Tài liệu Đề tài Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước thực trạng và một số giải giáp: MỞ ĐẦU
Xu thế hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng như hiện nay đã đặt nền kinh tế nước ta trước nhiều cơ hội và không ít thử thách. Yêu cầu đặt ra là cần phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có các điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách nhà nước hạn hẹp thì hình thức tín dụng đầu tư phát triển tỏ ra rất ưu việt trong việc huy động và quản lý nguồn lực của nhà nước cho đầu tư phát triển.
Thông qua hình thức tín dụng đầu tư phát triển nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển đa dạng hơn, bền vững hơn không những từ nguồn vốn ngân sách mà còn thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Là công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ đối với nền kinh tế hoạt động tín dụng đã quản lý và sử dụng nguồn vốn ưu đãi hiệu quả hơn, phù hợp với các ưu tiên phát triển của đất nước trong từng thời kỳ, góp phần ph...
69 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1065 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước thực trạng và một số giải giáp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Xu thế hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng như hiện nay đã đặt nền kinh tế nước ta trước nhiều cơ hội và không ít thử thách. Yêu cầu đặt ra là cần phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có các điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách nhà nước hạn hẹp thì hình thức tín dụng đầu tư phát triển tỏ ra rất ưu việt trong việc huy động và quản lý nguồn lực của nhà nước cho đầu tư phát triển.
Thông qua hình thức tín dụng đầu tư phát triển nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển đa dạng hơn, bền vững hơn không những từ nguồn vốn ngân sách mà còn thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Là công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ đối với nền kinh tế hoạt động tín dụng đã quản lý và sử dụng nguồn vốn ưu đãi hiệu quả hơn, phù hợp với các ưu tiên phát triển của đất nước trong từng thời kỳ, góp phần phát triển cân đối nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng đầu tư mới thực sự được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1990 tuy cũng đã có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển đất nước nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, chưa thực sự phát huy tốt là công cụ chính sách của nhà nước.
Tiếp tục thực hiện chủ trương phát huy nội lực để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO hoạt động tín dụng nhà nước đã có những bước chuyển hợp lý hơn với thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do đó việc nghiên cứu đề tài: “Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước thực trạng và mốt số giải giáp” là cần thiết để có những giải pháp tăng cường hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho phù hợp với các thông lệ quốc tế về giảm trợ cấp; phát huy hơn nữa vai trò của hoạt động này đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG NỀN KINH TẾ.
I. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng tín dụng đầu tư phát triển
1. Khái niệm tín dụng đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển (ĐTPT) là hình thức đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất hiện có và tạo ra năng lực sản xuất mới. Đây là tiền đề để thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Ý nghĩa quyết định của đầu tư phát triển là góp phần quan trọng làm thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của đất nước. Nói cách khác, đầu tư phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế song song với thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội.
Để đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển, các quốc gia phải có nguồn vốn đầu tư phát triển thông qua tích lũy vốn trong và ngoài nước. Vốn đầu tư phát triển là nguồn vốn không thể thiếu trong nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư phát triển lớn hay nhỏ quyết định quy mô và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế không có nguồn vốn đầu tư phát triển hoặc nguồn vốn này còn nhỏ bé thì chỉ có thể thực hiện tái sản xuất giản đơn bằng nguồn vốn khấu hao cơ bản hàng năm mà không thực hiện được tái sản xuất mở rộng, không thể áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và do đó không thể đạt được sự tăng trưởng và phát triển cao. Vì vậy các quốc gia luôn muốn có được nguồn vốn đầu tư phát triển có quy mô lớn, lâu dài và ổn định. Nguồn vốn này hình thành bởi vốn đầu tư phát triển của tất cả các thành phần kinh tế xã hội, bao gồm: vốn đầu tư phát triển của Nhà nước, của doanh nghiệp, vốn nhàn rỗi của các tổ chức dân cư trong nước và vốn đầu tư của các cá nhân tổ chức nước ngoài. Do đó chính phủ các nước cần có chiến lược đầu tư thích hợp, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư đặc biệt là đầu tư của tư nhân.
Với các dự án đầu tư phát triển thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, tác động trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển kinh tế thì Chính phủ phải hỗ trợ dưới các hình thức khác nhau như: cấp vốn ngân sách trực tiếp cho các dự án đầu tư theo định hướng phát triển của chính phủ, mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi, hay các điều kiện ưu đãi khác ngoài lãi suất như ưu đãi về thời hạn tín dụng, về thuế …
Tuy nhiên trong điều kiện Ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp và để việc hỗ trợ đầu tư mang tính hiệu quả và lâu dài, các quốc gia thường thực hiện hỗ trợ đầu tư thông qua hình thức tín dụng. Đó là tín dụng ĐTPT Nhà nước.
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là hình thức tín dụng Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là quan hệ vay – trả giữa Nhà nước và các pháp nhân, thể nhân trong xã hội, được Nhà nước quy định với các ưu đãi nhất định, nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo định hướng của Nhà nước.
Mục đích của tín dụng ĐTPT Nhà nước là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước được coi là một công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng giúp Nhà nước can thiệp vào thị trường, thúc đẩy đầu tư phát triển theo định hướng chính sách của Nhà nước với chức năng chủ yếu là phân phối lại nguồn vốn đầu tư phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư theo kế hoạch, định hướng của Nhà nước. Công cụ này được nhiều nước sử dụng thời kỳ khôi phục kinh tế đất nước sau chiến tranh hoặc trong thời kỳ công nghiệp hóa đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, khi nhu cầu đầu tư của toàn xã hội rất lớn nhưng khu vực kinh tế tư nhân còn non yếu, chưa có khả năng đáp ứng nhu cầu đó.
2. Đối tượng của tín dụng ĐTPT Nhà nước.
Đối tượng của tín dụng ĐTPT mang tính đặc trưng về không gian và thời gian. Nó phụ thuộc vào các chính sách phát triển cũng như chiến lược công nghiệp hóa của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia theo đuổi chính sách công nghiệp hóa, theo hướng thay thế nhập khẩu sẽ có xác định đối tượng ưu tiên của tín dụng ĐTPT khác với quốc gia thực hiện công nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu. Tuy nhiên phần lớn chiến lược công nghiệp hóa của quốc gia, cụ thể là các quốc gia đang phát triển ở Đông Á là công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, vì vậy đối tượng của tín dụng ĐTPT chủ yếu là các dự án thuộc các ngành công nghiệp mũi nhọn, ngành công nghiệp công nghệ cao, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng ( giao thông, năng lượng, … ) các dự án và phát triển vùng nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu …
Đối tượng của tín dụng ĐTPT chỉ mang tính tương đối, nó sẽ thay đổi khi chiến lược, kế hoạch phát triển cũng như hoàn cảnh kinh tế đất nước thay đổi. Một ngành, một lĩnh vực sau một thời gian được ưu tiên khuyến khích phát triển đã đủ khả năng hấp dẫn đầu tư của tư nhân và đầu tư của nước ngoài sẽ không còn là đối tượng được ưu tiên nữa, thay vào đó là các ngành, các khu vực khác cần sự ưu đãi nhất định để khuyến khích phát triển. Do đó, không có một quy định bắt buộc nào về đối tượng ưu tiên của tín dụng ĐTPT. Song đối tượng của tín dụng ĐTPT phải xuất phát từ mục đích của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước phải là vốn mời khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát huy năng lực, tham gia đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế, đồng thời tín dụng ĐTPT phải thực hiện đựoc mục tiêu công bằng xã hội, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền. Do đó, đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT không chỉ tập trung vào các khu vực có khả năng phát triển, các chương trình kinh tế trọng điểm mà còn có các khu vực có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng kém phát triển. Đối tượngv ay vốn cũng phải có tác dụng tạo đà, lôi kéo các ngành nghề, vùng, lĩnh vực khác phát triển.
Việc lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nên cần được tiến hành một cách khoa học trên cơ sở kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tê – xã hội trong một thời kỳ dài, điều này tạo sự ổn định trong hoạt động đầu tư, nâng cao hiệu quả trong sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT.
3. Nguồn vốn của tín dụng ĐTPT Nhà nước
Nguồn vốn tín dụng ĐTPT không chỉ có nguồn vốn Ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển mà còn bao gồm cả nguồn vốn nhàn rỗi của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước dùng để ĐTPT
Với tư cách là “ bàn tay hữu hình”, Nhà nước can thiệp vào hoạt động ĐTPT để điều tiết và định hướng đầu tư theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Một yếu tố quan trọng và đã trở thành lợi thế trong việc huy động vốn cho tín dụng ĐTPT là Nhà nước dùng uy tín của mình để đảm bảo việc hoàn trả vốn, do đó có thể thu hút được các nguồn đầu tư phát triển trong và ngoài nước với thời gian dài. Tại các nước đang phát triển, lý do quan trọng làm suy yếu nguồn tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư không phải là lãi suất không hấp dẫn mà là sự rủi ro của hệ thống tài chính và sự không ổn định của môi trường vĩ mô. Bằng việc đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, cùng với cam kết duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, Nhà nước có thể thu hút được một lượng vốn trung và dài hạn trong xã hôi dành cho ĐTPT.
4. Hình thức của tín dụng ĐTPT Nhà nước.
+ Trực tiếp: Chính phủ đầu tư trực tiếp hoặc cho vay với các điều kiện ưu đãi ( lãi suất, thời hạn, các điều kiện đảm bảo khác … ) đối với các dự án thuộc lĩnh vực ưu tiên. Ngoài ra, Chính phủ có thể bảo lãnh cho các doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
+ Gián tiếp: Chính phủ cung cấp các dịch vụ miễn phí hoặc mức phí thấp cho doanh nghiệp, cá nhân như các thông tin về thị trường trong và ngoài nước, nghiên cứu thị trường theo yêu cầu của doanh nghiệp …
Hoạt động tín dụng ĐTPT không nhằm mục tiêu lợi nhuận nhưng phải đảm bảo thu hồi đủ vốn và bù đắp chi phí hoạt động. Tín dụng ĐTPT không chỉ đề cao hiệu quả kinh tế, khả năng sinh lời của dự án đầu tư mà còn xem xét đến những tác động của dự án đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, những lợi ích mà xã hội thu được từ dự án.
5. Tổ chức thực hiện.
Nhận thức được vai trò to lớn của sự can thiệp của Chính phủ vào cơ chế tài chính cũng như tầm quan trọng của tín dụng ĐTPT Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, rất nhiều quốc gia đã thành lập các tổ chức tài chính phát triển ( The development financial institution – DFI ) để thực hiện hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước và các tổ chức này đã đóng góp nhiều vào sự phát triển của ngành công nghiệp thông qua việc cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn cho các ngành công nghiệp.
Chính sách tín dụng ĐTPT mang tính đặc trưng về thời gian và địa điểm nên được thực hiện bởi các tổ chức khác nhau và dưới các hình thức khác nhau tùy thuộc vào chính sách phát triển cũng như điều kiện kinh tế xã hội của các quốc gia. Các tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước ở các quốc gia bao gồm: Ngân hàng công nghiệp, ngân hàng đầu tư, các quỹ hỗ trợ, kho bạc nhà nước, ngân hàng phát triển( NHPT) … trong đó mô hình NHPT đã ra đời và phát triển trong gần một thế kỷ qua tại nhiều nước trên thế giới và đã chứng tỏ được tính ưu việt của nó trong hoạt động tín dụng ĐTPT.
Các tổ chức tài chính phát triển được coi là công cụ đặc biệt quan trọng của Chính phủ để thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế phù hợp. Nhiệm vụ của các tổ chức này nhằm cung cấp tín dụng cho các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, lĩnh vực xuất nhập khẩu và lĩnh vực phát triển nông thôn.
Mục đích thành lập tổ chức này là phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ. Các hoạt động của tổ chức này chủ yếu tập trung hỗ trợ vào các lĩnh vực trọng điểm, các ngành then chốt, có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình hoạt động các tổ chức này được phép huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó quan trọng nhất là từ phát hành trái phiếu trong nước và nước ngoài, khai thác các nguồn nhàn rỗi từ các quỹ bảo hiểm xã hội, tiết kiệm bưu điện, từ các nguồn vốn hợp pháp khác.
Cơ chế hoạt động của tổ chức này trong thời gian đầu thực hiện có thể có sự hỗ trợ của Nhà nước để cho vay các dự án đầu tư theo định hướng của chính phủ với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường. Trong xu thế phát triển chung, tính độc lập, tính tự chủ về tài chính, tính hiệu quả trong hoạt động nghiệp vụ của tổ chức thực hiện sẽ ngày càng tăng.
II. Vai trò của tín dụng ĐTPT trong nền kinh tế.
Trên thế giới, do nhu cầu chi của NSNN không ngừng tăng trong khi nguồn thu NSNN lại bị hạn chế và tăng chậm, nên hầu hết các quốc gia đều xảy ra tình trạng thâm hụt NSNN. Mặt khác do nguồn lực của Nhà nước còn hạn chế trong khi nhu cầu chi đầu tư phát triển lại rất lớn, NSNN không thể trang trải hết cho toàn bộ các dự án ĐTPT nên Nhà nước buộc phải lựa chọn các dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp để đầu tư ( bằng cách cấp phát không hoàn lại ); còn đối với các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, Nhà nước chỉ đầu tư thông qua kênh tín dụng ĐTPT, trong đó chủ đầu tư dự án được vay vốn của Nhà nước để đầu tư và phải sử dụng các nguồn thu từ dự án để hoàn trả toàn bộ số nợ đã vay nhà nước.
