Tài liệu Đề tài Tìm một số biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ: lời nói đầu
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Nước ta đã chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN với mục tiêu đa dạng hoá các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hoá - dịch vụ. Nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay đang có những thay đổi mạnh mẽ. Thương mại đã trở thành điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thương mại dịch vụ trong nền kinh tế rất quan trọng, vừa tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, vừa đáp ứng nhu cầu cơ bản và ngày càng nâng cao đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
Góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội là sự hình thành của các doanh nghiệp thương mại với vai trò chính là chiếc cầu nối giữa lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực tiêu dùng. Cơ chế thị trường đưa đến cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn thách thức ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Để tồn...
114 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm một số biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Nước ta đã chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN với mục tiêu đa dạng hoá các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hoá - dịch vụ. Nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay đang có những thay đổi mạnh mẽ. Thương mại đã trở thành điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thương mại dịch vụ trong nền kinh tế rất quan trọng, vừa tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, vừa đáp ứng nhu cầu cơ bản và ngày càng nâng cao đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
Góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội là sự hình thành của các doanh nghiệp thương mại với vai trò chính là chiếc cầu nối giữa lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực tiêu dùng. Cơ chế thị trường đưa đến cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn thách thức ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải không ngừng thúc đẩy hoạt động kinh doanh của mình. Do đó, doanh nghiệp phải có những chiến lược, kế hoạch và đưa ra những biện pháp phù hợp với bản thân doanh nghiệp cũng như những biến động của môi trường kinh doanh để làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả tốt nhất.
Nhận thấy tầm quan trọng, sự cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này, em xin được chọn đề tài “Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ ” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Bằng những kiến thức đã học đi sâu nghiên cứu để nắm vững hơn về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
Vận dụng vào thực tiễn tìm hiểu, phân tích, đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ từ đó tìm ra những mặt tích cực cũng như hạn chế còn tồn tại của công ty để có những đề xuất cũng như giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu :
Lý luận về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ
- Phạm vi nghiên cứu : Hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ trong 3 năm 2000-2002.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp thống kê, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, phương pháp học lý luận kết hợp với nghiên cứu thực tế.
5. Kết cấu đề tài gồm 3 chương
Chương I : Một số vấn đề lý luận về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
Chương II : Phân tích hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ
Chương III : Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ
Qua thời gian thực tập tại công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ, em đã có cơ hội được tiếp xúc thực tế, tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Nhưng do trình độ còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự góp ý của thầy cô. Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS Nguyễn Thừa Lộc, thạc sỹ Nguyễn Anh Tuấn, ban giám đốc cùng các cô các bác trong công ty đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.
chương i
Một số vấn đề lý luận về hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại
i. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Kinh doanh thương mại và vai trò của kinh doanh thương mại
1.1 Khái niệm về kinh doanh thương mại
Hoạt động trao đổi, mua bán sản phẩm hàng hoá vật chất trong nền kinh tế tạo ra tiền đề và cơ hội cho sự hình thành và phát triển của một lĩnh vực kinh doanh: kinh doanh thương mại.
Kinh doanh thương mại là sự đầu tư tiền của, công sức của một cá nhân hay một tổ chức vào việc mua bán hàng hoá để bán lại hàng hoá đó nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
+ Kinh doanh thương mại trước hết đòi hỏi phải có vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền và các tài sản khác.
+ Kinh doanh thương mại đòi hỏi phải thực hiện hành vi mua để bán. Xét trên toàn bộ và cả quá trình thì hoạt động kinh doanh thương mại phải thực hiện hành vi mua hàng, nhưng mua hàng không phải để mình dùng mà mua hàng để bán cho người khác. Đó là hoạt động buôn bán.
+ Kinh doanh thương mại dùng vốn vào hoạt động kinh doanh cũng đòi hỏi sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải bảo toàn được vốn và có lãi. Có như vậy mới mở rộng và phát triển kinh doanh. Ngược lại thua lỗ dẫn tới doanh nghiệp bị phá sản.
1.2 Vai trò của kinh doanh thương mại
Kinh doanh thương mại là lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp trong lưu thông hàng hoá. Trước hết kinh doanh thương mại có tác dụng nhiều mặt đối với lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực tiêu dùng của xã hội. Nó cung ứng vật tư hàng hoá cần thiết một cách đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng một cách thuận lợi với quy mô ngày càng mở rộng.
Thứ hai, kinh doanh thương mại thúc đẩy việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất. Thông qua việc bảo đảm những loại máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, kinh doanh thương mại thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất sử dụng các loại máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu mới, hiện đại. Đồng thời thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, đảm bảo cho người tiêu dùng những hàng hoá tốt, văn minh và hiện đại.
Thứ ba, kinh doanh thương mại thực hiện việc dự trữ các yếu tố của sản xuất và hàng hoá tiêu dùng, bảo đảm cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng giảm bớt được dự trữ lớn ở nơi sản xuất và dự trữ tiêu dùng cá nhân. Thứ tư, kinh doanh thương mại bảo đảm điều hoà cung cầu. Nó làm đắt ở những nơi có nguồn hàng rẻ, nhiều phong phú và làm rẻ hàng hoá ở những nơi hàng hoá đắt, ít nghèo nàn. Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, thương mại có tác dụng lớn trong việc thúc đẩy việc sử dụng nguồn lực và phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả và hợp lý.
Thứ năm, kinh doanh thương mại nhờ việc áp dụng ngày càng nhiều các dịch vụ trong các hoạt động kinh doanh hàng hoá sẽ bảo đảm cho các vật tư kỹ thuật ngày càng kịp thời, thuận tiện và văn minh cho các doanh nghiệp sản xuất, bảo đảm ngày càng nhiều hàng hoá tốt, hiện đại, văn minh với dịch vụ ngày càng thuận lợi cho người tiêu dùng. Bảo đảm cung ứng hàng hoá ổn định, bình thường trong xã hội.
1.3 Mục tiêu của kinh doanh thương mại
Trong những giai đoạn hoạt động khác nhau, mỗi doanh nghiệp có những mục tiêu khác nhau và không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được tất cả các mục tiêu đó, tuỳ theo điều kiện mà doanh nghiệp phải có sự lựa chọn mục tiêu cho phù hợp. Nhưng về cơ bản trong kinh doanh thương mại có ba mục tiêu chính sau:
* Lợi nhuận : Lợi nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh và nó cũng là nguồn động lực của kinh doanh. Lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại là biểu hiện bằng tiền của giá trị thặng dư do người lao động trong doanh nghiệp thương mại tạo ra bằng cách sử dụng hợp lý các nguồn lực trong kinh doanh và vận dụng các điều kiện thuận lợi của môi trường kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh thu bán hàng phải lớn hơn chi phí kinh doanh.
Lợi nhuận = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
Muốn có doanh thu lớn thì phải chiếm được khách hàng, phải bán được nhiều hàng hoá và dịch vụ, phải bán được nhanh chóng hàng hoá và giảm các khoản chi phí kinh doanh có thể và không cần thiết. Trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải kinh doanh loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu của khách hàng. * Thế lực : Đây cũng là mục tiêu mà các doanh nghiệp hướng tới, sở dĩ mục tiêu này quan trọng bởi vì trong nền kinh tế thị trường số lượng doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh nhiều với mặt hàng phong phú, cạnh tranh gay gắt không chỉ giữa người bán với nhau mà giữa người mua với người mua, giữa người mua với người bán. Để đạt được lợi nhuận thì đòi hỏi phải thắng trong cạnh tranh, phải thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, không ngừng tăng doanh số bán và các hoạt động dịch vụ phục vụ, không ngừng mở rộng quy mô và phát triển thị trường. Mục tiêu thế lực là mục tiêu phát triển cả về quy mô kinh doanh, cả về thị phần trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo cho mình được thế mạnh về khả năng thu hút khách hàng, về vốn kinh doanh, về nhân lực...
* An toàn : Đây cũng là mục tiêu mà các doanh nghiệp quan tâm nhiều trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay bởi vì kinh doanh trong cơ chế thị trường phải chấp nhận rủi ro, khả năng không bán được hàng thường xảy ra, doanh nghiệp có thể gặp may trong thương vụ này nhưng có thể phải đối mặt với rủi ro không thể lường trước được do sự biến động của môi trường kinh doanh trong đó có những yếu tố doanh nghiệp dự đoán được nhưng có những yếu tố mà doanh nghiệp không dự đoán được. Chính vì vậy trong kinh doanh khi quyết định hay lựa chọn một phương án nào các doanh nghiệp luôn đặt ra tiêu chuẩn mức độ an toàn.
2. Doanh nghiệp thương mại
2.1. Khái niệm
Trong bất kì nền sản xuất hàng hoá nào, quá trình sản xuất bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi, và tiêu dùng. Việc sản phẩm được đem bán trên thị trường là một hoạt động nhằm chuyển đổi hình thái giá trị từ H-T, lĩnh vực này đòi hỏi sự chuyên môn hoá cao không những giúp các nhà sản xuất bán được hàng hoá mà còn làm cho quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra nhanh hơn, hàng hoá đến tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất khi có nhu cầu. Như vậy, sự ra đời lưu thông hàng hoá- thương mại dịch vụ, sự xuất hiện của các nhà thương mại là một tất yếu, và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế
Như vậy doanh nghiệp thương mại là tổ chức kinh tế hợp pháp một đơn vị kinh doanh được thành lập với mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá bao gồm đầu tư tiền của, công sức và tài năng...vào lĩnh vực mua bán hàng hoá đáp ứng nhu cầu của thị trường nhằm kiếm lợi nhuận.
2.2 Chức năng của doanh nghiệp thương mại
- Phát hiện ra nhu cầu hàng hoá dịch vụ trên thị trường và tìm mọi cách để thoả mãn nhu cầu đó
- Phải không ngừng nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh
- Giải quyết tốt mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngoài
Nhiệm vụ của doanh nghiệp thương mại
- Hoạt động kinh doanh phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường, thực hiện đầy đủ các cam kết với khách hàng về sản phẩm, dịch vụ, giải quyết thoả đáng quan hệ lợi ích với các chủ thể kinh doanh và chủ thể khác theo nguyên tắc bình đẳng và có lợi.
- Bảo toàn, tăng tưởng vốn và mở rộng quy mô kinh doanh, chăm lo đời sống của người lao động trong doanh nghiệp, tạo đủ việc làm, tăng thêm thu nhập, thực hiện phân phối công bằng quỹ khen thưởng, phúc lợi.
- Tuân thủ các quy định của nhà nước về môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh và trật tự xã hội, chấp hành các quy định về chế độ hạch toán kế toán, kiểm toán, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.
Doanh nghiệp thương mại còn có nhiệm vụ cụ thể sau :
- Đẩy mạnh tốc độ chu chuyển của sản phẩm trong nền kinh tế quốc dân, tổ chức tốt công tác thu mua, phân phối và giảm bớt các khâu trung gian, giảm chi phí kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đặc biệt là chi phí lưu thông.
- Phải thoả mãn kịp thời, đầy đủ và thuận lợi các nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ của khách hàng, tạo nguồn thu mua có chất lượng tốt, ổn định, giá cả phải chăng.
- Đẩy mạnh các hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông và phát triển các hoạt động dịch vụ thương mại đó là các hoạt động phục vụ cho hoạt động mua bán, dự trữ, bảo quản nhằm đảm bảo thuận tiện cho khách hàng.
- Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý và mở rộng mạng lưới kinh doanh trên thị trường trọng điểm và thị trường tiềm năng.
2.4 Các loại hình doanh nghiệp thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghệp thương mại rất phong phú và đa dạng, căn cứ vào tính chất các mặt hàng kinh doanh, doanh nghiệp thương mại được chia thành 3 loại chính :
- Doanh nghiệp kinh doanh chuyên môn hoá: Đó là các doanh nghiệp chuyên kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có cùng công dụng, trạng thái hoặc tính chất nhất định. Loại hình kinh doanh này có nhiều ưu điểm.
Do chuyên sâu theo ngành hàng nên có điều kiện để nắm chắc thông tin về người mua, người bán, giá cả thị trường, tình hình hàng hoá dịch vụ nên có khả năng cạnh tranh trên thị trường, vươn lên thành độc quyền kinh doanh. Trình độ chuyên môn hoá ngày càng được nâng cao, có thể tổ chức tốt các nghiệp vụ trong khâu mua, bán, bảo quản và tổ chức các hoạt động dịch vụ phục vụ theo yêu cầu, doanh nghiệp còn có thể nắm bắt được thông tin về thị trường, giá cả tốt hơn.
Tuy nhiên với hình thức kinh doanh này, mức độ rủi ro cao đặc biệt khi nhu cầu đột ngột giảm hoặc có hàng hoá thay thế thì chuyển hướng kinh doanh chậm khó đảm bảo cung ứng hàng hoá cho các nhu cầu. Để kinh doanh chuyên môn hoá đòi hỏi tổ chức kinh doanh ở nơi có nhu cầu lớn, ổn định.
- Doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp : Là các doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng có công dụng, trạng thái, tính chất khác nhau. Đây là loại hình kinh doanh của các hộ tiểu thương, cửa hàng bách hoá tổng hợp, các siêu thị.
Với loại doanh nghiệp này mức độ rủi ro trong kinh doanh ít hơn bởi vì khi có biến động trong nhu cầu của mặt hàng này thì vẫn còn doanh thu từ mặt hàng khác, dễ chuyển hướng kinh doanh, tốc độ lưu chuyển vốn kinh doanh nhanh, vốn kinh doanh ít bị ứ đọng do mua bán nhanh và đầu tư cho nhiều ngành hàng, bảo đảm cung ứng đồng bộ hàng hoá cho các nhu cầu tuy nhiên trình độ chuyên môn hoá không sâu, trong điều kiện cạnh tranh khó thắng được đối thủ, kinh doanh nhỏ nên không kiếm được lợi nhuận siêu ngạch, đòi hỏi nguồn vốn kinh doanh lớn, hệ thống mạng lưới kinh doanh phải bố trí ở những nơi nhu cầu nhỏ lẻ.
Doanh nghiệp kinh doanh đa dạng hoá : Là loại hình doanh nghiệp kinh doanh cả sản xuất, cả kinh doanh hàng hoá và thực hiện các hoạt động dịch vụ thương mại. Doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng, nhiều lĩnh vực nhằm tận dụng lao động, cơ sở vật chất và phân tán rủi ro. Tuy nhiên với hình thức này đòi hỏi vốn lớn, người quản lý phải là người giỏi, nắm được bí quyết trong sản xuất, phân phối, bán hàng để có khả năng cạnh tranh.
3. Sự tác động của kinh tế thị trường đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại
3.1 Nguyên tắc đối với các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường
Để thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp thương mại cần tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Phải lôi cuốn khách hàng rồi sau đó mới nghĩ đến cạnh tranh.
- Mỗi khi làm lợi cho mình thì đồng thời phải làm lợi cho khách hàng.
- Tìm kiếm thị trường đang lên và chiếm lĩnh thị trường nhanh chóng.
- Đầu tư vào tài năng và nguồn lực để tạo ra được nhiều giá trị sản phẩm, dịch vụ.
- Nhận thức và nắm cho được nhu cầu của thị trường để đáp ứng đầy đủ.
3.2 Vai trò của kinh tế thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
Kinh tế thị trường là sản phẩm hoạt động kinh tế của con người đã trải qua nhiều thời đại. Kinh tế thị trường ra đời và phát triển mạnh mẽ cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường, toàn bộ quá trình vận hành từ sản xuất đến lưu thông phân phối đều được tiến hành trên thị trường. Đây là một quá trình mà người mua, người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá. Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế xã hội, trong đó mối quan hệ kinh tế giữa các cá nhân, các doanh nghiệp đều thể hiện qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường, và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của thị trường. Điều đó phát huy tính chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp tăng cường khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước sự thay đổi của môi trường.
Một doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế thị trường hoàn toàn khác với một đơn vị kinh tế hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở chỗ nó không phải là một đơn vị kinh tế chấp hành theo mệnh lệnh của cấp trên mà là một chủ thể kinh doanh đối mặt với thị trường. Doanh nghiệp có toàn quyền quyết định và tự chịu trách nhiệm về quá trình kinh doanh của mình trong khuôn khổ pháp luật quy định. Để đảm bảo duy trì và phát triển lâu dài, doanh nghiệp phải biết chăm lo và bảo đảm quyền lợi cho người lao động hay nói cách khác doanh nghiệp phải bảo đảm thống nhất giữa lợi ích tập thể của cán bộ công nhân doanh nghiệp và lợi ích chung của hệ thống kinh tế quốc dân - sự thống nhất chung về mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế- xã hội ngày một cao sẽ là bảo đảm chắc chắn cho sự nhất trí chung của toàn bộ doanh nghiệp.
Lợi nhuận là yếu tố quan trọng là động lực đối với hoạt động doanh nghiệp. Trong kinh tế thị trường doanh nghiệp thực hiện hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc lấy thu bù chi và đảm bảo lợi nhuận, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của họ. Khác với nền kinh tế tập trung trước đây nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp, nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải cố gắng vươn lên giành lợi ích cao nhất cho mình nếu không sẽ thất bại. “Kinh doanh thương mại là cuộc chạy đua không có đích cuối cùng ”, điều đó luôn đúng nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt này, không những chỉ cạnh tranh giữa người bán với người bán với người bán mà còn cạnh tranh giữa người mua với người bán, và người mua với người mua.
Trong điều kiện kinh tế thị trường đầy cạnh tranh đó, người mua có quyền quyết định, người mua chọn sản phẩm ai thì người đó bán được hàng và tồn tại, phát triển. Người mua không chấp nhận sản phẩm của người kinh doanh nào thì người đó không bán được hàng và phá sản. Phương châm “ Hãy bán cái mà khách hàng cần” luôn cần được các nhà kinh doanh quan tâm đến. Trong hoạt động kinh doanh, khách hàng nằm ở vị trí trọng tâm. Mọi quyết định kinh doanh của doanh nghiệp đều phải xuất phát từ khách hàng và hướng tới khách hàng để phục vụ.
Nhờ kinh tế thị trường mà hàng hoá cũng ngày càng phong phú đa dạng hơn, cũng luôn có xu hướng lớn hơn cầu, kinh doanh ngày càng khó khăn, mức độ rủi ro cao, các doanh nghiệp muốn thành công thì mới thoả mãn tốt nhu cầu khách hàng, mọi hoạt động kinh doanh đều hướng vào khách hàng. Giá cả hàng hoá được xác định thông qua cung cầu trên thị trường, cạnh tranh. Ngày nay trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật. Và trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp luôn tuân thủ, tôn trọng các quy luật của thị trường: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh...
Để kinh doanh có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược kinh doanh đúng đắn, nắm vững môi trường kinh doanh, và có cách ứng xử phù hợp với từng hình thái thị trường. Qua đó giải quyết được ba vấn đề cơ bản trong kinh doanh : kinh doanh cái gì? Kinh doanh như thế nào ? Và cho ai?
Trong cơ chế mới - cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, doanh nghiệp có trách nhiệm và có thể làm tốt các vấn đề xã hội. Ngược lại giải quyết tốt các vấn đề xã hội sẽ tạo ra những động lực quan trọng bảo đảm sự phát triển hiệu quả kinh tế xã hội cao của doanh nghiệp trong hiện tại cũng như trong tương lai.
II. Nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh thương mại
1. Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch vụ để lựa chọn kinh doanh
Đây là hoạt động quan trọng khi tiến hành bất cứ hoạt động kinh doanh nào. Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thương mại phải tiến hành nghiên cứu và xác định nhu cầu của thị trường. Không ngừng xem xét để xác định nhu cầu của khách hàng và đáp ứng các yêu cầu đó là điều cốt lõi dẫn tới thành công trong điều kiện thị trường luôn biến động hôm nay.
Quá trình nghiên cứu thị trường được tiến hành qua ba bước:
- Thu thập thông tin: Đây là bước đầu tiên trong quá trình nghiên cứu thị trường. Thu thập thông tin phải được ưu tiên hàng đầu và tiến hành liên tục nhằm tạo khả năng cho doanh nghiệp phản ứng một cách nhanh nhạy hiệu quả đối với biến động của tình hình. Thu thập thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời thì hoạt động nghiên cứu thị trường mới có hiệu quả giúp doanh nghiệp đưa ra được những quyết định, kế hoạch kinh doanh đúng đắn.
Có hai phương pháp thu thập thông tin:
+ Phương pháp thu thập tại bàn: là phương pháp thu thập thông tin qua các tài liệu như sách, báo, tạp chí...và các tài liệu liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Phương pháp này có nhược điểm là chậm và mức độ tin cậy có hạn.
+ Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: là phương pháp thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trên thị trường thông qua quan sát, phỏng vấn, soạn thảo các câu hỏi điều tra và phiếu trưng cầu ý kiến của những người mua bán trên thị trường.
- Xử lý thông tin: Sau khi thu thập xong thông tin, phải tiến hành xử lý thông tin. Thông qua việc phân loại, sắp xếp, phân tích tổng hợp, đánh giá làm cho thông tin thu được trở nên dễ hiểu, có ích phục vụ cho quá trình nghiên cứu, trả lời được những vấn đề những câu hỏi đặt ra trong quá trình hoạt động kinh doanh.
- Ra quyết định: Sau khi xử lý được thông tin, là bước ra quyết định. Việc kinh doanh của công ty theo hướng nào có hiệu quả hay không phụ thuộc vào quyết định kinh doanh có đúng đắn hay không. Nhưng để thực hiện tốt bước này đòi hỏi phải thực hiện tốt cả hai bước trên.
Nội dung của nghiên cứu thị trường bao gồm:
- Nghiên cứu xác định nhu cầu của thị trường và sự đáp ứng nhu cầu đó hiện nay. Thứ hạng phẩm cấp chất lượng nào phù hợp với nhu cầu thị trường của doanh nghiệp. Nhu cầu hiện tại và tương lai của hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh và các mặt hàng khác doanh nghiệp đang quan tâm, hàng hoá dịch vụ nào phù hợp với điều kiện hoạt động của doanh nghiệp.
- Nguồn hàng nào thì phù hợp với nhu cầu của khách, phân phối như thế nào cho hợp lý. Xác định khả năng của nguồn hàng cung ứng, khả năng có thể khai thác đặt hàng và thu mua. Có thể doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá chưa hề có trên thị trường nhưng qua nghiên cứu tin chắc rằng nhu cầu thị trường sẽ có và ngày càng tăng lên.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu của hàng hoá doanh nghiệp kinh doanh.
- Đánh giá thị trường, ưu và nhược điểm của đối thủ cạnh tranh, cần có chính sách, chiến lược như thế nào để nâng cao hiệu quả của hoạt động và tăng cường khả năng cạnh tranh.
Đó là toàn bộ thông tin cơ bản và cần thiết mà một doanh nghiệp phải nghiên cứu để phục vụ cho quá trình ra quyết định đúng đắn, tối ưu nhất. Để nắm bắt được những thông tin đó doanh nghiệp phải coi công tác nghiên cứu thị trường là một hoạt động không kém phần quan trọng như hoạt động quản lý, nghiệp vụ bởi vì công tác nghiên cứu thị trường không trực tiếp tham gia vào các hoạt động trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp như mua, bán...nhưng kết quả của nó ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác nghiên cứu thị trường được tiến hành một cách khoa học sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được :
- Lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề kinh doanh và lựa chọn sản phẩm kinh doanh cũng như các chính sách duy trì, cải tiến hay phát triển sản phẩm.
- Nhu cầu hiện tại, tương lai và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thị trường, xác định được mục tiêu của doanh nghiệp.
- Tìm được nguồn hàng, các đối tác và bạn hàng kinh doanh, lựa chọn kênh phân phối và các biện pháp xúc tiến phù hợp.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường và đánh giá khả năng tiềm lực của mình, doanh nghiệp lựa chọn hình thức kinh doanh, mặt hàng, thị trường và người cung cấp.
2. Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh
* Xây dựng chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là định hướng hoạt động có mục tiêu của doanh nghiệp cho một thời kỳ dài và hệ thống các chính sách, biện pháp, điều kiện để thực hiện các mục tiêu đề ra cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy trình xây dựng chiến lược kinh doanh. Xây dựng chiến lược kinh doanh được thực hiện theo trình tự :
Xác định nhiêm vụ và hệ thống mục tiêu làm nền tảng cho công tác hoạch định chiến lược với nội dung :
Xác định ngành nghề và mặt hàng kinh doanh
Vạch rõ mục tiêu chính
Xác định triết lý chủ yếu của doanh nghiệp.
ã Phân tích các yếu tố của môi trường để nhận diện cơ hội và nguy cơ đe doạ bao gồm các yếu tố : kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, kỹ thuật công nghệ, điều kiện tự nhiên. Đồng thời phân tích các yếu tố vi mô bên ngoài doanh nghiệp như : khách hàng, người cung ứng, đối thủ cạnh tranh và các sản phẩm thay thế.
Doanh nghiệp cần nhận thức rõ các yếu tố của môi trường có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đo lường mức độ ảnh hưởng và chiều hướng của chúng. Các thông tin tổng hợp kết quả phân tích và dự báo cần xác định theo hai hướng: Thứ nhất, các thời cơ, cơ hội của môi trường kinh doanh. Thứ hai, các rủi ro, nguy cơ có thể xảy ra trong môi trường kinh doanh.
Phân tích điểm mạnh và điểm yếu trong phạm vi doanh nghiệp
Để xây dựng được chiến lược kinh doanh doanh nghiệp phải tiến hành phân tích, đánh giá những yếu tố bên trong doanh nghiệp như : tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực, trình độ tổ chức quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật...Từ đó xác định được điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp , điểm mạnh là những yếu tố thuộc về tiềm năng của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh còn điểm yếu là những thuộc tính làm suy giảm tiềm lực của doanh nghiệp. Nhờ đó chiến lược đưa ra sẽ là một chiến lược phù hợp với tiềm lực và điều kiện của doanh nghiệp.
Xây dựng chiến lược kinh doanh tổng quát và chiến lược kinh doanh bộ phận
Chiến lược chung tổng quát đề cập đến những vấn đề quan trọng, có ý nghĩa lâu dài, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp thương mại như phương hướng kinh doanh, chủng loại hàng hoá, dịch vụ kinh doanh, thị trường tiêu thụ, các mục tiêu tài chính và các chỉ tiêu phát triển, tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai.
Chiến lược kinh doanh bộ phận của doanh nghiệp thương mại bao gồm: các chiến lược mặt hàng kinh doanh và dịch vụ, chiến lược thị trường và khách hàng, chiến lược vốn kinh doanh, chiến lược cạnh tranh, chiến lược marketing hỗn hợp, chiến lược phòng ngừa rủi ro, chiến lược kinh doanh trên thị trường quốc tế, chiến lược con người.
Lựa chọn và quyết định chiến lược kinh doanh
- Nguyên tắc lựa chọn: chiến lược kinh doanh phải bảo đảm mục tiêu bao trùm, phải có tính khả thi và phải bảo đảm mối quan hệ biện chứng giữa doanh nghiệp và thị trường trên cơ sở tôn trọng lợi ích của các bên tham gia.
- Thẩm định và đánh giá chiến lược kinh doanh: Bao gồm các tiêu chuẩn định tính và định lượng. Các tiêu chuẩn định lượng gồm khối lượng bán hàng, thị phần của doanh nghiệp, tổng doanh thu và lợi nhuận...Tiêu chuẩn định tính phải bảo đảm mục tiêu của doanh nghiệp về thế lực, độ an toàn trong kinh doanh và sự thích ứng của chiến lược kinh doanh với thị trường.
