Tài liệu Đề tài Tìm một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA để phát triển kết cấu hạ tầng đô thị thành phố Hà Nội: lời mở đầu
Tình hình thế giới đang có nhiều biến đổi sâu sắc, xu hướng đối đầu trước đây chuyển sang đối thoại và hợp tác. Các nước trên thế giới tích cực mở rộng quan hệ và hợp tác kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Việt nam đang hoà chung vào không khí sôi động của nền kinh tế toàn cầu. Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế Việt nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 9%/năm, và vẫn đang trên đà phát triển.
Thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của Việt Nam là một trung tâm đi đầu trong công cuộc cải cách kinh tế và xây dựng đất nước. Trong những năm qua Hà Nội đã đạt được những kết quả đáng kể với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 12%/năm, thu nhập bình quân đầu người là 500 USD/người/năm(( ): Báo cáo tình hình kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội 1998- UBND thành phố Hà Nội
). Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, những vấn đề phức tạp trong quản lý và phát triển đô thị, những nhu cầu về dịch vụ đô thị, cải ...
93 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1001 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA để phát triển kết cấu hạ tầng đô thị thành phố Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
Tình hình thế giới đang có nhiều biến đổi sâu sắc, xu hướng đối đầu trước đây chuyển sang đối thoại và hợp tác. Các nước trên thế giới tích cực mở rộng quan hệ và hợp tác kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Việt nam đang hoà chung vào không khí sôi động của nền kinh tế toàn cầu. Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế Việt nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 9%/năm, và vẫn đang trên đà phát triển.
Thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của Việt Nam là một trung tâm đi đầu trong công cuộc cải cách kinh tế và xây dựng đất nước. Trong những năm qua Hà Nội đã đạt được những kết quả đáng kể với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 12%/năm, thu nhập bình quân đầu người là 500 USD/người/năm(( ): Báo cáo tình hình kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội 1998- UBND thành phố Hà Nội
). Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, những vấn đề phức tạp trong quản lý và phát triển đô thị, những nhu cầu về dịch vụ đô thị, cải thiện điều kiện sống cho người dân... cũng ngày càng tăng lên. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị còn nghèo nàn, không đồng bộ và quá tải. Các dịch vụ công công như giao thông, vận tải, cấp nước, thoát nước, môi trường... chưa đáp ứng được nhu cầu người dân đô thị.
Đầu tư cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng đô thị được xem như là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển công nghiệp, cải thiện môi trường sống cho người dân đô thị...Để đầu tư vào lĩnh vực này, Thành phố Hà nội cần có một nguồn vốn đầu tư khá lớn. Ngoài nguồn vốn trong nước và FDI thì ODA có một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kết cấu hạ tầng đô thị. Dự tính đến năm 2020 Thành phố Hà nội cần có 3,5- 4 tỷ USD nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng(( ): Nôi dung điều chỉnh qui hoạch chung thủ đô Hà Nội đến năm 2020- UBND thành phố Hà Nội
). Trong khi đó, nguồn vốn trong nước chỉ chiếm được 50%. Chính vì vậy, Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đang nổ lực nhằm thu hút và sử dụng nguồn ODA cho mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị nói riêng.
Trong thời gian thực tập tại Phòng kế hoạch phát triển hạ tầng đô thị - Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội, qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tôi chọn đề tài "Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA để phát triển kết cấu hạ tầng đô thị thành phố Hà Nội".
Đề tài này đặt trọng tâm nghiên cứu vào tác động và vai trò của nguồn vốn ODA vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng như giao thông, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường... do Thành phố Hà Nội quản lý và thực hiện. Những lĩnh vực như cấp điện, năng lượng, viễn thông do các Tổng Công ty thuộc TW quản lý, không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
Trong đề tài này vận dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh ... để đánh giá kết quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trên địa bàn Hà Nội. Từ đó, đề ra giải pháp nâng cao khả năng thu hút và sử dụng nguồn ODA trong thời gian tới.
Đề tài được chia làm ba chương:
Chương I - Một số vấn đề lý luận chung
Chương II - Thực trạng công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA để phát triển kết cấu hạ tầng đô thị Thành phố Hà Nội.
Chương III - Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA để phát triển kết cấu hạ tầng đô thị Thành phố Hà Nội.
Do thời gian có hạn và bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu, nên chuyên đề này không tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo PTS. Đặng Kim Nhung và thầy giáo Ths. Phạm Văn Hùng cùng các thầy cô giáo và các cô chú, đặc biệt là chú PTS. Trần Đức Vũ ở Phòng kế hoạch phát triển hạ tầng đô thị - Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội đã giúp đỡ em trong việc hoàn thành luận văn này.
chương I
Một số vấn đề lý luận chung
I/ Khái niệm và vai trò của vốn đầu tư.
1- Khái niệm và vai trò của vốn đầu tư.
1.1.Khái niệm.
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẳn có, và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình(( ) : Giáo trình kinh tế đầu tư - ĐH KTQD
).
1.2.Vai trò của vốn đầu tư.
Vốn đầu tư có vai trò quan trọng, là chìa khoá trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Nó tác động đến các mặt sau:
a. Tác động đến tổng cung và tổng cầu.
Vốn đầu tư tác động đến tổng cung dài hạn và tổng cầu ngắn hạn. Vốn đầu tư tăng lên làm cho tổng cầu các nguồn lực đầu vào như cầu về lao động, vật liệu xây dựng, máy móc thiết bị tăng lên. Khi các yếu tố đầu vào tăng lên làm cho sản phẩm của dự án tăng lên kéo theo tổng cung nền kinh tế tăng và ngược lại khi vốn đầu tư giảm cũng tác động đến tổng cung và tổng cầu .
b. Tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh.
Do tác động không đồng thời về mặt thời gian đối với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đôỉ của vốn đầu tư, dù tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định nền kinh tế của mọi quốc gia.
Rõ ràng, khi tăng vốn đầu tư tổng cầu các nguồn lực tăng lên làm cho giá cả đầu vào tăng lên đến một mức nào đó sẽ dẫn đến hiện tượng lạm phát, nền kinh tế mất ổn định. Mặt khác, khi tăng vốn đầu tư làm cho cầu các yếu tố liên quan tăng, sản xuất ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội, nâng cao đời sống người lao động.
Khi giảm vốn đầu tư, cũng dẫn đến tác động hai mặt nhưng theo chiều hướng ngược lại so với tác động nói trên.
c. Tác động đến sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Vốn đầu tư liên quan đến sự tăng trưởng GNP thông qua hệ số ICOR. Mối quan hệ này được biểu hiện qua mô hình tăng trưởng nền kình tế đơn giản sau đây ( Mô hình Harrod- Domar).
Theo mô hình:
ICOR =
Vốn đầu tư
Mức tăng GNP
Mức tăng GNP= =
Vốn đầu tư
ICOR
Trong đó ICOR: Tỷ lệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GNP phụ thuộc hoàn toàn vào vốn đầu tư. Ví dụ : Việt nam năm 1997 hệ số ICOR là 3,2. Vậy để đạt được mục tiêu tăng trưởng GNP 9% như hiện nay thì vốn đầu tư phải =3,2 x 9 = 28,8% GDP.
Như vậy giữa vốn đầu tư và mức tăng trưởng GNP có quan hệ tỷ lệ thuận, vốn đầu tư tăng thì GNP tăng, vốn đầu tư giảm thì GNP giảm.
d. Tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế.
Sự tăng giảm vốn đầu tư trong các ngành kinh sẽ dẫn đến sự tăng giảm các ngành trong cơ cấu đóng góp GDP cho nền kinh tế quốc dân, dần dần hướng tới một cơ cấu hợp lý, tiến bộ.
Về cơ cấu lãnh thổ, vốn đầu tư có tác dụng giải quyết mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ khác nhau.
e. Tăng cường khả năng khoa học, công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vốn đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là hình thức nào thì cũng cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
2- Các nguồn hình thành vốn đầu tư.
Tuỳ từng giác độ nghiên cứu mà ta có thể phân loại vốn đầu tư khác nhau. Nếu phân theo nguồn gốc của vốn đầu tư ta có thể phân như sau: Bao gồm:
a. Nguồn vốn trong nước.
Đây là một nguồn vốn đóng vai trò chủ chốt, quyết định sự phát triển vững mạnh lâu dài, sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục và ổn định. Nó không những có ý nghĩa to lớn đối với sản xuất kinh doanh trong nội bộ nền kinh tế mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Vốn tích luỹ trong nước có đủ lớn mới có điều kiện xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra cơ sở hạ tầng môi trường đầu tư thuận lợi thu hút và tiếp nhận đầu tư nước ngoài, đồng thời mới giử được thế tự chủ không bị phụ thuộc vào nước ngoài. Bao gồm những nguồn sau :
- Nguồn vốn ngân sách: Nguồn vốn ngân sách chi cho phát triển kinh tế xã hội, đó là khoản chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi thường xuyên của Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra còn từ bán, cho thuê tài nguyên tài sản thuộc khu vực Nhà nước và các khoản phí khác.
- Nguồn vốn của doanh nghiệp: Là phần lợi nhuận còn lại bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh (tái đầu tư).
- Nguồn vốn của dân: Nguồn vốn từ khu vực này ngày càng lớn về quy mô lẫn tỷ trọng so với vốn từ khu vực Nhà nước.
- Nguồn vốn của các tổ chức tín dụng.
b) Nguồn vốn từ nước ngoài.
Theo quan điểm của tổ chức OECD (Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế) thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Là vốn của các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra.
Nguồn vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên với FDI, nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại dễ dàng có được công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc, gián tiếp có chổ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư.
Đặc điểm của hình thức đầu tư này là:
+ Người nước ngoài bỏ vốn đồng thời tham gia quản lý quá trình kinh doanh.
+ Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo luật đầu tư từng nước qui định.
+ Quyền quản lý xí nghiệp tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp vốn.
+ Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần ( nếu có).
- Vốn đầu tư gián tiếp: Là vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau: là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi....
+ Vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA): Đây là khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân nước ngoài cho Việt Nam vay không lấy lãi hoặc với lãi suất ưu đãi để phát triển kinh tế.
+ Vốn viện trợ phi chính phủ (NGO): Đây là khoản viện trợ mang hình thức nhân đạo của các tổ chức phi chính phủ.
Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn cho nên có tác dụng mạnh và nhanh chóng đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay.
3- Nội dung của vốn đầu tư.
Nói chung của vốn đầu tư bao gồm các khoản mục chi phí gắn liền với nội dung của hoạt động đầu tư. Tùy từng giác độ quản lý, các nhà kinh tế phân chia vốn đầu tư tương ứng với các hoạt động sau đây:
a. Trên giác độ quản lý vĩ mô.
Vốn đầu tư được chia thành 4 khoản mục lớn:
- Những chi phí tạo ra tài sản cố định mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định.
- Những chi phí tạo ra tài sản lưu động mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn lưu động và các chi phí thường xuyên gắn với một chu kỳ hoạt động của các tài sản cố định vừa được tạo ra.
- Những chi phí chuẩn bị đầu tư.
- Chi phí dự phòng: Đây là những khoản chi phí được trích ra phòng khi có những biến động, những đột biến xảy ra mà vì nhiều lý do ta không thể biết trước được.
b. Trên giác độ quản lý vi mô.
Nội dung của vốn đầu tư được phân chia chi tiết hơn, tạo điều kiện cho việc quản lý dự án tốt hơn.
- Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm:
+ Chi phí xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng.
+ Mua sắm thiết bị, máy móc sản xuất.
+ Mua sắm thiết bị máy móc vận chuyển.
+ Chi phí ban đầu và đất đai.
+ Chi phí khác.
- Chi phí tạo ra tài sản lưu động.
+ Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí để mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động, chi phí về điện nước, nhiên liệu, phụ tùng...
+ Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hóa bán chịu, vốn bằng tiền.
- Chi phí chuẩn bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi phí nghiên cứu tiền khả thi, chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định các dự án đầu tư.
- Chi phí dự phòng.
II. Kết cấu hạ tầng và nguồn vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng.
1. Kết cấu hạ tầng và vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế.
1.1. Khái niệm.
Kết cấu hạ tầng ngày càng được sử dụng nhiều với tư cách là thuật ngữ khoa học trong các công trình nghiên cứu và các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cao cấp. Tuy nhiên ngay nội dung của thuật ngữ này cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhìn nhận một cách tổng quát chúng ta có thể thấy có 2 loại ý kiến khác nhau xuất phát từ 2 quan niệm theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng của thuật ngữ kết cấu hạ tầng.
Theo nghĩa hẹp, kết cấu hạ tầng được hiểu là tập hợp các ngành phi sản xuất thuộc lĩnh vực lưu thông, tức là bao gồm các công trình vật chất kỹ thuật phi sản xuất và các tổ chức dịch vụ có chức năng bảo đảm những điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những nhu cầu phổ biến của sản xuất và đời sống xã hội. Theo cách hiểu này kết cấu hạ tầng chỉ bao gồm các công trình giao thông, cấp thoát nước, cung ứng điện, hệ thống thông tin liên lạc... và các đơn vị bảo đảm duy trì các công trình này. Cách hiểu này có tác dụng giúp phân biệt khu vực "kết cấu hạ tầng" với chức năng bảo đảm lưu thông, phục vụ cho khu vực sản xuất và các khu vực khác và về nguyên tắc khu vực kết cấu hạ tầng khác hẳn với các khu vực khác của nền kinh tế quốc dân như vận tải tài chính, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội... Tuy nhiên quan niệm kết cấu hạ tầng theo nghĩa hẹp không cho phép thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận vốn không cùng tính chất nhưng lại có mối liên quan mật thiết với nhau trong một hệ thống thống nhất.
Theo nghĩa rộng, kết cấu hạ tầng được hiểu là tổng thể các công trình và nội dung hoạt động có chức năng đảm bảo những điều kiện "bên ngoài" cho khu vực sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Kết cấu hạ tầng là một phạm trù rộng gần nghĩa với "môi trường kinh tế" bao gồm các phân hệ : Phân hệ kỹ thuật (đường, giao thông, cầu cảng, sân bay, năng lượng, bưu chính viễn thông...), Phân hệ tài chính (hệ thống tài chính - tín dụng), Phân hệ thiết chế (hệ thống quản lý nhà nước và pháp luật), Phân hệ xã hội (giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật...). Theo cách hiểu này rõ ràng là rất rộng, bao hàm hầu như toàn bộ khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng hiểu theo nghĩa rộng không đồng nghĩa và lẫn lộn với các phạm trù "khu vực dịch vụ" hoặc là "môi trường kinh tế" ở chỗ kết cấu hạ tầng tạo điều kiện cho các khu vực kinh tế khác nhau phát triển. Như vậy, khu vực kết cấu hạ tầng xét về mặt hình thức là rất rộng, bao gồm các lĩnh vực rất khác nhau từ hệ thống giao thông đến cấp thoát nước, từ thể chế quản lý đến hệ thống đảm bảo thông tin kinh tế...(( ): Lê Du Phong, 1996, Xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị hiện đại phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
)
Kết cấu hạ tầng đô thị xét về mặt cơ cấu bao gồm nhiều bộ phận hợp thành và mỗi bộ phận lại có tính độc lập tương đối về chức năng đặc điểm và phương thức tổ chức đầu tư và quản lý. Cho đến nay, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về kết cấu hạ tầng đô thị nhưng nhìn chung đều thống nhất rằng, kết cấu hạ tầng đô thị bao gồm các bộ phận chủ yếu sau đây:
- Hệ thống giao thông.
