Tài liệu Đề tài Tính cấp thiết của công nghiệp hoá - hiện đại hoá: Lời nói đầu
“Xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”, đó là nhiệm vụ của cả dân tộc Việt Nam. Lớp lớp cha anh đã ngã xuống để bảo vệ cho mảnh đất quê hương, đánh đuổi quân xâm lược. Hòa bình lập lại chúng ta lại trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc đưa đất nước tiến lên CNXH. Một trong những khẩu hiệu được đề ra trong thời kỳ mới là: “Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước”. Khi nói đến công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nói đến quá trình dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế, cải tiến cơ cấu lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất cao nhất và là cái quyết định cho sự tồn tại của xã hội.
Để thực hiện được vấn đề này không phải là dễ, nó rất khó khăn và đòi hỏi mỗi người phải hết sức nỗ lực mới có thể giành thắng lợi Có những nước tiên phong đi đầu thực hiện chương trình công nghiệp hoá mất hàng trăm năm như Anh, Đức, Mỹ... Còn những nước đi sau có thuận lợi hơn vì nó đã có nền tảng kế thừa của các nước đi trước nên việc thực hiện công ...
28 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tính cấp thiết của công nghiệp hoá - hiện đại hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
“Xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”, đó là nhiệm vụ của cả dân tộc Việt Nam. Lớp lớp cha anh đã ngã xuống để bảo vệ cho mảnh đất quê hương, đánh đuổi quân xâm lược. Hòa bình lập lại chúng ta lại trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc đưa đất nước tiến lên CNXH. Một trong những khẩu hiệu được đề ra trong thời kỳ mới là: “Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước”. Khi nói đến công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nói đến quá trình dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế, cải tiến cơ cấu lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất cao nhất và là cái quyết định cho sự tồn tại của xã hội.
Để thực hiện được vấn đề này không phải là dễ, nó rất khó khăn và đòi hỏi mỗi người phải hết sức nỗ lực mới có thể giành thắng lợi Có những nước tiên phong đi đầu thực hiện chương trình công nghiệp hoá mất hàng trăm năm như Anh, Đức, Mỹ... Còn những nước đi sau có thuận lợi hơn vì nó đã có nền tảng kế thừa của các nước đi trước nên việc thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá có phần nhanh hơn và thuận lợi hơn rất nhiều và họ đã đạt được thành công rực rỡ như các nước khối Míc và một số nước Nam Mỹ.
Còn nước ta thì sao? Đảng và Nhà nước cùng với các chuyên gia kinh tế của chúng ta đang tìm lời giải đáp bằng hành động cụ thể tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản đã thực hiện xong.
Trước những biến động to lớn của thời đại, trước những thách thức và thời cơ, vận hội mới, Việt Nam đã làm được gì để tiến hành Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước? Bao giờ Việt nam sẽ thành một nước công nghiệp? Những câu hỏi đó sẽ được trả lời rõ hơn ở phần sau.
Để có một nền công nghiệp phát triển vững mạnh, đó là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là sự nghiệp toàn dân. Phấn đấu “ Dân giàu ,nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như đại hội IX của Đảng (2001) đã đề ra.
Phần I:
tính cấp thiết của
công nghiệp hoá - hiện đại hoá
I. tính cấp thiết và Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nươc ta hiện nay.
1. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Trong nền kinh tế xã hội, bất kỳ một phương thức sản xuất nào cũng vậy muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến hai cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào những năm 30 của thế kỷ XVIII với mục tiêu chuyển lao động thủ công sang lao động cơ khí. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 diễn ra vào những năm đầu thế kỷ XX dưới sự tác động mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật. Vì vậy người ta gọi là cuộc cách mạng khoa học ở trình độ cao với mục tiêu chuyển sang tự động hoá sản xuất.
Chủ nghĩa Mac - Lênin đã khẳng định rằng: muốn chuyển một nền kinh tế từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn đòi hỏi phải có một cơ sở vật chất kỹ thuật đủ mạnh đó là nền công nghiệp cơ khí hoá.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội đã xuất phát tại một điểm hết sức thấp đó là nền công nghiệp lạc hậu năng suất thấp, kỹ thuật thủ công, vì vậy để xây dựng một nền sản xuất lớn với năng suất lao động ngày càng cao Đảng ta đã xác định phải xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam thông qua con đường CNH - HĐH đất nước với tư tưởng nhất quán như vậy nên ngay từ đại hội lần thứ III năm 1960 Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam. Nhưng Đảng ta cũng nhận thức được rằng thời kỳ quá độ là lâu dài và ứng với mức độ CNH có một nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau.
Cơ sở võt chất kỹ thuật là một hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật công nghệ thích ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Vì vậy việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta.
2. Công nghiệp hoá là tất yếu khách quan:
Đây chính là nội dung và con đường duy nhất để đưa nền kinh tế xã hội nước ta phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả, nhằm thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội văn minh.
Phát triển kinh tế xã hội là quy luật khách quan của tồn tại phát triển của xã hội loài người và của bất kỳ nước nào, không loại trừ ngay cả những nước giàu mạnh đã đạt trình độ phát triển cao vấn đề khác giữa các nước chỉ là ở mục tiêu, nội dung cách thức phát triển.
Nước ta thuộc vào một trong những nước nghèo nhất thế giới một nước nông nghiệp lạc hậu chưa vượt qua khỏi "xã hội truyền thống" để sang xã hội "văn minh công nghiệp". Do đó khách quan đòi hỏi phải tiến hành CNH và CNH là nội dung và phương thức là con đường phát triển và có hiệu quả. Đối với nước ta hiện nay và trong vài kỷ tới CNH là phát triển kinh tế - xã hội về cơ bản không khác nhau về nội dung (mặc dù nội dung phát triển kinh tế - xã hội có thể rộng lớn hơn chút ít) và đều nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát là dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại, văn minh.
CNH không phải là mục tiêu đích thực tự thân và nó là phạm trù lịch sử cho nên mục tiêu trực tiếp cụ thể không thể nào khác là phải nhằm phát triển kinh tế - xã hội nhanh bền vững có hiệu quả trước mắt trong chặng đường đầu này CNH phải nhằm đưa nền kinh tế nước ta "Ra khỏi khủng hoảng ổn định tình hình kinh tế - xã hội phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XX".
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp húa hiện đại hóa là con đường đó được Đảng và Nhà nước ta xác định hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế, đưa đất nước ra khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại
II. Quan điểm và mục tiêu của CNH - HĐH
1. Quan điểm CNH ở nước ta CNH XHCN được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đảng ta đã xác định thực chất của CNH XHCN là " Quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực sự phân công lao động mới về lao động xã hội và quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất và mở rộng" bản chất quá trình công nghiệp hoá được bao hàm trên các mặt sau đây.
a. CNH nhanh, bền vững và có hiệu quả KT-XH cao
Sự chậm trễ kém hiệu quả trong thực hiện CNH ở nước ta hơn 30 năm qua của thời đại và của dân tộc buộc chúng ta phải đẩy nhanh CNH, mặt khác thời cơ và điều kiện cũng cho phép chúng ta có thể tăng nhanh.
