụ về khai thác dầu khí + Sản xuất phân bón thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh + Sản xuất kim loại màu và kim loại quý hiếm quy mô lớn + Sản xuất điện quy mô lớn, truyền tải và phân phối điện + Sửa chữa phương tiện bay + Bưu chính viễn thông + Vận tải đường sắt, hàng không, viễn dương + Sản xuất rượu bia thuốc lá + Ngân hàng đầu tư, ngân hàng cho người nghèo Loại 3: Các loại doanh nghiệp khác -Nhà nước không giữ cổ phân chi phối, cổ phần đặc biệt -Nhà nước không nắm giữ cổ phần -Đa dạng hoá theo các hình thức: +Sáp nhập, đấu thầu, công khai cho thuê +Bán doanh nghiệp cho các thành phần kinh tế +Giao cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp +Giải thể phá sản c. Quy trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Theo các văn bản hiện hành về cổ phần hoá DNNN, kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn chỉ đạo công tác cổ phần hoá các DNNN thuộc bộ Xây dựng, quy trình cổ phần hóa bao gồm các bước sau: (1). Hội đồng quản trị tổng công ty quyết định thành lập Ban cổ phần hoá tổng công ty. (2). Tổng công ty, hoặc công ty độc lập trực thuộc bộ, lựa chọn DNNN cổ phần hoá theo một trong ba hình thức: giữ nguyên giá trị hiện có phát hành cổ phiếu nhằm thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp; hoặc bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp, hoặc tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá, sau đó báo cáo cho bộ bằng văn bản. (3). Tổ chức tập huấn cho Ban cổ phần hoá và cán bộ, công nhân viên chức của DNNN cổ phần hoá. (4). Xử lý các tồn tại về tài chính của DNNN trước khi cổ phần hoá (5). Giải quyết các văn bản pháp lý về bản đồ địa chính, giấy cấp đất, giấy phép xây dựng các công trình đã có diện tích đất thuộc khu vực sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần và thuộc phúc lợi tập thể... (6). Lập dự toán chi phí thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp theo quy định tại Thông tư số 50 TC/ TCDN ngày 30-8-1996 của bộ Tài Chính. (7). DNNN cổ phân hoá phải tiến hành khoá sổ kế toán và lập Báo cáo Tài chính của doanh nghiệp đến thời điểm doanh nghiệp cổ phần hoá, (8). Ban cổ phần hoá DNNN thành lập Ban kiểm kê đánh giá giá trị doanh nghiệp (hoặc bộ phận) cổ phần hoá, đối chiếu với số liệu sổ kế toán tính đến thời điểm cổ phần hoá doanh nghiệp (9). Đối với doanh nghiệp lớn, phức tạp, Ban chỉ đạo cổ phần hoá của bộ xét thấy doanh nghiệp ký hợp đồng thuê kiểm toán doanh nghiệp (hoặc bộ phận) cổ phần hoá (10). Ban cổ phần doanh nghiệp tại doanh nghiệp thành lập hội đồng doanh nghiệp để xác định giá trị doanh nghiệp (hoặc một bộ phận cổ phần hoá). (11). Thống kê danh sách lao động của doanh nghiệp. (12). Xem xét các nguồn tồn quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng và dự kiến phương án phân chia cho từng cán bộ công nhân viên chức doanh nghiệp (hoặc bộ phận) cổ phần hoá. (13). Lập dự án đầu tư phát triển doanh nghiệp (hoặc bộ phận) sau khi cổ phần hoá. (14). Xây dựng phương án cổ phần hoá theo mẫu hướng dẫn của ban chỉ đạo cổ phần hoá Trung ương và của bộ. (15). Dự kiến phương án số lượng cổ phiếu bán chịu, cổ phiếu cấp và cổ phiếu bán thông thường cho cán bộ công nhân viên chức doanh nghiệp (hoặc bộ phận) cổ phần hoá và bán cổ phiếu cho các pháp nhân. (16). Báo cáo bộ về kết quả xác định giá trị doanh nghiệp hoặc bộ phận cổ phần hoá để hội đồng thẩm tra giá trị doanh nghiệp thẩm tra. (17). Tổ chức đại hội (bất thường) cán bộ, công nhân viên chức của doanh nghiệp (hoặc bộ phận) cổ phần hoá. (18). Trình Ban chỉ đạo cổ phần hoá của bộ để thông qua phương án cổ phần hoá của doanh nghiệp (hoặc bộ phận), sau đó trình Ban cán sự và lãnh đạo Bộ quyết định. (19). Tiến hành công việc quảng cáo tiếp thị về bán cổ phần doanh nghiệp (hoặc bộ phận). (20). Đăng ký các cổ đông mua cổ phần và mở sổ theo dõi. (21). Hoàn chỉnh bản Dự thảo điều lệ công ty cổ phần theo mẫu hướng dẫn của ban chỉ đạo cổ phần hoá bộ và trình bộ duyệt. (22). Khi các cổ đông mua được 2/3 số lượng cổ phần thì Ban cổ phần hóa của DNNN báo cáo Ban chỉ đạo cổ phần hoá của Bộ để tiến hành đại hội cổ đông, bầu Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, cử giám đốc, kế toán trưởng. (23). Ban cổ phần hoá doanh nghiệp mua cổ phiếu tại Cục kho bạc Nhà nước và viết chính thức cổ phiếu cho các cổ đông là pháp nhân và thể nhân. (24). Ban cổ phần hoá doanh nghiệp tổ chức bàn giao tài sản, vốn doanh nghiệp (hoặc bộ phận) cổ phần hoá từ DNNN sang công ty cổ phần. (25). Ban cổ phần hoá doanh nghiệp báo cáo Ban chỉ đạo cổ phần hoá của bộ về biên bản giao nhận tài sản, vốn của doanh nghiệp (hoặc bộ phận) cổ phần hoá để trình Bộ trưởng quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. (26). Ban chỉ đạo cổ phần hoá của bộ gửi công văn đề nghị cơ quan công an cho phép khắc dấu công ty cổ phần và thu hồi dấu cũ của DNNN (nếu có). (27). Ban chỉ đạo cổ phần hoá của bộ có văn bản gửi sở kế hoạch và đầu tư, nơi công ty cổ phần đặt trụ sở để đăng ký kinh doanh. (28). Khai trương hoạt động công ty theo Luật công ty và điều lệ, phương án của công ty cổ phần đã được đại hội cổ đông nhất trí và bộ duyệt. Các bước trên đây có mối liên hệ hữu cơ nhưng không nhất thiết phải tiến hành lần lượt, một số bước có thể tiến hành song song để rút ngắn thời gian. Quy trình này được xây dựng cho các DNNN thuộc bộ quản lý vì vậy các doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý thì trong quy trình này cấp bộ được thay thế bằng UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 1.2.4.Hiệu quả từ việc cổ phần hoá DNNN ở nước ta. Các DNNN sau khi cổ phần hoá đã kết hợp được các ưu điểm của các doanh nghiệp tư nhân là tối đa hoá lợi nhuận để có lãi nhiều chia cho các cổ đông tư nhân, nên DNNN đã cố gắng hết sức cắt giảm các chi phí không cần thiết, tăng đầu tư sản xuất. Nhưng do vẫn còn là DNNN nên tiếp tục hưởng chính sách ưu đãi dành riêng cho DNNN. Các DNNN có lãi thì các cổ đông mới được chia lợi nhuận nên họ giảm chi phí không cần thiết, cải tiến sản xuất, làm việc nhiệt tình khiến cho doanh thu và lợi nhuận của DNNN tăng vọt, do đó Nhà nước có nhiều vốn đầu tư cho các lĩnh vực khác, giảm bao cấp cho các DNNN. Thực tế tại Việt Nam, chỉ tính riêng kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của 11 công ty được cổ phần hoá trong giai đoạn thí điểm và mở rộng (trước khi có nghị quyết 44/CP) sau từ 1 đến 3 năm hoạt động theo cơ chế mới cũng cho thấy tính ưu việt của giải pháp này. Điều này thể hiện qua một số tiêu chí sau: -Khả năng huy động vốn tăng lên rõ rệt. Trước khi cổ phần hoá, tổng số vốn của 11 doanh nghiệp này là 26,3 tỷ đồng, vốn điều lệ khi chuyển thành công ty cổ phần là 75,1 tỷ đồng, tăng 2,8 lần. Như vậy, vốn huy động tăng thêm là 48,8 tỷ đồng, tăng 183%. Hơn thế sau từ 1 đến 3 năm đi vào hoạt động, các công ty cổ phần đã bổ xung vốn từ lợi nhuận sau thuế tính đến ngày 31-12-1997 là 157 tỷ đồng, tăng gấp 2,1 lần vốn điều lệ ban đầu. Trong đó, các doanh nghiệp tăng trưởng vốn nhanh nhất là: CTCP đại lý liên hiệp vận chuyển tăng 10,5 lần; công ty cơ điện lạnh tăng 6 lần. - Vấn đề lao động và thu nhập của người lao động cũng được thực hiện khá thành công. Số lao động sau khi cổ phần hoá là 4.263 người, tăng 1.113 (+35 %). Trong đó điển hình là công ty cơ điện lạnh (tăng từ 244 người lên 804 người), CTCP Long An (từ 900 lao động lên 1400 lao động). Thu nhập của người lao động cũng tăng từ 564.000đ/người/tháng lên 1.157.000đ/người/tháng. - Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN sau khi cổ phần hoá cũng tăng lên rõ rệt: doanh thu tăng gấp 3,1 lần, lợi nhuận tăng 6,2 lần, nộp ngân sách tăng 3,6 lần, tỷ suất lợi nhuận tăng từ 27% lên 52,5%. Thu nhập cổ tức trên vốn góp bình quân đạt từ 2-3%/tháng. 