Như vậy tín dụng ĐTPT Nhà nước ra đời bắt nguồn trước hết từ yêu cầu về giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu ĐTPT ngày càng lớn của nền kinh tế với sự giới hạn của nguồn lực tài chính công, nhất là của NSNN. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế thị trường thì tín dụng ĐTPT Nhà nước ngày càng có vai trò quan trọng. Có thể xem xét vai trò của tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
1. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình tất yếu mà các nước chậm phát triển phải trải qua để trở thành một nước công nghiệp phát triển. Nội dụng trọng tâm của quá trình này là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế mà trong đó chủ yếu là xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và phát triển các ngành công nghiệp quan trọng, đưa công nghiệp trở thành ngành giữ vài trò chủ đạo và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Tín dụng ĐTPT là công cụ quan trọng để Nhà nước tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển nhằm xây dựng cơ sở hạn tầng kinh tế xã hội ( giao thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp thoát nước …) và phát triển các ngành công nghiệp then chốt ( cơ khí, điện tử- viễn thông, công nghệ sinh học, vật liệu mới… ), do đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, việc tập trung nguồn vốn tín dụng ĐTPT cho xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại và phát triển các ngành công nghiệp then chốt, có khả năng đi tắt đón đầu cũng là nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó góp phần đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế.
2. Điều tiết vĩ mô các quan hệ cân đối lớn của nền kinh tế và hướng dẫn hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế.
Mặc dù kinh tế thị trường là bước phát triển cao của nền kinh tế sản xuất hàng hóa với rất nhiều điểm ưu việt nhưng bên cạnh đó nó cũng có khá nhiều khiếm khuyết mà bất cứ quốc gia nào trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt như nạn ô nhiễm môi trường, tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội, phát triển không cân đối giữa các vùng miền … Để khắc phục những khiếm khuyết này, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ ( thuế, chi NSNN, tín dụng ĐTPT Nhà nước …) trong việc điều tiết, phân bổ nguồn lực, đảm bảo cho các vùng, các ngành hoặc các thành phần kinh tế phát triển một cách đồng đều, trong tín dụng ĐTPT của Nhà nước được sử dụng như là một công cụ chủ yếu để tài trợ chocác dự án ĐTPT có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Do đó có thể nói tín dụng ĐTPT như một bàn tay hữu hình mà Nhà nước phải sử dụng trong quá trình thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô của mình đối với nền kinh tế.
Đối với một quốc gia có rất nhiều mục tiêu và quan hệ cân đối kinh tế vĩ mô mà Nhà nước hướng tới như mục tiêu về sản lượng, việc làm, lạm phát, lãi suất … cân đối tiết kiệm – tiêu dùng- đầu tư, cân đối xuất – nhập khẩu .. Để đạt được những mục tiêu về quan hệ cân đối này, Nhà nước phải sử dụng kết hợp nhiều chính sách kinh tế vĩ mô khác nhau mà trong đó chủ yếu là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, tín dụng ĐTPT có tác động rất lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Điều đó được thể hiện qua một số khía cạnh chủ yếu sau:
- Thông qua việc hỗ trợ đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất, tín dụng ĐTPT góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm.
- Thông qua việc huy động vốn và cho vay đối với các dự án, tín dụng ĐTPT tác động đến cung – cầu trên thị trường vốn và tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát và mặt bằng lãi suất của nền kinh tế.
- Thông qua việc đầu tư cho các dự án phục vụ xuất khẩu hoặc đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA). Tín dụng ĐTPT còn góp phần điều chỉnh quan hệ cân đối xuất – nhập khẩu, đồng thời tác động đến trạng thái cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
- Thông qua lãi suất huy động, tín dụng ĐTPT góp phần điều tiết tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng của dân cư, đồng thời thông qua việc quy định đối tượng và điều kiện được hưởng ưu đãi, tín dụng ĐTPT góp phần định hướng đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế vào các ngành, các vùng và lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích phát triển
3. Góp phần giải quyết khó khăn của NSNN trong thực hiện nhiệm vụ chi đầu tư phát triển, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Mặc dù chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là một nội dung chi rất lớn và quan trọng trong chi đầu tư phát triển của NSNN, nhưng có một thực trạng chung hiện nay diễn ra ở hầu hết các quốc gia, là những dự án sử dụng NSNN thường đầu tư dàn trải, không tập trung, vốn đầu tư bị thất thoát hoặc sử dụng lãng phí, hiệu quả thực tế của dự án không thực sự được quan tâm … mà nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do tâm lý ỷ lại vào sự bao cấp của NSNN. Để khắc phục ình trạng này các quốc gia đều có xu hướng giảm mạnh chi NSNN cho các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Thay vì được cấp phát hoàn toàn từ NSNN như trước đây, các dự án này sẽ được Nhà nước đầu tư thông qua kênh tín dụng ĐTPT. Sở dĩ có xu hướng trên là do nguồn lực NSNN còn hạn hẹp, mặt khác là nhằm khắc phục tâm lý trông chờ ỷ lại vào NSNN, nâng cao hiệu quả, đồng thời hạn chế tình trạng thất thoát, lãng phí trong các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước. Việc chuyển kênh đầu tư đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp từ sử dụng vốn NSNN sang sử dụng vốn tín dụng ĐTPT là một việc tất yếu phải làm nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới cơ chế quản lý NSNN nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách.
Sự ra đời của tín dụng ĐTPT nhà nước đã làm thu hẹp phạm vi các dự án được cấp phát không hoàn trả từ NSNN; thay vào đó chủ đầu tư phải sử dụng các nguồn thu từ dự án để hoàn trả toàn bộ số vốn đã vay nhà nước, và số vốn này lại được sử dụng để cho vay đối với các dự án khác. Như vậy nguồn vốn tín dụng ĐTPT đã góp phần tích cực giải quyết khó khăn của NSNN thông qua việc hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ chi ĐTPT của NSNN.
Mặt khác, do phải hoàn trả số vốn vay ( cả gốc và lãi ) nên chủ đầu tư phải cân nhắc kỹ lưỡng trong việc lựa chọn các phương án đầu tư có khả năng sinh lời cao, đồng thời tìm cách giảm những khỏan chi không cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là việc tài trợ cho các dự án thông qua tín dụng ĐTPT của nhà nước góp phần hạn chế tình trạng dàn trải, thất thoát, lãng phí trong đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
4. Góp phần nâng cao vị thế của quốc gia, tạo điều kiện mở rộng và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng và mạnh mẽ, nguồn vốn đầu tư quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phát triển, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia, thì nhu cầu của các nước nghèo được vay vốn của các nước giàu hơn đang được đặt ra một cách bức thiết.
Trong bối cảnh đó, các nhà nước không thể từ chối nghĩa vụ cho vay đối với quốc gia kém phát triển hơn. Các khoản cho vay của Nhà nước đối với quốc gia khác có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng trong đó phổ biến là các khoản cho vay ODA với thời hạn cho vay dài, lãi suất cho vay ưu đãi nhằm thực hiện các dự án ĐTPT cơ sở hạ tầng KT-XH.
Thông qua các khoản ODA này, nước cho vay có thể tăng cường ảnh hưởng của mình với nước đi vay, đồng thời nâng cao vị thế trong các tổ chức và diễn đàn quốc tế. Điều đó có nghĩa là tín dụng ĐTPT đã góp phần nâng cao vị thế của quốc gia trong cộng đồng thế giới.
Mặt khác, các công trình cơ sở hạ tầng KT-XH được đầu tư bằng nguồn vốn ODA cho vay ưu đãi đã tạo điều kiện để nước cho vay mở rộng đầu tư trực tiếp và xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ vào thị trường của nước được vay ODA ưu đãi, và như vậy, tín dụng ĐTPT đã tạo điều kiện để mở rộng và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại của quốc gia.
III. Bài học kinh nghiệm quốc tế về tăng cường hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước.
Để tăng cường hoạt động tín dụng ĐTPT các nước trên thế giới đã chú trọng xây dựng và phát triển mô hình tổ chức thực hiện để tổ chức này phát huy tốt hơn vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước. Các mô hình tổ chức thực hiện này đã đem lại những hiệu quả cao trong hoạt động tín dụng ĐTPT và phù hợp với diễn biến thực tế. Việt Nam là nước đi sau sẽ có nhiều thuận lợi trong việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và phát triển tổ chức thực hiện tài trợ phát triển của Chính phủ. Sau đây là bài học kinh nghiệm của Đức và Trung Quốc.
Ngân hàng phát triển Đức( KFW)
KFW là một tổ chức công được thành lập vào tháng 11 năm 1948 theo luật KFW về khuyến khích tái thiết nền kinh tế của Tây Đức sau chiến tranh.
Phần lớn nguồn vốn của KFW là tự huy động thông qua phát hành trái phiếu và các khoản vay trên hối phiếu nhận nợ, hoặc các khoản vay của các quỹ xã hội. Nguồn vốn chính dành cho tài trợ đầu tư là từ vốn tự có của KFW. Đối với các chương trình ổn định ngân hàng duy trì lãi suất thấp bằng cách phối hợp các nguồn vốn từ các quỹ công cộng. Ngoài ra để có đủ nguồn vốn cần thiết, KFW dùng vốn vay với lãi suất thấp từ quỹ đặc biệt chương trình khôi phục Châu Âu hoặc phát hành trái phiếu huy động vốn trực tiếp từ thị trường vốn và cũng nhận vốn ủy thác từ Chính phủ liên bang.
KFW rất chú trọng trong công tác quản lý rủi ro tín dụng. Để phòng ngừa rủi ro phát sinh do thay đổi lãi suất và tỷ giá, KFW tham gia vào một số các giao dịch có kỳ hạn tương lai. KFW đã tiến hành một số bước để cải thiện khả năng cải thiện tài sản nợ của mình, và những bước này đã góp phần tăng khả năng sinh lời và ổn định tài chính của ngân hàng.
Về lãi suất cho vay: Thời gian đầu thực hiện KFW cấp tín dụng với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường nhưng sau đó lãi suất sẽ được điều chỉnh sát với lãi suất thị trường để giảm sự bao cấp của Nhà nước. Bên cạnh việc giảm ưu đãi về lãi suất là mở rộng thời hạn cho vay, chất lượng dịch vụ, điều kiện vay vốn…
Hệ thống kế toán kiểm toán của KFW được quy định tại Luật KFW, trong đó quy định rằng báo cáo kế toán hàng năm do hội đồng quản trị soạn thảo, có sự tham gia ý kiến của cơ quan kiểm toán Chính phủ. Các báo cáo tài chính của KFW phải được lập phù hợp với các quy định của kế toán ngân hàng.
Ngân hàng phát triển Trung Quốc( CDB)
CDB được thành lập vào tháng 3 năm 1994. Là tổ chức chịu sự điều hành trực tiếp từ Quốc vụ viện, CDB phải trình báo các hoạt động lên Quốc vụ viện theo quy định. Hội đồng quản lý được thành lập như một đơn vị điều hành nội bộ; bao gồm các thành viên đại diện cho: Ủy ban kế hoạch Nhà nước, Ủy ban thương mại và kinh tế Nhà nước, Bộ ngoại thương và hợp tác kinh tế, Kiểm toán.
Mỗi năm CDB được kiểm tra tổng thể một lần xem các chính sách hoạt động của CDB có phù hợp với chính sách quốc gia hay không, không hề có việc kiểm tra nhỏ lẻ ở tầm vi mô và Hội đồng quản lý không được phép can thiệp tùy tiện vào các hoạt động hàng ngày của CDB.
Nguồn vốn của CDB phần lớn từ phát hành trái phiếu. Trái phiếu của CDB phát hành trong nước được Chính phủ bảo lãnh. Phần lớn các trái phiếu 5 năm được các ngân hàng thương mại và trái phiếu 8 năm do tiết kiệm bưu điện mua. Lãi suất do ngân hàng nhân dân quyết định và có cân nhắc tới lãi suất của các công cụ tài chính khác có cùng thời hạn. Từ năm 1998, CDB đưa ra một phần hệ thống đấu thầu thông qua việc kết hợp một nhóm các ngân hàng thương mại để quyết định lãi suất của trái phiếu, do vậy mà huy động được vốn với lãi suất thấp.
Các hình thức hỗ trợ của CDB ngày càng được đa dạng hơn. Đặc biệt là việc mở rộng hình thức tư vấn đầu tư cho các dự án. Đây là hình thức mới nhưng lại mang lại hiệu quả cao đối với các dự án đầu tư. Hiện nay CDB đã tư vấn cho các dự án mới của Nhà nước trước khi nó được trình lên nội các.
3. Một số bài học rút ra với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Mỗi nước đều có sự khác nhau về truyền thống văn hóa, cơ cấu xã hội, hành vi kinh tế, mức độ phát triển công nghiệp và lợi thế so sánh. Dù vậy, Việt Nam với tư cách là người đi sau, không thể không học tập một cách chọn lọc từ các quốc gia có đặc điểm kinh tế xã hội tương đồng đi trước để có thể nâng cao hiệu quả triển khai, tiếp tục phát huy tối đa vai trò là công cụ tài chính của Chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc thực hiện chính sách tín dụng Nhà nước trong giai đoạn hiện nay và trong tiến trình thực hiện các cam kết hội nhập.
* Về tổ chức thực hiện: NHPT Việt Nam cần thiết phải có sự tự chủ, độc lập nhất định trong việc thực hiện tài trợ và tự chịu trách nhiệm để nâng cao hiệu quả tài trợ, hiệu quả chính sách của Chính phủ. Quan hệ với các cơ quan của Chính phủ (Bộ, ngành) được xác định rõ ràng nhằm tăng tính tự chủ và tách bạch chức năng quản lý nhà nước với triển khai tác nghiệp cụ thể; tuyệt đối hạn chế sự can thiệp đơn lẻ của Chính phủ đối với các hoạt động hỗ trợ các dự án cụ thể.
* Về nguồn vốn hoạt động: Sự hỗ trợ của Chính phủ đối với NHPT chủ yếu là hỗ trợ ban đầu bằng việc cấp vốn điều lệ (100% ); trong quá trình triển khai chủ yếu hỗ trợ trong huy động vốn thông qua các biện pháp như bảo lãnh, bảo đảm khả năng thanh toán; đảm bảo một nguồn vốn ổn định và dài hạn cho hỗ trợ đầu tư phát triển.
