Tài liệu Đề tài Tìm một số giải pháp nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước: Bảng kê các chữ viết tắt
1. KKĐTTN = Khuyến khích đầu tư trong nước
2. TSCĐ = Tài sản cố định .
3. DA' = Dự án .
4. KCX = Khu chế xuất .
5. KCN = Khu công nghiệp .
6 . TƯ = Trung ương .
7. XHCN = Xã hội chủ nghĩa .
8. NĐ = Nghị định .
Lời nói đầu
Đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả đầu tư nói chung, đầu tư trong nước nói riêng, là một nội dung quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế theo hướng kinh tế thị trường ở nước ta. Ngay sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam, năm 1979, với Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (Khoá IV), Đảng ta đã khởi xướng những quan điểm đầu tiên về giải phóng tiềm năng trong nước, bước đầu gỡ bỏ những trì hãm của cơ chế cũ, tạo tiền đề cho nhân tố mới và cơ chế mới ra đời và phát triển. Tư tưởng chỉ đạo của các chính sách của Đảng và nhà nước ta từ đó đến nay, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII), đề cao việc khai thác và phát huy tốt những tiềm năng nội lực, coi đó như là một yếu tố cốt lõi ...
89 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm một số giải pháp nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bảng kê các chữ viết tắt
1. KKĐTTN = Khuyến khích đầu tư trong nước
2. TSCĐ = Tài sản cố định .
3. DA' = Dự án .
4. KCX = Khu chế xuất .
5. KCN = Khu công nghiệp .
6 . TƯ = Trung ương .
7. XHCN = Xã hội chủ nghĩa .
8. NĐ = Nghị định .
Lời nói đầu
Đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả đầu tư nói chung, đầu tư trong nước nói riêng, là một nội dung quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế theo hướng kinh tế thị trường ở nước ta. Ngay sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam, năm 1979, với Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (Khoá IV), Đảng ta đã khởi xướng những quan điểm đầu tiên về giải phóng tiềm năng trong nước, bước đầu gỡ bỏ những trì hãm của cơ chế cũ, tạo tiền đề cho nhân tố mới và cơ chế mới ra đời và phát triển. Tư tưởng chỉ đạo của các chính sách của Đảng và nhà nước ta từ đó đến nay, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII), đề cao việc khai thác và phát huy tốt những tiềm năng nội lực, coi đó như là một yếu tố cốt lõi bảo đảm cho sự phát triển đất nước diễn ra một cách bền vững lâu dài và đúng hướng.
Để thực hiện tư tưởng chính sách đó, chúng ta đã thực thi nhiều biện pháp, một mặt nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài; mặt khác khơi dậy các nguồn vốn, các nguồn nhân tài, vật lực trong nước, thu hút chúng vào các dòng đầu tư thông qua nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau.
Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp, đề tài: "Một số giải pháp nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước", hướng trọng tâm vào các nội dung sau:
Một; đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư trong nước trong thời gian qua, nhất là từ khi Quốc hội ban hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (có hiệu lực pháp lý từ 22 tháng 6 năm 1994).
Hai, chỉ rõ những kết quả bước đầu cũng như các vướng mắc cần tháo gỡ trong việc thi hành chính sách khuyến khích đầu tư trong nước.
Ba, kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Luận văn tốt nghiệp này sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư duy logic, thống kê, phân tích hoạt động kinh tế.
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm ba phần:
Phần I: Một số vấn đề chung về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước.
Phần II: Thực trạng hoạt động khuyến khích đầu tư trong nước những năm qua.
Phần III: Những giải pháp chủ yếu tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn đến GS. TS .Đỗ Hoàng Toàn, TS. Nguyễn Lê Trung , các thầy cô giáo trong Khoa và các cô chú trong Vụ doanh nghiệp - Bộ kế hoạch Đầu tư đã giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Vì thời gian có hạn và sự hiểu biết còn hạn chế nên luận văn tốt nghiệp của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Khoa học quản lý và các cô chú công tác ở Vụ doanh nghiệp để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác. Nếu sai phạm em xin chịu kỷ luật với nhà trường.
Hà Nội 01/06/2001
Sinh viên: Trần Công Khanh
Phần I
Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước
1. Đầu tư và các hình thức đầu tư
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động kinh doanh thì điều kiện không thể thiếu là phải có tiền. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh , dịch vụ mới hình thành, tiền được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị... nhằm tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu, mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động, tiền được dùng để mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng, tăng thêm vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm các tài sản cố định (TSCĐ) mới thay thế các TSCĐ đã bị hư hỏng, bị hao mòn hữu hình (do quá trình sử dụng và do các tác động của khí hậu, thời tiết) và hao mòn vô hình (do tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho nhiều TSCĐ nhanh chóng trở nên lạc hậu, không còn thích hợp với điều kiện mới, tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả).
Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động như trên gọi là tiền đầu tư. Và hành vi của các chủ thể trong việc bỏ tiền ra, tổ chức sử dụng chúng theo những chuẩn mực nhất định nhằm mưu cầu những lợi ích cụ thể được gọi là hoạt động đầu tư. Cũng có thể nói, hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt đời sống , các nguồn lực phục vụ cho hoạt động đầu tư đối với các trường hợp cá biệt có thể nhiều ít khác nhau, nhưng nhìn tổng thể, quy mô của các nguồn lực, trong đó có nguồn lực bằng tiền, là rất lớn. Do đó để đảm bảo cho các hoạt động đầu tư diễn ra bình thường thì không thể dùng nguồn tiền trích ra cùng một lúc từ các khoản chi tiêu thường xuyên của các chủ thể kinh doanh của xã hội, của Chính phủ vì điều này sẽ làm xáo động các hoạt động kinh tế bình thường và sinh hoạt xã hội. Nguồn tiền sử dụng cho các hoạt động đầu tư đòi hỏi phải được tích luỹ từ nhiều nguồn khác nhau và chỉ có thể là tiền tích luỹ của xã hội, của các chủ thể kinh doanh, của phần chi cho đầu tư phát triển thuộc ngân sách Chính phủ, là tiền tiết kiệm của dân và tiền huy động từ nước ngoài.
Quá trình sử dụng tiền đầu tư, xét về mặt bản chất, là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của quá trình tái sản xuất. Đó cũng chính là quá trình hoạt động đầu tư hay quá trình đầu tư vốn.
Đầu tư trong nước, theo cách diễn đạt của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 là việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam của các tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam (Điều 2 - Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994). Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1998/QH10 cũng có quan niệm về đầu tư trong nước tương tự.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, diễn đạt như sau: "là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này". Đối tượng của luật đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đối tượng của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước gồm: tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài (hay còn gọi là thường trú) tại Việt Nam. Các đối tượng tham gia hoạt động đầu tư có yếu tố nước ngoài thì có thể lựa chọn một trong hai Luật.
Tuỳ theo góc độ đề cập, hoạt động đầu tư trong nước có thể được phân theo các tiêu thức sau:
- Theo tính chất của các đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư gồm:
+ Đầu tư cho đối tượng vật chất: nhà xưởng, máy móc thiết bị, công trình hạ tầng... là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế.
+ Đầu tư cho đối tượng tài chính: mua cổ phần, cổ phiếu... là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư vào các đối tượng vật chất.
+ Đầu tư cho đối tượng phi vật chất: tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực,. .. là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao.
- Theo cơ cấu tái sản xuất: hoạt động đầu tư gồm:
+ Đầu tư theo chiều rộng: là quá trình tăng quy mô đầu tư của các chủ thể kinh doanh. Quá trình được xem xét ở hai góc độ: trên phạm vi nền kinh tế, đó là việc thành lập doanh nghiệp mới; ở góc độ doanh nghiệp, đó là việc triển khai dự án đầu tư mới hoặc mở rộng quy mô của các dự án hiện có. Xét trên tổng thể, cách thứ nhất đòi hỏi vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư dài, vốn khê đọng lâu, thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn phải lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp và độ thoả hiệp cao.
+ Đầu tư theo chiều sâu: là hoạt động làm tăng nguồn lực đầu tư gắn với việc làm tăng khả năng sinh lợi của các dự án đầu tư, của các doanh nghiệp. So với cách thứ nhất, cách thức này thường thu hút khối lượng vốn đầu tư ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư nhanh hơn, độ mạo hiểm thấp và khả năng thu hồi vốn nhanh chóng.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: hoạt động đầu tư có thể phân thành:
+ Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không nhất thiết tham gia trực tiếp điều hành, quản lý quá trình thực hiện và vận hành các yếu tố đầu tư. Một loại chủ thể thực hiện hình thức này có thể là các Chính phủ, thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp của mình, cung ứng tiền hoặc nguồn lực khác cho Chính phủ của các nước khác để các nước đó phát triển kinh tế xã hội, điều chỉnh cơ cấu. Một loại chủ thể khác, giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có khi là then chốt, là các cá nhân, tổ chức mua các loại chứng chỉ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu để hưởng lợi tức (còn gọi là đầu tư tài chính).
+ Đầu tư trực tiếp: ở đây người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý hoặc điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được phân thành: đầu tư chuyển dịch và đầu tư phát triển.
++ Đầu tư chuyển dịch là loại đầu tư trong đó, người có tiền mua lại một số cổ phiếu đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp.
++ Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới (cả về chất và lượng). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tạo việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch.
- Căn cứ vào thời gian thực hiện và thời gian phát huy tác dụng, hoạt động đầu tư có thể phân chia thành:
+ Đầu tư thương mại: là hoạt động đầu tư là thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư ngắn hạn, vốn vận động nhanh, mức độ mạo hiểm thấp do trong một thời gian ngắn, tính bất động không cao, lại dễ dự đoán và độ chính xác của dự đoán khá cao.
+ Đầu tư sản xuất: Là loại đầu tư dài hạn, vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính chất kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không dự đoán trước được hoặc chất lượng dự đoán khó chính xác (về nhu cầu, giá cả đầu vào, cơ chế, chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định về chính trị...). Loại đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa, xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi suất khi hoạt động đầu tư kết thúc, khi các kết quả đầu tư đã hoạt động đến hết vòng đời của mình.
- Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: các hoạt động đầu tư được phân thành:
+ Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định
+ Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp.
Trong hai loại đầu tư đó thì đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành. Đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì các kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại, không có đầu tư cơ bản thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì. Đầu tư cơ bản có đặc điểm kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi vốn lớn, thời hạn thu hồi dài. Còn đầu tư vận hành chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư không đến nỗi phức tạp so với đầu tư cơ bản và thời gian thu hồi vốn tương đối nhanh.
Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ở mức cần thiết, Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư khá lớn (thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996-2000 vào khoảng từ 40-42 tỷ USD), trong đó hơn một nửa là đầu tư trong nước. Nguồn vốn bên ngoài là không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khi nhu cầu đầu tư rất lớn mà nguồn tích luỹ nội địa chưa đủ đáp ứng. Trước năm 1987, trong tổng vốn huy động cho đầu tư, nguồn vốn huy động từ ngân sách Nhà nước chiếm vị trí chủ yếu. Từ 1988 đến nay, với chính sách mở cửa, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nền kinh tế nước ta đang từng bước hoà nhập với khu vực và trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta mở rộng dần diện huy động vốn trong nước, đồng thời thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Cho đến nay, nguồn vốn cho đầu tư ở nước ta khá phong phú hơn trước và chủ yếu được huy động từ các nguồn chính:
* Vốn huy động trong nước:
- Vốn ngân sách tập trung: đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các hoạt động đầu tư trong nước. Nguồn này hiện nay chủ yếu được tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đầu tư phát triển một số công trình công nghiệp then chốt, bảo đảm giữ các cao điểm trong nền kinh tế quốc dân, các công trình liên quan đến An ninh - Quốc phòng.
- Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước: nguồn vốn này luôn có vai trò quan trọng rất lớn và có tác dụng trực tiếp nhất đối với tốc độ tăng trưởng hàng năm tổng sản phẩm trong nước. Đây chính là nguồn vốn mà các chính sách kinh tế vĩ mô xem là một đối tượng hàng đầu tác động vào nền kinh tế, có vai trò rất lớn trực tiếp tác động tới tốc độ tăng trưởng bình quân trong các năm sắp tới.
- Vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: nguồn này chủ yếu dùng vào các định hướng đầu tư phát triển chiều sâu, đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng quy mô doanh nghiệp hiện đang hoạt động cũng như mở rộng thêm doanh nghiệp mới do thị trường trong và ngoài nước mở rộng thêm và do xuất hiện nhu cầu mới hoặc do yêu cầu phân tán rủi ro, tăng thêm khả năng cạnh tranh.
- Vốn tiết kiệm trong dân cư: có thể nói đây là nguồn vốn khá lớn, có khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư trong tương lai nhưng chưa được tổ chức khai thác huy động tốt. Nhiều kết quả tính toán cho thấy, nếu khoảng 40-45% số vốn trong dân cư đầu tư vào sản xuất và dịch vụ thì cũng là một yếu tố đáng kể làm lên tốc độ phát triển GDP hàng năm đáng kể của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vu. Nếu chúng ta có chính sách huy động thoả đáng số vốn tiết kiệm trong dân thì sẽ có khả năng tăng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng số các nguồn đầu tư trong nước. Nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư có thể coi là nền tảng của các hoạt động đầu tư xét về lâu dài, là cơ sở của việc hình thành ba tầng hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế nước ta: tầng hoạt động kinh doanh không phải đăng ký kinh doanh; tầng hộ kinh doanh cá thể; tầng kinh doanh của các doanh nghiệp.
* Vốn huy động từ nước ngoài:
- Vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA): đây là nguồn vốn do các nước và các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi (lãi suất, thời hạn vay...). Nguồn vốn này được tập trung vào ngân sách và có thể sử dụng trực tiếp để Nhà nước đầu tư hoặc cho vay lại (nhưng phải bảo đảm nguyên tắc hoàn trả).
- Vốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Nguồn vốn này chủ yếu dùng vào mục đích nhân đạo, nhưng cần có cơ chế thu hút thích hợp và sử dụng, có hiệu quả hơn, đặc biệt trong việc cải thiện và phát triển các vấn đề xã hội.
- Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của tư nhân nước ngoài: đây là nguồn vốn khá lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ và tìm thị trường tiêu thụ hàng hoá ổn định trong điều kiện Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh trên trường quốc tế. Mặt khác vốn FDI gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của bên nước ngoài đỡ được gánh nặng nợ nần của Chính phủ.
- Vốn của Kiều dân Việt Nam làm ăn, sinh sống ở nước ngoài: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài nói chung không có nhiều vốn như Kiều dân của một số nước khác như Trung Quốc, ... nhưng không phải là không có. Do đó một mặt phải xây dựng được chính sách thích hợp để thu hút đầu tư của họ; mặt khác cần phát huy tiềm năng của Việt kiều làm cầu nối để thu hút vốn của các quốc gia nơi họ sinh sống đầu tư vào Việt Nam.
Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, nếu không huy động tốt và đủ các nguồn vốn đầu tư trong nước thì rất khó có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn đầu tư lớn từ bên ngoài nhằm phục vụ định hướng phát triển đất nước. Chính vì vậy trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, chiến lược lâu dài của nước ta là tăng nhanh tiết kiệm nội địa, huy động tối đa nguồn vốn trong nước, nâng dần tỷ trọng vốn trong nước trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
2 - Khuyến khích đầu tư trong nước
2.1. Nhận thức
Khuyến khích đầu tư trong nước là việc sử dụng các cơ chế, chính sách, biện pháp, nhằm kích thích quá trình đầu tư các nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn trên cơ sở chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ của đất nước.
Để khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước, Nhà nước phải xây dựng, hoàn thiện một hệ thống các công cụ pháp lý và các biện pháp kinh tế, xã hội nhằm bảo hộ, bảo đảm đối xử bình đẳng với tất cả các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, quy định thủ tục hành chính, đơn giản tiện lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội trên lãnh thổ theo những khung pháp lý cụ thể và theo các lĩnh vực, kế hoạch xác định cụ thể.
Mục đích sự khuyến khích của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư là tạo cơ hội cho các chủ thể tham gia đầu tư có thể huy động và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn vốn, tài nguyên, lao động... tạo thêm việc làm cho xã hội, nhằm thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đồng thời bảo hộ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, của người góp vốn đầu tư, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động đầu tư, cải thiện ngày một tốt hơn môi trường kinh doanh, định hướng và tụ hội các ý đồ đầu tư của các chủ thể tập trung vào các ngành, vùng, lĩnh vực cần khuyến khích phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng theo hướng tiến bộ. Tuy các ý đồ cụ thể có khác nhau, song trên bình diện chung hầu hết các quốc gia đều hướng tới các mục đích đó.
Để tạo khung pháp lý khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước trong điều kiện thực thi nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý và định hướng của Nhà nước, ngày 22/6/1994 Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN). Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995. Để hướng dẫn thực hiện Luật này, ngày 12 tháng 5 năm 1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/CP quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN. Đây là những văn bản pháp luật đầu tiên ở cấp Luật và cấp Nghị định nhằm điều chỉnh các quan hệ chủ yếu về KKĐTTN ở nước ta. Tuy mới được triển khai thực hiện từ 1/1/1995, Luật KKĐTTN đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nước đem lại những luận điểm, kết quả đáng mừng, góp phần thúc đẩy đáng kể hoạt động đầu tư trong nước.
Muốn khuyến khích một hoạt động nào đó, trước hết phải hình thành được ý tưởng khuyến khích. Khâu tiếp theo là phải thiết kế được cơ chế vận hành cụ thể rồi tiến hành pháp lý hoá chung. Nói đến chính sách khuyến khích là nói trên tổng thể, trên những nét khái quát nhất thuộc lĩnh vực ý tưởng khuyến khích. ý tưởng đó có vào được cuộc sống hay không và mức độ chấp nhận, thái độ của đông đảo quần chúng trong việc đón nhận ý tưởng đó như thế nào phần nhiều phụ thuộc vào khâu thiết kế cơ chế vận hành và tính chính xác, tính khách quan của khâu pháp lý hoá. Trong việc khuyến khích đầu tư trong nước cũng vậy, muốn đạt được mục tiêu phát triển nào đó, trong những điều kiện lịch sử cụ thể thái độ khuyến khích cần được xác định rõ ràng. Đây cũng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo yêu cầu về tính nhất quán của chính sách. Khâu tiếp đến hết sức cơ bản là việc thiết kế cơ chế vận hành của chính sách. Công việc này thường do các nhà chuyên môn kịp ra chính sách thực hiện dưới sự chỉ đạo của các nhà chính trị. Khâu này phải bảo đảm thoả mãn 3 yêu cầu cùng một lúc: thể hiện được thái độ chính trị của nhà nước trong việc khuyến khích, quy phạm hoá các quan hệ khuyến khích cần điều chỉnh bằng luật pháp và cuối cùng là bảo đảm khả năng chấp nhận của quần chúng số đông (khía cạnh tâm lý xã hội).
Thông thường khi ý tưởng chính sách khuyến khích phù hợp với lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân thì có thể khâu thể chế hoá chưa thực sự tốt thì khả năng đi vào cuộc sống của chính sách vẫn có thể bảo đảm. Đó là trường hợp đã từng diễn ra trong đổi mới nông nghiệp Việt Nam thời kỳ "Khoán 100", và "Khoán 10", chỉ cần Đảng có chỉ thị cho phép, chưa đợi đến sự pháp lý hoá đầy đủ của nhà nước thì khoán nông nghiệp đã diễn ra trên diện rộng, như một trào lưu xã hội - kinh tế không thể đảo ngược. Tất nhiên, khi các quan hệ lợi ích ngày càng phức tạp thêm, đa dạng hơn, muốn tư tưởng khuyến khích ngày càng tiếp tục đi vào cuộc sống mà không bị khúc xạ, thì tất yếu phải làm tốt khâu thể chế hoá. Và nói chung trong xã hội công nhân, Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường thì không thể làm thiếu, làm yếu khâu thể chế hoá. Sự thiếu nhạy cảm với những vấn đề có tính nguyên tắc như vậy trong quy trình quản lý nói chung, quản lý bằng pháp luật nói riêng đều làm hạn chế tác dụng tích cực của chính sách khuyến khích. Hơn nữa trong trường hợp do chỗ những đối tượng mà Nhà nước cần khuyến khích trong từng thời kỳ không phải bao giờ cũng trùng hợp với nguyện vọng của mọi người dân (sự lệch pha nhất định giữa lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội và lợi ích của cá nhân công dân) nên nếu không có sự thể chế tốt, sát hợp thì khó có thể sử lý hài hoà các xung đột về lợi ích có thể có khi thực hiện chính sách khuyến khích, chính sách ưu đãi của Nhà nước.
2.2. Một số nội dung hỗ trợ và ưu đãi chủ yếu của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994
Xét về mặt thời hiệu pháp lý, quá trình thực hiện các quy định pháp lý về khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam bao gồm hai giai đoạn chủ yếu: Một là từ 22/6/1994, ngày Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua Luật KKĐTTN cho đến ngày 01/01/1999 ngày có hiệu lực của Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/QH10; Hai là từ ngày 01/01/1999 đến nay. Trong thời kỳ thứ nhất cũng có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ: giai đoạn thực hiện Nghị định số 29/CP ngày 12/5/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN cho đến ngày 30/01/1998 ngày mà Nghị định số 07/1998/NĐ-CP thay thế Nghị định số 29/CP chính phủ; giai đoạn từ Nghị định 07 có hiệu lực đến ngày 01/01/1999 tức là ngày Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/QH10 có hiệu lực - thực hiện Nghị định số 51/1999/NĐ-CP- cho đến nay. Xét về mặt kỹ thuật của vấn đề pháp lý có thể có một số điểm không giống nhau quy định tại các văn bản quy phạm, song xét về tư tưởng chính sách thì những nội dung về khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi không cách nhau quá xa. Nhiều nội dung quy định tại Luật KKĐTTN năm 1994 đã được các văn bản quy phạm pháp luật sau đó hoàn thiện và bổ sung dần. Dưới đây là một số nội dung về hỗ trợ và ưu đãi mà Luật KKĐTTN đề cập.
Mục đích của Luật KKĐTTN được xác định rõ ràng ở căn cứ ban hành Luật. Đó là, để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên lao động và các tiềm năng khác của đất nước nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cả Luật 1994 và Luật 1998 đều quy định như vậy. Đồng thời cả hai Luật đều khẳng định sự bảo hộ, sự khuyến khích của Nhà nước đối với mọi tổ chức, công dân đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên Luật 1998 còn nói rõ và khẳng định một sự "đối xử bình đẳng", "sự tạo điều kiện thuận lợi" của Nhà nước đối với các chủ thể tham gia đầu tư.
2.2.1. Luật quy định ba loại hình đầu tư được áp dụng theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước bao gồm:
a - Dự án đầu tư thành lập và phát triển cơ sở sản xuất kinh doanh mới thuộc mọi thành phần kinh tế.
b - Đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh , nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ của các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có.
c - Mua cổ phần của các doanh nghiệp, góp phần vốn vào các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước được phép đa dạng hoá hình thức sở hữu.
2.2.2.Đối tượng khuyến khích đầu tư trong nước
Trên cơ sở đó, Nghị định 29/3 CP, Nghị định số 07/1998/NĐ-CP cụ thể hoá các đối tượng khuyến khích đầu tư của Luật KKĐTTN gồm:
a - Các doanh nghiệp được thành lập theo Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp và cá nhân, nhóm kinh doanh hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2 tháng 3 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
b - Tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam mua cổ phần hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp trong nước kể cả các doanh nghiệp Nhà nước được đa dạng hoá sở hữu hoặc các quỹ đầu tư tự chủ tài chính.
c - Doanh nghiệp do người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư trực tiếp tại Việt Nam.
d - Doanh nghiệp do người nước ngoài cư trú lâu dài tài Việt Nam đầu tư trực tiếp tại Việt Nam.
e - Doanh nghiệp do công dân Việt Nam cùng thành lập với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, với người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt Nam.
2.2.3 - Các biện pháp hỗ trợ đầu tư: gồm 7 biện pháp:
a - Giao đất hoặc cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
b - Xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp (KCN) để cho thuê làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh.
c - Lập và khuyến khích các quỹ hỗ trợ đầu tư để cho vay đầu tư trung hạn và dài hạn. Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của các quỹ hỗ trợ đầu tư.
d - Góp vốn thông qua các quỹ hỗ trợ đầu tư, Ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính, vào các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế trên cơ sở cùng có lợi.
e - Quy định việc bảo lãnh tín dụng đầu tư của các Ngân hàng, Tổ chức tín dụng và Công ty tài chính.
g - Phổ biến và chuyển giao công nghệ; tạo điều kiện cho các chủ đầu tư được sử dụng với mức phí ưu đãi các công nghệ mới, tạo ra từ vốn ngân sách Nhà nước.
h - Hỗ trợ việc tổ chức thực hiện các chương trình, dịch vụ khuyến khích đầu tư gồm: Tư vấn quản lý kinh doanh, tư vấn pháp lý, tổ chức dạy nghề và đào tạo cán bộ kỹ thuật, đào tạo và nâng cao kiến thức quản lý cung cấp thông tin kinh tế.
2.2.4 - Các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi:
Luật KKĐTTN dành một chương quy định về các nội dung ưu đãi đầu tư bắt đầu bằng việc xác định rõ các loại dự án được hưởng ưu đãi. Luật KKĐTTN còn quy định các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi như:
2.2.4.1 - Các dự án đầu tư Đầu tư vào các lĩnh vực:
a) Trồng rừng, trồng cây trên đất chưa sử dụng, tận dụng, khai thác đất trống, đồi núi trọc vào mục đích kinh doanh; nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nước chưa được khai thác, đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ, chăn nuôi đại gia súc tập trung.
b) Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phát triển vận tải công cộng đô thị; phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá dân tộc; nghiên cứu khoa học, công nghệ.
c) Chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản, các dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
d) Sản xuất hàng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu.
e) Các ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển (trong thời kỳ 1995-2000), ngoài các ngành nghề đã nêu ở trên.
g) Đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao.
2.2.4.2 - Các dự án đầu tư ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo,quy định tại danh mục B (danh mục B ban hành kèm theo các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ).
2.2.4.3 - Đầu tư vào các vùng khó khăn theo quy định tại danh mục C.
2.2.4.4 - Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng công nghệ hiện đại, ít nhất có một trong các tiêu chuẩn quy định dưới đây:
a) Công nghệ tạo ra sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu.
b) Công nghệ áp dụng có khả năng tạo ra sự đổi mới công nghệ, thiết bị của các ngành khác.
c) Công nghệ sử dụng nguyên vật liệu trong nước để làm ra sản phẩm đạt các chỉ tiêu chất lượng cao hơn so với các sản phẩm đã có cùng loại.
d) Công nghệ sạch, công nghệ sử dụng các chất phế thải rắn, lỏng, khí.
2.2.4.5 - Đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh sử dụng số lao động bình quân trong năm ít nhất là:
a) ở đô thị loại 1 và loại 2: 100 người.
b) ở các vùng, huyện thuộc vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác (được quy định tại danh mục B và C Nghị định 07/1998/ND-CP): 20 người.
c) Các vùng khác: 50 người.