2. Tình hình cổ phần hoá của nước ta trong thời gian qua Từ năm 1987 trong quyết định 217/HĐBT, Chính phủ đã xác định chủ trương thí điểm bán cổ phần cho người lao động trong DNNN. Chủ trương chuyển đổi các DNNN thành Công ty cổ phần được đề cập đầu tiên trong Nghị quyết Hội nghị lần 2-BCH TW khoá VII (Tháng 11/1991): Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành Công ty cổ phần và thành lập một số Công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp. Thực hiện chủ trương này tại Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chính phủ đã lựa chọn thí điểm chuyển một số DNNN có đủ điều kiện thành Công ty cổ phần. Từ kết quả của việc thí điểm này, ngày 7 tháng 5 năm 1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về việc Chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần sau Nghị định này, Bộ chính trị, Bộ lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ tài chính, Tổng liên đoàn lao động, Ban cổ phần hoá TW đã ban hành các Thông tư hướng dẫn thực hiện quá trình cổ phần hoá được xúc tiến khẩn trương hơn, tính đến 30 tháng 6 năm 1998 cả nước mới chuyển được 30 DNNN thành Công ty cổ phần và đến tháng 12 năm 2001 cả nước đã chuyển được 771 DNNN thành Công ty cổ phần, tính đến tháng 9/2002 có 882 doanh nghiệp, nhưng con số này còn quá thấp so với kế hoạch tiến hành thực hiện cổ phần hoá là: - Năm 1998 : 150-200 Doanh nghiệp. - Năm 1999 : 400-500 Doanh nghiệp. - Năm 2000 : 1.000 Doanh nghiệp. Đảng ta đã đề ta chủ trương, có các Nghị quyết, chỉ thị, thông báo xác định mục đích, ý nghĩa của việc cổ phần hoá; Chính phủ đã có nhiều điều chỉnh, sửa đổi về cơ chế, chính sách liên quan đến cổ phần hoá như NĐ 25/CP ngày 26/03/1997 Sửa đổi một số điều của Nghị định số 28/CP ngày 07/05/1996; Nghị định 44/CP ngày 29/06/1998 thay thế Nghị định 28/CP với những quy định cụ thể hơn, đơn giản hoá thủ tục chuyển đổi sang Công ty cổ phần. Song trên thực tế chuyển đổi, cụ thể của từng doanh nghiệp cũng còn rất nhiều vướng mắc phải khai thông và ngay cả một số điều trong Nghị định 44/CP theo ý kiến cá nhân cũng cần phải cân nhắc điều chỉnh. Như vậy tiến trình cổ phần hoá đã đi được một chặng đường tương đối dài, bên cạnh những kết quả khả quan thì vẫn còn có rất nhiều những vướng mắc cần thiết phải sửa đổi để quá trình cổ phần hoá có thể diễn ra nhanh hơn, đạt kết quả tốt đẹp hơn. Dù vậy thì qua quá trình cổ phần hoá trong thời gian qua ta vẫn có thể đưa ra những kết luận như sau: + Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn nhằm phát huy khả năng huy động vốn trong nhân dân và các tổ chức kinh tế xã hội khác, tăng cường và phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động trong doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. + Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tuy không phải là việc làm mới đối với các nước kinh tế phát triển, song lại là những bước đi ban đầu của các nước kinh tế đang phát triển. Vì vậy, với các bước đi chậm nhưng chắc chắn dần dần chúng ta đã làm xoay chuyển được tư tưởng bao cấp của tuyệt đại đa số người lao động các doanh nghiệp. Đã được các ngành, các cấp và khá đông người lao động thừa nhận và tự nguyện. + Với cách làm từng bước đó mà những vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa đã kịp thời được các Ngành và Chính phủ quan tâm điều chỉnh, vì vậy mà tiến trình cổ phần hóa ngày một tiến triển tốt. CHƯƠNG II Tình hình cổ phần hoá của công ty viconship I. ĐáNH GIá THựC TRạNG CủA CÔNG TY CONTAINER PHíA BắC 1. quá trình hình thành và phát triển của công ty 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. Vào những năm đầu của thập kỷ 80, nền kinh tế Việt nam đang dần dần ổn định và từng bước phát triển tốt. Năm 1986, khi Việt nam thực hiện việc đổi mới cơ chế nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời áp dụng chính sách mở cửa thì nền kinh tế Việt nam bước sang một giai đoạn mới với sự phát triển đột phá về mọi mặt. Trong khi đó nền kinh tế của thế giới và các nước trong khu vực đã phát triển khá nhanh. Để có thể theo kịp sự phát triển của toàn thế giới thì nước ta phải chú trọng đến việc phát triển ở lĩnh vực ngoại thương và đầu tư nước ngoài nhằm nâng cao mức sống cho nhân dân. Tuy nhiên, muốn phát triển ở lĩnh vực ngoại thương hay đầu tư nước ngoài thì trước hết nghành giao thông vận tải phải đi trước một bước để đáp ứng kịp thời nhu cầu của nền kinh tế. Hơn nữa nước ta lại nằm trong khu vực kinh tế có tốc độ phát triển khá nhanh và có hệ thống giao thông vận tải phát triển ở mức độ tương đối hoàn hảo, nên có tác động rất lớn đến nghành giao thông vận tải ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nước ta lại có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên như trải dài đất nước tiếp giáp với biển Đông nên có nhiều Cảng lớn như Sài Gòn - Hải Phòng- Đà Nẵng. Đó là tiềm lực phát triển ngành vận tải biển và nhà nước cũng đang cố gắng khai thác lợi thế đó nhằm tập trung củng cố phát triển một mạng lưới giao thông vận tải biển để có thể theo kịp các nước khác, do đó việc áp dụng phương thức vận tải Container ở Việt Nam là một nhu cầu tất yếu bởi tính đồng bộ của nó trên thị trường thế giới. Nắm bắt được tình hình đó, Bộ giao thông vận tải đã ra quyết định số 1310/QĐ-TCCB ngày 17/07/1985 thành lập Công ty Container Việt Nam đầu tiên với tên tiếng Anh là Vietnam container shipping company, tên giao dịch là VICONSHIP. Về tổ chức ban đầu, công ty gồm có Xí nghiệp Container Sài Gòn, Đà Nẵng và công ty tại Hải Phòng, bao gồm 14 đơn vị phòng, ban, xưởng, đội trực thuộc, 42 tổ sản xuất, công tác. Địa bàn hoạt động của công ty trên khắp ba miền Bắc-Trung-Nam. Trụ sở của công ty đóng tại 11 Võ Thị Sáu-Ngô quyền-Hải Phòng. Tổng số lao động của công ty là 748 người trong đó khu vực Hải phòng và Đà Nẵng có 349 người. Đến tháng 5/1992 Xí nghiệp Container Sài gòn xin thành lập Công ty Container phía nam trực thuộc Cục hàng hải Việt nam (nay thuộc Tổng Cty Hàng hải Việt nam). Cũng trong thời điểm này Công ty Container Phía Bắc được thành lập theo quyết định số 1095/QĐ-TCCB-LĐ ngày 2/6/1993 của Bộ trưởng Bộ GTVT. - Tên doanh nghiệp : Công ty Container Phía Bắc - Tên giao dịch quốc tế tiếng Anh : North Vietnam Container shipping company - Tên viết tắt tiếng Anh : VICONSHIP HAIPHONG - Trụ sở chính : 11 Võ Thị Sáu Hải Phòng - Điện thoại : 84.031.836705-06 - Telex : 311259 VICOHP-VT - Fax : 84.031.836104 - Các chi nhánh tại: Hà Nội, Vinh (Nghệ An), TP Hồ Chí Minh. -Số đăng ký kinh doanh: Số 109301 do Trọng tài Kinh tế thành phố Hải Phòng cấp ngày 19/11/1993. 