Thực hiện công nghiệp hoá theo quan điểm trên có thể xuất hiện các mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa tăng nhanh với bền vững , giữa tăng nhanh, bền vững và hiệu quả, mâu thuẫn giữa hiệu quả kinh tế và xã hội. Cần kết hợp hài hoà các yêu cầu đó thông qua, xác định các mục tiêu cụ thể lựa chọn cơ cấu kinh tế, lựa chọn công nghệ, áp dụng cơ chế và chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển các trọng điểm
b. Công nghiệp hoá kết hợp với hiện đại hoá:
Sự kết hợp công nghiệp hoá phải được thể hiện:
- Tranh thủ kỹ thuật công nghệ hiện đại ở một số ngành, một số doanh nghiệp, một số dây chuyền và mặt hàng có nhu cầu, có điều kiện và mang lại hiệu quả cao.
- Hiện đại hoá công nghệ truyền thống.
- Khai thác sử dụng cải tiến hiện đại hoá kỹ thuật hiện có.
- Nhà nước phải có chiến lược chính sách khoa học và công nghệ phù hợp với chiến lược chính sách phát triển kinh tế xã hội.
- Doanh nghiệp phải lựa chọn công nghệ phù hợp với mục tiêu kinh doanh của mình.
c. CNH phải gắn liền với quá trình hình thành phát triển và chuyển dịch cơ câú kinh tế theo hướng: phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo ra một cơ cấu đa ngành, năng động tiến bộ và có hiệu quả.
Tuy chỉ là phương tiện, công cụ thực hiện mục tiêu CNH nhưng cơ cấu kinh tế đóng vai trò quyết định đến thành bại của qúa trình CNH , phân công lao động ở nước ta chưa phát triển, tính chất sản xuất hàng hoá còn thấp, kinh tế thị trường còn ở thời kỳ phôi thai. Do đó muôn CNH nhanh bền vững có hiệu quả cần phải định hướng đúng và có cơ chế chính sách thích hợp cho qúa trình hình thành phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hướng được lựa chọn có thể là:
- Thúc đẩy phân công lao động xã hội làm hình thành thêm những nghề mới có tác động tốt tới quá trình tăng trưởng nhanh, bền vững và có hiệu quả của kinh tế xã hội.
- Phát triển và hoàn thiện các ngành hiện có
- Phát triển các thành phần kinh tế để thực hiện dân chủ hoá kinh tế và giải phóng mọi lực lượng sản xuất.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành , theo thành phần kinh tế và theo vùng lãnh thổ trên cơ sở phát triển lợi thế so sánh tham gia vào phân công hợp tác quốc tế và ứng dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học - công nghệ. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch tới sẽ là: Cơ cấu đa ngành, trong đó các ngành trọng điểm và một số ngành mũi nhọn được phát triển nhanh hơn: sẽ là cơ cấu nhiều thành phần định hướng lên CNXH trong đó chú trọng đa dạng hóa sở hữu và quản lý đối với các loại hình kinh doanh : sẽ là cơ cấu mà công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn nền kinh tế sẽ chuyển từ cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hiện nay sang cơ câú công - công nghiệp - dịch vụ vào cuối thế kỷ này.
d. Kết hợp với mô hình "hướng ngoại " với mô hình "hướng nội"
- "Hướng ngoại " làm chiến lược ưu tiên
- Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc phát triển sản xuất hàng hoá trong quá trình CNH phải kết hợp chặt chẽ giữa thành phần nhập và mở rộng thị trường - quốc tế với việc giữ và mở rộng thị trường quốc tế với việc giữ và mở rộng thị trường trong nước. Trong sự kết hợp ấy thị trường quốc tế được coi là hướng trọng tâm.
- Sự kết hợp này vừa đảm bảo cho nền KT nước ta hội nhập vào hoạt động KT trong khu vực và trên thế giới, tạo cơ sở và động lực phát triển sản xuất trong nước mặt khác quy mô và sự phát triển của thị trường trong nước cần được phát huy đến mức tối đa góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề KT-XH.
- Việc vận dụng quan điểm này phải được thể hiện trực tiếp trong chiến lược phát triển các ngành, các chính sách khuyến khích xuất khẩu, các chính sách khuyến khích bảo hộ hàng sản xuất trong nước.
e. Kết hợp kinh tế quốc phòng với an ninh:
- Mục tiêu quốc phòng và an ninh và ổn định chính trị xã hội và điều kiện quan trọng để bảo vệ mục tiêu kinh tế ngược lại, mục tiêu kinh tế đạt được sẽ cho chúng ta khả năng và điều kiện thực hiện các mục tiêu quốc phòng an ninh ổn định chính trị - xã hội.
2. Mục tiêu CNH - HĐH
Từ nay đến năm 2010 ra sức phấn đầu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp .
- Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động máy móc năng suất lao động và hiệu quả sản xuất và kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.
- Về quan hệ sản xuất chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và chế độ phân phối gắn liền với nhau phát huy các nguồn lực tạo ra nguồn lực manh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Về đời sống vật chất văn hoa, nhân dân có cuộc sống no về tinh thần và vật chất, quan hệ lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc.
Phấn đâú đến năm 2000 GDP bình quân đâù người tăng gấp đôi năm 1990. Nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt khoảng (9-10%) công nghiệp 14-15% dịch vụ 12-13%, xuất khẩu khoảng 28%, tỷ lệ đầu tư/ GDPkhoảng 30%, năm 2000 nông nghiệp chiếm 19-20% công nghiệp và xây dựng 34-35% dịch vụ 45-46% GDP. Tốc độ đổi mới công nghệ đạt 10%/năm trở lên.
Phần II:
Nội dung cơ bản của
công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta
I. Nội dung chiến lược lâu dài của Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá.
1. Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá là quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, quá trình cơ khí hoá nền kinh tế dựa trên kỹ thuật công nghiệp tiên tiến hiện đại.
Thế giới đã trải qua 2 cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật. Cuộc cách mạng lần thứ I diễn ra vào thế kỷ thứ XVIII, cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ II vào thế kỷ thứ XIX với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có nhiều nội dung phong phú như ta đã biết, nhưng trong đó có thể nêu nên những nội dung nổi bật nhất của tiến trình CNH - HĐH.
Cách mạng về phương pháp sản xuất: đó là tự động hoá, ngoài phạm vi tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá có gồm cả sử dụng rộng rãi người máy thay thế con người điều khiển quá trình vận hành sản xuất.