- Các bước lựa chọn và quyết định chiến lược kinh doanh :
ã Chọn tiêu chuẩn chung để so sánh các chiến lược kinh doanh đã lựa chọn.
ã Chọn các thang điểm cho các tiêu chuẩn
ã Cho điểm từng tiêu chuẩn thông qua phân tích.
* Xây dựng kế hoạch kinh doanh
Kế hoạch hoạt động kinh doanh cơ bản nhất mà một doanh nghiệp thương mại nào cũng phải lập và thực hiện là kế hoạch lưu chuyển hàng hoá. Đây là kế hoạch hoạt động kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp thương mại.
Kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại là bảng tính toán tổng hợp những chỉ tiêu bán ra, mua vào và dự trữ hàng hoá đáp ứng nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở khai thác tối đa khả năng có thể có của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
Nội dung của kế hoạch lưu chuyển hàng hoá :
- Kế hoạch bán hàng : Bán hàng là nhiệm vụ quan trọng nhất của doanh nghiệp thương mại, là mục tiêu của hoạt động kinh doanh. Vì vậy mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phục vụ cho việc bán hàng được nhiều, nhanh, thu hút ngày càng nhiều khách hàng, giảm được chi phí bán hàng để đạt hiệu quả kinh doanh cao.
Kế hoạch bán ra bao gồm nhiều chỉ tiêu khác nhau:
+ Theo hình thức bán hàng: chỉ tiêu bán buôn, bán lẻ
+ Theo khách hàng: bán cho đơn vị tiêu dùng trực tiếp, bán cho các tổ chức trung gian, bán qua đại lý..
+ Theo các khâu của quá trình kinh doanh : bán ở tổng công ty, công ty, bán ở kho, cửa hàng ...
- Kế hoạch mua hàng : Mua hàng là điều kiên tiên quyết để thực hiện kế hoạch bán ra và dự trữ hàng hoá. Mua hàng đòi hỏi hàng hoá phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng, phải mua hàng kịp thời, đúng với yêu cầu, giá cả hợp lý là yếu tố quan trọng quyết định kinh doanh có lãi. Vì vậy trong kế hoạch mua hàng phải tính toán, cân nhắc lựa chọn các loại hàng và bạn hàng tin cậy để bảo đảm an toàn vốn kinh doanh và đáp ứng yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
Các nguồn hàng mà doanh nghiệp có thể lưan chọn: nguồn hàng nhập khẩu, nguồn hàng sản xuất trong nước, nguồn hàng tự khai thác chế biến, nguồn hàng liên doanh, liên kết, các nguồn hàng khác...
- Kế hoạch dự trữ hàng hóa đầu kỳ và cuối kỳ : Một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại liên tục và đạt hiệu quả cao là có kế hoạch dự trữ hàng hoá phù hợp.
Trình tự lập kế hoạch lưu chuyển hàng hoá
- Bước 1 : Chuẩn bị lập kế hoạch. Cần chuẩn bị các tài liệu cần thiết, cho lập kế hoạch, tổ chức thu thập, nghiên cứu, đánh giá và lựa chọn các tài liệu tin cậy; phân tích tài liệu dự báo và lựa chọn các hướng dự báo có căn cứ khoa học nhất; phân tích tình hình môi trường kinh doanh và khả năng phát triển của các đối thủ cạnh tranh, cũng như xu hướng nhu cầu mặt hàng và mặt hàng thay thế.
- Bước 2 : Trực tiếp lập kế hoạch. Phải tính toán các chỉ tiêu, sau đó cân đối các mặt hàng từ chi tiết đến tổng hợp, có mặt hàng nhiều danh điểm chỉ cân đối đến nhóm mặt hàng; phát hiện và dự kiến các biện pháp khắc phục sự mất cân đối.
- Bước 3 : Trình, duyệt, quyết định kế hoạch chính thức. Kế hoạch lập ra phải được trình và bảo vệ trước ban lãnh đạo doanh nghiệp hoặc hội đồng quản trị. Sau khi bổ sung và thống nhất, kế hoạch sẽ trở thành chính thức của doanh nghiệp thương mại.
3. Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực đưa vào kinh doanh
Các nguồn lực đưa vào kinh doanh có vai trò quyết định, quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Kinh doanh tức là đầu tư nguồn lực vào một lĩnh vực nào đó nhằm tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Các nguồn lực của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể huy động đưa vào kinh doanh bao gồm :
- Vốn hữu hình : Nguồn vốn hữu hình bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Tài sản cố định bao gồm toàn bộ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động kinh doanh như văn phòng, cửa hàng, hệ thống kho, các trang thiết bị, phương tiện vận chuyển...Nguồn này góp phần tạo nên sức mạnh, uy thế của doanh nghiệp và giúp cho hoạt động kinh doanh thuận lợi. Tài sản lưu động bao gồm vật liệu đóng gói, bao bì, nhiên liệu, dụng cụ và các khoản tiền mặt, ngân phiếu, tiền nhờ thu...
- Vốn vô hình như : sự nổi tiếng về nhãn hiệu, uy tín, kinh nghiệm... và con người với tài năng, kinh nghiệm, nghề nghiệp được đào tạo...Đây là nguồn tài sản quan trọng của doanh nghiệp nhưng việc tích luỹ đòi hỏi thời gian lâu dài, nguồn này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh.
Trong một doanh nghiệp kinh doanh, vốn là vấn đề quan trọng và được quan tâm nhiều nhất, vốn hữu hình và vô hình đều cần thiết, không thể thiếu. Không có vốn hoặc quá ít vốn doanh nghiệp không thể kinh doanh có hiệu quả được. Vốn lớn giúp doanh nghiệp có thể ổn định và phát triển kinh doanh tạo niềm tin và uy tín cho khách hàng, bạn hàng.
Dù có tài huy động đến mức nào thì nguồn tài sản của doanh nghiệp không phải là vô hạn. Nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động vào kinh doanh luôn cần thiết phải có, tuy nhiên nguồn vốn thì có hạn nhất là trong điều kiện huy động vốn khó khăn. Vấn đề còn lại là doanh nghiệp kết hợp các nguồn tài lực và con người cụ thể như thế nào để doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh một cách nhanh chóng, thuận lợi và rút ngắn được thời gian chuẩn bị, có kết quả kinh doanh nhanh chóng và phát triển kinh doanh cả về bề rộng và bề sâu. Bên cạnh yếu tố vốn kinh doanh thì yếu tố con người cũng góp phần không nhỏ trong kinh doanh. Sử dụng và khai thác nguồn vốn này có hiệu quả phụ thuộc vào tài năng, kinh nghiệm và trình độ quản lý, bộ máy điều hành của doanh nghiệp hay nói tóm lại đó là nhờ vào yếu tố con người.
Việc huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực do tập thể hội đồng quản trị có trách nhiệm, song về cơ bản đó là tài năng của giám đốc và hệ thống tham mưu chức năng giúp giám đốc, cũng như sự phát huy khả năng của các thành viên trong doanh nghiệp, vấn đề kỷ luật, kỷ cương trong doanh nghiệp và vấn đề khuyến khích bằng lợi ích vật chất và tinh thần với mọi thành viên.
Việc huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực có vai trò quyết định trong đến hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Nhưng để làm được điều đó đòi hỏi phải thực hiện tốt ở tất cả các khâu, các bộ phận của hoạt động kinh doanh.
4.Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh
4.1. Hoạt động tạo nguồn, mua hàng
Trong kinh doanh thương mại, tạo nguồn hàng là khâu nghiệp vụ kinh doanh đầu tiên, mở đầu cho hoạt động lưu thông hàng hoá. Tạo nguồn hàng là toàn bộ các hình thức, phương thức và điều kiện của doanh nghiệp thương mại tác động đến lĩnh vực sản xuất, khai thác hoặc nhập khẩu để tạo ra nguồn hàng có phù hợp với nhu cầu của khách hàng để doanh nghiệp thu mua và cung ứng cho khách hàng.
Nguồn hàng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp xác định được nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ, xác định được các nguồn hàng, khả năng cung ứng của họ, tổ chức ký kết hợp đồng, đặt hàng, mua từ nguồn hàng trôi nổi trên thị trường, nguồn hàng do liên doanh liên kết với đơn vị sản xuất để khai thác, chế biến, nguồn hàng tự tổ chức sản xuất, nhận đại lý, ký gửi.
Để nắm vững thị trường nguồn hàng, hạn chế bị động trong lựa chọn đối tác giao dịch, các doanh nghiệp phải nghiên cứu khả năng cung ứng của từng loại hàng hoá. Đó là xác định số lượng, nhà cung ứng trong và ngoài nước, khả năng cung ứng của các nhà cung cấp trong hiện tại và tương lai. Khi nghiên cứu về nhà cung cấp doanh nghiệp phải tìm hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên, liên kết kinh doanh và đặt mua, nghiên cứu về vốn, kỹ thuật, uy tín của nhà cung cấp. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải tìm xem nguồn nào thoả mãn được các yêu cầu. Nguồn hàng đó phù hợp về mặt số lượng nghĩa là nó có thể đáp ứng đúng số lượng hàng hoá mà công ty cần theo yêu cầu, đáp ứng theo yêu cầu về chất lượng, kịp thời gian, đảm bảo hiệu quả cao. Ngoài ra nó còn phải thoả mãn các điều kiện khác của doanh nghiệp như phù hợp với điều kiện vận chuyển, giao nhận, thanh toán...
Các hình thức mua hàng :
- Mua theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế ký trước
- Mua hàng không theo hợp đồng, đơn hàng
- Nhận làm đại lý bán hàng cho các đơn vị sản xuất trong nước và các hãng nước ngoài
- Nhập khẩu hàng hoá :
Các hình thức tạo nguồn :
- Đem nguyên liệu gia công sản phẩm
- Bán nguyên liệu mua thành phẩm
- Liên doanh, liên kết sản xuất tiêu thụ hàng hoá
- Tự sản xuất khai thác hàng hoá :
Nội dung của tổ chức tạo nguồn, mua hàng ở doanh nghiệp thương mại
Xác định nhu cầu cụ thể của khách hàng về khối lượng, cơ cấu mặt hàng, quy cách chủng loại, thời gian và giá cả mà khách hàng có thể chấp nhận
Tìm hiểu khả năng sản xuất trong nước và thị trường nước ngoài
Tổ chức giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng mua hàng
Tổ chức thực hiện hợp đồng
Đánh giá kết quả
4.2 Hoạt động dự trữ
Doanh nghiệp thương mại làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, trong quá trình vận động đưa hàng từ sản xuất đến tiêu dùng thường xuyên có một bộ phận hàng hoá đang trên đường vận chuyển, ở các kho của doanh nghiệp thương mại hoặc được giữ lại chờ tiêu dùng, bộ phận hàng hoá này gọi là dự trữ.
Dự trữ đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, dự trữ không đủ mức cần thiết có nguy cơ làm gián đoạn hoạt động kinh doanh, mặt khác dự trữ quá nhiều dẫn đến tình trạng ứ đọng hàng hoá, vốn chậm lưu chuyển. Vì vậy việc xác định đúng đắn mức dự trữ hợp lý có thể tăng nhanh vòng quay của hàng hoá, sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh cho phép giảm các chi phí về bảo quản hàng hoá, giảm hao hụt, mất mát, bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động thường xuyên, liên tục, thực hiện được các mục tiêu đã đề ra.
Mục đích của dự trữ ở doanh nghiệp thương mại là để đảm bảo bán hàng diễn ra liên tục, đều đặn, sẵn sàng phục vụ khách hàng ngay khi có nhu cầu, tạo dựng niềm tin, uy tín với khách hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh.
Dự trữ trong doanh nghiệp thương mại có thể chia thành các loại sau :
- Dự trữ thường xuyên là lượng chủ yếu dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp thương mại nhằm thoả mãn thường xuyên, đều đặn nhu cầu của khách hàng.
- Dự trữ bảo hiểm là bộ phận của dự trữ hàng hoá đảm bảo cho các nhu cầu của khách hàng khi có những thay đổi ngoài dự kiến của doanh nghiệp thương mại như nguồn hàng tiếp nhận không đầy đủ như kế hoạch, sản xuất có khó khăn, vận chuyển bị gián đoạn không đúng tiến độ.
- Dự trữ chuẩn bị : Dự trữ chuẩn bị là thật sự cần thiết khi hàng hoá nhập kho của doanh nghiệp thương mại cần phải trải qua các khâu tiếp nhận, phân loại, làm đồng bộ, sơ chế cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng.
Dự trữ thời vụ: Với những doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng có tính thời vụ về sản xuất, lưu thông, tiêu dùng thì còn có bộ phận dự trữ thời vụ. Chức năng của bộ phận dự trữ này nhằm đáp ứng nhu cầu khẩn trương và cao hơn mức bình thường.
Phương pháp xác định dự trữ của doanh nghiệp thương mại
- Phương pháp thống kê kinh nghiệm : phương pháp này dựa trên số liệu thống kê báo cáo về hoạt động mua bán, dự trữ của doanh nghiệp để xác định dự trữ cho kỳ kế hoạch
- Phương pháp dựa trên các định mức kinh tế kỹ thuật : Phương pháp này dựa trên cơ sở nghiên cứu các bộ phận cấu thành của dự trữ, dựa vào các định mức kinh tế kỹ thuật để cấu thành dự trữ cho các doanh nghiệp.
- Phương pháp sử dụng các mô hình toán và công cụ tính toán hiện đại : Đó là quá trình thực hiện hàng loạt các công việc có tính chất tính toán, kỹ thuật thông tin, kinh tế nhằm bảo đảm tối ưu hoạt động dự trữ của doanh nghiệp.
4.3 Tổ chức phân phối và bán hàng
Trong cơ chế thị trường mục tiêu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận. Để thực hiên mục tiêu đó doanh nghiệp phải bán được hàng, chỉ có bán được hàng doanh nghiệp thương mại mới có thể thu hồi vốn kinh doanh, thực hiện được lợi nhuận, tái mở rộng kinh doanh. Do vậy bán hàng là khâu quan trọng mấu chốt, là nghiệp vụ kinh doanh cơ bản, trực tiếp thực hiện chức năng lưu thông phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân và thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời bán hàng là quyết định và chi phối các hoạt động nghiệp vụ khác của doanh nghiệp như : nghiên cứu thị trường, tạo nguồn mua hàng, dịch vụ, dự trữ...