2.2.5 - Các nội dung ưu đãi chủ yếu theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước:
Từ 2 và 1 xác định các loại dự án được hưởng ưu đãi, Luật KKĐTTN và các văn bản Nghị định của Chính phủ quy định và cụ thể hoá các nội dung ưu đãi chủ yếu theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, đó là:
2.2.5.1 - Ưu đãi về thuế:
Luật KKĐTTN quy định việc miễn, giảm đối với các loại thuế như: thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế tài nguyên (Nghị định số 07 quy định thêm trên cơ sở quy định của Luật thuế tài nguyên), thuế thu nhập cá nhân, kể cả thuế thu nhập bổ sung đối với người có thu nhập cao, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, và thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị.
2.2.5.2 - Ưu đãi về đất đai:
Một số dự án được Nhà nước giao đất thì không phải trả tiền sử dụng đất, còn những dự án phải thuê đất thì có các chế độ miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
2.2.5.3 - Ưu đãi về vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia, bảo lãnh tín dụng và vay tín dụng xuất khẩu.
Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia thực hiện chức năng hỗ trợ thông qua việc cho vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các dự án đầu tư thuộc danh mục B và danh mục C. Chủ đầu tư có thể dùng tài sản mua bằng vốn vay để thế chấp cho các dự án đầu tư thuộc danh mục A, danh mục B và danh mục C được bảo lãnh tín dụng đầu tư.
Luật cũng quy định cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia nhiệm vụ trợ cấp một phần lãi suất cho các khoản vay từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển và các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh đối với các dự án đầu tư vào các ngành nghề thuộc danh mục A.
2.2.5.4 - Ưu đãi đối với riêng những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được xác định thêm các ưu đãi:
Những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất; tuỳ lĩnh vực hoạt động có thể được giảm mức vốn lưu động và được bảo lãnh cho vay hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu.
Như vậy những nội dung hỗ trợ và ưu đãi đầu tư quy định tại Luật KKĐTTN và các văn bản dưới Luật hướng dẫn thi hành là khá phong phú. Vấn đề còn lại là việc tổ chức triển khai những nội dung trong thực tế như thế nào để mọi chủ đầu tư có dự án thuộc diện khuyến khích, hỗ trợ có thể nhận được sự ưu đãi một cách nhanh nhất, đúng đắn nhất theo quy định và tinh thần khuyến khích của Luật.
3 - Kinh nghiệm một số nước về khuyến khích đầu tư trong nước
Chính sách đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua đã bước đầu khơi dậy được những tiềm năng, động lực to lớn trong nhân dân, phát huy nghị lực, kinh nghiệm, trí sáng tạo của người dân để kinh doanh thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách đó đã được sự ủng hộ và đồng tình của đông đảo quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, kết quả quan trọng đó vẫn còn nhiều mặt hạn chế, còn thấp xa so với tiềm năng có thể và cần khai thác, cũng như chưa tương xứng với yêu cầu của công cuộc phát triển. Đất nước ta đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng đòi hỏi sự phát triển phải có tính ổn định vững chắc hơn và nhịp độ tăng trưởng phải duy trì được ở mức cần thiết. Điều đó đòi hỏi bên cạnh việc tìm mọi biện pháp thu hút tốt hơn các nguồn vốn từ bên ngoài phải hết sức coi trọng việc khơi thông các nguồn vốn đầu tư trong nước bảo đảm cho các nguồn vốn này ngày càng có vị trí quan trọng trong hoạt động đầu tư, thể hiện rõ dần vai trò quyết định trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kinh nghiệm thành công của nhiều nước trên Thế giới cho thấy, không một nước nào đã phát triển kinh tế thành công mà chỉ duy nhất dựa vào nguồn vốn từ nước ngoài. Nếu như trong giai đoạn đầu, khi đất nước còn nghèo và chưa phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài có thể cao, song trong toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với quá trình phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài thường thấp hơn so với tỷ lệ vốn trong nước và theo thời gian, các nguồn vốn trong nước ngày càng chiếm vị trí quyết định. Đó là thực tế và là yêu cầu khách quan của sự phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm được sự độc lập của nền kinh tế trong quá trình phát triển và hội nhập. Đó cũng còn là điều kiện khách quan cho sự độc lập về thể chế chính trị của một đất nước.
Xuất phát từ luận điểm trên và đáp ứng ý nguyện của nhân dân trong nước và Việt kiều ở nước ngoài, nhất là của giới kinh doanh, Nhà nước Việt Nam đã và đang cho xúc tiến mạnh mẽ quá trình chuẩn bị khung pháp lý cần thiết để tạo môi trường thu hút mọi nguồn vốn tiềm tàng trong dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhằm phục vụ mục tiêu đó, bên cạnh việc điều tra nghiên cứu hiện trạng trong nước, việc nghiên cứu những kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là kinh nghiệm về xây dựng pháp luật về khuyến khích đầu tư của các nước là hết sức quan trọng và cần thiết.
Đầu tư là một trong những yêu cầu quan trọng và cần thiết nhất của tăng trưởng và phát triển kinh tế nên chính phủ của nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển luôn quan tâm đến việc huy động vốn và chuyển nguồn vốn huy động được vào đầu tư phát triển. Những công cụ hay biện pháp huy động vốn vào đầu tư mà các nước thường sử dụng là ban hành và thực thi Luật về thúc đẩy hay khuyến khích đầu tư. Nhìn chung các đạo luật này đều nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động đầu tư trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, đồng thời nó cũng hướng đầu tư vào một số lĩnh vực ưu tiên phát triển nhất định của đất nước.
Cho đến nay, có thể nói, hầu hết các nước Châu á đã ban hành các đạo luật thúc đẩy đầu tư. Chẳng hạn như:
3.1 - Luật thúc đẩy đầu tư của Malaysia: ra đời năm 1986 quy định: chế độ khuyến khích và ưu đãi đầu tư cho từng lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, du lịch. Ngoài ra, trong ưu đãi đối với từng ngành, có các biện pháp ưu đãi khuyến khích đầu tư chung và ưu đãi đầu tư theo mục tiêu.
Ví dụ: Đối với ngành công nghiệp, các biện pháp ưu đãi đầu tư chung bao gồm: miễn thuế lợi tức tối đa 10 năm cho các dự án thuộc lại ưu tiên; được hưởng chế độ trợ cấp đến 100% số vốn đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu, kể từ khi thông qua dự án, trợ cấp cho tái đầu tư với mức tối đa là 40% số vốn tái đầu tư.
Ngoài ra Malaysia còn có biện pháp khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu (như cấp tín dụng xuất khẩu và lãi suất ưu đãi, khấu trừ ra khỏi thuế lợi tức một khoản bằng 5% giá trị nguyên liệu trong nước được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, tính gấp đôi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu...) .
Quy định các biện pháp khuyến khích đầu tư nghiên cứu và phát triển như khấu trừ mọi chi phí liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học do công ty thực hiện hoặc được thực hiện nhân danh công ty, nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động đầu tư kinh doanh của công ty ra khỏi lợi tức chịu thuế. Các biện pháp khuyến khích cho đào tạo gồm: trợ cấp xây dựng nhà xưởng phục vụ cho công tác đào tạo, tính gấp đôi chi phí đào tạo công nhân ở các Viện đào tạo được Nhà nước công nhận.
Đối với ngành Nông nghiệp, các biện pháp ưu đãi chung bao gồm: miễn thuế lợi tức tối đa 10 năm cho các công ty chế biến sản phẩm nông nghiệp hoặc đủ các điều kiện do Bộ Thương mại và Công nghiệp quy định, được trợ cấp cho đến 100% chi tiêu đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu.
Ngoài ra lĩnh vực này cũng có các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích nghiên cứu và phát triển và khuyến khích đào tạo giống như công nghiệp.
Đối với ngành du lịch các biện pháp ưu đãi chung giống như ngành công nghiệp, đồng thời những người thực hiện du lịch lữ hành hàng năm đưa vào Malaysia ít nhất 500 khách du lịch thì được miễn thuế thu nhập đối với phần thu nhập thu được từ kinh doanh du lịch theo hình thức này.
Ngoài chế độ ưu đãi riêng cho từng ngành như trên, đạo luật thúc đẩy đầu tư của Malaysia còn quy định một số biện pháp khuyến khích đầu tư chung cho tất cả các ngành như: miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị nhập khẩu phục vụ cho các dự án đầu tư, các nguyên liệu, vật liệu để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, hoàn thuế doanh thu đối với nguyên liệu, vật tư sản xuất trong nước được sử dụng sản xuất hàng xuất khẩu hoặc đóng gói hàng xuất khẩu.
3.2 - Luật thúc đẩy đầu tư của Thailand
Năm 1977, Luật thúc đẩy đầu tư của Thailand được ban hành và nó được sửa đổi vào năm 1992. Luật này có điểm khác so với Luật của các nước khác là nó áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Luật này quy định các tiêu chuẩn chủ yếu để được cấp ưu đãi đầu tư như số vốn, loại sản phẩm dịch vụ, mức độ sử dụng nguyên liệu trong nước, mức độ sử dụng công nhân và chuyên gia trong nước, bảo vệ môi trường... Các biện pháp ưu đãi chủ yếu như miễn thuế lợi tức tối đa 8 năm, chế độ miễn giảm thuế nhập khẩu, miễn thuế thu nhập cổ phần...
Ngoài ra, còn có các ưu đãi đặc biệt thêm cho các dự án đầu tư vào các vùng ưu tiên đầu tư và các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu.
3.3 - Hai đạo luật đầu tư riêng rẽ của Indonesia
Đó là Luật đầu tư nước ngoài (1967) và Luật đầu tư trong nước (1968). Đây là các đạo luật điều chỉnh các quan hệ chủ yếu về đầu tư của Indonesia. Các biện pháp ưu đãi chủ yếu quy định trong Luật về đầu tư trong nước của Indonesia bao gồm:
- Miễn thuế tài sản đối với vốn đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên.
- Vốn đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu không bị điều tra về nguồn gốc, không phải là đối tượng đánh thuế.
- Thời hạn miễn thuế lợi tức tối đa cho một dự án là 6 năm và tối thiểu là 2 năm.
- Miễn phí thuế thu nhập đối với lợi tức cổ phần trong thời hạn tương ứng.
- Hoàn thuế lợi tức đối với lợi nhuận tái đầu tư.
- Miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với tư liệu nhập khẩu.
3.4 - Chính sách khuyến khích đầu tư ở Đài Loan
Các chính sách khuyến khích đầu tư ở Đài Loan được thực hiện chủ yếu bằng các biện pháp khuyến khích về thuế và được quy định trong "quy chế khuyến khích đầu tư" ban hành năm 1960
Bên cạnh đó ở Hàn Quốc giải pháp chủ yếu để khuyến khích đầu tư trong nước là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để thực hiện sách lược này, Nhà nước đã ban hành 9 đạo luật có liên quan, trong đó quan trọng nhất là "Đạo luật thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ".
Từ việc nghiên cứu các Luật, các quy định pháp lý về khuyến khích đầu tư của một số nước Châu á có thể thấy tuỳ theo đặc điểm kinh tế, địa lý, chính trị, xã hội, dân tộc, tôn giáo... của từng nước mà chính sách khuyến khích đầu tư sử dụng ở mỗi nước mang những sắc thái và đặc thù riêng của mình, nhưng về bản chất kinh tế, chúng có nhiều nét chung có thể rút ra để tham khảo. Những điểm chung đó là:
Thứ nhất: tất cả các nước đều rất coi trọng nguồn vốn trong nước, coi việc định hướng ưu tiên khuyến khích đầu tư phát triển một số lĩnh vực kinh tế chủ yếu, một số vùng trọng điểm, trong từng thời kỳ là yếu tố đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.
Hai là: Nhận thức rõ ràng muốn thu hút được vốn đầu tư từ nguồn tiết kiệm trong dân, thì Nhà nước phải có trách nhiệm tạo lập được môi trường đầu tư thuận lợi. Môi trường đó bao gồm: sự bảo hộ về pháp lý, bảo đảm an toàn cho đầu tư, sự rõ ràng, ổn định và nhất quán về luật pháp, sự bảo đảm về điều kiện hạ tầng cơ bản cho đầu tư (đường sá, cầu cống, bến cảng, điện nước, giáo dục, đào tạo, phát triển và dịch vụ ngân hàng tài chính...) sự hỗ trợ nhiều mặt của Chính phủ.
Ba là: Các biện pháp "xúc tác “ rất đa dạng và phong phú để thu hút đầu tư. Các biện pháp đó có thể quy tụ về hai nhóm chính: Chính sách thuế và chính sách không phải thuế.
Người ta đã liệt kê được gần 30 biện pháp khuyến khích thuế khoá mà các nước châu á đã sử dụng (xem thêm biểu 1) trong đó có 11 biện pháp được 5 nước Asean áp dụng. Đó là:
1. Miễn thuế lợi tức .
2. Miễn thuế cổ tức
3. Trợ cấp đầu tư .
4. Chuyển lỗ.
5. Khấu hao nhanh.
6. Miễn thuế nhập khẩu.
7. Trợ cấp tái đầu tư.
8. Dự án ưu tiên.
9. Sử dụng lao động.
10. Mở rộng kinh doanh.
11. Khuyến khích xuất khẩu..
Các biện pháp "không thuế khoá" tuy không đa dạng bằng các khuyến khích thông qua thuế, và giữ vị trí ưu tiên khác nhau tại mỗi nước, nhưng nhìn chung cũng rất được coi trọng. Trọng tâm của nhóm giải pháp này là tạo "mặt bằng" pháp lý, "mặt bằng “ đầu tư thuận lợi thông qua việc ban hành và củng cố các văn bản pháp luật kinh doanh, giảm thiểu các thủ tục hành chính, xây dựng kết cấu hạ tầng, củng cố hệ thống Ngân hàng, Tài chính, Kế toán, hỗ trợ đào tạo kiến thức kinh doanh, tay nghề, mở rộng dịch vụ thông tin, tư vấn.
Lịch sử đã chứng minh thành công trong chính sách khuyến khích đầu tư của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Những chính sách này đã góp phần không nhỏ vào những thành công của các quốc gia đã biết đặt ra những biện pháp kích thích đúng đắn, hợp lòng dân.