- Cách mạng năng lượng: bên cạnh năng lượng truyền thống như nhiệt điện, thuỷ điện. Thì ngày nay con người còn khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng rộng rãi như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời.
- Trước đây người ta sử dụng vật liệu tự nhiên thì ngày nay con người tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả các vật liệu tự nhiên.
- Ngày nay với thành tựu của công cuộc cách mạng sinh học đã áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh thái và nhiều ngành khác.
- Cách mạng điện tử và tin học: Đây là một lĩnh vực mà ngày nay loài người ít quan tâm bởi nó rất cần thiết trong xã hội loài người văn minh và tiến bộ.
Công nghệ ngày nay bao gồm những phạm vi rộng lớn, nó không chỉ là phương tiên, thiết bị do con người sáng tạo ra mà còn là các bí quyết biến cái nguồn lực sẵn có thành sản phẩm. Với ý nghĩa đó khi nói tới công nghệ nó cũng bao hàm cả kỹ thuật đặc biệt là hiện nay khoa học và công nghệ luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.
Như thực trạng nước ta hiện nay để nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ đó là một vấn rất khó khăn từ vật chát cho đến trình độ khoa học do đó để tiến kịp không bị lạc hậu so với thế giới. Thực hiện thành công CNH-HĐH bằng con đường nhanh nhất đó là chuyển giao công nghệ.
- Chuyển giao công nghệ có tác dụng sau:
+ Rút ngắn khoảng cách tụt hậu của các nước chậm phát triển so với các nước phát triển.
+ Tạo điều kiện khai thác có hiệu quả lớn các nguồn lực ở trong nước nhằm tăng trưởng kinh tế nhanh.
+ Đối với những nước đang phát triển như nước ta trong qúa trình chuyển từ mô hình chiến lược CNH hướng nội thay thế nhập khẩu sang mô hình chiến lược CNH "hướng ngoại" thì nó thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch này và cho phép đạt được hiệu quả cao.
Đảng và Nhà nước đã xác định xây dựng đất nước theo con đường XHCN việc tiến hành CNH trong điều kiện đó tất nhiên phải áp dụng thành tựu mới khoa học công nghệ nhằm gắn liền CNH với HĐH nền kinh tế quốc dân. Do vậy cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật của nước ta được xác định là then chốt và nó là quốc sách là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Nước ta tiến hành Công Nghiệp Hoá chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí trong điều kiện cuộc cách mạng Khoa Học Công Nghệ hiện đại đang nổ ra để tranh thủ công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Quá trình Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá có những bươc đi thích hợp kết hợp cả tuần tự, nhảy vọt rồi cả quy mô lớn, vừa và nhỏ nhưng chủ yếu là vừa và nhỏ.
Ngày nay nước ta trong điều kiện kinh tế mở mới các chính sách đa phương hoá và đa dạng hoá kinh tế kỹ thuật đã và sẽ tạo khả năng to lớn để nước ta có thể vừa tranh thủ được sự giúp đỡ từ các mặt ở nước ngoài như vốn, nguồn lực thiết bị kỹ thuật và phát huy nguồn lực trong nước để cơ khí hoá hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
2. Cùng với quá trình co khí hoá Hiện Đại Hoá diễn ra phân công lai lao động Xã Hội chuyển một lao động trong nông nghiệp sang ngành kinh tế khác. Đó chinh là sự chuyển dịch co cấu kinh tế xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp ly trong cả nước đó là cơ cấu: Công - Nông Nghiệp - Dịch Vụ.
Một cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác được những tiềm năng của mỗi vùng mỗi đát nước.
3. Quá trình Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất trên cơ sở đó để xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đa dạng các hình thức sở hữu trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
4. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý:
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một cơ cấu kinh tế cũ lạc hậu sang một cơ cấu kinh tế mới hợp lý. Cơ cấu kinh tế là tổng hợp hữu cơ các mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế các thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế thể hiện ở các tỷ lệ cân đối kinh tế và phản ánh trạng thái biến đổi của phân công lao động xã hội. Trong cơ cấu kinh tế quan hệ giữa công nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ là các bộ phận có tầm quan trọng.
Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý là yêu cầu tất yếu trong qúa trình công nghiệp hoá cơ cấu kinh tế phải đảm bảo những yêu cầu sau đây:
- Cơ cấu kinh tế phải phản ánh đúng các yêu cầu kinh tế của các quy luật kinh tế, quy luật khách quan.
- Cơ câú kinh tế phải phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại của thế giới hiện nay.
- Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển
- Cơ câú kinh tế phải đảm bảo tính hợp lý nhằm khai thác sử dụng tối ưu các nguồn lực kinh tế.
Để đáp ứng được những yêu cầu đó tính hợp lý của cơ câú kinh tế xét về nội dung chính là cơ cấu ngành và vùng. Cơ cấu kinh tế ngành và vùng được xác định một cách đúng mức phải phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, vừa đầu tư vốn vào vùng trọng điểm vừa đầu tư vào vùng núi cao, hẻo lánh nhằm đưa vùng này phát triển kịp với quy mô cả nước.
Xây dựng một cơ câú kinh tế hợp lý trong qúa trình hoạt động tiến hành công nghiệp hoá là một hoạt động có ý thức, có tính khách quan phù hợp với hiện trạng tiềm lực và khả năng hoạt động của nền kinh tế ta hiện nay. Mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới dựa trên cơ sở bình đẳng hợp tác đôi bên cùng có lợi. Nước ta có một qúa trình phát triển lâu dài trong thời ky phụ thuộc vào bọn thực dân phong kiến từ đó làm xã hội phân tán, các thành phần kinh tế khó hoạt động được, với những yêu cầu đó mà khi đất nước được giải phóng , thì Đảng ta đã xác định xây dựng nền kinh tế theo định hướng XHCN, với mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Từ khi đổi mới đến nay Đảng cũng đã vấp phải một số sai lầm nóng vội duy ý chí, chủ quan với thực tế. Qúa trình đôỉ mới chú trọng phát triển công nghiệp nặng, coi thường phát triển công nghiệp vừa và nhỏ.
Sau đại hội Đảng lần thứ VI Đảng ta đã có những phương hướng đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng XHCN dưạ vào khả năng trong nước và tập trung vốn nước ngoài. Trong những năm đổi mới này nền kinh tế bắt đầu có hướng phát triển mạnh, tăng trưởng nhanh đạt kết quả cao. Trên cơ sở đổi mới đó để có khả năng và điều kiện làm tốt các yêu cầu công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo.