Bán hàng là quá trình chuyển hóa hình thái giá trị của hàng hoá từ hàng sang tiền nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng về một giá trị sử dụng nhất định. Đối với kinh doanh thương mại hoạt động bán hàng tổ chức tốt có thể làm tăng tiền bán ra và chỉ thông qua bán hàng cho người tiêu dùng giá trị của sản phẩm dịch vụ mới được thực hiện do đó mới có điều kiện thực hiện mục đích của doanh nghiệp.
Hoạt động bán hàng là kết quả của nhiều hoạt động :
Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu tập quán tâm lý của người tiêu dùng
Xác định các kênh bán và các hình thức bán
Phân phối hàng hoá váo các kênh bán
Tiến hành quảng cáo, xúc tiến bán hàng
Đánh giá kết quả, thu thập thông tin phản hồi
Hình thức bán hàng
* Theo khâu lưu chuyển hàng hoá bán hàng ở doanh nghiệp thương mại có thể chia ra thành 2 hình thức bán hàng : bán buôn và bán lẻ.
* Căn cứ vào địa điểm giao hàng cho khách hàng có hình thức bán hàng tại kho của người cung ứng, tại kho của doanh nghiệp thương mại, bán qua cửa hàng, quầy hàng và bán tại đơn vị tiêu dùng.
* Theo phương thức bán gồm : bán theo hợp đồng và đơn hàng, thuận mua vừa bán, bán đấu giá và xuất khẩu hàng hoá
* Theo mối quan hệ thanh toán có mua đứt bán đoạn và sử dụng các hình thức tín dụng trong thanh toán như bán hàng trả chậm, bán trả góp...
* Ngoài ra còn có hình thức bán hàng trực tiếp, bán hàng từ xa qua điện thoai, bán hàng qua người môi giới, qua nhân viên tiếp thị và bán hàng qua mạng internet...
Lựa chọn kênh phân phối
Hiệu quả của hoạt động bán hàng của doanh nghiệp thương mại phụ thuộc rất nhiều vào việc lực chọn kênh phân phối. Kênh phân phối có thể được hiểu là một tập hợp có hệ thống các phần tử tham gia vào quá trình chuyển đưa hàng hoá từ nhà sản xuất đến người sử dụng.
Tuỳ thuộc vào quy mô kinh doanh, đặc điểm, tính chất của sản phẩm, và các điều kiện vận chuyển, bảo quản sử dụng doanh nghiệp thương mại có thể tổ chức bán hàng thông qua các kênh phân phối khác nhau như tổ chức bán trực tiếp cho người tiêu dùng thông qua mạng lưới bán lẻ, bán qua trung gian hay môi giới.
Việc lựa chọn kênh bán cần dựa trên các căn cứ sau :
Căn cứ vào bản chất của sản phẩm
Tình hình thị trường bán hàng
Chiến lược phân phối và sự phát triển của doanh nghiệp
Lý do thay đổi các kênh phân phối đang tồn tại
Các loại kênh phân phối
- Kênh phân phối ngắn (1), (2): là dạng kênh phân phối trực tiếp từ doanh nghiệp đến người sử dụng sản phẩm hoặc có sử dụng người mua trung gian nhưng không quá nhiều người trung gian xen giữa khách hàng và doanh nghiệp.
Kênh phân phối này bảo đảm được sự giao tiếp trực tiếp giữa người cung cấp và người tiêu dùng cuối cùng, hàng hoá lưu chuyển nhanh, giảm được chi phí lưu thông, quan hệ giao dịch mua bán đơn giản, thuận tiện. Người sản xuất hay nhập khẩu được giải phóng khỏi chức năng bán lẻ.
- Kênh phân phối dài (3), (4) : Là dạng kênh phân phối có sự tham gia của nhiều người mua trung gian. Hàng hoá của doanh nghiệp có thể được chuyển dần quyền sở hữu cho một loạt các nhà buôn lớn đến các nhà buôn nhỏ hơn rồi qua các nhà bán lẻ đến tay người tiêu dùng.
Kênh phân phối này làm cho từng khâu của quá trình sản xuất lưu thông được chuyên môn hoá, tạo điều kiện để phát triển sản xuất mở rộng thị trường, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất và tiền vốn, thích hợp với điều kiện sản xuất lưu thông nhiều loại sản phẩm, phù hợp với quan hệ mua bán của nhiều loại doanh nghiệp.
Người sản xuất hoặc nhập khẩu hàng hoá
Người tiêu dùng cuối cùng
Người bán lẻ
Nguời bán buôn
Môi giới trung gian
Người bán lẻ
Người bán lẻ
Người bán buôn
1
2
3
4
Phân phối hàng hoá vào các kênh bán
Mạng lưới bán hàng của doanh nghiệp thương mại bao gồm các cửa hàng và hệ thống đại lý được bố trí rộng và thuận tiện để phục vụ khách hàng, tuy nhiên khi xây dựng mạng lưới kinh doanh doanh nghiệp cần phải bố trí phù hợp với quá trình vận động của hàng hoá từ nguồn hàng đến nơi tiêu dùng, mạng lưới cửa hàng phải được bố trí ở những nơi đông dân cư, những địa điểm thuận lợi cho mua bán, phải tính đến hiệu quả của từng điểm bán cũng như của toàn bộ doanh nghiệp, tránh sự diệt trừ lẫn nhau.
Phân phối hàng hóa thực chất là quá trình chuyển hàng hoá vào các kênh bán hàng một cách hợp lý, là hoạt động tác nghiệp mở đầu và tạo điều kiện cho hoạt động bán hàng theo chương trình mục tiêu đã xác định một cách chủ động, văn minh, đáp ứng tối đa yêu cầu của thị trường và tín nhiệm với khách hàng.
Đối với hoạt động phân phối hàng hoá để đem lại kết quả cao doanh nghiệp cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc hiệu quả kinh tế thể hiện qua doanh thu và chi phí làm sao đạt được lợi nhuận cao nhất.
+ Nguyên tắc đồng bộ liên tục: Khi tiến hành phân phối hàng hoá phải tính đến nhiều yếu tố như giá mua, giá bán, chi phí vận chuyển, bảo quản...
+ Nguyên tắc ưu tiên: Trong trường hợp có sự mất cân đối cục bộ mà doanh nghiệp không thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, thời gian, địa điểm thì cần phải cân nhắc lựa chọn phương án tốt nhất.
Tiến hành quảng cáo, xúc tiến bán hàng
* Quảng cáo thương mại là hành vi của thương nhân nhằm giới thiệu hàng hoá, dịch vụ để xúc tiến thương mại.
Quảng cáo để giới thiệu hàng hoá cho mọi người biết nhằm tranh thủ được nhiều khách hàng đến với doanh nghiệp, giúp cho khách hàng tự do lựa chọn hàng hoá và tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể bán được nhiều hàng, bán được nhiều hơn, giảm được chi phí cho một đơn vị hàng hoá bán ra, giúp doanh nghiệp cải tiến và lựa chọn sản phẩm trong kinh doanh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới, dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu và yêu cầu của khách hàng.
Tuỳ theo điều kiện của doanh nghiệp, mặt hàng kinh doanh mà doanh nghiệp lựa chọn phương tiện quảng cáo, hình thức quảng cáo cho phù hợp và đem lại hiệu quả cao nhất.
* Xúc tiến bán hàng là những kỹ thuật đặc thù nhằm gây ra một sự bán hàng tăng lên nhanh chóng, nhưng tạm thời do việc cung cấp một lợi ích ngoại lệ cho người phân phối, người tiêu thụ hay người tiêu dùng cuối cùng.
Những kỹ thuật xúc tiến thường áp dụng trong kinh doanh thương mại :
Bán có thưởng
Giảm giá tức thì
Trò chơi và thi có thưởng
Khuyến khích mua thử, quảng cáo tại các nơi bán.
Thực hiện các nghiệp vụ bán hàng ở cửa hàng, quầy hàng
Đây là tập hợp các hoạt động để thực hiện hợp đồng mua bán với từng khách hàng và đáp ứng nhu cầu tức thời của người mua ở cửa hàng, quầy hàng một cách thuận tiện.
Đối với hoạt động bán hàng doanh nghiệp phải chú ý đến các nội dung sau :
+ Khối lượng mặt hàng và chất lượng hàng hoá, dịch vụ phải đáp ứng được yêu cầu của khách hàng.
+ Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ trong quá trình bán.
+ áp dụng phương pháp bán và quy trình bán hoàn thiện đảm bảo năng suất lao động, chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng không ngừng nâng cao.
+ Không ngừng cải tiến trang thiết bị, phương tiện phục vụ, cách thức trưng bày tại quầy hàng, cửa hàng.
+ Đào tạo, huấn luyện đội ngũ nhân viên bán hàng, đảm bảo thời gian lao động của nhân viên được sử dụng có hiệu quả nhất
+ Xây dựng thái độ, cách thức phục vụ khách hàng văn minh, lịch sự.
Đánh giá kết quả, thu thập thông tin phản hồi
Đánh giá kết quả sau bán hàng là một hoạt động quan trọng, cần tiến hành thường xuyên. Việc đánh giá sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện và đưa ra được những biện pháp khắc phục có tính khả thi những sai sót trong hoạt động bán hàng làm cho hoạt động này thực hiện tốt hơn.
Đánh giá kết quả hoạt động bán hàng thường được thực hiện qua 2 bước :
- Tự đánh giá thành tích bán hàng của cá nhân và bộ phận
- Đánh giá chính thức của lãnh đạo
Phương pháp cơ bản thường được sử dụng
So sánh mức bán và các chỉ tiêu liên quan thực hiện/ kế hoạch ; hiện tại/ quá khứ
So sánh, xếp hạng thành tích của cá nhân, bộ phận bán hàng với nhau và tỉ trọng trên tổng thể
Phân tích và đưa ra kết luận về kết quả bán hàng trong mối liên hệ với các yếu tố kích thích/ kìm hãm có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả.
Trong việc đánh giá kết quả bán hàng thì thông tin phản hồi có ý nghĩa rất lớn giúp cho việc đánh giá được chính xác, khách quan. Thông tin phản hồi bao gồm tất cả các thông tin về kết quả và tình hình thực hiện bán hàng thực tế :
Các báo cáo bán hàng
Các thông tin bổ sung từ quan sát trực tiếp, thư từ, đơn khiếu nại của khách
hàng, thăm dò dư luận khách hàng, kết quả trao đổi với các đại diện bán hàng
Các thông tin nhận được từ các bộ phận nghiệp vụ khác của doanh nghiệp.
4.4 Hoạt động dịch vụ khách hàng
Trong phạm vi xã hội thì kinh doanh thương mại cũng là hoạt động dịch vụ .
Dịch vụ trong hoạt động kinh doanh thương mại có vị trí quan trọng đối với hoạt động kinh doanh. Phát triển hoạt động dịch vụ trong kinh doanh thương mại có tác dụng nhiều mặt :
- Nâng cao trình độ thoả mãn khách hàng. Đáp ứng thuận tiện, kịp thời, văn minh mọi nhu cầu của khách hàng, phục vụ khách hàng tốt hơn, tạo ra sự tín nhiệm và gắn bó của khách hàng với doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp thu hút được khách hàng.
- Lưu chuyển vật tư hàng hoá nhanh, bán được nhiều hàng, nâng cao được vòng quay của vốn lưu động.
- Nâng cao được thu nhập, nâng cao năng suất lao động và doanh thu của doanh nghiệp. Góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội
- Tạo ra được mối quan hệ mua bán, thanh toán tin cậy có tác dụng lớn trong củng cố địa vị, thế lực của doanh nghiệp trên thị trường, cạnh tranh thắng lợi.
- Sử dụng hợp lý lao động xã hội, tạo ra kiểu kinh doanh thương mại văn minh phù hợp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và văn minh xã hội.
Đặc điểm của hoạt động dịch vụ
- Sản phẩm của hoạt động dịch vụ khó tiêu chuẩn hóa, không thể xác định một cách cụ thể bằng các tiêu chuẩn kỹ thuật, bằng các chỉ tiêu chất lượng một cách rõ ràng, người được phục vụ chỉ có thể đánh giá trên cơ sở cảm nhận danh tiếng hoặc thực tế đã được phục vụ.
- Quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu dùng, sản phẩm của hoạt động dịch vụ không thể cất trữ trong kho, hoạt động dịch vụ thường xuất hiện ở những địa điểm và thời điểm có nhu cầu đáp ứng, nhu cầu thường không ổn định
- Sản phẩm của hoạt động dịch vụ phụ thuộc rất cao vào chất lượng tiếp xúc, sự tương tác qua lại giữa người làm dịch vụ và người được phục vụ.
- Hoạt động dịch vụ đòi hỏi phải thuận tiện, kịp thời, văn minh.
Để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao thì viêc thực hiện tốt hoạt động dịch vụ là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn trong đó doanh nghiệp không những phải nhận thức được vai trò của hoạt động này mà còn phải xác định được và sử dụng hợp lý các loại dịch vụ.
Theo quá trình mua bán thì hoạt động dịch vụ được chia ra thành :
Dịch vụ trước khi mua, bán hàng hoá
Dịch vụ trong khi mua, bán hàng hoá
Dịch vụ sau khi bán hàng
5. Quản trị vốn, chi phí hàng hoá, nhân sự trong hoạt động kinh doanh
Quản trị doanh nghiệp thương mại phải chú ý đến quản trị vốn kinh doanh, chi phí kinh doanh và nhân sự
* Quản trị vốn : Vốn kinh doanh đóng vai trò quan trọng đối với sự ra đời, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, qua vốn kinh doanh cho phép biết được tiềm lực của doanh nghiệp, vốn kinh doanh quyết định quy mô kinh doanh, mặt hàng kinh doanh.
