Đề tài Tình hình áp dụng rào cản kỹ thuật đối với thuỷ sản nhập vào EU và giải pháp của doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tình hình áp dụng rào cản kỹ thuật đối với thuỷ sản nhập vào EU và giải pháp của doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 6 1.1. Khái niệm về rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế 6 1.2. Phân loại : 6 1.2.1. Hàng rào thuế quan: 6 1.2.2. Các hàng rào phi thuế quan 7 1.3. Vai trò của rào cản 10 1.3.1. Các biện pháp bảo vệ sự an toàn và sức khỏe của con người: 10 1.3.2. Các biện pháp bảo vệ sự sống, sức khỏe của động vật và thực vật: 10 1.3.3. Các biện pháp bảo vệ môi trường: 10 1.3.4. Các biện pháp khác: 11 1.4. Sự cần thiết của việc nghiên cứu rào cản thương mại 11 CHƯƠNG 2: Thực trạng áp dụng rào cản kỹ thuật đối với mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào EU 12 2.1. Tổng quan tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường EU 12 2.1 Tình hình việc áp dụng các rào cản kỹ thuật đối với mặt hang thuỷ sản nhập khẩu vào EU 16 2.1.1 Yêu cầu cao về vệ sinh an toàn 17 2.1.2 Bảo vệ môi trường, nguồn lợi tự nhiên 18 2.1.3 Tập quán ứng xử 19 2.1.4 Quản lý thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi 22 2.1.5 Quy...

doc42 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình áp dụng rào cản kỹ thuật đối với thuỷ sản nhập vào EU và giải pháp của doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 6 1.1. Khái niệm về rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế 6 1.2. Phân loại : 6 1.2.1. Hàng rào thuế quan: 6 1.2.2. Các hàng rào phi thuế quan 7 1.3. Vai trò của rào cản 10 1.3.1. Các biện pháp bảo vệ sự an toàn và sức khỏe của con người: 10 1.3.2. Các biện pháp bảo vệ sự sống, sức khỏe của động vật và thực vật: 10 1.3.3. Các biện pháp bảo vệ môi trường: 10 1.3.4. Các biện pháp khác: 11 1.4. Sự cần thiết của việc nghiên cứu rào cản thương mại 11 CHƯƠNG 2: Thực trạng áp dụng rào cản kỹ thuật đối với mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào EU 12 2.1. Tổng quan tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường EU 12 2.1 Tình hình việc áp dụng các rào cản kỹ thuật đối với mặt hang thuỷ sản nhập khẩu vào EU 16 2.1.1 Yêu cầu cao về vệ sinh an toàn 17 2.1.2 Bảo vệ môi trường, nguồn lợi tự nhiên 18 2.1.3 Tập quán ứng xử 19 2.1.4 Quản lý thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi 22 2.1.5 Quy định dán nhãn 23 2.1.6 Ðộc tố và chất gây ô nhiễm trong các sản phẩm thuỷ sản 23 2.2 Đánh giá tình hình đối phó của các doanh nghiệp 24 2.2.1 Nâng cao chất lượng, tăng độ an toàn 26 2.2.2 An toàn từ nông trại đến bàn ăn 27 CHƯƠNG 3: Những định hướng và giải pháp vượt rào cản kỹ thuật của Eu đối với thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam 29 3.1. Cơ hội dành cho ngành thuỷ sản Việt Nam 29 3.2. Định hướng từ phía doanh nghiệp 33 3.3. Những giải pháp cho xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 34 3.3.1. Giải pháp từ phía chính phủ 34 3.3.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 35 3.4. Định hướng từ phía nhà nước 38 3.1.1. Về quan hệ đa phương 38 3.1.2. Quan hệ hợp tác - hỗ trợ trong lĩnh vực thuỷ sản 40 KẾT LUẬN 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO 42 LỜI MỞ ĐẦU 1 Tính tất yếu của đề tài: Thị trường EU được coi là một thi trường tiềm năng với sức tiêu thụ khá lớn đối với các mặt hàng.Mặt hàng thuỷ sản cũng không nằm ngoại lệ.Việt Nam đang cố gắng xuất khẩu thuỷ sản vào Châu Âu trong những năm gần đây.Tuy nhiên mặt hàng này hiện đang vấp phải những rào cản rất lớn về kỹ thuật.Rào cản kỹ thuật hiện nay đang là một vấn đề toàn cầu,không chỉ riêng các nước xuất khẩu mà cũng là vấn đề của các nước nhập khẩu.Mối quan hệ giữa chính sách của nước nhập khẩu và quyền lợi của các nhà sản xuất trong nước có thể chưa đựng những yếu tố phức tạp và mâu thuẫn. Tiền trình tự do hoá thương mại đang được tăng tốc bởi các hàng rào phi quan thuế như quota sẽ được bãi bỏ và những hàng rào thuế quan cũng sẽ bị cắt giảm. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các nhà xuất khẩu có thể dễ dàng tiếp cận vào thị trường EU. Việc tiếp cận thị trường EU trở nên khó khăn hơn nhiều do việc tăng những quy định và các yêu cầu thị trường trong các khía cạnh về an toàn, sức khỏe, chất lượng, các vấn đề môi trường và xã hội. Trước đây, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhìn chung nhằm bảo vệ các nhà sản xuất của Châu Âu. Nhưng ngày nay, việc bảo vệ môi trường và bảo vệ cho người tiêu dùng ngày càng tăng đã dần thay thế cho việc bảo vệ nhà sản xuất và lao động. <!-- /* Style Definitions */ p.MsoNormal, li.MsoNormal, div.MsoNormal {mso-style-parent:""; margin:0cm; margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:14.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";} @page Section1 {size:612.0pt 792.0pt; margin:72.0pt 90.0pt 72.0pt 90.0pt; mso-header-margin:36.0pt; mso-footer-margin:36.0pt; mso-paper-source:0;} div.Section1 {page:Section1;} --> 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Việc sử dụng các hàng rào kỹ thuật được điều chỉnh thông qua các hàng rào kỹ thuật trong hiệp định thương mại của WTO. Những quy định, luật lệ này không chỉ do các chính phủ áp dụng nhằm xác định các tiêu chuẩn trong an toàn, sức khỏe và môi trường, mà còn bởi chính người tiêu dùng đang ngày càng có những yêu cầu khắt khe hơn về chất lượng sản phẩm. Điều này dẫn tới các quy định khó khăn hơn xuất phát từ phía thị trường. Chính vì vậy mà Châu Âu đã đưa ra những tiêu chuẩn kĩ thuật khó khăn nhằm áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu vào EU đặc biệt là hàng thuỷ sản.Thực tế,việc xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản sang Châu Âu đã và đang gặp rất nhiều khó khăn,chủ yếu là vấp phải hàng rào phi thuế quan mà EU đã đặt ra.Các nghiên cứu cho thấy,lợi nhuận thu được khi xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU chỉ là 1-2%,còn rủi ro thì lên đến 100%.Nguyên nhân chủ yếu là chúng ta đã vấp phải các rào cản kỹ thuật từ thị trường EU. Bài toán đặt ra là làm sao chúng ta có thể nắm bắt và vượt qua các rào cản đó một cách khéo léo và phù hợp với quy định chung.Mặt khác phải phù hợp với năng lực sản xuất của chúng ta.Chính vì thế,nhiệm vụ phân tích và tìm hiểu về những rào cản kỹ thuật đối với mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường EU là mục tiêu chính của đề tài này.Ngoài ra cũng đưa ra những giải pháp giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đối mặt và vượt qua những rào cản đó để có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường EU đầy tiềm năng này.Hơn thế nữa,mục đích của đề tài cũng tìm ra các giải pháp cho nhà hoạch định chính sách Việt Nam trong việc xây dựng và áp dụng các rào cản kỹ thuật với các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam nhằm bảo vệ lợi ích nhà sản xuất trong nước đồng thời bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Gần đây mặt hàng thuỷ sản nhập vào EU đang bị ách tắc do không đạt được các yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm cùng các quy định chặt chẽ khác của EU về môi trường và các điều kiện khác.Do đó bài viết cũng đề ra những giải pháp thiết thực nhằm chống lại các rào cản thường trực và đối phó với những vụ kiện thương mại quốc tế liên quan đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU.Việc đó cũng bao gồm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam có đủ tự tin để giao thương với các đối tác trên thế giới. Bài viết xoay quanh những rào cản kỹ thuật mà Châu Âu hiện nay đang áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu thuỷ sản đặc biệt là các mặt hàng của Việt Nam từ năm 2004 đến 2008.Qua đó giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang EU có thể vượt qua các rào cản đó để thâm nhập vào một thị trường tiềm năng này. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong đề tài sẽ tập trung nghiên cứu về tình hình áp dụng rào cản kỹ thuật đối với thuỷ sản nhập vào EU và giải pháp của doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian gần đây và xu hướng phát triển của ngành trong thời gian sắp tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp tổng hợp và phân tích thông tin thu được từ giáo trình,sách báo và tạp chí.Ngoài ra còn tham khảo thông tin qua các website.Bên cạnh đó còn có sủ dụng những tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau từ cả trong và ngoài nước, các niên giám và số liệu thống kê của các bộ ngành có liên quan. 5. Kết cấu Kết cấu của đề án bao gồm những nội dung chính sau: Bao gồm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế. Chương 2: Thực trạng áp dụng rào cản kỹ thuật đối với mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào EU Chương 3: Những định hướng và giải pháp vượt rào cản kỹ thuật của mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI NHẬP KHẨU THUỶ SẢN VÀO EU - GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI THUỶ SẢN VIỆT NAM CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm về rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế Trong thực tế, các nhà khoa học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rào cản thương mại. Song, tựu trung, rào cản kỹ thuật trong thương mại là những quy định ngoài thuế quan, hay một chính sách phân biệt nào đó mà một nước hay một vùng lãnh thổ áp dụng, với mục đích hạn chế hoặc ngăn cản thương mại quốc tế. Nó bao gồm tất cả các biện pháp được thực hiện ở biên giới, nhằm hạn chế việc hàng hóa nước khác thâm nhập vào thị trường và các thủ tục này tạo thuận lợi cho hàng hóa trong nước như một hình thức bảo hộ. 1.2. Phân loại : Rào cản thương mại bao gồm hai nhóm rào cản lớn đó là:rào cản thuế quan và rào cản phi thuế quan 1.2.1. Hàng rào thuế quan: Thuế quan được áp dụng trước hết là nhằm mục đích tăng nguồn thu ngân sách cho chính phủ, sau đó là vì những mục đích khác như ngăn chặn hàng nhập khẩu và bảo vệ hàng trong nước, trả đũa một quốc gia khác, bảo vệ một ngành sản xuất quan trọng hay còn non trẻ của nước mình. Thông qua các vòng đàm phán, WTO luôn hướng mục tiêu cắt giảm thuế quan. Các nước thành viên không được phép tăng thuế lên trên mức trần đã cam kết trong biểu. Qua tám vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT trước đây, đặc biệt là sau vòng Uruguay, thuế công nghiệp bình quân của các nước phát triển được giảm xuống 3,8%, các nước này cũng đồng ý cắt giảm 36% mức thuế công nghiệp. Riêng các nước đang phát triển đồng ý cắt giảm 24% thuế nông nghiệp. 