1.2. Ngành nghề kinh doanh. - Khai thác Container, đại lý tàu biển, môi giới hàng hải cho các hãng tàu trong và ngoài nước. - Khai thác vận chuyển hàng hoá bằng Container. - Sửa chữa, đóng mới và cho thuê Container. - Kinh doanh kho, bến, bãi. - Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng nông, lâm sản. 1.3. Cơ cấu tổ chức Công ty ( sơ đồ 1) Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng bao gồm: -Một tổng giám đốc: Vừa là người thay mặt nhà nước quản lý toàn bộ công ty, là người có quyền cao nhất, quyết định chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty theo đúng kế hoạch, chính sách, pháp luật của nhà nước, chịu trách nhiệm trước nhà nước và tập thể lao động về hoạt động kinh doanh và kết quả của hoạt động kinh doanh của công ty.Tổng giám đốc cũng là người có trách nhiệm chỉ đạo hoạt động của các công ty thành viên có góp vốn vào công ty và các phòng tài chính kế toán, tổ chức tiền lương, chi nhánh Vinh, chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh của công ty, đồng thời là người chỉ đạo thực hiện các chính sách chất lượng của công ty. - Hai phó tổng giám đốc: Giúp việc cho tổng giám đốc về điều hành chỉ đạo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hai phó tổng giám đốc chịu trách nhiệm đảm bảo các kế hoạch chính sách mà tổng giám đốc đã đề ra phải được thực hiện. Trong đó +Phó tổng giám đốc phụ trách về thị trường, kinh doanh và đảm bảo chất lượng: Trực tiếp chỉ đạo phòng kế hoạch đầu tư, phòng đại lý, đại diện Hà Nội, ban điều hành quản lý chất lượng. Chỉ đạo các đơn vị xây dựng kiểm soát, hoàn chỉnh các văn bản trong hệ thống quản lý chất lượng nhằm thống nhất các quá trình sản xuất kinh doanh. Tổng hợp các ý kiến phản ánh của khách hàng và các nhân viên về quá trình sản xuất sản phẩm và chất lượng dịch vụ để đưa ra các giải pháp khắc phục những dịch vụ chưa hoàn chỉnh nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Và cũng là người thay mặt tổng giám đốc trong công việc đối ngoại, ký các hợp đồng kinh tế, xây dựng giá cước dịch vụ đảm bảo ưu thế cạnh tranh và hiệu qủa trong hoạt động sản xuất kinh doanh . +Phó tổng giám đốc phụ trách sản xuất: là người trực tiếp phụ trách, chỉ đạo phòng kỹ thuật vật tư, đội cơ giới tổng hợp, đội kho bãi và phòng thanh tra bảo vệ. Chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch tác nghiệp sản xuất hàng ngày; Tổ chức công tác bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế các phương tiện thiết bị đảm bảo hiệu quả và chất lượng. Là người thay mặt tổng giám đốc ký kết các hợp đồng vận chuyển, bốc xếp, lưu kho, lưu bãi với các chủ tàu chủ hàng. Tổ chức các hoạt động dịch vụ tại bãi nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách hàng. - Các bộ phận nghiệp vụ: +Phòng đại lý: Trực tiếp thực hiện công tác Marketing để tạo nguồn hàng. Căn cứ uỷ quyền của giám đốc công ty ký kết các hợp đồng đại lý tàu biển, hợp đồng vận chuyển và dịch vụ hàng hoá xuất nhập khẩu theo đúng thủ tục, biểu giá quy định và có hiệu quả. Đồng thời có chức năng tham mưu cho giám đốc công ty trong công tác đối ngoại, ký kết các hợp đồng dài hạn, ngắn hạn và đề xuất giá cước phù hợp để đảm bảo ưu thế cạnh trạnh và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của công ty. Phòng đại lý cũng chịu trách nhiệm lập các chứng từ gốc, thực hiện việc thanh quyết toán các hợp đồng do phòng ký với các chủ tàu, chủ hàng. Thực hiện việc cung cấp vỏ container theo yêu cầu của chủ tầu, chủ hàng hoặc lãnh đạo của công ty. +Phòng kế hoạch đầu tư: Có trách nhiệm xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Kế hoạch đầu tư xây dựng hệ thống kho tàng bến bãi, nhà điều hành…Ký các hợp đồng khi được giám đốc công ty uỷ quyền. Theo dõi việc thực hiện các hợp đồng do giám đốc hoặc các phòng ký. Giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện các hợp đồng giữa công ty và các đối tác. +Phòng tổ chức tiền lương: Có nhiệm vụ quản lý lao động trong công ty, lập kế hoạch đội ngũ cán bộ, xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao nghiệp vụ và tay nghề cho đội ngũ cán bộ công nhân viên. Đề xuất làm thủ tục đề bạt các cán bộ trong công ty, đề nghị hình thức xử lý kỷ luật khi người lao động vi phạm kỷ luật lao động. Xây dựng, ban hành, giám sát việc tổ chức thực hiện các nội quy, quy chế về lĩnh vực lao động tiền lương, thực hiện chính sách ở các đơn vị trong công ty… +Phòng tài chính kế toán: Có nhiệm vụ lập và quản lý kế hoạch tài chính tín dụng thường kỳ, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện toàn bộ công tác thông tin kinh tế và phát triển hệ thống kinh tế, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra các bộ phận trong công ty thực hiện đầy đủ chế độ ghi chép ban đầu, chế độ hạch toán. +Phòng kỹ thuật vật tư: Thực hiện việc quản lý kỹ thuật, khai thác các thiết bị, phương tiện trong dây chuyền sản xuất của công ty nhằm sử dụng tối đa công suất của phương tiện thiết bị đảm bảo an toàn, tiết kiệm và tăng năng suất lao động. Xây dựng kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa; Kế hoạch cung ứng vật tư, phụ tùng sử dụng thay thế trong sửa chữa các loại phương tiện, thiết bị của công ty và container của các hãng tàu đảm bảo chất lượng, tiết kiệm và kịp thời. + Đội cơ giới tổng hợp: Thực hiện việc quản lý, khai thác các phương tiện vận tải, thiết bị đảm bảo phục vụ kịp thời cho sản xuất và có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Tổ chức kế hoạch vận chuyển, bốc xếp; Kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa các phương tiện thiết bị do đội quản lý đảm bảo hiệu quả và an toàn về người, hàng hoá phương tiện. +Ban đảm bảo chất lượng: Thực hiện việc triển khai, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong quá trình sản xuất sản phẩm và hoạt động dịch vụ của công ty. Phối hợp với các đơn vị khác xây dựng, kiểm soát hoàn chỉnh hệ thống các văn bản thuộc hệ thống quản lý chất lượng nhằm thực hiện thống nhất trong các quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. +Phòng thanh tra bảo vệ: Thực hiện các nghiệp vụ trong công tác thanh tra, công tác bảo vệ tài sản, hàng hoá và người lao động trong công ty. Thực hiện công tác chính trị nội bộ, chống mất cắp hồ sơ, tài liệu; Giữ gìn bí mật kinh doanh; bảo vệ kinh tế , bảo vệ cán bộ… +Đội kho bãi: Thực hiện nhiệm vụ tổ chức, quản lý và khai thác hệ thống kho bãi của công ty. Đề xuất những ý tưởng nhằm mở rộng, quy hoạch và khai thác hệ thống kho bãi của công ty một cách có hiệu quả. Tổ chức việc quản lý bảo quản và giao nhận các loại hàng hoá, container tại kho bãi công ty để không xảy ra nhầm lẫn, thất thoát, hư hỏng … 2. Thực trạng kinh doanh của công ty trước khi cổ phần hoá. 2.1.Tài sản cố định Theo báo cáo tổng kết tình hình tài sản của công ty trước khi tiến hành CPH thì tổng số tài sản cố định của công ty tính đến ngày 30/06/2001 là 16.737 triệu đồng. Với cơ cấu được thể hiện trong bảng 2 Bảng 2. Tài sản cố định của Công ty Đơn vị tính: Triệu đồng Tên TSCĐ Nguyên giá Gía trị còn đến ngày 30/06/2001 1.Nhà cửa-vật kiến trúc - Văn phong làm việc - Xưởng sửa chữa - Bãi chứa Container - Kho CFS 2. Phương tiện-thiết bị - Xe 4 chỗ ngồi (3xe) - Xe nâng 41T(2xe) - Xe nâng 3T(1xe) - Xe chuyên dùng (20xe) - Máy công cụ 3. Tài sản khác 10.413 3.554 124 5.177 1.558 7.543 241 360 257 6.548 87 20.184 6.740 2.196 11 3.287 1.246 9.336 713 6.460 220 1.907 36 661 Hệ số hao mòn TSCĐ: 0,42 Hệ số hao mòn PTVC: 0,71 Nguồn: Báo cáo tổng kết tài sản của công ty. Căn cứ vào số liệu của bảng 2 ta có nhận xét như sau: Giá trị tài sản cố định của công ty tương đối lớn, điều này cho thấy lĩnh vực hoạt động của công ty là lĩnh vực cần một lượng vốn rất lớn để hoạt động. Hệ số hao mòn tài sản cố định chung của công ty là 0,42 là một tỷ lệ hao mòn bình thường nhưng nếu xét về chi tiết thì hệ số hao mòn của phương tiện vận tải thì rất cao (0,71). Do đó cần có sự đầu tư đổi mới để bảo đảm tốt năng lực sản xuất đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong lĩnh vực này. 2.2. Lao động và thu nhập: Tính đến ngày 30/06/2001 thì: Tổng số lao động trong Công ty : 226 người Trong đó -Trình độ: + Đại học : 78 người chiếm 3,5% + Trung cấp : 25 người --------11% + CNKT : 92 người --------40,7% + Lao động phổ thông : 31 người --------13,7% -Loại hợp đồng lao động: + Hợp đồng thời hạn không xác định : 147 người chiếm 65% + Hợp đồng thời hạn xác định : 57 người chiếm 25,2% + Hợp đồng mùa vụ : 22 người chiếm 9,7% -Thu nhập bình quân : 1.600.000đ/người-tháng 2.3. Vốn kinh doanh: Tổng số vốn kinh doanh tại thời điểm 30/06/2001 : 20.451 triệu đồng +Nếu xét theo cơ cấu vốn thì số vốn này có cơ cấu như sau: - Vốn cố định : 18.022 - - Vốn lưu động : 1.114 - - Quỹ PTSX : 1.315 - +Nếu xét theo nguồn hình thành thì nguồn vốn này sẽ có cơ cấu như sau: - Vốn ngân sách cấp : 305,5 triệu đồng - Vốn tự bổ sung :20.145,5 triệu đồng 2.4. Tình hình SXKD trước khi cổ phần hoá (số liệu 30/06/2001) Nhìn chung tình hình sản xuất kinh doanh của công ty tương đối tốt, hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng được nâng cao. Một số chỉ tiêu sau sẽ phản ánh tình hình kinh doanh của công ty trước khi tiến hành CPH ( căn cứ vào số liệu ngày 30/06/2001) - Doanh thu : 9.718 triệu đồng - Lợi nhuận trước thuế : 1.220 - - Lợi nhuận sau thuế : 915 - - Nộp ngân sách : 383 - - Thu nhập b/q : 1.600.000đ/người/tháng - Nợ phải trả : 6.456 triệu đồng - Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn kinh doanh: 8,95% (Với giả thiết lợi nhuận cả năm gấp 2 lần lợi nhuận 6 tháng) Bảng 3. Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh của Công ty thời kỳ 1998 - 2001 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 1998 1999 2000 30/06/2001 1. Vốn kinh doanh a. Vốn cố định - Vốn ngân sách - Tự bổ sung b. Vốn XDCB - Đầu tư từ các nguồn quỹ c. Vốn lưu động - Tự bổ sung d. Quỹ PTSX 2. Doanh thu 3. Tổng chi phí 4. Lợi nhuận trước thuế 5. Lợi nhuận sau thuế 6. Nộp ngân sách - Thuế doanh thu - Thuế lợi tức - Thuế vốn 7. Tỷ suất LN sau thuế/vốn KD(%) 8. Trích lập quỹ trong năm - Phát triển sản xuất - Phúc lợi và khen thưởng 9. Lao động 10. Thu nhập b/q người-năm 11. Nợ phải trả - Nợ ngân sách 12. Nợ phải thu - Nợ khó đòi 18.368 14.837 305,5 14.531,5 2.335 2.335 196 196 1.000 16.680 13.841 2.141 1.571 1.229 648 570 11 8,55 1.326 780 546 220 20.600 6.532 251 2.097 0 19.183 18.837 305,5 18.531,5 119 119 227 18.020 15.125 2.243 1.641 1.625 652 602 11 8,55 1.385 815 570 222 21.000 6.502 787 2.711 0 19.916 18.272 305,5 18.531,5 0 0 864 864 860 18.678 16.409 2.269 1.637 1.623 980 632 11 8,19 1.382 813 569 222 21.000 6.346 206 2.271 0 20.451 18.022 305,5 17.716,5 0 0 1.114 1.114 1.315 9.718 8.498 1.220 915 6.935 383 305 5,5 8.95 773 455 318 226 10.000 6.456 241 2.304 0 Nguồn: Báo cáo tổng kết kết quả kinh doanh của công ty 2.5. Đánh giá thực trạng của Công ty 2.5.1. Thuận lợi: - Các chủ trương, chính sách vĩ mô của Đảng và Nhà nước đã cho phép doanh nghiệp phát huy tốt quyền chủ động của mình trong đầu tư và kinh doanh nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. - Là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ nên nhu cầu về vốn kinh doanh không gay gắt như các lĩnh vực khác. Trên thực tế những năm qua Công ty chưa lần nào phải vay vốn do đó không phải chịu lãi tiền vay. - Phương thức vận tải hàng hoá bằng Container là phương thức vận tải tiên tiến trên Thế giới, phương thức này đang phát triển rất mạnh ở Việt Nam. Ngành nghề kinh doanh của Công ty rất phù hợp với xu hướng phát triển này nên khả năng tìm kiếm việc làm mở rộng sản xuất kinh doanh của Công ty có rất nhiều thuận lợi. - Là doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam kinh doanh trên lĩnh vực đại lý, vận chuyển hàng hoá bằng Container (tiền thân là Công ty Container Việt Nam được thành lập năm 1985) Công ty đã thiết lập được mối quan hệ rộng rãi với các hãng tàu, các Công ty môi giới, Công ty XNK trong và ngoài nước. Đây là một thị trường lớn cho Công ty cung ứng các dịch vụ của mình một cách ổn định. - Qua số liệu về tình hình tài chính (Bảng 3), chúng ta có thể thấy vốn vẫn được bảo toàn và bổ sung thêm. Doanh thu của Công ty vẫn tăng, năm sau cao hơn năm trước trong thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty hàng năm đều có lãi, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh đạt xấp xỉ 10% năm là tương đối cao so với các DNNN hiện nay ( cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng). Lao động hàng năm được ổn định việc làm và thu nhập với mức bình quân 21.000.000VND/ người/năm là khá cao so với mặt bằng thu nhập địa phương. - Công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên (CBCNV) được đào tạo cơ bản, có nghiệp vụ và kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đoàn kết, tin tưởng vào sự lớn mạnh của Công ty. - Công tác quản lý của Công ty tương đối hoàn thiện với một hệ thống các nội quy, quy chế đã ban hành nhằm phát huy cao nhất tính chủ động sáng tạo của người lao động và đảm bảo tính đồng bộ và tiết kiệm trong dây chuyền sản xuất. Hiện Công ty đang triển khai xây dựng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000:2000. 2.5.2. Khó khăn vướng mắc: - Sự thiếu đồng bộ vì cơ sở vật chất đặc biệt là cơ sở vật chất hạ tầng như cầu, cống, đường xá làm giảm hiệu quả kinh doanh trong phương thức vận chuyển hàng hoá bằng Container. - Một số quy định của các cấp quản lý chuyên ngành về lĩnh vực vận chuyển hàng hoá bằng Container chưa phù hợp: Tuyến đường, chiều cao phương tiện khi chở hàng... - Cạnh tranh trong lĩnh vực này diễn ra rất quyết liệt. - Tài sản cố định (TSCĐ) của Công ty tuy tổng thể hệ số hao mòn chỉ 0,42 song đi vào chi tiết của cơ cấu TSCĐ thì một số loại TSCĐ có hệ số hao mòn khá cao như PTVT: 0,71, Xưởng sửa chữa Container: 0,91 cần có sự đầu tư đổi mới để bảo đảm tốt năng lực sản xuất đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Tóm lại: Tuy có những khó khăn nhất định cả về khách quan và chủ quan, song cơ bản là thuận lợi. Công ty có đủ cả thế và lực để phát triển mạnh hơn trong tương lai. Cổ phần hoá Công ty thành Công ty cổ phần là phù hợp với tinh thần đổi mới DNNN của nghị quyết hội nghị trung ương 3 (khóa 9), tạo điều kiện cho công ty huy động vốn, tạo điều kiện để công ty kinh doanh có hiệu quả hơn, tạo điều kiện để công ty tiếp tục phát triển vững chắc trong cơ chế thị trường. Đồng thời, với việc chuyển đổi cơ chế quản lý, điều hành mới công ty sẽ tạo ra một thế mạnh mới: Điều kiện để hội nhập vào nền kinh tế chung của khu vực và Thế giới giúp công ty mở rộng được thị trường, tăng việc làm, thuận lợi cho việc đầu tư, đổi mới công nghệ tiên tiến hơn. - Người lao động - những cổ đông của công ty thực sự là những chủ doanh nghiệp sẽ có ý thức trách nhiệm về mọi mặt, năng động sáng tạo hơn trong sản xuất kinh doanh và chắc chắn mang lại hiệu quả kinh tế cao, thu nhập cao hơn. - Khắc phục được sự chồng chéo, cứng nhắc trong quản lý và điều hành như các DNNN hiện nay tạo điều kiện cho Công ty phát huy hết quyền chủ động sáng tạo của mình trong kinh doanh với mục đích mang lại lợi nhuận cao. -Bảo đảm thế và lực để chiến thắng trong cạnh tranh II. phương án cổ phần hoá công ty container phía bắc 1. Phương án cổ phần hoá công ty container phía bắc 1.1. Mục tiêu - Chuyển một phần quyền sở hữu của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông, mở rộng tính tự chủ trong kinh doanh. - Huy động vốn của CBCNV trong Công ty và các đối tượng khác để đầu tư đổi mới thiết bị máy móc, công nghệ nhằm phát triển sản xuất, tạo sức mạnh trong thị trường cạnh tranh, mở rộng phạm vi hoạt động với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận vì việc làm cho mọi người lao động. - Tạo điều kiện để cho người lao động làm chủ thực sự nhằm phát huy hết tài năng và trí tuệ của mọi người để quản lý, kế hoạch đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần vào tăng trưởng kinh tế cho Đất nước. 1.2. Hình thức cổ phần hoá Bán cổ phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để phát triển doanh nghiệp. 