Vốn của doanh nghiệp thương mại là thể hiện bằng tiền của tài sản lưu động, tài sản cố định. Quản trị vốn kinh doanh thực chất là thực hiện sử dụng vốn trong kinh doanh và theo dõi được kết quả sử dụng vốn lãi hay lỗ.
Bất kỳ doanh nghiệp nào dù hoạt động trong phạm vi lớn hay nhỏ đều quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn. Vì quản lý tốt vốn kinh doanh nhằm tăng vòng quay vốn nhanh tạo ra sự linh hoạt trong kinh doanh.
Vốn kinh doanh có vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp tuy nhiên nó chỉ phát huy tác dụng khi được bảo toàn và tăng lên sau mỗi chu kỳ kinh doanh, sử dụng nó một cách đúng hướng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả vì vậy quản lý vốn là cần thiết. Để quản trị vốn tốt doanh nghiệp phải thường xuyên đánh giá tình hình sử dụng vốn như : việc phân bổ vốn đã hợp lý chưa, cơ cấu vốn, xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp, đồng thời đánh giá hiệu quả sử dụng vốn qua các chỉ tiêu: sức sản xuất của vốn, sức sinh lợi của vốn, tốc độ luân chuyển vốn, thời gian một vòng lưu chuyển. Khả năng sinh lời của vốn qua đánh giá các chỉ tiêu đưa ra kết luận và đề ra biện pháp khắc phục.
* Quản trị chi phí : Chi phí kinh doanh là các khoản chi cho quá trình mua dự trữ và bán hàng hoá, trong đó có chi phí mua hàng và chi phí lưu thông hàng hoá.
Chi phí mua hàng là khoản tiền phải trả cho các đơn vị cung ứng.
Chi phí lưu thông là khoản tiền cần thiết để thực hiện di chuyển hàng hoá từ nơi mua đến nơi bán và chi phí bán hàng. Theo khoản mục các chi phí lưu thông các thể chia ra thành chi phí vận tải, chi phí bảo quản, mua hàng, tiêu thụ, chi phí hao hụt và chi phí quản lý hành chính.
Chi phí kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì chi phí cao làm lợi nhuận giảm. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp phải quản lý được các khoản chi phí, chi tiêu tiết kiệm, tránh những khoản chi phí phô trương không cần thiết, quản trị chi phí là phải có kế hoạch chi, phải theo dõi và tính toán đúng đắn các khoản chi, chi phải đúng mục đích, đúng kế hoạch và đúng hướng, hạn chế các khoản thiệt hại làm tăng chi phí kinh doanh.
Trong quản lý chi phí doanh nghiệp phải đưa ra được những biện pháp để làm giảm chi phí kinh doanh một cách có hiệu quả.
* Quản trị nhân sự : Con người là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào vì con người ở đây quyết định toàn bộ những vấn đề kinh doanh. Quản trị nhân sự là sự lựa chọn, bố trí, sắp xếp, phân công công việc phù hợp với nghiệp vụ của từng người, quản trị nhân sự là lĩnh vực liên quan đến con người, sử dụng con người đúng đắn thì sẽ thành công và ngược lại.
Quản trị nhân sự có hiệu quả là điều kiện có ý nghĩa quyết định để tạo dựng thành công của doanh nghiệp thương mại. Quản trị nhân sự một cách khoa học và hiệu quả được xác định là nội dung cốt lõi để xây dựng và phát triển chiến lược con người. Quản trị nhân sự cần giải quyết những nội dung cơ bản sau:
Lựa chọn và xác định quan điểm quản trị
Xây dựng chiến lược, kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bố trí quản trị viên các cấp và nhân viên
Xây dựng hệ thống thông tin nhân sự
Xây dựng hệ thống lương bổng và điều kiện làm việc cho nhân viên.
6. Đánh giá và điều chỉnh hoạt động kinh doanh
Đánh giá và điều chỉnh là hoạt động cuối cùng trong nội dung về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Nhưng đây là một hoạt động rất quan trọng, có ý nghĩa đối với hoạt động kinh doanh hiện tại cũng như sau này của doanh nghiệp.
Hoạt động này đòi hỏi phải tiến hành chính xác, cụ thể và thực hiện một cách nghiêm túc. Doanh nghiệp cần thường xuyên đánh giá hiệu quả kinh doanh qua các hoạt động nghiệp vụ.
- Đánh giá tình hình tạo nguồn, mua hàng
Sử dụng các chỉ tiêu hiện vật để đánh giá nghiệp vụ mua hàng, tạo nguồn về tổng khối lượng thực hiện so với kế hoạch, đánh giá tình hình mua hàng theo mặt hàng, theo thời gian và theo từng nguồn hàng trong kỳ.
- Đánh giá hoạt động bán hàng
Theo số lượng (doanh số) bán về tổng số, theo mặt hàng để thấy rõ ảnh hưởng của giá cả và kết cấu mặt hàng bán ra.
- Đánh giá tình hình chi phí lưu thông
Tổng số tiền chi phí lưu thông, tỷ lệ chi phí lưu thông, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch chi phí lưu thông, mức tiết kiệm chi phí...
- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp
Cơ cấu các nguồn vốn, phân bổ nguồn vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn, sức sản xuất của vốn, sức sinh lợi của vốn, tốc độ luân chuyển của vốn, thời gian một vòng luân chuyển của vốn, khả năng sinh lời của vốn
Từ kết quả đánh giá hoạt động kinh doanh, bản thân doanh nghiệp sẽ thấy những kết quả đạt được cũng như những mặt còn tồn tại trong hoạt động của công ty. Công ty cần có sự điều chỉnh hoạt động kinh doanh để đạt được hiệu quả kinh doanh tốt hơn : đẩy mạnh hơn nữa những mặt đã làm được, đưa ra biện pháp khắc phục những tồn tại.
Có thể điều chỉnh theo các hướng như : điều chỉnh từng phần, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động.
Để công tác điều chỉnh có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện đánh giá một cách chính xác. Hoạt động này rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh doanh sau đó của công ty vì vậy phải thực hiện nghiêm túc và thận trọng.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1. Các yếu tố khách quan
Là các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bên ngoài doanh nghiệp mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nghiên cứu các yếu tố này không nhằm mục đích để điều khiển nó theo ý muốn của doanh nghiệp mà nhằm tạo ra khả năng thích ứng một cách tốt nhất với xu hướng vận động của nó.
1.1 Chính trị và luật pháp
Các yếu tố thuộc môi trường chính trị và luật pháp ổn định chính trị là tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh, thay đổi về chính trị có thể gây ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp này hoặc kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp khác. Vì vậy nghiên cứu các yếu tố chính trị và luật pháp là yêu cầu không thể thiếu được khi doanh nghiệp tham gia vào thị trường. Hệ thống pháp luật hoàn thiện và sự nghiêm minh trong thực thi pháp luật sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, tránh tình trạng gian lận, buôn lậu...Có thể phân tích và đánh giá mức độ tác động bao gồm :
Sự ổn định về chính trị và đường lối ngoại giao
Sự cân bằng các chính sách của Nhà nước
Vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và chính phủ
Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của chính phủ vào đời sống kinh tế
Sự phát triển các quyết định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Hệ thống luật pháp, sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành chúng
1.2 Yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Các yếu tố kinh tế bao gồm các nhân tố tác động đến sức mua của khách hàng và dạng tiêu dùng hàng hoá. Đối với các doanh nghiệp thương mại phải luôn năng động trong hoạt động kinh doanh của mình, thích ứng ngay với các tác động kinh tế.
Các yếu tố kinh tế bao gồm :
Sự tăng trưởng kinh tế
Sự thay đổi về cơ cấu sản xuất và phân phối
Tiềm năng kinh tế và sự gia tăng đầu tư
Lạm phát, thất nghiệp
Sự phát triển ngoại thương
Các chính sách tiền tệ, tín dụng
Làm thế nào để tận dụng được những mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu và dự đoán những biến động của yếu tố kinh tế.
1.3 Yếu tố văn hoá xã hội
Yếu tố văn hoá xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và hành vi của con người, qua đó có ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của khách hàng
Yếu tố này có ảnh hưởng lớn tới khách hàng cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là yếu tố hình thành tâm lí, thị hiếu của người tiêu dùng. Thông qua yếu tố này cho phép các doanh nghiệp hiểu biết ở mức độ khác nhau về đối tượng phục vụ qua đó lưạ chọn các phương thức kinh doanh cho phù hợp.
Các yếu tố văn hoá xã hội bao gồm :
Dân số và xu hướng vận động
Các hộ gia đình và xu hướng vận động
Sự di chuyển của dân cư
Thu nhập của dân cư và xu hướng vận động ; phân bổ thu nhập giữa các nhóm người và các vùng địa lý
Việc làm và vấn đề phát triển việc làm
Dân tộc và đặc điểm tâm sinh lý
1.4 Yếu tố khoa học kỹ thuật công nghệ
Yếu tố kỹ thuật đóng vai trò như một thước đo cho quá trình hoạt động kinh doanh, nhất là đối với doanh nghiêp sản xuất. Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời sản phẩm, chất lượng sản phẩm cũng như khả năng sản xuất sản phẩm lựa chọn và cung cấp công nghệ. Nó tác động mạnh mẽ đến chi phí sản xuất sản phẩm, năng suất lao động, qua đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố này luôn có xu hướng thay đổi theo hướng hiện đại hơn. Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh không thể tách rời yếu tố công nghệ, phải thường xuyên đổi mới theo kịp công nghệ hiện đại tạo ra sản phẩm mới với chất lượng cao, phục vụ tốt hơn nhu cầu trên thị trường nâng cao khả năng cạnh tranh của trên thị trường
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân
- Tiến bộ kỹ thuật và khả năng ứng dụng kỹ thuật trong hoạt động kinh doanh
- Chiến lược phát triển kỹ thuật và công nghệ của nền kinh tế
1.5 Điều kiện tự nhiên, cở sở hạ tầng
Doanh nghiệp cần lưu ý đến các mối đe doạ và tìm cơ hội phối hợp với các khuynh hướng của môi trường tự nhiên
Sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu thô gồm các nguyên liệu vô tận, nguyên liệu tái sinh và nguyên liệu không thể tái sinh được
Sự gia tăng chi phí năng lượng
Mức tăng ô nhiễm buộc các doanh nghiệp tìm kiếm cách thay thế để sản xuất và đóng gói sản phẩm không tác hại đến môi trường
Sự thay đổi của nhà nước trong bảo vệ môi trường
Trình độ hiện tại của cơ sở hạ tầng sản xuất : đường xá giao thông, thông tin liên lạc...
Các yếu tố điều kiện tự nhiên như khí hậu, thời tiết ảnh hưởng đến chu kỳ sản xuất kinh doanh trong khu vực, hoặc ảnh hưởng đến hoạt động dự trữ, bảo quản hàng hoá. Đối với cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các điều kiện phục vụ cho sản xuất kinh doanh một mặt tạo cơ sở cho kinh doanh thuận lợi khi khai thác cơ sở hạ tầng sẵn có của nền kinh tế, mặt khác nó cũng có thể gây hạn chế khả năng đầu tư, phát triển kinh doanh đặc biệt với doanh nghiệp thương mại trong quá trình vận chuyển, bảo quản, phân phối...
1.6 Khách hàng
Khách hàng là cá nhân, nhóm người, doanh nghiệp có nhu cầu và có khả năng thanh toán về hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp mà chưa được đáp ứng và mong được thoả mãn. Khách hàng là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Thị trường của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng rất đa dạng và khác nhau vế lứa tuổi, giới tính mức thu nhập, nơi cư trú, sở thích tiêu dùng và vị trí trong xã hội....Có thể chia khách hàng thành những nhóm khách hàng khác nhau, mỗi nhóm có đặc trưng riêng phản ánh quá trình mua sắm của họ. Do đó doanh nghiệp phải có chính sách đáp ứng nhu cầu từng nhóm cho phù hợp.
Trong kinh doanh quyền lực của khách hàng được thể hiện thông qua các chỉ tiêu cơ bản sau:
Nhóm khách hàng tập trung mua sản phẩm của doanh nghiệp với khối lượng lớn trong khối lượng sản phẩm bán ra của doanh nghiệp
Những sản phẩm, hàng hoá mà khách hàng mua của doanh nghiệp chiếm tỉ lệ quan trọng trong các chi phí hoặc trong số hàng hoá phải mua của khách hàng.
Những sản phẩm mà khách hàng mua là đúng theo tiêu chuẩn phổ biến không có gì khác biệt. Lúc này khách hàng dễ tìm được người cung ứng cho mình.
1.7 Nhà cung ứng
Là các tổ chức doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ cần thiết cho doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh.
Doanh nghiệp phải xác định số lượng, chủng loại mặt hàng, sự lớn mạnh và khả năng cung ứng của nguồn hàng trong hiện tại cũng như trong tương lai. Người cung ứng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không phải nhỏ Để có quyết định mua hàng đúng đắn, doanh nghiệp phải xác định rõ đặc điểm của từng nguồn hàng trên cơ sở đó lựa chọn đơn vị cung ứng tốt nhất về chất lượng, có uy tín giao hàng ; có độ tin cậy bảo đảm cao và giá thấp.
Việc nghiên cứu người cung ứng là việc không thể thiếu khi nghiên cứu các nhân tố tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Qua nghiên cứu doanh nghiệp sẽ hiểu rõ về người cung ứng và mối quan hệ của họ với doanh nghiệp trước khi đưa ra quyết định mua hàng. Doanh nghiệp bây giờ lại giữ vai trò là khách hàng nên cần tận dụng những ưu thế của khách hàng để được hưởng chiết khấu, giảm giá và các dịch vụ kèm theo.