NHPT cần phải có sự chủ động trong việc huy động vốn để đảm bảo nhu cầu ĐTPT. Nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động nghiệp vụ để thu hút lượng vốn dài hạn nhàn rỗi trong xã hội. Trong đó hình thức huy động qua phát hành trái phiếu là chủ yếu. Cần nâng cao uy tín của NHPT và tham gia tích cực hơn vào thị trường chứng khoán để thu hút được lượng vốn lớn và dài hạn thông qua kênh huy động này.
* Bên cạnh đó để nâng cao hoạt động tín dụng ĐTPT thì cần phải quan tâm đúng mức đến vấn đề quản lý rủi ro. Cần áp dụng phương pháp quản lý rủi ro tiên tiến để phòng tránh những rủi ro phát sinh do thay đổi lãi suất, tỷ giá…
* Về hình thức hỗ trợ: Thực hiện đa dạng hóa, kể cả hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp. Ngoài các nghiệp vụ tín dụng đang thực hiện, cần điều chỉnh, đa dạng hóa các hoạt động nghiệp vụ, cần bổ sung các hình thức nghiệp vụ mới như: tư vấn đầu tư, đầu tư tài chính …
* Về lãi suất cho vay: Thời gian đầu thực hiện, NHPT thường cấp tín dụng với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, sau đó cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, lãi suất dần dần tiếp cận với lãi suất thị trường. Sự ưu đãi chỉ thể hiện ở chất lượng dịch vụ, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, điều kiện vay vốn ( trong đó có bảo hiểm tiền vay ) …
* Cơ chế tài chính và nguyên tắc hoạt động là lành mạnh và công khai theo quy định của pháp luật; chịu sự kiểm toán của Nhà nước hoặc kiểm toán độc lập do Chính phủ quy định.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐTPT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
I. Tổng quan chung về tín dụng ĐTPT Nhà nước ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, trong mỗi thời kỳ hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước được giao cho các tổ chức khác nhau thực hiện.
1. Giai đoạn trước 1990.
Sau khi miền Bắc được giải phóng, để khôi phục nền kinh tế bị tàn phá trong chiến tranh trong khi nguồn vốn tiết kiệm đầu tư của dân cư quá nhỏ, Nhà nước đã phải sử dụng nguồn vốn Ngân sách cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước, các chương trình xây dựng.
Theo nghị định 177 – TTg ngày 26/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng kiến thiết Việt Nam được thành lập với chức năng cơ bản: cung cấp vốn kiến thiết cơ bản theo kế hoạch và dự toán Nhà nước duyệt; quản lý toàn bộ vốn Ngân sách Nhà nước dùng vào kiến thiết cơ bản. Bên cạnh Ngân hàng kiến thiết Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng thực hiện cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Điều này tạo ra sự chồng chéo, khó tập trung quản lý hoạt động ĐTPT của Nhà nước.
Trước yêu cầu giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp phát và cho vay vốn Nhà nước, ngày 24/6/1981, Hội đồng chính phủ đã ra quyết định 259- CP chuyển Ngân hàng kiến thiết Việt Nam thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Giai đoạn 1990 – 1994
Trong bối cảnh chung của công cuộc cải cách kinh tế, Chính phủ đã chủ trương từng bước chuyển dần các công trình được cấp vốn Nhà nước sang vay vốn để đầu tư phát triển. Theo đó từ năm 1990 Nhà nước cấp vốn cho Ngân hàng đầu tư và Xây dựng để hình thành nguồn vốn tín dụng đầu tư. Cùng với nguồn vốn Nhà nước cấp Ngân hàng có trách nhiệm huy động thêm nguồn vốn khác để thực hiện cho vay đầu tư. Ngân hàng đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, thực hiện thêm chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng, chủ yếu trong lĩnh vực ĐTPT.
Hoạt động tín dụng ĐTPT trong giai đoạn này vẫn mang tính chất bao cấp, ưu đãi quá lớn, được thực hiện chủ yếu dưới hình thức cấp phát, không hoàn lại. Cơ chế thực hiện mang nặng tính hành chính, bao cấp.
3. Giai đoạn từ 1995 – 1999.
Trước nhu cầu nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT Nhà nước; thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho ĐTPT đồng thời tách bạch dần hoạt động cho vay chính sách ra khỏi vay thương mại, Chính phủ đã thành lập Tổng cục Đầu tư phát triển, trực thuộc Bộ Tài chính, với nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Tài chính ĐTPT , tổ chức việc thực hiện việc cấp phát vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư và vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với các dự án, mục tiêu, chương trình theo danh mục do Chính phủ quyết định hàng năm.
Cũng trong thời gian này, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia được thành lập để huy động vốn và cho vay đối với các dự án đầu tư phát triển các ngành, nghề, thuộc diện ưu đãi và các vùng kinh tế khó khăn theo quy định của Chính phủ. Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động theo điều lệ do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ tài chính.
Như vậy trong thời gian từ 1995 – 1999, hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước được nhiều tổ chức thực hiện,đó là: Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Tổng cục đầu tư phát triển, trực thuộc Bộ tài chính, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia thuộc Chính phủ và các Ngân hàng thương mại quốc doanh khác. Mỗi đầu mối cho vay và quản lý nhiều chương trình khác nhau, làm cho nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước bị phân tán, giảm hiệu quả vốn đầu tư,gây khó khăn trong quản lý vốn.
4.Giai đoạn 2000 – 2006.
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới toàn diện cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế quản lý tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, nhằm góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế theo tinh thần, nghị quyết TW 4 và TW 6 lần 1 khóa VIII, tháng 6 năm 1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/1999/NĐ – CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, đồng thời thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển( QHTPT) theo Nghị định số 50/1999/NĐ – CP ngày 8/7/1999 để thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước.
Đây là một bước đi quan trọng trong việc đổi mới quản lý tín dụng ĐTPT Nhà nước_ tập trung vào một đầu mối, khắc phục những tồn tại của cơ chế tín dụng ĐTPT trong 10 năm trước theo hướng giảm bao cấp, tăng cường hiệu quả vốn đầu tư, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chủ đầu tư và cơ quan cho vay, tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
QHTPT chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/2000 với những nhiệm vụ: huy động vốn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước để thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước thông qua các hình thức cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, cho vay theo hiệp định của Chính phủ và thực hiện một số nhiệm vụ khác được Thủ tướng Chính phủ giao.
5. Giai đoạn 2006 à nay.
Năm 2006 Việt Nam ra nhập WTO đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đồng thời mở ra các cơ hội và thách thức lớn. Đứng trước yêu cầu hội nhập là: thực hiện tốt các cam kết về giảm bao cấp khi ra nhập WTO và nâng cao hoạt động ĐTPT của nền kinh tế. Ngân hàng phát triển Việt Nam ( NHPT) được thành lập ngày 19/5/2006 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 108/2006/QĐ – TTg trên cơ sở tổ chức lại hệ thống QHTPT để thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
NHPT có tư cách pháp nhân,có vốn điều lệ, có con dấu, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, kho bạc Nhà nước, các Ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài, được tham gia hệ thống thanh toán với các ngân hàng và cung cấp dịch vụ thanh toán theo quy đinh của Pháp luật. NHPT kế thừa mọi quyền lợi, trách nhiệm từ QHTPT, nhưng hoạt động chuyên nghiệp hơn, có quyền lợi và trách nhiệm cao hơn, thể hiện tốt hơn vai trò là công cụ chính sách của Chính Phủ trong hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước.
Qua các giai đoạn trên cho thấy tín dụng ĐTPT Nhà nước đã có những sự thay đổi đáng kể cả về chính sách và tổ chức thực hiện. Tuy nhiên phải đến giai đoạn từ năm 2000 đến nay mới có một hệ thống cơ chế quản lý thống nhất đối với hoạt động tín dụng ĐTPT, khắc phục được những hạn chế của cơ chế cũ trong hơn 10 năm trước theo hướng giảm bao cấp, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chủ đầu tư và cơ quan cho vay. Vì thế nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng ĐTPT trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay là cần thiết để đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động này cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
II. Thực trạng hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước từ năm 2000 đến nay.
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay hoạt động tín dụng ĐTPT có sự thay đổi về chính sách và tổ chức thực hiện. Trong đó giai đoạn 2000 – 2005 tổ chức thực hiện hoạt động này là QHTPT. Sang giai đoạn 2006 đến nay tổ chức thực hiện là NHPT. Vì thế ta sẽ chia giai đoạn từ năm 2000 đến nay thành hai giai đoạn 2000 – 2005 và 2006 đến nay để xem xét thực trạng của từng giai đoạn, từ đó đánh giá xem qua hai giai đoạn hoạt động tín dụng ĐTPT đã đạt được những thành tựu gì, còn những tồn tại gì và sự điều chỉnh hoạt động tín dụng ĐTPT đã phù hợp với thực tiễn chưa.
1.Giai đoạn 2000 – 2005
1.1. Tổ chức thực hiện
* Cơ chế, chính sách
Trong giai đoạn này Chính phủ đã ban hành hai nghị định về tín dụng ĐTPT là: Nghị định số 43/1999/NĐ- CP ngày 29 tháng 6 năm 1999 và Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 1 tháng 4 năm 2004. Nghị định 106 ra đời để khắc phục những tồn tại của Nghị định 43. Theo đó:
+ Đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi bị cắt giảm để tránh tình trạng đầu tư dàn trải.
+ Nguồn vốn huy động được mở rộng để giảm sự phụ thuộc vào NSNN.
+ Lãi suất cho vay được điều chỉnh theo hướng giảm bao cấp.
* Tổ chức thực hiện
Để thực hiện hoạt động tín dụng ĐTPT trong giai đoạn này Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/1999/NĐ – CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 về việc thành lập QHTPT để thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT. Đây là một bước đi rất quan trọng trong việc đổi mới quản lý tín dụng ĐTPT Nhà nước tập trung vào một mối để phát huy hơn nữa vai trò của tín dụng ĐTPT với sự phát triển của nền kinh tế. QHTPT được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Tổng cục đầu tư phát triển và Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia. QHTPT là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo đảm hoàn vốn và bù đắp chi phí. Quỹ có bộ máy quản lý và điều hành thống nhất trong phạm vi cả nước, có tư cách pháp nhân, được cấp vốn điều lệ. Hoạt động nghiệp vụ của QHTPT là huy động vốn và cho vay vốn trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội nhưng QHTPT không phải là ngân hàng thương mại, không chịu sự điều chỉnh của các luật tổ chức tín dụng và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Quỹ chịu sự quản lý Nhà nước về tài chính của Bộ Tài chính trong hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước. QHTPT hoạt động theo điều lệ của thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chịu sự quản lý Nhà nước của các cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Hệ thống QHTPT gồm QHTPT TW và 61 chi nhánh quỹ, thực hiện hạch toán tập trung, có thực hiện phân cấp ủy quyền cho các chi nhánh và điều chỉnh vốn giữa chi nhánh Quỹ và QHTPT TW.
QHTPT chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/2000 với chức năng huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng ĐTPT ; cho vay và thu hồi nợ các dự án vay vốn đầu tư; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư theo quy định của Chính phủ. Nhận cho vay ủy thác đối với các nguồn vốn do các địa phương và các tổ chức trong và ngoài nước dành để cho vay đầu tư, tái bảo lãnh cho các quỹ đầu tư của ngành, các tổ chức và các địa phương, thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ tướng Chính phủ giao.
Nghị định 43 quy định về quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước với hoạt động của QHTPT rất cụ thể, rõ ràng. Trong đó, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước được phân định theo chức năng và tầm ảnh hưởng đối với hoạt động chính sách tín dụng ĐTPT nhằm tạo ra một hệ thống cơ chế quản lý Nhà nước với hoạt động tín dụng ĐTPT .
Tuy nhiên, phải nói đến Nghị định 106 thì mới có sự tăng cường, phối hợp của các cơ quan quản lý với hoạt động của QHTPT.
Cụ thể như quy định về trách nhiệm và quyền hạn của Bộ tài chính và Bộ Kế hoạch đầu tư. Nếu như ở Nghị định 43 việc cân đối nguồn vốn NSNN cho hoạt động tín dụng ĐTPT được phân cho Bộ Kế hoạch đầu tư đảm nhiệm thì theo quy định mới của Nghị định 106 Bộ Kế hoạch đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính lập dự toán NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho hoạt động tín dụng ĐTPT hoặc theo Nghị định 43 quy định Bộ Tài chính có nhiệm vụ bố trí vốn ngân sách Nhà nước hàng năm cho QHTPT thì sang Nghị định 106, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí vốn ngân sách Nhà nước hàng năm cho hoạt động tín dụng ĐTPT. Sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín dụng ĐTPT không chỉ nâng cao hơn nữa vai trò của hoạt động này đối với sự phát triển của nền kinh tế mà còn thể hiện một sự đổi mới đáng ghi nhận trong việc ban hành Chính sách và quan điểm cải cách nền tài chính công của nước ta.
1.2. Nguồn vốn hoạt động
Nguồn vốn hoạt động bao gồm vốn điều lệ do NSNN cấp; vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ; vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ dùng để cho vay lại và vốn do QHTPT huy động từ các TCTC, TCTD.
Nguồn vốn đã được mở rộng cả về quy mô và hình thức. Tuy nhiên nguồn vốn hoạt động vẫn còn phụ thuộc nhiều vào NSNN. Để khắc phục những hạn chế của Nghị định 43 và để giảm bớt gánh nặng cho NSNN Nghị định 106 đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn về nguồn vốn hoạt động. Nguồn vốn được chia thành: Vốn NSNN và vốn QHTPT huy động. Trong đó, vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ được giao cho QHTPT phát hành và thuộc về vốn QHTPT huy động. Đây là sự thay đổi trong chính sách thể hiện rõ sự đổi mới theo hướng giảm bao cấp, nhằm khai thác tối đa nguồn lực xã hội cho sự phát triển và nâng cao hơn nữa tính tự chủ, độc lập của tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng ĐTPT.