Mặt khác một chính sách khuyến khích sai lệch có thể đưa đến những khoản chi phí khổng lồ, kém hiệu quả hoặc gây tổn thất cho ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện và tạo những lợi thế không đáng có cho một số đối tượng nhất định dễ đưa đến nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh và đặc biệt có thể tạo ra "mảnh đất" tiêu cực, tham nhũng. Do vậy việc lựa chọn các biện pháp khuyến khích đầu tư phải được cân nhắc thận trọng, kỹ càng. Có thể nói đây là một bài học kinh nghiệm quý báu cho chúng ta trong quá trình soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến khuyến khích đầu tư nói chung và đầu tư trong nước nói riêng.
Biểu 1: Tổng hợp các biện pháp ưu đãi đầu tư được sử dụng
ở một số nước châu á
STT
Loại ưu đãi
Indonesia
Malaysia
Đài Loan
Hàn Quốc
Thái Lan
1
Miễn thuế lợi tức
*
*
*
*
*
2
Miễn thuế thu nhập đối với lợi tức cổ phần
*
*
*
*
*
3
Trợ cấp đầu tư
*
*
*
*
*
4
Chuyển lỗ trong thời kỳ được miễn sang thời kỳ đã hết hạn miễn
*
*
*
*
*
5
Khấu hao nhanh TSCĐ
*
*
*
*
*
6
Miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị
*
*
*
*
*
7
Trợ cấp tái đầu tư
*
*
*
*
*
8
Tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi
*
*
*
*
*
9
Hoàn lại thuế đối với nguyên liệu, vật liệu được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu
*
*
*
*
*
10
Ưu đãi đối với đầu tư N/c Khoa học và phát triển
*
*
*
*
*
11
Khuyến khích đối với đào tạo và nâng cao tay nghề
*
*
*
*
*
12
Ưu đãi đối với đầu tư để phát triển những vùng khó khăn
*
*
*
*
*
13
Khuyến khích phát triển công nghiệp vừa và nhỏ
*
*
14
Miễn thuế TS đối với vốn đầu tư
*
*
Phần II
Thực trạng Khuyến khích đầu tư trong nước ở nước ta những năm gần đây
I. Thời kỳ trước khi có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 1994
Sau khi kết thúc hai cuộc chiến tranh biên giới, tình hình đất nước bắt đầu ổn định để có thể tập trung phát triển kinh tế. Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 6 (Khoá IV) đã đặt quan điểm nền tảng đầu tiền về chiến lược, chính sách, cơ cấu và cơ chế quản lý kinh tế. Trên cơ sở về những định hướng đó, ở các địa phương xuất hiện nhiều phong trào của quần chúng, của cơ sở sản xuất vừa tự giác, vừa tự phát nhằm thoát khỏi những ràng buộc của cơ chế cũ đồng thời tìm lối ra riêng cho đơn vị mình.
Hợp thức hoá phong trào quần chúng và trên cơ sở các định hướng đổi mới của Đảng được xác định ở Nghị quyết TƯ 6 (Khoá IV), thời kỳ này, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm hạn chế, tiến tới xoá bỏ những trì hãm của cơ chế cũ, tạo môi trường thuận lợi cho cơ chế mới và nhân tố mới xuất hiện. Có thể nói đây là phong trào mang tính chất toàn dân, diễn ra sôi động theo nhiều khuynh hướng khác nhau và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Khởi đầu quá trình này là những chuyển biến trong cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ngày 13/1/1981 Bộ chính trị BCH TƯ Đảng Cộng Sản Việt Nam ra Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Đây là bước ngoặt đầu tiên trực tiếp công phá vào thành trì hành chính quan liêu bao cấp trong nông nghiệp đặc biệt là khu vực hợp tác xã.
Cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động đã bước đầu khôi phục lại được động lực lợi ích vật chất của người lao động mà sau nhiều năm đã bị thui chột do mô hình hợp tác xã kiểu cũ. Dưới tác động của cơ chế khoán mới, người nông dân bắt đầu thấy được vai trò của mình trong quá trình tái sản xuất, thấy được lợi ích trực tiếp của mình trên mảnh ruộng do mình canh tác.
Cùng với khu vực nông nghiệp, khu vực công nghiệp cũng có một vài cải cách trong các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định 217/HĐBT; 146/HĐBT...
khuyến khích việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xí nghiệp thông qua cơ chế "3 phần kế hoạch"; "4 nguồn khả năng"; trong chừng mực nhất định giúp các xí nghiệp hoàn thành tốt các khu vực pháp lệnh của Nhà nước giao, mở rộng kế hoạch bổ sung nhằm khai thác tiềm năng của mình và cải thiện đời sống cho người lao động.
Những cơ chế chính sách đó đã bắt đầu mang đến một luồng gió mới, khơi dậy các hoạt động sản xuất kinh doanh vốn đã bị ngưng trệ lâu ngày trong thiết chế kinh tế hiện vật tập trung. Tuy nhiên sau một thời gian triển khai, các chính sách mới cũng bắt đầu bộc lộ nhược điểm, cần phải được điều chỉnh, bổ sung. Chính vì vậy đến năm 1998. Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp tại đây hộ gia đình xã viên được xác lập là đơn vị kinh tế chủ quản tự chủ, chứ không còn dừng ở mức độ là hộ nhận khoán. Có thể nói, đây là chính sách có ý nghĩa bước ngoặt trong đổi mới, khuyến khích nông nghiệp phát triển. Việc chuyển vai trò từ hợp tác xã sang hộ gia đình xã viên như vậy đã tạo ra một động lực lớn kích thích phát triển kinh tế nông thôn. Hộ gia đình xã viên được tự chủ tính toán, cân nhắc các phương án sản xuất kinh doanh trên mảnh ruộng của mình.
Đồng thời, khu vực công nghiệp cũng tiến hành một số cải cách theo hướng mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho đơn vị kinh tế cơ sở. Từ đây các xí nghiệp bắt đầu thực hiện cơ chế hạch toán kinh doanh độc lập, chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Hướng đi mới này đã góp phần kích thích các doanh nghiệp phát huy mạnh mẽ năng lực sáng tạo, không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề , tận dụng mọi nguồn lực sẵn có để phát triển sản xuất kinh doanh.
Nhìn chung trong bối cảnh cụ thể , các cơ chế chính sách này đã phát huy tác dụng rất lớn ,giải toả được những ràng buộc của cơ chế cũ , mở ra và tạo đà cho những cơ hội mới phát triển. Sự khuyến khích , sự kích thích được biểu hiện chủ yếu ở khả năng giải toả từng bước những cản trở của cơ chế cũ toòn tại khá lâu từ trước , chưa đủ điều kiện xác lập đồng bộ cơ chế mới cũng như việc định ra các biện pháp cụ thể về kinh tế tài chính. Khuyến khích các hoạt động đầu tư. Vì vậy cùng với thời gian, nó cũng ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế, những kìm hãm mới đối với sự phát triển kinh tế và trong một chừng mực nhất định đã xuất hiện tình trạng phân tán, buông lỏng quản lý, thậm chí vô Chính phủ ở khá nhiều ngành, địa phương, đơn vị kinh tế cơ sở. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này, trong đó nguyên nhân do khuôn khổ pháp lý của cơ chế mới chưa được xác lập đồng bộ, đầy đủ; nhiều quan điểm về đổi mới, về khuyến khích chưa được xác lập một cách có căn cứ khoa học vững chắc. Thực trạng đó một mặt đòi hỏi tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận làm cơ sở cho việc ban hành cơ chế chính sách có căn cứ khoa học xác đáng; về phía quản lý Nhà nước, phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý bảo đảm cho quá trình đổi mới diễn ra an toàn và đúng hướng.
II. Từ khi có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đến nay
Nhằm tiếp tục tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế và đầu tư, bên cạnh một hệ thống văn bản pháp luật đã ban hành và đang đi vào cuộc sống, ngày 22/6/1994, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Luật KKĐTTN) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Đây là văn bản Luật đầu tiên điều chỉnh các quan hệ chủ yếu và KKĐTTN ở nước ta. Luật KKĐTTN ra đời bắt nguồn từ sự bức bách của cuộc sống, nên chí ít đã đưa vào môi trường đầu tư trong nước, ở thời buổi chuyển trạng thái đó, một yếu tố pháp lý Nhà nước vốn là viên đá tảng đảm bảo cho nền kinh tế thị trường có thể phát triển.
Có thể nói, những tư tưởng về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành trong cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN được biểu hiện khá rõ ràng trong Luật này cũng như ở một số văn bản dưới Luật hướng dẫn thi hành. Nhờ vậy, Luật KKĐTTN đã đi vào cuộc sống, bước đầu phát huy tác dụng thực tế. Tuy nhiên như đã trình bày ở phần trên để thấy rõ hơn mặt kỹ thuật pháp lý của vấn đề có tác dụng như thế nào trong việc hướng dẫn, triển khai các quy định và tinh thần của Luật cần nghiên cứu tiến trình diễn biến thực tế qua các giai đoạn: Giai đoạn thực hiện Nghị định 29/CP (từ 12/5/1995 đến 30/1/1998, tức là thực chất đến hết năm 1997); Giai đoạn thực hiện Nghị định 07/1998/NĐ-CP (từ 30/1/1998 đến ngày 1/1/1999, ngày Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/1998/QH 10 có hiệu lực tức là đến hết năm 1998); Giai đoạn từ 01/01/1999 đến nay (giai đoạn thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) và Nghị định số 51/1999/NĐ-CP (ngày 8/7/1999).
1. Giai đoạn thực hiện Nghị định 29/CP (12/5/1995 - 30/1/1998)
Đây là giai đoạn chúng ta đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1995-2000, trong xu thế cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài, chúng ta đặc biệt quan tâm khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước với tư cách là nguồn nội lực, là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế.
Triển khai chủ trương đúng đắn đó, trong quản lý và điều hành vĩ mô, chúng ta đã thực thi hàng loạt giải pháp mà nổi bật nhất là ba loại giải pháp lớn:
Thứ nhất: Tiếp tục xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh tế và đầu tư.
Thứ hai: Đẩy mạnh việc sử dụng lực lượng tài chính của Nhà nước để can thiệp và bổ sung thị trường vốn đầu tư.
Thứ ba: Cả Nhà nước và nhân dân, các cá nhân và xã hội dấy lên phong trào hỗ trợ những công dân lập thân, lập nghiệp.
Những giải pháp lớn đó được cụ thể hoá thông qua các chương trình kế hoạch và đã đi vào cuộc sống với các mức độ khác nhau. Việc triển khai Luật KKĐTTN thông qua Nghị định 29/CP được tiến hành trong bối cảnh đó, tuy thực tế vận hành khá nhiều vướng mắc xuất hiện, nhưng đã bắt đầu phát huy tác dụng trong thời kỳ kế hoạch này.
Sau 3 năm thực hiện Luật KKĐTTN, gần 3 năm thực hiện Nghị định 29/CP, tính đến ngày 31/12/1997 trong 55 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có báo cáo về tình hình thực hiện Luật KKĐTTN cho thấy Luật KKĐTTN đã được đón nhận và hưởng ứng một cách tích cực. Việc triển khai thực hiện Luật KKĐTTN, Nghị định và các văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ngành có liên quan ở các địa phương là tương đối khẩn trương và đúng quy định. Nhiều tỉnh đã tập trung tập huấn nội dung cơ bản của Luật, Nghị định và các văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ngành, cho cán bộ các Sở, Ban, Ngành cấp Tỉnh, Thành phố, và Giám đốc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Trong điều kiện hệ thống văn bản hướng dẫn chưa đồng bộ, nhiều điểm chưa cụ thể, nhưng nhờ sự tổ chức, phối hợp chặt chẽ các bộ phận chức năng ở địa phương, việc tổ chức cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư được tiến hành theo đúng các thủ tục cần thiết.
Theo số liệu thống kê của Vụ Doanh nghiệp (đơn vị được giao giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Khuyến khích đầu tư theo quy định của Luật KKĐTTN và sự phân công của Chính phủ tại các Nghị định có liên quan), tính đến ngày 31/12/1997 cả nước đã cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho hơn 963 dự án với tổng số vốn đầu tư hơn 8106 tỷ đồng. Trong đó có 35 dự án thuộc khu vực doanh nghiệp do TƯ quản lý, chiếm 3,6% trong tổng số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư trong cả nước với tổng số vốn đầu tư của các dự án là 1.299,733 tỷ đồng, chiếm 16% trong tổng số vốn đầu tư của các doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. 928 dự án thuộc khu vực doanh nghiệp do địa phương quản lý với tổng số vốn đầu tư của các dự án là 6.806,736 tỷ đồng, chiếm 84% trong tổng số vốn đầu tư của các dự án được cấp ưu tiên đầu tư trong cả nước (xem thêm Biểu 2).
Trong đó riêng năm 1997, số dự án được cấp ưu đãi đầu tư gấp 2,36 lần, số vốn đầu tư gấp 5,13 lần năm 96. Cùng với việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước, các địa phương cũng đã cấp iấy ưu đãi đầu tư theo Luật KKĐTTN cho 107 dự án của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư hơn 105,625 tỷ đồng. Trong đó số dự án thành lập mới doanh nghiệp chiếm 83,17%; mua cổ phần, góp vốn chiếm 16,83% góp phần đáng kể hạn chế tình trạng đầu tư chui, của Việt kiều diễn ra ở một số nơi mà Nhà nước không kiểm soát được.