1.8 Đối thủ cạnh tranh
Bao gồm các nhà sản xuất, kinh doanh cùng sản phẩm của doanh nghiệp hoặc kinh doanh sản phẩm có khả năng thay thế. Đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp. Đối thủ cạnh tranh có thể được phân chia :
Các doanh nghiệp khác đưa ra các sản phẩm, dịch vụ cho cùng một khách hàng ở mức giá tương tự
Các doanh nghiệp cùng kinh doanh một hoặc một số loại sản phẩm
Các doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh trên một lĩnh vực nào đó
Các doanh nghiệp cùng cạnh tranh để kiếm lời của một nhóm khách hàng nhất định
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là động lực thúc đẩy hoạt động và sự phát triển của doanh nghiệp, có cạnh tranh được thì mới có khả năng tồn tại ngược lại sẽ bị đẩy lùi ra khỏi thị trường. Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thoả mãn nhu cầu tốt hơn và hiệu quả hơn người đó sẽ thắng, sẽ tồn tại và phát triển.
2. Các yếu tố chủ quan
Là toàn bộ các yếu tố thuộc tiềm lực của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát ở mức độ nào đó và sử dụng để khai thác các cơ hội kinh doanh.
2.1 Tiềm lực tài chính
Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lí có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh thể hiện qua các chỉ tiêu :
Vốn chủ sở hữu : Là yếu tố chủ chốt quyết định đến quy mô của doanh nghiệp và quy mô của cơ hội có thể khai thác.
Vốn huy động : Phản ánh khả năng thu hút các nguồn đầu tư trong nền kinh tế vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận : Phản ánh khả năng tăng trưởng vốn tiềm năng và quy mô kinh doanh mới.
Giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường : Phản ánh xu thế phát triển của doanh nghiệp và là sự đánh giá của thị trường về sức mạnh của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn : Bao gồm các khả năng trả lãi cho nợ dài hạn và khả năng trả vốn trong nợ dài hạn, nguồn tiền mặt và khả năng nhanh chóng chuyển thành tiền mặt để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
Các tỷ lệ về khă năng sinh lợi : phản ánh hiệu quả đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2 Tiềm năng con người
Trong kinh doanh con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm thành công. Các yếu tố quan trọng nên quan tâm :
Lực lượng lao động có năng suất, có khả năng phân tích và sáng tạo : liên quan đến khả năng tập hợp và đào tạo một đội ngũ những người lao động có khả năng đáp ứng cao yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có sức mạnh về con người là doanh nghiệp có khả năng lựa chọn đúng và đủ số lượng lao động cho từng vị trí công tác và sắp xếp đúng người trong một hệ thống thống nhất theo nhu cầu của công việc.
- Chiến lược con người và phát triển nguồn nhân lực : liên quan đến sức mạnh tiềm năng của doanh nghiệp về con người, cho thấy khả năng chủ động phát triển sức mạnh con người của doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và đổi mới thường xuyên, cạnh tranh và thích nghi của kinh tế thị trường.
2.3 Tài sản vô hình
Đây là tài sản quý giá mà các doanh nghiệp không thể định lượng được.
Là các yếu tố tạo nên thế lực của doanh nghiệp trên thị trường, tiềm lực vô hình thể hiện ở khả năng ảnh hưởng đến sự lựa chọn, chấp nhận và ra quyết định mua hàng của khách hàng.
Tài sản vô hình cần được tạo dựng một cách có ý thức thông qua mục tiêu, các chiến lược và cần phải chú ý đến khía cạnh này trong tất cả hoạt động của doanh nghiệp.
Có nhiều nội dung khác nhau có thể sử dụng khi xác định và phát triển tài sản vô hình :
Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường
Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá
Uy tín và mối quan hệ xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp
Bí quyết kinh doanh
Lòng trung thành của khách hàng
2.4 Vị trí địa lý, cơ sở vật chất kỹ thuật
Vị trí địa lý cũng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp thu hút sự chú ý của khách hàng, thuận tiện cho cung cấp thu mua hay thực hiện các hoạt động dự trữ.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp thể hiện nguồn tài sản cố định mà doanh nghiệp huy động vào kinh doanh bao gồm văn phòng, nhà xưởng, các thiết bị chuyên dùng...phản ánh tiềm lực vật chất và liên quan đến quy mô kinh doanh cũng như khả năng, lợi thế trong kinh doanh của doanh nghiệp
2.5 Trình độ tổ chức, quản lý
Mỗi doanh nghiệp là một hệ thống với những mối liên kết chặt chẽ với nhau hướng tới mục tiêu. Khi mỗi bộ phận chức năng, nghiệp vụ của doanh nghiệp được tách riêng ra để thực hiện tốt như nó có thể thì toàn bộ hệ thống sẽ không thực hiện được tốt như nó có thể.
Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì đồng thời phải đạt đến một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng. Khả năng tổ chức, quản lý của doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát tập trung vào các mối quan hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh nghiệp.
IV. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh
Đối với doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức quản lí kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng mở rộng, muốn tồn tại và phát triển thì đòi hỏi doanh nghiệp kinh doanh phải có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh, đối với doanh nghiệp hiệu quả kinh tế chính là lợi nhuận thu được trên cơ sở không ngừng mở rộng sản xuất, tăng uy tín và thế lực của doanh nghiệp trên thương trường ...
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là vấn đề phức tạp có quan hệ đến toàn bộ các yếu tố của quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh doanh khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả.
Hiệu quả kinh doanh = Kết quả thu được – Chi phí bỏ ra
Cách tính này chỉ phản ánh được mặt lượng của hiệu quả kinh doanh mà chưa xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Chỉ tiêu mức doanh lợi :
Lợi nhuận
Hệ số doanh lợi của doanh thu =
Doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận
Lợi nhuận
Hệ số doanh lợi của chi phí =
Chi phí kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận
Lợi nhuận
Hệ số doanh lợi của vốn =
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận
2. Chỉ tiêu vốn
Doanh thu thuần
Hiệu quả sử dụng vốn cố định =
Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần
Lợi nhuận
Mức sinh lợi của vốn cố định =
Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận
Tổng doanh thu thuần
Số vòng quay của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
Số vòng quay của vốn lưu động cho biết vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay càng nhiều càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cao và ngược lại.
Lợi nhuận
Mức sinh lợi của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bình quân làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
3. Chỉ tiêu lao động
Doanh thu
Doanh thu bình quân một lao động =
Tổng số lao động
Chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể làm ra được bao nhiêu đồng doanh thu
Lợi nhuận
Mức sinh lợi của một lao động =
Tổng số lao động
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đóng góp của mỗi người lao động vào lợi nhuận
chương II
Phân tích hoạt động kinh doanh của công ty
Bách hoá số 5 Nam Bộ
I. Giới thiệu khái quát về công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ là một công ty kinh doanh tổng hợp, trực thuộc sở Thương nghiệp- nay là sở Thương mại, nguyên là cửa hàng Bách hoá Cửa Nam cũ được thành lập tháng 5/1957 theo quyết định số 1229 UBND của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Đây là một công ty lớn được thành lập trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Lúc mới thành lập, cửa hàng Bách hoá Cửa Nam hoạt động hoàn toàn theo phương thức bao cấp kinh doanh. Kết quả hoạt động được hạch toán theo phương thức định mức báo sở. Mọi chỉ tiêu kinh doanh cũng như các phương hướng kế hoạch đều do cấp trên trực tiếp - Sở thương nghiệp giao xuống. Chính vì thế mặc dù được đánh giá là một trong rất ít cửa hàng hoạt động có hiệu quả thời bấy giờ song cửa hàng Bách hoá Cửa Nam chưa thật sự phát huy hết thế mạnh và tiềm năng của mình .
Năm 1986, Đảng và Nhà nước quyết định đổi mới đưa nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Để phù hợp với nền kinh tế thị trường, ngày 30/3/1993, cửa hàng Bách hoá Cửa Nam được phép tách ra thành một doanh nghiệp độc lập theo quyết định số 853/ QĐUB thành phố Hà Nội lấy tên là công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ thuộc sở Thương mại Hà Nội. Kết quả kinh doanh ngày càng tiến triển chứng tỏ công ty đã vượt qua nhiều khó khăn khi chuyển sang cơ chế mới và ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong mạng lưới thương mại ở Hà Nội
Với tư cách là một pháp nhân kinh tế, công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ có giấy phép kinh doanh số 1050 (UBND) có vốn điều lệ kinh phí thành lập là 530.800.000VN đồng với trụ sở riêng, con dấu riêng và cơ sở vật chất cho việc kinh doanh. Công ty hoạt động và hạch toán kinh doanh độc lập tự chủ theo qui định của pháp luật và và chịu trách nhiệm về hoạt động của chính mình trước pháp luật khi tham gia các quan hệ kinh tế xã hội .
Năm 1996, sau khi khảo sát thị trường trong nước, học hỏi một số mô hình siêu thị tại thành phố Hồ Chí Minh, Trung Quốc... đồng thời tranh thủ ý kiến của các chuyên gia kinh tế của bộ, thành phố, sở Thương mại. Công ty đã mạnh dạn lập dự án khả thi luận chứng kinh tế kĩ thuật trình UBND thành phố Hà Nội phê duyệt. Khi được sự đồng ý của các cơ quan cấp trên, công ty tiến hành các bước cần thiết, đầu tư gần 3 tỷ đồng sửa chữa cửa hàng, mua sắm trang thiết bị, bổ sung các loại hàng hoá, đặc biệt là đầu tư mở một siêu thị và một quầy hàng tự chọn ở tầng 2 được khai trương vào ngày 27/1/1997.
Hiện nay, công ty có bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh và tổ chức lãnh đạo và có nhiều thành tích tốt đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Công ty đã được tặng nhiều huân chương, bằng khen, cờ của UBND thành phố và sở Thương mại. Công ty luôn cố gắng vươn lên và phấn đấu là đơn vị Nhà nước hoạt động có hiệu quả .
2. Chức năng và nhiệm vụ
2.1 Chức năng
Khi mới thành lập cửa hàng Bách hoá Cửa Nam có chức năng chính là bán lẻ các loại hàng hoá và dịch vụ. Ngày nay hoạt động trong nền kinh tế thị trường đầy biến động và thách thức, trong điều kiện thương mại có nhiều thay đổi nên chức năng của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ có sự mở rộng cho phù hợp với tình hình mới. Theo nhận xét của ban giám đốc, nhận thức đúng đắn chức năng của công ty có ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt động của công ty nói chung và trong sự thành công về quản lý điều hành công ty của ban lãnh đạo nói riêng.
Công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ là một công ty kinh doanh thương mại do đó có chức năng sau:
- Thứ nhất : Công ty là trung gian kết nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng để giải quyết mâu thuẫn từ việc sản xuất tập trung hoá cao còn người tiêu dùng lại bị phân tán. Các hoạt động kinh doanh của công ty chủ yếu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp nhân dân về các loại hàng hoá và dịch vụ mà công ty được phép kinh doanh .
- Thứ hai : Công ty chuyển hoá mặt hàng từ sản xuất thành mặt hàng thương mại đồng bộ, năng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm .
- Thứ ba : Công ty hình thành dự trữ bảo vệ và quản lý chất lượng hàng. Công ty phải tiến hành dự trữ để đảm bảo tính liên tục và ổn định trong kinh doanh, đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng về hàng hoá đúng chất lượng, đúng chủng loại, đúng yêu cầu.
-Thứ tư : Công ty là một mắt xích quan trọng trong mạng lưới phân phối nên công ty còn có chức năng giao tiếp - phối thuộc giữa công ty với các nhà cung cấp và các bạn hàng của mình, từ đó có những thông tin liên kết giữa các bên trong quá trình mua bán, tư vấn cho người tiêu dùng và tư vấn cho nhà sản xuất.
2.2 Nhiệm vụ
* Công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại nên công ty có nhiệm vụ cung ứng và tiêu thụ hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ chung chuyển hàng hoá góp phần kích thích sự vận động của nền kinh tế
* Là một doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong thương mại nên công ty phải thực hiện nghiêm chỉnh những qui định chỉ tiêu về chất lượng hàng hoá góp phần bình ổn giá cả và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .
* Tổ chức hoạt động kinh doanh thường xuyên liên tục, tạo công ăn việc làm, bảo đảm thu nhập và quyền lợi của người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp nhằm góp phần ổn định xã hội.
* Là doanh nghiệp nhà nước công ty có nhiệm vụ bảo toàn phát triển vốn được giao, thực hiện nghiêm chỉnh chế độ qui định về tài chính kế toán ngân hàng do Nhà nước ban hành, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước có thể tham gia kiểm tra can thiệp, điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty
Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình trong từng giai đoạn, công ty đã xây dựng bộ máy tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Cơ cấu này tạo sự quản lý chặt chẽ bằng việc sử dụng bộ máy chức năng và bằng sự thực hành của các đơn vị cơ sở.Vì hạch toán kinh doanh độc lập nên công ty có đầy đủ các phòng ban bộ phận có sự liên kết chặt chẽ, hỗ trợ nhau trong hoạt động, vừa đảm bảo sự liên kết tương hỗ, vừa đảm bảo tính độc lập.
Với bộ máy gọn nhẹ tiết kiệm được chi phí và thông tin được truyền đi nhanh, chính xác, luôn bám sát xử lý nhanh chóng biến động thị trường tạo ra sự năng động tự chủ trong kinh doanh và sử dụng tối đa năng lực của từng cá nhân tạo nên một ê kíp làm việc có hiệu quả.
* Ban giám đốc gồm có :
Giám đốc: người đứng đầu công ty đảm nhiệm công việc tổ chức, quản lý, điều hành toàn bộ hoạt động của công ty, ra quyết định cuối cùng, thay mặt đại diện cho mọi quyền lợi của công ty trước pháp luật và cơ quan quản lý Nhà nước .
Ngoài ra còn một phó giám đốc là người giúp giám đốc lên kế hoạch, chỉ đạo, giải quyết các công việc thay mặt giám đốc khi cần thiết .
Xây dựng kế hoạch kinh doanh, phương án kinh doanh phù hợp với nhiệm vụ được giao và nhu cầu thị trường.