Để từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế đó, cần phải thực hiện sự kết hợp với công nghệ với nhiều trình độ khác nhau. Đa dạng hoá mặt hàng bằng kỹ thuật, tranh thủ công nghệ bằng mũi nhọn tiên tiến, điều đó cho phép sử dụng phù hợp người lao động dồi dào vốn có của đất nước chú trọng phát triển các thành phần kinh tế với quy mô vừa và nhỏ là chính, từng bước xây dựng cơ câú kinh tế hợp lý hơn trong những năm tiếp theo.
Trong những năm trước mắt, tạo công ăn việc làm sử dụng nguồn năng lao động xã hội, việc tiến hành phân công lại lao động xã hội cần phải được tiến hành trên tất cả các địa bàn tiến hành sắp xếp phân bố lại chỗ hoặc chuyển một số bộ phận từ nơi này sang nơi khác để xây dựng các vùng kinh tế mới, khu công nghiệp mới... Chúng ta luôn quan tâm đến việc sắp xếp lại lao động tại chỗ đó là tiền đề có thể khai thác hết tiềm năng sẵn có của doanh nghiệp hay địa phương.
II. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong những năm trước mắt.
Quá trình công nghiệp hoá những năm trước mắt của Đảng và Nhà nước ta đã xác định đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Nâng cấp cải tạo và mở rộng và xây dựng có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế. Phát triển có lựa trọn một số ngành công nghiệp nặng phục vụ cho xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển nông nghiệp trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện vốn, công nghệ, thị trường, phát huy nhanh và có hiệu quả. Cải tạo nâng cấp và xây dựng mới hệ thông giao thông để từ đó nhàm phát triển mạnh ngành dịch vụ như: du lịch, thương mại. Hình thành dần một số mũi nhọn như chế biến nông lâm thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí một số ngành cơ khí chế tạo , công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo khoa học công nghệ.
1. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn:
- Phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp hình thành các vùng tập trung chuyên canh, quy mô rộng khai thác nguồn lực sẵn có của vùng đồng thời tạo nên một cơ câú hợp lý về cây trồng vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đáp ứng đủ nhu cầu hiện tại cho người sản xuất, vừa tạo ra được sản phẩm dư thừa cho xã hội. Phát triển đồng bộ giữa các ngành đáp ứng nhu cầu cho công nghiệp chế biến của thị trường trong và ngoài nước.
- Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, sinh học hóa...
- áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào quá trình phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản với chất lượng tốt, khai thác hết khả năng các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có và gắn liền với những ngành công nghệ khác.
- Phát triển những ngành nghề, làng truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh hiện đại.
Hoàn thành việc giao đất khoán rừng cho các hộ nông dân, khuyến khích huy động nhiều nguồn vốn, cho phát triển nông lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Có chính sách khuyến khích và trợ giúp vốn cho nông dân xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết những vấn đề khó khăn về vốn, về giá cả vật tư nông nghiệp và hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm.
2. Phát triển công nghiệp:
- Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ưu tiên các ngành nghề chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin. Tăng thêm năng lực sản xuất tương ứng với yêu cầu phát triển kinh tế nâng cao khả năng tự chủ về kinh tế và quốc phòng.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng nhằm đáp ứng các yêu cầu tối thiểu cần thiết trong từng thời kỳ.
3. Xây dựng kết câú hạ tầng
Xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông đường xá mở rộng thêm một số tuyến giao thông trọng yếu, kết hợp giao thông với thuỷ lợi, tận dụng giao thông đường thuỷ, mở thêm đến các vùng sâu, vùng xa, cải thiện giao thông ở các thành phố lớn, cải tạo nâng cấp một số cảng sông cảng biển, sân bay, xây dựng dần cảng biển nước sâu.
Phát triển nguồn điện cải tạo mở rộng lưới điện đáp ứng nhu cầu và cung cấp điện ổn định cải thiện việc cấp thoát nước ở đô thị, thêm nguồn nước sạch cho nông thôn.
Tăng đầu tư kết cấu hạ tầng cho xã hội như giáo dục, y tế khoa học - văn hóa- thông tin.
4. Phát triển nhanh các ngành du lịch, các ngành dịch vụ :
Như hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, thương mại vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán.... và các dịch vụ phục vụ cuộc sống của nhân dân.
Từng bước cải thiện nâng cấp các trung tâm du lịch, thương mại có tầm cỡ khu vực nhằm thu hút ngày càng nhiều khách du lịch cua các nước.
5. Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ:
Chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thể tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ làm cho tất cả các vùng đêù phát triển.
Đầu tư ở mức cần thiết cho các vùng kinh tế trọng điểm. Để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt chú trọng đến những vùng còn kém phát triển, nhất là các vùng cao biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng có bước tiến nhanh hơn, dần dần giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng.
6. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại tạo thêm mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm dần việc nhập siêu ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập những hàng tiêu dùng chưa thiết yếu, có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.
Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi thích hợp hơn.
Việc sử dụng vốn vay và thu hút trực tiếp vốn đầu tư vào những dự án khả thi nhất mang tinh cấp thiết và trọng điểm nhất nhằm phát triển đất nước
III. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam - những khó khăn và thuân lợi
1. Khái quát quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam
ở nước ta, công cuộc công nghiệp hoá đất nước đã bước khởi đầu từ đại hội III (1960) của Đảng. Chủ trương của Đảng đã được định hướng thực hiện qua kế hoạch dài hạn 5 năm. Song điều kiện nền kinh tế vốn ngheò nàn lạc hậu, phần do chính sách cấm vận của Mỹ làm cản trở sự giao lưu kinh tế giữa nước ta và các nước trên thế giới. Nhưng quan tâm hơn cả là sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước có sai lầm trong việc đề ra chủ trương cải tạo, xây dựng kinh tế thể hiện ở tư tưởng nóng vội chủ quan duy ý chí, trong công nghiệp hoá do nôn nóng đẩy mạnh qúa mức việc xây dựng công nghiệp nặng như "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng" muốn hiện đại hoá nhanh, nhưng nền kinh tế của ta vốn nhỏ bé, phân tán lạc hậu mà lại đâù tư nhiều vốn kỹ thuật, tập trung sức lực lớn xây dựng nhiều cơ sở công nghiệp nặng, nhiều công trình cộng cộng trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn và chưa đủ những tiền đề cần thiết. Chính những sai lầm trên đã dẫn đến hậu quả mất cân đối lớn trong nền kinh tế, sản xuất phát triển chậm, thu nhập quốc dân và năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội.
Đảng ta đã sớm nhận thức ra những sai lầm của mình, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) là cái mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển sang thời kỳ đổi mới. Đại hội đã nhận định đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là một thời kỳ dài, đầy khó khăn và phải trải qua một chặng đường nhất định, và bây giờ chúng ta đang ở chặng đường đầu tiên. Nhiệm vụ mục tiêu của chặng đường đầu tiên là:
"ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá cho chặng đường tiếp theo". Trong 5 năm trước mắt (1986-1990) cần tập trung sức người sức của để thực hiện bằng được mục tiêu của 3 chương trình kinh tế : lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Nội dung của 3 chương trình kinh tế là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.