1.2.2. Các hàng rào phi thuế quan Các hàng rào này bao gồm: hạn ngạch, cấp phép, định giá hải quan, quy định về xuất xứ, kiểm tra hàng hoá trước khi xuống tầu, các quy định về kỹ thuật, vệ sinh, nhãn mác, trợ cấp, chống bán phá giá, sở hữu trí tuệ... Trong đó, các biện pháp đang được sử dụng rộng rãi là: 1.2.2.1. Hạn chế định lượng (quota) Hạn chế định lượng đang được coi là có tác dụng bảo hộ mạnh hơn các biện pháp thuế quan và dễ bóp méo thương mại. Cho nên, điều XI của Hiệp định GATT không cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, Hiệp định GATT cũng đưa ra một số ngoại lệ, cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng theo những điều kiện nghiêm ngặt. Ví dụ như để đối phó với tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, bảo vệ cán cân thanh toán, bảo vệ sức khoẻ con người, động thực vật, bảo vệ an ninh quốc gia... Cấp phép nhập khẩu phải tuân thủ Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu của WTO, tức là đáp ứng các tiêu chí như đơn giản, minh bạch và dễ dự đoán. Trình tự, thủ tục xin cấp phép cũng như lý do áp dụng giấy phép phải được thông báo rõ ràng, nhất là đối với các loại giấy phép không tự động. 1.2.2.2. Định giá hải quan Định giá hải quan để tính thuế cũng có thể trở thành một rào cản lớn với hoạt động thương mại. Ví dụ như quy định về áp giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu. Chính vì vậy, Hiệp định về định giá hải quan của WTO đã quy định các nguyên tắc cụ thể trong việc xác định giá trị tính thuế của hàng hoá, bắt buộc các thành viên phải thực thi đúng và minh bạch. 1.2.2.3. Về trợ cấp Đây là một công cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở hầu hết các nước nhằm đạt các mục tiêu của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị... Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trợ cấp, nhưng, theo WTO, trợ cấp là một khoản đóng góp về tài chính do Chính phủ hoặc một tổ chức Nhà nước cung cấp, hoặc là một khoản hỗ trợ thu nhập, hoặc hỗ trợ giá và mang lại lợi ích cho đối tượng nhận trợ cấp. Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO được chia ra làm ba cấp độ rõ rệt là đèn đỏ, đèn vàng và đèn xanh như trong giao thông. Với “đèn đỏ” cấm hoàn toàn - bao gồm các khoản trợ cấp căn cứ vào thành tích xuất khẩu hay khuyến khích sử dụng hàng trong nước; “đèn vàng” tức là các loại trợ cấp được phép sử dụng, song cũng có thể bị kiện hoặc áp dụng biện pháp đối kháng; cuối cùng là cấp “đèn xanh” là những trợ cấp chung được thả nổi hoàn toàn, bởi ít bóp méo hoạt động thương mại như phổ biến và hỗ trợ nghiên cứu phát triển, hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ cải tiến trang thiết bị đang sử dụng để đáp ứng các quy định mới về môi trường. 1.2.2.4. Rào cản về chống bán phá giá Rào cản về chống bán phá giá là hành vi bán hàng hoá tại thị trường nước nhập khẩu thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu nhằm chiếm lĩnh thị trường, hay cạnh tranh giành thị phần. Việc làm này bị coi là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh vì không dựa trên những tiêu chí thương mại chung, gây ảnh hưởng tới ngành công nghiệp nước nhập khẩu. Việc áp dụng thuế chống bán phá giá là để làm tăng giá hàng hoá nhập khẩu, khắc phục tác động xấu của hành vi bán phá giá. Hiệp định về chống bán phá giá của WTO đã quy định cụ thể về các tiêu chí để xác định hành vi phá giá và biện pháp khắc phục. Trong thực tế, việc bán phá giá, không chỉ xảy ra ở các nước đang phát triển mà diễn ra ngay cả ở nước công nghiệp phát triển ở EU, Canada, Hoa Kỳ... Theo số liệu của Ban thư ký WTO, từ năm 1995 đến tháng 6 năm 2005, các nước thành viên WTO đã tiến hành điều tra 2.741 vụ kiện bán phá giá. Nhiều nhất là Ấn Độ 412 vụ, kế đến là Mỹ 358 vụ, EU 318 vụ... Rốt cuộc, chỉ có 63% số vụ bị áp thuế bán phá giá, cao nhất là Trung Quốc, tiếp đến Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan... 1.2.2.5. Các quy định về kỹ thuật, vệ sinh, nhãn mác... Cùng với những nỗ lực giảm thuế và điều chỉnh các biện pháp phi thuế truyền thống trong WTO, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản thương mại mang tính kỹ thuật như các quy định về vệ sinh, kỹ thuật, môi trường, nhãn mác sản phẩm. Đây là phạm vi chứa đựng nhiều quy định khá phức tạp và hết sức chặt chẽ. Hiện nay, trong WTO, Hiệp định SPS điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động, thực vật và Hiệp định TBT điều chỉnh việc áp dụng các quy định liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm, dán nhãn, chứng nhận và công nhận hợp chuẩn. Mục tiêu của hai hiệp định này là cho phép các nước thành viên một mặt duy trì các biện pháp vệ sinh và kỹ thuật vì các lý do chính đáng, mặt khác hạn chế khả năng lạm dụng các biện pháp này để bóp méo hoạt động thương mại toàn cầu. 1.2.2.6. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại Ví dụ như các quy định yêu cầu các nhà đầu tư phải sử dụng nguyên liệu trong nước, quy định tỉ lệ xuất khẩu sản phẩm hay hạn chế nguồn ngoại tệ dùng để thanh toán hàng nhập khẩu của công ty... Các biện pháp này thường được các nước đang phát triển sử dụng rộng rãi để hạn chế nhập khẩu và phát triển ngành công nghiệp trong nước. Để khắc phục tình trạng này, Hiệp định TRIMS đã đưa ra một danh mục các biện pháp đầu tư bị coi là không phù hợp với các quy định về tự do hoá thương mại của WTO và yêu cầu các nước thành viên không duy trì những biện pháp này. 1.2.2.7. Rào cản về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Việc thực thi không đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ cũng được coi là một rào cản lớn với hoạt động thương mại quốc tế, vì hàng nhái, hàng giả, hàng vi phạm bản quyền với giá rẻ sẽ hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của sản phẩm đích thực. Vấn đề này thực sự trở nên nghiêm trọng với những quốc gia mà việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ không nghiêm ngặt, ví dụ như Trung Quốc. 1.3. Vai trò của rào cản Các rào cản kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế nhập khẩu những hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào, bên cạnh đó nó cũng bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và bảo vệ môi trường, xã hội. Do đó, rào cản kỹ thuật được chia làm nhiều loại: 1.3.1. Các biện pháp bảo vệ sự an toàn và sức khỏe của con người: Những tiêu chuẩn được đặt ra để bảo vệ an toàn và sức khoẻ của cá nhân như các tiêu chuẩn về thiết bị điện, hoặc các quy định về sử dụng các vật liệu chậm cháy trong sản xuất đồ gỗ gia dụng (như ghế sô pha hoặc ghế tựa); Các quy định về chất lượng sản phẩm thực phẩm, đồ uống và thuốc lá (ví dụ các yêu cầu không sử dụng các nguyên liệu gây nguy hiểm để sản xuất sản phẩm, ghi nhãn chính xác về hàm lượng, trọng lượng và con số đo lường chính xác v.v...). Trong trường hợp sản phẩm thuốc lá, còn phải in bên cạnh bao “hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ”. 1.3.2. Các biện pháp bảo vệ sự sống, sức khỏe của động vật và thực vật: Mỗi quốc gia có thể nghiên cứu và đưa vào áp dụng ngay các biện pháp để bảo vệ các loài sinh vật nguy hiểm, hoặc để bảo vệ các loài cây quý hiếm. Do đó, ở một số nước, các sản phẩm từ một số loài thủy sản nhất định được bảo vệ (ví dụ cá voi, một số loài cá). Đặc biệt, ở một số nước phát triển, việc buôn bán các sản phẩm từ một số động vật cũng có những quy định cụ thể, như ngà voi hoặc dược phẩm lấy từ động vật cũng bị cấm. 1.3.3. Các biện pháp bảo vệ môi trường: Bao gồm các yêu cầu về khí thải từ xe ôtô, các biện pháp an toàn về vận chuyển các nguyên liệu gây nguy hiểm và việc tạo ra các nguyên liệu gây hại cho môi trường như chlorofluorocarbon (CFC’s). Các nước công nghiệp tiên tiến cũng ngày càng quan tâm đến các vấn đề về môi trường, liên quan đến phế thải và yêu cầu cần tái chế, điều này dẫn đến việc tăng chi phí của các nhà sản xuất 1.3.4. Các biện pháp khác: Các qui định để bảo vệ công chúng, người tiêu dùng hoặc để cung cấp dữ liệu phục vụ cho việc kiểm soát chất lượng, như các thông số ghi trên nhãn mác sản phẩm, các quy định về chất lượng của sản phẩm khi đưa ra thị trường. 