- Hệ thống cấp và thoát nước.
- Hệ thống thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải.
- Hệ thống cung cấp năng lượng.
- Hệ thống bưu chính viễn thông.
- Các công việc cây xanh, phục vụ vui chơi giải trí và bảo vệ môi trường.
- Hệ thống chiếu sáng, đến tín hiệu, biển báo giao thông.
- Vận tải hành khách công cộng.
- Nhà ở.
1.2. Vai trò của kết cấu hạ tầng trong sự phát triển nền kinh tế.
Kết cấu hạ tầng chi phối tất cả các giai đoạn phát triển, làm cơ sở cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của nó được thể hiện qua các mặt sau đây:
Quyết định sự tăng trưởng và phát triển nhanh của các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ.
Kết cấu hạ tầng cung cấp dịch vụ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các yếu tố đầu vào và đầu ra, đảm bảo cho qui trình sản xuất và tái sản xuất của đất nước được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục với qui mô ngày càng mở rộng. Trên cơ sở đó làm tăng năng suất lao động và đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, bế tắc đi đến tăng trưởng và phát triển:
b. Tạo ra sự thay đổi căn bản trong cơ cấu nền kinh tế
Kết cấu hạ tầng hiện đại là điều kiện cơ bản cho nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển, đặc biệt trong sản xuất công nghiệp và hoạt động dịch vụ. Sự phát triển của nông thôn nước ta trong những năm gần đây là một chứng minh rõ ràng. Trước đây ở nông thôn, giao thông không phát triển, điện thiếu thốn, hệ thống thông tin liên lạc lạc hậu... nên mọi hoạt động sản xuất ở nông thôn chậm phát triển. Những năm gần đây nhờ hiện đại hóa cơ sở hạ tầng ở nông thôn sản xuất nông nghiệp được thay đổi một cách toàn diện, làm cho cơ cấu nông nghiệp được thay đổi một cách toàn diện, làm cho cơ cấu nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm. Ngược lại tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
c. Tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong nước.
Nước ta có 7 vùng kinh tế lớn: Vùng trung du miền núi phía Bắc, Vùng Đồng bằng sông Hồng, Khu Bốn cũ, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Những vùng có nhiều đô thị lớn có cơ sở hạ tầng tốt thì phát triển nhanh, còn những vùng núi cao, vùng sâu, cơ sở hạ tầng lạc hậu thì phát triển rất chậm làm mất cân đối nền kinh tế của cả nước.
Chúng ta chỉ có thể giảm dần sự phát triển không đồng đều giữa các vùng của cả nước, đồng bộ giữa các vùng.
d. Tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài.
Trong những năm trở lại đây có rất nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Đa số các dự án đó được đầu tư vào các thành phố lớn có cơ sở hạ tầng tốt như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng... Muốn thu hút thành công đầu tư nước ngoài thì chúng ta cần phải tạo ra môi trường đầu tư trong đó cơ sở hạ tầng là một yếu tố quan trọng. ở đây có mối quan hệ tác động qua lại, xây dựng và tạo ra cơ sở hạ tầng tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng chính vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo động lực cho các ngành sản xuất vật chất hoạt động có hiệu quả hơn.
e. Tạo điều kiện để giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân từ đó làm tăng nguồn tích lũy cho nền kinh tế.
Kết cấu hạ tầng phát triển cho phép chúng ta tạo ra được nhiều cơ sở sản xuất vật chất mới, tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế văn hóa giữa các khu vực, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời phân bổ nguồn lao động hợp lý. Hơn nữa, sự xuất hiện của cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới với công nghệ kỹ thuật cao nên sẽ hoạt động hiệu quả hơn mang lại nhiều lợi nhuận hơn, mang lại thu nhập cao cho người lao động.
2. Nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị.
Việc đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá, bến cảng sân bay, mạng cấp điện, hệ thống cấp thoát nước... đòi hỏi một số vốn đầu tư khổng lồ, mà thời gian hoàn vốn về mặt kinh tế thường rất lâu (thường hàng chục năm), do đó hiệu suất vốn thường thấp. Việc phát triển các công trình thuộc kết cấu hạ tầng đô thị trước hết đòi hỏi phải đầu tư tập trung, có kế hoạch thống nhất, sau đó phải căn cứ vào mối quan hệ thống nhất với tổng thể phát triển của đô thị hoặc vùng kinh tế. Các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị có thể được xác định như sau:
a. Vốn Ngân sách nhà nước.
Vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị được hình thành từ tích lũy của nền kinh tế và một số nguồn khác. Theo nguyên tắc quản lý và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển trong Điều lệ quản lý đầu tư và Xây dựng ban hành kèm theo NĐ 42/CP của Chính phủ ngày 16/7/1996 thì vốn ngân sách nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch nhà nước bao gồm:
- Các dự án đầu tư Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh mà không có khả năng thu hồi vốn thì được quản lý và sử dụng theo phân cấp về chi ngân sách cho đầu tư phát triển.
- Đầu tư và hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn cổ phần liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo qui định của pháp luật.
- Chi cho Quĩ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quĩ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình dự án phát triển kinh tế.
b. Vốn tín dụng đầu tư.
Nguồn vốn này được hình thành từ vốn của nhà nước, vốn huy động của các đơn vị trong nước và các tầng lớp dân cư... Nguồn vốn này có thể chia thành 2 nguồn chính : Vốn tín dụng đầu tư ưu đãi của nhà nước và vốn tín dụng thương mại.
- Vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước dùng để đầu tư đối với các dự án Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, các cơ sở sản xuất tạo việc làm các dự án đầu tư quan trọng của nhà nước trong từng thời kỳ (điện, xi măng, cấp thoát nước...) và một số dự án khác của các ngành có khả năng thu hồi vốn đã được xác định trong cơ cấu kế hoạch của nhà nước.
- Vốn tín dụng thương mại dùng để đầu tư xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ các dự án có khả năng thu hồi vốn và có đủ điều kiện vay vốn theo qui định hiện hành. Vốn tín dụng thương mại được áp dụng theo cơ chế tự vay từ trả và thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư và điều kiện vay trả vốn.
c. Vốn thuộc các khoản vay của chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế (kể cả vốn ODA).
Nguồn vốn này đang ngày càng khẳng định vị trí của nó đối với việc thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển nhất là khi nguồn vốn trong nước còn đang hạn hẹp không đáp ứng nhu cầu đầu tư hiện nay. Nó bao gồm một số nguồn chủ yếu sau đây :
- Nguồn vốn ODA: bao gồm các khoản viện trợ và cho vay của nước ngoài với các điều kiện ưu đãi như lãi suất thấp, thời hạn trả nợ lâu... Ngày nay vốn ODA đầu tư cho các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị chiếm tỷ trọng lớn. Thông thường nhà nước là người đứng ra tiếp nhận nguồn vốn này và từ đó quyết định phân bổ cho các dự án đầu tư, đồng thời nhà nước tổ chức trả nợ bằng nhiều nguồn vốn khác nhau bởi vì khi đầu tư vào các công trình hạ tầng kỹ thuật thường không thể hoàn vốn trực tiếp được.
- Nguồn vốn của các tổ chức quốc tế: Đó là nguồn vốn cho vay, viện trợ của các tổ chức như: Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Chương trình Hỗ trợ Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), các tổ chức phi chính phủ. Nguồn vốn này cũng được sử dụng một tỷ trọng lớn để xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng.
d. Vốn thuộc Quĩ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quĩ khác dành cho đầu tư phát triển.
e. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng đô thị
f. Vốn hợp tác liên doanh với nước ngoài trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng.
g. Vốn huy động để phát triển kết cấu hạ tầng khác.
III. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và việc phát triển kết cấu hạ tầng đô thị.
1. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
ODA là một bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt của các nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế. Ngày nay hầu hết các nước đều thừa nhận rằng ODA là một nguồn thu quan trọng cho ngân sách để các nước đang phát triển đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
ODA hình thành và ra đời kể từ những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ II cùng với kế hoạch Marshall nhằm giúp các nước ở Châu Âu phục hồi lại nền kinh tế đã bị chiến tranh tàn phá.
1.1. Những quan điểm về ODA.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới đã có nhiều quan điểm khác nhau ODA. Trước đây, ODA được coi là một nguồn vốn viện trợ ngân sách của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển. Với quan điểm này ODA mang tính tài trợ là chủ yếu.
Ngày nay, trong xu hướng quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế đã hình thành nên một quan điểm hoàn toàn mới về ODA. Quan điểm này cho rằng ODA là hình thức hợp tác phát triển của các nước đã công nghiệp hóa và các tổ chức quốc tế với các nước đang phát triển. Theo quan điểm này, ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản vốn cho vay với điều kiện ưu đãi của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ.
ODA theo quan điểm của chính phủ Việt Nam là sự hợp tác phát triển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hay nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ.
Quá trình phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc sẽ dẫn đến sự liên kết chặt chẽ qua lại về mặt kinh tế giữa các quốc gia và giữa nhiều quốc gia với nhau. Đây là một nhân tố thúc đẩy sự gia tăng về số lượng cũng như chất lượng của ODA. Các nước tài trợ lớn trên thế giới, hàng năm đểu căn cứ vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước mình để từ đó điều chỉnh khối lượng ODA cung cấp cho các nước đang phát triển.
1.2. Các hình thức cung cấp ODA.
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: Gồm các khoản ODA được cung cấp dưới dạng tiền mặt hoặc hàng hóa để hỗ trợ ngân sách của chính phủ.
- Hỗ trợ theo chương trình: Gồm các khoản ODA được cung cấp để thực hiện một chương trình nhằm đạt được nhiều mục tiêu với một tập hợp các dự án thực hiện trong một thời gian xác định tại các thời điểm cụ thể (Chương trình tín dụng ngành của Nhật Bản tài trợ khu vực phát triển giao thông nông thôn, phát triển lưới điện nông thôn, phát triển hệ thống cung cấp nước sinh hoạt ở các thị xã, thị trấn).
- Hỗ trợ kỹ thuật: Nhằm giúp việc phát triển thể chế tăng cường năng lực, chuyển giao công nghệ, cung cấp trang thiết bị, đào tạo nhân lực, hỗ trợ nghiên cứu điều tra cơ bản( Lập qui hoạch, Báo cáo nghiên cứu khả thi...). Một hỗ trợ kỹ thuật có thể bao gồm một số hoặc tất cả nội dung nói trên.
- Hỗ trợ theo dự án: ODA được cung cấp để thực hiện dự án xây dựng phát triển. Có thể bao gồm dịch vụ tư vấn, đào tạo cán bộ tại chỗ hoạc gửi ra nước ngoài.
1.3. Phân loại ODA.
Theo Nghị Định 87/CP của Chính phủ ngày 5/8/1997 về việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA thì ODA được phân thành 2 loại như sau:
- ODA không hoàn lại: Bên nước ngoài cung cấp viện trợ không hoàn lại để thực hiện chương trình dự án ODA (mức độ thỏa thuận theo sự thỏa thuận với bên nước ngoài).
- ODA cho vay: bao gồm
+ ODA cho vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi) là các khoản ODA cho vay có yếu tố không hoàn lại ít nhất là 25 % từ giá khoản vay ưu đãi.
+ ODA cho vay phối hợp: Là các khoản ODA bao gồm kết hợp một phần ODA không hoàn lại (hoặc ODA cho vay ưu đãi) và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển OECD.
1.4. Lĩnh vực ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam.
Theo Nghị Định 87/CP của Chính phủ ngày 5/8/1997 thì ODA là một nguồn vốn quan trọng của ngân sách nhà nước và được ưu tiên sử dụng cho những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
* ODA không hoàn lại được ưu tiên sử dụng cho các chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực.
a. Y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình.
b. Giáo dục và đào tạo.
c. Các vấn đề xã hội (xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, miền núi, cấp nước...).
d. Bảo vệ môi trường môi sinh.
e. Nghiên cứu các chương trình, dự án phát triển.
f. Hỗ trợ ngân sách.
g. Hỗ trợ nghiên cứu khoa học và công nghệ.
h. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước.
i. Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
* ODA cho vay ưu đãi được ưu tiên sử dụng cho các chương trình, dự án xây dựng hoặc cải tạo hạ tầng kinh tế xã hội thuộc các lĩnh vực:
a. Năng lượng.
b. Giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
c. Thủy lợi.
d. Cơ sở hạ tầng khu công nghiệp.
e. Xã hội (các công trình phúc lợi công cộng, giáo dục đào tạo, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường).
f. Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
1.5. Các đối tác cung cấp ODA.
Hiện nay có nhiều nước, nhiều tổ chức cung cấp ODA, mỗi nước và tổ chức đều có điều kiện kèm theo khi cấp ODA. Dưới đây là một số nước và tổ chức cung cấp ODA và điều kiện cung cấp của họ:
1.5.1. Các nước hỗ trợ song phương.
Thông thường trong tổng ODA lưu chuyển trên thế giới, phẫn hỗ trợ song phương chiếm tỷ trọng lớn, nhiều lúc chiếm tới 80%.
a. Các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển (OECD).
Các nước trong ủy ban hỗ trợ phát triển (DAC) là những nước công nghiệp hàng đầu, những nước xuất khẩu tư bản và cung cấp ODA cho những nước đang phát triển. Do có nhiều tiềm lực kinh tế nên các nước DAC là những nước cung cấp ODA nhiều nhất. Trước đây, Mỹ là nước cung cấp ODA lớn nhất trong số các nước DAC nhưng từ những năm 1990 Nhật Bản đã vươn lên vị trí đứng đầu, sau đó Mỹ , Pháp, Đức...
Năm 1990 Liên hợp quốc đã chính thức yêu cầu các nước công nghiệp phát triển hàng năm trích 0,7 % GNP để viện trợ cho những nước đang phát triển. Song tính đến nay rất ít nước đạt được chỉ tiêu này, thậm chí tỷ lệ này đang giảm dần do những khó khăn về tài chính.
b. Các nước thành viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế.
Năm 1991, cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và sự tan rã của các nước Đông Âu, các nước thành viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế cũng đã chấm dứt vai trò của nó. Tuy nhiên, các nước thành viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế trước đây đã có những đóng góp to lớn và có hiệu quả cho nền kinh tế Việt nam
c. Các nước đang phát triển.