Đường lối đổi mới của Đảng đề ra từ đại hội VI đã được thực hiện và đi vào cuộc sống và bước đầu đã đạt được những thành quả hết sức quan trọng và có ý nghĩa, trước tiên là lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đời sống nhân dân đã có phần ổn định, sản lượng lương thực đáp ứng nhu cầu cả nước, hàng hoá thị trường đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với các nhu cầu thị trường, với phần bao cấp của Nhà nước về vốn, giá cả tiền lương... giảm đáng kể lạm phát được đẩy lùi xuống mức có thể kiềm chế được, các cơ sở kinh tế có điều kiện thuận lợi để hạch toán kinh doanh, đời sống nhân dân được giảm bớt khó khăn.
Trên cơ sở phát huy những thành quả đã đạt được, Đại hội lần thứ VII (1991) đã đề ra chủ trương kế thừa, phát huynhững ưu điểm đã đạt được, khắc phục những khó khăn hạn chế trong quá trình đổi mới bổ sung phát triển đường lối đổi mới của đất nươc tiến lên
Phương hướng và mục tiêu chính mà đại hội VII đề ra "Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát" thì đến nay chúng ta đã đạt được mục tiêu ấy, chúng ta đã từng bước ổn định và nâng cao hiệu quả sản xuất, đời sống của nhân dân đã từng bước được cải thiện, bước đầu có tích luỹ nội bộ nền kinh tế.
Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta, đến nay nền kinh tế của chúng ta đã chấm dứt được tình trạng suy thoái và đang trên đà phát triển.
2. Những khó khăn khi nước ta tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá
a. Những khó khăn:
Trong thời kỳ đầu của việc CNH-HĐH đất nước chúng ta đang còn ngỡ ngàng trước nhiều điều mới mẻ, nhân thức về CNH - HĐH còn hạn chế, bởi vì nước ta vừa thoát khỏi hai cuộc chiến tranh tàn khốc là chống đế quốc Mỹ và Pháp, do đó đội ngũ cán bộ của ta không có điều kiện nâng cao nhận thức về CNH- HĐH trong hoạt động còn nhiều mò mẫm theo kiểu "dò đa qua sông", cơ sở vật chất và kỹ thuật còn quá lạc hậu cũ kỹ do đó đã gây cản trở rất lớn đến việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mà không tuân theo trình tự từng bước của vấn đề, chính vì thế mà chúng ta không đẩy nhanh được sự nghiệp CNH mà còn gây thêm cản trở cho việc tiến hành và xây dựng mô hình CNH-HĐH cho hiện tại và tương lai.
b. Nền kinh tế nước ta vẫn xếp vào nước chậm phát triển:
Lạm phát vẫn chưa được kìm chế vững chắc điển hình: năm 1986: 587,2%;năm 1987: 416,77%; năm 1988: 410,9%; năm 1989: 30%, nguồn vốn thì hạn chế mà lại đương đầu với cuộc cách mạng quyền lực về kinh tế và thương mại, tình hình quốc phòng và an ninh còn nhiều phức tạp. Công tác giáo dục và đào tạo cộng với công tác nghiên cứu và triển khai còn chưa theo kịp với yêu cầu. Đội ngũ cán bộ đặc biệt là cán bộ kinh tế còn non kém và bố trí phân công chưa hợp lý với năng lực. Bộ máy của Đảng Nhà nước và các đoàn thể còn quá cồng kềnh, kém hiệu lực, tình trạng tham những quan liêu, lãng phí vẫn còn là một vấn đề.
Tích luỹ vốn nội bộ nền kinh tế còn quá thấp, Nhà nước thiếu chính sách để huy động nguồn vốn trong dân. Năm 1995 đâù tư xâydựng cơ bản trong nước (kể cả nguồn vốn khấu hao cơ bản) chỉ chiếm 16,7% GDP, trong đó phần vốn ngân sách chỉ chiếm 4,2GDP; đây là một con số còn qúa khiêm tốn so với yêu cầu phát triển kinh tế và để tiếp thu có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài.
Trong phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vừa lúng túng, vừa có tình trạng buông lỏng, chưa phát huy tốt được mọi tiềm năng và giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất. Các vướng mắc về cơ chế chính sách chậm được tháo gỡ dẫn đến không tạo đủ điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn nhằm giúp đỡ các kinh tế hợp tác mới xuất hiện phát triển thuận lợi.
Cơ chế thị trường còn sơ khai, vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế còn non kém, hệ thống quản lý cũng đang trong quá trình chuyển đổi, luật pháp cơ chế và chính sách chưa đồng bộ, nhất quán và tác động cùng chiều để thúc đẩy và hướng dẫn nền kinh tế phát triển mạnh, nâng cao hiệu quả và đúng hướng.
Tình hình xã hội còn nhiều mặt tiêu cực, tệ nạn tham nhũng của công, buôn lậu chưa được ngăn chặn, thậm chí còn tiếp tục do đó làm thất thoát ngân sách Nhà nước lên đến mức đáng phải quan tâm.
Hệ thống chính trị có đổi mới nhưng vẫn còn có nhiều nhược điểm, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng chưa được nâng lên theo kịp với đòi hỏi của tình hình công tác tuyển chọn bồi dưỡng cán bộ còn nhiều lúng túng, chậm trễ.
Công nghệ sản xuất của chúng ta chủ yếu là công nghệ cũ và chắp vá điều đó đã hạn chế khả năng tăng năng suất và tăng chất lượng sản xuất ra sản phẩm phải mất nhiều thời gian và nhiều nguyên liệu, tốn nhiều sức người điều đó dẫn đến quá trình nâng cao đời sống của nhân dân và qúa trình công nghiệp hoá đất nước bị kéo dài. Nước ta là một nước giàu tài nguyên khoáng sản nhưng chúng ta chưa có một kế hoạch khai thác tài nguyên hợp lý, tiết kiệm do đó làm phung phí nguồn tài nguyên đến mức nguy cơ báo động.
3. Những thuận lợi khi nước ta tiến hành công nghiệp hoá
Nước ta tiến hành CNH- HĐH trong một tình hình chính trị - xã hội ổn định. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự tham gia quản lý của Nhà nước đang hình thành và phát triển. Nguồn lực vật chất được tăng cường, mức sống nhân dân tăng nhanh rõ rệt. Sản lượng lương thực, thực phẩm đã tăng lên đáng kể từ 13,3 triệu tấn năm 1970-1980 đã tăng lên 26,5 triệu tấn năm 1995 và đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, nền kinh tế đã bắt đầu có tích luỹ. Trong 5 năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 8,2%. Vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 chiếm 18,8GDP, đến năm 1995 đã tăng lên 27,4% GDP. Sự nghiệp giáo dục của đất nước có nhiều tiến bộ cải thiện, trình độ dân trí được nâng lên. Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước có thêm kinh nghiệm.