1.4. Sự cần thiết của việc nghiên cứu rào cản thương mại Những rào cản phi thuế quan này đã ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu của Việt Nam vào EU trong những năm trở lại đây.Chính vì rào cản này mà sản lượng xuất vào EU rất hạn chế,các doanh nghiệp thì nản lòng trước hệ thống rào cản phức tạp lằng nhằng,dẫn đến phải từ bỏ một thị trường tiềm năng lớn này. Chúng ta cần phải nghiên cứu và nắm rõ những rào cản mà các nước EU đang áp dụng,đặc biệt là mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam.Qua đó chúng ta có thể cải thiện chất lượng hàng hoá,nâng cao uy tín doanh nghiệp,đồng thời có cơ sở để đối phó với những vụ kiện thương mại đối với sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.Mặt khác cải thiện mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU.Thời điểm này là thời gian then chốt,quan trọng trong quá trình mở cửa và hội nhập,hơn lúc nào hết,chính lúc này chúng ta cần có nhận thức sâu sắc,sự chuẩn bị kỹ lưỡng và bài bản để có thể đủ sức đương đầu với những thách thức từ những rào cản của các thị trường lớn và tiềm năng trên thế giới. Mặt khác việc nghiên cứu về những rào cản đang được áp dụng tại EU nói riêng và trên thế giới nói chung cũng giúp chúng ta nhận thức sâu sắc về những hành vi và thói quen tiêu dùng của những thị trường lớn trên thế giới để có thể theo kịp và đáp ứng nhu cầu về chất lượng của hàng hoá cung cấp cho các thị trường đó. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG RÀO CẢN THƯƠNG MẠI CỦA EU ĐỐI VỚI MẶT HÀNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM 2.1. Tổng quan tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường EU Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra những cơ hội mới cho nền kinh tế của Việt Nam nói chung và nhiều triển vọng phát triển và mở rộng thị trường cho các sản phẩm thuỷ sản Việt Nam nói riêng. Sự ưu đãi về thuế quan, giảm hàng rào phi thuế quan, xuất xứ hàng hoá và những lợi ích về đối xử công bằng, bình đẳng hơn khi xảy ra tranh chấp thương mại sẽ tạo điều kiện cho các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam có sức cạnh tranh cao hơn để thâm nhập thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường EU, vốn được coi là một trong những thị trường khắt khe về các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng cũng là thị trường có sức tiêu thụ thuỷ sản lớn với sự tăng trưởng cao về kinh tế. Bảng 2.1.1: Xuất khẩu thuỷ sản của VN sang EU, năm 2000-2006 Năm Sản lượng (Tấn) Kim ngạch xuất khẩu (1000 USD) 2000 20.291 71.782 2001 26.659 90.745 2002 28.613 73.72 2003 38.187 116.739 2004 73.495 231.527 2005 130.277 433.085 11tháng đầu năm 2006 196.345 649.398 Nguồn: FICEN Về thị trường xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất trong chủ yếu là các thị trường thuộc khu vực EU, thị trường Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Nga, Ucraina… Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong các năm sau các thị trường đều tăng so với năm trước. Cụ thể, xuất khẩu thuỷ sản sang khu vực thị trường EU đạt 119,5 triệu USD, tăng 13,17% so với tháng 7/2008 và tăng 41,48% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng sang thị trường này đạt 729,9 triệu USD, tăng mạnh 24,4% so với 8 tháng đầu năm ngoái. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tới hầu hết các thị trường đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái, cụ thể: xuất khẩu tới thị trường Đức tăng 31,91%, tới Italia tăng 41,4%, Tây Ban Nha tăng 25,34%, Hà Lan tăng 6,14%, Bỉ tăng 22,59%, Pháp tăng 47,6%, Anh tăng 42,16%, Bồ Đào Nha tăng 78,3%; Đan Mạch tăng 18,58%, Litva tăng 41,58%, Thuỵ Điển tăng 20,68%, Hy Lạp tăng 19,79%… Duy chỉ có xuất khẩu tới một số ít thị trường giảm như: Ba Lan (giảm 28,58%); Áo (giảm 17,91%), Slovenhia (giảm 51,28%), Extônia (giảm 24,89%), Ailen (giảm 23,25%). Hiện nay tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang EU đã được cải thiện rất nhiều so với trước đây.Trước đây các doanh nghiệp của Việt Nam rất e ngại một thị trường khó tính và khắt khe như EU.Nguyên nhân của sự e ngại đó xuất phát từ những rào cản mà thị trường và người tiêu dung ở khu vực này đặt ra đối với các mặt hang thuỷ sản nói riêng và các mặt hang nhập khẩu vào EU nói chung.Thời kì trươc đây,các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam xuất sang EU thường không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như những điều kiện khác được đặt ra.Do đó các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản thường tránh thị trường khó tính này và tìm kiếm thị trường khác dễ nhằn hơn. Tuy nhiên những năm gần đây,các doanh nghiệp bắt đầu nhận ra sức hấp dẫn của thị trường đầy tiềm năng này và bắt đầu tập trung xuất khẩu thuỷ sản vào EU. Bảng 2.1.2 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU theo mặt hàng 2000-2005. (Đơn vị : triệu USD) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Cá 6.27 11.04 19.32 31.29 103.7 201.5 Tôm 38.73 43.58 15.73 35.25 58.86 116.4 Mực 8.213 6.025 9.359 12.49 15.4 24.47 Bạch Tuộc 3.955 3.848 4.379 4.489 8.223 8.553 ( Nguồn : www.neu.edu.vn) Liên minh châu Âu là khu vực thị trường nhập khẩu nhiều thủy sản và nông sản nhất thế giới. Số liệu của EC cho biết, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản và thủy sản của EU năm 2005 là 33 tỷ USD nhưng nhập khẩu hai loại ngành hàng này đến 51,6 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu nông sản và thủy sản đạt 8%/năm, riêng cá tăng trưởng trung bình hàng năm từ 2000-2005 là 4,4% và thủy sản chế biến là 4,8%. Tính riêng 2005, EU nhập khoảng 1,3 tỷ Euro thủy sản. Xuất khẩu thủy sản vào EU là cơ hội của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Ông Gifs Berends- Điều phối viên thương mại phụ trách khu vực Địa Trung Hải, Nam á và Đông Nam á, cho biết: luật nhập khẩu được hài hòa và thống nhất là cơ hội cho các nước xuất khẩu vì theo nguyên tắc chỉ cần đáp ứng tiêu chuẩn chung của EC hàng thủy sản có thể vào bất kỳ thị trường thành viên nào trong EU, thay vì phải điều chỉnh theo từng thị trường như trước đây. Các nước xuất khẩu chỉ tiếp cận và thương lượng với một nhà xuất khẩu duy nhất chính là EC nhưng lại được tiêu thụ sản phẩm ở EU đã được mở rộng. Thủy sản đang trở thành món ăn lựa chọn ưu tiên của người châu Âu. Khu vực Đông Nam Á là nhà cung cấp thủy sản lớn của EU với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ASEAN là 38%/năm. Chính vì vậy, EC rất quan tâm đến khu vực xuất khẩu này và cả các nước đang phát triển khác có tiềm năng bán cá và thủy sản chế biến của EU. Một loạt các biện pháp đang được EC xúc tiến để đưa con cá, con tôm của nước nghèo vào những nước giàu trong EU. Hỗ trợ kỹ thuật là một trong những biện pháp tiêu tốn khá nhiều tiền của EC trong hơn 5 năm qua. EC cho biết có 624 dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các nước xuất khẩu với trị giá khoảng 4,3 tỷ Euro đã và đang triển khai ở ASEAN và các nước đang phát triển khác chủ yếu nhắm vào mục tiêu đẩy mạnh thương mại như hỗ trợ về tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, đơn giản hóa thủ tục hải quan. Các quỹ tài chính do EC đề xướng cũng góp phần vào công tác hỗ trợ kỹ thuật cho các nước xuất khẩu. Bên cạnh hỗ trợ kỹ thuật, EC cũng có chương trình đào tạo lao động và cán bộ kỹ thuật cho các nước đang phát triển xuất khẩu thủy sản vào EU.Trong các dự án đó thì Việt Nam cũng có một vị trí quan trọng. Bảng 2.1.3 Nguồn: Bộ thuỷ sản Biểu đồ 2.1.4: Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU Nguồn:Bộ thuỷ sản 2.1 Thực trạng việc áp dụng các rào cản kỹ thuật đối với mặt hang thuỷ sản nhập khẩu vào EU EU là một khối liên kết kinh tế chặt chẽ và sâu sắc nhất thế giới hiện nay và cũng là một khu vực phát triển kinh tế ổn định và có đồng tiền riêng khá vững chắc. Mặt khác, thị trường EU có nhu cầu lớn, đa dạng và phong phú về sản phẩm. Đây là thị trường liên kết chặt chẽ thành một khối mậu dịch thống nhất mạnh hạng nhất thế giới, có sức mua lớn, ổn định và cũng là một thị trường khó tính nhất về tiêu dùng thủy sản. Thị trường này, với sở thích tiêu dùng sản phẩm tôm, cá, nghêu,… kích thước nhỏ, chất lượng vừa phải có thể bổ sung cho thị trường Nhật và Mỹ về cơ cấu hàng hoá, tạo thế cân bằng cho hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Do vậy, tăng cường xuất khẩu sang EU chính là một trong những giải pháp giúp các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đảm bảo ổn định sản xuất. Song việc mở rộng thị phần thủy sản Việt Nam ở đây cũng không dễ dàng. 2.1.1 Yêu cầu cao về vệ sinh an toàn Qua số liệu thống kê, tuy kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU tăng trưởng cao trong những năm vừa qua, nhưng hàng thủy sản của ta chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường này, còn cách xa tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam. Nhu cầu nhập khẩu thủy sản hàng năm của EU rất lớn, nhưng yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh thực phẩm đối với mặt hàng này lại rất cao. Một vài lô hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu vào EU vẫn  chưa an toàn (nhiễm khuẩn, nhiễm bẩn, bị phát hiện có dư lượng hoá chất, kháng sinh,...) và chất lượng chưa được ổn định. Đã xảy ra một số trường hợp doanh nghiệp Việt Nam làm giả chất lượng hàng thủy sản. Do vậy, EU chỉ nhập khẩu những sản phẩm từ những doanh nghiệp chế biến thủy sản ở Việt Nam đã được cấp chứng chỉ đủ tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh. Nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản khác của Việt Nam chưa tiếp cận được thị trường này Đặc biệt tại châu Âu đã đã đưa vào vận hành hệ thống cảnh báo nhanh. Hệ thống này do EFA (Cơ quan quản lý thực phẩm châu Âu) chịu trách nhiệm quản lý. Mục đích là cảnh báo nhanh bao quát toàn bộ dây chuyền cung cấp thức ăn, kể cả thức ăn cho động vật, đồng thời hỗ trợ tư vấn khoa học và kỹ thuật cho Ủy ban châu Âu. Bất kỳ thông tin về mối nguy nghiêm trọng nào trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng tới sức khỏe con người phát sinh từ thực phẩm hoặc thức ăn cho động vật sẽ được thông báo đến cho các cơ quan quản lý thực phẩm của các nước thành viên thông qua hệ thống này. Biện pháp tương tự sẽ được áp dụng để hạn chế đưa ra thị trường các sản phẩm sản xuất tại EU hay nhập khẩu nếu xét thấy có nguy cơ mất an toàn thực phẩm. 2.1.2 Bảo vệ môi trường, nguồn lợi tự nhiên Chính sách môi trường của EU dựa trên các Hiệp định quốc, đặc biệt dựa trên Chương trình nghị sự 21 của Hiệp định Rio de Janeiro (Hiệp định Rio), Hội nghị Liên hiệp Quốc về môi trường và phát triển được tổ chức năm 1992. EU và các nước thành viên đã cam kết thực hiện các hành động trong khuôn khổ Hiệp định Rio. Chương trình môi trường của EU hiện nay nhấn mạnh việc xử lý nguyên nhân gốc rễ của vấn đề về môi trường chứ không phải đối phó với rắc rối khi chúng xảy ra. Các quy định về môi trường của EU đối với sản phẩm thủy sản chính là các quy định về hàng hoá môi trường nằm trong hệ thống “Luật sản phẩm môi trường của Liên minh châu Âu”. EU ban hành Hệ thống Luật sản phẩm môi trường nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và môi trường sinh thái. Quy định về môi trường của EU rất nghiêm ngặt, bao gổm các quy định liên quan trực tiếp đến môi trường và các quy định liên quan gián tiếp đến môi trường và liên quan trực tiếp đến vệ sinh an toàn thực phẩm. Khi xuất khẩu hàng thủy sản sang EU, ngoài việc xuất trình các chứng chỉ về vệ sinh dịch tễ, vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật là yêu cầu bắt buộc, doanh nghiệp Việt Nam còn phải tuân thủ các quy định về môi trường của EU. Có thể nói rằng, Hệ thống quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU đối với hàng hoá là hoàn chỉnh hơn cả, rất chặt chẽ, và không dễ thoả mãn. Người tiêu dùng EU có nhu cầu ngày càng cao đối với các sản phẩm sạch, bảo vệ môi trường. 2.1.3 Tập quán ứng xử Thực tế, EU không phải là một thực thể văn hoá, không đồng nhất về tập quán sinh hoạt, ẩm thực, thị hiếu tiêu dùng cách ứng xử. Thị trường EU chỉ thống nhất về mặt kỹ thuật còn trên thực tế bao gồm nhiều thị trường quốc gia và khu vực có những đặc điểm rất khác nhau. Mỗi nước có bản sắc văn hoá riêng nên yêu cầu của họ cũng khác nhau. EU là thành viên của WTO nên có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa trên nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch không nhiều nhưng biện pháp thuế quan lại được sử dụng khá nhiều. Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn và có xu hướng giảm nhưng EU vẫn là một thị trường được bảo trợ chặt chẽ với hàng rào phi thuế quan (rào cản kỹ thuật) nghiêm ngặt. Rào cản kỹ thuật chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU được cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn của sản phâm, đó là: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động. Khách hàng EU rất khó tính về mẫu mã và thị hiếu. Chỉ khi các yếu tố chất lượng, các trình bày sản phẩm và giá cả hấp dẫn thì sản phẩm mới có cơ hội bán được ở châu Âu. Việc tự do hoá về thương mại và đầu tư trên thế giới cũng như cải cách về chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của EU ngày càng được nới lỏng nên cạnh tranh trên thị trường này sẽ ngày càng gay gắt do lượng hàng nhập khẩu rất nhiều. Chu kỳ sống của một sản phẩm sẽ phải ngắn hơn và phương thức dịch vụ tốt hơn. Kênh nhập khẩu và phân phối hàng trong khối EU khá phức tạp và có nhiều đầu mối có phương thức ứng xử khác nhau. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm rõ những đặc điểm của kênh phân phối đó và các đầu mối nhập khẩu để có những biện pháp xâm nhập cụ thể. Với sản lượng xuất nhập khẩu hàng năm lớn, là một bản hàng ổn định, các doanh nghiệp thủy sản đang dần chuyển mình để tạo được những dấu ấn trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định thành công khi thâm nhập thị trường châu Âu. Thị trường châu Âu yêu cầu sản phẩm có chất lượng cao nên hầu hết các nước xuất khẩu, đặc biệt là châu á đều nhận định đây là thị trường khó tính và nghiêm ngặt. Họ đưa ra hàng loạt các quy định pháp lý về chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh để bảo vệ cho sức khoẻ người tiêu dùng. Việc tuân theo các quy định về an toàn thực phẩm là điều kiện bắt buộc để tiếp cận thành công thị trường này. Xuất khẩu thuỷ sản vào EU bắt buộc phải có chứng nhận chính thức dựa trên việc EU công nhận cơ quan thẩm quyền của các nước xuất khẩu. Các nước xuất khẩu phải có một cơ quan thẩm quyền chịu trách nhiệm về việc quản lý chính thức thông suốt cả hệ thống sản xuất. Tháng 4/2004, EU đã thông qua các quy định về kiểm soát thực phẩm mới và toàn bộ các quy định về vệ sinh. Những nguyên tắc vệ sinh mới hợp nhất và đơn giản hoá các yêu cầu phức tạp và chi tiết trước đây đã nêu trong 17 chỉ thị khác nhau. Các yêu cầu chung về vệ sinh được đặt ra cho việc sản xuất các loại thực phẩm, trong đó cũng đề ra các nguyên tắc cụ thể cho sản xuất thịt và các sản phẩm thịt, các loại nhuyễn thể hai mảnh vỏ, thuỷ sản, sữa và các sản phẩm sữa, trứng và các sản phẩm của trứng, đùi ếch và các loại ốc, mỡ động vật, giêlatin và chất tạo keo. Từ 1/1/2006, EU đưa ra luật quản lý thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi mới gọi là đóng gói vệ sinh, trong đó quy định về tiêu chí vi sinh đối với thực phẩm, quy định về kiểm soát thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi cũng như quy định vệ sinh thức ăn cho vật nuôi tạo thành một bộ các quy định chặt chẽ và hài hoà khung hiệp định an toàn thực phẩm của EU. Quy định đóng gói vệ sinh không chỉ đơn giản hoá các quy định vốn được coi là phức tạp trước đây, mà còn đưa ra khái niệm có trách nhiệm thông qua chuỗi thức ăn từ trang trại đến bàn ăn. Quy định đóng gói vệ sinh rõ ràng hơn và nghiêm ngặt hơn về vệ sinh thực phẩm, các quy định vệ sinh cụ thể đối với thực phẩm có nguồn gốc từ động vật, các quy định cụ thể về kiểm soát các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật phục vụ cho tiêu dùng của con người. Các quy định chung được đặt ra cho tất cả các loại thực phẩm như các nguyên tắc cụ thể được quy định cho các sản phẩm thuỷ sản và nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Theo quy định mới này, các sản phẩm nhập khẩu phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung như hàng hoá của EU (Tài liệu: How to export seafood to EU). Các sản phẩm nhập khẩu phải tuân thủ các nguyên tắc về vệ sinh mới, có hiệu lực từ 1/1/2006 như sau: 2.1.3.1 Quy định mới về vệ sinh thực phẩm Các quy định mới về vệ sinh thực phẩm tập trung vào yêu cầu bảo vệ sức khoẻ cộng đồng một cách tốt nhất dựa trên việc đánh giá mối nguy. Luật mới quy định tất cả các cơ sở kinh doanh thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi, từ người nuôi, nhà chế biến đến người bán lẻ và dịch vụ nhà hàng đều phải chịu trách nhiệm trong việc đảm bảo thực phẩm bán trên thị trường EU đáp ứng mọi tiêu chuẩn bắt buộc về an toàn thực phẩm. Mọi khâu trong chuỗi thực phẩm kể cả khâu sản xuất nguyên liệu cũng phải tuân thủ phương pháp tiếp cận từ trại nuôi đến bàn ăn của EU về an toàn thực phẩm. Quy định đóng gói vệ sinh được chia làm 5 quy định và các chỉ thị thay thế cho 17 chỉ thị trước đây. Theo đó, tất cả các sản phẩm nhập khẩu phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung như các sản phẩm của EU. Quy định 852/2004 của Quốc hội châu Âu và Hội đồng châu Âu về vệ sinh thực phẩm. Quy định này bao gồm cả những yêu cầu chung và yêu cầu kỹ thuật đối với sản xuất. Quy định 853/2004 của Quốc hội châu Âu và Hội đồng châu Âu đề ra các nguyên tắc vệ sinh cụ thể đối với thực phẩm có nguồn gốc từ động vật. Quy định 854/2004 của Quốc hội châu Âu và Hội đồng châu Âu đề ra các nguyên tắc cụ thể đối với việc tổ chức quản lý có thẩm quyền đối với sản phẩm có xuất xứ từ động vật phục vụ cho tiêu dùng của con người. Chỉ thị 2002/99/EC đề ra các nguyên tắc vệ sinh chi phối việc sản xuất, chế biến, phân phối và nhập khẩu các sản phẩm có xuất xứ động vật. Chỉ thị 2004/41/EC thay thế cho 17 chỉ thị trước đây. 2.1.3.2 Các biện pháp thực hiện theo các qui tắc vệ sinh mới Quy định 2073/2005 của Uỷ ban châu Âu về các tiêu chí vi khuẩn, độc tố và các chất chuyển hoá (thuộc vi trùng học) đối với nguyên liệu là thực phẩm (1/1/2006). Quy định 2074/2005 của Uỷ ban châu Âu về các biện pháp thực hiện đối với một số sản phẩm nhất định theo Quy định 853/2004, 854/2004 và 882/2004 và các văn bản hướng dẫn thực hiện theo Quy định 852/2004, phần bổ sung cho Quy định 853/2004 và Quy định 854/2004. Ðến 31/12/2009, EU sẽ cho phép sắp xếp chuyển đổi để tạo thuận lợi cho giai đoạn chuyển tiếp giữa quy định vệ sinh thực phẩm mới và cũ. Các biện pháp chuyển đổi được đề ra trong Quy định 2076/2005. 