Thực hiện việc kiểm tra thường xuyên đối với mọi hoạt động của công ty: lao động, tài chính, nhân sự
Quan hệ giao dịch với khách hàng, với nhà cung cấp
Thu thập, phân tích những thông tin liên quan cần thiết với hoạt động kinh doanh của công ty
Được quyền thay mặt giám đốc ký kết các hợp đồng mua bán hàng hoá và các hợp đồng kinh tế khác khi có sự uỷ quyền.
* Phòng tổ chức hành chính
Thực hiện quản lý các lĩnh vực công tác : tổ chức, hành chính, lao động, tiền lương, bảo vệ và các chế độ chính sách đối với ngưới lao động theo quy định của Nhà nước.
Tuyển chọn đào tạo nhân viên, nâng cao trình độ chuyên môn cho từng cán bộ và sắp xếp họ vào những vị trí thích hợp
Quản lý định mức lao động và tiền lương đảm bảo sự chính xác, công bằng cho người lao động.
Thực hiện công tác thông tin, báo chí, tuyên truyền đến toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty.
Chuẩn bị hội nghị, các cuộc họp thường kỳ và bất thường, sắp xếp lịch làm việc, đón tiếp khách.
Tổ chức quản lý việc sử dụng và bảo vệ tài sản trang thiết bị của công ty.
Quản lý con dấu theo quy định của Nhà nước và pháp luật.
* Phòng kinh doanh
Có nhiệm vụ lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả cao
Thường xuyên kiểm tra, theo dõi mọi hoạt động kinh doanh để kịp thời đưa ra các biện pháp xử lý tốt nhất.
Đánh giá xem xét nhu cầu thị trường, khai thác thu thập và xử lý thông tin về thị trường
Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh để giúp ban giám đốc đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn
Tổ chức khai thác nguồn hàng nhằm tìm kiếm nguồn hàng tốt nhất, phù hợp và đem lại hiệu quả cao nhất.
Thực hiện các công việc nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh: quảng cáo, tiếp thị...
* Phòng kho vận
Tiếp quản hàng hoá nhập về của công ty sao cho đủ về số lượng, đúng về chất lượng.
Bảo quản hàng hoá theo đặc tính lý hoá học của hàng hoá bảo đảm hàng bán ra luôn đạt chất lượng tốt nhất.
Dự trữ đủ lượng hàng cần thiết đảm bảo luôn có đủ hàng hoá cho hoạt động của công ty ngay cả trong những trường hợp bất thường
Xuất hàng đủ và đúng về số lượng chất lượng, mặt hàng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty.
Thực hiện các nghiệp vụ phân loại, đóng gói, hoàn thiện sản phẩm, nâng cao giá trị sử dụng của hàng hoá
Thường xuyên tiến hành kiểm tra hàng hoá trong kho, điều kiện môi trường của kho, các trang thiết bị phục vụ cho công tác kho để luôn đảm bảo cho hoạt động của kho được tốt.
Quản lý và thực hiện tốt các phiếu xuất kho, nhập kho và giấy tờ liên quan khác.
* Phòng kế toán tài vụ:
Có nhiệm vụ hạch toán toàn bộ quá trình kinh doanh của công ty theo tháng, quý, năm.
Lập báo cáo tài chính của năm để từ đó đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty trong năm đó.
Theo dõi về mọi mặt hoạt động kinh doanh của công ty một cách chính xác thông qua các số liệu baó cáo.
Cung cấp các số liệu, các báo cáo cần thiết cho các hoạt động quản lý điều hành, lập kế hoạch, xây dựng phương hướng chiến lược của công ty
Theo dõi, kiểm soát, điều chỉnh kế hoạch tài chính và mọi hoạt động tài chính của công ty.
Thực hiện mọi chế độ, quy định nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước.
* Tổ bán hàng
Là bộ phận trực tiếp tiếp xúc với khách hàng vì vậy tổ bán hàng là một phần quan trọng đóng góp vào sự thành công trong hoạt động kinh doanh của công ty.
Tiêu thụ hàng hoá của công ty theo mức giá và theo mọi quy định của công ty.
Mậu dịch viên còn có nhiệm vụ quan trọng là tiếp nhận những thông tin phản hồi từ khách hàng để từ đó giúp công ty có những thay đổi trong quyết định, chính sách, chiến lược sao cho phù hợp với tình hình thực tế và đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn.
Sơ đồ bộ máy tổ chức kinh doanh của
công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ
Giám đốc
Kế toán tài vụ
Kế hoạch nghiệp vụ
Tổ chức hành chính
Khai thác hàng
Kế toán kép
Kế toán đơn
Thủ kho
Hậu cần
Bảo vệ
Quầy ngoài gian hàng
Thời trang
Gian hàng I
Phục vụ
Siêu thị
4. Cơ chế hoạch toán tài chính
Là doanh nghiệp hạch toán theo phương thức độc lập tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Công ty phải tự hoạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và đảm bảo có lãi. Phải thực hiện trả lương và mọi chế độ đối với người lao động. Tự trang trải các chi phí đối với hoạt động kinh doanh. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.
Phương pháp tổng hợp cân đối kế toán là phương pháp được công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ áp dụng. Với phương pháp này, phòng kế toán thu thập số liệu từ các phòng ban, các số liệu được thể hiện qua các hoá đơn, chứng từ. Từ các số liệu ở sổ kế toán, công ty theo các chỉ tiêu kinh tế lập ra các báo cáo kế toán nhằm kiểm tra hoạt động kinh tế tài chính ở các đơn vị, phục vụ cho việc ra quyết định của các nhà quản trị công ty.
Trong hoạt động kinh doanh của công ty có hai lĩnh vực phân biệt : Hoạt động bán hàng siêu thị và hoạt động bán hàng theo quầy. Nếu xem xét sơ qua ta có thể lầm tưởng hai loại hình này có cách thức quản lý và kế toán riêng. Nhưng trên thực tế tuy hoạt động kinh doanh của hai bộ phận này riêng biệt nhưng tất cả những hoạt động kinh doanh của hai bộ phận này đều phải đưa lên chứng từ hoá đơn và quản lý các hoá đơn chứng từ này là phòng kế toán. Phòng kế toán sẽ thu thập chứng từ, tiền, quản lý toàn bộ đầu vào, đầu ra trên giấy tờ và từ đó lập ra các báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính này đã trở thành cánh tay đắc lực trợ giúp cho ban quản trị công ty.
II. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ
1. Mặt hàng kinh doanh
Là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh tổng hợp nhiều loại hàng hoá phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của người dân và các tổ chức kinh tế xã hội, công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ có chức năng chính là thực hiện công tác bán buôn, bán lẻ hàng hoá. Hình thái chủ yếu là siêu thị, bên cạnh đó là các quầy hàng bán lẻ .
Là công ty kinh doanh tổng hợp nên hàng hoá mà công ty kinh doanh rất đa dạng và phong phú, có thể lên đến hàng nghìn mặt hàng. Hiện nay, công ty có khoảng 24000 mặt hàng. Có thể phân chia mặt hàng của công ty thành các loại như sau :
- Hàng nhu yếu phẩm : Xà phòng, bàn chải, kem đánh răng, nước gội đầu ...
- Hàng thực phẩm : Đường, sữa, bánh kẹo ......
- Hàng may mặc : Quần áo, vải vóc .....
- Hàng điện tử, điện máy : Đài, tivi, ấm điện, bàn là, quạt ...
- Dụng cụ gia đình : Bát, đĩa, cốc, chén ......
- Hàng da giầy : Túi xách, cặp, ví......
- Hàng mỹ phẩm .
- Hàng thủ công mỹ nghệ .
- Hàng cơ khí.
Do kinh doanh nhiều mặt hàng công ty không tránh khỏi sự trùng lặp trong cơ cấu và mặt hàng kinh doanh với các đơn vị kinh doanh khác. Điều này làm cho tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt.
Các mặt hàng trên công ty đều là những hàng có chất lượng cao, được mua trực tiếp từ các nhà sản xuất, đại lý. Chất lượng hàng hoá ở đây được kiểm tra chặt chẽ và tiêu chuẩn hoá.
Như vậy công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ kinh doanh chủ yếu là hàng tiêu dùng, đây là lĩnh vực lớn nhiều tiềm năng. Người tiêu dùng đòi hỏi sự đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, không chỉ chất lượng hàng hoá, giá cả hàng hoá mà cả về thời gian, sự tiện ích thuận lợi trong mua bán hàng hoá .
Điều này cũng mở ra cho công ty nhiều cơ hội kinh doanh cũng như nhiều thách thức đòi hỏi công ty một sự nhanh nhạy, khéo léo, sự nỗ lực và niềm tin vào khả năng của chính mình.
2. Nguồn hàng kinh doanh
Sau khi nghiên cứu thu thập thông tin về khách hàng, tình hình biến động của thị trường, công ty có kế hoạch khai thác nguồn hàng. Ban lãnh đạo công ty hiểu rõ vai trò quan trọng và quyết định của các nhà cung ứng hàng hóa và dịch vụ vì hoạt động mua cũng quan trọng như hoạt động bán, “ một mặt hàng mua tốt cũng sẽ được bán tốt”. Mức giá bán ra, lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự lựa chọn tốt nhà cung ứng, quản lý cung ứng, dự trữ hàng hoá, theo dõi chặt chẽ các đơn đặt hàng, thương xuyên kiểm tra mức độ tin tưởng của bạn hàng.
Điều hành và chịu trách nhiệm toàn bộ trong việc quản lý cung ứng hành hoá cho mạng lưới bán buôn, bán lẻ của công ty là phòng kế hoạch nghiệp vụ.
Kết cấu nguồn hàng của công ty bao gồm 2 loại:
Loại A: chiếm 70-75% tổng lương hàng hoá toàn công ty. Nguồn hàng này do công ty khai thác, lập kế hoạch tiêu thụ đồng thời thể hiện tính tự chủ của công ty trong các hoạt động kinh doanh.
Loại B: chiếm 25-30% tổng lượng hàng hoá. Lượng hàng này do các nhân viên tự tìm kiếm khai thác và đưa vào hoạt động kinh doanh. Công ty cho phép tạo thêm dòng hàng này nhằm khuyến khích tính chủ động sáng tạo của công nhân viên và tạo cơ hội cho họ tăng thêm thu nhập. Tuy nhiên công ty cũng có hình thức kiểm tra đối với dòng hàng này thông qua kiểm tra chất lượng hàng hoá, kiểm soát về số lượng, ấn định mức giá trước khi đem bán. Nhân viên các quầy phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước các sự việc phát sinh đối với các mặt hàng tự khai thác này.
Hàng hoá được thu mua, tiếp nhận từ các nhà sản xuất đại lý và nhập khẩu từ nước ngoài. Công ty còn là đại lý nhận bán hàng uỷ thác cho một số các nhà máy và công ty.
Để đáp ứng nhu cầu hàng hoá kinh doanh của mình và nhu cầu của người tiêu dùng, công ty chủ động tìm kiếm và kí hợp đồng mua hàng hoá tận nguồn của các đơn vị sản xuất do đó mua được hàng với giá rẻ. Bên cạnh đó nguồn cung ứng hàng hoá cho công ty còn từ phía các bạn hàng truyền thống, các cơ sở sản xuất tự tìm đến giới thiệu hàng hoá đặt quan hệ, kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc kí gửi hàng hoá, đề nghị công ty làm đại lý, và một phần hàng hoá là do mua từ nguồn hàng nhập khẩu theo con đường tiểu ngạch.
Thông thường những mặt hàng khai thác từ các công ty, xí nghiệp trong nước đều là những mặt hàng mạnh, vừa là mặt hàng bán buôn vừa là mặt hàng bán lẻ. Công ty tăng cường những mặt hàng có uy tín, đặc biệt là tăng cường hàng Việt Nam chất lượng cao. Công ty cần có các biện pháp khai thác tốt các nguồn hàng đã có, kết hợp tìm kiếm các nguồn hàng khác để mở rộng chủng loại hàng hoá và đảm bảo cung cấp kịp thời hàng hoá cho công ty trong mọi trường hợp, xác định đúng đắn đâu là nguồn hàng chủ lực đáng tin cậy, từ đó có các kế hoạch tiêu thụ phù hợp. Nhưng dù hàng hoá được cung ứng từ đơn vị nào, theo con đường nào thì công ty vẫn luôn đảm bảo về chất lượng giá cả hàng hoá và chữ tín trong kinh doanh.
3. Khách hàng
Công ty muốn tồn tại và phát triển, lẽ đương nhiên là phải quan tâm đến nhu cầu, sở thích và sức mua của khách hàng. Vì đối tượng khách hàng hầu hết là người tiêu dùng cuối cùng, do địa bàn Hà Nội nói chung và khu vực công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ nói riêng có sự cạnh tranh lớn của các cửa hàng thương mại, cửa hàng tư nhân với nguồn hàng phong phú đa dạng, do đó lượng khách hàng của công ty chưa thật sự ổn định. Việc mua bán hàng hoá của khách hàng chỉ tiến hành theo từng thương vụ cụ thể, một số hàng hoá khách hàng chỉ mua theo mùa, theo kỳ...
Khách hàng của công ty là những khách hàng có thu nhập khá, trung bình, bên cạnh đó công ty vẫn đáp ứng một lượng nhỏ khách hàng có thu nhập thấp.
Cơ cấu khách hàng của công ty được thể hiện như sau:
- Khách hàng thuộc địa bàn Hà Nội chiếm 90% trong đó:
Thu nhập khá: 20%
Thu nhập trung bình: 65%
Thu nhập thấp: 5%
- Khách hàng vãng lai chiếm 10% trong đó một lượng không nhỏ là khách hàng nước ngoài. Vì công ty nằm trên địa bàn quân Ba Đình - một quận có nhiều địa điểm thăm quan thu hút nhiều khách nước ngoài như lăng Bác, bảo tàng Hồ Chí Minh, Văn Miếu... Đây là cơ hội để công ty tiếp xúc với những khách hàng có thói quen mua sắm hiện đại.
