Đề tài Tìm một số giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tìm một số giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam: MỤC LỤC Lời giới thiệu 1 Chương1. Lý Luận chung về Đầu tư và Công bằng xã hội. 2 I. Một số ván đề chung về đầu tư. 2 Khái niệm. 2 Vai trò của đầu tư. 2 II. Lý luận chung về đầu tư và Công bằng xã hội. 4 Một số vấn đề về Công bằng xã hội. 4 Các thước đo về Công bằng xã hội. 6 Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong việc giảI quyết vấn đề Công bằng xã hội. 7 III. Một số nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư và vấn đề Công bằng xã hội. 8 1. Tác động của tình hình kinh tế trong nước. 8 2. Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 10 3. Tác động của Nhà nước. 12 4. Một số nhân tố khác. 13 Chương II. Thực trạng hoạt động đầu tư cho Công bằng xã hội. 14 I. Thực trạng hoạt động đầu tư nhằm giảm phân hoá giàu nghèo. 14 1. Đầu tư cho các ngành kém phát triển, các vùng khó khăn. 14 2. Đầu tư cho xoá đói giảm nghèo. 17 II. Thực trạng hoạt động đầu tư cho phúc lợi xã hội. 21 1. Đầu tư cho giáo dục . 21 2. Đầu tư cho y tế và tăng cường năng lực y tế cho người nghèo. 22 Chư...

doc44 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm một số giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời giới thiệu 1 Chương1. Lý Luận chung về Đầu tư và Công bằng xã hội. 2 I. Một số ván đề chung về đầu tư. 2 Khái niệm. 2 Vai trò của đầu tư. 2 II. Lý luận chung về đầu tư và Công bằng xã hội. 4 Một số vấn đề về Công bằng xã hội. 4 Các thước đo về Công bằng xã hội. 6 Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong việc giảI quyết vấn đề Công bằng xã hội. 7 III. Một số nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư và vấn đề Công bằng xã hội. 8 1. Tác động của tình hình kinh tế trong nước. 8 2. Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 10 3. Tác động của Nhà nước. 12 4. Một số nhân tố khác. 13 Chương II. Thực trạng hoạt động đầu tư cho Công bằng xã hội. 14 I. Thực trạng hoạt động đầu tư nhằm giảm phân hoá giàu nghèo. 14 1. Đầu tư cho các ngành kém phát triển, các vùng khó khăn. 14 2. Đầu tư cho xoá đói giảm nghèo. 17 II. Thực trạng hoạt động đầu tư cho phúc lợi xã hội. 21 1. Đầu tư cho giáo dục . 21 2. Đầu tư cho y tế và tăng cường năng lực y tế cho người nghèo. 22 Chương III. Các giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện Công bằng xã hội. 24 I. Một số mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện Công bằng xã hội. 24 II. Một số giải pháp khắc phục những khó khăn tồn tại trong hoạt động đầu tư cho Công bằng xã hội. 24 Tăng cường và đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho Công bằng xã hội. 24 Nâng cao hiệu quả đầu tư cho Công bằng xã hội. 24 Hoàn thiện chính sách đầu tư của Nhà nước cho Công bằng xã hội. 24 Tăng cường hệ thống giáo dục và đưa giáo dục về tay người nghèo 25 III. Một số giải pháp phát huy vai trò của đầu tư trong việc thực hiện Công bằng xã hội. 30 Phát huy vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu knh tế gắn với xoá đói giảm nghèo và thực hiện Công bằng xã hội. 30 Nâng cao hiệu quả xã hội trong từng dự án đầu tư, phát huy vai trò của đầu tư trong giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo. 34 Giải pháp đầu tư cho phúc lợi xã hội một cách công bằng và hợp lý. 35 Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về Đầu tư trong việc thực hiện CBXH 37 Kết Luận 39 Tài liệu tham khảo 39 LỜI GIỚI THIỆU Kể từ khi bắt đầu quá trình đổi mới hiện nay, đất nước ta đã có những thành quả rất đáng khích lệ trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta cũng bắt đầu chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, không phải tất cả cái gì đều tồn tại tích cực của nó mà đều ẩn chứa trong nó những mặt tiêu cực và chỉ chờ cơ hội bùng phát ra. Kinh tế thị trường cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó. Bờn cạnh mặt tớch cực nú cũn cú mặt trỏi, cú khuyết tật từ trong bản chất của nú do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xó hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xó hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Do vậy việc cấp thiết hiện nay của Đảng và Nhà nước ta ngoài việc phát triển kinh tế là cần đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, thực hiện Công bằng xã hội. Đây là một vấn đề lớn và đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã xem xét vấn đề này dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài chúng tôi sẽ nghiên cứu vấn đề Công bằng xã hội dưới khía cạnh đầu tư, một lĩnh vực cũng rất quan trọng hiện nay của đất nước ta. Vì Công bằng xã hội là một vấn đề hết sức quan trọng nên trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã ra sức đầu tư cho Công bằng xã hội. Do vậy, trong phạm vi của dề tài, chúng tôi sẽ nghiên cứu các vấn đề đầu tư cho Công bằng xã hội và qua đó đánh giá tác động của nó đến Công bằng xã hội. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sỹ Trần Mai Hương Bộ môn Kinh tế Đầu tư - đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Sinh viên Trương Thu Hương Đầu tư 44A CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI I Một số vấn đề chung về Đầu Tư 1. Khái niệm Đầu Tư. Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra. Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ và thu được các kết quả là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. 2. Vai Trò của Đầu Tư trong nền kinh tế. 2.1. Đầu Tư và tăng trưởng kinh tế. Đầu tư có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Lý luận và thực tiễn đều chỉ cho chúng ta thấy rõ điều này. Cho đến những năm của thế kỷ 20, nhà kinh tế học Haros Domar của trường phái Keynes đã chỉ ra mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thông qua hệ số ICOR. I G = ------------ ICOR * Y Trong đó G: tốc độ tăng trưởng kinh tế. I: Vốn đầu tư Như vậy giữa I và G có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau thông qua hệ số ICOR. Điều này thể hiện càng tăng nguồn lực đầu tư thì kinh tế sẽ tăng trưởng cao. Đầu Tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chúng ta có thể nhận rõ vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia và các chính sách thu hút đầu tư vào ngành mũi nhọn được ưu tiên. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Các nhà kinh tế đều chỉ ra được sự hạn chế tăng trưởng trong nông nghiệp. Sự tăng trưởng này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố tự nhiên, bất định và có tính rủi ro cao đồng thời nó cũng giảm dần do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học. Chính vì vậy, đầu tư nhằm phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn thông qua các chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu Tư của Nhà nước sẽ thúc đẩy chuyển dần nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu sang công nghiệp dịch vụ. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu Tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác phát triển. Ở Việt Nam, chúng ta đã bắt đầu đầu tư mạnh một số vùng trọng điểm như trọng điểm phía Bắc: Hà Nội- HảI Phòng- Quảng Ninh,… đồng thời có chính sách ưu đãi đầu tư vào những địa bàn khó khăn. Đầu tư cũng có vai trò rất lớn trong việc chuyển dịch thành phần kinh tế. Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cũng góp phần làm đa dạng các thành phần kinh tế. 2.3. Đầu Tư và Công Bằng Xã Hội. Một trong những vai trò hết sức quan trọng của Đầu tư chính là việc thúc đẩy tiến bộ và Công bằng xã hội (CBXH). a) Đứng ở góc độ vĩ mô, hoạt động đầu tư sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vai trò của đầu tư đối với việc phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là rất rõ ràng. Thông qua đầu tư và tăng trưởng kinh tế, nền kinh tế sẽ phát triển đa dạng hơn. Tính cạnh tranh của nền kinh tế tăng cao, đây cũng là một trong những điều kiện thực hiện Công bằng kinh tế. Bởi muốn thực hiện Công bằng về xã hội thì trước hết chúng ta cần thực hiện về Công bằng về kinh tế. Kinh tế phát triển cũng góp phần giải quyết việc làm cho người dân. Có thể nói một nền kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất, qua đó cũng cần tương ứng một nguồn lao động phù hợp. Tuy nhiên đây lại là một điểm yếu của lao động chúng ta khi chất lượng lao động chưa cao. Thông qua tăng trưởng kinh tế, Ngân Sách Nhà Nước (NSNN) sẽ được đóng góp cao hơn. Qua đó, Nhà nước sẽ có đủ nguồn lực để chi dùng NSNN trong việc tái đầu tư trong đó có các hoạt động đầu tư cho CBXH. Đầu tư cũng có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ đó sẽ thúc đẩy các khu vực nông thôn lạc hậu chuyển dần sang các ngành công nghiệp có lợi thế của vùng. Qua đó, sẽ giúp phát triển các ngành, các vùng khó khăn kém phát triển, góp phần làm giảm sự phân hóa xã hội và thực hiện CBXH. Nhắc đến đầu tư, chúng ta không thể không nhắc dến các hoạt động đầu tư của Nhà nước tác động trực tiếp tới CBXH. Đó là các hoạt động đầu tư cho Xóa đói giảm nghèo, đầu tư nâng cao hệ thống phúc lợi xã hội,…Tất cả các hoạt động trên góp phần giảm đi số lượng người ngèo, nâng cao mặt bằng chung của xã hội, đẩy mạnh tiến bộ và CBXH b) Nếu chúng ta xét góc độ doanh nghiệp, hoạt động đầu tư sẽ giúp doanh nghiệp thực hiện những mục tiêu chiến lược của mình nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Thông qua hoạt động đầu tư, doanh nghiệp sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình. Điều này được thể hiện rõ nét khi chất lượng nguồn lao động được cải thiện hơn thông qua việc đầu tư đào tạo trong doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư cũng tăng cường khả năng đổi mới công nghệ của doamh nghiệp. Từ việc đổi mới Công nghệ đến nâng cao chất lượng lao động sẽ kích thích doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, năng suất lao động tăng cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn. 2.4. Đầu Tư và tăng cường khả năng Khoa Học Công Nghệ Công nghệ luôn là yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế đặc biệt là ở những nước đang phát triển trong quá trinh CNH- HĐH. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước. Như vậy, ở đây đã có sự chuyển giao Công nghệ thông qua Đầu tư. Điều này thúc đẩy các nước đang phát triển đổi mới Công nghệ. II. Đầu Tư cho Công Bằng Xã Hội. Một vài vấn đề về Công Bằng Xã Hội. *) CBXH vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Công bằng không thể dựa vào thị trường nên Nhà nước cần phải can thiệp. Bảo đảm CBXH là việc Nhà nước can thiệp vào thị trường nhằm, một mặt tăng thu nhập của những người nghèo làm cho khoảng cách giàu nghèo không tăng hơn mà giảm đi; mặt khác, nhằm làm cho giá cả phản ánh đúng chi phí mà xã hội bỏ ra. Bởi vậy, thực chất của vấn đề công bằng là vấn đề phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giữa các chủ thể kinh tế và xã hội mà đại diện là Nhà nước. Đã rất có nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu về CBXH trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế. *) Tuy nhiên ở đây Công Bằng không có nghĩa là đem chia đều các thành quả của tăng trưởng của kinh tế xã hội cho mọi người. Vì nếu vậy không có ai đem hết sức lực, trí tuệ, vốn vật chất ra đầu tư, và không ai dám chịu rủi ro để đầu tư phát triển sản xuất. Công bằng cần được hiểu là sự bình đẳng trước các cơ hội về việc làm, đầu tư, bình đẳng trước các cơ hội để nâng cao nguồn vốn nhân lực và có mức sống cao hơn. Nhà nước khuyến khích mọi người ra sức làm giàu bằng cách chính đáng. Phấn đấu để cho người nghèo tiến tới đủ ăn, người đủ ăn có cuộc sống khá giả và người khá giả trở nên giàu có. Trong chính sách phát triển phảI chấp nhận một bộ phận dân cư vươn lên giàu trước, có một số vùng giàu trước, từ đó hỗ trợ cho quá trình phát triển chung của đất nước. Mặt khác, phải có chính sách hỗ trợ cho người nghèo vươn lên. Việt Nam là nước nghèo lại trải qua chiến tranh kéo dài để lại hậu quả nghiêm trọng, cho nên số người thuộc đối tượng chính sách nhiều trong khi khả năng kinh tế của đất nước có hạn. Hơn nữa, khi chuyển sang kinh tế thị trường, mặt trái của cơ chế này đã làm nảy sinh một số vấn đề như phân hoá giàu nghèo tăng lên, tình trạng thất nghiệp và đặc biệt là sự suy thoái về đạo đức xã hội. Do nguồn lực kinh tế có hạn nên chúng ta tạm chấp nhận có sự phân hoá giàu nghèo nhưng không thể đồng nhất sự phân hoá giàu nghèo với sự bất bình đẳng bất công. *) Trong chiến lực ổn định và phát triển kinh tế xã hội và tại nghị quyết Đại hội VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ ra rằng CBXH là một mục tiêu quan trọng của đất nước. Quan điểm của Việt Nam là tăng trưởng kinh tế phảI gắn liền với CBXH trong từng thời kỳ phát triển và CBXH phải thể hiện ở khâu phân phối kết quả sản xuất, tạo quyền bình đẳng trước các cơ hội của mọi tầng lớp dân cư vì mục tiêu phát triển. Như vậy mới có thể huy động được mọi nguồn lực trong Xã hội. Nói tóm lại CBXH luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng và Nhà nước ta trong con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Một số thước đo về Công Bằng Xã Hội. 2.1. Thước đo đánh giá mức độ bất bình đẳng trong thu nhập. Đây là một trong những thước đo quan trọng trong việc đánh giá CBXH. Thực tế cho thấy, ở nhiều quốc gia, sau một thời gian mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế rõ rệt nhưng đời sống của nhiều người dân vẫn ở mức nghèo khổ, thất nghiệp gia tăng và ở một số nước số đông người dân không được hưởng thành quả do tăng trưởng đem lại trong khi nhóm người giàu có vẫn tiếp tục giàu lên. Một trong những chỉ số đo mức độ bình dẳng trong phân phối thu nhập là hệ số Gini. Trong thực tế hệ số Gini thay đổi trong phạm vi hẹp từ 0,2 đến 0,65. Theo Ngân hàng Thế giới, hệ số Gini tốt nhất thường xoay quanh mức 0,3. Đây là mức thể hiện sự bình đẳng cao trong phân phối thu nhập. 2.2. Thứơc đo đánh giá mức dộ nghèo khổ. Việc phân chia các nhóm dân cư giàu nghèo theo hệ số Gini được coi là đánh giá sự giàu nghèo một cách tương đối theo tương quan xã hội. Tổ chức ESCAP đã cho rằng: “ nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Như vậy, tiêu chuẩn đánh giá sự giàu nghèo giữa các vùng có sự khác nhau. 2.3. Chỉ số đánh giá mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người. Đối với một đất nước để đo nhu cầu xã hội của con người có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu cơ bản là + Các chỉ tiêu phản ánh mức độ chăm sóc sức khoẻ: tuổi thọ bình quân, số người dân trên một bác sĩ, số trạm xá bệnh viện, tỷ lệ đầu tư công cộng cho sức khoẻ trong tổng đầu tư công cộng của Chính phủ. Chúng ta đặc biệt quan tâm các chỉ tiêu trên ở các khu vực khó khăn, vùng sau, vùng xa. + Các chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hoá giáo dục: tỷ lệ số người biết chữ, tỷ lệ phổ cập giáo dục, số trường học, đầu tư cho giáo dục của Nhà nước. Chúng ta cũng đặc biệt quan tâm đến mức độ bình đẳng trong giáo dục thể hiện qua việc tỷ lệ đầu tư cho giáo dục ở các vùng khó khân và các cơ hội tiếp cận giáo dục của người nghèo. 2.4. Chỉ số phát triển con người. Đây là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện mức độ phát triển con người do Liên Hợp Quốc đưa ra. Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng là một thức đo quan trọng trong việc đánh giá CBXH, nó thể hiện mức độ đầu tư của Nhà nước cho việc phát triển con người và cơ hội phát triển bình đẳng của mọi tầng lớp trong xã hội. Chỉ tiêu này được kết hợp từ ba yếu tố: chỉ tiêu tuổi thọ bình quân, chỉ tiêu trình độ giáo dục và chỉ tiêu GNP/ người (tính theo phương pháp PPP). Sự cần thiết của hoạt động Đầu tư trong việc giảI quyết vấn đề CBXH ở Việt Nam. 3.1. Giải quyết vấn đề CBXH là việc làm cấp thiết và quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế mạnh mẽ như hiện nay thì mặt trái của cơ chế thị trường cũng bộc lộ một cách rõ ràng hơn. Tình trạng bất bình đẳng xã hội, phân hoá giàu nghèo đang tăng lên. Điều này đòi hỏi việc giải quyết vấn đề CBXH là một vấn đề cấp thiết và quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, CBXH luôn là mục tiêu quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới nhằm đưa Việt Nam xác định đúng con đường Xã hội chủ nghĩa. CBXH cũng thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, chế độ Xã hội chủ nghĩa, so với các chế độ Tư bản trên thế giới. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đến 2010 coi việc thực hiện CBXH là mục tiêu quan trọng thông qua các kế hoạch phát triển giáo dục, y tế, các kế hoạch hỗ trợ cho đồng bào khó khăn cũng như các chính sách và biện pháp trong việc Xoá đói giảm nghèo. Trong giai đoạn hiện nay, tình hình CBXH mặc dù đã có nhiều tiến bộ những cũng gặp phải nhiều thách thức lớn do tác động của mặt trái cơ chế thị trường. Sự phân hoá giàu nghèo, phân hoá giữa khu vực thành thị như Hà Nội, TP HCM, HảI Phòng,.. và khu vực nông thôn, miền núi đang tăng nhanh. Điều này đòi hỏi rất cần có những giải pháp trước mắt và lâu dài trong việc giải quyết vấn đề CBXH. 3.2. Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong việc thực hiện CBXH. Mặc dù đã có rất nhiều giải pháp đề ra nhằm giải quyết vấn đề CBXH như các giải pháp gắn CBXH với tăng trưởng kinh tế, giải pháp về xã hội như kế hoạch hoá gia đình, tuyên truyền mọi người có ý thức và truyền thống đùm bọc và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên để thực hiện được các giải pháp đó suy cho cùng cũng cần phải có nguồn lực, có vốn để huy động cho các hoạt động trên. Bên cạnh đó, chỉ có hoạt động đầu tư mới tạo ra nền tảng vững chắc cơ bản cho việc thực hiện CBXH. Theo chương trình quốc gia về Xoá đói giảm nghèo thì hầu hết những người nghèo không có nghề mà chủ yếu là lao động thủ công. Họ khó tiếp cận được với thị trường vì học vấn thấp, không có nghề và chất lượng sản phẩm của họ không dáp ứng được yêu cầu của thị trường. Chính vì vậy nền tảng cho việc Xoá đói giảm nghèo rất yếu. Việc cần làm lâu dài của chúng ta là cần phải xây được cái nền tảng vững chắc cho người nghèo để cơ hội tái nghèo của họ là rất thấp. Những yêu cầu này đòi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp kịp thời và đúng đắn về đầu tư. Chúng ta đã xem xét nội dung của hoạt động đầu tư cho CBXH ở phần trên. Trong đó, các hoạt động đầu tư cho giáo dục, y tế tạo ra cơ hội bình đẳng, cơ hội được vươn lên của mọi tầng lớp xã hội kể cả ngững người nghèo nhất. Hoạt động đầu tư này đem lại tri thức cũng như cung cách làm ăn có hiệu quả nhất cho người nghèo, giúp họ có khả năng tự tin trong cuộc sống. Kết hợp với đầu tư cho giáo dục và y tế, hoạt động đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo sẽ thực sự tạo ra dòng vốn có hiệu quả cho người nghèo. Đây cũng chính là ưu điểm của đầu tư trong việc giải quyết vấn đề CBXH. Tóm lại, Đầu tư là yếu tố cần thiết và quan trọng trong việc giải quyết vấn đề CBXH. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến Đầu Tư và Công Bằng Xã Hội. Tình hình kinh tế của đất nước. 1.1. Kinh tế phát triển tốt, bền vững góp phần thu hút đầu tư và thực hiện CBXH. Ảnh hưởng của tăng tưởng kinh tế đến đầu tư và CBXH. Từ việc kinh tế phát triển cao, Nhà nứớc mới có đủ nguồn lực để thực hiện các hoạt động đầu tư cho phát triển kinh tế và đầu tư cho CBXH. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần trước tiên để cải thiện các chính sách về phúc lợi xã hội, khắc phục tình trạng đói nghèo của một quốc gia. Thực tiễn những năm vừa qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao Nhà nước có sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để xóa đói giảm nghèo trên quy mô rộng; không có tăng trưởng mà chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì tác dụng không lớn. CBXH phải dựa trên sự phát triển kinh tế bởi chính phát triển kinh tế tạo ra nguồn lực từ đó thông qua hoạt động đầu tư tạo ra cơ sở vật chất để giải quyết các vấn đề về CBXH. Kinh tế phát triển, Nhà nước sẽ có nhiều nguồn thu để thực hiện các mục tiêu quan trọng trong đó có việc đầu tư nhằm giảI quyết các vấn đề xã hội. Chính phủ các nước thường dành một tỷ lệ nhất định của GNP để chi cho các hoạt động đầu tư phát triển cũng như các hoạt động đầu tư cho giáo dục, y tế. Chính vì vậy, thu nhập quốc dân càng lớn thì khả năng ngân sách chi cho các hoạt động càng lớn. Kinh tế phát triển cao cũng là chỗ dựa vững và ổn định cho nhiều tầng lớp lao động thông qua việc giảI quyết việc làm và nâng cao thu nhập người lao động. Triển vọng khả quan về nền kinh tế sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư tiến hành đầu tư xây dựng thêm các nhà xưởng, xí nghiệp mới đồng thời tiến hành đổi mới công nghệ. Qua đó, các doanh nghiệp cũng cần tương ứng một lượng lao động có chuyên môn vào vận hành các tài sản mới giúp giải quyết vấn nạn thất nghiệp trong Xã hội. Đồng thời qua việc đổi mới công nghệ sẽ giúp cho năng suất lao động tăng nhanh hơn tạo ra mức tiền lương cao hơn, từ đó kích thích mặt bằng thu nhập chung của đất nước tăng lên, Tất cả những hoạt động trên giúp cho người dân có thể nâng cao mức sống, ổn định cuộc sống hiện tại, đảm bảo cuộc sống tương lai, góp phần thực hiện CBXH. 1.2. Kinh tế đất nước suy thoái làm trì hoãn các hoạt động đầu tư đồng thời làm tăng mức độ nghèo khổ và bất bình đẳng. Ảnh hưởng của kinh tế suy thoái tới đầu tư. Kinh tế phát triển kém, Nhà nước sẽ không có đủ nguồn lực cho hoạt động đầu tư. Do triển vọng về kinh tế không mấy khả quan, các doanh nghiệp thường không muốn mạo hiểm đồng vốn đầu tư của mình trong khi một trong những đặc điểm của đầu tư là tính mạo hiểm cao, thời gian dài và khó xác định. Đồng thời, do nền kinh tế bị suy thoái, người dân cũng không còn dư dả vốn để đầu tư, mà mục tiêu trước mắt của họ là sông đủ qua ngày. Do đó, nguồn vốn đầu tư huy động từ trong nước sẽ bị sụt giảm nhanh chóng. Mặt khác, kinh tế mất ổn định cũng là nhân tố làm nản lỏng các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, đầu tư nước ngoài cũng bị giảm sút. Ảnh hưởng của sự giảm sút kinh tế tới đầu tư và công bằng xã hội. Kinh tế trì trệ cũng đồng nghĩa với việc giảm các khoản thu cho NSNN. Rõ ràng, với nền kinh tế như vậy, Nhà nước sẽ không thể tăng thuế được mà thậm chí còn phải giảm thuế để thúc đẩy sản xuất phát triển. Từ việc NSNN bị giảm sút, các hoạt động đầu tư cho CBXH sẽ bị cắt giảm để giành cho các mục tiêu phát triển trước mắt. Kinh tế phát triển kém cũng tạo ra cho Xã hội nhiều vấn đề nảy sinh theo hướng tiêu cực như thất nghiệp, thu nhập người lao động giảm sút. Rõ ràng những ngưòi bị thất nghiệp đầu tiên chính là những người không có trình độ học vấn, kỹ năng không cao. Mà đây chính là đặc điểm của phần lớn người nghèo trong xã hội. Tất cả những điều đó sẽ dẫn đến nghèo khổ tăng, bất bình đẳng tiếp diễn và nảy sinh các tệ nạn xã hội. Ảnh hưỏng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, vùng miền. Nước ta vẫn luôn là một nước nông nghiệp nghèo mà nông thôn chỉ sản xuất thuần nông, độc canh cây lúa, tự cung tự cấp và dân số tăng nhanh. Tuy nhiên trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới cơ chế kinh tế, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. 