2.1.4 Quản lý thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi Quy định 882/2004 của Hội đồng châu Âu thiết lập các hệ thống kiểm soát hài hoà của EU bao gồm cả an toàn thực phẩm và thức ăn cho vật nuôi, các nguyên tắc về phúc lợi và sức khoẻ động vật. Liên quan đến việc kiểm soát nhập khẩu, các nước thứ ba sẽ phải đảm bảo rằng các sản phẩm xuất khẩu vào thị trường EU phải đáp ứng được những tiêu chuẩn cần thiết. 2.1.5 Quy định dán nhãn Ba quy định chính liên quan đến việc dán nhãn là Quy định 2000/104/EC, Chỉ thị 2000/13/EC và Quy định 2065/2001/EC. Tất cả các luật mới của EU đều (và sẽ) dựa trên quyền lợi của người tiêu dùng và sự an toàn theo phương thức người tiêu dùng sẽ không bị bất kỳ sản phẩm nào hay bao bì nào đánh lừa. Ðối với yêu cầu vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là truy xuất nguồn gốc các sản phẩm thuỷ sản, quy định của EU yêu cầu tất cả các sản phẩm đóng gói phải ghi nước xuất xứ. Nhãn mác phải được in lên gói hàng hoặc thùng các tông để tránh bị tẩy xoá hoặc rách khi sử dụng. Ngôn ngữ sử dụng phải chính thống và dễ hiểu. Ví dụ, đối với các sản phẩm đông lạnh nhãn mác phải có các thành phần sau : -Tên loài theo sau từ đông lạnh frozen -Nước xuất xứ -Giới thiệu : có thể bao gồm tên loài -Trọng lượng (kg) -Danh mục thành phần -Hạn sử dụng (tháng/năm) -Ðiều kiện bảo quản -Hướng dẫn sử dụng -Tên và địa chỉ của nhà sản xuất -Lot do nhà chế biến xác định để có thể truy xuất nguồn gốc sản phẩm trong trường hợp cần kiểm tra. EU đang có kế hoạch xem xét lại toàn bộ hệ thống dán nhãn thực phẩm từ năm 2006 đến 2008 với một bộ kế hoạch đầu tiên dự kiến thực hiện vào năm 2007. 2.1.6 Ðộc tố và chất gây ô nhiễm trong các sản phẩm thuỷ sản EU đã chi tiết hoá việc kiểm soát pháp lý đối với việc sử dụng và theo dõi các loại thuốc thú y và các loại thuốc khác có trong cá và thuỷ sản, việc kiểm soát pháp lý những chất bị cấm chỉ định trong động vật và kiểm soát các sản phẩm dự tính xuất khẩu phải có hiệu lực ở nước thứ ba. Quy định 466/2001 đưa ra mức độ tối đa cho phép đối với một số chất gây ô nhiễm nhất định trong thực phẩm. Ðối với thuỷ sản và thuỷ sản nuôi, mức độ tối đa được áp dụng với thuỷ ngân, cát mi và chì (kim loại nặng). Chỉ thị 96/22/EEC cấm sử dụng một số hoá chất nhất định có chứa hoóc môn và hoạt chất thyreostatic, trong đó có kháng thể β trong các sản phẩm nuôi. Quy định 2377/90 đặt ra mức độ cặn tối đa cho phép đối với các sản phẩm thuốc thú y. Quyết định 95/249/EC ấn định giới hạn tổng lượng Nitơ cơ bản dễ bay hơi (TVB-N) đối với các danh mục thuỷ sản nhất định và cụ thể hoá những phương pháp phân tích được sử dụng. Thuỷ sản của Việt Nam đang dần đáp ứng những yêu cầu khắt khe của thị trường EU.Qua đó cũng dần biến một thị trường tử thần của các nhà xuất khẩu trở thành một thị trường đầy tiềm năng. 2.2 Đánh giá tình hình đối phó của các doanh nghiệp Theo số liệu thống kê, xuất khẩu thủy sản từ đầu năm đến nay tăng khá do các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đã tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm, số doanh nghiệp được miễn kiểm nghiệm chất lượng ngày càng nhiều, nhất là tại các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc... Riêng xuất khẩu vào thị trường EU đạt 585 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái. EU là thị trường lớn nhất của ngành thủy sản, chiếm 25% tỷ trọng xuất khẩu toàn ngành. Hiện nay có 245 cơ sở chế biến đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn của EU và được phép xuất khẩu vào thị trường này. Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhiều lô hàng thủy sản xuất khẩu vào EU đã bị trả về với lý do còn chất dư lượng kháng sinh. Đáng lo nữa có những lô hàng đã được Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (Nafiqaved) kiểm tra, kết luận đủ điều kiện xuất khẩu nhưng vẫn bị trả về vì vẫn còn dư lượng thuốc kháng sinh như Sulfamerazine, Chloramphenicol, Enrofloxacin, kim loại nặng... Áp dụng hệ thống truy nguyên nguồn gốc Từ tháng 10-2005, EU quy định tất cả các cơ sở sản xuất thực phẩm phải có hệ thống truy nguyên nguồn gốc, phải chứng minh được khả năng truy nguyên nguồn gốc. Truy nguyên nguồn gốc cũng là tiêu chí hàng đầu trong 14 tiêu chí cần tuân thủ của EUREGAP (tiêu chuẩn châu Âu về thực hành nông nghiệp tốt). Đây là quá trình giám sát và truy tìm nguồn gốc thực phẩm khi cần, từ cung cấp thức ăn, nuôi trồng, chế biến, phân phối, vận chuyển và bán lẻ đến tay người tiêu dùng. Theo chuyên gia cho biết, ở Việt Nam có khoảng 90% giá trị thủy sản xuất khẩu từ nguồn nuôi trồng, vì thế vấn đề truy nguyên thực phẩm là rất cần thiết. Hiện nay, một số doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản như CTCP Hùng Vương, Thủy sản Gò Đàng, Thủy sản An Giang... đã bắt đầu triển khai các chương trình đầu tư quy hoạch vùng nguyên liệu để kiểm soát chất lượng, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu để đảm bảo các điều kiện cho quá trình truy nguyên nguồn gốc khi cần. Theo các báo cáo cho biết các doanh nghiệp đã đầu tư cho vùng nguyên liệu hang trăm héc ta cho nông dân nuôi cá, vừa đảm bảo yêu cầu kiểm soát chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, vừa xác định rõ nguồn gốc nguyên liệu theo yêu cầu hội nhập. Do vậy, đây là một tiền đề rất tốt để doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng cá phi lê đông lạnh sang thị trường EU, Hoa Kỳ, Australia... Một số doanh nghiệp còn dự định đầu tư sản xuất thức ăn thủy sản để khép kín quy trình chăn nuôi và chế biến. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp làm được điều này còn ít. 2.2.1 Nâng cao chất lượng, tăng độ an toàn Các cuộc gặp giữa các nhà sản xuất thuỷ sản Việt Nam và các giới quan chức và chuyên gia của EU - thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam đều hướng đến cùng một mục tiêu là nâng cao chất lượng thủy sản và tăng độ an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm bảo vệ người tiêu dùng. An toàn vệ sinh thực phẩm chính là yêu cầu và cũng là mục tiêu của chính sách và qui định mới đối với mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào EU được áp dụng từ đầu năm nay. Các nhà xuất khẩu thủy sản trong nước từ cuối năm ngoái và đầu năm nay đã kháo nhau về chính sách nhập khẩu thủy sản vào EU. Nhiều người nói rằng chính sách nhập khẩu của EU phức tạp và các qui định nghiêm ngặt hơn. Từ đó những người khác cũng tin rằng sản lượng xuất khẩu vào thị trường này sẽ giảm từ năm nay nếu như không có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, thực tế không hoàn toàn như vậy. Các quan chức của EC cho biết luật mới về nhập khẩu hàng nông sản và thủy sản vào EU chỉ là sự hợp nhất các qui định và chính sách đã được hài hòa theo qui chuẩn của liên minh. Các qui chuẩn áp dụng cho liên minh cũng áp dụng cho từng nước trong 25 thành viên của EU. “Luật mới không nhằm gây khó khăn hay giúp đỡ bất kỳ nước xuất khẩu nào cũng không phải để hạn chế mặt hàng thủy sản vào liên minh mà nhằm vào mục đích bảo vệ người tiêu dùng hiệu quả hơn”, ông Patrick Deboyser, Tham tán Công sứ về an toàn thực phẩm và sức khỏe của phái đoàn EC tại Thái Lan, phát biểu. Bộ luật mới về nhập khẩu hàng thực phẩm mới nói chung và thủy sản hay nông sản nói riêng được thể hiện trong bốn hệ thống luật của EU với luật 178/2002 là chủ đạo và bốn luật khác bổ sung bao gồm 852/2004, 853/2004, 882/2004 và 854/2004. 2.2.2 An toàn từ nông trại đến bàn ăn Một phương châm thứ hai đang được áp dụng tại EU, đó là phương châm an toàn từ nông trại đến bàn ăn. Điều này có nghĩa an toàn vệ sinh phải được bảo đảm từ khi bắt đầu của qui trình tạo ra sản phẩm đến bàn ăn của người tiêu dụng. Để thực hiện phương châm này EU đưa ra qui định về truy xuất xuất xứ, tức là mọi đầu vào tạo nên thành phẩm phải có xuất xứ rõ ràng và phải được thể hiện trên những chứng từ thuộc qui trình. Truy xuất xuất xứ nguồn gốc được yêu cầu đối với các doanh nghiệp có mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào EU từ đầu năm nay. Tuy nhiên, do Việt Nam có tính chất đặc thù về qui trình sản xuất nên qui định này được bắt đầu trễ hơn, sau năm 2008. Đánh giá và quản lý rủi ro hay nguy cơ ngộ độc thực phẩm là những phương pháp tiếp cận của EC. Chúng được thực hiện dựa trên nguyên tắc ứng dụng công nghệ và khoa học hiện đại tốt nhất và cảnh báo sớm để hạn chế các rủi ro tiềm ẩn trong qui trình sản xuất thực phẩm. EC tăng cường tham vấn các bên liên quan như nhà nhập khẩu, nhà sản xuất và giới chức chính quyền để tiếp cận thông tin cần thiết; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan trong việc đưa mặt hàng thực phẩm thủy sản vào EU, nhất là vai trò của cơ quan kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ở những nước xuất khẩu. Đây là cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát mức độ an toàn và vệ sinh thực phẩm trước khi được đưa vào EU. Thông qua đó thấy được là các doanh nghiệp trong nước đã bắt đầu nghiêm túc tìm ra biện pháp để tiếp cận thị trường EU. Tuy nhiên sản lượng thuỷ sản xuất khẩu vào EU khó có thể tăng trưởng đột biến vì Ủy ban châu Âu (EC) kiểm tra chất lượng thuỷ sản nhập khẩu rất nghiêm ngặt. Đến thời điểm này, EU chỉ mới công nhận 209 doanh nghiệp thuỷ sản của Việt Nam đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường các nước trong EU. Nhiều năm qua, EC đã cử thanh tra thú y vào Việt Nam kiểm tra chất lượng các cơ sở nuôi và chế biến tôm xuất khẩu của Việt Nam. Vấn đề dư lượng hoá chất và nguy cơ nhiễm khuẩn thuỷ sản nếu không được giải quyết một cách triệt để sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc xuất khẩu mặt hàng này. Vì vậy, thời gian qua, Bộ Thương mại và Bộ Thuỷ sản cũng như Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã liên tục cảnh báo các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm bởi bên cạnh yếu tố giá cả cạnh tranh thì chất lượng sản phẩm chính là yếu tố quan trọng để sản phẩm thuỷ sản nước ta thâm nhập sâu, rộng vào thị trường thế giới. Trong số các nước thuộc EU, thị trường Tây Ban Nha có nhiều khó khăn trong nhập khẩu các mặt hàng thuỷ sản hơn cả. Tây Ban Nha thường theo dõi thuỷ sản nhập khẩu rất chặt chẽ và hay ban hành các lệnh cảnh báo thú y, thậm chí trong cả các trường hợp EC chỉ ra thông báo. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ BIỆP PHÁP VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT CỦA EU ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM 3.1. Cơ hội dành cho ngành thuỷ sản Việt Nam VN đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Cộng đồng châu Âu từ năm 1990. Hiệp định hợp tác với EU vào ngày 17-7-1995, tạo cơ hội thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ mối quan hệ hợp tác giữa VN với các quốc gia thành viên và cả Cộng đồng trên mọi lĩnh vực hỗ trợ phát triển, khoa học kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, văn hoá xã hội, đầu tư kinh tế và thương mại và đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Theo Markus Cornaro, Ðại sứ, Trưởng phái đoàn đại diện EC tại VN, năm ngoái EU đã nhập khẩu 500 triệu ơrô thuỷ sản từ các nước ASEAN, trong đó có 260 triệu từ VN, tăng 70% so với năm 2004. Việc ngành thuỷ sản VN đáp ứng những yêu cầu cao của EU về ATVSTP đã giúp sản phẩm thuỷ sản của VN xuất khẩu sang EU không những ngày càng tăng mà còn có chỗ đứng vững chắc ở các thị trường đòi hỏi khắt khe khác như Mỹ, Nhật Bản và Canađa. Do sản lượng thuỷ sản khai thác tự nhiên ngày càng giảm vì những quy định liên quan đến bảo vệ nguồn lợi và môi trường, nên EU ngày càng phụ thuộc vào thuỷ sản nhập khẩu. Chính vì vậy, thương mại cũng sẽ được ưu tiên trong chính sách hỗ trợ của EU, giúp các nước phát triển hiểu rõ hơn về WTO, các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) hoặc kiểm dịch động vật (SPS). Ngành thuỷ sản VN có thể được lợi rất lớn do EU ưu tiên hỗ trợ trong lĩnh vực SPS. Ngoài ra, EU còn dành hỗ trợ thông qua Quỹ Tín thác châu á (Asian Trust Fund), Quỹ đầu tư châu á (Asia Invest). Việt Nam là một trong 178 nước hiện đang được hưởng chế độ ưu đãi Thuế quan phổ cập (GSP) với mức thuế thấp hơn 3.5% so với mức thuế thông thường. Ðược hưởng ưu đãi GSP, thuế xuất khẩu thuỷ sản sang EU không những sẽ giảm, mà việc xem xét lại mức thuế sẽ được thực hiện sau 3-5 năm chứ không phải là hằng năm như trước đây và số lượng mặt hàng nhiều hơn. Hiện nay, tỷ lệ mặt hàng thuỷ sản được hưởng GSP lên tới 80%. Bên cạnh đó, người tiêu dùng EU ngày càng dùng nhiều thuỷ sản hơn, vì họ cho rằng thuỷ sản là loại thực phẩm sạch và bổ dưỡng. Ðây là tín hiệu tốt cho xuất khẩu thuỷ sản VN vào EU, hằng năm VN xuất khẩu hàng trăm nghìn tấn hàng thuỷ sản gồm tôm, cá ngừ, nhuyễn thể hai mảnh vỏ và nhiều mặt hàng cá đông lạnh các loại. Nếu trước đây rất khó thực thi các qui định về ATVSTP vì giữa các nước khác nhau có những quy định khác nhau, thì bây giờ EU chỉ có một cơ quan quản lý duy nhất là Cục Quản lý ATTPEU (EFSA), một khuôn khổ luật pháp duy nhất và một cơ chế duy nhất là Luật chung về thực phẩm (Regulation 178/2002 General Food law Prosedures) để có thể đảm bảo nếu xảy ra rủi ro liên quan đến ATTP thì chỉ trong vòng 1 giờ nó đã được đệ trình lên EFSA. Nếu biện pháp đề xuất được đa số thành viên EFSA ủng hộ, thì sản phẩm có mối nguy đó sẽ bị triệu hồi khỏi các kênh phân phối trên thị trường - Tiến sỹ Patrick Deboyser, Tham tán Công sứ về y tế cộng đồng và ATTP của EU tại Thái Lan. Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản (NAFIQAVED) Nguyễn Tử Cương cho biết, những quy định mới này là có lợi, thứ nhất là dễ áp dụng không phải nghiên cứu quá nhiều văn bản; thứ hai là mọi vấn đề rõ ràng hơn, các quy định về ATVSTP đã được hệ thống hoá và đảm bảo tính logic; thứ ba là không một nước thành viên nào được quyền đặt ra quy định riêng đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, EU đã đặt thêm những quy định mới như mã hàng hoá sản phẩm để truy xuất nguồn gốc và nhiều quy định bắt buộc áp dụng chặt chẽ hơn. Mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010, VN phấn đấu đạt giá trị 4 - 4,5 tỷ USD. Ðịnh hướng đến năm 2020, chế biến XKTS tiếp tục là động lực thúc đẩy phát triển nuôi trồng thuỷ sản, khai thác thuỷ sản và mang lại nhiều lợi ích kinh tế ngành, nâng cao thu nhập và đời sống lao động nghề cá. Ðối với cơ cấu sản phẩm, tập trung nâng cao sản lượng nuôi các loài, đặc biệt là cá tra, basa đạt 800-850.000 tấn năm 2010, đảm bảo phục vụ cho xuất khẩu 230.000 tấn sản phẩm. Tôm cũng được dự kiến đạt khoảng 483 nghìn tấn nguyên liệu để phục vụ cho xuất khẩu khoảng 390.000 tấn năm 2010. Cá rô phi sẽ được phát triển, nâng sản lượng đạt khoảng 200.000 tấn nguyên liệu phục vụ xuất khẩu khoảng 130 - 150.000 tấn. Cá ngừ được xác định là loài xuất khẩu giá trị cao, phấn đấu nâng cao sản lượng khai thác lên 50.000 tấn năm 2010, nhằm đạt 45.000 tấn sản phẩm xuất khẩu. 3.2 Định hướng từ phía nhà nước Tăng cường hợp tác với các nước EU nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các nước này trong việc tiếp cận thị trường EU.Ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương nhằm giảm bớt các rào cản thuế quan đối với mặt hang thuỷ sản nói riêng và các hang hoá xuất vào EU nói chung.Ngoài ra còn tranh thủ sự giúp đỡ của các nước tiên tiến này đối với ngành thuỷ sản về phương diện vốn và công nghệ.Cụ thể là : 3.2.1. Về quan hệ đa phương Trong mối quan hệ song phương, EU đã, đang và sẽ là một đối tác trụ cột của Việt Nam. Riêng 11 nước thành viên EU, đến năm 2004 đã có 372 dự án đầu tư trực tiếp (FDI), với tổng số vốn đăng ký trên 6 tỷ USD, trong đó đã thực hiện  được hơn 4,2 tỷ, tổng doanh thu đạt khoảng 1,13 tỷ USD mỗi năm, tạo việc làm cho 39.350 lao động trực tiếp. Các nước EU là những nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam, chiếm trên 1/3 tổng số vốn ODA, đa phần không hoàn lại. Năm 2009, EU đã thông qua chiến lược hợp tác mới với Việt Nam trong giai đoạn 2009-2015, nhằm tạo điều kiện tăng tốc xoá đói giảm nghèo trong chiến lược phát triển bền vững, giúp Việt Nam xây dựng đất nước và nhanh chóng hội nhập với thế giới. Trong chiến lược hợp tác mới này, EU dự kiến trợ giúp 262 triệu euro tập trung vào hai lĩnh vực ưu tiên: (1) Tăng cường phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt hỗ trợ phát triển một số tỉnh nghèo thông qua hỗ trợ trong lĩnh vực giáo dục; (2) Trợ giúp cải cách kinh tế của Việt Nam theo cơ chế thị trường để nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới. Năm 2009, Việt Nam chủ động đưa ra “Đề án tổng thể về quan hệ Việt Nam- EU đến năm 2010 và định hướng 2015” với mục đích nâng cao mối quan hệ hai bên lên một tầm cao mới, trên cơ sở của mối quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác lâu dài, vì hoà bình và phát triển. Hợp tác song phương và đa phương giữa Việt Nam với các quốc gia thành viên EU cũng đã diễn ra trên mọi lĩnh vực ngay từ trước năm 1990 với nhiều thành tựu lớn, là một trong những nguồn lực bên ngoài đóng góp tích cực cho tiến trình đổi mới nền kinh tế đất nước 3.2.2. Quan hệ hợp tác - hỗ trợ trong lĩnh vực thuỷ sản Nhiều nước thành viên của EU đã hợp tác giúp đỡ Việt Nam thông qua nhiều dự án và các hoạt động khác. 3.2.2.1. Hợp tác với Ai – xơ – len: Hợp tác về thuỷ sản với Ai-xơ-len chủ yếu là trong lĩnh vực đào tạo. Trong chuyến thăm Việt Nam tháng 4/2002 của Thủ tướng Ai-xơ-len, ngoài thoả thuận hợp tác trong lĩnh vực thuỷ sản trị giá 100 triệu USD đã nêu trên, Ai-xơ-len còn dành 30.000 đôla cho Chương trình đào tạo nghề cá (FTP) thuộc trường đại học Liên Hợp quốc tại Reykjavik để có thể tài trợ bổ sung cho cán bộ thuỷ sản Việt Nam được tham gia chương trình đào tạo. Ai-xơ-len hiện đang giúp ta đào tạo cán bộ trong các lĩnh vực bảo quản và chế biến thuỷ sản, công nghệ khai thác thuỷ sản, quản lý các công ty thuỷ sản và tiếp thị, đánh giá và giám sát nguồn lợi thuỷ sản, biển và nội địa. Trong thời gian tới, ta cần tranh thủ Ai-xơ-len giúp Việt Nam xác định tiềm năng hải sản, giúp trang thiết bị; hợp tác trong lĩnh vực đánh bắt cá và chế biến hải sản, tiếp tục dành cho ta các học bổng đào tạo cán bộ trong lĩnh vực thuỷ sản.` 3.2.2.2. Hợp tác với Italia: Italia đã cung cấp cho ngành thuỷ sản Việt Nam một số dự án vay vốn với lãi suất thấp như “Hỗ trợ phát triển nuôi trồng thuỷ sản và nghề cá quốc gia, khu vực phía bắc Việt Nam”, “Trang bị dây chuyền cấp đông rời nhanh –IQF - tại Xí nghiệp chế biến thuỷ sản Hải Phòng”, “Trang bị thiết bị chế biến Agar tại Công ty đồ hộp Hạ Long”. Mới đây, Chính phủ Italia đã hỗ trợ uỷ thác qua FAO dự án “Quản lý tổng hợp phá Tam Giang” với tổng kinh phí 1,3 triệu USD, thực hiện trong giai đoạn 2005 – 2008. 