Một số nước đang phát triển cũng cung cấp ODA như ả Rập Xê út, Cô Oét, UAE, ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan nhưng lượng ODA không lớn lắm.
1.5.2. Các tổ chức hỗ trợ đa phương.
Các tổ chức đa phương gồm có các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu, NGO, và các tổ chức tài chính quốc tế.
a. Các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc.
Hỗ trợ của các tổ chức thuộc Liên hợp quốc thường được thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, ưu tiên cho các nước đang phát triển có thu nhập thấp và đang có chương trình cải cách kinh tế thực sự. Các tổ chức hỗ trợ chủ yếu là:
+ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP).
+ Tổ chức phát triển công nghiệp thế giới (UNIDO).
+ Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
+ Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA).
+ Chương trình lương thực thế giới (WFP).
b. Liên minh châu Âu (EU).
Thành viên của Liên minh Châu Âu phần lớn là các nước công nghiệp phát triển, nguồn quỹ tổ chức này rất lớn.
c. Các tổ chức tài chính quốc tế.
+ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
+ Ngân hàng thế giới (WB).
+ Ngân hàng phát triển châu á (ADB).
+ Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC).
+ Quỹ Cô Oét.
Nhìn chung hỗ trợ đa phương ít bị ràng buộc bởi điều kiện chính trị hơn song nó vẫn bị chi phối lón các hội viên "nặng ký" trong các tổ chức cung cấp ODA đa phương.
2. Vai trò của các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức đối với sự phát triển kết cấu hạ tầng đô thị.
Trong xu hướng quốc tế hóa toàn cầu và chuyên môn hóa như ngày nay sẽ dẫn đến sự liên kết chặt chẽ của các nền kinh tế thế giới. Lợi ích kinh tế và mục đích cạnh tranh trên thương trường sẽ buộc các nước có thị trường phát triển, các công ty đa quốc gia tìm mọi cách giảm giá thành. Các nước phát triển có xu hướng đầu tư vào những nước đang phát triển và những nước nghèo, nơi có nguồn nhân công dồi dào thị trường chưa phát triển. Để hỗ trợ các nước đang phát triển và tạo điều kiện cho việc đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước phát triển thường tài trợ cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
Như vậy, những lợi ích mà nguồn vốn ODA mang lại không những cho đối với những nước tiếp nhận ODA mà còn đem lại những hiệu quả nhất định đối với các tổ chức cho vay và tài trợ ODA.
Nguồn vốn ODA sẽ nâng cao uy tín về mặt chính trị của các nước, các tổ chức các nước vay và tiếp nhận ODA nhờ có nguồn vốn này mà sẽ ổn định về mặt kinh tế từ đó góp phần ổn định về mặt chính trị.
2.1. Đối với các nước vay và tiếp nhận tài trợ ODA.
Thông thường các nước đi vay và tiếp nhận tài trợ từ bên ngoài đều là những nước đang phát triển hoặc kém phát triển. Các nước này có hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu dẫn đến năng suất lao động thấp từ đó tích lũy cho nền kinh tế thấp. Ví dụ như một số nước đang phát triển là Việt nam , Lào, Philippin... do có cơ sở hạ tầng yếu kém, nền kinh tế kém phát triển nên thu nhập bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với nước khác Việt nam khoảng 300 USD/người/năm, Philippin là 900 USD/người/năm và Lào là 200 USD/người/năm chỉ đáp ứng được nhu cầu không có tích luỹ.
Kết cấu hạ tầng là tiền đề để phát triển nền kinh tế. Kết cấu hạ tầng nghèo nàn sẽ kìm hãm nền kinh tế phát triển. Vì vậy, muốn phát triển trước hết phải đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Nhu cầu phát triển đòi hỏi nước này phải có lượng vốn đầu tư nhất định dành cho phát triển để đáp ứng. Nguồn vốn đầu tư dành cho phát triển thường được tích lũy từ ngân sách trong nước rất thấp và không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển.
Trong khi đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ bên ngoài thường chỉ tập trung vào những lĩnh vực, những ngành có khả năng thu hồi vốn cao, đem lại lợi nhuận cao... nên không thích hợp vào những lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng là những lĩnh vực đòi hỏi khối lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu và thường gặp nhiều khó khăn. Như vậy, các nước đang phát triển thường phải dựa vào nguồn vốn ODA để phát triển nền kinh tế.
ODA đã thực sự trở thành nguồn vốn quan trọng, đáp ứng những yêu cầu cấp bách về cân đối ngân sách, đầu tư phát triển và tiêu dùng thường xuyên. Trước những năm 1990, khi nền kinh tế chưa có tích luỹ nội bộ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhìn chung chủ yếu dựa vào viện trợ từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Từ đó đất nước ta mới từng bước khắc phục khó khăn và khôi phục nền kinh tế .
Cho vay và tài trợ quốc tế để phát triển kết cấu hạ tầng là chính sách mà các nước phát triển và các tổ chức thường áp dụng để hỗ trợ cho các nước đang phát triển. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu về vốn đầu tư dành cho phát triển của các nước đang phát triển. ở Việt nam hiện nay nhu cầu đầu tư phát triển rất lớn, trong khi đó nguồn tài chính trong nước dành cho đầu tư phát triển còn bị hạn chế, chỉ đáp ứng được tối đa khoảng 50%, phần còn lại là thu hút vốn đầu tư nước ngoài bao gồm cả FDI và ODA. Trong bối cảnh nguồn vốn FDI đang bị suy giảm do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực, nên nguồn vốn ODA ngày càng có vai trò quan trọng đối với công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước.
Các nước đang phát triển coi nguồn vốn ODA là một nguồn thu ngân sách đáng kể, góp phần làm tăng tỷ trọng đầu tư cho phát triển từ ngân sách nhà nước. Các nước tiếp nhận thường sử dụng nguồn vốn ODA vào phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện những chương trình đầu tư quốc gia đặc biệt là những dự án cải tạo, nâng cấp, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, làm cơ sở để tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy sản xuất, thực hiện các kế hoạch cải cách giáo dục, bảo vệ môi trường sinh thái...
Trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, vai trò của nguồn vốn ODA được thể hiện ở những lợi ích mà nó đem lại như sau:
- Thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua đầu tư phát triển các công trình thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng phát triển kết cấu hạ tầng là tiền đề để phát triển kinh tế. Những dự án phát triển kết cấu hạ tầng sử dụng nguồn vốn ODA thường là những dự án lớn, xây dựng những công trình hạ tầng quan trọng đối với nền kinh tế. Ví dụ: Trước những năm 1990, các công trình như Nhà máy thủy điện Trị An, Nhà máy giấy Bãi Bằng, Cầu Thăng Long... được hình thành đã kịp thời đáp ứng những bức xúc lúc bấy giờ. Trong thời gian gần đây nhiều dự án như: Cải tạo và nâng cấp Quốc Lộ1, Cầu Sông Gianh, Thuỷ điện Hoà Bình... đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
- Nhờ vào nguồn vốn ODA các nước đi vay và tiếp nhận tài trợ có thể thực hiện được những dự án phát triển kết cấu hạ tầng có vốn đầu tư lớn mà nguồn vốn đầu tư từ ngân sách trong nước không đủ để đáp ứng được. Như các dự án Cầu Mỹ Thuận, Quốc Lộ 5, Xây dựng cảng Cái Lân...
- Các dự án hoặc các chương trình đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng có sử dụng nguồn vốn ODA hầu hết là những công trình có mức độ kỹ thuật phức tạp, yêu cầu trình độ công nghệ cao mà trình độ công nghệ hiện đại của các nước đi vay và tiếp nhận tài trợ khó có thể đáp ứng được. Vì vậy thông qua thực hiện các dự án và chương trình vay vốn và tài trợ, việc chuyển giao công nghệ sẽ được thực hiện. Các nước đi vay và tiếp nhận tài trợ ODA có thể thu nhận những công nghệ mới phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình.
- Thông qua quá trình nghiên cứu, triển khai và quản lý đối với các dự án và chương trình đầu tư phát triển từ nguồn vốn ODA , trình độ cán bộ thực hiện và quản lý được nâng cao. Do được làm việc với các chuyên gia nước ngoài hoặc được gửi ra nước ngoài đào tạo. Những cán bộ tham gia này sẽ tiếp thu được những tri thức mới, những phương pháp làm việc tiên tiến hiện đại và hoàn cảnh cụ thể của nước mình.
- Sử dụng nguồn vốn ODA sẽ góp phần nâng cao điều kiện sống cho người dân. Khi sử dụng nhiều nguồn vốn ODA ở những vùng xa, vùng khó khăn các dự án trồng rừng, đắp đê ven biển, nâng cấp trường vùng bị bão lụt, các dự án thuỷ lợi nhỏ... đã góp phần cải thiện điều kiện sống của nhân dân trong vùng. Các chương trình tín dụng nông thôn, giao thông nông thôn, nước sạch... đang góp phần làm thay đổi cơ cấu sản xuất của nông nghiệp từ đó nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời các dự án góp phần tăng phúc lợi công cộng và cải thiện điều kiện môi trường.
Bên cạnh những đóng góp tích cực, vai trò của ODA còn thể hiện ở những mặt tiêu cực sau:
Những dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường có vốn đầu tư lớn. Vì vậy khi tiếp nhận, một phần khó khăn là nước tiếp nhận phải cần có một nguồn vốn đối ứng. Còn khi thực hiện xong dự án vấn đề trả nợ cũng đang là vấn đề nan giải của Chính phủ.
Những dự án ODA thường gắn liền với mục đích chính trị xã hội, nên những nước tiếp nhận thường bị phụ thuộc vào những nước viện trợ.
2.2. Đối với các nước hoặc các tổ chức cung cấp ODA.
Mục tiêu chủ yếu của việc cho vay và tài trợ ODA là nhằm thu được lợi ích nhất định (có thể lợi ích về mặt kinh tế hoặc về mặt chính trị và xã hội). Về khía cạnh lợi ích thì cho vay và tài trợ có thể coi đó là một hình thức đầu tư gián tiếp nhất là đối với lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng. Tuy nhiên đây là lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn lâu. Đối với những dự án hay chương trình đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nhất là các dự án hay chương trình dưới hình thức ODA viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi với mức lãi suất thấp và thời gian ân hạn dài thì việc đầu tư vào lĩnh vực này có thể xem như hoàn toàn không có lãi. Nhưng các chính phủ, các tổ chức quốc tế vẫn đầu tư vào lĩnh vực này, thậm chí nhiều nước mặc dù vận phải đi vay những vẫn cung cấp tài trợ cho nước khác, điều này chứng tỏ rằng việc cho vay và tài trợ gắn liền với mục đích về chính trị và xã hội.
Mục đích chính trị của hoạt động cho vay và tài trợ có thể thấy rõ ràng trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Trong thời kỳ này, nhiều nước lớn đã sử dụng hình thức cho vay và tài trợ với mục đích lôi kéo đồng minh. Như Liên Xô luôn viện trợ cho những nước nằm trong khối xã hội chủ nghĩa là Việt nam, các nước Đông Âu, Cuba... Cuộc khủng hoảng kinh tế trong thời gian gần đây ở một số nước như Thái Lan, Inđônêxia, Nga... cũng là một ví dụ cụ thể về mục đích chính trị của hoạt động cho vay. Các tổ chức tài chính lớn như IMF, ADB... khi cam kết cho vay đã kèm theo nhiều điều kiện nhất định về mặt chính trị đối với một số nước đang bị khủng hoảng. Như vậy, ngày nay các nước và các tổ chức tài trợ vẫn sử dụng nguồn vốn cho vay và tài trợ với mục đích chính trị.
Tuy nhiên hoạt động cho vay cũng thường đi kèm với lợi ích kinh tế vì nói chung mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng kinh tế song song với việc duy trì quan hệ chính trị trên cơ sở hợp tác đối thoại phát triển và phồn vinh.
Cho vay và tài trợ thông thường được các nước và các tổ chức cho vay và cung cấp tài trợ sử dụng như là một công cụ để buộc các nước vay hoặc tiếp nhận tài trợ thay đổi chính sách kinh tế - xã hội và đối ngoại cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Các nước đi vay hoặc tiếp nhận tài trợ thông thường cũng phải đáp ứng yêu cầu của bên tài trợ như là cải cách về kinh tế và hành chính theo mẫu mà bên tài trợ đưa ra. Điển hình trong vấn đề này là các tổ chức như WB, IMF thường chỉ cho vay và hỗ trợ những nước đang phát triển và những nước này phải cam kết điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo tiến trình và tiêu chuẩn của các tổ chức này yêu cầu. Trường hợp này thể hiện rõ ở Thái Lan năm 1997, IMF viện trợ cho Thái Lan và yêu cầu Chính phủ Thái Lan thực hiện đúng theo yêu cầu của họ.
Một khía cạnh khác của vấn đề này là nước đi vay hoặc tiếp nhận tài trợ thường phải nhập khẩu các thiết bị, hàng hóa, nguyên liệu từ nước tài trợ hoặc từ nơi nhà nước tài trợ yêu cầu. Tuy vậy, những thiết bị hàng hoá đó có thể là những loại cũ kỹ, lạc hậu... mà những nước tiếp nhận phải chấp nhận.
Các nước tài trợ thường sử dụng việc tài trợ của mình để tạo mối quan hệ, thăm dò thị trường, tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn khi đầu tư vào các nước này. Từ đó, chuẩn bị cho quá trình đầu tư trực tiếp vào các nước này.
IV. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển trong việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA.
1. Công tác thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA của các nước đang phát triển.
1.1. Philippin.
Theo số liệu báo cáo tháng 6/1997 của ngân hàng thế giới, tính đến cuối năm 1996, tổng mức cam kết đối với các chương trình dự án đang thực hiện là 12,5 tỷ USD, mức giải ngân hàng năm vào khoảng 1,4 - 1,5 tỷ USD và được đánh giá là nước có mô hình quản lý và sử dụng vốn ODA tương đối tốt. Một trong những nguyên nhân tiến bộ do Chính phủ Philippin đã quan tâm đã tổ chức tốt hệ thống theo dõi thực hiện và đánh giá các chương trình dự án ODA.
- Khuôn khổ pháp lý và cơ cấu tổ chức theo dõi và đánh giá chương trình, dự án ODA.
Việc theo dõi thực hiện và đánh giá các dự án ODA đã được Chính phủ quan tâm từ nhiều năm và ngày càng được hoàn thiện. NEDA (National Economic and Development Authority) là cơ quan đầu mối của chính phủ, có trách nhiệm tổng hợp và báo cáo lên tổng thống tình hình thực hiện và đánh giá các chương trình, dự án ODA. Đặc biệt tháng 11/1996 tổng thống Philippin đã ký đạo luật về ODA, trong đó qui định trách nhiệm báo cáo của các cơ quan liên quan thực hiện chương trình dự án ODA.
- Chế độ báo cáo thực hiện các chương trình, dự án ODA được qui định như sau:
Không quá 4 tuần sau khi kết thúc quí, các cơ quan thực hiện ODA phải báo cáo lên NEDA các nội dung sau:
+ Kế hoạch và thực hiện các chỉ tiêu về hiện vật.