Chúng ta đã tự do quan hệ bên ngoài sau khi Mỹ đã bãi bỏ lệnh cấm vận đối với nước ta, xuất khẩu tăng lên khá nhanh và bước đầu đã phần nào thay thế hàng nhập khẩu.
Xu hướng quốc tế hoá kinh tế tăng lên, cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra sôi động, kinh tế khu vực châu á - Thái Bình Dương đã phát triển nhanh. Quan hệ quốc tế của nước ta ngày càng mở rộng.
Nước ta có những lợi thế quan trọng để phát triển. Đó là : Chế độ chính trị ưu việt, vị trí địa lý kinh tế thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công tương đối rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Nhân dân ta lại có nhiều khả năng học hỏi kinh nghiệm và tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế giới.
Nước ta bước vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước với xuât phát điểm rất thấp về kinh tế và năng lực khoa học công nghệ. tuy nhiên biết phát huy lợi thế của người đi sau tránh những thất bại mà người đi trước đã gặp, lợi dụng cơ hội tiềm tàng là đi thẳng vào công nghệ tiên tiến thích hợp, thì Việt Nam có thể tìm kiếm được con đường phát triển "không tuần tự", đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, đồng thời với những tiến bộ xã hội công bằng và văn minh
Phần III:
những phương hướng và giải pháp để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá
I. Những phương hướng cần thiết để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1. Nguồn vốn để tiến hành công nghiệp hoá
Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới có nền kinh tế kém phát triển như nước ta để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại thì tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới trong con đường công nghiệp hoá phải có nhiều điều kiện trong đó vốn là một trong những điều kiện hết sức quan trọng. Trong điều kiện đất nước ta hiện nay vấn đề tích luỹ một nguồn vốn dồi dào cho việc xây dựng và đổi mới là một trong những cơ sở tiền đề đầu tiên. Nước ta chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường ta cần giải quyết một số khía cạnh sau đây:
- Hiện nay để phát huy hết những khả năng tiềm tàng về vật tư, lao động tất yếu phải thực hiện sự chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá sản xuất nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, đa dạng hoá sản phẩm để thoả mãn các yêu cầu của nhân dân.
- Quá trình công nghiệp hoá kèm theo sự thay đổi lớn về số lượng, chất lượng, về cơ cấu ngành sản xuất nhiều ngành nghề mới xuất hiện, do đó tất yếu phải đòi hỏi phải có vốn đâu tư mới có thể đáp ứng được yêu cầu đó.
Nguồn gốc cơ bản của vốn tích luỹ là lao động thặng dư, nhưng đều có ý nghĩa quyết định là phải tìm mọi biện pháp để tăng năng suất của lao động thặng dư chứ không phải tăng độ dài thời gian lao động.
Muốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho một nền kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước ta phải tích luỹ được một nguồn vốn. Nguồn vốn để tiến hành công nghiệp hoá bao gồm nguồn vốn tích luỹ từ trong nước và nguồn vốn tích luỹ từ nước ngoài.
Để tăng cường tích luỹ vốn nội bộ trong nước ta cần phải thực hiện mạnh mẽ các biện pháp sau đây
- Nước ta có thế mạnh là nguồn lao động dồi dào và đất đai phì nhiêu. Nguồn tài nguyên sẵn có trong nước dồi dào, điều kiện khí hậu thay đổi theo màu, đó là những điều kiện thuận lợi để xen canh gối vụ, bố trí họp lý các khâu trong quá trình sản xuất, hạn chế những tác động của điều kiện tự nhiên, nhằm tận dụng hết thế mạnh của từng vùng nâng cao đời sống nội bộ của các thành viên trong vùng đồng thời tích luỹ vào ngân sách Nhà nước. Đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển mọi thành phần kinh tế.
- Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương các vùng tiến hành khai thác nguồn lực sẵn có. Đề ra những chính sách kinh tế phù hợp với thực trạng kinh tế của từng địa phương, từng vùng.
- Quy hoạch các địa bàn kinh tế trọng điểm, hình thành những cụm những khu công nghiệp của từng vùng, từng địa phương một cách hợp lý, xây dựng ở đó những cơ sở hạ tầng cần thiết và quy chế hành chính thích hợp nhằm thu hút vốn đầu tư trong nước cho phát triển sản xuất kinh doanh, theo mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, đảm bảo an ninh quốc gia.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi cho phát triển đầu tư , xây dựng chính sách luật lệ đầu tư rõ ràng, nhất quán để mọi người yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo quy hoạch của Nhà nước, khắc phục nạn quan liêu đơn giản hoá thủ tục hành chính trong việc xin giấy phép đầu tư, đăng ký kinh doanh thuế đất giải phóng mặt bằng, lắp ráp điện nước máy móc thiết bị. Thực hiện tốt luật khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước.
- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, lâm nghiệp và ngư nghiệp các ngành dịch vụ theo hướng đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá mặt hàng, nhằm từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, giảm bớt những khó khăn của đất nước, đồng thời đâỷ nhanh tốc độ công nghiệp hoá ở các chặng đường tiếp theo.
- Thực hiện tiết kiệm, phải coi tiết kiệm là quốc sách, tiết kiệm trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội.
Ngoài nguồn vốn trong nước, nguồn vốn từ bên ngoài có vai trò quan trọng. ở thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế còn thấp kém, nguồn vốn còn hạn hẹp, việc mở rộng quan hệ các hình thức hợp tác quốc tế để thu hút nguồn vốn từ nước ngoài một mặt phải tranh thu sự giúp đỡ của tất cả các tổ chức quốc tế. Đồng thời cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế về lao động, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương coi đó là những biện pháp thiết thực để tăng vốn cho công nghiệp hoá.
2. Đào tạo lực lượng lao động xã hội đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá.
Quá trình sản xuất ra của cải vật chất nói chung cũng như quá trình công nghiệp để tạo lập ra cơ sở vật chất kỹ thuật đều đòi hỏi phải có một đội ngũ những người lao động có trình độ chuyên môn và trình độ tổ chức quản lý ngày càng cao. Để thực hiện được yêu cầu đó mọi quốc gia nói chung cũng như Việt nam ta nói riêng đều xác định chiến lược đặt con người vào trung tâm hàng đầu có tính quyết định nhất.
Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài: coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Theo phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục và đào tạo trong thời gian tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Mở rộng hệ thống các trường lớp dạy nghề và đào tạo công nhân lành nghề. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo với sử dụng: Xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ về các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hoá văn nghệ, quản lý kinh tế, quản lý xã hội... Nhanh chóng xây dựng đội ngũ công chức và nhân viên cho hệ thống hành chính các cấp. Đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi.