Biểu 2: Tình hình cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư
tính đến 31/12/1997 (thực hiện NĐ 29/CP)
Đơn vị tính: Triệu đồng
Cấp quản lý D.N
Tổng số dự án
Tổng số vốn đầu tư
Đầu tư mới
Đầu tư mở rộng
Số DA'
Số VĐT
Số DA'
Số VĐT
DN do TƯ quản lý
35
1.299.733
2
38.329
33
1.261.404
% so với tổng số (%)
3,6
16,0
0,5
0,8
6,3
35,2
DN do địa phương quản lý
928
6.806.736
433
4.483.219
495
2.323.516
% so với tổng số (%)
96,4
84,0
99,5
99,2
93,7
64,8
Tổng số
963
8.106.469
435
4.521.548
528
3.584.920
Nguồn: Tính toán từ báo cáo của 55 Sở KH & ĐT tỉnh thành phố và Vụ Doanh nghiệp, Bộ KH & ĐT năm 1997.
Để có một hình dung cụ thể hơn về tình hình khuyến khích đầu tư trên phạm vi cả nước, có thể phân tích thêm một số khía cạnh chính của vấn đề liên quan đến cơ cấu đầu tư.
1.1. - Quan hệ giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng.
Cơ cấu giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng có một sự chênh lệch khá lớn. Chẳng hạn trong khu vực doanh nghiệp do TƯ quản lý, chỉ có 2 dự án đầu tư mới được hưởng ưu đãi chiếm 5,7% tổng số dự án do TƯ quản lý được cấp Giấy
chứng nhận ưu đãi đầu tư. Còn số dự án đầu tư mới được cấp ưu đãi do địa phương quản lý tuy tỷ trọng thấp hơn so với các dự án đầu tư mở rộng nhưng khoảng cách giữa giữa chúng chênh lệch không đáng kể - chiếm 45,2% của tổng số dự án đầu tư được ưu đãi ở địa phương. Mặc dù, số dự án đầu tư chiếm tỷ trọng nhỏ hơn ở cả hai loại cấp quản lý doanh nghiệp nhưng số vốn bình quân ở mỗi dự án đầu tư mới lại lớn hơn nhiều so với dự án đầu tư mở rộng. Thậm chí ở địa phương, với 433 dự án mới đã chiếm 4.483 tỷ đồng nhưng 495 dự án đầu tư mở rộng chỉ chiếm 2.323,5 tỷ đồng (biểu 3).
Biểu 3: Cơ cấu của dự án đầu tư được ưu đãi và tỷ trọng vốn đầu tư giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng
Đơn vị tính: %
Cấp quản lý doanh nghiệp
Cơ cấu dự án đầu tư
Tỷ trọng vốn đầu tư
DN cho TW quản lý
100
100
- Đầu tư mới
5,7
2,9
- Đầu tư mở rộng
94,3
97,1
DN do địa phương quản lý
100
100
- Đầu tư mới
45,2
55,8
- Đầu tư mở rộng
54,8
44,2
Nguồn: Tính toán từ các báo cáo của các Sở KH&ĐT tỉnh/Thành phố và Vụ Doanh nghiệp - Bộ KH&ĐT năm 1997
1.2. Quan hệ ưu đãi đầu tư giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Các doanh nghiệp quốc doanh có số dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư là 554 dự án chiếm 59,7% trong số các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi ở địa phương. Nếu gộp cả số doanh nghiệp được hưởng ưu đãi đầu tư do Trung ương quản lý thì tổng số doanh nghiệp quốc doanh được hưởng ưu đãi lên tới 589 ưu đãi và chiếm tới 61,2% trong tổng số ưu đãi được cấp iấy ưu đãi đầu tư trong cả nước. Trong khi đó số doanh nghiệp ngoài quốc doanh được hưởng ưu đãi là 374 ưu đãi, chiếm 10,3% trong số các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi ở địa phương.
Biểu 4: Số dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh ở địa phương
Đơn vị tính: Triệu đồng
Cấp quản lý
Tổng số dự án
Tổng số vốn
Đầu tư mới
Đầu tư mở rộng
Tín dụng từ quỹ
Số DA
Số vốn
Số DA
Số vốn
Số DA vay
Số tiền
Tổng số
928
6806736
433
4483219
495
2323516
520
66597
- Q. Doanh
554
5481551
190
3451659
364
2029891
275
56561
%
59,7
80,5
43,9
77,0
73,5
87,4
52,9
84,9
- N. Doanh
374
1325185
243
1031560
131
293624
245
10036
%
40,3
19,5
56,1
23,0
26,5
12,6
47,1
15,1
Trong đó: M.Bắc
246
1655147
74
866390,0
172
788756
165
32128
M .Trung
284
18522631
43
1276731
141
575532
151
19065
M .Nam
398
3299325
216
2340098
182
959227
204
15404
Nguồn: Tính toán từ các báo cáo của các Sở KH&ĐT tỉnh/thành phố và Vụ doanh nghiệp Bộ KH&ĐT năm 1997
Ngoài ra tỷ trọng vốn đầu tư của các dự án đăng ký ưu đãi đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh cũng lớn hơn hẳn tỷ trọng vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong số 544 doanh nghiệp quốc doanh được cấp đầu tư ưu đãi theo Nghị định 29/CP có tỷ trọng vốn lên tới 80,5% tổng số vốn đầu tư của các dự án đăng ký, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ khiêm tốn ở con số 19,5% trong tổng số vốn đầu tư của các dự án đăng ký hưởng ưu đãi đầu tư của các doanh nghiệp ở địa phương. Nếu cộng cả số vốn của dự án đăng ký ưu đãi đầu tư của doanh nghiệp quốc doanh do Trung ương quản lý thì các con số này sẽ tương ứng là 83,7% và 16,3% trong tổng số vốn đầu tư của dự án đăng ký ưu đãi đầu tư của cả nước.
Với những thông tin đó, có ý kiến cho rằng, ở đây chủ yếu là "Nhà nước khuyến khích Nhà nước". Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa có được những chính sách ưu đãi nhất quán so với kinh tế quốc doanh.
1.3. Về cơ cấu dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư giữa ba miền Bắc - Trung - Nam.
Trong 21 tỉnh, thành phố miền Bắc đã có 246 dự án được cấp ưu đãi đầu tư chiếm 26,5% tổng số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của doanh nghiệp do địa phương quản lý trong cả nước. Điều đáng chú ý ở đây là sự chênh lệch giữa số dự án đầu tư mới và đầu tư mở rộng được cấp ưu đãi đầu tư: số dự án đầu tư mới chỉ chiếm 30% trong tổng số các dự án được cấp ưu đãi đầu tư ở miền Bắc. Tuy nhiên về tỷ trọng vốn đầu tư thì ngược lại, tổng số vốn đầu tư của dự án đầu tư mới là 866,3900 tỷ đồng chiếm 52,3% tổng số vốn đầu tư của dự án được cấp đầu tư ưu chứng nhận ưu đãi đầu tư). Tuy số vốn đầu tư của các dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa lớn (chỉ chiếm 42,5% tổng số vốn đầu tư mở rộng của tỉnh) nhưng đó cũng là kết quả đáng khích lệ, thể hiện sự cố gắng, sự quan tâm của các cơ quan chức năng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở địa phương.
Trong tổng số 284 dự án dược cấp ưu đãi đầu tư (với 16 tỉnh có báo cáo) chiếm 30,6% tổng số dự án được cấp ưu đãi dự án cho địa phương quản lý trong cả nước. Đây là khu vực có số dự án đầu tư mới và đầu tư mở rộng được cấp ưu đãi đầu tư tương đối cân bằng (143 dự án đầu tư mới và 141 dự án đầu tư mở rộng). Cũng như các vùng khác, ở đây những dự án đầu tư mới thường có vốn lớn hơn rất nhiều so với những dự án đầu tư mở rộng.
Trong tổng số 284 dự án được cấp ưu đãi đầu tư của miền Trung có 204 dự án là của khu vực kinh tế quốc doanh, chiếm 71,8% số dự án đã cấp ưu đãi đầu tư của khu vực, kinh tế ngoài quốc doanh cấp được 80 dự án chiếm 28,2% tổng số dự án đã được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của vùng. Như vậy cũng giống như miền Bắc, ở miền Trung số dự án được cấp ưu đãi đầu tư nghiêng phần lớn về khu vực quốc doanh. Vì sao lại xảy ra vấn đề đó.
Theo em có 3 lý do:
Thứ nhất: Doanh nghiệp nhà nước có điều kiện tiếp cận thông tin về Luật khuyến khích đầu tư trong nước tốt hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Thứ hai: Việc chuẩn bị các dự án đầu tư, các hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cũng như việc hiểu biết các quan hệ hành chính, các cơ quan hành chính đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh yếu hơn các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba: Trong một chừng mực nhất định, thói quen truyền thống giành phần ưu tiên cho các doanh nghiệp Nhà nước đây đó có thể hiện ít nhiều. Một số nơi, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực sự chưa thể hiện được uy tín của mình trên thương trường và trong dư luận xã hội thậm chí còn nhiều hiện tượng kinh doanh chụp dựt, lừa đảo, lừa dối khách hàng cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tâm lý của cán bộ thực hiện công tác ưu đãi đầu tư.
Đồng thời cũng có thể dễ dàng nhận thấy lý do vì sao ở hai khu vực này, số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư dưới hình thức mở rộng nhiều hơn hình thức đầu tư mới. Đó là theo quy định của Nghị định số 29/CP và hướng dẫn của Bộ Tài chính, những dự án đầu tư chỉ xếp vào loại dự án đầu tư mới nếu dự án đó gắn với việc thành lập mới doanh nghiệp, không kể các trường hợp chia, tách, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp. Còn các dự án khác, dù là đầu tư mới hoàn toàn nhưng nếu doanh nghiệp đã thành lập trước ngày Luật KKĐTTN có hiệu lực nhưng nay mới thực hiện hoạt động đầu tư thì được xếp vào diện đầu tư mở rộng. ở đây có sự bất hợp lý, chưa logic: Đối tượng xét cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật KKĐTTN là các dự án đầu tư. Như vậy cái gọi là mới hay mở rộng theo logic là phải gắn với dự án đầu tư chứ không thể gắn với việc thành lập mới hay không thành lập mới doanh nghiệp. Tuy nhiên lý do chính của sự xem xét dự án này hay dự án kia có là dự án đầu tư mới hay là dự án đầu tư mở rộng hay không, chính là ở nội dung ưu đãi của các loại dự án gắn với hình thức đầu tư. Dự án đầu tư mới, Nghị định số 29/CP quy định được hưởng nhiều ưu đãi hơn đầu tư mở rộng. Điều này các cơ quan chức năng cần phải xem xét lại cho phù hợp với tình hình đất nước và hợp lý hơn.
Miền Nam là nơi có số dự án đầu tư được giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư lớn nhất trong cả nước với 398 dự án, chiếm 42,9% tổng số dự án được cấp ưu đãi đầu tư cho địa phương quản lý trong cả nước, với tổng số vốn đầu tư của các dự án lên tới 3.299,325 tỷ đồng. Điểm khác biệt của khu vực này so với miền Bắc và miền Trung là:
Một là: Số dự án được cấp ưu đãi đầu tư dưới hình thức dự án đầu tư mới chiếm đa số, với tổng số vốn đầu tư lớn hơn hẳn so với số vốn của dự án đầu tư dưới hình thức mở rộng, bằng 70,9% tổng số vốn đầu tư của dự án được cấp ưu đãi đầu tư của doanh nghiệp do địa phương quản lý ở các tỉnh miền Nam.
Hai là: Số dự án đầu tư đã được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại nhiều hơn số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của các doanh nghiệp thuộc khu vực quốc doanh (Số dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 59,5% đối với miền Nam trong khi đó ở miền Bắc là 23% và miền Trung chiếm 39% trong tổng số dự án được cấp ưu đãi đầu tư do địa phương quản lý).
ở miền Nam, có nhiều tỉnh đã cấp được số dự án đầu tư ưu đãi vượt con số 30 trong số này phải kể đến tỉnh Trà Vinh đã cấp 98 dự án (đứng đầu cả nước) với 25 dự án đầu tư mới, 73 dự án đầu tư mở rộng của các đối tượng như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh theo nghị định 66-NĐBT.Tổng số vốn đầu tư của 98 dự án này là 21393 triệu đồng trong đó 8812 triệu đồng là vốn tự có của cơ sở và 12581 triệu đồng là vốn vay ưu đãi.Tiếp đến là An giang đã cấp ưu đãi cho 87 dự án. Nhìn chung việc cấp ưu đãi đầu tư cho các dự án đầu tư ở các tỉnh phía Nam phần lớn tập trung vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.Việc áp dụng các biện pháp đầu tư ưu đãi của các tỉnh phía nam cũng rất đáng quan tâm nghiên cứu để phổ biến kinh nghiệm rộng rãi ra cả nước.
1.4. Vấn đề vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia
Về vay tín dụng từ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia trong số 666 tỷ đồng mà Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia đã cho vay, miền Bắc là nơi có mức vay cao nhất trong cả nước, 165 dự án được vay với tổng số vốn là 321,2804 tỷ đồng, chiếm 48,2% tổng số tín dụng mà các doanh nghiệp do địa phương quản lý được vay ưu đãi theo Luật KKĐTTN và Nghị định số 29/CP. Con số này ở miền Trung là 190,651 tỷ đồng chiếm 28,6% và ở miền Nam là 154,0438 tỷ đồng chiếm 23,2%.