+ Phân bố ngân sách, chi phí và giải ngân các khoản vay và viện trợ.
+ Đề nghị về chi phí từng tháng trong quí tới cơ quan quản lý vốn.
+ Những vấn đề gây chậm quá trình thực hiện.
+ Kiến nghị biện pháp giải quyết các vấn đề gây chậm quá trình thực hiện dự án.
+ Các thông tin khác để có thể tăng khả năng đánh giá quá trình thực hiện dự án.
Trong thời gian 6 tuần sau khi kết thúc thời kỳ đánh giá, NEDA phải báo cáo lên Tổng thống tình hình thực hiện toàn bộ các chương trình dự án ODA.
Hệ thống cơ quan theo dõi và đánh giá dự án dược tổ chức từ cấp quốc gia tới cấp vùng và tỉnh. Trên cơ sở báo cáo của các cơ quan thực hiện dự án, tùy theo từng cấp mà các cơ quan theo dõi dự án chuyển các thông tin về những vấn đề cần giải quyết đến các cơ quan liên quan. Qua đó, các cơ quan có trách nhiệm sẽ kịp thời tìm ra các biện pháp giải quyết, thúc đẩy quá trình thực hiện dự án.
- Công cụ theo dõi và đánh giá dự án.
NEDA đã ban hành các mẫu biểu báo cáo thống nhất cho các cơ quan thực hiện dự án. Các mẫu biểu đã phản ánh được kế hoạch và thực tế thực hiện chương trình dự án ODA bao gồm các chỉ tiêu về tài chính, khối lượng hiện vật, tình trạng và các vấn đề vướng mắc cần giải quyết. Số liệu được cập nhật và xử lý qua hệ thống mạng trong NEDA và nối sang một số cơ quan liên quan. Các thông tin đầu ra tạo được các biểu báo cáo theo ngành, tài trợ lãnh thổ, tình trạng dự án và các biểu đồ so sánh.
1.2. Malaysia.
So sánh Malaysia và Philippin, 2 nước cùng trong nhóm ASEAN thì ta thấy giải ngân ODA của Malaysia luôn ít hơn Philippin cả về giá trị tuyệt đối lẩn tỷ trọng trong GNP. Trong khi đó thì Malaysia lại có nền kinh tế phát triển bên vững hơn Philippin.
Bảng 1. So sánh giữa Malaysia và Philippin.
Năm
Nước
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Malaysia
- Giải ngân ODA (tr USD)
- ODA / GNP (%)
- GNP (%)
- GDP /đầu người
469
1,1
9,4
2400
289
0,6
2540
206
0,3
7,8
2830
94
0,15
8,3
3140
68
0,10
8,4
9,6
Philipppin
- Giải ngân ODA (tr.USD)
- ODA / GNP (%)
- GNP (%)
- GDP /đầu người
1279
2,9
2,5
750
1051
2,3
760
1716
3,1
0,3
800
1487
26
1,5
850
1057
1,3
4,5
5,3
Nguồn : World Table 1996
World Development Report 1996
Những nguyên nhân thành công của Malaysia :
- Malaysia đã có chiến lược phát triển phù hợp hoàn cảnh điều kiện cụ thể của đất nước và luôn có nỗ lực điều chỉnh chính sách từng giai đoạn. Đó là điều luôn được các tổ chức cho vay quốc tế, đặc biệt là WB khẳng định là một trong những yếu tố quyết định tính hiệu quả trong sử dụng nguồn vốn, bất kể là nguồn vốn trong hay ngoài nước.
- Trên cơ sở phát triển kinh tế, Malaysia đã có được năng lực nội tại để tạo vốn từ bên trong, giảm sự lệ thuộc về vốn bên ngoài và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tự tạo của mình.
1.3. Hàn Quốc.
Tài trợ nước ngoài là nguồn tài chính lớn để bù đắp thâm hụt cán cân thanh toán những năm 50-60 và đầu những năm 70. Hơn 70% nhập khẩu được trang trải bằng tài trợ nước ngoài trong suốt thời kỳ khôi phục đất nước sau chiến tranh trong giai đoạn 1953-1960. Chỉ riêng từ 1945-1960 Hàn Quốc đã tiếp nhận 70% lượng vốn ODA nước ngoài cho nước này. Nhập khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng, lương thực thực phẩm, chỉ có 10% hàng nhập khẩu là nhằm mục tiêu đầu tư. Nhờ có tài trợ nước ngoài mà các vấn đề nghèo đói, bệnh bật bị đẩy lùi, mức sống của dân Hàn Quốc vẫn được giữ ở mức cao.
Mỹ là nước cấp viện trợ chủ yếu cho Hàn Quốc, có nhiều thay đổi trong chính sách hỗ trợ mới buộc Hàn Quốc phải có chiến lược phát triển dài hạn dựa vào nguồn vốn vay nước ngoài. Từ những năm 70, Hàn Quốc chấm dứt nhận ODA, giảm FDI và chỉ sử dụng nguồn vốn vay thương mại.
2- Bài học kinh nghiệm rút ra trong công tác thu hút quản lý và sử dụng các nguồn vốn ODA để phát triển của các nước đang phát triển.
Qua thực tiễn huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn ODA của các nước đang phát triển, chúng ta có thể rút ra những bài học thành công và thất bại của các nước này. Sự thành công hay thất bại của các nước được nhìn nhận trên các nội dung sau:
- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
- Các qui định pháp luật cho việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn vay và tài trợ.
- Hệ thống các cơ quan quản lý cấp trung ương, cấp ngành và địa phương.
- Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan có liên quan đến các chương trình, dự án sử dụng các nguồn vốn vay và tài trợ.
- Hệ thống theo dõi và đánh giá dự án.
- Phát huy nguồn nội lực nhằm hỗ trợ và giảm sự lệ thuộc vào các nguồn vốn từ bên ngoài.
- ứng dụng hệ thống tin học vào quá trình quản lý các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn vay và tài trợ từ bên ngoài.
2.1. Bài học thất bại.
- Mục đích sử dụng ODA không hợp lý
- Tính không xác đáng của nguồn vốn và mối quan hệ qua lại giữa nó và viện trợ mới.
- Thiếu dự trù trước, dự trù dài hạn các luồng vốn và bảo đảm tính liên tục của chúng.
- Mối liên hệ giữa hỗ trợ và chính sách phát triển của nước tiếp nhận.
- Sự phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài có chiều hướng tăng hơn vì chương trình cấp vốn nhỏ giọt.
2.2. Bài học thành công.
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới những nước nổi tiếng về quản lý thành công dự án hỗ trợ nước ngoài đó là Hàn Quốc, Chi Lê, Malaysia... Việc đánh giá về phối hợp và quản lý ODA đã rút ra những đặc trưng chung ở những nước này :
- Có sự nhất trí trong chính phủ về mục tiêu của quốc gia chính sách và danh mục ưu tiên chi tiêu được xác định rõ ràng.
- Thiết lập các đơn vị phối hợp thực hiện hỗ trợ ở cấp trung ương và địa phương. Các đơn vị này giữ mối liên hệ thường xuyên với các bộ ngành chủ quản và với các bộ phận quản lý viện trợ.
- Cân nhắc kỹ chiến lược tài trợ:
+ Tầm cỡ mức độ tài trợ.
+ Yêu cầu loại nguồn vốn tài trợ nước nào.
+ Những chỉ số và điều kiện được cho là có thể chấp nhận được.
+ Mục tiêu của nước cấp
+ Tài trợ cho dự án
+ Thủ tục thực hiện rõ ràng
+ Các bộ phận đảm nhiệm kiểm tra quá trình viện trợ
- Chuyên môn hóa về chiều sâu: Chiến lược đào tạo nhằm hình thành đội ngũ cán bộ kỹ thuật
- Tăng cường kế hoạch hóa lẫn ngân sách hóa và quản lý nguồn ODA từ bên ngoài ở cùng một cơ sở. Mối liên hệ khăng khít giữa trung tâm kinh tế với các bộ phận quản lý viện trợ, cơ chế điều phối chính sách mức độ có hiệu quả cao.
- Thường xuyên lập các kế hoạch mang tính chất thực tế và các chương trình đầu tư công cộng kế tiếp nhau, coi đó là phương tiện để phối hợp chính sách của chính phủ, phổ biến rộng rãi những chính sách đó, lên chương trình thực hiện các ưu tiên chỉ tiêu trung hạn.
- Phải đưa các dự án triển khai thực hiện toàn bộ ODA đã được cung cấp vào ngân sách hàng năm, phân tách quĩ phát triển và quĩ định kỳ trong ngân sách. Chính phủ phải có một hệ thống quản lý tài chính đảm bảo vận hành tốt.
- Chú ý chặt chẽ nghiên cứu chọn lọc dự án và giám sát thực hiện dự án.
Phải có khả năng quản lý nợ nước ngoài trên cơ sở dữ liệu có hệ thống và dự đoán tình hình tiền tệ. Xác định điều đó trong các nhóm trung tâm và các cơ quan chức năng quản lý khác.
Tạo môi trường đầu tư trực tiếp hấp dẫn.
Chương II
Thực trạng công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA để phát triển kết cấu hạ tầng đô thị ở thành phố Hà Nội
I. Khái quát tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam.
1. Tình hình hợp tác phát triển.
Vào những năm cuối của thập kỷ 80 và những năm đầu của thập kỷ 90, tình hình quốc tế diễn biến có nhiều phức tạp. Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu đã có những tác động tiêu cực đến sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Nguồn tài trợ nước ngoài chủ yếu ở các nước này đã hoàn toàn chấm dứt vào năm 1991, trong khi đó quan hệ hợp tác phát triển với cộng đồng quốc tế chưa được nối lại.
Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm qua (1986-1996) Việt Nam đã rút ra một trong những bài học chủ yếu là “Mở rộng sự hợp tác quốc tế tranh thủ dợ ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại”.
Chính sách ngoại giao mở cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế xã hội Việt Nam đã đạt được những thành tựu rõ rệt và tạo ra môi trường thuận lợi cho việc thiết lập quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế. Thêm vào đó, việc Mỹ không chống lại quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) nối lại chương trình cho Việt Nam vay tiền và các nước bạn bè đã hỗ trợ Việt Nam thu xếp khoản nợ quá hạn với Quỹ đã phát tín hiệu thuận lợi để triệu tập Hội nghị quốc tế các nhà tài trợ dành cho Việt Nam. Ngày 9/11/1993 hội nghị quốc tế các nhà tài trợ dành cho Việt Nam đã khai mạc ở Pari, đánh dấu sự hội nhập của Việt Nam với cộng đồng tài trợ quốc tế, tạo ra những cơ hội quan trọng để hỗ trợ Việt Nam tiến hành công cuộc phát triển nhanh và bền vững. Tham gia hội nghị này bao gồm 22 quốc gia và 17 tổ chức quốc tế.
Thành công của hội nghị thể hiện ở chỗ Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế thông qua đối thoại trên tinh thần thẳng thắn và xây dựng về con đường phát triển của Việt Nam, đồng thời các nhà tài trợ cam kết dành ODA cho Việt Nam trị giá 1,86 tỷ USD.
Hội nghị các nhà tài trợ cũng đã đồng ý thiết lập diễn đàn đối thoại thường niên giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế thông qua Hội nghị nhóm tư vấn do Ngân hàng thế giới (WB) chủ trì và tổ chức có sự tham khảo ý kiến của Chính phủ Việt Nam và Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP). Từ đó đến nay 5 hội nghị nhóm tư vấn đã được tổ chức, 2 lần tại Pari, lần thứ 3 tại Hà Nội và hội nghị lần thứ tư được tổ chức tại Tôkyo, Nhật Bản vào ngày 11,12/12/1997, lần thứ 5 vào tháng 12/1998 ở Pari.
Hội nghị này đã trở thành một diễn đàn hữu ích đối với cả hai phía, tại đây Việt Nam và các nhà tài trợ sẽ chia sẻ thông tin trao đổi ý kiến về: Những kết quả phát triển kinh tế xã hội trong năm qua ở Việt Nam, những biện pháp tăng cường và đẩy mạnh cải cách kinh tế, tiếp nhận viện trợ và công tác quản lý nguồn lực này, cam kết ODA hàng năm mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam.
Bên cạnh hội nghị nhóm tư vấn là diễn đàn đối thoại thường niên, Chính phủ Việt Nam còn phối hợp với WB, UNDP và một số nhà tài trợ khác, tổ chức các hội nghị điều phối theo ngành. Những hội nghị này cung cấp khả năng trao đổi ý kiến sâu rộng giữa chuyên gia Việt Nam và chuyên gia quốc tế về nội dung chuyên ngành về phía nhà tài trợ, các cuộc gặp hàng tháng giữa đại diện của nhà tài trợ thành viên nhóm tư vấn do UNDP tổ chức đã tạo điều kiện để chia sẽ thông tin, trao đổi các ý tưởng và đưa ra những khuyến nghị về quá trình phát triển của Việt Nam.
Căn cứ vào chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 và các phương hướng, mục tiêu ưu tiên của kế hoạch 5 năm 1991-1995 và 1996-2000, phù hợp với hiến chương ODA nói chung cũng chỉ như tôn chỉ và mục đích về hỗ trợ phát triển chính thức của các nhà tài trợ, trong thời gian qua việc sử dụng ODA đã định hướng vào việc hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của Việt Nam.
2. Các đối tác tài trợ
Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay ở Việt nam có 24 đối tác hợp tác phát triển song phương, đó là Ôxtrâylia, Bỉ, Canada, Trung quốc, Cộng hoà Séc, Đan mạch, Phần lan, Pháp, Đức, Italia, Nhật bản, Na uy, Singapo, Tây ban nha, Thụy điển, Thụy sĩ, Thái lan, Anh, Mỹ. Ngoài ra, một số nước khác cũng cung cấp cho Việt nam hỗ trợ kỹ thuật thông qua các khoá đào tạo ngắn hạn, như Malaysia, Philipin, Indonexia... Mười lăm đối tác hợp tác phát triển đa phương gồm có Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Cộng đồng châu âu (EC), Tổ chức nông nghiệp và lương thực (FAO), Công ty tài chính quốc tế (IFC), Quỹ phát triển nông nghiệp (IFAD), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Cao uỷ Liên hiệp quốc về người tị nạn (UNHCR), Tổ chức phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO), Quỹ dân số của Liên hiệp quốc (UNFPA), Ngân hàng thế giới (WB), Chương trình lương thực thế giới (WFP), Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Hơn 300 các tổ chức phi chính phủ (NGO) đang hoạt động tại Việt nam, trong số này có nhiều tổ chức đã đặt văn phòng đại diện tại Việt nam.