2.1. Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu ngành. Chúng ta đã bắt đầu chuyển dịch nền kinh tế từ một nền nông nghiệp thô sơ lạc hậu đến nền kinh tế công nghiệp để từ đó hỗ trợ cho nông nghiệp cùng phát triển. 1990 1995 2000 Tốc độ tăng GDP bình quân 5 năm (1986-1990;1991-1995; 1996-2000),% 4,4 8,2 6,9 Trong đó: Nông, lâm, ngư nghiệp, % 3,1 4,1 4,3 Công nghiệp và xây dựng,% 4,7 12,0 10,6 Dịch vụ,% 5,7 8,6 5,75 Nhìn bảng biểu trên chúng ta thấy kể từ năm 95 trở lại đây, công nghiệp và dịch vụ có sự phát triển nhanh chóng. Điều này cũng thúc đẩy nông nghiệp phát triển với tốc độ cao hơn những năm 90 tuy có nhỏ hơn tốc độ phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Chính sự chuyển biến trong cơ cấu ngành như vậy dẫn đến các chiến lược đầu tư của Chính phủ và các doanh nghiệp cũng thay đổi theo. Nhà nước cũng bắt đầu chú trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn có lợi thế so sánh của Việt Nam và có những ưu đãi đối với những ngành này. Chính những chuyển biến trong việc chuyển đổi cơ cấu đầu tư đã thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Đồng thời nó cũng vực dậy nền kinh tế ở khu vực nông thôn vốn chậm phát triển. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên nhiều vùng đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích sử dụng; đặc biệt là nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản phát triển khá nhanh. Kinh tế nông thôn phát triển đa dạng hơn, nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến được hình thành; các làng nghề bước đầu được khôi phục và phát triển; sản xuất trang trại phát triển nhanh. Qua đó tạo cơ hội nâng mặt bằng thu nhập chung của Xã hội, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động và tiến tới xoá bỏ nghèo đói. Đây chính là tác động tích cực của chuyển dich cơ cấu kinh tế tới đầu tư và CBXH. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình CNH- HĐH diễn ra nhanh chóng đã khiến các chính sách đầu tư của Nhà nước chuyển biến không kịp. Nhà nước không thể cùng một lúc vừa đầu tư cho các ngành công nghiệp mũi nhọn lại vừa đầu tư nhằm làm giảm sự phân hoá giàu nghèo. Chính vì mục tiêu trước mắt là tăng trưởng kinh tế nên các hoạt động đầu tư cho CBXH bị xem nhẹ. Do đó tình trạng bất bình đẳng, nghèo đói cũng có xu hướng tăng. 2.2. Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu vùng. Bên cạnh đó, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng, khu vực khác nhau cũng có tác động nhất định đến đầu tư và CBXH. Các vùng, khu vực đều có chiến lược phát triển kinh tế riêng trong chiến lược phát triển kinh tế chung của tổng thể quốc gia trong đó có các chính sách thu hút đầu tư vào khu vực của mình. Mặt khác một cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo ra sự hài hoà giữa các vùng khác nhau. Các vùng trọng điểm có thể liên kết và cùng đưa các vùng chậm phát triển khác cùng đi lên. Tuy nhiên nếu với cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi; các trục công nghiệp chính, chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, thu hút nhiều vốn; chưa chú trọng đầu tư các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp (lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước...) không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa. Qua đó sẽ làm tăng sự phân hoá gữa các khu vực, tăng phân hoá giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Do vậy, khi nghiên cứu đến đầu tư và CBXH, chúng ta cũng cần xem xét tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Sự tác động của Chính Phủ. Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế đặc biệt là vai trò trong việc thực hiện tiến bộ và CBXH. Điều này thể hiện bản chất tốt đẹp, bản chất Xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta. 3.1. Tác động của định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Nhà nước thông qua định hướng phát triển Kinh tế Xã hội của mình mà biểu hiện trực tiếp là các chính sách, các chiến lược phát triển dài hạn cũng như các kế hoạch ngắn hạn đều tác động rất mạnh đến chiến lược đầu tư của quốc gia và của mỗi cá nhân. Qua đó, các chính sách đầu tư cho CBXH cũng được xác định trong chiến lược đầu tư chung của một quốc gia. Chính sách đầu tư hợp lý sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo. Ngoài chính sách về đầu tư, Nhà nước cũng còn sử dụng các chính sách khác trọng việc xoá bỏ bất bình đẳng xã hội như chính sách thuế, chính sách trợ giá cho nông nghiệp. 3.2. Hiệu quả hoạt động của cơ quan Nhà nước. Khi nghiên cứu tác động của Nhà nước đối với đầu tư và việc thực hiện CBXH, chúng ta cần phải nhắc đến hiệu quả hoạt động của Chính Phủ. Trình độ năng lực của cán bộ sẽ giúp cho việc đầu tư có hiệu quả hơn đặc biệt là các dự án đầu tư tại các vùng xa Trung ương rất cần có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, vững về đạo đức. Bởi các dự án này cũng như các dự án đầu tư cho CBXH rất khó xác định và kiểm tra tính hiệu quả của nó. Hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước cũng liên quan đến vấn đề trong sạch của bộ máy. Rõ ràng, một Chính phủ không thể hoạt động hiệu quả nếu như vẫn còn tình trạng tham nhũng, quan liêu của cán bộ, vẫn còn tình trạng làm giàu bất chính vơ vét của công của một số cán bộ biến chất. Tình trạng tham nhũng đó sẽ thể hiện bất công ngay ở trong bộ máy cao nhất của Nhà nước thì khó có thể thực hiện được mục tiêu Công bằng trong xã hội. Một số nhân tố khác ảnh hưởng tới Đầu tư và Công Bằng Xã Hội. Ngoài các nhân tố trên, chúng ta còn thấy một số nhân tố khác cũng tác động đến CBXH như các yếu tố về điều kiện tự nhiên và các yếu tố về điều kiện xã hội. 4.1. Điều kiện tự nhiên. Nước ta có địa hình phức tạp, diện tích đất tự nhiên đã ít lại không màu mỡ, khô cằn, núi đá nhiều dẫn đến diện tích canh tác nhỏ hẹp, năng suet cây trồng thấp. Các vùng này lại thường hẻo lánh, ít được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nên có sự tụt hậu giữa các vùng này với các khu vực phát triển nhanh khác. Mặt khác, các vùng này luôn phải đối chọi với thiên tai khắc nghiệt như lũ lụt hạn hán khiến rủi ro trong cuộc sống đối với dân cư trong khu vực tăng lên. Chúng ta đều biết rằng các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe...). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ. 4.2. Điều kiện xã hội. Yếu tố tiếp theo tác động đến CBXH là các yếu tố về Xã hôi. Đây chính là các yếu tố về chính bản thân nội tại của người dân cũng như các yếu tố về tập quán, dân tộc. Chẳng hạn, bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình. Tình trạng gia đình đông con cũng là một vấn đề lớn. Ngoài ra yếu tố dân tộc cũng có tác động đáng kể khi mà sự chênh lệch giữa dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số khác đang tăng nhanh và đa số các dân tộc thiểu số có tỷ lệ số hộ nghèo đói cao. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHO CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM I. Hoạt động Đầu Tư nhằm làm giảm phân hoá giàu nghèo. 1. Đầu tư cho việc phát triển nông nghiệp nông thôn và các vùng kinh tế khó khăn. 1.1. Tình hình đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn. a) Nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn tăng dần qua các năm. Hiện nay trên 77% cư dân sống ở nông thôn, 70% thu nhập và đời sống của cư dân nông thôn dựa vào nông nghiệp, 90% người nghèo sống ở nông thôn, do đó việc phát triển nông nghiệp và nông thôn là mấu chốt của Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo. Nhà nước đã tập trung đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn trong 10 năm 1991- 2000 gần 70 nghìn tỷ đồng (giá 1995), tương đương 6 tỷ đô la… 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 68047 79367 96870 97336 103771 Nông lâm thuỷ sản (tỷ VNĐ) 5209 5723 7084 7629 7733 Tỷ trọng(%) 7,7 7,2 7,3 7,8 7,5 Tốc độ tăng vốn bình quân hàng năm gần 23% (bình quân chung cả nước là 19,1%) trong đó tốc độ tăng vốn bình quân trong 5 năm 1996- 2000 là 22%. Rõ ràng, trong 2 năm 2001 và 2002 tốc độ tăng vốn đầu tư rất nhanh so với các giai đoạn trước. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn trong tổng vốn đầu tư xã hội bình quân 1991- 2000 là 10,2%, năm 2001 là 17,6% và năm 2002 khoảng 19- 20%. Như vậy trong 2 năm gần đây đã có sự tập trung cao hơn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nguồn vốn từ NSNN (bao gồm cả vốn ODA) đã tăng đáng kể cho khu vực này, chiếm khoảng 50% vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn. Nguồn vốn từ các hộ gia đình, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và vốn FDI cũng tăng dần qua các năm. Nhờ quy mụ đầu tư trong thời gian qua, tình hình đầu tư cho Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đạt được một số kêt quả nhất định trong việc xoá đói giảm nghèo và nâng cao mức thu nhập chung cho vùng này. b) Hoạt động đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn đã có sự đa dạng hơn góp phần xoá đói giảm nghèo. Do có sự đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp dẫn đến năng lực sản xuất trong các ngành tăng nhanh, qua đó làm tăng năng suất lao động xã hội trong khu vực vốn được coi là năng suất chậm nhất cả nước. Để giải quyết nhu cầu việc làm cho lao động nông thôn, chúng ta cũng đã đầu tư nhằm thúc đẩy các ngành công nghiệp chế biến phát triển tại các địa phương đồng thời có chính sách đầu tư khuyến khích phát triển các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp nhỏ, tiến tới đa dạng hoỏ thu nhập trong Nông nghiệp để nông dân không chỉ phụ thuộc duy nhất vào một nguồn dễ cú tớnh rủi ro. Trong những năm qua, chỳng ta vẫn tiếp tục đầu tư phát triển làng nghề truyền thống. Nhiều nghề truyền thống được khôi phục tạo ra nguồn thu nhập bổ sung cho người lao động. Nhiều tỉnh đó ỏp dụng mụ hỡnh này thành cụng tại thời điểm năm 2003 như các tỉnh Hà tây, Hà nam,.. đó gúp phần giải quyết tỡnh trạng thừa thời gian lao động ở nông thôn. Bên cạnh đó, nhờ có chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành nông nghiệp và nông thôn nên số dự án FDI vào khu vực này cũng tăng nhanh qua đó cũng tạo thêm nhu cầu về lao động. Năm 1998, đã có 225 doanh nghiệp có vốn FDI Đầu tư vào nông nghiệp. Trong đó, có khoảng 1,5 tỷ USD cho lĩnh vực chế biến lương thực và nông lâm hải sản và 910 triệu USD cho sản xuất nông nghiệp. Qua đó, năng lực sản xuất và chế bién nông lâm thuỷ sản được nâng cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Đến năm 2003, chúng ta đã thu hút được 780 dự án với tổng vốn dăng ký trên 3,8 tỷ USD, tăng thêm 555 dự án so với năm 1998. Năm 97, các doanh nghiệp có vốn FDI đã giảI quyết việc làm cho trên 20000 lao động trực tiếp và hàng chục nghìn lao động gián tiếp với mức lương bình quân 60USD/ 1tháng qua đó cũng góp phần nâng cao mức thu nhập trung bình của khu vưc nông thôn. Trong những ngày cuối của năm 2000, chúng ta cũng đã cấp giấy phép cho dự án chế biến nông nghiệp với số vốn là 150 triệu USD. Tất cả những tác động trên của hoạt động đầu tư cho nông nghiêp đã làm cho khu vực này trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng nhanh dần qua các thời kỳ. Trong thời kỳ 1986- 2000 tốc độ tăng trưởng của ngành nông lâm dịch vụ là 3,1 % thì đến giai đoạn 1996- 2000 tốc độ tăng trưởng là 4,3%. Năm 2003, tốc độ tăng trưởng của ngành khoảng 4,9% so với 2002. Cũng do năng lực và năng suất trong nông nghiệp tăng nhanh kết hợp với việc giải quyết việc làm cho địa phương nên thu nhập của khu vực nông nghiệp tăng nhanh. Năm 2002, thu nhập trung bình 1 tháng của khu vực nông thôn là 274,9 nghìn đồng trong khi năm 1999 mức này là 255000 đồng. Thu nhập từ những ngành nghề thủ công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp,… tăng lên nhiều. Giai đoạn 1991- 2000, ngành nông nghiệp (gồm cả lâm thuỷ sản) thu hút thêm 3,1 triệu lao động. Năm 2002, tỷ lệ thời gian lao động cũng tăng lên ở mức 75,5%. Số hộ nghèo nhờ đó mà giảm đi, theo tiểu chuẩn quốc gia, năm 2000 số hộ nghèo đã giảm đI 2/3 so với năm 1990. 1.2. Tình hình đầu tư cho các vùng khó khăn, kém phát triển. a) Nhà nước tiếp tục tăng cường và huy động mọi nguồn lực cho các vùng kinh tế chậm phát triển. Đầu tư cho các vùng khó khăn đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế và thực hiện CBXH. Vì những khu vực này có số người nghèo lớn nên dễ gây ra các hiện tượng tiêu cực các tệ nạn xã hội nếu không có biện pháp phát triển các vùng này đI lên để theo kịp các vùng phát triển khác. Nhận thức rõ diều này, trong thập kỷ 90 và những năm sau này, Nhà nước đã tích cực huy động nhiều nguồn lực đầu tư vào các khu vực này. Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 1996-1999 Tỷ Đồng % Tỷ Đồng % Tỷ Đồng % Tỷ Đồng % Tỷ Đồng % Trung du miền núi Bác Bộ 2971,41 5,62 3802,21 5,32 4751,39 6,13 6368,91 7,88 17893,92 6,3 Tây Nguyên 158484 3,0 177558 2,48 190745 2,46 216522 2,68 7433,09 2,6 ĐB SCL 744799 14,09 963754 13,49 1082295 13,96 1196811 14,81 39876,59 14,3 Hơn 10 năm 1991-2000, Nhà nước đã đầu tư vào các vùng này khoảng 22,1% vốn đầu tư cả nước trong đó, vốn NSNN chiếm khoản 28%. Vốn đầu tư từ nguồn NSNN tập trung cho các công trình cơ sở hạ tầng, trong đó hạ tầng kỹ thuật chiếm 63,5%, hạ tầng xã hội chiếm 34,7%, các ngành khác chiếm 1,8%. b) Hoạt động đầu tư được đa dạng và hiệu quả hơn góp phần phát triển các vùng và đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo. Tại từng khu vực riêng biệt, Nhà nước cũng đầu tư theo các chương trỡnh mục tiờu. Chương trỡnh dự ỏn định canh định cư tập trung chủ yếu vào hỗ trợ phát triển sản xuất, khai hoang. Dự án này cũng tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng để đồng bào dân tộc ít người rời bỏ phương thức du canh du cư. Tính đến năm 2000, chương trỡnh đó định cư cho khoảng 118000 hộ; tổ chức đi xây dựng vùng kinh tế mới 38925 hộ. Chương trỡnh 327và 621 nhằm phủ xanh đất trống đồi núi trọc và trồng 5 triệu ha rừng, bảo vệ đất đai, cải tạo môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chương trỡnh này cũng tạo điều kiện để các hô nông dân tận dụng lợi thế về đất đai và sức lao động nhằm thựchiện mô hỡnh nụng lõm kết hợp, trồng cõy ăn quả và cây công nghiệp lâu năm trên diện tích có độ màu mỡ cao, trồng cây hang năm dưới tán rừng chưa khép tán. Đây cũng là biện pháp tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bô ngành nông nghiệp. Ngoài ra, Nhà nước cũn cú chương trỡnh 135 là chương trỡnh kinh tế xó hội mở rộng thực hiện trờn cỏc địa bàn đặc biệt khó khăn (cả nước có 1700 xó - năm 2000). Chương trỡnh này chỳng ta sẽ đề cập kỹ hơn ở phần đầu tư cho xoá đói giảm nghèo. 2. Đầu tư cho xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo là một vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu đang được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm. Việt nam luôn coi trọng vấn đề xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên xuốt đất nước, góp phần thực hiện CBXH. 2.1. Nguồn lực cho công tác xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm được tăng cường Mặc dù NSNN còn hạn hẹp, song Nhà nước đã đầu tư cho các chương trình quốc gia phục vụ xóa đói giảm nghèo thông qua chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo (Chương trình 133, 135). Từ khi có Chương trình xóa đói giảm nghèo (1992) đến năm 2000, Nhà nước đã đầu tư thông qua các chương trình quốc gia có liên quan đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo khoảng 21.000 tỷ đồng. Riêng trong 2 năm 1999 và 2000 gần 9.600 tỷ đồng (NSNN đầu tư trực tiếp cho chương trình 3.000 tỷ đồng; lồng ghép các chương trình, dự án khác trên 800 tỷ đồng; huy động từ cộng đồng trên 300 tỷ đồng; nguồn vốn tín dụng cho vay ưu đãi hộ nghèo trên 5.500 tỷ đồng). Trong 2 năm 2001, 2002, tổng nguồn vốn huy động đạt 13.400 tỷ đồng, tăng khoảng 39,6% so với tổng mức vốn Đầu tư 2 năm 1999- 2000. Trong đó: + NSNN Đầu tư trực tiếp 3300 tỷ đồng( Trung Ương 1800 tỷ đồng, địa phương 1500 tỷ đồng) tăng 10% so với 2 năm 1999-2000. + Lồng ghép từ các chương trình, dự án khoảng 1300 tỷ đồng, tăng 62,5% so với 2 năm 1999-2000 + Huy động từ cộng đồng khoảng 700 tỷ đồng, tăng 133% so với 2 năm 1999-2000. Huy động vốn tín dụng 8100 tỷ đồng, tăng 47,3% so với 2 năm 1999-2999 Hiện nay, Chính phủ tiếp tục huy động mọi nguồn lực có thể cho xoá đói giảm nghèo. Tận dụng tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc rế. Trong nước, năm 2003, chúng ta đã thực hiện rất nhiều chương trình thiết thực vì người nghèo. Phong trào “Ngày vì người nghèo” diễn ra khắp nơi. Chúng ta cũng tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế. Vừa qua, năm 2004, chúng ta đã nhận được cam kết tài trợ của UNDP cho xoá đói giảm nghèo. Theo đó, UNDP sẽ tài trợ gần 300000 USD cho việc thí điểm lồng ghép Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo vào kế hoạch phát triển hàng năm và dài hạn của các tỉnh và tỉnh Trà Vinh sẽ là một trong những tỉnh nghèo đầu tiên được thực hiện. 2.2. Nội dung và các hoạt động Đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo. Nhà nước đã đầu tư cho xoá đói giảm nghèo thông qua các chương trình mục tiêu của quốc gia. Chương trình xoá đói giảm nghèo là một chương trình lớn của quốc gia, có tính chất chiến lược ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội bền vững. Mục tiêu của chương trình này là giảm dần và xoá bỏ hộ đói, giảm hộ nghèo, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Mỗi năm phấn đấu giảm 3- 4% hộ đói nghèo. UNDP, WB và ADB thường trợ vốn cho các chương trình này. Chương trình 135 là chuơng trình kinh tế xã hội tổng hợp, thực hiện trên địa bàn các xã được công nhận là xã đặc biệt khó khăn (cả nước có trên 1700 xã). Mục tiêu tổng quát của chương trình là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc tạo điều kiện các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập với sự phát triển chung của cả nước. Thành tựu cơ bản của chương trình 135 đã thể hiện hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội vùng đồng bào dân tộc miền núi. Hàng ngàn cụng trỡnh cơ sở hạ tầng tại các xó đặc biệt khó khăn và các trung tâm cụm xó được xây dựng. Hệ thống cơ sở vật chất ở miền núi, vùng cao được hỡnh thành và cải thiện rừ rệt so với trước đây, góp phần thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần từng bước phát triển; nhiều vùng đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa. 2.3. Những hoạt động chính của chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo Biện pháp đầu tiên của chương trình là đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo. Ngay từ năm 1999, chưong trình đã đầu tư hơn 500 tỷ đồng xây dựng 1753 công trình cho các xã nghèo như đường giao thông, thuỷ lợi nhỏ, trường học hệ thống cấp nước và điện sinh hoạt, trạm y tế, chợ nông thôn,… Ngoài vốn NSNN, các địa phương huy động thêm nguồn vốn trên địa bàn, lồng ghép vốn xây dựng cơ bản từ các chương trình và dự án khác để đầu tư thêm cho 176 xã nghèo khác với tổng kinh phí 100 triệu đồng. Với công tác định canh định cư, di dân kinh tế mới chương trình đã đầu tư 252 tỷ đồng cho việc định canh định cư tập trung cho 47 nghìn hộ, hỗ trợ cho họ khoanh nuôi bảo vệ trồng mới xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định đời sống di dân kinh tế mới cho 15,3 nghìn hộ tính tại thời điểm năm 1999. Cuối cùng, hoạt động đầu tư cho xoá đói giảm nghèo cũng được thực hiện qua việc chuyển giao công nghệ hướng dẫn cho họ cách làm ăn. Năm 1999, chương trình đã đầu tư 8 tỷ đồng để xây dựng 150 mô hình trình diễn kỹ thuật, tổ chức 180 lớp khuyến nông cho khoảng trên 854 nghìn lượt người nghèo. Đây là cách thức có hiệu quả lâu dài, một biện pháp tránh tái nghèo tốt nhất. 2.4. Những bất cập tồn tại trong hoạt động đầu tư cho Xoá đói giảm nghèo. a) Nguồn lực đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn hạn chế, chưa cân đối với mục tiêu chung nhất là nguồn vốn đầu tư từ NSNN, hàng năm mới chỉ có thể đáp ứng được khoảng 15- 20% yêu cầu. Nguồn lực trong nước còn quá hạn hẹp, vừa phải đầu tư lớn cho sự phát triển chung của đất nước vừa phải đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, trong khi đó việc khai thác các nguồn lực chưa được nhiều và chưa có hiệu quả. Một số định hướng đầu tư đang trong quá trình điều chỉnh, khả năng tái đầu tư không đáng kể, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Hơn nữa thị trường tài chính đang hình thành nên huy động đầu tư còn yếu. Các nguồn lực cho chương trình xóa đói giảm nghèo tuy có tăng lên qua các