Nếu tính trung bình trong cả nước, mỗi dự án được vay tín dụng ưu đãi khoảng 1,3 tỷ đồng thì ở miền trung là 1,26 tỷ đồng và miền Nam chỉ khoảng 0,755 tỷ đồng. Tuy mức vay của mỗi dự án không lớn song ở miền Nam, số dự án được vay tín dụng từ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia đạt tới mức lớn nhất và tập trung chủ yếu ở loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số vốn trung bình được vay của mỗi dự án ở các tỉnh miền Nam là 0,755 tỷ đồng/dự án, miền Bắc là 1,95 tỷ đồng và miền Trung là 1,26 tỷ đồng/dự án.Nhìn chung trong cả nước số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư là phù hợp với đối tượng quy định của Luật KKĐTTN và Nghị định số 29/CP. Trong nội dung ưu đãi đầu tư, chủ yếu là ưu đãi về thuế, nhất là thuế lợi tức, thuế doanh thu, thuế nhập khẩu. Đồng thời sau khi Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia đi vào hoạt động thì một số dự án đã được xét cho vay vốn với lãi suất 1,1% và lãi suất 0,81%/tháng từ Quỹ này. ở phần lớn các địa phương, các nội dung ưu đãi đầu tư đã cấp đều nằm trong khuôn khổ các quy định hiện hành. Riêng tỉnh Ninh Thuận đã cho 16 dự án đầu tư được giảm 50% thuế tài nguyên phải nộp là nằm ngoài quy định hiện hành của Luật KKĐTTN và Nghị định số 29/CP.
Chính vì vậy, bên cạnh việc xét cấp cho các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi, nếu các văn bản được hướng dẫn cụ thể quá trình triển khai Luật cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung kịp thời, các Bộ, Ngành chức năng nếu tiếp tục có thêm nhiều công văn giải đáp, hướng dẫn vướng mắc của các địa phương có liên quan đến việc thực hiện Luật KKĐTTN thì việc thực hiện Luật và Nghị định chắc chắn sẽ tốt hơn.
2. Những hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện Luật KKĐTTN giai đoạn thực hiện Nghị định số 29/CP
Nhìn tổng thể, việc thực hiện triển khai một Luật đầu tiên về KKĐTTN ở nước ta như em đã trình bày ở trên là tích cực, các cơ quan chức năng có liên quan đã có nhiều cố gắng, tác dụng của việc khuyến khích đầu tư và ưu đãi đối với các doanh nghiệp và dân cư là khá rõ ràng. Tuy nhiên theo đánh giá của một số nhà chuyên môn thì thực tế đi vào cuộc sống của Luật KKĐTTN dù có nhiều nỗ lực nhưng vẫn còn là chậm, chưa đáp ứng được sự mong đợi của các nhà đầu tư. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng nổi bật là mấy điểm sau:
2.1. Các nội dung hỗ trợ đầu tư chưa được triển khai hoặc chưa đủ sụ hấp dẫn. Bảy biện pháp về hỗ trợ đầu tư quy định trong Luật chưa được triển khai triệt để. Nhất là các biện pháp về:
a) Giao đất và cho thuê đất: Tuy đã được quy định trong Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất và cho thuê đất, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 85/CP quy định thi hành pháp lệnh nói trên. Tuy vậy trên thực tế, việc giao và cho thuê đất đối với các tổ chức trong nước vẫn còn nhiều thủ tục, nhiều đầu mối phức tạp gây lắm phiền hà.
Theo thống kê có 30 tỉnh thành phố có cấp đất và giao đất thì có 84 dự án trên tổng số trên 452 dự án được hưởng ưu đãi về giao đất và cho thuê đất đã được giao đất và cho thuê đất chiếm 18,6% tổng số dự án được cấp ưu đãi. ở miền Bắc có 50 dự án. Miền Trung có 18 dự án và miền Nam có 16 dự án đã được giao đất hoặc cho thuê đất. Trong đó, đáng chú ý là các dự án phần lớn chỉ được thuê đất, chiếm 71,4%, số dự án được cấp đất còn rất ít chỉ có 24 dự án trên cả nước. Bên cạnh đó các ưu đãi về đất chủ yếu giành cho các doanh nghiệp Nhà nước, chiếm 79,8% còn khu vực ngoài quốc doanh chỉ chiếm 19,2%. Đây cũng là một biểu hiện về sự thiệt thòi của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, sự chưa thực sự bình đẳng giữa khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh được thể hiện ở Biểu 5.
Biểu 5: Số dự án được cấp ưu đãi đầu tư có nội dung ưu đãi được cấp và cho thuê đất của 30 tỉnh/thành phố (Đến 31/12/1997)
Miền
Tổng số dự án *
Cấp đất và cho thuê đất
Tổng số dự án **
Cấp đất
Thuê đất
Q.doanh
Dân doanh
Q.Doanh
Dân doanh
Miền Bắc
158
6
0
36
8
50
Miền Trung
190
4
1
7
6
18
Miền Nam
194
13
0
1
2
16
Tổng số
452
23
1
44
16
84
Nguồn: Báo cáo của Sở KH&ĐT 30 tỉnh thành phố, 1997.
Ghi chú : * Tổng số dự án được cấp ưu đãi đầu tư
** Tổng số dự án được cấp ưu về cấp đất và cho thuê đất
Tuy nhiên những phiền hà trong trình tự, thủ tục giao đất và cho thuê đất thì không phải chỉ những dự án đầu tư được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, trong đó có nội dung được giao đất và cho thuê đất mới có, mà đây là một tình trạng chung của chế độ giao đất và cho thuê đất đã kéo dài nhiều năm ở nước ta. Nguyên nhân của tình trạng này trước hết phải kể đến khâu văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, nhất là các văn bản quy phạm pháp luật do cấp Bộ trưởng ban hành để hướng dẫn trình tự, thủ tục giao đất và cho thuê đất. Tiếp đến một lĩnh vực không kém phần phức tạp là khâu trực tiếp tiếp nhận, thụ lý các hồ sơ về giao đất, cho thuê đất và những quy định thêm của một số địa phương trong việc thực hiện các thủ tục này. Có một nghịch lý là hầu hết những người đã từng trải qua việc thực hiện các thủ tục về giao đất và cho thuê đất, trực tiếp tiếp xúc giao dịch với cán bộ công chức của cơ quan có thẩm quyền đều thấy rõ những tiêu cực, những điều bất hợp lý của trình tự, thủ tục đó nhưng ít ai nói rõ ra những trường hợp cụ thể. Chính vì thế những bức bách về cải tiến các thủ tục này vẫn còn chậm được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, sửa đổi,bổ sung nên thực trạng đó vẫn được tiếp tục kéo dài cho đến tận hôm nay
Biểu 6 : Cơ cấu cấp ưu đãi về đất đai ở 30 tỉnh thành phố
( tính đến 31-12-1997)
Đơn vị tính : %
Chỉ tiêu
Miền Bắc
Miền Trung
Miền Nam
Cả nước
Số dự án được cấp, thuê đất / tổng số dự án được ưu đãi
33,8
16,4
8,2
18,6
Số dự án được cấp và thuê đất
Trong đó : - Số dự án cấp đất / tổng số dự án cấp và cho thuê đất
- Số dự án thuê đất / tổng số dự án cấp và cho thuê đất
100
12,0
88,0
100
27,8
72,2
100
81,3
18,7
100
28,6
71,4
Số dự án được cấp và thuê đất .
Trong đó :- Số dự án quốc doanh được cấp và cho thuê đất / tổng số
- Số dự án dân doanh được cấp và cho thuê đất / tổng số
100
84,0
16,0
100
61,1
38,9
100
87,5
12,5
100
79,8
20,2
Nguồn : Tính toán từ các báo cáo của các sở KH& ĐT tỉnh / Thành phố và Vụ Doanh nghiệp - Bộ KH& ĐT năm 1997
b) Về biện pháp xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp để cho thuê
Những năm gần đây, Chính phủ đã coi trọng việc chỉ đạo vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng cho thuê làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh, đã cho xây dựng nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất; mặt khác hàng năm, Chính phủ có kế hoạch chi Ngân sách để xây dựng kết cấu hạ tầng và khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp. Tính đến nay tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng lên tới 1,5 tỷ đôla. Tuy nhiên giá thuê nhà đất và chi phí trả cho việc sử dụng hạ tầng cơ sở nhiều khu công nghiệp còn cao, không khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào khu công nghiệp. Thời gian gần đây giá thuê đất đã được điều chỉnh giảm, có khu công nghiệp giảm tới mức hết sức thấp nhưng sức thu hút đầu tư của các khu công nghiệp vẫn chưa đủ mạnh.
c) Việc hỗ trợ tổ chức thực hiện các chương trình, dịch vụ khuyến khích đầu tư như: tư vấn kinh doanh, tư vấn pháp lý, tổ chức dạy nghề, và đào tạo kỹ thuật, đào tạo nâng cao kiến thức quản lý, cung cấp thông tin kinh tế, hỗ trợ việc thực hiện các chương trình, dịch vụ khuyến khích đầu tư, phổ biến chuyển giao công nghệ... là những biện pháp hỗ trợ đầu tư chưa được thể chế hoá bằng các văn bản, và các dịch vụ nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư mới chưa được triển khai. Các dịch vụ hiện có chủ yếu được tiến hành trên cơ sở thương mại.
d) Về biện pháp hỗ trợ đầu tư thông qua Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia
Biện pháp "Lập và khuyến khích các Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia để cho vay đầu tư trung và dài hạn" đã được Chính phủ thể chế hoá và được triển khai thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, do số vốn ban đầu quá ít ỏi, cộng thêm mức lãi suất cho vay chưa được khuyến khích cho nên Quỹ này trở lên không đủ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước. Đến cuối năm 1997 quỹ này đã cho vay 520 dự án với tổng vốn lên tới 665 tỷ đồng và số vốn cho vay tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp quốc doanh. Để tăng cường vai trò hỗ trợ đầu tư trong nước một cách thực sự của quỹ này, Nhà nước cần có biện pháp mở rộng nguồn vốn tín dụng cho Quỹ, áp dụng mức lãi suất cho vay ưu đãi thực sự khuyến khích và bổ sung cho Quỹ chức năng bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng và trợ cấp chênh lệch lãi suất. Tuy vậy cơ chế cho vay nguồn vốn và lãi suất cần được nghiên cứu và sửa đổi cho thích hợp.
e) Về phổ biến chuyển giao công nghệ: Việc phổ biến chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư được sử dụng mức phí ưu đãi các công nghệ mới tạo ra bởi vốn vay Ngân sách Nhà nước, ghi tại khoản 7, Điều 7 của Luật KKĐTTN cũng chưa có văn bản hướng dẫn.
Đầu tư mở rộng quy mô và đầu tư theo chiều sâu là những hình thức đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao được chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, nhưng các ưu đãi đầu tư cho các hình thức đầu tư này, theo em là quá ít và chưa mang tính khuyến khích.
g) Biện pháp góp vốn vào các cơ sở sản xuất kinh doanh và bảo lãnh tín dụng và những biện pháp hỗ trợ đầu tư khác được nêu tại điều 7 của Luật này cho đến nay chưa có chính sách và cơ chế thực hiện thực hiện cụ thể
2.2. Về nội dung ưu đãi đầu tư của Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Nghị định 29/CP
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, nội dung ưu đãi của Luật KKĐTTN và Nghị định 29/CP thấp hơn nhiều so với các nội dung tương ứng của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Do đó những doanh nghiệp trong nước cùng ngành hàng bị thua thiệt hơn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ đơn cử chính sách về thế sẽ thấy rõ sự chênh lệch này.
Đối với thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp), thuế suất cho đầu tư trong nước có 3 mức: 25%, 35%, 45%, trong khi đó cả thuế lợi tức và thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng cho đầu tư nước ngoài đều có 4 mức: 10%, 15%, 20% và 25%, tức là mức thuế tối đa cho hoạt động đầu tư nước ngoài chỉ bằng mức thuế tối thiểu đối với hoạt động đầu tư trong nước. Không chỉ có vậy, chế độ miễn giảm thuế cũng có sự khác biệt lớn. Hoạt động đầu tư trong nước được miễn tối đa là 4 năm và giảm 50% trong thời gian tối đa là 9 năm tiếp theo còn hoạt động đầu tư nước ngoài được miễn thuế tối đa là 8 năm kể từ khi kinh doanh có lãi. Ngoài ra hoạt động đầu tư trong nước còn phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung 25% trên phần thu nhập do lợi thế khách quan mang lại (Luật thuế thu nhập doanh nghiệp Điều 10 khoản 1).
Đối với thuế nhập khẩu, Luật đầu tư nước ngoài quy định chế độ miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất trong 5 năm cho các dự án đầu tư ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa (Nghị định 10 điều 10 khoản 3).
Cơ chế ưu đãi đối với các dự án của khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn có sự phân biệt đáng kể. Đối với đầu tư trong nước, khu vực này chưa được khuyến khích, động viên đúng lúc, chưa được hỗ trợ một cách thiết thực và hiệu quả. Đặc biệt trong triển khai thực hiện, do thói quen của các cơ quan quản lý, khoảng cách đó càng bị dãn ra. Điều này thể hiện qua thực tế cấp ưu đãi đầu tư vừa qua ở hầu hết các địa phương, đặc biệt là ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc như đã phân tích ở phần trên.
Luật KKĐTTN đã ban hành gần 3 năm, bên cạnh những nỗ lực bước đầu, thực tế cho thấy còn nhiều việc triển khai quá chậm và nguyên nhân chính là do các ách tắc trong khâu hướng dẫn thi hành. Do vậy còn tiếp tục thể chế hoá 7 biện pháp hỗ trợ đầu tư nêu ở Điều 7 chương II của Luật và phân công trách nhiệm từng cơ quan chức năng trong việc hướng dẫn thi hành, đặc biệt là các biện pháp chưa có hướng dẫn như: giao đất hoặc cho thuê đất, xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp để cho thuê làm mặt bằng xây dựng phổ biến và chuyển giao công nghệ.
Trong nội dung ưu đãi về thuế, hiện đang áp dụng 5 loại (quy định tại các điều từ Điều 12 đến Điều 23 của Nghị định 29/CP): thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế nhập khẩu, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế thu nhập, nên xem xét bổ sung thêm các loại thuế: thuế tài nguyên, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế trước bạ... để tăng thêm tính hấp dẫn và phù hợp với thực tế từng dự án cần khuyến khích.