3. Hình thức cung cấp, quy trình dự án và hình thức thực hiện của các nhà tài trợ.
Đa phần các nhà tài trợ hiện đang hoạt động tại Việt nam đều có chương trình hợp tác phát triển trung hạn và dài hạn dưới dạng khuôn khổ hợp tác chiến lược quốc gia, văn bản thoả thuận, chương trình hợp tác phát triển theo tài khoá... Bên cạnh đó còn có một số nhà tài trợ song phương chưa có chương trình hợp tác quốc gia, đáp ứng nhu cầu ODA một cách nhất thời thông qua một số dự án, chương trình cụ thể.
Trong số các nhà tài trợ, đa số các nhà tài trợ cung cấp cả ODA vốn vay và ODA không hoàn lại. Riêng vốn vay ODA cũng có nhiều hình thức khác nhau. Có nhà tài trợ chỉ cung cấp một hình thức vốn vay ưu đãi, thí dụ Nhật Bản. Có nhà tài trợ cung cấp vốn viện trợ không hoàn lại như úc, Canada...
Các hình thức cung cấp ODA rất phong phú và đa dạng, bao gồm các chương trình và khoản vay bằng tiền mặt hoặc hàng hoá để hỗ trợ ngân sách chính phủ Việt Nam, Các chương trình nhằm thực hiện một hoặc nhiều mục tiêu với một tập hợp nhiều dự án, các dự án hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực của các cơ quan Việt Nam. Chuyển giao công nghệ thông qua việc cung cấp chuyên gia...Các nhà tài trợ có các quy định khác nhau về hình thức hợp thức hoá các dự án ODA. Đa phần các trường hợp văn kiện dự án được ký kết giữa nhà tài trợ và cơ quan liên quan của Việt Nam được chính phủ uỷ quyền tạo thành cơ sở pháp lý cho việc thực hiện dự án. Trong một số trường hợp khác cơ sở pháp lý là thư trao đổi hoặc hiệp định bổ sung giữa các nhà tài trợ và cơ quan liên quan Việt Nam được chính phủ uỷ quyền.
Về hình thức thực hiện dự án ODA, tuỳ thuộc vào các quy định của các nhà tài trợ, thông thường có ba hình thức sau:
Đấu thầu cạnh tranh quốc tế.
Đấu thầu hạn chế hoặc chào hàng cạnh tranh giữa các công ty của nước được cung cấp ODA.
Nước cung cấp ODA chỉ định công ty của nước mình thực hiện dự án ODA.
Đối với nhiều chương trình, dự án ODA trong thời gian qua đã thực hiện phương thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế, nhờ vậy cơ quan hưởng thụ Việt Nam đã lựa chọn được các công ty thực hiện dự án vừa đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật và công nghệ và tiết kiệm được vốn vay.
4. Tình hình cam kết.
Tính đến hết năm 1998, qua 5 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) dành cho Việt Nam, tổng số ODA cam kết cho Việt Nam của các nhà tài trợ là:
Bảng 2: Cam kết vốn ODA
Đơn vị: tỷ USD.
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tổng
Cam kết ODA
1,18
1,94
2,26
2,43
2,4
2,2
13,04
Nguồn: TB kinh tế số 31/99.
Số vốn ODA cam kết nói trên đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chương trình đầu tư phát triển của Việt Nam bao gồm cả cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Số vốn cam kết này được sử dụng trong nhiều năm để thực hiện các chương trình và dự án theo sự thoả thuận giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.
5. Tình hình ký kết các điều ước quốc tế.
Hình thức của các điều ước quốc tế về ODA rất phong phú, phổ biến là hiệp định, văn kiện dự án, nghị định thư, bản ghi nhớ, chương trình.
Các điều ước quốc tế về ODA khung quy định những nguyên tắc chủ yếu liên quan đến việc sử dụng khoản ODA đã được cam kết (mục tiêu, lĩnh vực ưu tiên, thể thức mua sắm, trách nhiệm các bên...) Các điều ước quốc tế về ODA là các hiệp định, chương trình, văn kiện, dự án ODA cụ thể.
Căn cứ vào chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, căn cứ vào quy hoạch ODA, trong thời gian qua việc sử dụng ODA đã định hướng vào việc hỗ trợ cơ sở hạ tầng kinh tế Việt Nam.
Bảng 2: Cơ cấu ngành vốn ODA đã được ký kết.
Ngành
Tỷ lệ (%)
Tổng số
100
Trong đó:
1.Năng lượng điện
25
2.Giao thông vận tải
19
3.Tác dụng điều chỉnh cơ cấu
16
4.Nông lâm thuỷ sản bao gồm cả thuỷ lợi
13
5.Y tế, xã hội giáo dục đào tạo
11
6.Cấp thoát nước
7
7.Các ngành khác
9
Nguồn: Nhìn lại 5 năm thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam, Bộ kế hoạch đầu tư tháng 12/1997
- Năng lượng điện là lĩnh vực có cơ sở hạ tầng kinh tế hàng đầu của Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay. Trong thời gian qua, đến 25% nguồn vốn ODA đã ký kết, chủ yếu là ODA vay vốn ưu đãi đã được sử dụng cho lĩnh vực này, 7 nhà máy điện lớn (Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm thuận - Đa mi, Sông Hinh, Đa nhim, Phả lại 2, Trà nóc ) đang được xây dựng mới hoặc cải tạo mở rộng, trong đó có 4 nhà máy nhiệt điện và 3 nhà máy thuỷ điện có công suất lắp đặt chiếm hơn 40% tổng công suất điện Việt nam dự kiến phát triển trong 5 năm 1996-2000. Đi đôi với việc phát triển nguồn điện, hệ thống nguồn dây tải điện và lưới điện phân phối, các trạm biến thế ở nhiều thành phố lớn, tỉnh và một số vùng nông thôn và miền núi đang được đầu tư cải tạo và xây dựng mới bằng nguồn vốn ODA.
- Những công trình giao thông chủ chốt của nền kinh tế Việt nam đã được thực hiện bằng nguồn vốn ODA. Đó là cải tạo nâng cấp và phát triển các đường quốc lộ huyết mạch như Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, xây dựng cầu Mỹ Thuận, xây dựng cảng Cái Lân, phát triển giao thông nông thôn...
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và miền núi cũng được sự hỗ trợ bằng nguồn vốn ODA thông qua một loạt các dự án phát triển mía đường ở nhiều tỉnh, chương trình phát triển cà phê, chè ở các tỉnh phía Bắc, phát triển trồng và chế biến cao su, xây dựng các cảng ở các tỉnh ven biển, phát triển chăn nuôi và sản xuất sữa, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng ở nhiều tỉnh nghèo. Một số hệ thống thuỷ lợi lớn ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam đang được khôi phục và phát triển.
- Nguồn vốn ODA cũng được huy động để trồng rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, bảo vệ và tôn tạo các khu rừng tự nhiên, rừng ngập mặn.
- Nguồn vốn ODA không hoàn lại chủ yếu đã sử dụng để hổ trợ các lĩnh vực y tế, xã hội, giáo dục thông qua nhiều chương trình có quy mô toàn quốc như phòng chống sốt rét, suy dinh dưỡng ở trẻ em, tiêm chủng mở rộng, chương trình nước sạch, đào tạo cán bộ về khoa học kỹ thuật...
- Bên cạnh đó chính phủ Việt Nam đã bắt đầu sử dụng vốn vay ODA để thực hiện một số chương trình, dự án trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội.
- Cải thiện việc cung cấp nước sạch sinh hoạt tại các thành phố, thị xã và các vùng nông thôn miền núi là lĩnh vực được ưu tiên cao trong sử dụng ODA. Hiện nay hầu hết các thành phố, thị xã của các tỉnh đã có dự án về phát triển hệ thống cung cấp nước sinh hoạt được thực hiện. Một số dự án thoát nước xử lý nước thải và rác sinh hoạt ở một số thành phố đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư.
- Hỗ trợ ngân sách, phục vụ quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế cải cách doanh nghiệp nhà nước đã được thực hiện thông qua chương trình giải ngân nhanh. Nhờ vậy, ngân sách Việt Nam trong thời gian qua đã được hỗ trợ khoảng 700 triệu USD, tạo điều kiện thực hiện các biện pháp cải cách kinh tế vĩ mô và điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
- Một loại hình quan trọng của hỗ trợ phát triển chính thức đó là hỗ trợ kỹ thuật (TA), chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu ODA thời gian qua. Các dự án hổ trợ kỹ thuật tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: Cải các kinh tế vĩ mô và luật pháp, tăng cường năng lực và thể chế cho các cơ quan của chính phủ,... các dự án hỗ trợ kỹ thuật đã có những đóng góp tích cực trong việc tăng cường năng lực mở rộng tầm nhìn và bổ sung kiến thức trên nhiều lĩnh vực công nghệ, quản lý kinh doanh...
- Gần đây, nhiều nhà tài trợ đã định hướng hỗ trợ kỹ thuật vào lĩnh vực quản lý môi trường, đây là sự đóng góp quan trọng hổ trợ Việt Nam thực hiện cam kết về bảo vệ môi trường theo chương trình nghị sự thế kỷ 21 vì lợi ích Việt Nam, cũng như của khu vực và của thế giới.
6. Tình hình giải ngân.
Nguồn ODA đã thực hiện (giải ngân) trong các năm 1993-1998 được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3: Vốn ODA thực hiện 1993-1998
Đơn vị: triệu USD
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tổng
Giải ngân ODA
413
725
737
900
1000
1240
5015
Nguồn: Thời báo Kinh tế số 31/99.
Tổng vốn ODA đã được thực hiện trong các năm 1993-1998 đạt trên 5 tỷ USD, bằng khoảng 46% so với nguồn ODA cam kết trong thời kỳ 1993-1997 và bình quân năm đạt 800 triệu USD/năm.
Xu thế giải ngân qua các năm có tăng song so với yêu cầu giải ngân bình quân năm trong thời kỳ 1996-2000 mới chỉ đạt 75%.Tình hình giải ngân không đồng đều giữa các loại dự án và các nhà tài trợ. Hầu hết các dự án hỗ trợ kỹ thuật có mức giải ngân đạt yêu cầu, có trường hợp đạt 100% vốn ODA cam kết hàng năm.
Các nhà tài trợ có mức giải ngân gần hoặc vượt mức giải ngân trung bình của thế giới (15-17% so với cam kết ODA có hiệu lực) phần lớn nhờ có các chương trình và dự án giải ngân nhanh.
Trong thời gian qua đã có một số chương trình, dự án ODA đã thực hiện xong và đang phát huy tác dụng tích cực trong nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam như nhà máy nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên Phú Mỹ 2-giai đoạn 1 (Công suất 400 MW), một số trạm biến thế và đường dây tải điện, một số đoạn đường, cầu trên quốc lộ 1, quốc lộ 5 đang cải tạo và nâng cấp. Các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở Hà Nội, Lào Cai, Hoà Bình... Nhiều bệnh viện ở các thành phố, thị xã như bệnh viện Chợ Rẫy (thành phố Hồ Chí Minh), Việt-Đức (Hà Nội)... Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, các chương trình y tế cần thiết. Nhiều trường học nhất là các trường tiểu học ở các tỉnh hay bị bão lụt ở miền Bắc, miền Trung, đã được xây dựng và cải tạo.
Nguồn ODA cũng đã hỗ trợ tăng cường năng lực phát triển thể chế cho nhiều lĩnh vực quan trọng như luật pháp, tài chính, ngân hàng..., cải cách hành chính công, kinh tế vĩ mô, hội nhập khu vực và thế giới, hỗ trợ nghiên cứu các quy hoạch phát triển, vùng lãnh thổ, ngành, đào tạo nghề, sản phẩm chủ yếu...
Trong thời gian qua trong khuôn khổ dự án hỗ trợ kỹ thuật hoặc cung cấp học bổng, một số lượng đáng kể người Việt Nam đã được đào tạo, đào tạo lại, đào tạo nâng cao về nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế, ngân hàng... Chính các dự án ODA đang thực hiện cũng là trường học đối với các đối tác thụ hưởng Việt Nam để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng quản lý hiện tại.
II. Tình hình đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị thành phố Hà Nội trong những năm qua.
1. Các dự án ODA phát triển kết cấu hạ tầng đô thị ở thành phố Hà Nội.
Các dự án ODA đầu tư phát triển những lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng đô thị thành phố Hà Nội có thể chia làm 2 loại: Các dự án đầu tư xây dựng và những dự án nghiên cứu phát triển kết cấu hạ tầng đô thị.
1.1. Các dự án đầu tư xây dựng.
Ngoại trừ chương trình cấp nước Hà Nội được bắt đầu rất sớm từ năm 1985, trong những năm cuối của thập kỷ 90 là thời điểm tập trung triển khai, thực hiện hay bắt đầu thực hiện của rất nhiều dự án ODA phát triển kết cấu đô thị, tầng đô thị Hà Nội.
A- Cấp thoát nước.
1. Chương trình cấp nước Hà Nội do Phần Lan tài trợ.
Tháng 6/1986, chính phủ Phần Lan đã ký hiệp định với chính phủ Việt Nam viện trợ không hoàn lại cho thành phố Hà Nội. Dự án bao gồm 3 giai đoạn với tổng kinh phí đầu tư là 103,6 triệu USD, trong đó: viện trợ của chính phủ Phần Lan là 376 triệu FIM và vốn đối ứng của Việt Nam là 150,2 tỷ đồng. Dự án này đã hoàn thành tháng 6/1997. Qua hơn 10 thực hiện, hệ thống cấp nước của thành phố được cải tạo với việc lắp đặt hệ thống truyền dẫn và phân phối nâng công suất của các trạm cấp nước. Nhờ vậy công suất cấp nước đã tăng từ 265.000m3/ngày đêm lên 370.000m3/ngày đêm và thêm khoảng 600.000 dân cư đã được đảm bảo có nước sạch để dùng.[12]
2. Dự án cấp nước Hà Nội giai đoạn 4 (1997-1999) Vốn vay của Ngân hàng thế giới.
Dự án này tiếp nối chương trình cấp nước của Phần Lan nhằm hoàn thiện hệ thống sản xuất và cung cấp nước sạch, giải quyết vấn đề thất thoát, thất thu nước, đồng thời dự án cũng sẽ xây dựng thêm một số nhà máy nước.
Tổng vốn đầu tư cho các dự án này là 42,75 triệu USD, trong đó 33,1 triệu USD là vốn vay tín dụng IDA của WB, 3,65 triệu USD là khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Phần Lan thông qua hỗ trợ kỹ thuật. Vốn đối ứng của phía Việt Nam là 6 triệu USD. Sau khi hoàn thành, công suất cấp nước của thành phố sẽ tăng thêm 60.000m3/ngày đêm.[12]
Hiện nay, ban quản lý dự án đang tiến hành công tác đấu thầu và chuẩn bị mặt bằng.