1.3. Tên gọi của doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá - Tên gọi : Công ty cổ phần Container phía Bắc. - Tên giao dịch quốc tế : North Vietnam Container Shipping Stock Company - Tên viết tắt : Viconship Haiphong - Trụ sở : Số 11 Võ Thị Sáu Hải Phòng Ngành nghề kinh doanh: - Khai thác Container, đại lý tàu biển, đại lý liên hiệp vận chuyển, môi giới hàng hải cho các hãng tàu trong và ngoài nước. - Tổ chức và thực hiện dịch vụ đa phương thức đối với hàng hoá chứa trong Container và các hàng hoá khác. - Kinh doanh kho, bến và bãi, dịch vụ giao nhận hàng hoá. - Đóng mới, sửa chữa Container và cho thuê Container. - Kinh doanh xuất khẩu hàng nông, lâm sản - Kinh doanh các dịch vụ cung ứng tàu biển. 1.4. Xác định giá trị của doanh nghiệp 1.4.1. Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp Căn cứ vào hướng dẫn tại điều 11NĐ 44/1998/NĐ-CP. a) Gíá trị thực tế của doanh nghiệp: là toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả. b) Các yếu tố xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp : - Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá. - Giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá trị thị trường tại thời điểm cổ phần hoá. - Lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng (nếu có), lợi thế này thể hiện ở tỷ suất lợi nhụân thực hiện tính trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi cổ phần hoá. Giá trị lợi thế nói trên chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp . 1.4.2. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Căn cứ vào số liệu báo cáo kiểm kê 30/06/2001 và báo cáo tổng kết tài sản 30/06/2001. Đối với TSCĐ và TSLĐ là hiện vật đã được kiểm kê xác định theo công thức: GTTTTS= TTTS x NGTS x%GTTSCL Trong đó: - GTTTTS: Giá trị thực tế của tài sản - TTTS: Số lượng thực tế của từng loại tài sản - NGTS: Nguyên giá của từng tài sản tại thời điểm CPH -GTTSCL: Giá trị sử dụng còn lại của từng loại tài sản - Do đặc điểm TSCĐ và TSLD bằng hiện vật của Công ty được đầu tư bằng nguồn vốn tự bổ sung trong những năm gần đây, giá cả của các tài sản này tương đối phù hợp với giá thị trường nên: + Nguyên giá thực tế của tài sản được lấy theo nguyên giá khi mua tài sản. + Gía trị sử dụng được lấy trên cơ sở giá trị còn lại của tài sản trên sổ sách kế toán của công ty đến thời điểm 30/06/2001 (nguyên giá trị của giá trị hao mòn (đã khấu hao)) b. Đối với tài sản là vốn bằng tiền, thì tính theo số dư vốn bằng tiền đã qua kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Nếu số dư là ngoại tệ thì quy đổi ra đồng Việt nam theo quy định hiện hành của Bộ Tài Chính. c. Các khoản nợ đã được đối chiếu, xác nhận. d. Đối với các khoản chi phí dở dang gồm: Chi phí sản xuất, kinh doanh, chi phí sự nghiệp, chi đầu tư XDCB thì tính theo số dự chi phí thực tế trên sổ sách kế toán. e. Đối với các tài sản ký quỹ, ký cược ngắn hạn và dài hạn thì tính theo số dư trên sổ sách kế toán đã đối chiếu, xác nhận tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp f. Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và dài hạn thì tính vào giá trị doanh nghiệp các khoản mà Công ty cổ phần sẽ kế thừa. g. Đối với tài sản vô hình: Tính theo giá trị còn lại trên sổ sách kế toán tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. h. Đối với những doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh thì phải tính theo giá trị lợi thế vào giá trị thực của doanh nghiệp theo công thức: TLN3 + TSLNBQ3 = TVNN3 + TSLNSN = TSLNBQ3 - TSLNBQC + GTLT = VNN3 x TSLNSN x 30% Trong đó: TSLNBQ3:Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của doanh nghiệp TLN3: Tổng số lợi nhuận thực hiện của 3 năm liền kề của doanh nghiệp TVNN3:Tổng số vốn của nhà nước 3 năm liền kề TSLNSN:Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch TSLNBQ3:Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của doanh nghiệp TSLNBQC:Tỷ suất lợi nhuận bình quân chung của DNNN cung ngành nghề. GTLT:Giá trị lợi thế được tính vào giá trị của doanh nghiệp VNN3:Vốn nhà nước theo sổ sách kết toán bình quân của 3 năm liền kề 1.4.3. Gía trị thực tế của Công ty tại thời điểm cổ phần hoá: Đây là toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán đều chấp nhận được. Số liệu ngày 30/06/2001. (Bảng 4) Riêng giá trị diện tích đất hiện nay Công ty đang sử dụng là 30.000 m2 khi chuyển sang Công ty cổ phần không gộp vào gía trị của doanh nghiệp để cổ phần hoá mà coi như Nhà nước cho thuê. Công ty cổ phần phân tích kế hoạch trả dần hàng năm. Tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm 30/06/2001 là: 26.907 triệu đồng. 1.4.4 Gía trị thực tế phần vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản nợ thực tế phải trả - Gía trị thực tế của Doanh nghiệp tại thời điểm 30/06/2001 :26.907 triệu. - Nợ phải trả : 6.456 - - Gía trị thực tế phần vốn Nhà nước : 20.451 - Bảng 4. Giá trị tài sản của Cty tại thời điểm CPH Đơn vị tính: Triệu đồng TT Tài sản Gía trị A Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 9.170 I Tiền 6.167 1 Tiền mặt tồn quỹ 263 2 Tiền gửi ngân hàng 5.904 II Các khoản ĐT-TC ngắn hạn 0 III Các khoản phải thu 2.304 IV Hàng tồn kho 408 V Tài sản lưu động khác 1 Tạm ứng 281 2 Chi phí trả trước 10 3 Chi phí chờ kết chuyển 0 B Tài sản cố định và đầu tư dài hạn 17.737 I Tài sản cố định 16.737 1 TSCĐ hữu hình 16.737 II Các khoản đầu tư-tài chính dài hạn 1.000 III Chi phí XDCB dở dang 0 IV Các khoản ký qũy, ký cược 0 Tổng tài sản 26.907 Nguồn: Báo cáo tổng kết tài sản của công ty 1.5. Vốn điều lệ Công ty cổ phần Container phía Bắc được thành lập với vốn điều lệ là:23.000.000.000đ (hai mươi ba tỷ đồng), dự kiến cơ cấu vốn sẽ như sau: Bảng 5. Cơ cấu vốn của Công ty Đơn vị: Triệu đồng Cơ cấu vốn điều lệ Tỷ lệ 2002 2003 2004 1. Vốn điều lệ - Nhà nước - CBCNV Viconship - Bán ra ngoài 23.000 23.000 23.000 20% 4600 4600 4600 55% 12.650 12.650 12.650 25% 5.750 5.750 5.750 Tổng cộng 100% 23.000 23.000 23.000 Nguồn: Báo cáo tổng kết của công ty Tổng Công ty Hàng hải Việt nam sẽ là người đại diện cho phần vốn của Nhà nước tại Công ty cổ phần. 1.6. Mệnh giá cổ phiếu, cổ phần 1.6.1. Mệnh giá cổ phiếu Nhà nước quy định mệnh giá cổ phiếu thống nhất trong cả nước là: 100.000đ Mệnh giá cổ phiếu của Công ty cũng là: 100.000đ 1.6.2. Số cổ phần Vốn điều lệ 23.000.000.000 Số lượng cổ phần = = = 230.000 cổ phần Mệnh giá cổ phiếu 100.000 Vốn điều lệ của Công ty cổ phần Container phía Bắc sẽ được chia thành 230.000 cổ phần, mỗi cổ phần có giá trị bằng 100.000 đồng và được thể hiện bằng các cổ phiếu có mệnh giá tương ứng. 1.7. Cổ phần ưu đãi. Thực hiện theo các quy định tại nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/8/1998 của Chính phủ về việc chuyển Doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần và thông tư số 104/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành Công ty Cổ phần. Cụ thể là: -Theo điều 13 NĐ 44/1998/NĐ-CP thì doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành cổ phần hoá sẽ được hưởng những ưu đãi sau: +Doanh nghiệp nhà nước khi chuyển thành công ty cổ phần là hình thức đầu tư mới, được hưởng ưu đãi theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước ( sửa đổi). Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức( thuế thu nhập doanh nghiệp ) trong 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty. +Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa thành sở hữu của công ty cổ phần. +Được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đã áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước. +Được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá theo chế độ quy định hiện hành như đối với doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hoá. +Trước khi cổ phần hoá được chủ động sử dụng số dư quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi (bằng tiền) chia cho người lao động đang làm việc (không phải nộp thuế thu nhập) để mua cổ phần . +Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật, các công trình văn hoá, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lí với sự tham gia của tổ chức công đoàn . +Các khoản chi phí thực tế, hợp lí và cần thiết cho quá trình chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn nhà nước theo mức quy định của bộ tài chính. -Theo điều 14 NĐ 44/1998/NĐ-CP thì khi doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần thì người lao động được hưởng những ưu đãi sau: +Được nhà nước bán với giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp tuỳ theo năm công tác của từng người. Một năm làm việc được mua tối đa 10 cổ phần ( trị giá 1 cổ phần là 100.000 đ) với mức giảm giá là 30% so với các đối tượng khác. Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 20% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ từ 40% giá trị doanh nghiệp trở lên thì tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 30% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp . Trường hợp cổ phần hoá theo hình thức giữ nguyên giá trị của nhà nước tại doanh nghiệp và thu hút thêm vốn từ bên ngoài vào thì giá trị ưu đãi cho người lao động được trừ vào phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp . Người lao động sở hữu cổ phần nói trên có quyền chuyển nhượng, thừa kế và các quyền khác của công ty theo quy định của pháp luật và điều lệ của công ty cổ phần . + Người lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần theo giá trị ưu đãi thì được hoãn trả trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức và trả dần tối đa trong 10 năm không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần dành cho người lao động nghèo không vượt quá 20% tổng số cổ phần nhà nước bán theo giá ưu đãi. Người sở hữu cổ phần không được chuyển nhượng khi chưa trả hết tiền cho nhà nước. + Sau 12 tháng kể từ khi doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức lại hoạt động kinh doanh, thay đổi công nghệ dẫn đến người lao động mất việc làm thì chính sách đối với người lao động này được giải quyết theo những quy định hiện hành của chính phủ . 1.7.1. Ưu đãi với người lao động nghèo. Theo thông tư số 03/1999/TT-LĐTBXH thì người lao động nghèo được hưởng ưu đãi theo quy định tại khoản 2 điều 14 nghị định 44/1998/NĐ-CP của chính phủ là người có thu nhập bình quân đầu người trong gia đình thấp.Việc lựa chọn số người nghèo nhất trong doanh nghiệp được giao cho giám đốc doanh nghiệp cùng đảng uỷ, công đoàn. Việc lựa chọn này đảm bảo các nguyên tắc sau: -Mức thu nhập bình quân đầu người trong gia đình, cao nhất bằng 1/3 mức tiền lương bình quân tháng tính trong năm do bộ LĐTB và XH công bố (năm 1998 theo quyết định số 1069/1998/QĐ-BLĐTBXH, ngày 14-10-1998 là 900.000 đ/tháng ) -Số người lao động nghèo được lựa chọn phải được hội nghị CNVC (đại biểu hoặc toàn thể) tán thành theo nguyên tắc đa số, quá nửa số người dự họp và thông báo công khai trong toàn doanh nghiệp . -Không được dùng số cổ phần dành cho lao động nghèo theo quy định tại khoản 2 điều 14 nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29-6-1998 cuả chính phủ để chia cho mọi người trong doanh nghiệp . -Số người nghèo sau khi được lựa chọn phải đưa vào phương án cổ phần hoá doanh nghiệp . Thu nhập bình quân đầu người trong gia đình được tính trên cơ sở các khoản thu nhập bao gồm: tiền lương, tiền thưởng, các khoản phụ cấp lương đối với người làm công ăn lương; thu nhập chính từ lao động của các thành viên trong gia đình làm việc ở các thành phần kinh tế khác (ngoài ra không còn khoản thu nhập nào khác) chia cho số người trong gia đình ( vợ, chồng, con và người phải trực tiếp nuôi dưỡng) Căn cứ vào những tiêu chuẩn được quy định trong thông tư số 03/1999/TT-LĐTBXH như ở trên thì hiện tại ở công ty không có lao động nghèo. 1.7.2 Cổ phần ưu đãi theo năm công tác a-Kết cấu lao động theo năm công tác ( bảng 6) Bảng 6. Kết cấu lao động theo năm công tác Số năm Số người Tổng số năm 1 3 4 5 6 7 10 11 12 14 15 17 20 21 22 23 26 30 4 2 20 24 25 26 28 25 16 15 12 4 7 6 5 3 4 5 226 4 6 80 120 150 182 280 275 192 210 180 68 140 126 110 69 104 150 2.446 Nguồn: Báo cáo tổng kết của công ty Trong đó: - Giám đốc Công ty : 01 người số năm công tác 20 năm. - Phó giám đốc Công ty : 01 người số năm công tác 20 năm. - Phó giám đốc Công ty : 01 người số năm công tác 18 năm. b. Xác định tổng giá trị ưu đãi cho người lao động. - Tổng giá trị ưu đãi: Căn cứ vào điều 14 NĐ 44/1998/NĐ-CP ,do phần vốn của Công ty tự tích luỹ>40% giá trị Doanh nghiệp nên tổng giá trị ưu đãi cho người lao động tối đa là 30% giá trị vốn nhà nước tại Doanh nghiệp: 20.451.000.000đ x 30%=6.135.000.000đồng. - Tổng cổ phần ưu đãi cho người lao động Theo quy định hiện hành của Nhà nước mỗi năm làm việc cho Nhà nước tối đa 10 cổ phần ưu đãi ( Giảm 30% so với các đối tượng khác) Theo số liệu ở bảng 5 ta có: - Số cổ phần ưu đãi tối đa: 2.446 x 10 cổ phần = 24.460 cổ phần. - Số tiền ưu đãi tối đa: 24.460 cổ phần x 30.000đ = 733.800.000đ - Mức cổ phần ưu đãi bình quân của Công ty là: 24.460 : 226 = 108 cổ phần (lấy tròn) - Số cổ phần ưu đãi của Ban lãnh đạo Công ty được phép mua theo quy định tại khoản 5 điều 8 NĐ 44/1998 là: 108 x 3 =324 cổ phần. Như vậy so với năm công tác thực tế của đối tượng này số cổ phần ưu đãi được phép giảm là: 580 cổ phần - 324 cổ phần = 256 cổ phần Tổng số cổ phần ưu đãi thực tế: 24.460 CP – 256 CP = 24.204 CP. - Tổng số tiền ưu đãi thực tế: 24.204CP x 30.000đ = 726.120.000đồng. 1.8. Thời gian và cơ quan bán cổ phiếu Công ty sẽ chủ động đăng ký mua cổ phiếu của Bộ tài chính và tự đứng ra bán cho các cổ đông. - Loại cổ phiếu đăng ký mua: sẽ căn cứ vào số lượng cổ phần mà các cổ đông đăng ký mua, đặc biệt lưu ý số cổ đông là CBCNV công ty để đăng ký số lượng từng loại cổ phiếu có mệnh giá phù hợp, loại cổ phiếu có mệnh giá thấp nhất là 100.000đ và cao nhất là 10.000.000đ. - Thời gian bán cổ phiếu: dự kiến đầu tháng 12/2001. 1.9. Phương án giải quyết số dư quỹ phúc lợi, khen thưởng. Nguyên tắc và căn cứ giải quyết được thống nhất tại cuộc họp liên tịch giữa Ban lãnh đạo và BCH Công đoàn Công ty. -Về nguyên tắc phân chia: + Phân chia nguồn quỹ trên cho toàn bộ CBCNV Công ty có mặt tại thời điểm cổ phần hoá. +Phân chia theo số năm công tác thực tế tại Công ty. +Tính trên cơ sở số năm công tác, không phân biệt loại HĐLĐ và chức danh hiện tại. - Căn cứ để phân chia: + Số dư khen thưởng, phúc lợi tại thời điểm 30/06/2001 + Tổng số năm công tác thực tế của toàn bộ CBCNV Công ty tính đến năm 2001. - Dự kiến phân chia: + Mỗi năm công tác thực tế tại Công ty được chia 100.000đ tương đương với một cổ phần (mệnh giá 100.000đ) + Tổng số năm công tác thực tế tại Công ty là: 2.189 người-năm + Số tiền được tính để phân chia là: 2.189 x 100.000đ = 218.900.000 đồng +Số tiền còn lại của 2 quỹ là: 318.000.000-218.900.000=99.100.000đ Số tiền này sẽ được chuyển sang quỹ khen thưởng, phúc lợi của Công ty cổ phần. 1.10. Quyết toán số tiền thu từ việc bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước - Gía trị thực tế phần vốn Nhà nước tại thời điểm Cổ phần hoá: 20.451 Triệu đồng Trong đó: + Góp vốn tại công ty cổ phần: 20% vốn điều lệ: 4.600 triệu đồng + Chi phí cổ phần hoá: 329,07 triệu đồng + Nộp về Tổng công ty Hàng hải Việt nam:14.795 triệu đồng 2. Phương án tổ chức, đầu tư phát triển công ty sau khi cổ phần hoá 2.1. Mô hình tổ chức Công ty. Cơ bản vẫn giữ mô hình hiện tại: - Trụ sở chính của Công ty tại thành phố Hải phòng - Các chi nhánh Công ty tại Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh và Nghệ An Các chi nhánh này có tư cách pháp nhân không đầy đủ, được thành lập và hoạt động theo quyết định và sự chỉ đạo của Hội đồng quản trị của Công ty cổ phần. Hiện tại các chi nhánh của Công ty chỉ mới hoạt động kinh doanh một phần trong số các