Về mức độ khuyến khích sử dụng các nguồn lực. Luật KKĐTTN đã nói rất rõ mục đích của Luật là nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Mức độ khuyến khích đối với từng loại nguồn lực có thể khác nhau. Song đối với nguồn lực lao động cần dược khuyến khích hơn. Quy định hiện tại đang có bất hợp lý, cùng thu hút một nguồn lực lao động như nhau, nhưng dự án đầu tư mới được hưởng ưu đãi hơn là dự án đầu tư mở rộng; mức lao động thu hút tối thiểu quy định tại khoản 3 điều 15 của Nghị định 29/CP còn quá cao, ít dự án đầu tư có thể đạt được. Do đó cần giảm mức lao động tối thiểu quy định trong Nghị định 29/CP và quy định mức ưu đãi như nhau đối với mọi dự án được hưởng ưu đãi có thu hút số lao động như nhau.
2.3. Về thủ tục hành chính:
Luật KKĐTTN đã bắt đầu cố gắng thể hiện tinh thần "một dấu, một cửa “ trong các quan hệ về thủ tục hành chính giữa các cơ quan Nhà nước và nhà đầu tư. Tuy nhiên trên thực tế việc hướng dẫn thi hành vẫn còn nhiều thủ tục phiền hà, một mặt là do mỗi ngành địa phương tự ban hành cơ chế riêng cho mình; mặt khác một số Luật có liên quan khác chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Trên thực tế các dự án đầu được ưu đãi chủ yếu rơi vào hai loại: thuế và tín dụng (vay từ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia và vay ở các Ngân hàng thương mại) trong đó thuế là loại ưu đãi phổ biến. Trong quy trình thực hiện ưu đãi đầu tư, khoản 2 Điều 25 của Nghị định 29/CP giao cho Uỷ ban Kế hoạch nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) giúp Chính phủ thực hiện chức năng Quản lý Nhà nước về KKĐTTN thông qua bốn nhiệm vụ và quyền hạn, trong đó có trình tự quy định trình tự thủ tục, mẫu đơn và giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư áp dụng thống nhất trong cả nước; quyết định cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp do Chính phủ cho phép thành lập, đồng thời điều 24 của Nghị định 29/CP cũng quy định: Bộ Tài chính hướng dẫn trình tự, thủ tục để xét được hưởng ưu đãi về thuế. Với điều này Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 94 TC/TCT hướng dẫn thủ tục, trình tự, thẩm quyền xét miễn giảm thuế theo Luật KKĐTTN và Nghị định 29/CP quy định hồ sơ xin miễn, giảm thuế gửi đến cơ quan thuế có thẩm quyền gồm: Quyết định hay giấy phép đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, đơn trình bày của cơ sở kèm theo xác nhận và ý kiến đề nghị cụ thể của cơ quan thuế có thẩm quyền, biên bản kiểm tra quyết toán thuế kèm theo quyết định của năm xét miễn giảm thuế, và những tài liệu liên quan đến dự án đầu tư... Nhiều doanh nghiệp và địa phương phàn nàn về thủ tục quy định như vậy là quá phức tạp về thủ tục hành chính và có tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhằm thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp, Điều 27 của Nghị định 29/CP đã quy định thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp theo chế độ "một cửa", xem đó như một biện pháp khuyến khích thành lập mới doanh nghiệp. Nhưng điều 26 của Nghị định lại chỉ giới hạn đối với các doanh nghiệp thuộc diện được khuyến khích đầu tư. Cần khẳng định thủ tục này được áp dụng cho việc thành lập mới doanh nghiệp cho tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt dự án thành lập doanh nghiệp thuộc diện được khuyến khích đầu tư hay không. Trường hợp thuộc diện được khuyến khích đầu tư, việc cấp Giấy phép thành lập doanh nghiệp được thực hiện đồng thời với việc cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư.
3.4. Về đối tượng được hưởng ưu đãi
Phần lớn vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật KKĐTTN ở các địa phương cũng như ở Trung ương tập trung chủ yếu ở đối tượng khuyến khích quy định trong Luật KKĐTTN và trong Nghị định 29/CP Luật KKĐTTN sử dụng ba khái niệm để xác định đối tượng khuyến khích đầu tư: trong nước, đó là: tổ chức, cá nhân, cơ sở sản xuất kinh doanh. Nói cách khác đó là ba đối tượng thụ hưởng Luật. Cụ thể hoá các đối tượng này, NĐ-29/CP đã đưa ra 9 khái niệm là: Doanh nghiệp, Hợp tác xã, Công ty, đơn vị kinh doanh, tổ chức, cá nhân, cơ sở sản xuất kinh doanh; cơ sở sản xuất, cơ sở vận tải thương mại, dịch vụ, trong đó nhiều khái niệm không được giải thích đã gây lên nhiều sự tranh cãi, nhiều cách hiểu khác nhau, tạo nên sự tuỳ tiện khi vận dụng.
Đứng đầu trong số các khái niệm chứa đựng nhiều tính chất mập mờ nhất phải kể đến cụm từ "cơ sở sản xuất kinh doanh" và khái niệm "doanh nghiệp" (hay các loại hình doanh nghiệp tương đương). Nghị định 29/CP tuy không quy định "cơ sở sản xuất kinh doanh" là một pháp nhân kinh tế độc lập nhưng cũng không quy định rằng nó không phải là pháp nhân kinh tế độc lập. Chính ở điểm này đã gây ra rất nhiều khó khăn khi triển khai luật, bởi vì nó liên quan đến đối tượng xét hưởng ưu đãi đầu tư theo tinh thần Luật này,đặc biệt là ưu đãi về thuế.
Đồng thời với việc quy định đối tượng thụ hưởng Luật như vừa nêu trên, Luật KKĐTTN cũng quy định đối tượng được xét ưu đãi đầu tư là dự án đầu tư. Khi quy định mức ưu đãi cụ thể về thuế thì Luật phân đối tượng thụ hưởng thành hai loại chính là "cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập" và "cơ sở sản xuất kinh doanh bỏ thêm vốn đầu tư hoặc sử dụng lợi nhuận còn lại để tái đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ". Chi tiết hoá quy định này, NĐ 29/CP đưa ra một danh sách các dự án đầu tư được ưu đãi về thuế với các loại, mức khác nhau cho hai đối tượng hưởng thụ chính là "cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập" (gồm hai loại: cơ sở sản xuất và cơ sở vận tải, thương mại, dịch vụ) và "cơ sở sản xuất kinh doanh bỏ thêm vốn đầu tư hoặc sử dụng lợi nhuận còn lại để tái đầu tư hoặc sử dụng lợi nhuận còn lại để tái đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ". Trong khi đó Nghị định cũng không đưa ra một quy định rõ hơn về các khái niệm trên so với luật . Nhiều văn bản hướng dẫn của các nghành chức năng liên quan cũng trong tình trạng đó, trừ thông tư của Bộ Tài chính số 94/ TC- TCT. Tuy nhiên Thông tư này cũng chỉ hướng dẫn rằng: “ cơ sở mới thành lập ... là cơ sở mới được thành lập và được cấp giấy phép kinh doanh “ tức là cũng không khẳng định nó phải là một pháp nhân kinh tế độc lập . Thế nhưng không biết từ đâu lại cho ra đời khái niệm “ dự án đầu tư mới “ và “ dự án đầu tư mở rộng “ càng làm tăng thêm sự mập mờ giữa đối tượng thụ hưởng Luật và đối tượng xét ưu đãi đầu tư.
Trên thực tế, tất cả các dự án đầu tư của các doanh nghiệp đang hoạt động đều bị coi là dự án đầu tư mở rộng, mặc dù có những dự án đầu tư mới hoàn toàn về mặt hàng, công nghệ, thị trường, địa điểm đầu tư... và khác với ngành nghề kinh doanh đã có của doanh nghiệp. Do đó các dự án này chỉ được hưởng ưu đãi theo chế độ của dự án đầu tư mở rộng (chủ yếu là được miễn thuế lợi tức một năm cho phần lợi nhuận tăng thêm do dự án đầu tư mới mang lại). Các dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo đúng ngành nghề kinh doanh đã có , gọi là dự án đầu tư mở rộng đã đành , đằng này các dự án đầu tư mới hoàn toàn về mọi phương diện mà gọi là dự án đầu tư mở rộng thì dù lý giải thế nào thì cũng bất ổn về ý nghĩa kinh tế và ý nghĩa pháp lý. Để lý giải cho sự mập mờ do đồng nhất giữa khái niệm “ dự án đầu tư mới ” với dự án thành lập doanh nghiệp mới , có ý kiến cho rằng , mục đích của Luật KKĐTTN là khuyến khích việc thành lập mới các loại hình doanh nghiệp, sau đó cơ chế thị trường sẽ sàng lọc để giữ lại những doanh nghiệp làm ăn tốt. Cách lý giải này có hai điểm không thuyết phục: một là tuyệt đối hoá cơ chế thị trường như vậy hiện không còn là một giải pháp thực tế của sự phát triển không chỉ của nước ta mà còn của hàng loạt nước khác, kể cả những nước kinh tế thị trường đã phát triển. Hai là mục đích của Luật KKĐTTN ngay từ đầu chỉ xác định là "để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh", chứ không hề nói như ý kiến trên, và thậm chí nếu ngay cả khi Luật có đề ra mục đích như vậy thì cũng không thể đánh đồng hai khái niệm vốn chứa đựng những nội dung kinh tế hoàn toàn khác nhau. Cũng có cách giải thích rằng, nếu coi như dự án đầu tư mới xét về thực chất kinh tế là dự án đầu tư mới để được hưởng ưu đãi theo Luật KKĐTTN thì khó thực hiện vì ngân sách Nhà nước hiện còn gặp nhiều khó khăn. Nhưng còn thấy rằng khi thông qua Luật, hẳn là cơ quan chức năng đã lường kỹ việc này. Đồng thời nếu quả thực là vì thực hiện Luật này mà làm giảm thu Ngân sách những năm trước mắt tới mức không thể cân đối được thì nên đề nghị cho hoãn thi hành. Không thể vì một vướng víu đâu đó mà làm lệch đi một ý đồ tốt đã xác định từ trước và làm sai đi những thuật ngữ thông thường của một văn bản pháp quy, gây khó dễ cho người thực hiện.
Theo mục đích đã được xác định ngay ở phần mở đầu của Luật KKĐTTN thì mọi dự án đầu tư có ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn hoạt động thuộc loại được khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ thì đều có thể được hưởng ưu đãi đầu tư. Đó mới chính là điểm cốt lõi kích thích huy động mọi nguồn vốn trong nước và mục đích đầu tư, từng bước làm cho nguồn vốn đầu tư trong nước giữ vai trò quyết định như định hướng đã đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng ta. Việc đánh đồng giữa dự án đầu tư mới và dự án thành lập doanh nghiệp mới trên thực tế đã không khuyến khích được sự mong muốn của các doanh nghiệp đã thành lập trước đây có dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ. Hơn thế, các doanh nghiệp này muốn được hưởng ưu đãi đầu tư theo chế độ "cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập" đã có xu hướng tổ chức thành lập các doanh nghiệp mới trên cơ sở các dự án đầu tư này. Do vậy để khắc phục nhược điểm này, thực sự khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước, huy động tối đa mọi nguồn lực trong xã hội vào mục tiêu phát triển, cần quy định chế độ ưu đãi như nhau đối với các dự án đầu tư thành lập mới doanh nghiệp và các dự án đầu tư mới ở các doanh nghiệp đã được thành lập, khẳng định dứt khoát đối tượng thụ hưởng Luật là doanh nghiệp thuộc mọi thành lập kinh tế, đối tượng xét, cấp ưu đãi đầu tư là dự án đầu tư (cũng có thể phân biệt dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng).
3. Giai đoạn thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước thông qua việc triển khai Nghị định số 07/1998/NĐ-CP (Từ 30/01/1998 đến 31/12/1998)
ở phần trên đã phân tích cái được và chưa được trong việc thực hiện Luật KKĐTTN thông qua việc triển khai Nghị định 29/CP. Sự phân tích cho thấy những điểm chưa hợp lý của chính văn bản Luật cũng như công tác cụ thể hoá, hướng dẫn dưới hình thức Nghị định hoặc Thông tư của Bộ, Ngành TƯ. Trên cơ sở kết quả thực hiện, trong khi khẳng định cố gắng bước đầu, chúng ta cũng thấy rõ được những nhược điểm cần phải tiếp tục khắc phục. Để khắc phục những tình trạng đó ngày 15/1/98 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/1998/NĐ-CP. Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký và thay thế Nghị định số 29/CP.
Điểm đáng lưu ý của Nghị định số 07 là vẫn trên cơ sở những quy định của Nghị định số 29/CP nhưng Nghị định đã cụ thể hoá được nhiều tinh thần khuyến khích đầu tư cơ bản của Luật, tiến bộ và hấp dẫn hơn nhiều so với Nghị định số 29/CP. Nói chung Nghị định 07 đã góp phần tạo nên một không khí mới trong việc quan tâm của doanh nghiệp đối với chính sách khuyến khích của Nhà nước ta. Mọi kinh nghiệm khác cũng cần nhấn mạnh ở đây là công tác cụ thể hoá và thi hành hướng dẫn Luật là đặc biệt quan trọng trong điều kiện cụ thể ở nước ta. Đồng thời, một câu hỏi được đặt ra ở đây là vì sao vẫn trên quy định của Luật KKĐTTN mà NĐ 07 lại hấp dẫn hơn NĐ 29/CP. Chắc chắn không thể thừa nhận vai trò của công tác soạn thảo Nghị định, trong đó một thái độ thực tế hơn gần như chi phối toàn diện tính chất hấp dẫn của Nghị định. Nói như vậy về mặt logic có nghĩa là ở đây em không phân tích lại những cái được và chưa được của Luật KKĐTTN đã trình bày ở phần trên mà chỉ tập trung trình bày những điểm mới của NĐ-07.