3.2.2.3. Hợp tác với Thụy Điển: Thụy Điển đã hỗ trợ thông qua FAO và SEAFDEC (Trung tâm phát triển nghề cá Đông Nam á các dự án về phát triển nguồn nhân lực thống kê thuỷ sản, tăng cường năng lực thu thập thông tin phục vụ quản lý nghề cá. 3.2.2.4. Hợp tác với Pháp: Với Cộng hoà Pháp, mặc dù hai nước chưa hình thành khuôn khổ chung về hợp tác thuỷ sản, nhiều tổ chức, địa phương và đơn vị đã chủ động hỗ trợ những nội dung như sinh sản nhân tạo cá tra và cá basa, xây dựng thương hiệu nước mắm Phú Quốc, đào tạo ngôn ngữ, v.v... 3.2.2.5. Hợp tác với Hà Lan: Hà Lan bắt đầu có quan hệ hỗ trợ trực tiếp về thuỷ sản từ năm 2004 với chuyến thăm và chủ trì hội thảo về “Tiếp cận thị trường thông qua năng lực quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn dịch bệnh và mội trường” của Tổng cục trưởng Thuỷ sản Hà Lan. Đến nay, Hà Lan đã giúp đào tạo 9 cán bộ về an toàn thực phẩm. Một dự án thí điểm về xoá đói giảm nghèo cho nông dân nuôi trồng thuỷ sản cũng được Hà Lan hỗ trợ thực hiện tại Ninh Bình. 3.2.2.6. Hợp tác với Đan Mạch: Việt Nam và Đan Mạch đã có sự hợp tác rất sớm và rất thành công trong lĩnh vực thuỷ sản từ năm 1975, khi Đan Mạch bắt đầu triển khai cho Việt Nam vay vốn mua trang thiết bị làm lạnh và cấp đông. Sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, ngành thủy sản của nước ta là một trong 3 ngành kinh tế nhận được sự hỗ trợ phát triển của Chính phủ Đan Mạch. Một trong những hoạt động đầu tiên được nhận viện trợ của Đan Mạch là lĩnh vực chế biến thủy sản, với việc triển khai thực hiện dự án “Nâng cấp chất lượng thủy sản Việt Nam” và “Tổng quan về chế biến thuỷ sản Việt Nam”(US/VIE/93/058) do Đan Mạch tài trợ uỷ thác thông qua UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc), Chính phủ Vương quốc Đan Mạch đã hỗ trợ trực tiếp cho ngành thuỷ sản Việt Nam một số dự án như “Nâng cấp chất lượng thuỷ sản xuất khẩu giai đoạn 1 – SEAQIP1” (2006-2011), “Điều tra nguồn lợi sinh vật biển giai đoạn 1 – ALMRV1”(2006-2011). Đan Mạch cùng đã hỗ trợ Dự án “Quy hoạch tổng thể ngành thủy sản Việt Nam” thực hiện trong 2 năm (200996), nhằm giúp thuỷ sản Việt Nam phương pháp tiếp cận mới về phát triển cân đối, bền vững. Quy hoạch đã đề xuất một loạt phương pháp tổ chức, chiến lược và chính sách trong mọi lĩnh vực hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển của ngành thủy sản. Kết quả của Dự án là một tiền đề để xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ngành thuỷ sản Việt Nam. Kết quả của Dự án cũng là căn cứ để Chính phủ hai nước ký kết văn kiện Chương trình hỗ trợ chương trình Ngành thuỷ sản (FSPS) với tổng kinh phí khoảng 40 triệu USD, thay đổi từ việc hỗ trợ từng dự án riêng lẻ sang hình thức hỗ trợ toàn diện theo chương trình, bao gồm 5 hợp phần: Tăng cường năng lực quản lý hành chính ngành thủy sản (STOFA) Hỗ trợ phát triển nuôi thủy sản nước ngọt (SUFA) Hỗ trợ phát triển nuôi, trồng thủy sản biển và nước lợ (SUMA) Cải thiện chất lượng thủy sản xuất khẩu giai đoạn 2 (SEAQIP-2) Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và tái cơ cấu ngành (SIRED) Hợp phần STOFA tập trung hỗ trợ việc xây dựng năng lực quản lý hành chính ngành thủy sản ở các cấp quốc gia, tỉnh và huyện; SUFA và SUMA sẽ tập trung làm điểm các kỹ thuật nuôi nhằm nâng cao sản lượng nuôi thủy sản nước ngọt, nước lợ và nuôi trên biển; SEAQIP và SIRED tập trung vào việc đổi mới công nghệ, tăng cường năng lực hoạt động của hội nghề nghiệp (Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản – Vasep), đẩy mạnh xuất khẩu, tái cơ cấu hệ thống doanh nghiệp thủy sản phù hợp với chính sách mở cửa nền kinh tế của Việt Nam. Song song với việc thực hiện các mục tiêu trên, hàng trăm cán bộ của Việt Nam đã đã được đào tạo trong và ngoài nước để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực quản lý. Sau khi kết thúc giai đoạn 1, năm 2005 Chính phủ hai nươc đã ký kết văn kiện tiếp tục chương trình hỗ trợ giai đoạn 2 – FSPS2, thực hiện từ 2006 – 2010 với kinh phí khoảng 35 triệu USD. Với sự giúp đỡ từ phía chính phủ sẽ giúp cho ngành thuỷ sản của nước ta tiếp tục phát triển thuận lợi và vượt qua những khó khăn trong việc sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. 3.3. Định hướng từ phía doanh nghiệp Tìm kiếm thông tin về thị trường và các rào cản của thị trường đối với mặt hàng mình đang xúât khẩu .Thông tin ngày nay thì rất nhiều, từ sách báo, tạp chí, internet từ các cơ quan chức năng.v.v... Vấn đề quan trọng là phải sử dụng thông tin đó như thế nào, xử lý và phân tích thông tin đó ra sao để có những dự báo chính xác phục vụ xuất khẩu của doanh nghiệp mình. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh liên kết với các viện nghiên cứu, các cơ quan của Nhà nước ở nước ngoài và đặc biệt là liên kết với doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và chính các doanh nghiệp cùng ngành hàng xuất khẩu để được tư vấn, hỗ trợ. Nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản đễ dễ dang xâm nhập được thị trường EU.Các doanh nghiệp phải tranh thủ sự giúp đỡ của chính phủ và sự giúp đỡ từ bên ngoài để phát triển sản xuất và xuất khẩu.Không ngừng nâng cao chất lượng,đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật mà các nước EU quy định.Thông qua đó mới tạo uy tín và thương hiệu riêng cho thuỷ sản Việt Nam.Từ đó tạo tiền đề cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản của Việt Nam tiến sâu vào thị trường EU đầy cơ hội này. 3.4. Những giải pháp cho xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 3.4.1. Giải pháp từ phía chính phủ Năm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu Theo Bộ Thương mại, EU là thị trường mở chứa đựng các yếu tố cạnh tranh rất cao, đồng thời yêu cầu cao về chất lượng hàng, vệ sinh môi trường, nhãn mác, bao bì... Khung pháp lý về thị trường đã được mở hoàn toàn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam ngoài việc tiếp tục được hưởng ưu đãi GSP. Do vậy, Bộ Thương mại đã đưa ra 4 giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. Thứ nhất, tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách theo hướng khuyến khích nước ngoài đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu, góp phần giải quyết khâu yếu nhất hiện nay là không có nhiều hàng để xuất khẩu, không đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường. Trước hết là thu hút được nguồn vốn từ nước ngoài để đầu tư vào những lĩnh vực thế mạnh.Thuỷ sản của Việt Nam cũng cần được quan tâm hơn nữa để có thể nâng cao vị thế và sức mạnh trên thị trường.Tạo điều kiên thuận lợi xâm nhập thị trường EU nói riêng và thị trường thế giới nói chung. Thứ hai, ổn định chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt ổn định giá đất, điện, nước, cước vận tải và các yếu tố khác liên quan đến giảm giá thành sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu. Tiếp tục cấp tín dụng xuất khẩu. Áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu ra nước ngoài đặc biệt là đối với doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản.Cho vay ưu đãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản,giảm thuế với nguyên vật liệu nhập khẩu,máy móc thiết bị chế biến thuỷ sản…cũng góp phần hỗ trợ nhiều đối với doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản.. Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thị trường nước ngoài. Xử lý tốt các rào cản thương mại. Mở rộng liên doanh hợp tác với các tập đoàn đa quốc gia để mở rộng thị trường xuất khẩu. Mạnh dạn mở cửa thị trường dịch vụ để giảm chi phí giao dịch. Về hành chính chúng ta cũng cần cải thiện nhiều hơn nữa sao cho ngày càng thong thoáng,ngày càng thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.Tạo điều kiện cho ngành thuỷ sản của Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Thứ tư, triệt để cải cách thủ tục hành chính theo hướng thuận lợi cho xuất khẩu và thứ năm, đổi mới các hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng nâng cao hiệu quả đồng thời tập trung vào các thị trường và mặt hàng trọng điểm, thị trường và mặt hàng mới. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần hiểu rõ chính sách thương mại, các định chế, quy định và các yêu cầu của thị trường EU. Liên minh châu Âu đang cải cách sâu rộng và toàn diện thể chế và luật pháp cho phù hợp với tình hình mới. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. EU trợ cấp sản xuất nông nghiệp trong khối đồng thời đánh thuế cao và áp dụng hạn ngạch đối với một số nông sản nhập khẩu như gạo, đường, chuối, sắn lát... Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm... luôn được thực hiện nghiêm ngặt. EU cũng đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá dưới hình thức đẩy mạnh tự do hoá thương mại, giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu và tiến tới xoá bỏ hạn ngạch, GSP. Với những giải pháp này chính phủ đã đóng vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường EU,là một nhân tố quan trọng không thể thiếu giúp ngành thuỷ sản chiếm lĩnh thị trường EU. 3.4.