Qua thực tế, ta thấy rằng khách hàng đến với công ty thuộc mọi lứa tuổi, nhưng chiếm tỷ lệ cao từ 25 á 45, ngoài ra còn một số khách hàng đã về hưu và những sinh viên học sinh với khả năng mua sắm hạn chế. Do chất lượng hàng hoá đảm bảo, giá cả hợp lý, vị trí thuận lợi nên công ty thu hút được bộ phận khách hàng người nước ngoài và không ít trong số họ đã trở thành khách hàng quen thuộc của công ty. Như vậy khách hàng đến với công ty trước hết là do uy tín của công ty từ trước tới nay.
Công ty không ngừng cố gắng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, không ngừng tìm kiếm thu hút nhiều khách hàng mới.
4. Các lĩnh vực, hình thức hoạt động kinh doanh của công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ
Công ty chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh hàng hoá phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người tiêu dùng. Công ty mua hàng hoá, sản phẩm của các nhà máy, cơ sở sản xuất, các công ty khác và bán cho người tiêu dùng trung gian hoặc người tiêu dùng cuối cùng.
Phương thức kinh doanh của công ty là phương thức kinh doanh tổng hợp. Với phương thức kinh doanh này công ty có thể dễ dàng khai thác cơ hội kinh doanh khi xuất hiện nhu cầu, phù hợp với mục tiêu và tiềm năng của công ty, đồng thời rủi ro được chia nhỏ cho các nhóm mặt khác nhau. Với chức năng chính là tổ chức lưu thông hàng hoá qua trao đổi mua bán, công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ đã thực hiện chức năng này thông qua các hình thức là bán buôn và bán lẻ.
Trong những năm gần đây tình hình thị trường có nhiều biến động, do trên địa bàn có sự tham gia của mạng lưới bán lẻ cùng nhóm hàng với các cửa hàng khác nhau làm cho mức chiếm lĩnh thị trường của công ty giảm cũng như những nguyên nhân phát sinh trong nội tại của công ty, do vậy công ty quyết định giữ vững doanh thu từ hoạt động bán buôn và đẩy mạnh hoạt động bán lẻ, củng cố vị trí trên thị trường bán lẻ.
Hoạt động bán buôn của công ty chiếm tỷ trọng khá lớn, thường là các hợp đồng cho các tập thể, tổ chức, và các đơn vị hoạt động cùng lĩnh vực. Hoạt động này giúp công ty tiêu thụ một lượng lớn hàng hoá và đem lại một khoản doanh thu không nhỏ.
Hoạt động bán đại lý uỷ thác tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng hoạt động này cũng đem lại một khoản thu nhất định cho công ty, giúp công ty mở rộng quan hệ bạn hàng, tìm kiếm cơ hội kinh doanh.
Để thực hiện công tác bán lẻ công ty đã áp dụng hai phương thức bán hàng là bán hàng tại quầy và tự phục vụ trong siêu thị.
- Phương thức bán hàng tự phục vụ là một phương thức bán hàng mới mẻ, hiện đại. Mục đích của công ty ở phương thức bán hàng này là rút ngắn khoảng cách giữa hàng hoá và khách hàng, đồng thời năng cao năng suất bán hàng, rút ngắn thời gian mua hàng. Trong gian bày siêu thị, kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng tạo điều kiện cho sự lưa chọn cao của khách hàng. Ngoài ra siêu thị còn được trang bị các phương tiện thanh toán hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động của nhân viên bán và các dịch vụ cho khách hàng thuộc loại cao nhất đã cải thiện các dịch vụ văn minh cùng tính cạnh tranh cao của bản thân công ty trên thị trường. Hàng hoá trong siêu thị của công ty chủ yếu phục vụ nhu cầu thông thường cho người tiêu dùng, trong đó hàng thực phẩm chiếm từ 80 á 85%, còn hàng phi thực phẩm chiếm 15 á 20% ( thường là các mặt hàng thuộc sản phẩm công nghiệp nhẹ phục vụ tiêu dùng ). Đây là phương thức bán hàng phù hợp với sự đổi mới của nền kinh tế hiện nay, thể hiện quyết định và hướng di đúng đắn mang tính tất yếu khách quan để giúp công ty đứng vững trên thị trường và bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là thu hút một lượng lớn khách hàng mà trước đây công ty chưa hề có.
- Ngoài phương thức bán hàng tự phục vụ công ty còn áp dụng phương thức bán hàng phục vụ tại quầy. Đây là những gian hàng nhỏ nằm ngoài siêu thị, mỗi quầy hàng chuyên bán một nhóm hàng nhất định như quầy may mặc thời trang, quầy đồng hồ, đồ điện gia dụng, mỗi quầy có sự phân công và chuyên môn hoá cao đảm bảo việc kinh doanh không bi chồng chéo giữa các quầy hàng, mỗi quầy hàng có một quầy hàng trưởng và các nhân viên bán hàng theo ca. Kết quả bán hàng được phản ánh lên thẻ quầy hàng và cuối tháng được tập trung lại cho phòng kế toán. Việc phân chia thành các gian hàng, quầy hàng, mỗi gian hàng quầy lại là một cơ sở kinh doanh thương mại trực tiếp được liên kết với nhau và phát triển phù hợp với quy luật thị trường và tối đa hoá mục tiêu kinh tế xã hội.
Nhận thấy diện tích kinh doanh còn nhiều trong khi doanh nghiệp chưa đủ khả năng để mở rộng phạm vi kinh doanh nên ban lãnh đạo đưa ra quyết định là cho thuê diện tích kinh doanh và liên doanh cùng hoạt động. Quyết định nhanh chóng này vừa cho phép tận dụng diện tích kinh doanh và tăng thu nhập cho công ty. Cũng trong năm 1997 liên doanh thời trang Nara ra đời với diện tích cho thuê là 500m2, cuối năm 97 công ty khai trương trung tâm thẩm mỹ Hồng Mẫu Đơn với diện tích 300m2. Công ty còn cho thuê diện tích để trưng bày và giới thiệu sản phẩm của các công ty khác.
Vậy mạng lưới kinh doanh của công ty Bách hóa số 5 Nam Bộ đã đáp ứng khá toàn diện, liên kết khá chặt chẽ để thoả mãn tối đa nhu cầu đồng bộ của khách hàng. Công ty đã thể hiện là một công ty bách hoá có uy tín cao, tuy cơ sở kinh doanh ở nơi cố định nhưng công ty đã áp dụng rất đa dạng loại hình thức kinh doanh.
5. Đối thủ cạnh tranh
Nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt để có thể dành được thế và lực mạnh hơn so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Các loại hình trung gian thương mại, đặc biệt trong lĩnh vực lưu thông ngày càng nhiều và phát triển hiện đại hơn nhằm thoả mãn nhu cầu càng cao của người tiêu dùng đồng thời đem lại hiệu quả tốt hơn cho hoạt động kinh doanh.
Hiện nay ở Hà Nội thì chợ và các cửa hàng bán lẻ ở mọi nơi là bộ phận không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh bán lẻ cung cấp những mặt hàng đa dạng cho người tiêu dùng. Tồn tại song song với các chợ là các bách hoá tổng hợp, cũng rất phong phú về chủng loại hàng hoá. Tuy nhiên trong những năm trở lại đây có sự xuất hiện và phát triển của một số loại hình kinh doanh bán lẻ mới - phương pháp bán hàng tự phục vụ. Tuy mới xuất hiện nhưng nó phù hợp và thích ứng với người tiêu dùng trong nền kinh tế hiện nay. Năm 1994 mới chỉ có hai siêu thị, nhưng đến cấc năm tiếp theo số lượng siêu thị tiếp tục tăng lên, đến năm 2002 số lượng siêu thị ở Hà Nội là 28 siêu thị với quy mô khác nhau đang tồn tại và phát triển.
Trong cơ chế thị trường hiện nay với nền kinh tế nhiều thành phần các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật. Do đó công ty không còn kinh doanh như thời bao cấp mà chấp nhận kinh doanh theo các quy luật của thị trường.
Đối thủ cạnh tranh hiện nay của công ty có thể được phân chia như sau :
Thứ nhất là cạnh tranh với các siêu thị và cửa hàng bách hoá tổng hợp khác
Các đối thủ cạnh tranh này có cách tiếp cận khác nhau nhưng không ngoài khả năng là làm hài lòng khách hàng mục tiêu trên thị trường.
Một số công ty bách hoá hiện nay trên địa bàn Hà Nội như :
Công ty bách hoá1-Bộ thương mại
Công ty bách hoá Hà Nội
Công ty bách hoá huyện Đông Anh
Một số siêu thị và trung tâm siêu thị lớn trên địa bàn Hà Nội như : siêu thị Fivimart, siêu thị Intimex, Trung tâm thương mại Tràng tiền, trung tâm thương mại Cát Linh, siêu thị Seiuy...
So với các siêu thị và công ty bách hoá này thì công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ là một công ty khá lớn, đã kinh doanh trong thời gian dài trên địa bàn Hà Nội. Nhưng sự phát triển mạnh mẽ của các hình thức kinh doanh này đã tạo ra sự cạnh tranh lớn với công ty với công ty về nhiều mặt, nhất là trong hoạt động kinh doanh siêu thị.
Thứ hai là cạnh tranh với các loại hình bán lẻ
Các loại hình kinh doanh này với ưu điểm là cơ chế kinh doanh gọn nhẹ, linh hoạt, thu hút được một lượng khá lớn khách hàng có nhu cầu nhanh chóng, đòi hỏi sự thuận tiện. Công ty chịu ảnh hưởng khá mạnh của loại hình này, cạnh tranh với công ty về giá cả, địa điểm, thời gian...Đây sẽ là động lực để công ty không ngừng đổi mới và phát triển.
Mặc dù có sự cạnh tranh gay gắt nhưng để khẳng định chỗ đứng của mình công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ cần tạo nên các ưu thế sau :
Hàng hoá đảm bảo chất lượng
Không có các hành vi gian lận thương mại
Thái độ và phương thức phục vụ văn minh
6.Vốn
Công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ là một trong những công ty thực hiện chế độ hạch toán độc lập với tổng số vốn ban đầu là 530800000 đồng, trong đó :
Vốn cố định : 230000000 đồng
Vốn lưu động : 300800000 đồng
Do nguồn vốn được cấp không đủ đáp ứng yêu cầu kinh doanh nên công ty luôn tìm cách huy động vốn từ nguồn khác như vay vốn, vốn góp của cán bộ công nhân viên trong công ty.
Ngoài việc kinh doanh thương mại công ty còn đầu tư vốn để cải tạo, nâng cấp mua sắm trang thiết bị nội thất trong công ty để từng bước chuyển sang hoạt động kinh doanh với quy mô lớn hơn, đáp ứng nhu cầu của khách hàng tốt hơn.
Nhìn chung trong những năm gần đây cùng với chiều hướng tăng trưởng của kết quả kinh doanh, công ty đã bảo toàn và sử dụng tốt nguồn vốn của mình, đảm bảo thu nhập cho từng người lao động, thực hiên tốt nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và hoàn thành những nhiệm vụ mà sở thương mại đã giao cho. Do vậy công ty nên tìm cách nhận được sự hỗ trợ về vốn để từ đó có điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả hơn.
Đến năm 2002, nguồn vốn của công ty đã tăng đáng kể:
Vốn cố định : 679556000 đồng
Vốn lưu động : 3842576000 đồng
Là một công ty thương mại nên vốn lưu động chiếm tỉ trọng lớn trong tổng vốn.
7. Lao động
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các công ty thường tìm cơ hội cạnh tranh tăng thị phần, lực lượng bán hàng của công ty phải đảm bảo thực hiện các nghiệp vụ kỹ thuật, từ việc chào hàng, ứng xử tình thế và thực hiện các thương vụ. Như vậy lực lượng bán hàng rất quan trọng với công ty, không thể thiếu được trong quá trình kinh doanh và bán hàng hoá. Cho nên để có kết quả trong hoạt động bán hàng, công ty đã quản lý đội ngũ này rất chặt chẽ, tất cả công việc của đều báo cáo hàng tuần cho ban lãnh đạo công ty.
Cách giám sát và đánh giá kết quả theo định mức tiền lương và tiền thưởng cho số bán sản phẩm là công cụ để công ty theo dõi chặt chẽ lượng bán không lãng phí về thời gian và công việc. Với cách quản lý này tạo công ty đã xây dựng được lực lượng bán hàng khá thành thạo công việc và được phân chia theo tính chất mặt hàng của các quầy, nhằm giới thiệu và bán sản phẩm.
Tổng số lao động hiện nay tại công ty là 150 người trong đó kết cấu lao động của công ty qua bảng 1 như sau :
Bảng 1 : kết cấu lao động của công ty
Chỉ tiêu
Số người
Tỷ trọng(%)
Tổng số lao động
150
100
Kết cấu
Giới tính
Nam
Nữ
20
130
13,33
86,67
Tuổi
Dưới 30
Từ 30-50
Trên 50
34
90
26
22,67
60
17,33
Trình độ
Đại học
Trung cấp
Chưa bằng cấp
30
103
17
20
68,67
11,33
Phạm vi
hoạt động
Bán hàng
Quản lý và lao động khác
98
52
65,33
34,67
Nguồn : Phòng tổ chức hành chính
Công ty Bách hoá số 5 Nam Bộ là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, trong đó thường xuyên thực hiện việc bán lẻ hàng hoá cho người tiêu dùng cuối cùng. Với đặc trưng như vậy và giống như các doanh nghiệp thương mại khác công ty có số lao động nữ chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng số lao động. Cụ thể : Số lao động nữ là 130 người chiếm tỷ trọng cao 86,67% trong tổng số lao động toàn công ty. Còn lao động nam trong công ty là 20 người chiếm 13,33% tổng số lao động. Và cũng cho thấy nhân viên bán hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động là điều tất yếu. Số lượng nhân viên quản lý và các nhân viên làm công việc khác là 52 người chiếm 34,67%, đây là một tỷ lệ khá cao, là tình trạng chung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TM035.doc