Năm 2000, tỷ lệ vốn NSNN, vốn vay từ các Quỹ theo chỉ thị của Chính phủ chiếm 92,7% nguồn vốn của QHTPT. Đến cuối năm 2003, tỷ lệ này chỉ còn 48,2%. Đặc biệt từ năm 2002, QHTPT đã huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường Chứng khoán tạo ra công cụ đầu tư tài chính dài hạn 10 năm, 15 năm xuất hiện lần đầu tiền trên thị trường tài chính Việt Nam. Đến năm 2004, nguồn vốn huy động từ phát hành trái phiếu Chính phủ của QHTPT chiếm hơn 30% tổng nguồn vốn hoạt động của Quỹ, góp phần quan trọng nâng tỷ lệ các nguồn vốn huy động từ thị trường từ 7,3% năm 2000 lên 58% cuối năm 2004.
Vốn điều lệ 5000 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 10% tổng nguồn vốn hoạt động và có xu hướng ngày càng giảm, trong đó trên 1/2 không luân chuyển được do tồn đọng trong các chương trình dự án nhận bàn giao từ Tổng cục Đầu tư phát triển, thể hiện sự yếu kém về năng lực tài chính của một công cụ của Chính phủ để hỗ trợ cho đầu tư phát triển.
Cơ chế huy động chưa thật sự gắn với thị trường, hạn chế đến khả năng huy động vốn cho ĐTPT, đặc biệt là huy động qua phát hành trái phiếu Chính phủ vì tính thanh khoản của trái phiếu còn thấp do chưa có thị trường thứ cấp và chưa được cầm cố, chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Độ chênh về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn ngày càng lớn. Việc huy động được các nguồn vốn có kỳ hạn từ 5 năm trở lên rất khó khăn do thị trường tài chính chưa phát triển, trong khi thời hạn cho vay bình quân các dự án là 8 năm. Ngược lại, vẫn phải sử dụng nguồn vốn huy động trung dài hạn để cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu vì chưa được huy động các nguồn vốn ngắn hạn.
Phương thức huy động vốn theo quy định chưa đa dạng từ loại tiền, hình thức đến đối tượng huy động… đã làm hạn chế việc khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội cho ĐTPT.
Như vậy trong giai đoạn này nguồn vốn huy động cho ĐTPT vẫn chưa ổn định, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ĐTPT ngày càng mở rộng.
1.3. Đối tượng của tín dụng ĐTPT .
Nghị định 43 về tín dụng ĐTPT Nhà nước đã góp phần đáng kể cho sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, thu ngắn khoảng cách giữa đói và nghèo, giữa vùng núi và đồng bằng, thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ một số điểm chưa phù hợp cụ thể là về đối tượng tín dụng ĐTPT.
Đối tượng hưởng ưu đãi là các dự án đầu tư tại các vùng khó khăn thuộc một số ngành nghề theo quy định. Điều này đãm làm hạn chế khả năng vay vốn của các dự án bởi để đảm bảo tính hiệu quả đầu tư thì một số dự án khó có thể đầu tư tại các vùng khó khăn. Bên cạnh đó các đối tượng hưởng ưu đãi rất rộng rãi, lên tới gần 40 nhóm đối tượng gây ra tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Để khắc phục điều này Nghị định 106 đã quy định lại về đối tượng hưởng ưu đãi trong đó không phân biệt địa bàn đầu tư và thu hẹp các đối tượng được hưởng ưu đãi. Từ gần 40 nhóm đối tượng giảm xuống còn trên 14 nhóm đối tượng. Các đối tượng vay vốn tín dụng thuộc các ngành công nghiệp nặng bị thắt chặt thì các ngành công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy hải sản lại được mở rộng diện ưu đãi. Các đối tượng tập trung vào các lĩnh vực, sản phẩm quan trọng cần khuyến khích của nền kinh tế như dự án trồng rừng nguyên liệu giấy, bột giấy, dự án sản xuất giống gốc, giống mới; dự án cung cấp nước sạch, các dự án xây dựng nhà máy thủy điện lớn, dự án sản xuất ô tô chở khách; sản xuất và lắp ráp đầu máy xe lửa; đầu tư nhà máy đóng tàu biển…
1.4. Các hình thức tín dụng ĐTPT .
Hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu như trước năm 2000, hoạt động tín dụng ĐTPT chỉ được thực hiện dưới một hình thức duy nhất là cho vay ưu đãi, thì nay đã được thực hiện dưới ba hình thức: cho vay đầu tư và cho các dự án vay theo hiệp định của Chính phủ, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư.
Theo xu hướng hình thức cho vay đầu tư sẽ giảm và tăng cường hơn nữa hình thức bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để tiến tới giảm dần sự bao cấp khi nền kinh tế đi sâu vào hội nhập.
1.4.1 Hình thức cho vay ĐTPT.
Theo Nghị định 43 đối tượng cho vay là các dự án ĐTPT có khả năng thu hồi vốn trực tiếp (bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh nghiệp mới, cho vay đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất) của cá thành phần kinh tế.
Với quy định như trên đã gây ra tình trạng đầu tư dàn trải, bao cấp tràn lan. Để khắc phục tình trạng này Nghị định 106 có quy định mới thu hẹp đối tượng hưởng ưu đãi và đặc biệt là các đối tượng vay vốn bằng cách áp dụng các cơ chế chặt chẽ hơn đối với điều kiện vay vốn. Cụ thể như: Ở Nghị định 43 quy định mức lãi suất cho vay là 9%/năm thì sang Nghị định 106 mức lãi suất cho vay đầu tư được xác định tương đương 70% lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân của các ngân hàng thương mại Nhà nước. Với quy định mới về lãi suất làm cho lãi suất sát với lãi suất thị trường hơn và giảm tính bao cấp ở mức lãi suất cũ. Đồng thời với việc tăng lãi suất là các điều kiện cho vay càng chặt chẽ hơn, tăng cường quyền hạn của QHTPT trong việc giám sát, kiểm tra, quyết định cho vay nhằm đảm bảo đầu tư có hiệu quả, tránh tình trạng ỷ lại của các chủ đầu tư. Nghị định 106 còn quy định lại về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay dài hơn được xác định theo khả năng trả nợ của chủ đầu tư (nhưng tối đa không quá 12 năm).
Việc tăng lãi suất cho vay tuy làm giảm doanh số cho vay nhưng đã thực hiện được chủ trương của Chính phủ là giảm bao cấp tràn lan, đầu tư có trọng điểm với mục đích tập trung nguồn lực tại chính vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Bên cạnh đó Nghị định 106 còn có quy định mới về bảo đảm tiền vay không phân biệt doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận dễ hơn với vốn tín dụng ưu đãi và đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển đồng đều hơn.
* Bảng 1: Kết quả cho vay đầu tư trung và dài hạn của QHTPT giai đoạn 2000 – 2005.
Stt
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
1
Cho vay (tỷ đồng)
4850
7831
9376
13511
10648
2
Dư nợ (tỷ đồng)
9271
14771
21837
31963
38392
3
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)
2%
2.50%
3%
3.70%
3.20%
Nguồn: QHTPT
Qua bảng số liệu cho ta thấy nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn được giải ngân mỗi năm tương đối lớn, đáp ứng nhu cầu vốn cho nhiều dự án, chương trình lớn của Chính phủ. Từ năm 2000 đến năm 2003 vốn giải ngân tăng từ 4850 tỷ đồng lên đến 13511 tỷ đồng. Đến năm 2004 cơ chế cho vay thay đổi theo hướng thu hẹp đối tượng cho vay nên vốn giải ngân giảm xuống còn 10648 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc giải ngân vẫn chưa được tiến hành một cách hiệu quả nên tốc độ giải ngân còn chậm. Năm 2001 tốc độ giải ngân đạt 61,4%, năm 2002 giảm xuống còn 19,73% và đến năm 2003 tăng lên đến 44,1%. Chất lượng tín dụng chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao và ngày càng có xu hướng tăng thêm. Từ 2% năm 2000 đã tăng lên 3,7% năm 2003. Điều này cho thấy công tác thẩm định dự án, công tác thanh tra kiểm tra và quản lý nguồn vay còn chưa tốt.
* Bảng 2: Cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế quốc dân
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Ngành
Số vốn và tỷ trọng phân theo ngành kinh tế
2000
2001
2002
2003
2004
Số vốn
tt (%)
Số vốn
tt (%)
Số vốn
tt (%)
Số vốn
tt (%)
Số vốn
tt (%)
1
Công nghiệpxây dựng
1770
43
3546
45
4604
49
8442
62
7121
64
2
Nông lâmthủy hải sản
1154
28
1688
21
1023
11
1720
13
1558
14
3
Giao thôngvận tải
948
23
2407
30
3380
36
2909
22
2114
19
4
Khác
275
6
348
4
369
4
440
3
334
3
Tổng cộng
4147
100
7989
100
9376
100
13511
100
11126
100
Nguồn: QHTPT
Cơ cấu cho vay đầu tư của Quỹ thay đổi dần qua từng năm theo xu hướng tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho các dự án thuộc ngành công nghiệp xây dựng, giao thông vận tải (từ 66% năm 2000 lên 83% năm 2005) và giảm dần đối với các dự án thuộc ngành nông nghiệp, các ngành sản xuất vật chất khác (từ 34% năm 2000 xuống còn 17% năm 2004) góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy kinh tế bền vững.
Cơ cấu cho vay thể hiện rõ định hướng ĐTPT theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng cho vay các dự án thuộc ngành công nghiệp xây dựng, giao thông vận tải có xu hướng tăng nhanh.
Từ năm 2000 đến năm 2003 tỷ trọng cho vay đôis với doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn (90%). Đến năm 2004 cơ chế cho vay có sự thay đổi nên tỷ trọng ngày giảm xuống còn 87% và đến năm 2005 là 85%. Sự thay đổi này đã xho thấy xu hướng giảm sự bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước và đã có sự chú trọng đầu tư vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bảng 3: Cơ cấu cho vay theo vùng kinh tế giai đoạn 2000 – 2005
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Vùng
Các chỉ tiêu theo vùng kinh tế
Số vốn vay theo H ĐTD
Dư nợ
Số DA
Số vốn vay
T.trọngvốn vay(%)
Tổngsố
Tỷtrọng (%)
1
Đông Bắc
781
12010
18.18
5945
15.74
2
Tây Bắc
99
1194
1.81
684
1.81
3
Đồng bằng S.Hồng
766
15636
23.67
9868
26.13
4
Bắc Trung Bộ
654
5885
8.91
3408
9.02
5
D.H miền Trung
430
5726
8.67
2756
7.29
6
Tây Nguyên
207
3023
4.58
1559
4.13
7
Đông Nam Bộ
922
14666
22.2
8782
23.25
8
ĐB Sông Cửu Long
1029
7918
11.98
4694
12.43
Tổng cộng
4888
66058
100
37768
100
Nguồn: QHTPT
Cơ cấu cho vay cho thấy sự phát triển tương đối nhanh của vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Đông Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long. So với các vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Cơ cấu cho vay đã cho thấy sự phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước là phát triển các vùng kinh tế trọng điểm để kéo theo sự phát triển các vùng khác. Tuy nhiên tỷ trọng vốn vay với các vùng Tây Bắc và Tây Nguyên còn quá nhỏ, dư nợ của các dự án còn cao cho thấy công tác tín dụng ĐTPT chưa thực sự chú trọng vào các vùng khó khăn.
* Quan điểm để định hướng đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đã xác định: chuyển dịch cơ cấu kinh tế , cơ cấu đầu tư, dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và lợi thế so sánh của đất nước. Gắn nhu cầu trong nước với mở rộng thị trường nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu. Vì vậy chính sách tín dụng ĐTPT cũng chú trọng đến hình thức tín dụng xuất khẩu. Tín dụng xuất khẩu là hình thức cho vay ngắn hạn với các dự án sản xuất hàng xuất khẩu nhằm hỗ trợ các sản phẩm trong nước xuất khẩu sang nước ngoài, tăng cường hơn nữa mối quan hệ quốc tế, góp phần thực hiện tốt đường lối công nghiệp hóa của đất nước.
Tính đến 30/6/2005, thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ vốn cho chiến lược xuất khẩu theo quyết định số 133/2001/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ giao, QHTPT đã đầu tư trên 6580 tỷ đồng vốn trung và dài hạn cho 700 dự án sản xuất hàng xuất khẩu và trên 23 000 tỷ đồng để hỗ trợ gần 2000 doanh nghiệp thực hiện thành công trên 5500 hợp đồng xuất khẩu hàng thủy sản, gạo, cà phê, dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ…vào các thị trường lớn như Asean, EU, Mỹ, Nhật…góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước khoảng 17%/năm trong giai đoạn 2000 đến 2005. An toàn tín dụng được bảo đảm, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 0,5%. Nhờ nguồn vốn này một số doanh nghiệp đã vượt qua được khó khăn, phát triển mạnh mẽ, vươn lên vị trí hàng đầu trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam như Công Ty Xuất nhập khẩu nông sản Ninh Thuận, Công ty vật tư Tổng hợp Phú Yên, Công ty dệt may Thành Công…
Tỷ trọng cho vay theo mặt hàng, thị trường và thành phần kinh tế cụ thể như sau:
Bảng 4: Tỷ trọng cho vay theo mặt hàng vào thị trường giai đoạn 2000 – 2005
Đơn vị: %
Tỷ trọng theo mặt hàng
Tỷ trọng theo thị trường
Thủy sản
34.7
Bắc Mỹ
12.7
Gạo
29.7
Asean
14.74
Điều
6.22
Nhật
8.12
Cà phê
11.15
EU
20.32
Rau quả
1.86
Trung Quốc
12.61
Dây cáp điện
2.61
Trung Đông
6.53
Đồ gỗ
3.1
Cu Ba
5.34
Khác
10.65
Khác
19.64
Nguồn: QHTPT
Cơ cấu trên cho thấy tỷ trọng cho vay của mặt hàng thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất là 34,7% , sau đó đến gạo 29,7%. Các mặt hàng này đều là các mặt hàng lợi thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tỷ trọng này đã phản ánh phần nào tác động của hoạt động tín dụng ưu đãi đối với việc phát huy lợi thế so sánh của các sản phẩm trong nước trên thị trường nước ngoài.