năm, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của các địa phương. Địa bàn trọng điểm cần xóa đói giảm nghèo hiện nay là những vùng cao, vùng sâu có nhiều khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và lạc hậu, suất đầu tư cao, chi phí lớn, khó thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Đây thực sự là một thách thức lớn cho công tác xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới. b) Hiệu quả đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn chưa cao. Do các dự án đầu tư này tại các vùng khó khăn thường xa TW nên ít chịu sự giám sát chặt chẽ của các cấp TW. Trong khi năng lực cán bộ địa phương cho công tác xoá đói giảm nghèo lại rất thấp, không đủ khả năng kiểm tra các công trình đầu tư vốn lớn từ TW. Do vậy tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu tư theo các chơng trình về Xoá đói giảm nghèo vẫn rất phổ biến. Trong chương trình 135, hàng năm chúng ta đều có tổ chức kiểm tra, có thống kê của các tỉnh, của các đoàn trung ương. Năm 2001, qua kiểm tra 17 dự án với số vốn khoảng 9,5 tỷ đồng, thỡ những sai sút được phát hiện là 687 triệu đồng. Tình trạng thất thoát cũng do nhiều nguyên nhân khách quan như bị đội giá thành xây dựng hoặc điều kiện thi công rất khó khăn. Chất lượng các công trình xây dựng cũng rất thấp do bên thi công khó thanh toán công trình nên thiếu tính trách nhiệm. Nhiều công trình không làm đúng quy tắc đấu thầu mà lạm dụng chỉ định thầu. Năng lực cán bộ xã rất hạn chế, nhiều cán bộ đọc không thông thạo nên không thể quản lý và giám sát đầu tư. Năng lực hấp thụ tại địa phương rất thấp, có nơi chỉ có 400 triệu đồng nhưng địa phương vẫn không biết nên đầu tư vào công trình nào cho hiệu quả. Do đó tại nhiều xã, nhân dân và địa phương không được tham gia vào chương trình. Vì vậy, tính giải quyết việc làm không cao. c) Hệ thống chính sách, cơ chế đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn thiếu đồng bộ. Cơ chế vận hành và trách nhiệm của từng ngành chưa rõ, chưa dân chủ công khai, kiểm tra giám sát tuy có thực hiện nhưng còn mang tính hình thức. Còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị quản lý dự án xoá đói giảm nghèo. Hiện nay, hệ thống các chương trình dự án XĐGN ở nước ta còn nhiều cơ quan, đơn vị tham gia quản lý. Còn thiếu sự tham gia đầy đủ tích cực của cộng đồng trong việc thực hiện dự án XĐGN. Tại nhiều địa phương, người dân vẫn không được tham gia đầy đủ trong việc trực tiếp quyết định, xây dựng kế hoạch và quản lý, vận hành các chương trình dự án XĐGN. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý các chương trình dự án XĐGN còn chồng chéo và chưa tập trung, thống nhất. Cán bộ quản lý các chương trình dự án đầu tư cho XĐGN thường phải kiêm nhiệm rất nhiều công việc khác nhau gây nên sự quá tải đối với các công tác hành chính. d) Tính bền vững của thành quả XĐGN chưa cao. Một bộ phận dân cư có nguy cơ phát sinh nghèo và tái đói nghèo do sinh sống ở vùng thường xuyên bị thiên tai, mất mùa, do thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định, có thu nhập thấp và không có tích luỹ. II. Đầu Tư cho các vấn đề phúc lợi xã hội. 1. Tình hình Đầu tư cho Giáo dục và tính CBXH trong giáo dục. 1.1. Tình hình đầu tư cho Giáo dục và đào tạo. Phát triển GD ĐT nhằm tạo ra các cơ hội về việc làm mới và nâng cao thu nhập qua đó thúc đẩy xoá đói giảm nghèo và thực hiện CBXH . Nhà nước ta từ trước tới nay đều rất chú trọng đầu tư cho giáo duc. Ngân sách giáo dục từ năm 1995 trở đi mỗi năm tăng 1% và năm 2000 ngân sách giáo dục đạt 15% tổng ngân sách tiêu dùng. Giai đoạn 1996- 2000, vốn đầu tư cho giáo dục là 15400 tỷ đồng chiếm 2,7 % vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục từ vốn NSNN giai đoạn 1996-2000 là 6,6%. Trong giai đoạn 2001- 2003, đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, tăng 15,2%/năm, nên tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực này đó đạt tương ứng là 12,7% và 8,1% vốn đầu tư toàn xã hội. Cũng trong giai đoạn 2001- 2003, tỷ lệ đầu tư cho khoa học và cụng nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao từ nguồn NSNN chiếm 21,1%. Năm2003, tỷ lệ đầu tư cho giáo dục và đào tạo là chiếm 3,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư cho giáo dục đã bước đầu tập trung xây dựng các cơ sở giáo dục trọng điểm, đã hình thành cơ sở vật chất ban đầu cho các cơ sở giáo dục lớn. Vốn viện trợ và vay nước ngoài (ODA) đã được ưu tiên đầu tư cho giáo dục chưa kể các dự án viện trợ không hoàn lại. Nhà nước đã thực hiện một số dự án thành công như như dự án phát triển giáo dục tiểu hoc (gần 80 triệu USD vay vốn WB), dự án phát triển giáo dục dạy nghề (trên 100 USD, vay vốn ADB), chương trình kiên cố hoá trường học… Tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng trường học là rất lớn. Cũng như trong đầu tư xây dựng cơ bản khác, trong khâu lập và thẩm định dự án, hiện tượng lập dự toán vượt khối lượng so với thiết kế rất phổ biến. Ngoài ra, quy trình lập, phê duyệt đầu tư không chặt chẽ, sử dụng vốn không đúng mục đích đã gây lãng phí rất lớn. 1.2. Tình hình CBXH trong Đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho Giáo dục cho đã tăng nhưng tính bất bình đẳng trong giáo dục cũng tăng nhanh. Trong thành thị xu hướng đầu tư vào giáo dục ngày càng tăng trong lúc ở nông thôn đặc biệt là vùng sâu, vùng xa giáo dục bị xuống cấp nghiêm trọng. Người dân ở những khu vực này ít có xu hướng đầu tư cho giáo dục. Chính vì vậy, trong khi cơ hội giáo dục ở khu vực thành thị có rất nhiều thì ở khu vực nông thôn lại rất ít. Và khu vực thành thị có 47% dân số tốt nghiệp PTTH trở lên thì ở nông thôn chưa quá 30% số dân tốt nghiệp PTCS (số liệu năm 2000). Cũng theo số liệu thống kê năm 2000, chúng ta thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống chỉ khi trình độ giáo dục tăng lên. 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn. 2. Đầu tư cho y tế và tăng cường các dịch vụ y tế cho ngưòi nghèo. Năm 2003, đầu tư cho y tế và cứu trợ xã hội cũng tăng, chiếm khoảng 1,3% so với vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn 2001- 2003, đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, tăng 15,2%/năm, nên tỷ trọng vốn đầu tư cho các lĩnh vực này đó đạt tương ứng là 12,7% và 8,1% vốn đầu tư toàn xã hội. Theo Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2003- 2005, ngành y tế cần đầu tư khoảng 1,5 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, con số trên vẫn còn quá nhỏ bé so với nhu cầu về y tế của người dân. Hầu hết các xã có cơ sở y tế nhưng thuốc men, trang thiết bị nghèo nàn, đội ngũ thầy thuốc còn nhiều hạn chế. Chi phí sử dụng dịch vụ y tế và tiền thuốc chữa bệnh trung bình của một người là 35000 đồng cho 1 lần khám và điều trị tại các trạm y tế xã; 77000 đồng cho một lần đi khám và chữa bệnh ngoại trú tại bệnh viện và con số này là 210000 đồng cho một lần chữa bệnh nội trú tại bệnh viện. Số liệu trên cho thấy các gia đình đã phảI trả khá nhiều tiền cho việc sử dụng các y tế. Do đó, cơ hội chữa bệnh cho người có thu nhập thấp lại càng khó hơn khi 1 tháng thu nhập của họ chỉ khoảng hơn 100000 đồng. Do vậy tính bình đẳng trong y tế cũng khó thực hiện. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM I. Một số mục tiêu trong việc giải quyết vấn đề Công Bằng Xã Hội của Đảng và Nhà nước ta. 1. Mục tiêu về giảm tỷ lệ nghèo đói. Đến năm 2010 giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế và giảm 3/4 tỷ lệ nghèo về lương thực thực phẩm so với năm 2000. Đến năm 2005 giảm 2/5 tỷ lệ hộ nghèo và đến 2010 giảm 3/5 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2000 theo chuẩn của Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm. 2. Đảm bảo công trình hạ tầng thiết yếu cho người nghèo, cộng đồng nghèo và xã nghèo Tiếp tục cải tạo, nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các công trình hạ tầng thiết yếu (thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm y tế xã, đường giao thông, điện chiếu sáng, nước sinh hoạt, chợ, các điểm bưu điện văn hóa xã, nhà hội họp...) bảo đảm đến năm 2005 cung cấp cho 80% xã nghèo và đến 2010 cho 100% xã nghèo có các cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đến năm 2005 mở rộng điện lưới quốc gia đến trung tâm 900 xã nghèo, bảo đảm 90% số xã có điện. Bảo đảm có đường ô tô về tới trung tâm xã. Phấn đấu 80% đường xã có kết cấu mặt đường phù hợp, trong đó 30% mặt đường được rải nhựa hoặc xi măng. Đến năm 2005, phấn đấu 80% dân số thành thị, đặc biệt là ở những khu vực xa đường giao thông chính, và 60% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch với số lượng 50 lít/người/ngày. 3. Tiép tục giải quyết việc làm đặc biệt cho người nghèo. Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 1,4-1,5 triệu lao động/năm. Nâng tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới lên 40% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010. Nâng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005 và 85% vào năm 2010, trong đó tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của nữ là 75% vào năm 2005 và 80% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị xuống khoảng 5,4% trong tổng số lao động trong độ tuổi vào năm 2005 và xuống dưới 5% vào năm 2010. 4. Tăng cường hệ thống giáo dục và đưa giáo dục vè tay người nghèo. Củng cố, duy trì và phát huy thành quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Tăng tỷ lệ trẻ em dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 15% năm 2005 và 18% năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh đi học trong độ tuổi lên 97% vào năm 2005 và lên 99% vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh học xong tiểu học lên 85-95% vào năm 2010. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở các thành phố, khu đô thị và một số nơi khác vào năm 2005 và toàn quốc vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010.Tăng tỷ lệ học sinh trung học phổ thông trong độ tuổi lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2010, phần lớn các trường tiểu học và phổ thông cơ sở có đủ điều kiện cho học sinh học tập và hoạt động hai buổi tại trường. Phấn đấu xóa mù chữ cho 95% số phụ nữ bị mù chữ ở độ tuổi dưới 40 tuổi vào năm 2005 và 100% vào năm 2010. Thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% vào năm 2005, 15% năm 2010; thu hút học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005 và 15% năm 2010. Cải thiện chất lượng giáo dục ở mọi cấp học và cho mọi đối tượng, đặc biệt chú ý đến các học sinh nghèo. Nâng cao chất lượng giáo dục cho tất cả mọi người, đặc biệt cho người nghèo. II. Một số giải pháp khắc phục những khó khăn tồn tại trong hoạt động đầu tư cho Công bằng xã hội Tiếp tục tăng cường và đa dạng hoỏ nguồn vốn đầu tư cho Công bằng xã hội. Một trong những tồn tại trong hoạt động đầu tư cho CBXH mà chúng ta đã tìm hiểu ở trên chính là nguồn vốn đầu tư cho các lĩnh vực này còn quá nhỏ bé.Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt là cần tăng nguồn vón đầu tư cho CBXH. Tuy nhiên, nguồn vốn NSNN lại hạn chế do vừa thực hiện mục tiêu cho phát triển kinh tế vừa thực hiện CBXH trong khi nguồn vón từ các khu vực tư nhân, nước ngoài lại ít khi đầu tư vào CBXH. Vì vậy để đạt được mục tiêu tăng vốn đầu tư cho CBXH, chúng ta cần phải tiếp tục có một số biện pháp thúc đẩy quá trình xã hội hoá đầu tư cho CBXH để không còn lệ thuộc vào một nguồn từ NSNN. Đối với nguồn vốn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh và bổ sung Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài; mở rộng phạm vi hình thức ưu đãi để thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư của xã hội cho nông nghiệp và nông thôn. Chúng ta cũng cần công bố rộng rãI kế hoạch phát triển, danh mục các chương trình các dự án đầu tư trung hạn và dài hạn của ngành nông nghiệp, dịch vụ nông thôn để định hướng cho các nhà đầu tư lựa chọn, làm cơ sở cho việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển. Năm 2004, Bộ Nông nghiệp vừa đưa ra định hướng kêu gọi vốn đầu tư FDI vào các ngành lương thực, rau quả, cà phê, cao su, chè, chăn nuôI, trồng rừng và chế biến gỗ. Đối với nguồn vốn cho sự phát triển của các vùng sâu, vùng xa, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư bằng các chính sách thuế, giá thuế đất.. có lợi hơn cho nhà đầu tư ở vùng khác. Ngoài ra, các vùng này cần phảI thực hiện tốt công tác cải cách nền hành chính và chống tham nhũng có hiệu quả. Có như vậy mới tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư có điều kiện kinh doanh đạt hiệu quả. Ngoài ra, chúng ta cũng cần khuyến khích xã hội hoá của vấn đề phúc lợi xã hội. Bởi nó khai thác được nguồn lực to lớn của xã hội đồng thời khơi dậy lòng nhân ái, đùm bọc chia sẻ khó khăn của người khác. Tiếp tục khuyến khích tập thể và tư nhân tham gia các hoạt động từ thiện và hoạt động xã hội khác. Nâng cao hiệu quả đầu tư cho xoá đói giảm nghèo và Công bằng xã hội. Hiệu quả đầu tư cho CBXH trong thời gian qua chưa cao, chưa tương xứng với nguồn lực mà xã hội phải bỏ ra. Chính vì vậy, tác dụng tích cực của nó đối với CBXH chưa cao. Do đó, chúng ta cần tiếp tục nâng cao hiệu quả đầu tư cho CBXH. a) Để khắc phục hiện tượng đầu tư trong nông nghiệp nông thôn, trong xoá đói giảm nghèo còn phân tán, dàn trải, chúng ta cần đầu tư tập trung có trọng điểm, đầu tư cần theo quy hoạch chung của Nhà nước. Trước hết, chúng ta cần tập trung đầu tư hơn nữa cho phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là hệ thống đường giao thông nông thôn, coi đây là khâu đột phá có tính quyết định tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, cần nhanh chóng triển khai đầu tư để hình thành các trung tâm cụm xã, tạo điều kiện phát triển giao lưu hàng hoá, cải thiện đời sống đồng bào ở những vùng khó khăn. Bên cạnh đó, chúng ta cần tiếp tục khắc phục hoàn toàn tình trạng “xin cho” dự án và “chạy” để có dự án; thực hiện phân phối vốn ngân sách trên cơ sở có căn cứ khách quan, xác đáng. Đối với mỗi vùng khó khăn, đầu tư tập trung trọng điểm sẽ giúp cho các vùng này nhanh chóng rút ngắn khảng cách với các vùng khác. Đối với vùng trung du và miền núi Bắc, cần hướng tới một số trọng tâm: tuyến đường bộ biên giới nố các tỉnh trong vùng; một số trung tâm kinh tế văn hoá xó hội trong vựng; hệ tống rừng phũng hộ. Đối với vùng Tây nguyên trọng tâm là: tuyến đường Hồ Chí Minh trên địa bàn các tỉnh trong vùng; một trung tâm kinh tế văn hoá chung cho toàn vùng; hệ thống các tiểu vùng sản xuất hàng hoá mà vùng có thế mạnh như chè, cà phê, cao su, ngô, đậu, hồ tiêu,… Đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long, cần hoàn thiện hệ thống đường bộ nối liền các tỉnh; hỡnh thành vựng sản xuất lỳa hang hoỏ nhằm đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và xuất khẩu. b) Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư cho CBXH là tình trạng thất thoát lãng phí rất lớn. Nguyên nhân của tình trạng trên có rất nhiều song chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau. Chúng ta cần đầu tư một cách đồng bộ, toàn diện và có hiệu quả thiết thực. Trong nông nghiệp, chúng ta cần đầu tư từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ cho từng loại sản phẩm, ưu tiên đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu tránh tình trạng một số nhà máy đã hoàn thành song chưa hoạt động vì không có nguyên liệu. Ngoài ra, tại các vùng sâu, vùng kém phát triển, chúng ta cần tạo lập môi trường đồng bộ như phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực để làm cơ sở cho xoá đói giảm nghèo được thực hiện vững chắc. Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch tổng thể về phát triển vùng và phát triển ngành. Bên cạnh đó, chúng cần tiếp tục đẩy mạnh và tăng cường công tác giám sát trong việc thực hiện các dự án đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, nông nghiệp. Có thể phân cấp trách nhiệm giám sát dự án cho từng địa phương để người dân có thể trực tiếp tham gia lập kế hoạch và xem xét quá trình thực hiện dự án. Bảo đảm người dân được cung cấp đầy đủ thông tin về hoạt động kinh tế, các chỉ tiêu kế hoạch và nguồn tài chính cho các dự án, chương trình phát triển ở địa phương, được quyền tham gia, góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển, tham gia thực hiện, vận hành, duy tu, bảo dưỡng và đóng góp công lao động, thể hiện vai trò chủ nhân để nâng cao trách nhiệm trong sử dụng và quản lý công trình cơ sở hạ tầng. Cần tiếp tục tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong trong đầu tư và thực hiện dự án. Nhà nước cũng cần giảm bớt mối đầu tư, khắc phục tình trạng đầu tư qua nhiều khâu, nhiều cấp để chống đầu tư trùng lặp và cắt xén vốn đầu tư. Phải quy định rõ trách nhiệm của cơ quan cấp vốn là phải cấp đúng tiến độ, quy mô và bảo đảm nguồn vốn đó đến được tận tay người dân. c) Vốn đầu tư phát huy tác dụng hiệu quả đến đâu phụ thuộc vào cán bộ lãnh đạo, các ngành mà trực tiếp là những cán bộ làm công tác quản lý đầu tư từ TW đến cơ sở. Thực tiễn cho thấy, địa phương nào mà cán bộ có năng lực cao thì hiệu quả đầu tư cũng cao. Do vậy chúng ta cần tiếp tục tăng cường năng lực cán bộ quản lý cấp xã cả về số lượng và chất lượng để sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn. Cần phải phân công thêm cán bộ chuyên trách cho các chương trình dự án Xoá đói giảm nghèo đồng thời tăng cường cán bộ kỹ thuật chuyên môn trong công tác đào tạo về quản lý chương trình lập kế hoạch, giám sát và đánh giá dự án. Về chất lượng, các cán bộ cấp xã, bản cần được đào tạo một cách bài bản với những nội dung như: phương pháp xây dựng, quản lý và cách thức phối hợp lồng ghép các dự án nhỏ trên địa bàn xã; quản lý sử dụng và khai thác các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Tiếp tục thực hiện chính sách đẩy mạnh các chính sách thu hút nhân tài về các địa phương. d) Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần khuyến khích các thành phần kinh tế khác tiếp tục đầu tư phát triển ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, tránh tình trạng nguồn vốn từ NSNN chỉ tập trung cho các doanh nghiệp Nhà nước. Bởi chúng ta đều biết rằng các doanh nghiệp này hoạt động không mấy hiệu quả làm lãng phí nguồn lực của Nhà nước, lãng phí đồng vốn đầu tư cho nông nghiệp và xoá đói giảm nghèo. Nhà nước khuyến khích các hộ nông dân đầu tư và làm giàu chính đáng. Chúng ta cũng cần phải thu hồi mặt bằng đối với những doanh nghiệp sử dụng kém hiệu quả để cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thuê lại; biểu dương và tôn vinh các nhà doanh nghiệp có chí hướng phát triển lâu dài trong một số lĩnh vực đã kinh doanh đạt hiệu quả, đóng góp Ngân sách và tạo nhiều việc làm cho người nghèo e) Cuối cùng, cũng sẽ rất cần thiết nếu chúng ta quan tâm đến việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực; đặc biệt là việc đầu tư giáo dục đưa kiến thức về tận người dân tại các vùng khó khăn. Có như vậy họ mới biết cách sử dụng vốn và đầu tư có hiệu quả hơn. Tóm lại, hiệu quả đầu tư nói chung và đặc biệt là hiệu quả đầu tư cho CBXH chưa cao đòi hỏi các biện pháp khắc phục trước mắt cũng như lâu dài. Như thủ tướng Phan Văn Phải nói tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2002 -2007: “ Từ nay trở đi phải soát xét rất kỹ về đầu tư. Chúng ta đã có những bài học đau xót về sự ấu trĩ trong đầu tư, không mang lại hiệu quả kinh tế. Từng bộ, ngành phải soát xét lại cách đầu tư, bảo đảm đầu tư tập trung, đúng hướng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, tạo việc làm cho người lao động.” 3. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách đầu tư cho Công bằng xã hội. Để hoàn thiện các chính sách đầu tư, trước hết chúng ta cần phảI xác định rõ mục tiêu đầu tư và có chính sách đầu tư cụ thể cho các ngành và lĩnh vực. Có như vậy, các chính sách đầu tư cho CBXH mới không bị chồng chéo lẫn nhau. Tiếp tục rà soát, điều chinh bổ sung các quy hoạch, các chương trình dự án đang triển khai đầu tư phù hợp với yêu cầu phát triển của các ngành, địa phương và hội nhập của nền kinh tế; đồng thời làm căn cứ cho đầu tư xây dựng các chương trình, dự án tiếp theo của ngành, vùng. Đối với các chương trình dự án Nhà nước đang tập trung đầu tư như đầu tư thuỷ lợi trong ngành nông nghiệp, chương trình định canh, định cư trong đầu tư cho các xã khó khăn,..hoặc Nhà nước đầu tư 100% vốn ngân sách thì chuyển sang hình thức đầu tư khỏc bằng nhiều nguồn vốn, để các thành phần kinh tế khác cũng tham gia vào các dự án này. Nhà nước chỉ đầu tư hỗ trợ các hạng mục chủ yếu như thuỷ lợi, đường giao thông chính, các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho người nghèo. Có như vậy, nguồn vốn từ NSNN sẽ được tập trung trọng diểm hơn, ít phân tán dàn trải. Nhà nước cũng cần tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện các chính sách đầu tư phát triển để huy động mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư của xã hội, nhất là vốn đầu tư của khu vực tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài; mở rộng phạm vi hình thức ưu đãi để thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư của xã hội cho nông nghiệp và nông thôn và các vùng khó khăn. Tiếp tục tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị quản lý dự án xoá đói giảm nghèo trong việc đưa ra các chính sách đầu tư phù hợp để tránh tình trạng các chính sách chồng chéo nhau, các chính sách của vùng này lại làm kìm hãm và cạnh tranh với vùng khác. Ngoài ra, cần đẩy mạnh các chính sách thu hút nhân tài về các vùng khó khăn. Có thể đào tạo với những người ở ngay tại địa phương đó hoặc ưu tiên những cán bộ nhiều tâm huyết về với vùng cao, đưa các sinh viên trẻ có khả năng cống hiến cao về các xã, bản, mường. Tất nhiên, chúng ta phải cụ thể các chính sách khuyến khích đó bằng các ưu đãi về tiền lương, công việc ổn định và nhà cửa tai các địa phương đó. Cuối cựng, Nhà