ngành nghề kinh doanh của Công ty, chủ yếu là đại lý tàu biển và đại lý Container, việc củng cố và nâng cấp các chi nhánh cả về con người, cơ sở vật chất, phạm vi hoạt động là rất cần thiết nhằm đảm bảo sự phát triển vững chắc của toàn Công ty. Thành phố Hồ Chí Minh là một khu vực kinh tế năng động nhất nước ta, thu hút khối lượng vốn đầu tư lớn nhất từ nước ngoài, lượng hàng hoá XNK, lượng tàu biển cập cảng Sài Gòn và các dịch vụ liên quan phát triển nhanh. Các hãng tàu khi mở tuyến vào Việt Nam đều quan tâm lớn đến khu vực kinh tế này.Do đó củng cố và phát triển chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh để chia sẻ thị phần các dịch vụ tăng kinh doanh, tăng cường vị thế của Công ty trong cơ chế cạnh tranh là việc cấp thiết Công ty cổ phần phải tiến hành. Hà Nội là một trung tâm kinh tế thứ hai của cả nước, đây là nơi đặt trụ sở của hầu hết các Tổng Công ty, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Hiện tại Hà nội là trung tâm chính trị, văn hoá và trong tương lai gần cũng sẽ là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước. Việc củng cố và phát triển chi nhánh Hà nội để phù hợp với tiềm năng của khu vực kinh tế này là rất quan trọng cho sự phát triển của Công ty. Khu vực miền Trung đã và đang giành được sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, tạo mọi điều kiện về đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của khu vực này. Một mặt khai thác tốt tiềm năng về các sản phẩm nông, lâm nghiệp và khoáng sản, mặt khác đầu tư các cơ sở vật chất hạ tầng về cảng biển và các dịch vụ liên quan để khu vực Miền Trung còn trở thành cửa khẩu chính về XNK hàng hoá của nước Bạn Lào. Hiện nay 80%-90% hàng hoá của Lào XNK qua cửa khẩu Thái Lan. Do vậy đây cũng là khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng phát triển, hiện tại ít được sự chú ý của các doanh nghiệp trên cùng lĩnh vực đối với Công ty quan tâm, Chi nhánh của Công ty tại khu vực này phải nắm bắt, đặt nền móng về quan hệ kinh tế với các tổ chức kinh tế trong khu vực ngay từ đầu là rất cần thiết. Ngoài ra cùng với sự phát triển của mình, Công ty sẽ xem xét tới việc mở Chi nhánh tại khu vực Quảng Ninh, thành lập cơ quan đại diện hoặc Công ty liên doanh tại Singapore và Hongkong vì đây là hai đầu mối giao thông đường biển lớn nhất từ Châu á đi Thế giới và ngược lại. Mặt khác việc thiết lập các cơ quan đại diện ở các nước trên sẽ tạo điều kiện rất lớn cho Công ty trong việc thâm nhập vào thị trường khu vực và Thế giới, chuẩn bị tốt cho bước hoà nhập vào nền kinh tế của Thế giới mà vẫn ổn định phát triển. 2.2. Tổ chức lao động Công ty cổ phần sẽ bảo đảm việc làm cho số lao động hiện tại tại Công ty Container phía Bắc. Song căn cứ vào kế hoạch đầu tư, phương hướng phát triển của Công ty trong những năm tới sẽ phải cơ cấu lại lao động cho phù hợp. Như vậy vấn đề đào tạo và đào tạo lại người lao động trong Công ty là việc làm cấp thiết nhằm tạo năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động theo công việc được cơ cấu lại, mặt khác nâng cao một bước về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính cho người lao động nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng dịch vụ của toàn Công ty. Cụ thể: - Lao động bốc xếp thủ công hiện nay là 40 người, chiếm 17,7% tổng số lao động, chỉ giữ lại 15 người chiếm 6,1%, số lao động dư ra 25 người sẽ được phân loại theo năng lực để đào tạo phụ xe nâng, phụ xe tải, thợ phụ hoặc giao nhận. - Lao động là thợ sửa chữa hiện có 16 người chiếm 7% sẽ được bổ sung nâng lên 25 người, thành lập Xưởng cơ khí sửa chữa phương tiện, thiết bị, Container và đóng mới Container. - Đào tạo và bổ sung lao động làm Đại lý từ 16 người lên 25 người, tăng cường cho các chi nhánh và mở rộng dịch vụ khai thác hàng không. - Giảm lao động tại khối quản lý từ 22 người xuống còn 18 người chiếm 8% trong tổng số lao động, số dư ra bổ sung cho lao động ở khối đại lý hoặc giao nhận. - Đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ, vi tính, pháp lý cho lao động thuộc khối quản lý, đại lý giao nhận. 2.3. Tổ chức sản xuất kinh doanh Sau khi hoàn thành việc cổ phần hoá, Công ty cổ phần vẫn hoạt động kinh doanh trên cơ sở các ngành nghề đã đăng ký, song căn cứ vào kết quả thực hiện những năm qua, đặc biệt quan tâm đến hiệu quả kinh doanh (Lợi nhuận) trên từng lĩnh vực, khả năng hiện có của Công ty, tình hình thị trường hiện tại và dự kiến biến đổi trong thời gian tới. Công ty sẽ có những điều chỉnh hợp lý nhằm đảm bảo vốn, tốc độ tăng trưởng và đặc biệt nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cụ thể về những điều chỉnh của công ty như sau: 2.3.1. Vận tải nội địa. Hiện chiếm 30% trong tổng doanh thu của Công ty, song do chi phí liên quan đến lĩnh vực kinh doanh này qúa lớn nên hiệu qủa kinh tế không cao. Trong những năm tới Công ty vẫn giữ nguyên cơ số xe, song phải chuyển đổi cơ cấu loại phương tiện cho phù hợp, mặt khác đã đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá của khách hàng theo phương thức vận chuyển khép kín “Door to Door” (Cửa đến Cửa), Công ty phải liên kết với các loại hình vận chuyển khác như đường sắt, đường sông…để vận chuyển hàng hoá và thiết lập các điểm trung chuyển hàng hoá tại các điểm phù hợp trong nội địa để đảm bảo sự dịch vụ thông suốt, kịp thời. Như vậy chắc chắn doanh thu của vận tải sẽ tăng lên, chi phí giảm và hiệu qủa kinh tế sẽ nâng cao. 2.3.2 Bốc xếp, đóng rút hàng tại kho bãi Doanh thu hiện nay của lĩnh vực kinh doanh này chiếm 22% tổng số doanh thu, hiệu quả kinh doanh khá cao, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu đạt từ 12 đến 15%, đây là lĩnh vực mà Công ty cổ phần sẽ tiếp tục mở rộng, đầu tư thêm về cơ sở vật chất, nâng cấp chất lượng dịch vụ để tăng thêm sản lượng. 2.3.3 Kinh doanh kho, bãi. Doanh thu hiện nay chiếm 25% tổng doanh thu, hiệu quả kinh doanh khá cao (tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu khoảng 12%) do chi phí liên quan, chủ yếu là chi phí khấu hao TSCĐ. Hiện nay do chất lượng dịch vụ của Công ty rất tốt nên nhu cầu của các Hãng tàu và các chủ hàng XNK về thuê bãi, kho để chứa Container và hàng hoá XNK càng tăng. Công ty sẽ có kế hoạch đầu tư mở rộng bãi, kho để đáp ứng nhu cầu của dịch vụ này. 2.3.4. Khai thác Container. Hiện chiếm 14% doanh thu, nhưng đây là lĩnh vực đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu đạt trên 15% do chi phí và vốn đầu tư vào lĩnh vực này thấp, chủ yếu là tiền lương của người lao động, chi phí giao dịch… Đây là lĩnh vực kinh doanh mà Công ty cổ phần sẽ chú trọng phát triển và mở rộng, chủ yếu liên quan đến việc bố trí số lượng lao động phù hợp và chất lượng lao động tốt để có kinh nghiệm mở rộng thị trường thu hút các khách hàng trong và ngoài nước sử dụng dịch vụ của Công ty. 2.3.5. Khai thác hàng hoá hàng không. Đây là lĩnh vực mà qua thực tế kinh doanh của các đơn vị khác đạt hiệu quả kinh tế rất cao thậm chí có doanh nghiệp đạt tỷ suất lợi nhuận trên 50%. Hiện nay doanh thu của Công ty trong lĩnh vực này còn nhỏ, không đáng kể, với tiềm năng kinh nghiệm của mình và các mối quan hệ kinh tế sẵn có, đây cũng là lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm năng mà Công ty cổ phần phải thực hiện. 2.3.6. Sửa chữa đóng mới Container. Đây cũng là lĩnh vực kinh doanh hứa hẹn một thị trường to lớn trong tương lai bởi lẽ: + Lượng hàng hoá vận chuyển bằng Container ngày càng tăng vì vậy tỷ lệ về hỏng hóc Container cũng càng tăng. + Gía thành sửa chữa Container tại Việt nam còn rất thấp so với khu vực nên các chủ vỏ Container có xu hướng chuyển Container về Việt nam để sửa chữa… + Một số hãng tàu lớn của Việt nam chuyển sang kinh doanh vận tải hàng hoá bằng Container nên nhu cầu về vỏ của riêng mình là rất lớn. Hiện nay tại Việt nam chưa có Doanh nghiệp nào thực sự hoạt động trong lĩnh vực đóng mới Container. Vấn đề đặt ra trước mắt với công ty cổ phần là đào tạo thợ, đầu tư đổi mới thiết bị máy móc, tìm kiếm nguồn cung ứng vật tư, tổ chức lại sản xuất xây dựng thành một xưởng cơ khí đủ mạnh trước mắt đáp ứng nhu cầu về sửa chữa Container và tiến tới đóng mới Container. 