Tỷ trọng cho vay theo thị trường tập trung vào các thị trường lớn như EU, Asean, Trung Quốc. Đây là các thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Tuy nhiên trong giai đoạn hội nhập quốc tế cần phải nâng cao tỷ trọng cho vay các mặt hàng xuất khẩu vào các thị trường lớn và tiềm năng khác như Mỹ và Nhật Bản.
Tỷ trọng cho vay theo loại hình doanh nghiệp cũng có những nét thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng cho vay với doanh nghiệp Nhà nước, tăng tỷ trọng cho vay với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, tỷ trọng cho vay theo loại hình doanh nghiệp Nhà nước vẫn cao chiếm đến 70% trong khi đó tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm 30%. Điều này cho thấy vẫn còn sự bao cấp đối với doanh nghiệp Nhà nước và hoạt động tín dụng ưu đãi chưa thực sự hướng tới doanh nghiệp ngoài quốc doanh (thành phần kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng phát triển).
Bên cạnh hoạt động cho vay đầu tư; cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu thì hoạt động cho vay lại vốn ODA và vốn ủy thác cũng được tăng cường. Nguồn vốn ODA được Bộ Tài chính ủy thác cho QHTPT quản lý và cho vay đối với các dự án thuộc đối tượng ưu đãi:
Đến ngày 30/6/2005, Quỹ đang quản lý cho vay lại 261 dự án vay vốn ODA với tổng số vốn vay theo hợp đồng tín dụng đã ký 5,88 tỷ USD, đã giải ngân được trên 3 tỷ USD, dư nợ 40003 tỷ đồng. Hoạt động cho vay lại vốn ODA có sự tăng trưởng mạnh về số lượng và chất lượng. Số dự án đã tăng 1,5 lần, tổng dư nợ tăng 2,6 lần.
Với các dự án cho vay ủy thác: Hàng năm, Quỹ đã nhận trên 6000 tỷ đồng để cấp phát và cho vay đầu tư theo ủy thác của các Bộ, ngành, địa phương, các quỹ đầu tư phát triển, các Tổng công ty.
Đặc biệt trong 2004 Quỹ đã được Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính ủy quyền cấp phát vốn, đền bù di dân tái định cư dự án Thủy điện Sơn La với tổng số vốn trên 10000 tỷ đồng. Nhờ kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo đúng nguyên tắc, đúng chế độ về quản lý đầu tư và xây dựng nên ngoài việc quản lý các dự án ODA cho vay lại theo ủy thác của Bộ tài chính, quỹ đã được một số tổ chức quốc tế, chính phủ các nước ủy thác quản lý khoảng 323 triệu USD dưới dạng các quỹ quay vòng.
1.4.2. Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
Đây là hình thức Nhà nước hỗ trợ một phần lãi suất của chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức tín dụng để đầu tư dự án, sau khi dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng và trả được nợ vay. Theo xu hướng hình thức này sẽ được tăng cường cùng với việc giảm dần đối tượng cho vay ưu đãi. Với xu hướng này nguồn vốn tín dụng đầu tư sẽ được sử dụng hiệu quả hơn, tăng tính chủ động của các chủ đầu tư và phù hợp với các thông lệ quốc tế giảm dần bao cấp trong nền kinh tế.
Một chủ trương quan trọng của Nghị định 106 là hạn chế cho vay ưu đãi trước đầu tư và mở rộng ưu đãi sau đầu tư. Nghị định 106 quy định, mở rộng đối tượng được hưởng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không chỉ các dự án thuộc danh mục ngành nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư theo Nghị định 35/2003/NĐ- CP mà các dự án thuộc đối tượng vay vốn đầu tư nhưng mới được vay một phần hoặc chưa được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước cũng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, áp dụng cho đối tượng vay ngoại tệ của các ngân hàng thương mại. Thủ tục, hồ sơ xem xét hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được hỗ trợ đơn giản. Trong điều kiện nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn thì hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư trở thành một hình thức quan trọng bởi qua hình thức này, Nhà nước chỉ cần bỏ ra một khối lượng vốn không lớn đã thu hút thêm nhiều tỷ đồng vốn đầu tư từ các tổ chưc tín dụng và doanh nghiệp cho đầu tư.
Bảng 5 : Kết quả hoạt độnghỗ trợ lãi suất sau đầu tư giai đoạn 2000_2005
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
Cấp hỗ trợ sau đầu tư
0.3
2
30
91
111
Nguồn: QHTPT
Số vốn cấp cho hình thức này ngày càng tăng cao. Từ 0,3 tỷ năm 2000 đã lên đến 111 tỷ năm 2004. Kết quả này cho thấy hình thức hỗ trợ sau đầu tư ngày càng được đẩy mạnh, khuyến khích chủ đầu tư dự án bằng nguồn vốn vay thương mại. Nếu như năm 2000 chỉ có 49 dự án thì đến năm 2005 đã có gần 1850 dự án được Quỹ cam kết hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với tổng số vốn đã ký hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư lên tới 1550 tỷ đồng, đây là nguồn vốn mới góp phần thu hút hàng chục ngàn tỷ đồng vốn từ các nhà đầu tư và các tổ chưc tín dụng cho ĐTPT.
1.4.3. Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư.
Đây là hình thức QHTPT cam kết với tổ chưc tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay. Trong trường hợp bên đi vay không trả được nợ hoặc trả không đủ nợ khi đến hạn Quỹ sẽ trả nợ thay cho bên đi vay. Đây là một hình thức tín dụng có tích chất bền vững không mang tính trợ cấp như cho vay đầu tư phát triển hay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Tuy nhiên trong giai đoạn này quỹ mới chỉ ký hợp đồng bảo lãnh tín dụng đầu tư cho một vài dự án với tổng số vốn chỉ khoảng 5 – 6 tỷ đồng. Sở dĩ hình thức này chưa được mở rộng vì theo quy định dự án đầu tư phải được Quỹ thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ. Như vậy, dự án đầu tư phải qua hai lần thẩm định: tổ chức tín dụng và QHTPT, gây ra thủ tục phiền hà, tốn thời gian cho chủ đầu tư. Hơn nữa, nếu dự án đủ khả năng vay vốn thì tổ chức tín dụng không đòi hỏi sự bảo lãnh của QHTPT. Chỉ trong trường hợp dự án chứa đựng nhiều rủi ro, tổ chức tín dụng không sẵn sàng cho vay thì mới cần đến sự bảo lãnh của Quỹ. Vì thế cần có cơ chế san sẻ rủi ro hợp lý giữa các tổ chức tín dụng và QHTPT đồng thời chủ đầu tư cần có sự lựa chọn dự án hợp lý đảm bảo đủ khả năng trả nợ và hiệu quả trong đầu tư để tránh tổn thất, rủi ro cho Quỹ khi nhận bảo lãnh.
2. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay
Đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam bước sang một giai đoạn mới : giai đoạn hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới đánh dấu bằng sự kiện : Năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Cùng với các cơ hội lớn mà WTO mang lại là hàng loạt các khó khăn thử thách đặt ra ở phía trước. Vì vậy cần phải phát huy hơn nữa nội lực của nền kinh tế để chủ động hội nhập, đón đầu các cơ hội và vượt qua các thách thức.
Một trong các vấn đề quan trọng để phát huy tốt được nội lực là việc huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho ĐTPT , nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, chống thất thoát lãng phí vốn Nhà nước.Yêu cầu đặt ra là cần phải đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước ( bao gồm cả cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện ) góp phần nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia tín dụng ĐTPT Nhà nước, nhằm sử dụng các nguồn vốn đầu tư tập trung, đúng quy hoạch, kế hoạch, có hiệu quả tránh đầu tư dàn trải.
Để đáp ứng yêu cầu thực hiện các nguyên tắc và cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khi gia nhập WTO chúng ta phải tuân thủ các nguyên tắc chính sau:
* Mở cửa thị trường, không phân biệt đối xử giữa các hàng hoá, dịch vụ và người cung cấp.
* Thực hiện tự do hoá thông qua các cam kết ràng buộc và cắt giảm hàng rào bảo hộ.
* Đảm bảo sự minh bạch trong chính sách thương mại quốc gia.
* Nguyên tắc có đi có lại, trên cơ sở các bên đều có lợi.
* Nguyên tắc có ưu đãi đối với các nước đang phát triển để các quốc gia này có thời gian và điều kiện hoà nhập.
Thực hiện các nguyên tắc trên hoạt động tín dụng đầu tư phát triển sẽ bị tác động ở một số nội dung sau:
Một là : Đối tượng, hình thức và thời hạn hỗ trợ sẽ được điều chỉnh phù hợp vói Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng theo đó.
Hai là : Việc hoàn chỉnh chính sách tài chính, trong đó có chính sách hỗ trợ đầu tư và xuất khẩu, chính sách chi NSNN phải đảm bảo tính minh bạch. Cải cách hệ thống ngân hàng phải tách bạch rõ hoạt động cho vay theo chính sách và cho vay thương mại, đảm bảo môi trường pháp lý bình đẳng và một hệ thống chính sách ổn định, công khai rõ ràng phù hợp với thông lệ quốc tế từ khâu hoạch định, tổ chức bộ máy và triển khai thực hiện. Từ đó đặt ra yêu cầu cần đổi mới chính sách và mô hình tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT theo xu hướng tiếp cận với thị trường, minh bạch về tài chính, độc lập và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động nghiệp vụ.
Xuất phát từ những lý do trên mà trong giai đoạn này chính sách tín dụng ĐTPT đã có sự thay đổi cả về chính sách và tổ chức thực hiện để phù hợp với tình hình thực tế.
2.1 Tổ chức thực hiện
* Cơ chế chính sách
Chính phủ đã ban hành Nghị định 151 về tín dụng ĐTPT để thay thế cho Nghị định 106 nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế chính sách cũ.
Nghị định 151 đã khắc phục được những hạn chế của Nghị định 106 ở một số mặt sau:
+ Nguồn vốn huy động ngày càng được đa dạng trong đó chú trọng đến nâng cao tính tự chủ của NHPT trong vệc huy động nguồn vốn.
+ Đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi được điều chỉnh phù hợp hơn với thông lệ quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO.
+ Lãi suất cho vay điều chỉnh sát với lãi suất thị trường hơn.
+ Mở rộng thêm các hình thức tín dụng ĐTPT như: bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
* Tổ chức thực hiện
Chính phủ đã ban hành Quyết định 108 ngày 19 tháng 5 năm 2006 về việc thành lập NHPT Việt Nam.
NHPT được thành lập trên cơ sở tổ chức lại hệ thống QHTPT để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
NHPT có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có con dấu, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài, được tham gia hệ thống thanh toán với các ngân hàng và cung cấp dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật. Ngân hàng phát triển Việt Nam kế thừa mọi quyền lợi, trách nhiệm từ QHTPT. Hoạt động của Ngân hàng không vì mụa đích lợi nhuận, được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước, từng bước tiến tới tự cân đối về tài chính.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay ngoài chức năng, nhiệm vụ như đã được quy định đối với QHTPT thì NHPT còn có nhiệm vụ là cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, tham gia hệ thống thanh toán trong nước, quốc tế và thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín dụng ĐTPT và tín dụng xuất khẩu.
Trách nhiệm và quyền hạn của NHPT được quy định cụ thể hơn theo hướng nâng cao vai trò của một công cụ chính sách của Nhà nước,trong đó:
+NHPT có quyền từ chối cho vay,hỗ trợ sau đầu tư,bảo lãnh tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu các dự án,các khoản vay không bảo đảm các điều kiện theo quy định.
+Khởi kiện khách hàng hoặc người bảo lãnh vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật.
+Được xử lý rủi ro theo quy định.
+Kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm bởi tổ chức kiểm toán độc lập:thực hiện công khai, minh bạch về hoạt động và tài chính của Ngân hàng phát triển và chấp hành chế độ báo cáo thống kê với các cơ quan có thẩm quyền theo quy định.
Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước đối với NHPT ngày càng được tăng cường để quản lý và phối hợp với NHPT thực hiện tốt hơn công tác đầu tư phát triển. Trong đó: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giám sát NHPT trong việc thực hiện các nghiệp vụ theo quy định của pháp luật; Bộ thương mại thực hiện các nhiệm vụ theo chức năng và thẩm quyền liên quan đến danh mục tín dụng xuất khẩu của Nhà nước; Bộ nội vụ: hướng dẫn Ngân hàng phát triển thực hiện đúng các chế độ,chính sách quản lý và đào tạo cán bộ,viên chức.
Trên đây là những điểm khác biệt của Ngân hàng phát triển so với Quỹ hỗ trợ phát triển. Với việc chuyển đổi mô nhình tổ chức thực hiện từ Quỹ hỗ trợ phát triển sang mô hình Ngân hàng phát triển vừa đáp ứng được yêu cầu , nhiệm vụ mới, vừa khắc phục được những tồn tại, vướng mắc trong thời gian qua với những ưu điểm cơ bản sau :
+Đảm bảo phát huy tốt hơn vai trò là công cụ của Chính phủ, thực hiện hỗ trợ mạnh hơn, nhiều hơn, hiệu quả hơn cho đầu tư và xuất khẩu, đồng thời tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm quản lý của hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển.