3. Dự án cấp nước Gia Lâm-Viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản.
Để phát triển hệ thống cấp nước cho những hiện ngoại thành, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai. Thành phố Hà Nội và JICA Nhật Bản đã lựa chọn Gia Lâm là khu vực phát triển công nghiệp tập trung trong tương lai để xây dựng một nhà náy nước với công suất 30.000m3/ngày đêm. Các hệ thống giếng, tạm bơm, hệ thống đường ống truyền dẫn, phân phối và họng cứu hỏa, nhà máy nước đã được hoàn tất trong giai đoan 1993-1998. Vốn đầu tư dự án là 49,2 triệu USD trong đó viện trợ Nhật Bản là 4 tỷ Yên (38,1 triệu USD) và vốn đối ứng là 122 tỷ đồng (11,1 triệu USD).
Hiện nay hầu hết các hạng mục chính của dự án đã được hoàn thành. Theo tính toán đến năm 2000 số dân sử dụng nước sẽ là 121.000 người.[12]
4.Dự án quản lý kinh doanh nước sạch ở quận Hai Bà Trưng
Giai đoạn 1 của dự án đã được ký kết giữa hai Chính phủ Việt Nam và Pháp trong năm 1996. Giai đoạn 1 của dự án này được thực hiện từ tháng 5/1996 đến tháng 3/1997 với tổng vốn đầu tư là 1,64 triệu USD, trong đó vốn vay của Pháp là 7,5 triệu FFr (1,5 triệu USD) và vốn đối ứng là 1,575 tỷ đồng (0,14 triệu USD). Mục tiêu của dự án này là xây dựng một mô hình quản lý mới ở quận Hai Bà Trưng bằng việc cải tạo hệ thống hoá đơn, đồng hồ đo, các công tác hoạt động và quản lý đều được tin học hoá, đào tạo đội ngũ cán bộ... nhằm giảm tình trạng thất thoát nước.
Hiện nay, Chính phủ Pháp tiếp tục cung cấp 15 triệu FFr (3 triệu USD) cho việc thực hiện giai đoạn 2 của dự án (1998-1999), nhằm tiếp tục nâng cao tính hiệu quả của giai đoạn 1. Vốn đối ứng của Việt Nam trong giai đoạn 2 là 0,9 triệu USD.[12]
B- Thoát nước:
Dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 1 (1996-2000) - vốn vay của OECF.
Dự án này giai đoạn thực hiện đầu tiên của “Quy hoạch tổng thể thoát nước thành phố Hà Nội giai đoạn 1995-2015” do JICA thực hiện. Tổng vốn đầu tư cho dự án là 187,6 triệu USD, trong đó khoản vay ưu đãi là 16,7 tỷ Yên (139 triệu USD) do OECF cung cấp và 48,6 triệu USD là vốn đối ứng của phía Việt Nam.[12]
Mục đích của dự án này nhằm giải quyết tình trạng úng ngập, cải thiện môi trường sống của thành phố ...bằng việc xây dựng các trạm bơm, hồ điều hoà, nạo vét sông mương thoát nước,lắp đạt hệ thống cống, các trạm xử lý nước thải....Hiện nay, dự án đang được khẩn trương thực hiện.
C- Phát triển đô thị:
Dự án phát triển hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long 1997-2002.
Dự án này được bắt đầu triển khai năm 1997 với tổng vốn đầu tư 122 triệu USD, trong đó vốn vay ưu đãi của OECF là 11,3 tỷ Yên (104 triệu USD), vốn đối ứng là 198 tỷ đồng (18 triệu USD). Khu Bắc Thang Long sẽ là một khu phát triển trong tương lai với số dân dự kiến là 110.000 người, diện tích khu vực là 2640 ha, bao gồm cả khu vực công nghiệp, dân cư và các khu giải trí.[12]
Hiện nay, ban quản lý dự án đang tiến hành các công tác chuẩn bị.
D-Giao thông đô thị:
1. Dự án đèn tín hiệu giao thông (1995-1998) do CH Pháp tài trợ.
Dự án này do Chính phủ Pháp viện trợ và được chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 đã được thực hiện trong các năm 1995-1996 với tổng vốn đầu tư là 2,56 triệu USD, trong đó viện trợ của Chính phủ Pháp là 9 triệu FFr (1,8 triệu USD) và vốn đối ứng 8,7 tỷ đồng (0,76 triệu USD). Dự án này bao gồm việc xây dựng một trung tâm điều khiển và lắp đặt hệ thống điều khiển giao thông tại các ngã tư kết nối với trung tâm điều khiển, ngoài ra tại một số nút quan trọng cũng lắp đặt hệ thống camêra theo dõi.
Giai đoạn 2 của dự án này được bắt đầu thực hiện trong năm 1997 và hiện đang được tiếp tục triển khai. Tổng vốn đầu tư là 4,14 triệu USD, trong đó viện trợ của Pháp là 15 triệu FFr (3 triệu USD), phần còn lại là vốn đối ứng Việt Nam.[12]
2. Dự án tăng cường quản lý giao thông đô thị thành phố Hà Nội - Vốn vay của Ngân hàng thế giới.
Dự án được tài trợ bằng vốn vay IDA với tổng mức đầu tư 24,3 triệu USD, trong đó vốn vay IDA là 21,87 triệu USD và vốn đối ứng là 2,43 triệu USD [12]. Mục tiêu của dự án là thúc đẩy và hỗ trợ quá trình tăng trưởng kinh tế xã hội thông qua việc cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông đô thị, tăng cường năng lực quản lý giao thông đô thị của Sở giao thông công chính Hà Nội và tăng cường hiệu lực hoạt động giao thông cuả cảnh sát giao thông. Với mục tiêu trên dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp bốn hành lang giao thông chính, cải tạo nâng cấp mạng lưới giao thông tại khu phố cổ, khu phố cũ, mua sắm các trang thiết bị, xe máy và cung ứng đào tạo cho Sở giao thông công chính và cho cảnh sát giao thông Hà Nội.
Hiện nay, ban quản lý dự án đang tiến hành công tác chuẩn bị cho việc thực hện hạng mục đầu tiên-hành lang Lê Duẩn và tiến hành các công tác đấu thầu tư vấn cho các hạng mục tiếp theo.
E- Vệ sinh môi trường đô thị:
Nâng cấp và xây dựng các nhà máy chế biến rác ở Cầu Diễn và Sóc Sơn.
Dự án được tài trợ bằng 22,1 triệu USD vốn vay ưu đãi của Chính phủ Tây Ban Nha và được chia thành hai giai đoạn.
- Giai đoạn 1 (1998-1999): Nâng cấp nhà máy chế biến rác tại Cầu Diễn từ công suất xử lý 30.000 m3 rác thải và sản xuất 7500 tấn phân hữu cơ hàng năm lên xử lý 50.000m3 rác thải và sản xuất 13.620 tấn phân hữu cơ hàng năm. Tông rvốn đầu tư là 5 triệu USD, trong đó vốn vay Tây Ban Nha là 4 triệu USD.
Giai đoạn 2: Xây dựng nhà máy chế biến rác ở Sóc Sơn với công suất xử lý là 250.000 m3 và sản xuất 66.300 tấn phân hữu cơ hàng năm, tổng vốn đầu tư là 17,14 triệu USD.
Hiện nay báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đã được Chính phủ phê duyệt và Công ty môi trường đô thị đang tiến hành các bước triển khai thực hiện dự án.[12]
1.2 Các nghiên cứu phát triển cơ sở hạ tầng.
Cho đến nay có nhiều nghiên cứu phát triển do các nhà tài trợ nước ngoài thực hiện ở thành phố Hà Nội. Những nghiên cứu này đã hỗ trợ rất lớn cho việc thiết lập hệ thống cơ sở hạ tầng của thành phố Hà Nội cũng như cho việc lập kế hoạch phát triển dài hạn.
1. Quy hoạch tổng thể thoát nước thành phố Hà Nội giai đoạn 1995-2015.
Quy hoạch tổng thể này do JICA thực hiện vào năm 1995. Nghiên cứu khả thi cho dự án vay vốn OECF đã được thực hiện đó là dự án thoát nước thành phố Hà Nội giai đoạn 1 (1996-2000) đang được triển khai như đề cập ở phần trên.
2. Quy hoạch tổng thể giao thông đô thị thành phố Hà Nội (1995-2015).
Nghiên cứu về quy hoạch tổng thể phát triển giao thông đô thị thành phố Hà Nội do JICA thực hiện và kết thúc vào đầu năm 1997. Nội dung của nghiên cứu là đề xuất phát triển hệ thống giao thông đô thị thành phố Hà Nội nhằm đáp ứng những nhu cầu phát triển trong tương lai.
3. Quy hoạch tổng thể cấp nước Hà Nội (1996-2010).
Nghiên cứu tổng thể cấp nước được JICA bắt đầu vào năm 1996 và kết thúc vào tháng 8/1997. Nghiên cứu này đã thiết lập quy hoạch tổng thể cấp nước và xây dựng danh sách các dự án với năm mục tiêu là 2010.
4. Quy hoạch tổng thể và nghiên cứu khả thi về môi trường đô thị và thu gom, xử lý chất thải rắn tại thành phố Hà Nội.
Nghiên cứu này được bắt đầu vào tháng 3/1998. Đến nay các chuyên gia của tổ chức JICA đang tiếp tục tiến hành công việc nghiên cứu. Theo dự kiến, việc nghiên cứu quy hoạch tổng thể này sẽ được kết thúc vào năm 2000.
5. Nghiên cứu khả thi xử lý rác thải tạo thành năng lượng điện.
Nghiên cứu khả thi này đang được tiến hành thỏa thuận giữa thành phố Hà Nội và phía Nhật Bản. Tổng vốn đầu tư cho dự án là 1,6 triệu USD.
6. Dự án tăng cường năng lực của văn phòng kiến trúc sư trưởng thành phố Hà Nội.
Dự án này do Chính phủ úc tài trợ bằng vốn viện trợ 1,76 triệu và đã được kết thúc vào năm 1996.
7. Dự án quy hoạch kiểm soát phát triển đô thị Hà Nội.
Dự án do Chính phủ úc tài trợ không hoàn lại với chi phí 0,34 triệu USD và đã kết thúc vào năm 1997.
8. Dự án hệ thống thông tin địa chính Hà Nội.
Đây là một dự án hợp tác giữa thành phố Hà Nội và thành phố Montreal (Canada). Dự án đang được triển khai bằng vốn không hoàn lại 0,55 triệu USD của phía Canada.[12]
9. Dự án quy hoạch bảo tồn khu phố cổ Hà Nội.
Dự án này do tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển tài trợ với khoản viện trợ không hoàn lại là 0,23 triệu USD và đã kết thúc vào năm 1997.[12]
10. Dự án tăng cường năng lực quản lý và kế hoạch đô thị (VIE95/050).
Dự án này do UNDP tài trợ với vốn không hoàn lại, dự án này bắt đầu vào năm 1996 và kết thúc vào năm 1998.
11. Dự án tăng cường năng lực quản lý môi trường đô thị thành phố Hà Nội (VIE97/031).
Dự án này do UNDP tài trợ với vốn không hoàn lại, dự án này được ký vào tháng 4/1998 và đang trong giai đoạn triển khai.
12. Dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị vùng đô thị Hà Nội (OECF).
Đây là một dự án thuộc chương trình hỗ trợ đặc biệt cho việc hình thành dự án (SAPROF) do OECF Nhật Bản thực hiện. Dự án xem xét lại toàn bộ những quy hoạch tổng thể hiện có, những quy hoạch phát triển chuyên ngành và nghiên cứu quy hoạch phát triển chung thành phố Hà Nội đến năm 2020, để từ đó thiết lập danh sách các dự án phát triển cơ sở hạ tầng đo thị thành phố Hà Nội đến năm 2020, tiến hành đánh giá và lựa chọn dự án sẽ tiến hành vay vốn nước ngoài, nhất là vốn vay từ OECF Nhật Bản. Nghiên cứu dự án được bắt đầu vào tháng 2/1998 và đã kết thúc vào tháng 7/1998. Dự án vốn vay khu vực cho thành phố Hà Nội đang được trình Chính phủ thẩm định và phê duyệt.
2. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị Hà Nội trong những năm qua.
Chuyển sang thời kỳ đổi mới tình hình đầu tư phát triển nói chung và đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị nói riêng của Hà Nội trở nên không đáp ứng nhu cầu và thực tiễn phát triển của thủ đô. Vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng đô thị chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách và theo đánh giá chỉ đáp ứng được 30-40% nhu cầu đầu tư. Điều này làm cho kết cấu hạ tầng đô thị không những không tạo điều kiện cho các khu vực khác mà còn cản trở và giảm hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế xã hội của thủ đô Hà Nội.
Trước tình hình đó, ngày 29/8/1992 ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội khoá 11 đã thông qua chương trình số 13 CTr-TU về chính sách huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội thủ đô, chủ yếu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị.
Trong 8 năm từ 1991-1998 thực hiện nhiều phương thức và nhiều giải pháp khác nhau, trên địa bàn Thành phố Hà Nội đã huy động được khối lượng vốn đáng kể. Theo số liệu báo cáo của Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội thì tổng nguồn vốn huy động được trong giai đoạn này là 83. 895 tỷ đồng, trong đó:
- Vốn huy động từ trong nước là 38.523 tỷ đồng bằng 45,9% tổng nguồn huy động.
- Vốn huy động từ nước ngoài 45.372 tỷ đồng bằng 51,4% tỏng nguồn vốn đầu tư.
Tuy nhiên, do giải ngân chậm, chưa có biện pháp và hình thức đầu tư thích hợp nên khối lượng vốn đầu tư thực hiện vào tất cả các lĩnh vực trong thời kỳ này đạt được 52015 tỷ đồng. Trong cơ cấu vốn đầu tư nguồn vốn trong nước thì ngân sách nhà nước chỉ có 7083 tỷ đồng, vốn tín dụng 11598 tỷ đồng và vốn do nhân dân, các doanh nghiệp tự đầu tư là 9952 tỷ đồng.
Như vậy, ta có thể thấy cơ cấu nguồn vốn đầu tư đã có sự chuyển biến theo hướng thị trường, phù hợp với quy luật chung và quá trình mở cửa, hội nhập. Vốn đầu tư trong nước có cơ cấu thu hẹp tỷ trọng đầu tư từ ngân sách, tăng tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp và nhân dân. Trong số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trên địa bàn Hà Nội ta thấy tỷ lệ dành cho khu vực kết cấu hạ tầng là khá cao (hơn 40%).
Cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trên địa bàn Hà Nội được thể hiện trên Bảng 4.
Bảng 4: Cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trên địa bàn Hà Nội thời kỳ 1991-1998
Đơn vị: %
Năm
Chia theo khu vực
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
100
Sản xuất dịch vụ
47,3
39,8
28,5
23,5
19,2
19,0
11,9
8,9
Hạ tầng kỹ thuật
26,8
30,5
32,6
35,9
46,2
44,5
44,9
52
Khoa học, giáo dục, y tế ,văn hoá, xã hội
25,9
29,7
38,9
40,6
34,6
36,5
43,2
40,1
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê Hà Nội 1994-1998.