nước cần thực hiện các chính sách về đầu tư và tín dụng cho người nghèo nhằm mở rộng khả năng vay cho nông dân, chặn đứng tệ văy nặng lói thường phổ biến ở vùng nông thôn hay ở mốt số vùng người dân cũn cú trỡnh độ kém. Trong đó, nhà nước cần quy định lói suất cho vay hợp lý đối với từng vùng, từng hộ đặc biệt khó khăn để người đi vay có khả năng trả được nợ vay ngân hàng. III. Một số giải pháp phát huy vai trò của Đầu tư trong việc thực hiện Công bằng xã hội. Phát huy vai trò của Đầu Tư trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý gắn với xoá đói giảm nghèo và Công bằng xã hội. 1.1. Phát huy vai trò của đầu tư hợp lý trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, gắn với xoá đói giảm nghèo và CBXH. a) Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tạo nền tảng vững chắc cho xoá đói giảm nghèo và CBXH. Chúng ta đều biết rằng nông nghiệp có sự giới hạn tăng trưởng do diện tích đất trồng trọt giới hạn và nhu cầu của thị trường nông sản truyền thống hạn chế. Chính vì vậy, năng suất lao động ở khu vực nông thôn rất thấp và phần lớn hộ nghèo đều nằm trong khu vực này. Để đạt mức tăng trưởng cao, tạo cơ hội cho xóa đói giảm nghèo phải tiến hành đầu tư đồng bộ như đầu tư phát triển khoa học công nghệ; tăng đầu tư cho ngành nông nghiệp đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn; đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, chúng ta phải tiến hành đồng bộ các biện pháp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn;cải cách chính sách về đất, đầu tư, tín dụng để hướng đầu tư phục vụ cho người nghèo. Qua đó, chúng ta có thể thực hiện tốt các mục tiêu tăng năng suất, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông nghiệp trên thị trường trong nước và nước ngoài. Chúng ta cũng cần tăng cường đầu tư xây dựng các cơ sở công nghiệp chế biến gắn với nông nghiệp, thúc đẩy đa dạng hóa sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tăng khả năng chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Qua đú sẽ tạo nhiều công ăn, việc làm và thu nhập ở nông thôn. Đối với các vùng sản xuất khó khăn có nhiều hộ nghèo, Nhà nước sẽ tăng cường đầu tư kết hợp với huy động đầu tư của cộng đồng để đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết như đường giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, trường học, trạm y tế xã; hỗ trợ xây dựng các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn. Để thực hiện được các biện pháp trên, trước hết chúng ta cần phải đổi mới cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp theo hướng chuyển mạnh từ đầu tư cho thuỷ lợi, khai hoang sang đầu tư theo chiều sâu, đổ mới cơ cấu giống và kỹ thuật trồng trọt; tăng cường đầu tư phát triển cụng nghệ sau thu hoạch. Cuối cùng, trong cơ cấu đầu tư cần dành tỷ lệ hợp lý cho nội dung dạy nghề cho nông dân bao gồm đào tạo nghề mới, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn và kinh nghệm làm ăn bằng các ngành nghề nông nghiệp và công nghiệp dịch vụ. Tăng cường đào tạo cho người nghèo bằng các chương trình khuyến nông giúp họ khai thác tốt các tiềm năng và thế mạnh của vùng và của từng cá nhân. Qua đó, người lao động đặc biệt là người nghèo mới có nền tảng vững chắc nhất trong xoá đói giảm nghèo b) Tiếp tục đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ nhằm tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người nghèo. Chúng ta vẫn cần tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn cần tiếp tục gắn với quá trình CNH HĐH bởi đó là định hướng chung của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên vẫn phải cần cần tăng cường nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp và các vùng chậm phát triển để giảI quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo. Chúng ta có thể kết hợp bằng cách tiếp tục đầu tư phát triển các nhà máy, các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, ngành công nghiệp chế biến tại khu vực nông thôn và các địa phương. Phát triển, hiện đại hóa các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn (hoá chất, phân bón, bao bì...), tiếp tục đa dạng hóa và hiện đại hóa sản phẩm cơ khí đáp ứng nhu cầu của sản xuất nông nghiệp như: máy kéo nhỏ, máy chế biến, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, máy phun thuốc sâu và tưới nước hiện đại. Kết hợp hợp lý giữa phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, ngành công nghệ cao, ngành mũi nhọn với việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ và sử dụng nhiều lao động để thu hút lao động, tạo việc làm. Có như vậy chúng ta mới giải quyết được mối quan hệ giữa tăng trưởng và CBXH. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các chủ sản xuất kinh doanh, buôn bán nhỏ (cửa hàng, cửa hiệu, xưởng sản xuất...) mở rộng đầu tư, phát triển kinh doanh lâu dài và thu hút nhiều lao động đặc biệt là tạo việc làm cho người nghèo. Bởi vì yêu cầu làm việc của các hộ kinh doanh nhỏ này không cần đòi hỏi trình độ cao, mà chủ yếu cần sự chăm chỉ cần cù rất phù hợp với người nghèo. Các công ty, doanh nghiệp lớn trong ngành vận tải, xây dựng... và những ngành khác cũng cần được khuyến khích tuyển dụng thêm lao động phổ thông tạo việc làm ổn định cho người nghèo. Tiếp theo, chúng ta cần phải giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo số lao động sử dụng thêm; giúp doanh nghiệp trong việc đào tạo lao động. Có như vậy, các doanh nghiệp sẽ có động cơ để tuyển dụng thêm lao động đặc biệt là những người nghèo. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải thu hồi mặt bằng đối với những doanh nghiệp sử dụng kém hiệu quả để cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thuê lại; biểu dương và tôn vinh các nhà doanh nghiệp có chí hướng phát triển lâu dài trong một số lĩnh vực đã kinh doanh đạt hiệu quả, đóng góp Ngân sách và tạo nhiều việc làm cho người nghèo. Khuyến khích các tổ chức tài chính ngân hàng, các doanh nghiệp lớn và thể nhân giúp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng kinh doanh, cung cấp thông tin kinh tế và đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.2. Phát huy vai trò của Đầu tư trong việc tạo một cơ cấu vùng hợp lý, tạo ra sự phát triển hài hoà, tiến tới giảm sự chênh lệch giữa các vùng. a) Giải pháp về Đầu tư trong việc thu hẹp khoảng cách giữa các vùng. Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước vẫn tiếp tục đầu tư vào những vùng kém phát triển nhưng giữa các vùng trọng điểm và vùng khó khăn vẫn còn chênh lệch lớn. Điều này đã gây ra sự bất bình đẳng lớn giữa các vùng. Do đó, chúng ta phải có giải pháp đầu tư theo vùng một cách hợp lý. Trước hết, chúng ta cần phải tăng cuờng đầu tư hơn nữa cho các vùng khó khăn và cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư cho các vùng này. Các giải pháp này chúng ta đã nghiên cứu và xem xét kỹ ở phần trên. Ở đây, chúng tôi xin đề xuất thêm một số giải pháp sau. Chúng ta tuy đã tiếp tục đầu tư cho các vùng nhưng vấn đề cơ bản ở đây là phải tạo cơ hội cho các hộ nghèo nắm bắt được những thành quả đầu tư đó. Qua đó mới thực sự tạo ra một nền tảng bền vững trong việc thực hiện xóa đói giảm nghèo. Muốn vậy, Nhà nước phải có chính sách tín dụng hợp lý tạo điều kiện đẩy mạnh trợ giúp cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Có như vậy đồng vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước mới đến được tay nhân dân. ở đây, các địa phương cần lập ra kế hoạch chi tiết cụ thể về phương án đầu tư để qua đó, Nhà nước và Ngân hàng sẽ chuyển đồng vốn đến các hộ dân có nhu cầu đầu tư cần thiết và phương án đầu tư khả thi. Bên cạnh đó, việc nắm bắt những thành quả đầu tư của Nhà nước và các thành phần kinh tế khác còn phụ thuộc vào trình độ học vấn của người nghèo. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục đầu tư cho giáo dục đào tạo phát triển cho người dân ở những vùng khó khăn thông qua các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn; tổng kết và nhân rộng các mô hình xóa đói giảm nghèo đặc thù cho các vùng; tiến tới xóa bỏ kinh tế tự cung, tự cấp ở vùng dân tộc ít người và miền núi. Chúng ta cũng nên tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, giao thông, các chợ ở vùng sâu vùng xa nhằm cung cấp một số sản phẩm thiết yếu cho người dân và tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chúng ta cũng cần thu hút người nghèo tham gia xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, coi đó là một hình thức tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo. b) Tiếp tục đầu tư phát triển các vùng trọng điểm, tạo ra sự liên kết giưa vùng phát triển và vùng chậm phát triển. Giữa các vùng, khi xây dựng cơ cấu đầu tư phải đảm bảo sự chuyển dịch giữa chúng có sự đồng bộ, cân đối và phát huy dược lợi thế so sánh của từng vùng. Tạo điều kiện cho các vùng nghèo có cơ hội được phát triển. Tuy nhiên để tạo thế và lực trong phát triển, cần xây dựng một số vùng kinh tế trọng điểm (không nên dàn trải làm phân tán nguồn lực). Giữa các vùng vừa tận dụng lợi thế của mình, vừa tạo nên sự liên kết, thúc đẩy, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Chẳng hạn, trong năm 2003, thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có chính sách liên kết với các tỉnh Nghệ An, HảI Dương, Huế để Đầu tư xây dựng các nhà máy giày da, may mặc tại các tỉnh này đồng thời cũng chuyển một phần nguồn vốn đầu tư của Thành phố cho các địa phương này. Đây cũng là một mô hình tốt về việc liên kết giữa vùng trọng điểm với vùng chậm phát triển mà các địa phương và các vùng khác cần phải học tập. 2. Phát huy hiệu quả đầu tư trong việc giải quyết các vấn đề xá hội, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả Kinh Tế Xã Hội trong từng dự án đầu tư. 2.1. Nâng cao hiệu quả Xã hội trong từng dự án đầu tư. Trong các bất cập về tác động của đầu tư đến CBXH ở phần trên, chúng ta đã nhận thấy rằng hiệu quả xã hội trong đầu tư chưa được chú trọng đúng mức. Chính vì điều này nên khi các nhà máy, cơ sở vật chất khi xây dựng song nhưng không có tính giảI quyết việc làm cao, không có tính CBXH trong phân phối thu nhập. Do đó, chúng ta cũng cần phải nâng cao hiệu quả xã hội trong từng dự án đầu tư. Muốn vậy, trước hết, chúng ta phải nâng cao hiệu quả đầu tư chung bằng cách đầu tư cần phải theo quy hoạch, đầu tư trọng tâm trọng điểm, đồng thời đẩy mạnh công tác giám sát thanh tra chống thất thoát lãng phí. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả xã hội, chúng ta cần phải tăng cường chất lượng công tác lập dự án để việc tính toán hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế xã hội tổng hợp cũng rất quan trọng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải dưa ra các chỉ số cụ thể trong việc xác định các chỉ tiêu về hiệu quả xã hội. Có như vậy, việc kiểm tra và thẩm định tính hiệu quả xã hội của dự án mới mới dễ dàng được thực hiện. Cuối cùng, Nhà nước phải có biện pháp và chính sách cụ thể trong việc gắn trách nhiệm đối với các cấp có thêm quyền trong việc cấp giấy phép đầu tư nhưng không chú ý đến hết tác động của nó, đặc biệt là không quan tâm vai trò của dự án đến xã hội. Và chính các dự án không hiệu quả này sẽ có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội từ môI trường và các yếu tố xã hội khác như việc làm, thu nhập thêm bất bình đẳng, công nhân bị bóc lột dã man. 2.2. Phát huy vai trò của đầu tư trong việc tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người nghèo. Trước hết, Nhà nước có các chính sách đầu tư hỗ trợ các nhà đầu tư phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động; tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp lớn trong các ngành như xây dựng vận tải tăng cường tuyển dụng lao động phổ thông. Tuy nhiên, Nhà nước cũng nên đầu tư một cách trọng tâm trọng điểm hơn. Đối với những hoạt động đầu tư vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì nên khuyến khích tất cả các nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế tham gia. Từ đó, nguồn vốn từ NSNN sẽ ít bị chịu gánh nặng do phải chi nhiều khoản và tập trung đầu tư cho CBXH. Từ các hoạt động đầu tư cho CBXH, người nghèo sẽ có nhiều cơ hộ tìm kiếm việc làm nâng cao được thu nhập. 3. Giải pháp đầu tư cho các vấn đề phúc lợi xã hội một cách hiệu quả, hợp lý và bình đẳng hơn. 3.1. Giải pháp đầu tư cho giáo dục và tăng khả năng tiếp cận đến dịch vụ giáo dục một cách công bằng hơn. Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng bất bình đẳng trong giáo dục. Do chi phí trong giáo dục còn quá cao nên người nghèo không thể chi trả được và chỉ có thể được học tập trong môI trường chất lượng không cao. Do đó, họ sẽ ít có cơ hội nâng cao thu nhập của mình. Chỉ có những gia đình giàu có mới đủ điều kiện cho con cái mình học tại những trường chất lượng cao. Vì vậy, sẽ thật cần thiết nếu chúng ta đưa ra các biện pháp đầu tư giáo dục một cách hợp lý và công bằng. Bên cạnh đó, việc đầu tư giáo dục cho người nghèo còn được thể hiện qua việc tiếp tục đầu tư thích đáng cho hệ thống giáo dục của các xã nghèo, vùng nghèo bằng cách tăng cường cơ sở vật chất bao gồm xây mới và xây lại các phòng học tranh, tre, nứa, lá; cung cấp đầy đủ trang thiết bị giảng dạy và học tập cho các trường tiểu học và trung học cơ sở. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quan tâm xây dựng trường kiên cố, bán kiên cố cho các vùng thường xảy ra thiên tai; tiếp tục duy trì và mở rộng hệ thống trường nội trú cho vùng sâu, vùng cao, vùng xa, hình thành hệ thống trường nội trú xã, xây dựng để khuyến khích các hộ gia đình nghèo gửi con đi học. Nhà nước cũng cần tiếp tục thực hiện chính sách đổi mới chế độ học phí theo hướng tương xứng với chất lượng các dịch vụ giáo dục, phù hợp với khả năng người đi học đồng thời miễn giảm cho người nghèo. Tuy nhiên nguồn lực từ NSNN lại có hạn, ngân sách dành cho giáo dục lại càng eo hẹp hơn. Do vậy, khi phần lớn nguồn vốn đầu tư cho giáo dục từ NSNN là dành cho giáo dục cơ sở thì giáo dục trung học phổ thông, giáo dục đại học phải được huy động từ tư nhân. Do vậy chúng ta phải có chính sách khuyến khích mọi nguồn lực tham gia vào giáo dục đặc biệt là giáo dục bậc cao. Có như vậy sự kết hợp giữa đầu tư cho giáo dục của Nhà nước và của tư nhân ở giáo dục bậc cao mới thành công. Muốn vậy chúng ta cần phải khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục, đồng thời tạo cơ hội cho mọi người được học thường xuyên, và có ý thức học tập suốt đời. Phát triển các trường ngoài công lập, có cơ chế chính sách để họ được ưu tiên thuê đất, vay vốn tín dụng. Mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục, khuyến khích cá nhân và tập thể đầu tư cho giáo dục. Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), các tổ chức quốc tế và các nước khác cho giáo dục. 3.2. Tăng cường đầu tư y tế cho người nghèo. Nhà nước cần tiếp tục tăng cường đầu tư y tế cho người nghèo bằng cách xây dựng các trạm xá, trạm y tế tại các xã nghèo, tiếp tục đổi mới trang thiết bị y tế cho các xã này. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải tăng cường đội ngũ cán bộ y tế cho các xã nghèo đảm bảo mục tiêu đến năm 2010: 80% số xã trong toàn quốc có bác sỹ (trong đó miền núi: 60%); 100% thôn bản có nhân viên y tế sơ học trở lên. Có như vậy, người nghèo mới có cơ hội tiếp cận được các dịch vụ y tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải có các chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới đồng bào dân tộc ít người và người nghèo. Tiếp tục tiến hành giảm viện phí ở các bệnh viện công để chi phí cho y tế không phải là gánh nặng cho người nghèo. Cũng như đầu tư cho giáo dục, nguồn lực đầu tư cho y tế còn rất hạn hẹp trong khi Nhà nước lại cần tập trung đầu tư cho người nghèo. Để đáp ứng các mục tiêu trên, Nhà nước cũng nên xã hội hoá đầu tư cho y tế, khuyến khích toàn xã hội tham gia vào việc đầu tư cho y tế đồng thời tăng cường các nguồn vốn tài trợ từ quốc tế cho y tế. 4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về Đầu Tư trong việc thực hiện CBXH. 4.1. Nâng cao năng lực hiệu quả cán bộ quản lý về đầu tư. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định tham nhũng và quan liêu là một trong những nguy cơ hàng đầu của Nhà nước ta. Do đó, chúng ta phảI tăng cường cuộc đấu tranh chống lại tệ quan liêu tham nhũng trong đó cần phát huy toàn dân trong việc đấu tranh, phát hiện các tiêu cực của các cấp chính quyền. Bên cạnh đó, chúng ta phải có chính sách thưởng phạt nghiêm minh với cán bộ quản lý nhà nước, phải quy định rõ trách nhiệm của từng cán bộ . Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải tăng cường trình độ của cán bộ quản lý Nhà nước về đầu tư bằng cách có chế độ tuyển dụng hợp lý thu hút được nhiều người tài có trình độ cao nhưng đồng thời có tư cách đạo đức tốt. Có như vậy, đội ngũ cán bộ chúng ta mới có cái gốc trong sạch và vững vàng. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải có chính sách tiền lương hợp lý để tiền lương không phải là yếu tố thúc đẩy tham nhũng. Chúng ta cũng cần phải trang bị kiến thức quản lý cho cán bộ quản lý Nhà nước về đầu tư để các cán bộ này đều phảI hiểu rõ và làm được việc đầu tư đúng mục tiêu, đúng đói tượng, không thất thoát vốn, đem lai hiệu quả rõ ràng. Cán bộ trực tiếp quản lý và thực hiện các dự án đầu tư phảI được học tập, bồi dưỡng qua các lớp tập huấn tập trung về những vấn đề về lĩnh vực đầu tư. Cán bộ lãnh đạo các ngành các cấp, phải được trang bị một số kiến thức về đầu tư bằng hình thức giới thiệu truyền đạt trong các hội nghị, lớp học trong hệ thống trường chính trị. Tiếp tục củng cố mạng lưới và đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo tại các cấp, đặc biệt là các xã đặc biệt khó khăn. Nâng cao trình độ, bố trí cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo. 4.2. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý Nhà nước về đầu tư. Tiếp tục quá trình cải cách hành chính. Để đạt được mục đích này phải tạo nên một hệ thống hành chính với cơ chế, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ, công chức về cơ bản có phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cải cách hành chính được thực hiện trên 4 lĩnh vực là: cải cách thể chế; cải cách bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng tăng quyền chủ động và trách nhiệm cho cơ sở và chủ đầu tư. Tuy nhiên bên cạnh để cho các cơ sở được phát huy tính trách nhiệm của mình thì Nhà nước cũng cần phảI phân công trách nhiệm cho các Bộ, ngành liên quan và các cấp chính quyền địa phương để theo dõi thực hiện Chiến lược và các hoạt động của ngành, cơ sở, địa phương trong khuôn khổ Chiến lược. Nhà nước phải quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc tổ chức triển khai dự án, bảo đảm hiệu quả của công trình. Trong bộ máy Nhà nước đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, Nhà nước cần phải thống nhất bộ máy tổ chức thực hiện các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo từ TW đến địa phương, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng ở cùng một địa phương có quá nhiều cơ quan quản lýcác chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo. Trước mắt cần có quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý chương trình xoá đói giảm nghèo (như giữa Chương trình 133 và 135) nhằm thống nhất phối hợp đồng bộ và lồng ghép có hiệu quả hơn các chương trình, dự án ở từng địa bàn cụ thể. Ở cấp TW, cần hình thành một bộ máy thống nhất quản lý, chỉ đạo các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo trên toàn quốc với nhiệm vụ chính là điều phối, giám sát và đánh giá các chương trình. Ở các địa phương, cần tiếp tục kiện toàn các cấp chỉ đạo xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là cấp xã có đủ năng lực nhằm thống nhất quản lý và điều phối. KẾT LUẬN Mặc dù Nhà nước ta trong thời gian qua đã nỗ lực hết sức trong việc giải quyết bất bình đẳng xã hội, xoá đói giảm nghèo nhưng những kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm lực của Nhà nước đã bỏ ra. Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn khẳng định tầm quan trọng của Công bằng xã hội trên con đường phát triển của đất nước ta. Trong văn kiện Đại hội Đảng VII đã khẳng định “Phát triển kinh tế phải đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn cũng như trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải được thể hiện trong việc phân phối hợp lý phương tiện sản xuất và sản phẩm, cũng như trong việc tạo điều kiện để tất cả mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng khả năng của bản thân.” Chính vì vậy, tôi luôn tin rằng quyết tâm đó của Đảng và Nhà nước ta sẽ thực hiện được Thông qua đề tài, tôi cũng hy vọng đóng góp một phần kiến thức nhỏ bé của mình trên con đường phát triển của đất nước. Hà Nội, ngày 28 tháng 11năm 2005 Sinh viên Trương Thu Hương Đầu tư 44A TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX. 2. Giáo trình Kinh Tế Đầu tư – Bộ môn Kinh tế Đầu Tư - năm 2003. 3. Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế- năm 2002. 4. Giáo trình Kinh tế phát triển – năm 1998. 5. Vũ Thị Ngọc Phùng : ”Tăng trưởng kinh tế và Xoá đói giảm nghèo, thực hiện Công bằng xã hội”. 6. Trang web của Bộ Kế Hoạch Đầu tư. 7. Trang web của Tổng cục thống kê 8. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 2/04 – TS.Nguyễn Bạch Nguyệt 9. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 3/04 – TS.Nguyễn Bạch Nguyệt 10. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển số 5/04 – TS.Nguyễn Bạch Nguyệt 11.Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển năm 2001 – GS.TS Phạm Ngọc Kiểm. 12. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển năm 2001 – TS.Hoàng Văn Hoa. 13. Tạp chí Kinh Tế và Phát Triển năm 2000 – TS.Vũ Hoàng Ngân. 14. Nghiên cứu và Trao đổi số 23(12-2000) – Phạm Văn Hùng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docda138_572.doc