+Khắc phục được các tồn tại, vướng mắc trong hoạt động nghiệp vụ hiện nay của Quỹ hỗ trợ phát triển về:huy động vốn, cho vay, thanh toán, thu hồi nợ, tái cơ cấu nợ, nâng cao chất lượng công tác thẩm định và chất lượng tín dụng, đảm bảo sự quản lý thống nhất và toàn diện của các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư, tài chính, tiền tệ và tín dụng.
+Hình thành một định chế tài chính phát triển chuyên nghiệp có tính độc lập và vị thế pháp lý rõ ràng,hoạt động công khai minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, tương tự như NHPT của các nước:cùng tồn tại, phát triển và bổ sung lẫn nhau với các Ngân hàng thương mại để đáp ứng yêu cầu đầu tư của đất nước.
+Khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước và quốc tế, đảm bảo vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giảm áp lực về vốn trung và dài hạn của các Ngân hàng thương mại.
+Quan hệ với các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước và quốc tế thuận lợi hơn, tranh thủ được công nghệ và kinh nghiệm của các ngân hàng trong nước và quốc tế.
2.2. Nguồn vốn hoạt động:
Nguồn vốn hoạt động ngày càng được mở rộng thêm từ nhiều nguồn theo hướng giảm bao cấp về vốn ngân sách và tăng nguồn vốn từ huy động các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội. Ngoài hình thức huy động phát hành trái phiếu Chính phủ, NHPT được quyền phát hành trái phiếu Ngân hàng phát triển và kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi theo quy định. Ngoài ra, nguồn vốn vay của công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm xã hội, các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước và nguồn vốn uỷ thác cũng đóng góp một lượng vốn tương đối lớn dành cho nhu cầu đầu tư phát triển.
Bảng 6: Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển giai đoạn 2006 đến nay.
Đơn vị:tỷ đồng.
STT
Khoản mục
Năm 2006
Năm 2007
1
Tiền gửi của kho bạc nhà nước,
TCTD, TCTC
1428
271
2
Tiền gửi của khách hàng.
5594
4233
3
Vay ngân sách nhà nước
TCTD, TCTC
23193
17316
4
Vốn uỷ thác đầu tư.
49266
53178
5
Phát hành giấy tờ có giá.
25753
49588
Qua bảng số liệu trên cho thấy qua hai năm thực hiện từ khi chuyển đổi sang mô hình Ngân hàng phát triển thì nguồn vốn huy động tăng mạnh, đặc biệt là hình thức phát hành giấy tờ có giá từ 25.753 tỷ năm 2006 tăng lên 49.588 tỷ năm 2007. Điều này đã phản ánh sự tăng cường hơn nữa của Ngân hàng phát triển trong việc chủ động về nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển, giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
Những bước tiến đáng kể trong công tác huy động vốn không chỉ về khối lượng ngày càng tăng mà còn có sự cải thiện mạnh mẽ cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng vốn huy động có kỳ hạn dài, giảm vốn huy động có kỳ hạn ngắn. Cụ thể là nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá tăng mạnh trong khi đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi ngắn hạn lại giảm mạnh:từ 1428 tỷ xuống 271 tỷ đối với tiền gửi của Kho bạc nhà nước, tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng; từ 5594 tỷ xuống 4233 tỷ đối với tiền gửi của khách hàng.
Tuy nhiên nguồn vốn vay ổn định từ các nguồn truyền thống lại có xu hướng giảm từ 23193 tỷ năm 2006 giảm xuống 17316 tỷ năm 2007.
2.3. Đối tượng của tín dụng ĐTPT :
Để thực hiện tốt các cam kết khi gia nhập WTO, đối tượng hưởng ưu đãi cũng được quy định lại trong danh mục đối tượng của tín dụng đầu tư phát triển đi kèm với Nghị định 151.
Nếu như ở Nghị định 106, đối tượng hưởng ưu đãi được mở rộng hơn cho lĩnh vực công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, thì ở Nghị định 151 đối tượng hưởng ưu đãi đã được điều chỉnh phù hợp với Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng khi gia nhập WTO.
+Đối với các đối tượng thuộc trợ cấp đèn đỏ là:trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp sản xuất hàng nội địa thay thế nhập khẩu thì cần phải tận dụng thời gian trước khi bị cấm tiếp tục hỗ trợ cho các đối tượng này.
+Đối với các đối tượng thuộc trợ cấp đèn vàng là:trợ cấp riêng biệt cho từng doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành vẫn tiếp tục hỗ trợ song phải kiểm soát chặt chẽ để tránh bị áp dụng các biện pháp đối kháng.
+Đối với các đối tượng thuộc trợ cấp đèn xanh là:đối tượng không bị cấm, không bị áp dụng biện pháp đối kháng nên cần đẩy mạnh và mở rộngcho các đối tượng này.
Theo đó danh mục các đối tượng hưởng ưu đãi tín dụng đầu tư được phân thành năm nhóm vốn:với quy định không phân biệt địa bàn đầu tư và không phân biệt loại hình doanh nghiệp.Cụ thể bao gồm:
Nhóm I: Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội.
Nhóm II: Nông nghiệp,nông thôn.
Nhóm III: Công nghiệp.
Nhóm IV: Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơme sinh sống tập trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các xã vùng bãi ngang.
Nhóm V: các dự án cho vay theo Hiệp định của Chính phủ, các dự án đầu tư ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Để đầy mạnh chiến lược xuất khẩu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tận dụng thời gian trước khi các mặt hàng xuất khẩu bị cấm hỗ trợ, hoạt động hỗ trợ cho xuất khẩu cũng được tăng cường. Tuy nhiên, các đối tượng hưởng ưu đãi xuất khẩu cũng bị thu hẹp để phù hợp với các thông lệ quốc tế khi gia nhập WTO. Các mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu cũng được quy định theo danh mục riêng, cụ thể gồm bốn nhóm hàng chính:
Nhóm I: Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ hải sản.
Nhóm II: Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ.
Nhóm III: Nhóm hàng sản phẩm công nghiệp.
Nhóm IV: Máy tính nguyên chiếc,phụ kiện máy tính và phần mềm tin học.
Với sự thay đổi trong quy định về đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển, Nghị định 151 đã tỏ ra phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế đất nước và chiến lược phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập này.
2.4. Các hình thức tín dụng đầu tư phát triển:
Cùng với sự điều chỉnh về đối tượng hưởng ưu đãi thì các hình thức tín dụng đầu tư phát triển cũng được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Theo đó phân thành hai mảng hoạt động chính:Tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu.
Tín dụng đầu tư vẫn gồm ba hình thức như cũ. Tín dụng xuất khẩu lại được mở rộng ra thành ba hình thức:cho vay xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động tín dụng đầu tư phát triển và giảm gánh nặng cho ngân sách, hình thức cho vay sẽ có những thay đổi cơ chế:như lãi suất cho vay sẽ tiến sát đến lãi suất thị trường và mở rộng các điều kiện ưu đãi khác như thời hạn cho vay,điều kiện cho vay.
Sự thay đổi này rất phù hợp với xu hướng chung của các nước, đồng thời nâng cao hiệu quả trong hoạt động nghiệp vụ của tổ chức thực hiện, tiến tới phát triển bền vững nguồn tín dụng.
2.4.1 Hình thức cho vay đầu tư phát triển:
Bảng 7: Kết quả cho vay đầu tư giai đoạn 2006 đến nay.
Đơn vị:tỷ đồng.
STT
Chỉ tiêu
2006
2007
1
Cho vay
9887
14634
2
Thu nợ
5667
7106
3
Dư nợ
45438
53163
4
Nợ quá hạn(% dư nợ)
7,02%
5,8%
Nguồn: NHPT
Doanh số cho vay năm 2006 đạt 9887 tỷ, nhưng mới chỉ đạt 54% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, bằng 87% nhu cầu vốn do các chủ đầu tư đăng ký. Như vậy tiến độ giải ngân năm 2006 là rất chậm, sang năm 2007 con số này tăng lên đến 14634 tỷ. Tốc độ tăng so với năm 2006 đạt 48%, tăng nhanh so với các năm trước(năm 2006 so với năm 2005 là 26%). Đặc biệt trong năm 2007, đã có 113 dự án vay vốn tín dụng đầu tư đưa vào sử dụng, 1203 dự án đã thanh lý hợp đồng tín dụng.
Về công tác thu hồi nợ vay(cã gốc và lãi) năm 2006 đạt 5667 tỷ, trong khi đó dư nợ là 45438 tỷ. Công tác này vẫn chưa đạt kế hoạch được giao và còn thấp hơn nữa so với số nợ phải trả theo hợp đồng đã ký. Nguyên nhân chủ yếu là do một số dự án chậm tiến độ nên chưa có nguồn thu từ dự án để trả nợ, một số dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng nhưng lại gặp khó khăn tạm thời về sản xuất kinh doanh trong thời gian đầu đưa vào sử dụng…
Năm 2007, công tác thu nợ đạt cao so với kế hoạch điều chỉnh(95% kế hoạch thu nợ gốc và 99,5% kế hoạch thu nợ lãi), tuy nhiên so với kế hoạch đặt ra thì tỉ lệ này chỉ là 78% kế hoạch thu nợ gốc và 80% kế hoạch thu nợ lãi. Việc thu nợ không đạt kết quả đã làm ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn và việc thực hiện kế hoạch tài choính của Ngân hàng phát triển.
Một thực trạng còn tồn tại là chất lượng nợ vẫn chưa tốt. Tỷ lệ nợ quá hạn năm 2006 là 7,02%, năm 2007 là 5,8%. Tuy con số này có giảm nhưng vẫn còn cao, phản ánh chất lượng tín dụng chưa cao.
Như vậy có thể thấy rằng qua hai năm thực hiện tình hình giải ngân cho các dự án đầu tư cũng có nhiều khởi sắc, tuy nhiên vẫn có nhiều biến động, chưa thực sự ổn định. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do năm 2006 cơ chế, chính sách thay đổi nên tổ chức thực hiện vẫn chưa nắm bắt kịp thời với những thay đổi này để thực hiện tốt các nghiệp vụ. Điều này phản ánh một thực tế vẫn còn tồn tại ở Việt Nam là chính sách ban hành chưa đi cùng với hướng dẫn thực hiện kịp thời để chính sách sớm đưa vào thực tiễn.
Với vai trò là công cụ chính sách trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế hoạt động tín dụng đầu tư phát triển trong giai đoạn này vẫn có tác động lớn đến chuyển dịch cơ câú ngành kinh tế
Bảng8: Cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế giai đoạn 2006 đến nay.
Đơn vị: tỷ đồng.
STT
Ngành
Số vốn và tỷ trọng phân theo ngành kinh tế
Năm 2006
Năm 2007
số vốn
tỷ trọng(%)
số vốn
tỷ trọng(%)
1
Công nghiệp, xây dựng
8206
83
12731
87
2
Nông,lâm, ngư nghiệp
988
10
1170
8
3
Giao thông vận tải
395
4
439
3
4
Khác
298
3
294
2
Tổng cộng
9887
100
14634
100
Nguồn: NHPT
Số vốn vay cho các ngành đều tăng từ năm 2006 đến năm 2007, nhưng tỷ trọng số vốn vay của các ngành qua hai năm có sự thay đổi theo xu hướng: tỷ trọng vốn vay của ngành công nghiệp, xây dựng tăng nhanh, tỷ trọng vốn vay của các ngành nông lâm, ngư nghiệp và giao thông vận tải lại giảm. Cơ cấu này rất phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn này.
* Cùng với tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có xu hướng cho vay tín dụng đầu tư đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng giảm, tăng tỉ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bảng 9: Số vốn cho vay theo hình thức sở hữu
Đơn vị: tỷ đồng.
STT
Hình thức sở hữu
Số vốn và tỷ trọng phân theo hình thức sở hữu
Năm 2006
Năm 2007
số vốn
tỷ trọng(%)
số vốn
Tỷ trọng(%)
1
Doanh nghiệp nhà nước
7909
80
10975
75
2
Doanh nghiệp tư nhân
1977
20
3658
25
Tổng cộng
9887
100
14634
100
Nguồn: NHPT
Tỷ trọng vay vốn của các doanh nghiệp nhà nước giảm đồng thời và tăng đáng kể tỷ trọng vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho thấy việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi của doanh nghiệp tư nhân (đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ) dễ dàng hơn, chứng tỏ chính sách tín dụng đầu tư đã có những điều chỉnh rất phù hợp với tình hình thực tiễn, khắc phục được những tồn tại của cơ chế cũ.
Cùng với sự tăng lên của nguồn vốn trong nước dành cho đầu tư phát triển thì nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA cũng tăng lên đáng kể, góp phần quan trọng vào việc giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, nguồn vốn này được coi là nguồn ngoại lực cần thiết đối với sự phát triển của đất nước. Nguồn ODA thu hút trong nền kinh tế những năm gần đây đạt những con số khổng lồ, tuy nhiên việc sử dụng nó như thế nào cho hiệu quả lại đang là một vấn đề nan giải. Ngân hàng phát triển với nhiệm vụ nhận uỷ thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại đã phát huy tốt vai trò là công cụ vĩ mô để quản lý hiệu quả nguồn vốn này.
Trong giai đoạn này Ngân hàng phát triển đang quản lý cho vay lại 357 dự án với số vốn vay theo hợp đồng tín dụng đã ký gần 6700 triệu USD. Giải ngân vốn ODA năm 2007 tăng 70% so với năm 2006,đạt 92% kế hoạch được giao, tốc độ giải ngân những tháng cuối năm tăng mạnh, công tác thu hồi nợ đạt tốt 2330 tỷ đồng nợ gốc và 1431 tỷ đồng nợ lãi(trên 100% kế hoạch năm).