2.4. Phương hướng đầu tư 2.4.1. Phương tiện vận tải chuyên dùng. Như đã phân tích trong phần tổ chức sản xuất kinh doanh, kinh doanh vận tải hiệu quả kinh tế chưa cao, song đây là một khâu không thể thiếu được trong dây chuyền sản xuất của Công ty nên trong 3 năm tới Công ty vẫn đảm bảo cơ số phương tiện vận chuyển tối thiểu 20 đầu xe chủ yếu phục vụ vận tải xuất nhập tàu. Trong số 20 đầu phương tiện hiện nay có 03 đầu kéo hiệu KRAZ do Nga sản xuất, loại đầu kéo này có công suất lớn, khả năng trở hàng nặng tốt song lượng tiêu hao nhiên liệu lớn (tăng từ 20%-30% so với các loại đầu kéo khác) mặt khác trong điều kiện cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay nên cơ quan chuyên ngành chỉ cho phép các loại phương tiện vận chuyển với tổng cộng cả hàng và trọng lượng xe không quá 27 tấn, nên việc sử dụng 03 xe nói trên là không có hiệu quả. Công ty cổ phần sẽ bán 03 đầu kéo trên và thay thế bằng 03 đầu kéo khác. Với mức tiêu hao nhiên liệu bình quân như hiện nay từ 2000-2400lít/đầu phương tiện/tháng thì việc thay thế loại phương tiện hợp lý cũng cho phép công ty tiết kiệm chi phí nhiên liệu khoảng 2.500.000đ/tháng/đầu xe đối với 03 đầu phương tiện trên. Số vốn đầu tư khoảng 600 triệu lấy từ nguồn bán 03 đầu xe cũ. 2.4.2 Thiết bị nâng. Hiện tại Công ty có 02 xe nâng loại 41 tấn và 02 xe nâng nhỏ loại 3 tấn để đóng rút hàng trong Container việc sử dụng xe nâng hàng 41 tấn để nâng hạ vỏ Container trọng lượng tối đa 4,5 tấn là không hiệu quả hiện Công ty phải thuê xe nâng vỏ của đơn vị khác. Để chủ động sản xuất kinh doanh Công ty cổ phần trong thời gian tới phải đầu tư tối thiểu 01 xe nâng vỏ 7-9 tấn, vốn đầu tư khoảng 1 tỷ. Do đặc điểm của hàng hoá XNK và một số quy định của các ngành chức năng nên nhu cầu về đóng rút hàng tại kho bãi của Công ty ngày càng tăng. Mặt khác theo cơ cấu tổ chức lao động mới Công ty sẽ giảm số lao động bốc xếp thủ công để bổ sung sang các bộ phận khác, nên để đáp ứng nhu cầu đóng rút hàng Công ty phải đầu tư thêm 02 xe nâng loại từ 3-5 tấn. Số vốn đầu tư khoảng 500 triệu đồng. 2.4.3 Xây dựng bãi chứa Container mới và nâng cấp bãi cũ. Diện tích bãi chứa Container hiện tại của Công ty là 30.000m2, theo điều kiện chất xếp là 750 TEU/10.0002 thì với diện tích hiện có chỉ có thể xếp tối đa 2.250 TEU. Hiện nay lượng Container tại bãi bình quân là 2.400 TEU, có thời điểm cao lên đến 2.500 TEU. Như vậy với diện tích bãi sẵn có là thiếu, mặt khác nhu cầu đóng rút hàng tại bãi ngày càng tăng nên ngoài khu vực chất xếp Cotainer, Công ty phải dành một phần diện tích phù hợp để đóng rút hàng. Việc đầu tư thêm 5.000 m2 bãi là cần thiết đáp ứng cho yêu cầu kinh doanh. Số vốn đầu tư là 500-700 triệu đồng. Ngoài ra trong số 30.000m2 bãi cũ có 10.000m2 đầu tư từ năm 1993 hiện đã xuống cấp cần phải sửa chữa nâng cấp để bảo đảm an toàn trong chất xếp và khai thác xe nâng lớn có tự trọng 60 tấn thao tác làm hàng. Với số vốn là 300 triệu đồng. 2.4.4 Đầu tư nâng cấp xưởng sửa chữa. Trước đây khi thành lập xưởng với mục đích chính là sửa chữa các phương tiện, thiết bị của Công ty. Hiện nay một mặt số đầu phương tiện, thiết bị của Công ty tăng nhiều so với trước, mặt khác như phân tích ở trên, sản xuất kinh doanh sửa chữa đóng mới Container tương lai sẽ là thị trường hấp dẫn mang lại công ăn việc làm và doanh thu cho Công ty. Vì vậy đầu tư nâng cấp xưởng sửa chữa hiện tại của Công ty cả về nhân lực, nhà xưởng đến máy móc thiết bị đủ đáp ứng nhu cầu hiện tại và trong tuơng lai gần về sửa chữa và đóng mới Container là hướng đầu tư đúng mà Công ty cổ phần cần tiến hành ngay. Như vậy dự kiến trong năm 2001 Công ty cổ phần sẽ đầu tư mới và nâng cấp tài sản cố định với tổng vốn gần 3.000 triệu đồng. 2.5. Dự kiến doanh thu và kết quả kinh doanh của công ty trong 3 năm từ 2002-2004. 2.5.1 Dự kiến doanh thu Bảng 7. Dự kiến doanh thu Đơn vị: Triệu đồng. Hoạt động kinh doanh 2002 2003 2004 Vận tải bốc xếp Bốc xếp Kho bãi Khai thác Container Đại lý tàu biển Khai thác hàng không Sửa chữa Container Kinh doanh khai thác 7.500 8.000 4.500 3.000 300 0 300 400 8.000 8.800 5.000 3.500 300 200 600 600 8.200 10.000 5.600 4.050 300 500 900 700 Tổng doanh thu 24.000 27.000 30.250 Nguồn: Báo cáo về phương hướng kinh doanh của công ty 2.5.2 Dự kiến kết quả sản xuất kinh doanh. Bảng 8. Dự kiến kết quả sản xuất kinh doanh TT Chỉ tiêu ĐVT 2002 2003 2004 1 Vốn điều lệ Tr.đồng 23.000 23.000 23.000 Trong đó Cổ phần Nhà nước - Các cổ đông khác - 2 Doanh thu - 24.000 27.000 30.250 3 Tổng chi phí - 4 Lợi nhuận trước thuế - 3.350 3.800 4.200 5 Lợi nhuận sau thuế - 2.850 3.250 3.000 6 Các khoản nộp ngân sách - 1.990 2.250 3.130 Trong đó Thuế TNDN - 500 550 1.200 Thuế VAT - 1.490 1.700 1.930 7 Tỷ suất LN/DT % 11,88 12,04 9,92 8 Trích quỹ Tr.đồng 313,5 358,6 330 - Quỹ dự trữ(5%) - 142,5 163 150 - Quỹ PL,KT(3%) - 85,5 97,8 90 - Quỹ PT,ĐTư(3%) - 85,5 97,8 90 9 - Quỹ chia cổ tức - 2.536,5 2.901,4 2.670 10 Tỷ suất lợi tức cổ phần % 11,03 12,61 11,61 11 Lao động người 226 226 226 12 Thu nhập bình quân Tr.đồng 21,6 22,2 22,8 Nguồn: Báo cáo về phương hướng kinh doanh của công ty 2.6. Các lợi ích người lao động và xã hội 2.6.1 Thu nhập người lao động. - Được mua cổ phần với giá ưu đãi theo số năm công tác của từng người. - Được đảm bảo thu nhập ổn định từng tháng. So với mức thu nhập trước khi cổ phần hoá hàng năm sẽ tăng 2-3%. - Được hưởng lợi tức theo số cổ phần mình sở hữu và kết quả SXKD của Công ty. Qua tính toán cho thấy lãi cổ tức cao hơn (gấp đối) lãi tiền gửi ngân hàng. 2.6.2 Các lợi ích khác của người lao động. Khi thành cổ đông của Công ty, người lao động thực sự trở thành chủ nhân của Công ty, có quyền tham gia ý kiến, quyết định phương hướng hoạt động SXKD của Công ty, phục vụ cho các lợi ích chính đáng cho người lao động, Nhà nước, cổ đông và đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước. Người lao động vẫn được hưởng các chế độ về BHXH, BHYT theo các quy định của Nhà nước. Người lao động vẫn được tham gia hoạt động các tổ chức chính trị, xã hội. 2.6.3 Lợi ích kinh tế xã hội a. Ngân sách nhà nước Công ty đóng góp cho Ngân sách Nhà nước một khoản đáng kể từ các nguồn thuế cao hơn trước khi cổ phần hoá và phần chia lãi cổ tức hàng năm cao hơn tiền gửi ngân hàng. b. Các lợi ích kinh tế xã hội khác Sau khi tiến hành cổ phần hoá Công ty Container phía Bắc, trừ phần để lại góp vốn và chi phí cổ phần hóa, Nhà nước còn thu lại được một khoản để đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết hơn hoặc để giải quyết các vấn đề xã hội khác. Chương III Bài học kinh nghiệm rút ra qua quá trình cổ phần hoá của công ty Viconship. I. Hoạt động của công ty viconship sau khi tiến hành cổ phần hoá. CPH là một chủ trương đúng đắn của nhà nước nhằm đổi mới các DNNN. Cổ phần hoá đã đem lại những kết quả tốt đẹp cho các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá nói chung. Riêng đối với công ty Viconship, mặc dù tiến hành cổ phần hoá chưa được lâu nhưng cũng đã đạt được một số kết quả khả quan. Điều đó được thể hiện trên một số mặt sau: 1.Về mặt doanh thu. 1.1. Kết quả hoạt động kinh doanh chung (Với giả thiết doanh số cả năm gấp 2 lần doanh số 6 tháng) Bảng 9: Kết quả hoạt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan (2).doc