Như vậy ta thấy xu hướng đầu tư của nhà nước đã rất chú ý đến lĩnh vực kết cấu hạ tầng đô thị (tỷ trọng tăng từ mức 26,8% năm 1991 lên 52% năm 1998). Khu vực kết cấu hạ tầng đô thị đang là khu vực được đầu tư nhiều nhất từ ngân sách nhà nước.
Số liệu ở Bảng 5 dưới đây cho biết cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước nói chung cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng đô thị thủ đô.
Bảng 5: Vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị từ NSNN trong cơ cấu tổng vốn đầu tư trên địa bàn Hà Nội thời kỳ 1991-1998
Đơn vị: tỷ đồng
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
91-98
Tổng vốn đầu tư
467.4
649.4
690.0
480.7
638.0
990.5
1473
1652
7040.7
Cụ thể theo lĩnh vực
*Giao thông vận tải
87.0
134.5
135.3
113.5
205.2
306.0
354.4
500.4
1836.4
bưu chính viển thông
Tỉ trọng %
18.6
20.7
19.6
23.6
32.2
30.9
24.1
30.3
26.1
*Sản xuất phân phối
24.0
28.0
30.0
29.3
56.8
95.0
90.2
67.9
421.1
điện,nước.
Tỉ trọng %
5.1
4.3
4.3
6.1
8.9
9.6
6.1
4.1
6.0
*Hoạt động lợi ích
14.3
35.6
59.8
29.7
32.5
40.0
214.0
293.9
719.8
công cộng
Tỉ trọng %
3.1
5.5
8.7
6.2
5.1
4.0
14.5
17.8
10.2
Tổng khu vực HTKT
125.3
198.1
225.1
172.5
294.5
441.0
658.6
862.2
2977.3
Tỉ trọng %
26.8
30.5
32.6
35.9
46.2
44.5
44.7
52.2
42.3
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê Hà Nội 1994-1998.
Trong 8 năm 1991-1998 đầu tư cho kết cấu hạ tầng đô thị nói chung và từng lĩnh vực kết cấu hạ tầng nói riêng trên địa bàn Hà Nội đều tăng cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỷ trọng trong tỷ vốn đầu tư từ NSNN. Nếu như vốn đầu tư từ NSNN cho Hà Nội từ năm 1991-1998 tăng 3,5 lần thì đầu tư cho kết cấu hạ tầng tăng 6,8 lần.
Tuy nhiên với mức vốn đầu tư như vậy chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu đầu tư. Trong tổng số đầu tư từ NSNN trong 8 năm 1991-1998 cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng đô thị là 3009,8 tỷ đồng chỉ bằng 40% nhu cầu đầu tư theo kế hoạch. Phần đầu tư cho xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng đô thị mới lại càng không đáp ứng kịp tình hình phát triển thủ đô phần quan trọng của nguồn vốn dành cho việc duy trì chống xuống cấp hoặc nâng cấp những công trình đã có.
Bảng 6: Vốn đầu tư vốn địa phương cho kết cấu hạ tầng đô thị Hà Nội.
Đơn vị: tỷ đồng
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tổng vốn đầu tư
125
133.6
258.9
144.4
205.8
324.4
418.7
703.6
1.Giao thông vận tải
21.5
42.6
50.9
75.1
93.5
203.4
143.8
118.3
2.Trạm nước
54.7
15.5
58.9
18.9
31.0
65.7
51.8
8.6
3.Thoát nước
3.7
10.8
13.6
6.1
16.2
17.4
163.6
422.9
4.Chiếu sáng
5.7
3.3
24.8
6.0
11.1
8.6
3.0
3.2
5.Sự nghiệp nhà ở
17.2
20.2
10.2
1.17
3.46
2.9
19.0
33.1
6.Văn hoá nghệ thuật
8.7
21.2
22.9
10.2
19.9
6.2
37.1
38.0
7.Giáo dục đào tạo
7.6
12.6
17.4
9.1
6.7
13.0
39.1
54.1
8.Y tế,thể dục thể thao
6.4
7.3
60.1
17.8
23.9
7.6
24.3
25.9
Tỉ trọng ( %)
1.Giao thông vận tải
17.15
31.89
19.66
52.01
45.43
62.70
34.34
16.81
2.Trạm nước
43.62
11.60
22.75
13.09
15.06
20.25
12.37
1.22
3.Thoát nước
2.95
8.08
5.25
4.22
7.87
5.36
39.07
60.11
4.Chiếu sáng
4.55
2.47
9.58
4.16
5.39
2.65
0.72
0.45
5.Sự nghiệp nhà ở
13.72
15.12
3.94
0.81
1.68
0.89
4.54
4.70
6.Văn hoá nghệ thuật
6.94
15.87
8.85
7.06
9.67
1.91
8.86
5.40
7.Giáo dục đào tạo
6.06
9.43
6.72
6.30
3.26
4.01
9.34
7.69
8.Y tế,thể dục thể thao
5.10
5.46
23.21
12.33
11.61
2.34
5.80
3.68
Nguồn: Niêm giám thống kê Hà Nội 1994-1998.
Số liệu bảng 6 cho thấy lĩnh vực kết cấu hạ tầng đô thị Hà Nội đang là lĩnh vực được tập trung đầu tư mạnh tổng số vốn đầu tư có xu hướng tăng qua các năm: năm 1995 là khoảng 206 tỷ đồng, năm 1996 là khoảng 325 tỷ đồng đến năm 1998 là 703,6 tỷ đồng. Trong đó 4 lĩnh vực là giao thông, cấp nước, thoát nước và chiếu sáng đô thị chiếm 73,6% so với tổng vốn đầu tư địa phương (năm 1995), năm 1997 là 74,5%, và năm 1998 là 78,7%. Riêng lĩnh vực thoát nước năm 1998, vốn đầu tư đạt 422,9 tỷ đồng chiếm 60,1% tổng số vốn đầu tư. Sở dĩ vốn đầu tư cho lĩnh vực thoát nước đô thị tăng cao như vậy là do triển khai dự án thoát nước Thành phố Hà Nội giai đoạn 1 (vốn vay của OECF của Nhật Bản). Tuy nhiên đầu tư cho lĩnh vực giao thông vận tải lại giảm từ 203,4 tỷ đồng năm 1996 xuống còn 118,3 tỷ đồng năm 1998 nhưng vẫn tăng so với năm 1995. Các lĩnh vực khác đều tăng về cả quy mô lẫn tỷ trọng.
Bảng 7 (trang sau) cho ta thấy bức tranh toàn cảnh về tình hình phát triển kết cấu hạ tầng đô thị giai đoạn 1991-1998. Nhìn chung Hà Nội đã có những bước phát triển khá và khởi sắc rõ nét nhất từ năm 1992. Thành phố đã huy động được nhiều nguồn lực để phát triển đạt tốc độ tăng trưởng khá và liên tục trong nhiều năm. kết cấu hạ tầng đô thị được quan tâm đầu tư bằng mọi nguồn vốn nên bước đầu đã được cải thiện, bộ mặt của thủ đô đã có nhiều thay đổi: giao thông được mở rộng ra các cửa ô, hệ thống đường nội thành được cải tạo một bước, tích cực triển khai xây dựng các đường vành đai, đường nội thị, đầu tư cải tạo sửa chữa vỉa hè, ngõ phố, mở rộng một số nút giao thông quan trọng như Cửa Nam, Mai Động, Chùa Bộc, Ngã Tư Vọng... Trong 8 năm đã làm mới 53,02 km đường nội đô, rải thảm mới 3.984.400 m2 đường, lát mới 654,2 m2 vỉa hè. Hệ thống cấp nước được đầu tư phát triển, trong 8 năm đã hoàn thành xong 4 nhà máy nước, triển khai xây dựng mới nhà máy nước Gia Lâm nâng công suất 393.000 m3/ngày đêm. Hệ thống thoát nước thường xuyên được nạo vét, khai thông dòng chảy trên các tuyến kênh mương, giải quyết 97 điểm úng ngập cục bộ. Công tác trật tự vệ sinh đô thị, quản lý và bảo vệ môi trường có tiến bộ, xoá bỏ được 94 điểm chân rác trong nội thành, lượng rác thải thu gom và vận chuyển tăng lên từ 1,4 lần so với năm 1990, đưa vào sử dung 24,5 ha bãi chôn rác.
Bảng 7: Tình hình phát triển kết cấu hạ tầng đô thị Hà Nội giai đoạn 1991-1998.
Danh mục
Đơn vị
91
92
93
94
95
96
97
98
1.Cấp nước
*Số nhà máy sx nước
NM
10
11
12
12
12
13
14
14
*Trạm nước cục bộ
trạm
13
13
13
13
13
13
12
12
*Đường ống dẫn nước tăng
Km
5.4
11
9.1
7.8
1.6
15.5
40
2.4
*Tuyến ống phân phối tăng
Km
20
25
20
28
19
120
70
29
*Lượng nước bình quân ngày
1000m3
296
301
315
334
334
343
420
450
*Số giếng hiện có
Giếng
115
120
125
125
127
136
161
161
2.Thoát nước
*Kênh mương thoát nước
Km
39
39
39
39
39
38.6
39
39
*Sông thoát nước
Km
38
38
38
38
38
38.6
39
39
*Hệ thống thoát nước ngầm
Km
132
136
154
155
157
160
175
182
*Hệ thống xử lý nước thải
Ha
600
600
600
600
600
600
600
600
*Điểm giải quyết úng cục bộ
điểm
13
9
8
6
3
15
27
16
3.Đường giao thông
*Xây dựng mới
Km
3.1
8.1
4.3
2.4
0.5
10.7
13
11
*Rải thảm mới
1000m2
347
510
275
198
174
204
190
250
*Diện tích vĩa hè lát mới
1000m2
5.9
95
24
15
450
19
46
4.Đèn chiếu sáng
*Xây dựng mới
Km
28
21
35
14
4.6
30.7
20
30
*Cải tạo,nâng cấp
Km
28
27
8.9
2.5
1.6
13.7
18
7.4
*Đèn tập thể,lối xóm
Km
27
15
3.8
25
16.4
28
33
*Đèn tín hiệu giao thông
Nút
17
17
28
3
12
23
30
Nguồn : Niên giám thống kê Hà Nội 1994-1998.
3. Đánh giá các lãnh vực cụ thể.
3.1. Giao thông.
Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng nhất của miền bắc Việt nam, nơi hội tụ đầy đủ của các phương thức giao thông như đường bộ, đường sắt, đường sông, hàng không... các tuyến giao thông trong nước và quốc tế.
* Đường bộ.
Giao thông đường bộ của Hà Nội có vị trí đặc biệt quan trọng trong mạng lưới giao thông chung của cả nước, chiếm 64% khối lượng vận chuyển hàng hoá và chiếm 75% khối lượng vận chuyển hành khách qua địa bàn thủ đô(() : Niêm giám thống kê Hà Nội năm 1998
). Mạng lưới giao thông đường bộ bao gồm cả trục hướng tâm, các đường vành đai và các đương khu vực khác. Tuy nhiên mô hình mạng lưới này vẫn chưa được phát triển hoàn chỉnh, các đường trục hướng tâm và các đường vành đai vẫn chưa được xây dựng xong, quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật vẫn chưa đồng nhất, các tuyến vận tải quá cảnh nhất là vận tải hàng hoá liên tỉnh vẫn còn chạy qua Thành phố gây ra những vấn đề về môi trường và ùn tắc giao thông.
- Các đường trục hướng tâm đi vào trung tâm Thành phố được tạo thành bởi các đường Quốc lộ 1A phía Bắc và phía Nam, Quốc lộ 5, Quốc lộ 6, Quốc lộ 32, Quốc lộ 3, Quốc lộ 2 và đường cao tốc Láng-Hoà Lạc.
- Các đường vành đai: bao gồm vành đai số 1, vành đai số 2 và vành đai số 3. Trong đó, trừ một số đoạn thuộc vành đai số 1 đã được xây dựng hoàn chỉnh, còn các đoạn khác thuộc các vành đai vẫn chưa được mở rộng và xây dựng hoàn chỉnh.
- Mạng lưới đô thị: trong những năm qua Thành phố đã tập trung vào việc cải tạo xây dựng mới cho mạng lưới đường đô thị nhằm cải thiện tình hình giao thông Thành phố và đáp ứng nhu cầu phát triển.Cùng với việc nâng cấp cải tạo các tuyến đường vành đai, đường trục hướng tâm, một số đường cấp Thành phố đã được mở rộngvà xây dựng. Tuyến Liễu Giai-Ngọc Khách-Láng Trung có mặt cắt ngang rông 50m với 6 làn xe chạy, tuyến Kim Mã-Cầu Giấy rộng 33m với 6 làn xe chạy...
Theo số liệu ở Sở kế hoạch -đầu tư Hà Nội thì tổng chiều dài mạng lưới đường khoảng 1423 km, trong đó khu vực nội thành có 368 phố phường và tổng chiều dài khoảng 300 km, bình quân Hà Nội chỉ có 5,7 km đường/1 km2. Trong phạm vi Thành phố Hà Nội có khoảng 580 nút giao cắt, trong đó có khoảng 150 nút giao cắt quan trọng. Các nút giao thông ở Hà Nội đều là các nút giao thông đồng mức, hiện tại chỉ có 75 nút giao thông được lắp đèn tín hiệu kết nối với trung tâm điều khiển giao thông tại 40 Hàng Bài. Hiện tượng ách tắc giao thông thường xuyên xảy ra trên mạng lưới, đặc biệt là tại các nút giao thông trọng yếu như Ngã Tư Sở, Ngã Tư Vọng, Cầu Giấy…[13]
Thành phố hiện có khoảng 60.000 xe ô tô các loại, trên 550.000 xe máy, 1200 xe lam, 1550 xe Bông Sen, 6000 xe xích lô, 1 triệu xe đạp, trên 292 xe buýt các loại, lượng xe ô tô tăng từ 10-15% / một năm, xe máy 20-25%/ một năm, xe đạp bão hoà và có xu hướng giảm.[13]
- Giao thông công cộng: Trước sự chuyển đổi của cơ chế kinh tế, ngành vận tải hành khách công cộng gặp nhiều khó khăn, mạng lưới xe buýt bị thu hẹp hiện tại chỉ còn 14 tuyến hoạt động với sản lượng vận chuyển khoảng 6,5-7 triệu lượt hành khách/ năm. Đến năm 1998 mạng lưới vận tải hành khách công cộng được quan tâm, thành lập Công ty cổ phần xe buýt 10-10 đầu tư 60 xe hoạt động trên 6 tuyến. Như vậy hiện nay Hà Nội có khoảng 292 xe buýt các loại hoạt động trên 25 tuyến. Só lượng xe còn quá ít và kém về chủng loại chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân.[13]
* Đường sắt.