2.4.2.Hỗ trợ lãi suất đầu tư:
Trong giai đoạn này Ngân hàng phát triển đã ký hợp đồng hỗ trợ sau đầu tư 2784 dự án với tổng số vốn hỗ trợ khoảng 3533 tỷ đồng. Hiện tại, đang cấp hỗ trợ cho 1850 dự án với số vốn hỗ trợ theo hợp đồng khoảng 3340 tỷ đồng.Số vốn đã cấp từ đầu năm 2007 là 260 tỷ đồng, đạt 65% kế hoạch được giao, bằng 95% kế hoạch Ngân hàng phát triển đã thông báo, tăng 31% so với năm 2006.
Số vốn cấp hỗ trợ sau đầu tư đạt thấp, tập trung vào các dự án chuyển tiếp. Nguyên nhân là do:
+Đối tượng hỗ trợ sau đầu tư hẹp.
+Hiện nay còn nhiều dự án đang phải khắc phục tồn tại sau kiểm tra vì thế phải tạm dừng việc cấp hỗ trợ sau đầu tư.
+Một số chủ đầu tư không trả được nợ cho tổ chức tín dụng theo đúng hợp đồng đã ký.
2.4.3. Cho vay ngắn hạn tín dụng xuất khẩu:
Để thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO một số mặt hàng thuộc trợ cấp đèn đỏ không thuộc đối tượng cho vay nữa đã làm ảnh hưởng đến doanh số cho vay. Doanh số cho vay xuất khẩu đang có xu hướng giảm dần, kết quả đạt thấp nhưng nợ quá hạn lại có xu hướng tăng nhanh. Nguyên nhân chính là do năm 2006, mặt hàng gạo thường chiếm 30% doanh số cho vay xuất khẩu không thuộc đối tượng cho vay. Bên cạnh đó,việc hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị định 151 chậm(kể cả thông báo lãi suất cho vay) và việc tăng lãi suất vay vốn lên cao hơn sẽ không hấp dẫn các doanh nghiệp nữa.
Năm 2007 doanh số cho vay đạt 9563 tỷ đồng của 1753 hợp đồng xuất khẩu, tăng 16% so với năm 2006.
Bảng 10:Cơ cấu doanh số cho vay giai đoạn 2006 đến nay.
Theo thị trường
Theo mặt hàng
Theo loại hình doanh nghiệp
Thị trường
Tỷ trọng(%)
Mặt hàng
Tỷ trọng(%)
Loại hình DN
Tỷ trọng(%)
Mỹ
11
Nông-lâm-thuỷ sản
65
DNNN
45
Nhật
9
Thủ công mỹ nghệ
7
Công ty cổ phần
25
Châu Âu
27
Công nghiệp
11
DNTN
10
Châu Á
18
Máy tính
1
Công ty TNHH
20
Khác
35
Gạo
16
Hợp tác xã
0,05
Nguồn: NHPT
Cơ cấu cho vay theo thị trường cho thấy doanh số cho vay xuất khẩu vào thị trường châu Âu chiếm tỷ trọng lớn(27%). Đây là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Tuy nhiên tỷ trọng cho vay xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng như Mỹ, Nhật vẫn còn nhỏ.
Theo mặt hàng xuất khẩu thì mặt hàng nông-lâm-thuỷ sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn(65%), trong khi đó các mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, công nghiệp và đặc biệt là máy tính chiếm tỷ lệ rất thấp. Với cơ cấu này cho thấy nước ta vẫn chỉ chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, giá trị không cao, còn các mặt hàng có giá trị cao như công nghiệp, máy tính thì rất hạn chế.
Theo loại hình doanh nghiệp thì doanh số cho vay xuất khẩu đối với doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất(45%). Song các loại hình doanh nghiệp được vay vốn xuất khẩu đã được mở rộng ra đến năm loại hình: trong đó doanh nghiệp cổ phần (chiếm 25%), doanh nghiệp tư nhân chiếm 10%. Cơ cấu này phản ánh sự điều chỉnh của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển dần theo hướng cân đối sự phát triển giữa các thành phần kinh tế, phù hợp hơn với tình hình hiện nay.
Mặc dù trong hai năm qua Ngân hàng phát triển đã hoàn thành vượt mức kế hoạch tín dụng xuất khẩu do Thủ tướng chính phủ giao, tuy nhiên doanh số cho vay của Ngân hàng phát triển đối với lĩnh vực xuất khẩu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu(là 5,4%).
Công tác thu hồi nợ quá hạn đã được thúc đẩy, quyết liệt và phù hợp với đặc điểm từng khoản nợ, từng doanh nghiệp nên nợ quá hạn đã giảm đáng kể, đặc biệt là các khoản nợ kéo dài.
Hoạt động cho vay hỗ trợ xuất khẩu trong giai đoạn này vẫn còn những tồn tại như sau:
+Vẫn chưa đẩy mạnh được hoạt động cho vay xuất khẩu tại các tỉnh miền núi phía Bắc, là địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ bé.
+Lãi suất vay vốn tăng nên không hấp dẫn daonh nghiệp vay vốn.
+Các hoạt động nghiệp vụ chưa được đa dạng, đặc biệt các sản phẩm dịch vụ đi kèm nghiệp vụ cho vay, thanh toán quốc tế chưa triển khai.
+Tình trạng nợ quá hạn kéo dài vẫn còn tồn tại.
II.Đánh giá chung về hoạt động tín dụng đầu tư phát triển qua hai giai đoạn:2000_2005 và 2006 đến nay:
1. Những thành tựu đạt được
Kết quả của quá trình thực thi chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước từ năm 2000 đến nay đã khẳng đinh tính đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, phản ánh tính tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc hình thành và phát triển hệ thống QHTPT( giai đoạn 2000_2005), NHPT( giai đoạn 2006 đến nay) để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước thời gian qua là bước kế tiếp thành công của sự đổi mới mô hình tổ chức tài chính của Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện khả năng tích lũy của ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển có hạn, cùng với các chính sách thu hút đầu tư, Chính phủ đã có thêm công cụ khai thác nguồn vốn trong xã hội để hỗ trợ phát triển các ngành, các vùng, các sản phẩm trọng điểm, thúc đẩy chuyển dich cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và khai thác các tiềm năng to lớn của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt là giai đoạn 2006 đến nay với việc chuyển đổi mô hình tổ chức hoạt động từ QHTPT sang NHPT thì hoạt động tín dụng ĐTPT ngày càng phát huy hơn nữa những thành tựu đồng thời khắc phục những hạn chế của giai đoạn trước để phù hợp hơn với thực tiễn.
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã có những kết quả và đóng góp cho nền kinh tế biểu hiện các mặt chủ yếu sau:
* Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Lượng vốn cho vay đầu tư vào các ngành tăng và chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cụ thể là:
- Ngành công nghiệp, xây dựng tăng từ 43% năm 2000 lên 87% năm 2007
- Ngành nông – lâm nghiệp giảm từ 28% năm 2000 xuống còn 8% năm 2007
* Hỗ trợ phát triển một số lĩnh vực, chương trình, dự án, sản phẩm trọng điểm của nền kinh tế:
- Góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế:
+ Hàng nghìn km cầu đường giao thông được làm mới và nâng cấp mở rộng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên từng địa bàn và trong phạm vi cả nước;
+ Tăng thêm công suất phát điện 2000 Kw, xây dựng mới hơn 500km đường dây 500KV, gần 2000 km đường dây 220KV và 110KV, hàng trăm trạm biến áp các loại
+ Hạ tầng nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu ở các vùng kinh tế trọng điểm và các cửa khẩu quốc gia được hình thành, nâng cấp, mở rộng.
- Góp phần phát triển các ngành, các sản phẩm công nghiệp trọng điểm:
+ Đầu tư 17 nhà máy đóng tàu có khả năng đóng mới hàng chục tàu có trọng tải từ 6500 tấn đến 53000 tấn mỗi năm; đóng mới 42 tàu vận tải biển trọng tải từ 3600 tầu đến 22000 tấn; đóng mới 166 toa xe khách và 610 toa xe hàng.
+ Tăng thêm năng lực sản xuất: 2,8 triệu tấn xi măng, 0,55 triệu tấn thép, 50 vạn tấn phân bón các loại, trên 1 triệu bộ săm lốp ô tô, 45000 tấn sợi, 110 triệu m2 vải thành phẩm, 23 triệu sản phẩm dệt kim… mỗi năm.
- Góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn:
Đã đầu tư trên 800 dự án tăng thêm năng lực chế biến sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản; trồng mới 240000ha rừng nguyên liệu, 50000ha cây công nghiệp dài ngày; 27000 km kênh mương nội đồng và 155000 km đường giao thông nông thôn được bê tông hóa; hoàn thành tôn nền 637 cụm tuyến dân cư đồng bằng Sông Cửu Long với tổng diện tích trên 15000 ha…
Đang tiếp tục đầu tư nhiều nhà máy chế biến nông, lâm, thủy hải sản; chương trình kiên cố hóa kênh mương, giao thông nông thôn; trồng rừng nguyên liệu và trồng cây công nghiệp dài ngày.
- Góp phần thực hiện chính sách xã hôi hóa trong lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể dục thể thao: đã đầu tư đưa vào sử dụng hàng trăm trường học, trường dạy nghề, bệnh viện, trạm xá, các khu nhà ở và đô thị mới…
* Hỗ trợ phát triển kinh tế các vùng, miền:
Trên 40% tổng số cho vay được tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước để phát huy tiềm năng và lợi thế, tạo đà cho các vùng kinh tế khác cùng phát triển; 32% tổng số vốn cho vay được đầu tư vào các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn – nơi các dự án có hiệu quả kinh tế và khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao, không hấp dẫn các nhà dầ tư và các tổ chức tín dụng, từng bước xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân giữa các vùng, miền.
* Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA:
Tín dụng ĐTPT đảm bảo đủ nguồn vốn đối ứng góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện trên 3 tỷ USD vốn ODA cho vay lại (trong tổng số trên 5 tỷ USD vốn cam kết). Đồng thời, thông qua cơ chế tự chịu trách nhiệm thẩm định, quyết định cho vay và quản lý rủi ro, đã tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả trên 300 triệu USD từ các nhà tài trợ song phương và đa phương dưới dạng các quỹ ủy thác quay vòng để cho vay đầu tư.
* Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
- Đã cho vay trên 700 dự án đầu tư cơ sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu với tổng số vốn cho vay hơn 6500 tỷ đồng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dệt may, da giày, chể biến thủy hải sản, chế biến rau quả, thủ công mỹ nghệ…
- Đã cho vay vốn ngắn hạn trên 2000 doanh nghiệp với tổng số vốn gần 25000 tỷ đồng để thực hiện thành công các hợp đồng xuất khẩu các mặt hàng được ưu tiên như: thủy sản, cà phê, gạo, dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ,… vào thị trường lớn như Asean, Mỹ, Nhật, EU…
* Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư thông qua việc thực hiện nhiệm vụ cấp phát, cho vay ủy thác:
* Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tạo được sự chuyển biến về lượng và chất trong việc khai thác các nguồn vốn cho đầu tư, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính:
- Thông qua hoạt động huy động vốn cho đầu tư phát triển, trên thị trường tài chính nước ta lần đầu tiên đã xuất hiện một công tụ tài chính là Trái phiếu Chính phủ có thời hạn 2 năm, 5 năm, đặc biệt là trái phiếu do NHPT phát hành tăng thêm một lượng hàng hóa đáng kể và đa dạng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển các định chế tài chính (các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư…), bước đầu hình thành một kênh huy động vốn trung hạn cho đầu tư phát triển.
- Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đã cung ứng một số “vốn mồi”, từ đó thu hút được một lượng vốn lớn của các tổ chức tín dụng cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tín dụng ngân hàng.
* Tín dụng ĐTPT đã góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
Tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, đào tạo nguồn nhân lực , bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khỏe và nâng cao mức sống cho người dân, đặc biệt ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng song Cửu Long.
2. Những hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đạt được hoạt động tín dụng ĐTPT cũng bộc lộ một số hạn chế sau:
* Nguồn vốn huy động chưa đa dạng, chưa ổn định, chưa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu ĐTPT của toàn xã hội. Các nguồn truyền thống như vay của các TCTC, TCTD giảm đáng kể. Hình thức huy động mới như chứng chỉ tiền gửi, huy động ngoại tệ chưa được thực hiện.
Nguyên nhân :
- Cơ chế và phương thức huy động vốn chưa đa dạng, chưa thực sự gắn với thị trường.
- Tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ còn thấp do thị trường thứ cấp chưa phát triển.
- Tổ chức thực hiện chưa được phép huy động bằng ngoại tệ do vậy không thu hút được ngoại tệ trong nước cho hoạt động tín dụng ĐTPT nhằm giảm bớt áp lực huy động vốn bằng VNĐ.
- Công tác chăm sóc khách hàng cũng chưa được chú trọng do cán bộ thực hiện chưa có tính chuyên nghiệp cao trong công tác huy động vốn.
* Quản lý và đảm bảo an toàn vốn tín dụng ĐTPT vẫn chưa được thực hiện tốt gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí và mất ổn định nguồn vốn.
Nguyên nhân :
- Các quy định về đảm bảo tiền vay của tổ chức thực hiện được ban hành nhưng lại không có văn bản hướng dẫn để thực hiện các quy định này.
- Các ràng buộc pháp lý về trách nhiệm của khách hàng vay vốn chưa được thiết lập đồng bộ và chặt chẽ, đặc biệt trong việc trả nợ gây khó khăn cho việc thu hồi nợ.
- Lượng vốn tín dụng ĐTPT chiếm phần đáng kể trong tổng lượng dư tín dụng của toàn nền kinh tế nhưng chưa nhận được sự giám sát, hỗ trợ thường xuyên của cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng.
* Hoạt động cho vay ĐTPT tuy đã có nhiều khởi sắc nhưng nhìn chung doanh số cho vay chưa ổn định và tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn còn thấp so với tốc độ tăng trưởng tín dụng của toàn ngành ngân hàng. Đặc biệt là chất lượng nợ còn rất thấp đang là vấn đề bất cập đặt ra đối với tổ chức thực hiện.