Trong việc phát triển nguồn nhân lực, cần coi trọng nguồn nhân lực khoa học , công nghệ kinh doanh quản lý. Trong đào tạo cần kết hợp giữa đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp với đào tạo bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhằm hình thành đội ngũ lao động cần cù, sáng tạo, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ có tác phong công nghiệp. Đó là tiền đề để tiến hành công nghiệp hoá một cách triệt để và có hiệu quả.
- Đảng ta đặt con người vaò vị trí trung tâm trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Đẩy mạnh hơn nữa vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người động lực trực tiếp của sự phát triển.
II. Những điều kiện chủ yếu nhằm thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1. Phát triển thị trường của công nghiệp hoá - hiện đại hoá:
- Trước hết là thị trường đầu ra. Thị trường đầu ra giúp chúng ta xác định được nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế cần sản xuất cái gì?, sản xuất bao nhiêu chất lương như thế nào?, thời gian cung cấp ra sao?
- Đối với Việt Nam muốn phát triển ra thị trường rộng lớn ở trong nước, nhất là thị trường nông thôn, trước hết chúng ta phải phát triển thị trường ngoài nước. Để phát triển thị trường ngoài nước chúng ta cần thực hiện các phương hướng cơ bản sau:
+ Thực hiện chiến lược mạnh về xuất khẩu và khai thác các lợi thế về so sánh để phát triển. Muốn vậy cần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam để mở rộng thị trường nước ngoài.
+ Tổ chức tốt thông tin về thị trường, trong đó chúng ta phải cung cấp các thông tin cần thiết về kinh tế và thương mại của Việt Nam cho nước ngoài, đông thời tổ chức tốt việc thu thập và cung cấp thông tin kinh tế và thương mại quốc tế.
2. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân
- Nâng cao trình độ văn hoá cho mọi người dân trong tuổi đi học xây dựng hệ thống giáo dục từ mầm non đến đại học trong đó coi trọng văn hoá, trình độ ngoại ngữ và trình độ máy tính.
- Phát triển nguồn nhân lực và nhân tài đủ số lượng, đạt chất lượng cao đồng bộ về trình độ ngành nghề.
- Tổ chức lại hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp theo yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước
- Đầu tư thoả đáng để phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá hiện đại hoá
- Cần xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.
3. Phát triển các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân.
- Tạo vốn huy động và sử dụng có hiệu quả nhiều nguồn vốn, tận dụng khai thác những nguồn lực trong nước, đồng thời phải kết hợp sử dụng vốn đầu tư của nước ngoài.
- Định hướng đúng đắn về đầu tư và xây dựng môi trường thuận lợi để thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
- Tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng tài chính để phát triển và quản lý nguồn vốn có hiệu quả. Tiếp tục đổi mới hệ thống tín dụng ngân hàng, mở rộng quy mô hệ thống ngân hàng, tiếp tục đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, phát triển hình thức huy động vốn bằng góp cổ phần, bán cổ phiếu, trái phiếu cho nhân dân trong nước và sau đó mở rộng thị trường vốn ra nước ngoài.
- Tổ chức tốt việc tiếp nhận các nguồn vốn viện trợ và quy định chặt chẽ về vay và trả nợ.
4. Phát triển các thành phần kinh tế
- Không ngừng phát triển kinh tế Nhà nước, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước phải phát huy vai trò trung tâm công nghiệp, dịch vụ, trung tâm khoa học kỹ thuật, trung tâm văn hoá trên từng địa bàn, các doanh nghiệp nông lâm ngư nghiệp phải được củng cố phát triển.
- Phát triển các công ty trách nhiệm hữu hạn và các Công ty cổ phần nhằm thu hút vốn lớn trong cán bộ công nhân viên và trong nhân dân để phát triển doanh nghiệp.
- Phát triển rộng rãi các hình thức hợp tác phong phú đa dạng giữa các ngành. Khuyến khích mạnh mẽ kinh tế hợp tác phát triển, lựa chọn mô hình và phương thức hợp tác xã phải thích hợp, linh hoạt, đa dạng.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Ban hành pháp luật và chính sách, tạo môi trường pháp lý để tư nhân yên tâm bỏ vốn đầu tư vào sản xuất làm ăn đúng pháp luật.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp theo hướng đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
5. Xây dựng Nhà nước đủ mạnh
- Nhà nước biết nắm bắt sự tác động khách quan của các quy luật trong nền kinh tế thị trường để định hướng đúng đắn và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Tập trung đúng mức vào những ngành, khâu vùng lĩnh vực quan trọng nhất có thể tạo ra sự tăng trưởng hiệu quả kinh tế cao.
- Xây dựng bộ máy Nhà nước vững mạnh, phải có đội ngũ chỉ huy đầu ngành và chuyên gia giỏi về quản lý Nhà nước am hiểu đầy đủ về kinh tế thị trường và doanh nghiệp.
- Nhà nước biết kiên quyết thực hiện việc quản lý quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa bằng pháp luật và các văn bản dưới luật. Hoàn thiện và xây dựng mới các công cụ cần thiết như chế độ thống kê, kế toán và kiểm toán, chế độ tài chính và báo cáo tài chính công khai chính xác để quản lý thống nhất.
- Nhà nước biết xây dựng hệ thống dự trữ quốc gia đủ mạnh về số lượng và chất lượng để có thể quản lý có hiệu quả qúa trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Phải có những quyết định đúng đắn kịp thời trong việc sử dụng nguồn dự trữ quốc gia cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng trong thời gian tới chúng ta cần và có khả năng tạo ra những điều kiện để tiến hành và hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam. Để làm được những điều đó chúng ta phải xây dựng được chiến lược, kế hoạch phát triển đúng tập trung và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong nước và ngoài nước, có chính sách và biện pháp đồng bộ, kiên quyết nhất quán trong chỉ đạo và thực hiện.
III. Một số giải pháp thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam
1.Công nghiệp hoá là qúa trình thay đổi căn bản và triệt để phương thức hoạt động của con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công thuần tuý sang phổ biến sức lao động gắn liền với công nghệ tiến tiến, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học, để đạt được năng suất lao động cao xã hội công bằng và văn minh.
Trong hoàn cảnh nền kinh tế còn mang nặng đặc trưng sản xuất nhỏ như nước ta yêu cầu phải tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước khai thác mọi tiềm năng trong nước kết hợp với các nguồn lực bên ngoài, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng .
Phổ biến trong mọi khu vực của nền kinh tế - xã hội mặt khác nó còn thể hiện số lượng tuyệt đối của lao động công nghiệp so với nông nghiệp, ở tỷ trọng cao của sản xuất công nghiệp trong sản phẩm xã hội.