Trước hết là những quy định về hình thức đầu tư được khuyến khích. Nghị định 07 có thể nói là đã mở rộng khái niệm này, từ chỗ chỉ những dự án đầu tư gắn với việc thành lập doanh nghiệp mới được xem là dự án đầu tư mới đến chỗ coi tất cả những dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ngành nghề mới hoặc sản phẩm mới tại cùng một thời điểm, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sản phẩm hiện có hoặc sản phẩm mới tại địa điểm mới cũng được xem như là dự án đầu tư mới. Điều này có nghĩa là mức độ ưu đãi cho các dự án đầu tư mới thực sự đã được tăng lên. Vì thế mà Nghị định này đã hấp dẫn hơn trước đây.
Về nội dung đảm bảo và hỗ trợ đầu tư, Nghị định 07 cũng đạt được một bước tiến mới: Quy định thêm chức năng bảo lãnh tín dụng và trợ cấp lãi suất cho Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia, quy định những ưu đãi về tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nhập khẩu, cho phép nhà đầu tư là người Việt Nam định cư ở nước ngoài được hưởng giá cước vận chuyển đường thuỷ, đường sắt, đường bộ, đường hàng không và các loại giá dịch vụ về nhà ở, khách sạn, điện, nước, cước phí bưu chính viễn thông như người Việt Nam ở trong nước. Nghị định cũng quy định thành lập Quỹ phát triển công nghệ để hỗ trợ cho các hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp.
Nghị định điều chỉnh hạ mức lao động tối thiểu bình quân năm của dự án được hưởng ưu đãi, đô thị loại 1, loại 2 xuống còn 100 người, các huyện thuộc danh mục B, C là 20 người, các vùng khác là 50 người. Với quy định này, tiêu thức về lao động mà dự án thu hút được chú ý hơn, tức là quán triệt tốt hơn tinh thần khuyến khích đầu tư trong nước của Luật như đã đề cập ở phần trên. Nghị định 07 cũng quy định cho các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất như là một tiêu thức để hưởng ưu đãi. Trong nội dung ưu đãi đầu tư việc miễn thuế nhập khẩu được mở rộng gần như quy định của Luật đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là, Nghị định này đưa thêm quy định cho phép các dự án đầu tư thuộc danh mục A, B, C có khai thác tài nguyên thì được giảm tối đa là 50% thuế tài nguyên trong ba năm đầu tiên kể từ khi bắt đầu khai thác. Tuy Luật KKĐTTN không quy định loại ưu đãi này, song quy định của Nghị định 07 cũng không trái với quy định của Luật thuế Tài nguyên. Một số ý kiến cho rằng việc quy định thêm của Nghị định 07 là trái Luật KKĐTTN nhưng theo em đây là điều có thể chấp nhận được, có tác dụng tăng thêm mức độ khuyến khích, tăng thêm tính hấp dẫn của Luật, của Nghị định so với Nghị định số 29/CP, Nghị định 07 đặt vấn đề đề cao hiệu lực pháp lý của Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Khoản 4 Điều 44, Nghị định 07 quy định: Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư trong đó ghi rõ các khoản ưu đãi là văn bản có giá trị pháp lý thể hiện của nhà đầu tư được hưởng các mức ưu đãi đầu tư theo quy định của Nghị định này. Trong phần Quản lý nhà nước, Nghị định đã quy định cho các Ban Quản lý khu công nghiệp có thẩm quyền giúp Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh trong việc thụ lý hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư và Giấy phép thành lập doanh nghiệp cho những dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Các quy định về thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp cũng là những điểm rất đáng ghi nhận ở Nghị định này. Đồng thời để góp phần xử lý những điểm có thể xử lý được Nghị định số 29/CP, phần hiệu lực thi hành, Nghị định 07 cho phép các dự án đã cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư đã cấp theo Nghị định số 29/CP được hưởng các ưu đãi bổ sung về miễn giảm tiền thuê đất, ưu đãi về thuế nhập khẩu, ưu đãi về giảm thuế tài nguyên cho thời gian ưu đãi còn lại kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.
Trên cơ sở các quy định của Nghị định 07, việc hướng dẫn thi hành của các Bộ, Ngành TƯ cũng có tiến bộ hơn trước cả về nội dung và tiến độ. Tuy nhiên các hướng dẫn về thủ tục hành chính thì vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Với những quy định mới của Nghị định 07, các doanh nghiệp càng quan tâm hơn về chính sách ưu đãi đầu tư của nhà nước, tạo thêm động lực cho các hoạt động đầu tư, số các doanh nghiệp đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền đăng ký ưu đãi đầu tư tăng lên. Tính đến hết ngày 31/12/1998 theo báo cáo của 61 Tỉnh, Thành phố trong cả nước đã cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho 1680 dự án với số vốn đăng ký lên tới 30.333 tỷ đồng tăng gấp 2,5 lần số dự án đã cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của ba năm trước đó cộng lại. Kết quả này cũng diễn ra ở cả TƯ và ở địa phương.
ở Trung ương từ 01/01/1998 đến 31/12/1998, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp nhận 188 dự án, trong đó có 124 dự án của 66 doanh nghiệp được Bộ trưởng cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, không cấp và trả lại 9 hồ sơ vì không hợp lệ hoặc không đủ điều kiện ưu đãi theo quy định của Luật và của nội dung, còn 34 dự án đang trong giai đoạn chờ ý kiến của Bộ Tài chính, 21 dự án khác đang xem xét xử lý. Trong 124 dự án được cấp ưu đãi có 119 dự án được cấp mới Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 4424 tỷ đồng, 5 dự án được cấp bổ sung ưu đãi theo Nghị định 07. Trong 119 dự án cấp mới có 63 dự án có hình thức đầu tư theo quy định tại khoản 1, điều 2, Nghị định 07 với tổng số vốn đăng ký là 2.936 tỷ đồng, 56 dự án có hình thức đầu tư theo quy định tại khoản 2 điều 2 với tổng số vốn đăng ký 1.485 tỷ đồng. Trong 119 dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư có 48 dự án với số vốn đăng ký 2.030 tỷ đồng đã hoàn thành và đi vào hoạt động từ các năm trước, nay doanh nghiệp xin miễn giảm thuế. 71 dự án còn lại đến năm 1998 còn đang thực hiện (công trình chuyển tiếp), bắt đầu thực hiện hoặc mới bắt đầu thực hiện. Dù sao cũng phải đánh giá mặt tích cực của Nghị định 07 là doanh nghiệp có dự án thuộc diện ưu đãi đã thực sự được hưởng ưu đãi, từ đó mới có tác dụng khuyến khích.
Một điều đáng chú ý khác là số dự án được Bộ KH & ĐT cấp giấy giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư trong năm 1988 tăng gấp 3 lần số dự án mà Bộ đã cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo Nghị định số 29/CP trong 2 năm 1996-1997. Trong số các lý do làm tăng số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư đó phải kể đến hai nguyên nhân có tác động lớn là:
Một: Thông tin về Luật KKĐTTN đã được phổ cập hơn trước, việc tổ chức hướng dẫn của các Bộ, Tỉnh, Thành phố tốt hơn, tích cực hơn.
Hai: Nội dung các loại ưu đãi của Nghị định 07 như đã trình bày ở trên hấp dẫn hơn so với Nghị định số 29/CP, nhất là việc mở rộng số dự án dược hưởng ưu đãi theo hình thức đầu tư mới (Khoản 1, Điều 2).
Theo quy định của Nghị định 07 thì tất cả các dự án, trước khi cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, Bộ KH & ĐT đều lấy ý kiến Bộ tài chính. Tuy việc trả lời của Bộ Tài chính còn kéo dài so với quy định của Luật và Nghị định, song có một sự thống nhất cao giữa 2 Bộ. Trong 119 dự án đã lấy ý kiến, Bộ Tài Chính đồng ý hoàn toàn 118 dự án, chỉ có 1 dự án Bộ Tài chính đề nghị Bộ KH&ĐT cân nhắc thêm một số nội dung ưu đãi.
Việc thực hiện các nội dung ưu đãi không có vướng mắc đáng kể nhất là nội dung giảm thuế doanh thu, miễn giảm thuế lợi tức, nhất là sau khi Bộ Tài chính ban hành thông tư số 43/1998/TT-BTC và thực hiện sự phân cấp thì thủ tục miễn, giảm thuế nhanh chóng hơn. Riêng hỗ trợ về vốn thì một số doanh nghiệp còn phàn nàn về thủ tục về thời gian đáp ứng về vốn còn chậm. Một số công trình triển khai chậm vì thiếu vốn. Tuy thủ tục cho vay ưu đãi còn tiếp tục nghiên cứu, cải tiến nhưng cũng cần khẳng định rằng việc các tổ chức cho vay phải xem xét lại khả năng hoàn vốn của dự án là việc làm cần thiết.
Nếu Thông tư 43 có nhiều tiến bộ thì Thông tư 09/1998/TT-BTM ngày 18/7/1998 của Bộ Thương mại cần phải lưu ý thêm về những lỗi không đáng có. Thông tư này quy định thời hạn áp dụng trái với quy định của Nghị định 07, đã gây ra những trở ngại không nhỏ cho các doanh nghiệp khi làm thủ tục miễn thuế nhập khẩu đối với các dự án đã được Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư.
Ngoài Thông tư Bộ Tài chính số 02 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ sau cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn: Bộ Tài chính có Thông tư số 43/1998/TT-BTC hướng dẫn việc thực hiện miễn giảm thuế; Ngân hàng Nhà nước có Thông tư số 04/1998/TT-NHNN ngày 2/5/1998 hướng dẫn thực hiện hỗ trợ tín dụng; Bộ Lao động thương binh và xã hội có Thông tư số 08/1998/TT-BLĐTBXH ngày 7/5/1998 hướng dẫn cách tính số lao động bình quân năm; Bộ Thương mại có Thông tư số 09/1998/TT-BTM hướng dẫn việc thực hiện nhập khẩu miễn thuế. Ngoài ra Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 82/1998/QĐ-TTg ngày 15/4/1998 về việc sửa đổi bổ sung Điều 10 và điều 11, Điều lệ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia (ban hành kèm theo Quyết định số 462/TTg ngày 9/7/1996 của Thủ tướng Chính phủ). Các văn bản hướng dẫn trên có ba ưu điểm nổi bật sau:
Một: Lĩnh vực cần hướng dẫn đã được hướng dẫn nhiều hơn so với thời kỳ thi hành Nghị định số 29/CP (thời kỳ này có 5 Thông tư được ban hành, thời kỳ Nghị định số 29/CP có Thông tư được ban hành).
Hai: Thời hạn ban hành Thông tư tiến bộ hơn so với thời kỳ Nghị định số 29/CP. Sau khi Nghị định có hiệu lực, cơ quan ban hành Thông tư sớm nhất là Bộ KH&ĐT, cơ quan ban hành muộn nhất là Bộ Thương Mại.
Ba: Thủ tục hành chính quy định trong Thông tư đã được quy định đơn giản hơn so với trước, loại bỏ được một số giấy tờ không cần thiết tập trung ở Bộ về cho các địa phương, nhất là Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Tuy vậy vẫn còn nổi bật lên một số thiếu sót.
Thứ nhất: Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường vẫn chưa ban hành được danh mục các lĩnh vực công nghệ đáp ứng yêu cầu để được ưu đãi đầu tư quy định tại điều 2 khoản 30 Nghị định 07.
Thứ hai: Thông tư 08/1998/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh và xã hội chỉ hướng dẫn cách tính số lao động bình quân năm đã thực hiện, không hướng dẫn cách tính số lao động thu hút bởi dự án chưa hoặc đang triển khai như quy định của Nghị định.
Thứ ba: Thông tư số 09/1998/TT-BTM ngày 18/7/1998 của Bộ Thương Mại quy định thời hạn miễn thuế nhập khẩu theo điều 37- Nghị định 07 "kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư" là không đúng quy định tại điều 50 của Nghị định 07.
Thứ tư: Thủ tục hành chính quy định tại Thông tư 09 và Thông tư 43 còn bao gồm cả một số yếu tố không cần thiết. Ví dụ, Thông tư 43 quy định hồ sơ miễn giảm thuế gồm 4 yếu tố trong đó có 2 yếu tố thừa là quyết định thành lập doanh nghiệp và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đơn đề nghị được hưởng các mức ưu đãi về thuế. Hai yếu tố đó đã được cơ quan cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư xem xét rồi.
So với thời kỳ thực hiện Nghị định số 29/CP, thời kỳ thực hiện Nghị định 07 có thể nói là một bước ngoặt. Tuy vậy Nghị định 07 vẫn chưa giải quyết dứt điểm được những tồn tại trước đó trong chính sách khuyến khích đầu tư. Nhiều ý kiến cho rằng quốc doanh vẫn được khuyến khích hơn dân doanh, đầu tư mới vẫn được khuyến khích hơn đầu tư mở rộng mặc dù xét về mặt kinh tế đầu tư mở rộng có tác dụng trực tiếp tăng hiệu quả nền kinh tế,tăng quy mô vốn cá biệt (đầu tư mở rộng theo cách hiểu của Nghị định số 29/CP và Nghị định 07 chính là đầu tư chiều sâu, đầu tư cải tiến công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, hợp lý hoá quản lý, làm tăng quy mô và chất lượng sản phẩm hàng hoá. Điều này thực ra không mấy khó hiểu vì nhiều quy định đã được Luật KKĐTTN quy định khung, việc thực hiện các chế độ ưu đãi không phải chỉ phụ thuộc duy nhất vào Luật KKĐTTN hay Nghị định hướng dẫn nó mà còn phụ thuộc vào rất nhiều quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật đất đai, các Luật thuế, Luật thương mại... thậm chí còn phụ thuộc vào các văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của hệ thống hành pháp.
4. Giai đoạn thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1999/QH10 (từ ngày 01/01/1999 đến nay)
Gần bốn năm thực hiện Luật KKĐTTN thông qua việc triển khai hai Nghị định của Chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT169.doc