Nguyên nhân:
- Cơ chế chính sách ban hành chưa đồng bộ. Văn bản hướng dẫn ban hành chậm gây ra sự lúng túng cho tổ chức thực hiện và chủ đầu tư.
- Công tác thu hồi nợ còn nhiều bất cập mà nguyên nhân chủ yếu là do công tác dự đoán, dự báo, thông tin tín dụng và khả năng phân tích đánh giá thị trường còn bị động.
- Chất lượng thẩm định dự án của tổ chức thực hiện còn yếu kém. Báo cáo thẩm định chưa có kết luận và kiến nghị đầu tư thực sự rõ ràng đối với từng nội dung được yêu cầu thẩm định; chưa đưa ra được những nhận xét, đánh giá về các chỉ tiêu về năng lực của chủ đầu tư nên dẫn đến tình trạng lựa chọn dự án cho vay không được khả thi. Đây là một tồn tại lớn của hoạt động tín dụng ĐTPT.
* Hoạt động cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu chưa thực sự được đẩy mạnh. Doanh số cho vay xuất khẩu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Nguyên nhân:
- Chính sách tín dụng ĐTPT có sự điều chỉnh theo hướng cắt giảm đối tượng cho vay để phù hợp với thực tiễn nên một số mặt hàng cho vay truyền thống đã không thuộc đối tượng vay vốn, làm ảnh hưởng đến doanh số cho vay.
- Lãi suất cho vay được điều chỉnh theo hướng tiếp cận dần với lãi suất thị trường. Điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của tổ chức thực hiện. Bởi vì lãi suất thấp vẫn là ưu thế của tổ chức thực hiện trong việc thu hút khách hàng. Mà tính chuyên nghiệp trong hoạt động nghiệp vụ của tổ chức này so với các ngân hàng thương mại thì còn thua kém.
- Hệ thống thanh toán quốc tế chưa có và việc mua bán bằng ngoại tệ cũng chưa được thực hiện đã gây ra các khó khăn cho hoạt động này. Bên cạnh đó tính chuyên nghiệp trong công tác phục vụ khách hàng còn yếu. Trong tương lai với cơ chế cho vay thông thoáng cộng với các dịch vụ trọn gói các ngân hàng thương mại sẽ có nhiều lợi thế hơn trong việc thu hút khách hàng. Điều này sẽ đẩy tổ chức thực hiện vào vị trí tụt hậu hơn so với các ngân hàng khác.
* Hoạt động hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng vẫn chưa được tăng cường. Điều đó cho thấy hình thức cho vay vẫn là hình thức chủ yếu trong hoạt dộng tín dụng ĐTPT.
Nguyên nhân :
- Hồ sơ để xem xét dự án được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư còn phức tạp.
- Đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hẹp
- Uy tín của tổ chức thực hiện đối với các tổ chức tín dụng khác chưa cao cũng là nguyên nhân hạn chế hoạt động bảo lãnh tín dụng.
- Các chủ đầu tư vẫn có tâm lý chung thích vay vốn tín dụng ưu đãi hơn là bảo lãnh tín dụng hay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư vì thế nhu cầu của các dự án với hai hình thức này còn hạn chế.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
I. Quan điểm và định hướng cho hoạt động tín dụng ĐTPT đến năm 2010.
1. Quan điểm cho hoạt động tín dụng ĐTPT
Tín dụng ĐTPT Nhà nước được hoạch định theo lộ trình hội nhập, định hướng thị trường bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, chú trọng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời cân bổ sung các quy định để các dự án được hỗ trợ đều phải được kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quá trình đầu tư từ chủ trương, ý đồ đầu tư đến khâu chuẩn bị dự án, thực hiện dự án và quá trình khai thác sử dụng công trình hoàn thành cho đến khi hoàn trả hết vốn và lãi cho nhà nước.
Từng bước điều chỉnh phạm vi, đối tượng được hưởng tín dụng ưu đãi, hình thức và thời hạn hỗ trợ theo lộ trình hội nhập đảm bảo hỗ trợ có hiệu quả phục vụ mục tiêu tăng trưởng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ để hỗ trợ được nhiều hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, chuyển dần từ ưu đãi về lãi suất sang ưu đãi về điều kiện được hỗ trợ, mức hỗ trợ, thời hạn hỗ trợ…
Từng bước nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức thực hiện( Ngân hàng phát triển) và đa dạng hóa các hoạt động nghiệp vụ để tổ chức này phát huy tốt vai trò là công cụ của chính phủ để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư và hỗ trợ xuất khẩu theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
2: Định hướng cho hoạt động tín dụng ĐTPT đến năm 2010
2.1 Tiếp tục hỗ trợ các dự án đầu tư( cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ sau đầu tư) và các khoản vay hỗ trợ xuất khẩu chuyển tiếp. Riêng đối với các khoản vay hỗ trợ xuất khẩu được điều chỉnh phù hợp với cam kết hội nhập.
2.2 Đối với các khoản hỗ trợ mới được thực hiện như sau
* Cho vay đầu tư
+ Về đối tượng
Tiếp tục cho vay các dự án phát triển các ngành sản phẩm( trợ cấp đèn vàng) theo mục tiêu ưu tiên của chính phủ với mức hỗ trợ nằm trong giới hạn cho phép:
Đầu tư phát triển những ngành sản phẩm công nghiệp trọng điểm.
Công nghiệp chế biến
Một số dự án trọng điểm quốc gia có quy mô đầu tư lớn.
Đẩy mạnh cho vay đầu tư các dự án được phép hỗ trợ lâu dài( trợ cấp đèn xanh)
Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội
Phát triển các ngành nghề mới
Phát triển nông nghiệp, nông thôn
Phát triển các vùng miền khó khăn
Xã hội hóa y tế và giáo dục
+ Về cơ chế cho vay
Lãi suất được điều chỉnh theo hướng tiếp cận với lãi suất thị trường
Mức vốn cho vay tối đa từ 50%-70% tổng số vốn đầu tư của dự án
Thời hạn cho vay phù hợp với thời hạn hoàn vốn của từng loại hình dự án
Có cơ chế phù hợp và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về bảo đảm tiền vay xử lý rủi ro, dự phòng rủi ro.
* Cho vay lại vốn ODA
Tiếp tục thực hiện quản lý, cho vay, thu hồi nợ các dự án ODA cho vay lại theo ủy quyền của Bộ tài chính; mở rộng hình thức quản lý, cho vay lại vốn ODA theo nguyên tắc nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của tổ chức thực hiện trong việc thẩm định, quyết định cho vay, thu hồi nợ.
Đảm bảo đủ nguồn vốn đối ứng theo tiến độ đối với các dự án sử dụng vốn ODA.
* Cho vay hỗ trợ xuất khẩu
+ Tập trung hỗ trợ để thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thuộc lĩnh vực ưu tiên phù hợp với lộ trình hội nhập
Các mặt hàng công nghiệp có tiềm năng xuất khẩu lớn
Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ
Các sản phẩm ngành nghề truyền thống
Với các mặt hàng nông sản xuất khẩu mà Việt Nam đang có lợi thế tiếp tục hỗ trợ cho đến khi bị xóa bỏ theo lộ trình hội nhập
+ Cơ chế cho vay
Trong thời hạn được phép duy trì trợ cấp lãi suất cho vay ở khoảng mức 80% lãi suất thị trường; sau thời hạn này sẽ cho vay theo lãi suất thị trường
Điều kiện cho vay bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
Từng bước đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ
* Hỗ trợ sau đầu tư
Mức hỗ trợ và thời hạn hỗ trợ được điều chỉnh phù hợp với từng loại hình dự án và địa điểm đầu tư nhằm khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào các ngành nghề, các vùng miền khó khăn
* Bảo lãnh tín dụng đầu tư
Tiếp tục đẩy mạnh đối với các loại hình dự án cần khuyến khích đầu tư theo chủ trương của Chính phủ
* Chính sách huy động, quản lý và sử dụng vốn
Coi nguồn vốn huy đông từ thị trường thông qua hình thức phát hành trái phiếu là nguồn vốn mang tính chiến lược vì đây là nguồn tài chính dài hạn, ổn định.Do đó cần đổi mới cơ chế huy động sử dụng vốn theo hướng
+ Đa dạng hóa hình thức, đối tượng và loại tiền huy động
+ Lãi suất huy động phù hợp với diễn biến thị trường
+ Tăng cường huy động từ nguồn đi vay của Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm xã hội Việt Nam vì đây là các nguồn vốn huy động được lớn, ổn định.
* Về cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý
Có cơ chế tăng nguồn thu để giảm dần cấp phí hoạt động từ NSNN và tiến tới tự bù đắp chi phí hoạt động bằng cách đa dạng hóa, nâng cao năng lực hoạt động nghiệp vụ và tiết kiệm chi phí.
Thực hiện cơ chế lãi suất cho vay theo lộ trình tiếp cận với thị trường để giảm dần số cấp bù chênh lệch lãi suất.
II: Một số giải pháp tăng cường hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và không ít những khó khăn. Với vai trò là công cụ chính sách của Nhà nước tín dụng ĐTPT cần có sự tăng cường hơn nữa để thực hiện tốt vai trò hỗ trợ phát triển đối với nền kinh tế nhưng phải phù hợp với các thông lệ quốc tế. Xuất phát từ các hạn chế của tín dụng ĐTPT và định hướng nêu trên bài viết xin được đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động tín dụng ĐTPT
1. Giải pháp đối với tổ chức thực hiện
Với cơ chế, chính sách
Việc ban hành cơ chế, chính sách về tín dụng ĐTPT phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương, từng ngành. Từ đó có sự lựa chọn đối tượng hưởng ưu đãi có thứ tự ưu tiên phát triển phù hợp với tình hình thực tế, tránh dàn trải, bao cấp.
Cơ chế, chính sách phải được ban hành đồng bộ cùng các thông tư hướng dẫn kịp thời, cụ thể, rõ ràng. Có như thế việc triển khai thực hiện chính sách mới nhanh chóng, giảm bớt các chi phí phát sinh.
Cần có sự phối kết hợp giữa các cơ quan Nhà nước: Chính phủ, NHPT, các Bộ, ngành liên quan trong việc ban hành chính sách tín dụng ĐTPT để chính sách phù hợp hơn với thực tiễn.
Để thực hiện tốt các cam kết khi gia nhập WTO đối tượng hưởng ưu đãi cần phải được điều chỉnh cho phù hợp. Trong thời gian đầu của quá trình hội nhập cần tranh thủ hỗ trợ cho các đối tượng này rồi tiến tới xóa bỏ hẳn trợ cấp khi nền kinh tế đã đi sâu vào hội nhập.
Cơ chế quản lý tài chính đối với tổ chức thực hiện phải được quy định cụ thể, đảm bảo cho tổ chức tài chính cân đối được nguồn thu chi để tiến tới tự chủ về tài chính.
Song song với chính sách tín dụng ĐTPT cần có các chính sách về đầu tư, chính sách về tài chính, tiền tệ, chính sách về quản lý tài chính công cho phù hợp.
+ Đối với các chính sách về đầu tư.
Ban hành chính sách phù hợp với thực tiễn
Cần có cơ chế quản lý đầu tư, quản lý các chương trình dự án thật hợp lý
Quán triệt tinh thần chống đầu tư dàn trải, lãng phí
Cần có các cơ chế thoáng hơn về hành lang pháp lý, tạo môi trường thuận lợi cho các dự án đầu tư .
Cơ chế, chính sách ban hành phải đồng bộ, có hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời để các chủ đầu tư có thể nắm bắt thực hiện, đảm bảo tiến độ đầu tư không bị chậm trễ.
+ Đối với chính sách tài chính tiền tệ
Cơ chế về lãi suất phải ổn định, linh hoạt, đảm bảo cho các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng được tiến hành có hiệu quả hơn.
Cơ chế điều tiết vĩ mô về tài chính tiền tệ phải ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng.
+ Đối với chính sách tài chính công
Cần có các cơ chế quản lý chặt chẽ, đảm bảo công khai, minh bạch nguồn tài chính công, đồng thời giảm chi ngân sách tiến tới giảm bao cấp trong nền kinh tế và bền vững nguồn tài chính công.
Với việc ban hành đồng bộ các cơ chế chính sách trên một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến việc nâng cao hơn nữa hoạt động tín dụng ĐTPT.
1.2. Với Ngân hàng phát triển Việt Nam
Trong giai đoạn này Ngân hàng phát triển cần phải nỗ lực để chủ động cho viêc hội nhập: tiến tới tự chủ, độc lập và trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực hơn nữa cho Chính phủ. Để làm được điều này Ngân hàng cần phải:
Bám sát chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, từng vùng, từng địa phương, từng ngành từ đó xây dựng các định hướng chiến lược, kế hoạch, giải pháp trong từng thời kỳ để thực hiện tốt công tác tín dụng nhà nước.
Cần phải sớm xây dựng chiến lược hoạt động của ngân hàng để đi đúng định hướng, thống nhất trong chỉ đạo điều hành. Các đơn vị chủ động nghiên cứu, xây dựng kế hoạch hoạt động của đơn vị mình. NHPT cần phải xây dựng bộ phận chuyên trách nghiên cứu chiến lược, chính sách hoạt động của hệ thống NHPT. Bộ phận này có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị, xác định kế hoạch hoạt động, bước đi cụ thể của toàn hệ thống NHPT và của từng đơn vị trong từng giai đoạn, đánh giá tình hình thực hiện để điều chỉnh kế hoạch phù hợp với thực tế.
Tăng cường tham mưu với Chính phủ và các Bộ, ngành để hoạt động của NHPT theo đúng chiến lược, kế hoạch đã xây dựng.
Xây dựng cơ chế huy động và quản lý, điều hành nguồn vốn theo hướng tập trung vốn về TW để sử
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTPT5.docx