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp Ðến nay, nước ta có 439 nhà máy chế biến thủy sản, với tổng công suất 4.262 tấn/ngày. Theo tiêu chuẩn của từng thị trường, có 209 nhà máy đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thủy sản sang EU, 300 nhà máy xuất khẩu sang Hoa Kỳ, 285 nhà máy xuất khẩu sang Hàn Quốc... Hàng thủy sản nước ta đã có mặt tại 119 quốc gia và vùng lãnh thổ. 3.4.2.1. Thách thức không nhỏ Gia nhập WTO, ngành thủy sản nước ta phải đối mặt với các xu thế và yêu cầu của thị trường thủy sản thế giới ngày càng khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm; bảo vệ môi trường; truy nguyên nguồn gốc sản phẩm. Các rào cản thương mại quốc tế thường gặp đối với sản phẩm thủy sản xuất khẩu như: rào cản thuế quan (thuế phần trăm; thuế quan đặc thù như hạn ngạch thuế quan, thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá, thuế thời vụ, thuế bổ sung) và rào cản phi thuế quan (biện pháp cấm, hạn ngạch xuất nhập khẩu, giấy phép xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan, an toàn thực phẩm, rào cản kỹ thuật...) Từ năm 1994 đến tháng 8-2006, đã có 28 vụ kiện đối với các sản phẩm xuất khẩu của nước ta; trong đó có 23 vụ chống bán phá giá, năm vụ tự vệ; 20 vụ có kết luận cuối cùng. Ngành thủy sản nước ta đã gặp nhiều khó khăn khi xảy ra hai vụ kiện chống bán phá giá phi-lê đông lạnh cá tra, ba sa (năm 2003) và tôm (2005). Ngành thủy sản phải đối mặt với thực trạng sản xuất còn manh mún; hệ thống quy hoạch và cơ sở hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản yếu kém; thiếu các liên kết trong sản xuất; công tác quản lý chất lượng giống còn bất cập; rủi ro do dịch bệnh; quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thủy sản nguyên liệu chưa đồng bộ; chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao; khả năng cạnh tranh giảm. Bên cạnh đó, ngành thủy sản Việt Nam còn phải đối mặt với xu hướng giá giảm đối với sản phẩm thủy sản nuôi; yêu cầu ngày càng cao về bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và truy xuất nguồn gốc sản phẩm; các yêu cầu về bảo vệ môi trường; các vụ kiện chống bán phá giá và tranh chấp thương mại; cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), vào WTO, số vụ tranh chấp thương mại, kiện chống bán phá giá đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam (trong đó có sản phẩm thủy sản) sẽ tăng lên. Nhưng, các vụ kiện này sẽ được phán quyết công bằng hơn. Bài học từ hai vụ kiện cá tra, ba sa và tôm là cần đa dạng hóa sản phẩm và thị trường. Ðó là giảm bớt lệ thuộc vào một thị trường, một sản phẩm, giảm rủi ro; nếu sản phẩm tốt, giá phải chăng, thì dù ở nơi nào, lúc nào, hàng thủy sản nước ta vẫn chiếm ưu thế; cần tiếp tục nâng chất lượng và giảm giá thành; phát huy tính cộng đồng của các doanh nghiệp; chủ động tránh kiện bằng cách đa dạng thị trường và mặt hàng, nâng cao hiểu biết, chuẩn bị tốt hồ sơ, chứng từ liên quan; chủ động theo kiện để giữ thị trường; tổ chức chống kiện qua các nhóm chuyên trách; thuê tư vấn luật tại chính nước đi kiện; theo sát diễn biến tình hình vụ kiện; kết hợp sự giúp đỡ của nhà nhập khẩu, phân phối, chế biến... 3.4.2.2. Những giải pháp chính Chủ tịch VASEP Hồ Quốc Lực cho rằng: Các doanh nghiệp cần liên kết, phối hợp nhiều hơn với người nuôi trồng thủy sản để chủ động nguồn nguyên liệu thủy sản phục vụ chế biến xuất khẩu. Ngoài việc tăng cường học tập về pháp luật, thông lệ mua bán, nét văn hóa của thị trường thâm nhập..., các doanh nghiệp cần cùng nhau hợp tác trên tinh thần cộng đồng để tạo nên sức mạnh tự bảo vệ và tăng sức cạnh tranh; coi trọng chữ tín, giữ gìn thanh danh để thực hiện chiến lược phát triển lâu dài. Bởi vì thời gian qua, còn không ít doanh nhân thiếu trung thực trong kinh doanh, thiếu ý thức đoàn kết đấu tranh với các tệ nạn trong ngành như tệ ngâm, bơm tạp chất vào nguyên liệu thủy sản... Theo Bộ trưởng Thủy sản Tạ Quang Ngọc, so với các ngành kinh tế khác, ngành thủy sản nước ta đã sớm "vượt cạn" để hội nhập quốc tế, thông qua việc sớm đối phó hàng rào thương mại như các vụ kiện chống bán phá giá phi-lê đông lạnh cá tra, ba sa và tôm; rào cản về an toàn vệ sinh thực phẩm như cấm, hạn chế sử dụng một số chất kháng sinh đối với hàng thủy sản... Ngành thủy sản muốn phát triển vững chắc thì cần vượt qua các thách thức, biến những thách thức thành cơ hội. Trước hết, vào WTO, chúng ta cần nghiên cứu kỹ, phổ biến luật, yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của tất cả các thị trường. Hai là, doanh nghiệp cần nghiên cứu và nắm vững yêu cầu từng thị trường. Thí dụ như những gì mà thị trường EU đã chấp nhận đối với hàng thủy sản Việt Nam, thì đương nhiên WTO cũng chấp nhận, nhất là các quy định về an toàn vệ sinh chất lượng thủy sản, các mức giới hạn cho phép cũng như quy trình thực hiện; cơ quan kiểm duyệt về chất lượng thủy sản Việt Nam và điều kiện sản xuất của các doanh nghiệp. Thủy sản Việt Nam đang xuất khẩu sang các thị trường có điều kiện hơn mình về công nghệ, mức sống. Các nhà máy chế biến của Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu của đối tác. Ba là, để nâng cao sức cạnh tranh thị trường của hàng thủy sản nước ta, trong thời gian tới, Bộ Thủy sản tập trung làm tốt công tác quy hoạch phát triển; tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh nuôi, trồng thủy sản làm nguồn chính cung cấp nguyên liệu sạch cho chế biến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa; đẩy mạnh cải tiến nghề nghiệp, công nghệ khai thác và bảo quản sau đánh bắt, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Ngành chủ trương nuôi thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa là một hướng đi quan trọng nhằm giảm dần khai thác vùng biển gần bờ và chủ động nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Theo đó, một số vùng sản xuất hàng hóa theo các nhóm sản phẩm chủ lực phục vụ xuất khẩu như tôm sú, cá tra, cá ba sa, tôm càng xanh với công nghệ nuôi mới, nuôi công nghiệp tuần hoàn khép kín không thay nước, sử dụng thức ăn công nghiệp, dần sử dụng các chế phẩm sinh học thay thế cho các hóa chất và thuốc phòng, chữa bệnh cho thủy sản dùng trong nuôi trồng có ảnh hưởng đến môi trường. Bốn là, ngành thủy sản đang nỗ lực thực hiện nuôi sạch theo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh quốc tế (GAP, HACCP); áp dụng các công nghệ và phương pháp quản lý để loại bỏ việc dùng các hóa chất, thuốc kháng sinh bị cấm trong quá trình nuôi trồng thủy sản. Ðây được coi là một bước chuyển lớn của ngành thủy sản để bảo đảm yêu cầu vệ sinh thủy sản ngay từ khâu nguyên liệu. Năm là, tăng cường công tác quản lý, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất nguyên liệu với chế biến xuất khẩu nhằm ổn định và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; giảm dần các yếu tố tự phát trong quá trình sản xuất, xuất khẩu và tiêu thụ nội địa; đầu tư tăng năng lực chế biến mặt hàng có giá trị gia tăng cao, nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Làm tốt công tác xúc tiến thương mại, nghiên cứu và học tập kinh nghiệm về thương mại quốc tế. (trích từ tin tức VN) Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của VN, trong đó tiếp tục nỗ lực nâng cấp ngành chế biến thuỷ sản của VN nhằm mục tiêu phấn đấu 100% DN chế biến XK đạt tiêu chuẩn ngành về ATVSTP, áp dụng hệ thống quản lý theo HACCP, GMP, SSOP chính là những điều kiện hỗ trợ khả năng cạnh tranh của các DN trên các thị trường lớn như EU, Mỹ và Nhật Bản. Bước vào giai đoạn hội nhập WTO, cùng với nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản đang có xu hướng tăng mạnh ở các nước châu Âu, hàng trăm DN xuất khẩu thuỷ sản VN đã đáp ứng yêu cầu và được phép xuất khẩu vào EU sẽ tạo nhiều cơ hội hơn để tăng cường xuất khẩu sang khối thị trường này. Hiện EU là thị trường có mức tăng trưởng mạnh của thuỷ sản VN. Trong tương lai mức tăng trưởng này có nhiều khả năng tiếp tục tăng mạnh. Sự cạnh tranh thị trường với mức giá rẻ của các mặt hàng đảm bảo chất lượng và ATVSTP là yếu tố quyết định giữ vững thị trường xuất khẩu. KẾT LUẬN Như vậy ,đề án đã trình bầy về những rào cản kỹ thuật mà EU hiện đang áp dụng đối với những mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu trong đó có hang thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam.Đồng thời cũng đưa ra những giải pháp giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tháo gỡ những khó khăn khi tiếp cận thị trường Châu Âu.Thị trường EU là một thị trường tiềm năng mà chúng ta cần tranh thủ tiếp cận.Mặt khác, đề tài cũng chỉ ra định hướng cho xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường EU nói riêng và thị trường thế giới nói chung.Các giải pháp đặt ra đối với thuỷ sản Việt Nam chủ yếu là đầu tư để nâng cao chất lượng,gia tăng sức mạnh và tính cạnh tranh, thương hiệu thuỷ sản Việt Nam trên trường quốc tế. Các rào cản kỹ thuật của EU đối với mặt hang thuỷ sản ngày càng chặt chẽ hơn,nghiêm nghặt hơn.Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải chú ý đến các rào cản này để có biện pháp đề phòng,tránh những vụ kiện thương mại ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu Việt. Mặt khác cần tự hoàn thiện bản thân sao cho đáp ứng được yêu cầu của những nhà nhập khẩu khó tính Châu Âu.Qua đó cũng nâng cao thương hiệu của mặt hàng thuỷ sản nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung tại thị trường Châu Âu. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Giáo trình kinh tế quốc tế. - Sách : Rào cản trong thương mại quốc tê Tác giả :Đinh Văn Thành Nhà xuất bản Thống kê Năm 2004 - Tài liệu điện tử : KINH TẾ - TIÊU DÙNG Thứ hai, 15-09-2008 Tài liệu: How to export seafood to EU TRUNG TÂM XÚC TIẾN PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI HẢI PHÒNG (HPTRADE) Tạp chí số 5.2006 >> Vấn đề hôm nay..Tạp chí Hoạt động Khoa Học Ths. Hồ Trung Thanh Viện Nghiên cứu Thương mại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6169.DOC
Tài liệu liên quan