2. Vần đề cơ bản và công cụ chủ yếu để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá là phát triển công nghiệp. Do đó trước hết phải xác định phương hướng chiến lược thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hóa đi đôi với phát triển một nên công nghiệp điều tiết hợp với hoàn cảnh trong nước và xu thế thời đại để có cơ sở xây dựng hệ thống chính sách kế hoạch cụ thể thực thi đường lối ấy.
ở các nước phát triển, các công nghệ cần thiết như công nghiệp hoá đã được sử dụng rộng rãi và được đổi mới liên tục. Vì vậy công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá là một đòi hỏi rất cần thiết khó khăn nhưng rất khả thi ở nước ta. Quá trình điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá tất yếu gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ và thu hút vốn nước ngoài. Tuy nhiên, nếu đứng trên quan điểm hiệu tổng thể mà nhận xét, chúng ta nên cân nhắc xem ưu tiên lựa chọn công nghệ nào trước, công nghệ nào sau và tạm duy trì công nghệ nào, ở lĩnh vực nào thời gian bao lâu...
Có như vậy mới tránh khỏi sai lầm "phủ định sạch trơn" công nghệ hoặc "nóng vội nhảy vọt" cả hai khuynh hướng này đều mang lại hậu quả xấu cả về kinh tế lẫn truyền thống.
3. Phải có sự lựa chọn các ngành ưu tiên, mũi nhọn:
Công nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong qúa trình hiện đại hoá nền kinh tế bằng cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho tái sản xuất mở rộng như tư liệu sản xuất tư liệu tiêu dùng, xuất khẩu những sản phẩm có giá trị cao, nhập khâủ được thiết bị và công nghệ mới... tạo thuận lợi phát triển nông nghiệp và các ngành khác.
4. Phương hướng cơ bản của chiến lược công nghiệp hoá là làm tăng tỷ trọng công nghiệp chế tạo và chế biến. Đồng thời coi trọng sự phát triển của các ngành công nghiệp khai thác năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu phù hợp và tài nguyên sắn có. Kết hợp các loại quy mô sản xuất, đặc biệt là quy mô vừa và nhỏ. Cùng với việc hình thành các tập đoàn công nghiệp lớn, đủ sức cạnh tranh thị trường quốc tế, phát triển có lựa chọn một số công trình công nghiệp nặng, trong những ngành then chốt, quan tâm hơn nữa đến ngành cơ khí là ngành có khả năng góp phần trang bị lại nền kinh tế quốc dân và ngành công nghiệp tạo ra nguồn năng lượng nhiên liệu và nguyên liệu cơ bản như điện, than, khai thác và chế biến dầu khí, hoá chất phân bón, luyện kim, vật liệu xây dựng... là nòng cốt hình thành cơ cấu kinh tế mới, phát triển các loại hình lắp ráp, dịch vụ sửa chữa trong các ngành cơ khí - điện tử, tiến tới chế tạo một số vật liệu, linh kiện và thiết bị, coi đây là một lĩnh vực mũi nhọn của công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
5. Một trong những động lực quan trọng để phát triển công nghiệp là phải tạo lập được môi trường phát triển công nghiệp thuận lợi. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá hình thức sở hữu khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển công nghiệp, đặc biệt trong những ngành, những lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời hạn thu vốn dài. Hoàn thiện các chính sách tài chính - tín dụng làm cơ sở hoạch định những biện pháp bảo hộ phù hợp trong từng thời kỳ thích hợp. Đồng thời phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng để các doanh nghiệp kinh tế dựa vào phương hướng công nghiệp hoá chủ động đầu tư phát triển phù hợp quy luật chung.
Mỗi bước tăng trưởng của nền kinh tế phải song hành với một bước nâng cao trình độ phát triển xã hội, gắn liền với kinh tế với việc tạo lập một xã hội văn minh và công bằng. Vì vậy phải thống nhất sự phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội. Khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo, phát triển văn hoá, giáo dục đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, có khả năng tiếp thu và vận hành công nghệ mới có hiệu quả, sớm hình thành một đội ngũ có năng lực và phẩm chất thực hiện những đường lối chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển công nghiệp của đất nước.
Đặt con người vào vị trí trung tâm là nhằm tạo ra sự phát triển nhanh chóng và bền vững cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
6. Đào tạo cán bộ KHKT, cán bộ quản ly, công nhân lành nghề:
Sự nghiệp CNH-HDH la sự nghiệp quần chúng trong đó cán bộ quản ly và công nhân có tay nghề cao có y nghĩa cực kỳ quan trọng. Đảng ta đặt “con người vào mọi vị trí trung tâm” trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Do đó phải thực hiện sự đổi mới nhanh cơ chế quản ly giáo dục, đào tạo theo hướng phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nghề cho phần lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo cán bộ nhiều trình độ, đặc biệt là cán bộ quản lí, nhà kinh doanh, chuyên gia khoa học và công nghệ, chú í phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài.
7. Vấn đề thị trường:
Xu hướng thị trường ngày càng mở rộng khi chúng ta đã nhập ASEAN, kí hiệp định thương mại Việt-Mỹ, và sắp tới sẽ tham gia khu vực tự do mậu dịch ASEAN(ACTA)..
Những vấn đề đặt ra là làm thế nào để sản phẩm của ta chen được vào thị trường đó. Hiện nay, trừ dầu lửa và gạo, ưu thế sản phẩm của ta trên thị trường còn yếu. Chiến lược “ hướng mạnh vào sản xuất để xuất khẩu” nhưng phải trả lời được câu hỏi: Xuất cái gì? Xuất ra đâu và để làm gì để xuất?
kết luận
Công Nghiệp Hoá -Hiện Đại Hoá là sự nghiệp vĩ đại của dân tộc đòi hỏi tất cả chúng ta phải nỗ lực phấn đấu để đạt được thắng lợi, biến nước ta về cơ bản trở thnàh một nước công nghiệp trên phương diện quốc tế. Với lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, huy động mọi nguồn lực trí tuệ của cả dân tộc,chắc chắn công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ thành công rực rõ.
Ngoài ra dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước , tiếp thu đổi mới và mở của, thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ , đa phương hoá, đa dạng hoá cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập thế giới là điều kiện không thể thiếu được nhằm tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi đảm bảo cho sự triển khai sự nghiệp công nghiệp hoá -Hiện đại hoá đất nước đuợc thực hiện thắng lợi.
Đứng trước thời cơ, vận hội mới, tầng lớp thanh niên trí thức trẻ cần phảI’m cố gắng phấn đấu, nỗ lực vươn lên để góp phần làm cho đất nước hưng thịnh. “ Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”, đó là tuyên ngôn, khẩu hiệu của thế hệ thanh niên mới - thanh niên Hồ Chí Minh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50358.DOC