Hà Nội là một đầu mối đường sắt tập trung nhất của cả nước. Tổng chiều dài của các tuyến đường sắt chạy qua Thành phố Hà Nội khoảng 90 km, gồm các tuyến đường xuyên tâm từ ga Giáp Bát đến ga Yên Viên. Trên địa bàn Hà Nội có 13 ga đường sắt trong đó ga Hà Nội là ga lớn nhất với diện tích khoảng 2,8 ha với chiều dài là 800m. Tuyến đường sắt chạy qua khu vực nội thành dài khoảng 7 km. Với 9 vị trí giao đồng mức với các đường phố chính tuyến, đường sắt xuyên tâm này là nguyên nhân gây nên ách tắc giao thông tại các vị trí này khi tàu chạy qua.[13]
* Đường sông.
Do đặc điểm của điều kiện tự nhiên nên hoạt động giao thông đường thuỷ phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết và có tính chất theo mùa. Hiện tại vận tải đường sông Hà Nội chủ yếu phục vụ vận chuyển vật liệu xây dựng, vật tư nông nghiệp...vận tải hành khách chiếm tỷ trọng không đáng kể.
- Các cảng sông chính: cảng Hà Nội, cảng Chương Dương, cảng Nhật Tân, cảng Khuyến Lương.
- Các tuyến vận chuyển chính: bao gồm 4 tuyến với tổng chiều dài các tuyến là 483 km.[13]
* Hàng không.
Hiện tại có 3 sân bay: sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay Gia Lâm, sân bay Bạch Mai.
Đánh giá tổng quát tình hình đầu tư giao thông đô thị Hà Nội ta thấy nổi lên những điểm sau:
Thời kỳ 1991-1998, việc đầu tư cho hệ thống giao thông vẫn giữ nguyên phương án: các trục hướng tâm mở rộng từng phần, các tuyên vành đai hình thành, nhưng đầu tư chưa dứt điểm, các tuyến khu vực đầu tư chắp vá theo nhu cầu phát triển các khu đô thị mới... Do đó, hầu hết các trục hướng tâm và các đường vành đai chưa được đầu tư mở mang ở mức độ cần thiết. Các tuyến vận tải quá cảnh, liên tỉnh chạy theo vành đai II qua khu vực gần trung tâm gây ô nhiểm, ùn tắc giao thông.
Hệ thống đường phân bổ không đồng đều dẫn đến tình trạng quận Đống Đa, Hai Bà Trưng có mật độ đường thấp so với diện tích quá lớn.
Mạng lưới đường nội đô đầu tư vừa không có tính chiến lược phát triển giao thông đô thị vừa không theo kịp quá trình đô thị hoá, tốc độ phát triển phương tiện giao thông gây nên ách tắc giao thông nhất là giờ cao điểm.
Số lượng tuyến xe buýt quá ít, chưa phát triển ở mức tối thiểu cần thiết và nối thành mạng, nên chưa thuận tiện cho hành khách.
Về hệ thống giao thông tĩnh: Do thiếu chỗ đổ nên khoảng 90% xe đổ tản mạn khắp nơi, trên vỉa hè dưới lòng đường gây nên ùn tắc giao thông, dễ xãy ra tai nạn. Công tác tổ chức giao thông tại các bến bãi chưa tốt, khi xe ra vào dễ gây ra tai nạn và ùn tắc cục bộ.
3.2. Cấp nước.
Tổng số vốn đầu tư trong 8 năm là 304,6 tỷ đồng, cộng với sự tài trợ của Chính phủ Phần Lan, Nhật Bản và WB. Chương trình cấp nước Hà Nội đã đạt được mục tiêu đề ra nâng công suất 296.000 m3/ngày/đêm năm 1991 lên 393.000 m3/ngày/đêm năm 1998. Xây dựng lắp đặt mới 423,7 km đường ống truyền dẫn và phân phối. Hệ thống cấp nước được xây dựng và cải tạo, mở rộng cả về qui mô lẫn chất lượng phục vụ.[13]
Hệ thống cáp nước Hà Nội sau nhiều năm được nhà nước ưu tiên đầu tư cải tạo, nâng cấp đã giải quết một phần khó khăn về cung cấp nước sạch, cải thiện môi trường và tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư xây dựng và phát triển thủ đô. Nhiều khu vực dịch vụ cấp nước sạch đã được cải thiện đáng kể chất lượng cung cấp, từng bước đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau:
Lượng nước thất thoát và thất thu lớn do việc đầu tư không đồng bộ giữa hệ thống phân phối và hệ thống cung ứng, do cơ chế quản lý chưa rõ, ý thức tiết kiệm của dân chưa cao.
Giá nước dù đã nghiên cứu, cải tiến nhưng mới chỉ đủ chi phí vận hành, bảo dưỡng ở mức thấp chưa có tích luỹ và chưa có khả năng tái đầu tư.
Theo đánh giá thì khu vực nội thành có tỷ lệ phục vụ cấp nước đạt 94,4% của tổng dân số nội thành, còn ngoại thành chỉ đạt 14%, nếu tính toàn bộ Thành phố thì tỷ lệ này chỉ đạt 53%. Phần còn lại vẫn phải sử dụng hệ thống củ, xuống cấp, chất lượng không đảm bảo.[13]
Công tác kế hoạch đầu tư cho ngành cấp nước thường thực hiện chủ yếu theo chương trình mục tiêu, có mặt mạnh là thực hiện dứt điểm, có tác dụng nhanh cho từng đợt đầu tư nhưng nhiều khi chưa phối hợp chặt chẽ với các khâu đầu tư khác trong toàn bộ hệ thống.
3.3 Thoát nước.
Tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực thoát nước của thành phố đã tăng từ 3,7 tỷ đồng năm 1991 lên 163,6 tỷ đồng năm 1997 và 422,9 tỷ đồng năm 1998. Xét về tỷ trọng trong tổng số vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng đô thị (kể cả các công trình văn hoá - y tế, giáo dục) ngoại trừ năm 1998 lĩnh vực thoát nước chiếm tỷ lệ 60,1% (cao nhất so với các năm khác và cao nhất so với các lĩnh vực khác trong năm 1998)(( ): Niên giám thống kê Hà Nội năm 1998
). Sở dĩ trong năm 1998, đầu tư trong lĩnh vực thoát nước của Thành phố Hà Nội tăng cao như vậy là do việc thực hiện dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn I do Nhật Bản tài trợ.
Hệ thống thoát nước Hà Nội hiện nay được thiét kế theo chế độ tự chảy, vị trí tiêu thoát nước cuối cùng là sông Nhuệ. Do điều kiện địa hình và chế độ thuỷ văn của Hà Nội khpông thuận lợi cho thoát nước tự chảy. Chế độ thuỷ văn hoàn toàn phụ thuộc vào sông Hồng và sông Nhuệ. Sông Nhuệ hiện là nơi thoát nước chính của Thành phố, nhưng mực nước sông ngày càng bị nâng cao. Vì vậy, khi mực nước sông này lên cao thì nội thanh sẽ có nguy cơ úng ngập. Sông Hồng có khả năng thoát nước cao nhưng do mực nước sông Hồng trong năm thường cao, vì vậy muốn thoát nước ra sông này phải dùng phương án bơm cưỡng bức.
Về hệ thống cống ngầm: Thành phố hiện có 120 km cống ngầm, trong đó có 80 km được thiết kê và xây dựng từ trước năm 1945, đến nay đã quá tuổi thọ và quá tải. Cho đến nay Thành phố Hà Nội mới chỉ xây dựng thêmhơn 40 km cống ngầm trên diện tích 3000 ha nội thành mới được phát triển. Như vậy tính bình quân trên 1ha chỉ có 40 m cống ngầm, rất thấp so với các Thành phố khác trong khu vực100m/ha. Phương pháp nạo vét cống chủ yếu dựa vào thủ công nên rất khó bảo dưỡng và duy trì hệ thống cống. Lượng bùn cặn lưu theo ước tính chiếm khoảng 32% thể tích lòng cống. Phân tích hiện trạng hệ thống cống ngầm và tình hình đầu tư cải tạo, làm mới các cống ngầm ta thấy tình hình chung là hệ thống cống ngầm chưa đảm bảo yêu cầu phát triển Thành phố. Lĩnh vực này của Hà Nội chưa được nghiên cứu và đầu tư đúng mức, nhất là ở khu phố cũ, khu phố cổ và các khu phố mở rộng.[13]
Ngoài hệ thống cống ngầm, Hà Nội có hơn 38 km mương đất và hơn 36 km sông thoát nước sông Lừ, sông Tô lịch, sông Sét và Kim Ngưu. Các mương sông làm nhiệm vụ thoát nước cho các khu vực chưa có cống ngầm.
Về hồ điều hoà Hà Nội có gần 600 ha, trong đó riêng Hồ Tây là 400 ha nhưng không có chức năng điều hoà. Số diện tích hồ còn lại phân bố không đồng đều, không liên kết được với nhau để phối hợp khi cần thiết. Đặc biệt hiện nay nhiều hồ bị ô nhiểm nặng do lượng nước thải chưa qua xử lý vào hồ.
Về hệ thống xử lý nước thải: Theo điều tra chỉ có hơn 10 đơn vị có hệ thống xử lý nước thải cục bộ trước khi đổ vào hệ thống chung. Nước thải công nghiệp, bệnh viện hầu như không được xữ lý.
3.4. Hệ thống chiếu sáng công cộng.
Theo số liệu báo cáo của Sở Giao thông công chính Hà Nội , tính đến năm 1998 tổng chiều dài tuyến đèn là 437 km chủ yếu phủ gần khắp khu vực nội thành, nội thị đạt 89% diện tích đường, ngõ xóm và khu vực công cộng.[13]
Đánh giá công tác đầu tư phát triển hệ thống chiếu sáng công cộng có thể thống nhất ở những nhận định sau :
Hệ thống chiếu sáng về cơ bản đả đáp ứng nhu v\cầu chiếu sáng trên các trục đường chính góp phần cải thiện môi trường sinh hoạt, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tăng vẻ đẹp thành phố .
Hệ thống chiếu sáng mới đảm bảo hơn 70% số đường có đèn cao áp. Nhiều khu vực công cộng và đường phố còn chưa có đèn và chưa đạt tiêu chuẩn chiếu sáng.
Cường độ chiếu sáng hiện ở mức trung bình với công suất 6 kw/km
Không đồng bộ về mặt thiết bị .
3.5. Cây xanh, công viên, mặt nước.
* Cây xanh
Mật độ cây xanh của Hà Nội vẩn ở mức trung bình, mới đạt 3m2/người tronh khi nhiều nước trên thế giới có chỉ tiêu là 5m2/người. Cây xanh của Hà Nội gồm có hai bộ phận, bộ phận thứ nhất gồm các cây bóng mát trồng dọc theo các đường phố, trong công viên và các khu tập thể . Đây là bộ phận chủ yếu tạo mật độ cây xanh cho thành phố. Bộ phận thứ hai có ý nghĩa tạo cảnh quan và kiến trúc nhiều hơn bao gồm các cây tạo cảnh, thảm cỏ trong công viên , vườn hoa và các biệt thự.[13]
* Công viên, vườn hoa .
Hà Nội hiện có 47 công viên vườn hoa, với tổng diện tích 142 ha . Cấc công viên vườn hoa của Hà Nội chủ yếu được đầu tư xây dựng trong những thời kỳ trước. Trong 8 năm 1991-1998 chủ yếu cải tạo 22 vườn hoa nhỏ, đang lập dự án đầu tư xây dựng một số công viên lớn ở các quận nội thành và vùng ven nội thành .[13]
* Mặt nước.
Hà Nội hiện có 16 hộ lớn trong khu vực nội thành. Nói chung các hồ trong nội thành Hà Nội đều ở tình trạng xấu, ngoài trừ Hồ Tây còn giữ được cảnh quan và đở bị ô nhiểm. Các hồ khác đều ở mức ô nhiểm trung bình và nặng.[13]
Đánh giá chung về quá trình đầu tư phát triển hệ thống cây xanh công viên mặt nước:
Hệ thống này được phát triển mạnh trong qúa trình xây dựng và phát triển Thành phố Hà Nội .
Các chỉ tiêu cây xanh, công viên tính trên đầy người của Hà Nội hiện nay còn rất thấp so với tiêu chuẩn Việt nam củng như thế giới.
Công tác quản lý, duy trì và khai thác kinh doanh dịch vụ ở các công viên xuống cấp nhanh chống không được đầu tư bổ xung kịp thời .
Công tác quản lý, bảo vệ và khai thác mặt nước đảm bảo chức năng điều hoà môi trường và tạo cảnh quan đô thị còn rất yếu.
3.6 Chất thải rắn.
Chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng của Hà Nội ngày càng được trở thành vấn đề cấp bách được các ngành các cấp và các tổ chức quốc tế quan tâm. Chỉ riêng vấn đề thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải hàng ngày đang là vấn đề khó giải quyết mà thành phố chưa có phương án triệt để và có hệ thống.
Chất thải rắn của Hà Nội bao gồm 5 loại chính: Chất thải rắn sinh hoạt, chất thải xây dựng, chất thải bệnh viện, chất thải công nghiệp, chất thải độc hại.
Nếu tính theo tỷ lệ các loại chất thải rắn thì ta thấy chất thải rắn sinh hoạt chiếm 74,5%, chất thải công nghiệp và xây dựng là 22,1%, chất thải bệnh viện là 0,7% chất thải độc hại là 2,7%.
Tính đến năm 1998, công ty môi trường đô thị Hà Nội được trang bị 198 xe vận chuyển, trong đó 132 xe chở rác 20 xe hút phân, 30 xe rửa đường và 16 xe phục vụ hành chinh và các nhiệm vụ khác. Các xe này khá củ và lạc hậu chỉ có khoảng 70-80% số xe hoạt động.
Tổng lượng chất thải do Công ty môi trường đô thị Hà Nội thu gom trung bình của năm 98 là 3000m3/ngày. Hiện tại Thành phố Hà Nội dang duy trì việc sử lý rác thải theo phương thức sau: chôn lấp tại các bải chôn lấp Thành phố, ủ phân hữu cơ tại nhà máy chế biến rác Cầu Diễn.[13]
Như vậy, có thể đánh giá công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn như sau:
Lĩnh vực này chưa được đầu tư đúng mức. Tỷ lệ thu gom hiện nay còn rất thấp, năng lực thu gom xử lý tăng không nhanh trong khi lượng chất thải lại tăng rất nhanh theo tốc độ đô thị hoá và tăng thu nhập.
Quản lý, tổ chức bải rác chưa hợp lý: các bải rác ở Hà Nội không đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, không được tổ chức xây dựng đúng yêu cầu kỷ thuật cần thiết. Điều này gây nên ô nhiểm môi trường và ảnh hưởng đến khu vực dân cư sung quanh.
Thiếu sự quản chất thải nguy hiểm độc hại, chất thải bệnh viện hầu như không được xử lý.
Các phương tiện vận chuyển mặc dù đã được đầu tư đổi mới nhưng nhìn chung đã quá cũ, chưa phù hợp với đặc điểm của Hà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12286.DOC